Làng Mai qua năm tháng

Ban biên tập phỏng vấn sư cô Chân Không và ghi lại.

Từ Phương Vân Am đến Phương Khê nội viện

“Bên cội tùng chú bảo
Thầy vừa đi hái thuốc
Chỉ tại núi này thôi
Mây mù không thấy được”

Thầy có thể đang đi hái thuốc nhưng cũng có thể là không. Ngoài những khi cứu người, giúp đời nếu có thời gian rảnh là Thầy lại trở về những nơi yên tĩnh, thanh vắng, có sương sớm, có núi đồi, có rừng cây, có tiếng suối, tiếng chim. Có thể Thầy đang đốt lò sưởi trong ngôi nhà gỗ ở Phương Bối Am nơi rừng Đại Lão, trên ngôi nhà Thượng hay ở chiếc Cầu Mai trước cửa rừng, cũng có thể Thầy đi lên đồi Thượng để thăm những luống chè mới và ngắm nhìn những ngọn núi xa có mây trắng phủ đầy. Hoặc là Thầy đang cuốc đất trồng rau ở Phương Vân Am hay đang ngồi chơi, nghe suối chảy trong vườn tre ở Nội viện Phương Khê. Dĩ nhiên là sư chú biết Thầy mình đang ở đâu, nhưng vì không muốn làm phiền Thầy nên sư chú đã mượn mây mù, mượn núi thẳm để nói đấy thôi.

Phương Bối là một loại lá thơm, Phương Vân là mây thơm, và Phương Khê là dòng suối thơm. Chúng ta có am Phương Vân vào tháng 8 năm 1971. Đó là một ngôi nhà bỏ hoang ở giữa con đường liên tỉnh nối liền thành phố Troyes và Sens nằm ở miền trung nước Pháp, cách Paris khoảng 150 cây số. Am Phương Vân nằm tựa trên một sườn đồi và sau ngọn đồi ấy còn nối tiếp những ngọn đồi khác, rất đẹp. Trước mặt am về phía bên kia quốc lộ 60 là những cánh đồi và cánh rừng thuộc vùng Othe. Sau lưng am là ruộng lúa mì và phía bên phải cách đó 500 mét là đồng cỏ của một nông trại nuôi bò. Trên đỉnh đồi trái phía sau am là một khóm rừng lớn, ở đó có một cây thông rất lớn và rất sum suê, Thầy đặt tên là cây thông Thanh Từ. Ngoài ngôi nhà chính thì cốc của Thầy là cái chuồng bò kế bên, vách đá giống như nhà chính. Vì chuồng bò, hai bên không thông nhau nên rất tiện xây cốc cho Thầy để không ai làm phiền khi Thầy cần không gian yên tĩnh để viết lách hay dịch kinh. Phía trước sân am có một cái giếng nước cũ, thành giếng do Thầy xây lại, cạnh giếng có một cây mận rất ngon và xung quanh giếng có treo nhiều võng, gần đó cũng có một cây táo (pommier) rất sai trái. Loại táo có trái khá lớn nhưng chua; các em thiếu nhi và cả người lớn thường giã muối ớt để ăn với táo, rất thú vị. Họ cắt táo thành nhiều lát mỏng để ăn như ăn xoài chua.

phương khêMặc dù đã có Phương Vân Am, nhưng Thầy chưa về ở hẳn vì có nhiều công tác cần phải làm như vận động hòa bình, nhân quyền cho Việt Nam, dạy học.., Thầy chỉ về am vào những ngày cuối tuần hay vào những lúc rảnh rỗi khác. Cũng vào năm đó, tức là năm 1971, trong khi đi Canada trình bày với quốc hội Canada về tình hình Việt Nam thì Thầy bị chính quyền của cả hai miền Nam-Bắc vô hiệu hóa hộ chiếu, không cho Thầy trở về nước nữa; Thầy liền trở về Pháp và tổ chức họp báo ngay tại phi trường Charles de Gaulle – Paris, và cuối cùng chính quyền Pháp đã cho Thầy tỵ nạn tại Pháp. Cuối năm 1975, sau khi gặp nhiều khó khăn trong việc gửi tiền và gạo về Việt Nam, Thầy quyết định đóng cửa Văn Phòng Phái Đoàn ở Paris và về ở luôn tại Phương Vân Am để nuôi dưỡng và tĩnh tu, và cũng để giúp cho những người đồng sự của Thầy chữa lành những vết thương. Có lần vì thấy những người học trò của mình cứ bị chìm trong những lo lắng và sầu khổ về tình trạng ở Việt Nam, Thầy nói: “Các con phải tự cứu lấy mình thôi, Thầy có vững chãi mấy cũng không thể bơi dùm cho các con được. Phải bám lấy hơi thở để giữ cho tâm an định trong giây phút hiện tại và tập nhìn sâu để thấy cái giá trị, cái mầu nhiệm của giây phút ấy trong từng công việc hàng ngày của mình như rửa chén, lau nhà, làm vườn, không được rời giây phút hiện tại, đừng để mình trở thành nạn nhân của hoàn cảnh. Các con nghe không!” Khi đọc lại Nẻo Về Của Ý, chúng ta cũng thấy lời dạy ấy: “Chúng ta phải có một nơi như thế để quay về để chữa lành những vết thương đang rướm máu, để nuôi dưỡng và bồi đắp lại những gì chúng ta đã phí phạm và để chuẩn bị cho một cuộc hành trình khác. Niềm tin, sự trong sáng của tâm hồn chúng ta đã bị hao tổn quá nhiều. Chúng ta nhận thức được điều đó, và chúng ta quyết định tìm con đường phải đi. Nghĩa là điều trước tiên và căn bản cần phải làm là phải trị liệu, bồi đắp, và nuôi dưỡng tự thân, nếu không thì sẽ đánh mất chính chúng ta.” Do đó, trở về để tự chữa trị và nuôi dưỡng lại thân tâm là sự thực tập rất quan trọng trong những năm Thầy bôn ba làm việc xã hội và vận động hòa bình cho quê hương đất nước.

Trong thời gian còn ở am Phương Vân, khi hay tin sách của Thầy và một số sách của những nhà văn nhà thơ ở Việt Nam bị đốt, Thầy buồn lắm. Ngay sau đó, Thầy thành lập nhà in để in sách chuyển đến cho các trại tị nạn và cố nhiên là tìm cách gửi chui về Việt Nam; cùng thời điểm đó, có rất nhiều người đến gặp Thầy để hỏi đạo. Thầy bắt đầu lấy việc tổ chức và hướng dẫn khóa tu làm niềm vui. Nhưng ở am Phương Vân thì quá nhỏ mà nhu yếu về am Phương Vân để tu học của bà con người Việt thì càng ngày càng đông. Ở am Phương Vân chỉ đủ chỗ ở cho không quá năm mươi người. Vì vậy Thầy phải đi tìm đất mới để làm trung tâm tu học cho bà con Phật tử.

Từ Paris, Thầy đi về phương Nam nơi có nhiều nắng nhất ở nước Pháp. Vào những năm này, rất nhiều nông dân Pháp bán nhà để lên thành thị kiếm những nghề lao động khác. Trung bình mỗi mười lăm phút thì Pháp mất một người nông dân. Thầy đi xem gần mười bất động sản mà vẫn chưa có cái nào thích hợp. Cuối cùng thì đến vùng Dieulivol. Ở đây Thầy tìm được một ngôi nhà cũ có khá nhiều phòng và cửa sổ, sáng sủa rất tiện để cất giữ sách, giấy tờ và tài liệu. Thầy rất thích ngôi nhà này và đã mua lại từ một ông nhà giàu với giá là hai trăm tám mươi nghìn quan Pháp. Trước đó nó là ngôi nhà thờ Tin Lành. Nói là ông nhà giàu, nhưng thật ra cha của ông mới giàu, đến đời của ông thì chỉ biết ăn chơi, cho nên của cũng hết mà đất thì ông đem bán dần cho các tá điền. Chỉ còn lại ngôi nhà này với hơn một mẫu tây (1 hectare 10000 mét vuông) đất vườn, nhưng rồi ông cũng treo bảng bán luôn. Đó là vào ngày 29 tháng 11 năm 1978 và am Phương Khê có mặt từ đó. Sau khi có Phương Khê thì Thầy và các học trò đi đến các tiệm sách và mua rất nhiều sách Việt Nam cũ đem về đây. Tuy đã có am Phương Khê, nhưng Thầy vẫn chưa về ở hẳn. Thầy vẫn lưu lại Phương Vân. Ở am Phương Khê Thầy trồng thêm trúc và mấy cây tùng, trong đó có ba cây tùng thuộc giống Himalaya và một cây tùng bút rất đẹp làm cho vườn cảnh ở am Phương Khê nên thơ, vừa hùng dũng vừa huyền bí. Sau này am Phương Khê được đổi tên là Nội viện Phương Khê, hay còn gọi là Sơn Cốc, là nơi sinh hoạt chỉ dành riêng cho các vị xuất sĩ. Trong khóa an cư Kiết Đông, thầy trò trở về đây mỗi tuần một lần để tu học, có mặt cho nhau rất đầm ấm, gọi là Ngày Xuất Sĩ, một ngày sinh hoạt rất thân mật, nuôi dưỡng và làm lớn thêm tình huynh đệ, nghĩa Thầy trò. Thầy đã sửa sang lại thêm một số phòng nghỉ để mỗi khi các học trò của Thầy muốn có một hoặc hai tuần tĩnh tu thì có thể về đây. Trong thâm tâm các thầy, các sư chú và các sư cô, thì Sơn Cốc là “quê nội” mà họ cảm thấy rất vui, hạnh phúc mỗi khi được trở về, được rong chơi trong không khí quê hương, trong những lời dạy dỗ, khích lệ quý báu đầy tình thương của Thầy.

Đất Bụt Phương Nam

Bước sang năm 2012 chúng ta sẽ ăn mừng Làng Mai ba mươi tuổi, nhưng có thật là chúng ta chỉ có ba mươi tuổi không? Chúng ta thử đi ngược lại dòng thời gian để được lắng nghe những niềm mơ ước của Thầy và đây là một đoạn trong Phép Lạ Của Sự Tỉnh Thức, cuốn sách dưới dạng một bức thư mà Thầy viết cho anh Thiều (một cựu tác viên xã hội của trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội): “Không những tác viên cần có một ngày trong mỗi tuần, họ còn cần có một tháng trong mỗi năm nữa. Chắc Thiều còn nhớ lá thư tôi viết để trả lời thầy Châu Toàn về dự tính Làng Hồng. Làng Hồng là một quê hương tâm linh cho người tác viên, cũng như Phương Bối là quê hương tâm linh cho chúng ta ngày xưa vậy. Chúng ta cần có Làng Hồng để trở về sau những lần đi công tác phương xa. Tại đây ta trồng cây, trồng rau thơm, đi bách bộ với trẻ con trong làng, thực tập quán niệm và thiền tọa. Thầy Châu Toàn trong một lá thư viết cho tôi đã nói tới dự tính ấy, và gọi khu làng quê hương tâm linh này là làng Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội. Thầy có nói cho tôi hay rằng khu vực chọn lựa có thể nằm gần miền cao nguyên và như thế có thể hạp với cây Hồng. Tôi nói như thế thì đặt tên làng là Làng Hồng nhẹ và đẹp hơn tên kia. Thầy Châu Toàn là một nghệ sĩ cho nên tôi rất tin cậy nơi thầy về khía cạnh tạo dựng vườn cảnh nghệ thuật của làng. Tôi có dặn thầy nên giữ tất cả những tảng đá lớn nhỏ có mặt trong khu đất dù dưới suối hay trên đồi và cũng dặn thầy đi đánh dấu tất cả cây lớn nhỏ nào có giá trị nghệ thuật để giữ lại. Làng sẽ có công viên, rừng và rất nhiều con đường đi bộ qua rất nhiều vườn Hồng và tên làng do đó mà có. Làng sẽ chia ra nhiều lô đất và mỗi tác viên sẽ có một lô; Thiều cũng có một lô, tôi cũng có một lô. Chúng ta sẽ làm một căn nhà đơn giản trong khu đất và trồng cây ăn trái và rau quả quanh nhà. Tôi ưa trồng rau thơm lắm. Tôi sẽ trồng sau nhà của tôi nhiều thứ rau thơm: cây ngò, cây quế, cây húng, cây tía tô, cây kinh giới, cây tần ô, cây rau răm, cây lá lốt. Tôi cũng sẽ trồng cây lá dứa thơm, cây sả, một giàn mướp ngọt, và có thể có cả một giàn hoa lý trước nhà. Thiều cười tôi đang sống với tương lai phải không? Đúng đó. Nhưng tôi cũng đang sống với hiện tại. Bên này tôi cũng trồng đủ thứ rau thơm. Tuyết có gởi cho tôi nhiều loại hạt giống nhưng chỉ trồng được vào mùa ấm thôi. Làng Hồng đối với tôi đã là một thực tại rồi. Làng Hồng cũng đã bắt đầu có mặt nơi Thiều. Thiều và các bạn nên xúc tiến việc thành lập Làng Hồng. Làng Hồng là một hình ảnh tươi mát trong lòng mọi chúng ta. Làng Hồng cũng là hình ảnh ấm áp. Các anh chị tác viên khi lập gia đình cũng nên về cư ngụ tại Làng Hồng. Làng Hồng sẽ có hợp tác xã. Mình sẽ săn sóc cho Làng. Tổ chức sinh hoạt cho trẻ con và tạo nề nếp sinh hoạt tâm linh cho mọi người. Mỗi tác viên khi về tới Làng Hồng là cảm thấy thoải mái. Trong một tháng cư trú tại Làng Hồng, người tác viên chơi đùa với trẻ con (bọn Lê Hải Thiều Âm lúc này có lẽ đông lắm), đọc sách, nằm võng, trồng rau, ngồi thiền, rũ bỏ mọi bụi bặm phiền não, luyện thêm ý chí, thêm yêu thương.” Đó là vào khoảng năm 1973. Vậy thì chúng ta đâu chỉ có ba mươi tuổi, chúng ta còn có mặt lâu hơn thế nữa. Nhưng chỉ vì thời cuộc, chiến tranh, lòng người mà chúng ta đã không tạo dựng được ước mơ của chúng ta ngay chính trên quê hương Việt Nam mà đã xây dựng một Làng Hồng trên quê hương nước Pháp. Cũng vào năm 1971, chính phủ hai miền vô hiệu hóa hộ chiếu của Thầy. Không thể trở về Việt Nam được nữa nhưng tình thương thì trước sau vẫn như một. Thầy và những người học trò của người vẫn đi khắp nơi để nói lên tiếng nói thay cho những người dân đang chạy dưới làn bom đạn.

Diễn hành New York 1982Vào năm 1982, nhiều tổ chức ở Mỹ mời thầy đi tham dự ngày diễn hành cho hòa bình tại New York. Hơn nửa triệu người Hoa Kỳ cùng tham dự cuộc diễn hành đó. Thầy cùng một số đệ tử và Phật tử Hoa Kỳ, học trò của thiền sư quá cố Suzuki cùng đi chung. Với tinh thần là Reverence for Life. Thầy dạy mọi người phải thật tình có bình an (Being Peace) thì mới đi cho hòa bình được (Walking for Peace). Thầy dạy rằng “Đi cho hòa bình thì mình tập đi trong tinh thần bất bạo động, không la ó, không vội vã, mỗi bước chân đi phải chế tác được năng lượng bình an”, và đó là pháp môn thiền đi. Ngày diễn hành, đoàn do thầy dẫn đầu với thiền sư Baker Roshi đi rất thảnh thơi. Nửa triệu người đi diễn hành phía sau không thích lắm vì đi chậm quá! Họ vượt qua mặt, rồi quay lại định mắng thì thấy đoàn người đi theo Thầy mang tấm băng rôn rất đẹp với dòng chữ “Reverence for Life” (Trân quý sự sống). Sau đó có nhiều nhóm tập đi chậm lại, thanh thản lại và viết nhiều bài báo về Thầy và nhóm của Thầy. Cũng trong chuyến đi đó Thầy ghé thăm Hòa thượng Mãn Giác trong một ngày gặp mặt các vị xuất sĩ Việt Nam tại Hoa Kỳ. Lần đó Thầy đã tâm sự rằng: “Người tu mà không có một nơi để tu học mà chỉ biết thờ phụng và cúng vái thì khó mà đi xa được trên con đường thành tựu đạo nghiệp và độ đời.” Hứng khởi từ lời chia sẻ của Thầy mà sau đó thầy Tịnh Từ đi tìm đất và bắt đầu xây dựng tu viện Kim Sơn. Cùng với lời mời của ông Baker Roshi (một vị thiền sư người Mỹ, trưởng tử của thiền sư Suzuki người Nhật đã viên tịch), một số thiền sinh Hoa Kỳ đã đứng ra tổ chức mời Thầy đi dạy trong nhiều tiểu bang Mỹ. Từ đó, cứ mỗi hai năm một lần Thầy đi qua Mỹ dạy Thiền Chánh Niệm Việt Nam cho người Hoa Kỳ. Lần nào cũng có bảy hay tám khóa tu cho người Mỹ và hai khóa tu tại Tu viện Kim Sơn: một khóa cho xuất sĩ và một khóa cho cư sĩ. Sau chuyến đi Mỹ năm đó thì người muốn theo học với Thầy quá đông. Thư thăm hỏi và xin đến học với Thầy gởi tới tấp. Nhiều nhóm người Hoa Kỳ muốn cúng dường đất, cúng dường trung tâm để Thầy mở Trung tâm thực tập chánh niệm. Vì Am Phương Vân quá nhỏ nên Thầy muốn lập Làng ngay để nhiều thiền sinh có thể đến tu học.

Xóm Thượng và Xóm Hạ có mặt

Thế là Thầy tiếp tục đi tìm đất. Từ Dieulivol Thầy đi về hướng Duras và cuối cùng tìm ra được một quả đồi khá rộng ở làng Thenac thuộc xã Sigoules. Sau này Thầy đặt tên là Thệ Nhật Sơn – Pháp Vân Tự, chữ Thệ Nhật rất gần âm với chữ Thenac. Thầy rất thích miếng đất này vì nó nằm trên một cái đồi cao, buổi sáng thấy được mặt trời mọc và buổi chiều có thể ngắm được cảnh mặt trời lặn, lại có rừng cây bao bọc xung quanh rất kín đáo, yên tĩnh. Nhưng Thầy thích nhất là con đường thiền hành rất đẹp bao quanh ngọn đồi. Ông chủ cũng thích miếng đất của ông lắm vì đây là nơi “chôn nhau cắt rốn” của ông mà. Nhưng vì bị mất mùa liên tiếp mấy năm liền nên bà chủ mới nói ông bán đi để lấy vốn cho con trai lập nghiệp. Thế là ông đành treo bảng bán với giá 320 ngàn quan Pháp. Giá đắt quá, ông biết nhưng vẫn làm như vậy với niềm hy vọng là sẽ không có ai mua, một mặt cũng là vì chiều lòng bà xã. Tuy vậy, khi  mình hỏi mua thì ông cũng chưa chịu bán. Chắc là ông thương mảnh đất này quá. Nhưng bà vợ ông thì nói: “Quý vị ráng đợi đi, thế nào rồi ông cũng sẽ bán.”

Trong thời gian này Thầy đã liên lạc được với anh Thiều ở trại tỵ nạn Strasbourg và có ý mời anh về đây cùng Thầy xây dựng Làng Hồng. Có lẽ anh Thiều là một trong những người học trò yêu quý của Thầy nên Thầy đã dành rất nhiều tình thương cho gia đình anh. Trong chuyện Tý – Cây Tre Triệu Đốt, Tý (là đứa con trai đầu của anh Thiều) kể rằng: “Năm ngoái khi nghe tin ba vượt biên, ngày nào Sư Ông cũng niệm Phật để hộ niệm cho gia đình Tý được tai qua nạn khỏi. Sư Ông nói Sư Ông niệm Phật trong lúc cuốc đất, giặt áo, lượm củi, trồng rau và cả khi rửa chén bát nữa. Sư Ông nói nếu ba qua được thì ba sẽ cùng với Sư Ông làm Làng Hồng.” (Lời kể của Tý – trang 43-Lá Bối in lần thứ nhất 1984). Vì vậy, không mua được Xóm Thượng, nhưng Thầy muốn tìm một nơi khác để anh Thiều làm chỗ cắm dùi. Vào ngày 28 tháng 9 năm 1982 thì Thầy tìm được Xóm Hạ ở làng Loubès-Bernac, cách Xóm Thượng khoảng bốn cây số. Sau khi ký giấy mua Xóm Hạ thì vào tháng mười năm 1982 gia đình anh Thiều, từ Strasbourg về định cư ở Xóm Hạ. Gia đình anh gồm có hai vợ chồng anh Thiều, cu Tý, em Miêu, và Chó Con mới sinh ở trại Strasbourg chưa đầy một tháng, sau này Chó Con được đặt tên là Nhật Tâm, có nghĩa là trái tim mặt trời. Ngoài ra còn có anh Dũng là em nuôi của anh Thiều.

Hai tháng sau, đúng như lời tiên đoán của bà chủ, một trận mưa đá lớn đã làm hư hết nho của ông. Tức quá, ông tăng giá cao hơn nữa từ 320 lên 360 nghìn, nhưng ông vướng mắc vào mảnh đất này rồi cho nên vẫn chưa chịu bán. Nhưng mấy tháng sau, bà vợ làm áp lực cho nên ông cũng chịu bán với giá 360 nghìn quan, đó là vào tháng giêng năm 1983.

Xóm Thượng và Xóm Hạ có mặt

Đúng là đất ở Xóm Thượng thì chỉ toàn là đá với đá, cho nên khi sư cô Chân Không đi ra làm giấy tờ bà thư ký xã mới nói: “Tội nghiệp cho cô quá, gia đình cô sẽ chết đói. Ở đó không có nước, muốn lấy nước thì phải đi xuống cái giếng ở dưới mé rừng”. Nhưng sư cô nói: “Bây giờ đã có nước máy vào tận nhà rồi”. Bà thư ký xã nói tiếp: “Nhưng ở đó chỉ toàn là đá với đá, không trồng gì được cả, gia đình tôi đã bị chết đói ở đó”. Nhưng bà đâu có biết chỉ cần cày lên mấy luống, rồi tưới nước là trong vòng một tuần sau đã thấy mọc lên không biết bao nhiêu là rau dền. Rau dền mà nấu canh hay luộc chấm với nước xì dầu thì ngon đáo để.

Xóm Hạ có cả thảy là tám ngôi nhà, tất cả đều nằm trên lưng đồi. Nhà được xây bằng đá dày tới bảy tám tấc, mái được lợp bằng ngói âm dương. Những ngôi nhà này khoảng chừng hai trăm tuổi. Phía trước Xóm có hai cây sồi cổ thụ, mỗi cây được hơn ba trăm tuổi. Nhưng sau đó không lâu thì Làng bị bão và hai cây sồi bị trốc gốc. Cả Làng ai cũng buồn, cũng thương. Cu Tý thì vừa thương cho hai cây sồi mà cũng thương Sư Ông nữa. Nó nghĩ, Sư Ông cưng hai cây sồi này lắm. Nếu Sư Ông biết hai cây sồi đã ngã chắc là Sư Ông sẽ khóc. Giờ này Sư Ông đang ở trên Xóm Thượng, ở đó cũng có một cây đề (linden) rất lớn và nó cầu Bụt cho cây đề ấy đứng vững. Sư Ông đã không khóc như nó nghĩ, nhưng Sư Ông cũng gần khóc khi nhìn thấy cây đề quằn quại trong gió bão mà Sư Ông không làm gì được. Nhưng may thay sau đó có anh thiền sinh Scott Mayer (là nhà chăm sóc cây) tới giúp, cho nên cây đề được khỏe mạnh và đẹp hơn trước: Cây đề nằm ở trước sân Thiền đường Chuyển Hóa. Thiền đường Chuyển Hóa trước đó là một cái nhà nuôi bò và cừu, phân bò và phân cừu cao tới bụng nhưng sau đó được dọn sạch để làm thiền đường. Đến năm 1989 thì mình đã mời bạn của chị Thục Quyên là anh Ryzek, kiến trúc sư người Đức, trình bày lại phía trước và sửa sang lại như bây giờ, nhưng vẫn chưa có lò sưởi dù là sưởi củi. Đến khoảng năm 1998 – 1999 thì mình mới tô tường lại và đặt sưởi trung ương (central heating) và xây thêm nhà Tổ phía sau.

Vào khoảng năm1990, mình mua căn nhà của ông hàng xóm bên cạnh và đặt tên là Friendship Building (Tình Hữu Nghị, nghĩa của từ này gần với tên của ông chủ nhà Bonamy). Căn nhà này dùng cho thiền sinh cư sĩ lưu trú. Mình đã sửa sang lại với những phòng ngủ có nhà vệ sinh, nhà tắm riêng dành cho hai người, ba người, bốn người. Nối liền với Friendship Building là nhà Stone Building (Nhà Thạch Lang.) Những năm đầu chưa có Cốc Ngồi Yên thì Sư Ông đã ở tầng trên của ngôi nhà này. Đó là phòng Mây Trắng. Bây giờ phòng ấy đã được ngăn lại thành hai phòng là phòng Walnut và Star Flower. Chính tại ngôi nhà này Sư Ông đã viết tác phẩm Đường Xưa Mây Trắng.

Xóm Đoài và Xóm Trung

Năm 1992, chính quyền sở tại nói Xóm Thượng có thể bị đóng cửa vì không đủ tiêu chuẩn sinh hoạt công cộng. Cũng vào lúc đó anh cư sĩ Chân Pháp Nhãn (Karl Schmied) và chị Thục Quyên ở Đức đã chung nhau mua một căn nhà, cách Xóm Thượng khoảng một cây số và họ sửa sang lại rất đẹp. Có thể nói căn nhà này là nhà khách “năm sao” tính vào thời điểm đó. Đến năm 2003 thì cả hai người đã cúng lại cho Làng, và mình đặt tên là Xóm Đoài. Cùng năm này mình mua Xóm Trung, còn có tên là chùa Pháp Mai, chùa này chỉ mở cửa đón khách vào dịp có khóa tu lớn, Giáng Sinh hay tết Tây. Vào mùa Hè thì dành riêng cho người Việt và các thầy, các sư cô được cử tới để chăm sóc, hướng dẫn cho Phật tử tu học. Xóm Trung nằm trên con đường đi từ Xóm Thượng xuống Xóm Hạ. Vào những khóa tu lớn, đại chúng hàng trăm người đi bộ qua lại hai Xóm để dự ngày quán niệm, trông vui như ngày hội.

Làng mở cửa

Vào ngày 15 tháng 07 năm 1983, Làng mở cửa lần đầu – Summer Opening. Thầy đã viết thư mời mọi người qui tụ  về Làng Hồng lần đầu tiên. Có 117 người về tham dự. Lúc đó Xóm Thượng và Xóm Hạ, mỗi xóm chỉ có ba nhà vệ sinh cho nên các bác và các thanh niên đã giúp đào những hố tiêu khô dùng tạm. Trong số thiền sinh về Làng cũng có nhiều người còn có tri giác sai lầm. Họ nghĩ “chắc ông Thầy này là cộng sản nên đặt tên là Làng Hồng. Hồng hồng đỏ đỏ là cờ cộng sản đó mà(!) chắc là nơi thân cộng hay quy tụ cộng sản gì đây”, cho nên họ chuẩn bị đủ thứ giấy tờ, câu hỏi để chất vấn Thầy. Tuy nhiên sau khi về tu thấy người Việt cũng như người Pháp, người Anh,  người Hoa Kỳ ai cũng tập thở, tập đi trong chánh niệm, ngồi nghe pháp thoại và thấy Thầy chẳng nói gì đến cộng sản, cũng chẳng dính đến quốc gia, nhưng lại dính líu đến gia đình mình mà còn chỉ cách cho mình tháo gỡ những khó khăn với vợ con mình, nên từ từ họ mến Làng, thuyết phục vợ con cùng về Làng và càng ngày càng về đông. Vì vậy mà Làng mở cửa mỗi năm một tháng vào tháng bảy để người Việt có dịp đưa con cháu của họ về Làng học văn hóa. Thiếu nhi vừa học vừa chơi một tuần là có thể có “bằng chứng chỉ văn hóa Việt Nam”, biết bà Âu Cơ là ai, vua Hùng Vương là ai, Trưng Trắc Trưng Nhị, bà Triệu, Thánh Gióng, Lý Công Uẩn, Trần Quốc Tuấn, Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, Lê Lợi,… là ai, biết sông Hương ở đâu, sông Hồng, sông Cửu Long, sông Đồng Nai ở đâu; biết mười câu ca dao, biết mười thành ngữ Việt Nam. Tuần nào cũng có thực tập và học hỏi về truyền thống văn hóa Việt Nam: vì sao phải lạy Tổ Tiên, phải giỗ tổ tiên? Có lễ Bông hồng cài áo (là ý thức chánh niệm về sự hiện diện của Mẹ của Cha), Lễ Mừng Trăng Lên (để dạy ý nghĩa Tết Trung Thu). Không khí Làng trong những ngày Khóa tu mùa Hè thật vui, mọi người được nói tiếng Việt, được ăn cơm Việt, được mặc áo dài, áo bà ba, lại được tự tay mình cuốc đất trồng rau ngò, tía tô, xà lách, rau húng, và làm những giàn su su, bầu, mướp ngọt. Làng cũng là chiếc cầu nối giúp cha mẹ và con cái ngồi xuống để lấy đi những hố ngăn cách. Sự thay đổi môi trường và tuổi tác, mà nhất là văn hóa Tây Phương quá khác với văn hóa Việt Nam nên đã làm cho không khí trong nhiều gia đình ở hải ngoại rất nặng nề và căng thẳng. Nhờ vậy mà pháp môn Làm mới đã ra đời để giúp tháo gỡ những khó khăn và đổ vỡ ấy.

Trong lần kêu gọi đó, Thầy cũng nói đến ý định trồng mận (pruniers, plum trees) để gây quỹ cho trẻ em đói ở Việt Nam. Nếu để dành tiền túi được 15 francs là có thể trồng được một cây mận sống một trăm tuổi. Vậy là các cháu lại dành dụm tiền túi từ bố mẹ cho gửi về Làng trồng mận. Cháu nào cũng trồng năm sáu cây mận cho quỹ trẻ em đói. Các cháu trồng được tất cả là 1250 cây mận. Loại mận cho trái ngon và ngọt nhất. Không những chỉ có trẻ em Việt mà trẻ em Tây phương cũng rất hăng hái với lời kêu gọi này. Cha mẹ các cháu thì thấy đây là một việc làm có ý nghĩa và cũng là dịp để gieo trồng những hạt giống hiểu biết, thương yêu vào trong lòng các cháu cho nên rất hết lòng yểm trợ.

Thời gian trôi qua thật đẹp và bình yên. Đến năm thứ hai đầu mùa xuân, không biết từ đâu hoa thủy tiên mọc lên hàng nghìn, hàng vạn ở mé rừng bên phải Xóm Thượng, Thầy đặt tên cho mé rừng này là Pháp Thân Tạng. Vậy là Thầy lại viết thư mời mọi người về Làng dự Hội Thủy Tiên vào đầu tháng ba. Ba bốn năm sau, hoa mận đã lớn và cũng đã cho rất nhiều hoa. Vậy là bà con cũng kéo nhau về thăm Làng và thưởng thức Hội Hoa Mai. Vì ở miền Bắc Việt Nam hay gọi mận là mai (trái ô mai). Vào tháng tư, mận nở hoa trắng xoá nên thầy dạy đổi tên là Làng Mai cho hợp với thực tại. Vì vậy cho nên từ đó Làng lấy tên là Làng Mai. Bởi vì chữ Hồng có thể hiểu lầm là Làng chỉ trồng hoa hồng, cũng có thể là chỉ trồng hồng trái. (Ở Pháp người ta chỉ trồng hồng trái cho đẹp vườn nhà. Vì thế Làng chỉ trồng năm cây hồng ăn quả mỗi Xóm cho mình ăn thôi.) Xóm Hạ được Thầy đặt tên là Mai Hoa Thôn, Cam Lộ Tự.

Ngày 7 tháng 4 năm 1984 là lần đầu tiên ở Làng Mai có lễ truyền giới Tiếp Hiện, gồm có anh Lê Nguyên Thiều (nhận lại pháp danh Chơn Lễ), anh Đỗ Trọng Lễ (pd Chân Thuyên), Võ Thanh Giao Trinh (Chân Tuyền), Trương Diễm Thanh (Chân Thể), Trần Đức Minh (Chân Phong), Nguyễn Bá Thư (Chân Trí) và Lê Ngọc Ẩn (Chân Quán). Mùa Hè năm đó có chị Carole Melkonian (Chân Dung) người Hoa Kỳ, anh Robert Naeff (Chân Niệm) người Bỉ, chị Judith Bossert (Chân Sắc) người Hà Lan cũng nhận giới Tiếp Hiện.

Chúng Tiếp Hiện đầu tiên ở Làng Mai_Chúng Tiếp Hiện đầu tiên ở Làng Mai

Chúng Xuất sĩ và Cư sĩ

Trong mấy năm đầu thành lập Làng thì chưa có chúng xuất sĩ. Thầy chưa nhận đệ tử xuất gia vì chưa hội đủ điều kiện, không có thì giờ để chăm sóc và nuôi dạy đệ tử. Thỉnh thoảng cũng có quý Thượng tọa, Ni sư từ những nơi khác đến thăm. Trong số những người cư sĩ đầu tiên ở Làng thì có gia đình anh Lê Nguyên Thiều, rồi chị Chân Dung Carole Melkonian, nhưng chị Chân Dung chỉ ở một năm rồi xin trở về Mỹ và đến năm 1986-1987 gia đình anh Thiều cũng xin đi lập nghiệp ở một nơi khác. Hồi đó có chị Annabelle Laity (giáo sư cổ ngữ Đại học London), chị Thanh Minh là thuyền nhân đến năm 1987, anh Nguyễn Văn Ân cũng là thuyền nhân, sau khi nhận giới Tiếp Hiện thì có tên Chân Minh, Anh Đức chị Đoan (từ Thụy Sỹ) và chị Tịnh Thủy từ Vương quốc Bỉ qua. Nhờ tu tập có hạnh phúc mà chị đã sáng tác được một loạt những bài thiền ca xuất sắc như: Nên Hôm Nay Ta Vẫn Sống Nhẹ Nhàng, Từng Bước Chân Thảnh Thơi, Tao Ngộ, Thanh Thản Nẻo Đi Về, Xuân, Cây Sồi Năm Xưa, v.v.. Sau này có thêm bài Mở Thêm Rộng Lớn Con Đường. (Chị Tịnh Thủy đã phổ nhạc từ thơ của Thầy để tặng những người học trò đầu tiên của Thầy xuất gia trên núi Thứu). Chị Tịnh Thủy cũng là người hay “than thở” thời khóa dày quá và cuối cùng Thầy đã chế tác ra một ngày thực tập trong tuần không thời khóa gọi là Ngày Làm Biếng. Ngày đó có rất nhiều thời gian và không gian để thực tập, để chơi và làm những việc mà mình thích. Thầy dạy rằng mình phải thật sự làm biếng, đừng biến mình thành một công cụ bận rộn. Cho nên mỗi khi Thầy gặp ai vào ngày đó, Thầy ưa hỏi: “Sao! Con làm biếng đủ không?” (Are you lazy enough?). Cũng có chị Chân Hòa Evelyne Beulmes ở Hòa Lan sang, chị cũng sáng tác nhiều nhạc thiền rất xuất sắc như: The cloud, The Moon (có thể tìm thấy trong tập Mẹ Trong Lòng Người Đi). Sau đó không lâu thì có bác sĩ Lê Văn Hoàng, có anh Hoàng thì Làng cũng được nhờ rất nhiều, đặc biệt là trong những lúc có người ốm đau. Anh Hoàng dù đã tốt nghiệp Đại học Y Khoa Pháp nhưng anh lại chỉ chữa trị cho bệnh nhân theo nguyên tắc nhịn ăn, uống nước âm ấm thật nhiều và xoa bóp. Anh về Làng vì yêu và nhớ Việt Nam quá. Do vậy mà sau này đi đâu, anh cũng trồng tre khắp các Xóm. Ít lâu sau thì có bác Tư, bác Tư là người ở Làng lâu nhất, vì vậy mà ở Làng có rất nhiều người biết bác Tư. Nói chung trong mấy năm đầu thì Làng chỉ có những người cư sĩ thôi, phần đông là người Việt.

Ngày 17 tháng 11 năm 1988, chị Cao Ngọc Phượng được nhận đại giới khất sĩ nữ với Thầy trên núi Linh Thứu ở Ấn Độ (cô đã nhận 14 giới Tiếp Hiện xuất sĩ từ năm 1966 với tên Chân Không) cùng với chị Annabelle Laity với pháp danh Chân Đức (chị đã tu tại Ni viện Tây Tạng, Ấn Độ từ những năm 1980 trước đó), và chị Thanh Minh thọ 10 giới sa di ni với pháp danh Chân Vị. Kế đó có sư cô Thanh Lương (đệ tử thầy TịnhTừ) và sư cô Huệ Hảo (đệ từ thầy ThanhTừ) cũng tới xin thường trú tại đây, như vậy là Tăng thân xuất sĩ đầu được thành lập năm 1988 với năm thành viên. Sư cô Chân Không nói rằng, không ngờ sau khi có hình tướng của người xuất gia thì công việc xã hội của sư cô bỗng lớn rộng và làm lợi lạc cho rất nhiều người. Sư cô chỉ cần giúp cho người ta tu tập để chuyển hóa những khó khăn của họ thôi, nhưng chính những người đó sau khi được chuyển hóa thì lại là một cánh tay đắc lực giúp lại sư cô trong các công tác xã hội. Từ khi Làng bắt đầu có hình ảnh của những người xuất gia thường trú, thì những người trẻ cảm thấy thích thú và vui hơn mỗi khi về Làng tu tập. Sau nhiều lần được tiếp xúc với người xuất gia, người trẻ bắt đầu phát tâm xuất gia. Vào ngày 3 tháng 9 năm 1990 có đợt xuất gia đầu tiên tại Làng. Gồm có sư cô Chân Tu và sư cô Chân Đoan Nghiêm. Vào thời điểm đó Xóm Thượng chỉ có những người cư sĩ Tây Phương, họ không ở Xóm Hạ vì sự khác biệt văn hóa và thực phẩm. Cho đến ngày 27 tháng 12 năm 1990 có thêm một đợt xuất gia nữa, trong đó có thầy Nguyện Hải, sư cô Bảo Nghiêm, thầy Pháp Đăng và thầy Vô Ngại. Lúc bấy giờ Sư Ông đưa các sư chú mới xuất gia lên Xóm Thượng và cư sĩ Tây Phương cũng được chia ra, người nữ độc thân về cư trú ở Xóm Hạ và người nam cư sĩ ở tại Xóm Thượng. Tuy nhiên vì các sư chú mới xuất gia, chưa thành thạo nếp sinh hoạt và tu tập của Làng nên Sư Ông đã cử sư cô Chân Đức làm công việc quản chúng và hướng dẫn cho các sư chú một thời gian. Đến năm 1991 thì thầy Giác Thanh mới về ở hẳn tại Làng, sau đó có thầy Đạo Trị người Pháp tu theo truyền thống thiền Nhật Bản và thầy Sariputta tu theo truyền thống Nam Tông cũng về xin nhập chúng làm thường trú nên sư cô Chân Đức trở về lại Xóm Hạ, và kể từ đó Xóm Thượng hoàn toàn nằm dưới sự điều hành của chúng xuất sĩ nam. Năm 1990 có Lễ Truyền Đăng đầu tiên gồm: sư cô Chân Không, sư cô Chân Đức, anh Chân Đắc Arnie Kotler, anh Chân Hội Nguyễn Tấn Hồng, anh Chân Cơ Trịnh Đình Tấn, anh Chân Tuệ Nguyễn Hữu Lợi, chị Chân Sắc Judith Bossert, Chân Tiếp Joan Halifax, chị Eileen Kiera. Trong những thiền sinh Tây phương này có những vị đã là giáo thọ các truyền thống khác, nhưng Thầy thấy họ trân quý pháp môn chánh niệm của Thầy dạy nên Thầy đã trao đèn cho họ để đi hành đạo, để họ có thể truyền năm giới cho mọi người giúp người ta ăn ở hiền lành tử tế hơn. Vào ngày 26 tháng 01 năm 1991, có lễ xuất gia khác gồm có sư cô Hoa Nghiêm và sư cô Từ Nghiêm. Vào ngày 24 tháng 05 năm 1992 Sư Ông xuống tóc cho thầy Chân Pháp Ấn. Cuối năm 1992 có Lễ Truyền Đăng được tổ chức lần thứ hai ở Làng cho thầy Giác Thanh, sư cô Diệu Nghiêm, sư cô Như Phước Đàm Nhật, Chân Tịnh Lary Rosenberg, Chân Thừa Harrison Hoblitzter, Chân Giải Thoát Robert Schaibly (cựu mục sư Tin Lành), Chân Trí Nguyễn Bá Thư, Chân Ý Nguyễn Anh Hương, Chân Truyền Đinh Vân Khanh. Ngày 31 tháng 12 năm này Thầy làm lễ xuất gia cho sư cô Hương Nghiêm, thầy Pháp Tạng và sư cô Tịnh Nghiêm. Cuối năm 1993, ngày 11 tháng 12 có lễ xuất gia cho thầy Pháp Thành, sư cô Thoại Nghiêm, thầy Pháp Dụng, thầy Pháp Ứng, sư cô Định Nghiêm và sư cô Tuệ Nghiêm, gọi là gia đình xuất gia Con Cá. Ngày 24 tháng 05 năm 1994 có lễ xuất gia gia đình Con Chim gồm có sư chú Pháp Truyền, sư chú Pháp Hướng, sư cô Pháp Nghiêm và sư cô Bích Nghiêm. Ngày 03 tháng 08 năm 1994 có lễ xuất gia mang tên gia đình Cây Sồi gồm có thầy Pháp Niệm, sư cô Giải Nghiêm, thầy Pháp Cảnh, sư cô Khai Nghiêm và thầy Pháp Trú. Kể từ đó số đệ tử xuất gia với Sư Ông gồm cả người Đông phương và Tây phương tăng lên một cách thật nhanh. Khoảng vào năm 1999 tăng xá của khu nhà Bamboo không còn đủ chỗ ở nữa nên chuyển ra nhà Linh Quy và Thanh Phong nằm ở cánh rừng bình minh gần thất Ngồi Yên của Sư Ông. Sau đó vẫn không đủ chỗ và nhận thấy chúng xuất sĩ chia ra nhiều nơi thì không tiện lắm, nên đến năm 2001, chúng Xóm Thượng xây khu tăng xá mới chứa được khoảng sáu chục người. Cuối năm 2002 là hoàn tất và các thầy, sư chú đã chuyển vào ở. Tăng Xá mới của quý Thầy ở Xóm Thượng được xây theo hình chữ khẩu nhưng mặt trong và ngoài đều có cửa kiếng nên rất thoáng. Không khí rất chung, rất gần gũi, ấm cúng. Nhà ăn Xóm Thượng ở trên gác nhà bếp đã quá chật hẹp, nên năm 1999 – 2000 quý thầy đã sửa sang lại nhà bếp, xây lại nhà ăn và thêm phòng ăn mới. Thầy Pháp Dung về Làng đã vẽ nhà ăn và chăm lo việc xây dựng vì thầy là kiến trúc sư trước khi đi tu.

Khi mới mua đất, Sư Ông cũng đã tự tay trồng những hàng tùng và những cây tùng lọng, bây giờ chúng đã to lớn, khỏe mạnh trông rất hùng. Mỗi lần có dịp đi dạo quanh Xóm Thượng, Sư Ông hay chỉ cho các thầy, sư cô, và sư chú các cây tùng ấy và nói: “Các cây tùng này là những đệ tử rất giỏi, rất trung kiên của Thầy, là các sư anh của các con đó. Các con nên thỉnh thoảng tới thiền ôm các sư anh của mình để hưởng năng lượng vững chãi và trung kiên từ các sư anh. Các sư anh đã chứng được quả vị an trú, một trong bốn quả vị tu chứng của Làng Mai.” Sự có mặt của thầy Giác Thanh thường trú trong chúng cũng là một trường hợp đặc biệt. Thầy đã bôn ba nhiều nơi, tới với nhiều truyền thống thiền để học đạo, nhưng không thành công lắm. Khoảng năm 1987-1988 thầy đã được gặp Sư Ông lần đầu, nhưng thầy chỉ chào hỏi ngắn ngủi rồi ra. Thầy đã đến những trung tâm thiền tập lớn của Hoa Kỳ. Thầy đã từng tu miên mật ở trung tâm tu thiền của truyền thống Đại Hàn, Providence Zen Center. Ở trung tâm này, họ tu rất gắt: thức dậy 3 giờ sáng, ngồi thiền một giờ, lạy 108 lạy, kinh hành rồi ngồi thiền 1 giờ rồi lạy 108, ăn cơm vội vàng,… rồi lại lặp lại ba sinh hoạt tu tập đó cho đến 11 giờ khuya mới nghỉ. Thầy đã cố gắng, ép mình thái quá nên cái đầu của thầy bị lắc lắc mỗi khi thầy nhắm mắt vào thiền. Sau này thành dị tật. Cũng không có kết quả. Thầy lại bôn ba tìm thầy học đạo. Hôm đó thầy đi Canada thăm gia đình, Thầy gặp lại Sư Ông trong một khóa tu tổ chức tại Montreal, Canada. Trong khóa tu này thầy được đi thiền và ngồi chơi ngoài trời với Sư Ông và đại chúng. Trong buổi ngồi chơi ngoài trời ngắm mùa thu rực rỡ sắc màu, đại chúng hát bài “Thu Đẹp Vẫn Còn Hoài” do Sư Ông sáng tác dựa trên điệu nhạc dân ca Pháp; khi nghe bài nhạc đó thầy tự nhiên cảm thấy thân tâm nhẹ nhõm, thoái mái và an vui lạ thường. Sư Ông nói với thầy: “Này thầy Giác Thanh, tu tập đâu cần phải lao tác mệt nhọc để cầu giải thoát, giác ngộ trong tương lai. Tu là phải có an lạc và hạnh phúc ngay bây giờ và ở đây. Tất cả những cái thầy đang tìm kiếm đều đang có mặt ngay đây và bây giờ, không cần nhọc tìm đâu xa. Thầy thấy mùa thu có đẹp không? Đạo, giải thoát, giác ngộ đang nằm sờ sờ đó.” Từ đó thầy đã ngộ ra và thu xếp về ở luôn với Làng. Thầy được bổ nhiệm trú trì thiền đường Hoa Quỳnh tại Paris mà sau này đã đổi tên là trung tâm thực tập Hơi Thở Nhẹ. Năm 2000 thầy được Sư Ông và đại chúng bổ nhiệm làm trú trì Tu viện Lộc Uyển. Một năm sau thầy thị tịch vì căn bệnh tiểu đường đã khá lâu. Ở Xóm Thượng thầy có cái cốc gần bên thất Ngồi Yên, gọi là cốc Phù Vân.

Ở Làng mãi tới khoảng năm 1999-2000 mới có hệ thống sưởi trung ương (central heat), trước đó chỉ có sưởi củi và các thầy, các sư cô vào mùa thu và đông nào cũng bổ củi. Công việc ấy đã trở thành một sự thực tập rất vui trong đời sống hàng ngày của tu viện. Thiền đường Nước Tĩnh đã được xây dựng vào năm 1985, tới năm 1988 mới hoàn tất. Từ năm ấy tới năm 2009 – 2010 mới trùng tu lại và lần này là do những bàn tay của các thầy, sư chú tự làm, thỉnh thoảng có sự trợ giúp của các sư cô từ các xóm và các vị cư sĩ. Cho nên công trình trùng tu thiền đường Nước Tĩnh được thực hiện với nhiều niềm vui và tình huynh đệ. Thiền đường Nước Tĩnh bây giờ không còn phải sưởi bằng lò củi như trước nữa mà đã có hệ thống sưởi nền rất tốt, ấm mà ít hao tốn điện. Thất Ngồi Yên cũng được sửa sang lại đẹp hơn, ấm hơn vì có sưởi nền.

Xóm Mới và Sơn Hạ

Xóm MớiCàng ngày số lượng thiền sinh về Làng càng nhiều. Hồi năm 1985 chưa có thiền đường Cam Lộ đẹp như bây giờ. Chỉ có khung sườn nhà bằng sắt, nóc lợp tôn (tôle) để che nắng mưa và làm chỗ cho những sinh hoạt lớn vì thiền đường Nến Hồng của Xóm Hạ quá nhỏ. Khi có tiền xây thêm vách và gọi là thiền đường Cam Lộ thì ban Kiểm tra An ninh về hỏa hoạn đến kiểm tra thấy không an toàn cho quần chúng đến tham dự. Vì thế họ bắt đóng cửa Xóm Hạ để làm lại hết từ thiền đường đến các cư xá… Nhưng chỉ còn hai tháng nữa là Làng mở cửa cho khóa tu mùa Hè; cận ngày quá, Thầy trò phải đi tìm chỗ. Đi tìm rất nhiều chỗ nhưng không thích hợp và giá cả cũng đắt. Cuối cùng thì đi đến một dịch vụ chuyên tìm bất động sản cho khách. Họ cho xem khu nhà ở số 13 Martineau thuộc xã Dieulivol. Gặp được chủ nhà thì mới biết nguyên khu này nhà nước phải đầu tư bốn triệu rưởi quan để làm một trung tâm sinh hoạt vui nhộn nhằm giữ chân thanh niên thiếu nữ, sợ họ thấy làng quê tẻ nhạt mà bỏ lên thành thị. Xây dựng mấy năm nhưng không đủ vui, trung tâm sắp đóng cửa nên ban giám đốc nghĩ là chắc phải làm thêm phòng khiêu vũ thì mới giữ được người trẻ. Họ phải vay ngân hàng 500 ngàn để sửa nhà chứa rơm xưa thành phòng khiêu vũ, nhưng không đủ người trẻ đến và trung tâm bị vỡ nợ. Khu nhà này đáng giá là năm triệu tất cả nhưng vì thiếu ngân hàng nửa triệu mà không tiền trả nên ngân hàng siết nợ, cho đấu giá bắt đầu là nửa triệu Francs, hy vọng thiên hạ trả giá cao hơn. Nhưng không ai mua hết nên ông chủ nhà này mua được với giá chỉ có nửa triệu. Sau khi trả những nợ điện nước, giấy tờ, chi phí tổng cộng gần 800 ngàn Francs, ông hy vọng sẽ bán được giá cao. Chờ hoài mà không ai mua dù ông đã giảm giá còn một triệu quan. Sau khi đi thăm mình rất thích nhưng xin bớt lại một trăm nghìn để sửa chữa những nơi còn bị hư hỏng, ông đồng ý. Đó là vào năm 1996. Liền sau đó Thầy đặt tên cho trung tâm này là Xóm Mới. Nhà nước chủ trương xây dựng thôn quê cho tươi vui để người dân đừng bỏ quê mà đi, nhưng không được. Còn mình thì xây dựng Tăng thân, tổ chức khóa tu để cho người ta về, đem niềm vui lại cho miền quê, như vậy là hợp với chủ trương của nhà nước, là thuận với ý trời. Dieulivol có nghĩa là “thuận ý trời”. Vì thế Thầy mới đặt tên cho Xóm Mới là Thiên Ý Thôn – Từ Nghiêm Tự. Bên cạnh đó ở Xóm Hạ mình cũng đã sửa lại được Thiền đường Cam Lộ cho đúng tiêu chuẩn an ninh hỏa hoạn và được mở cửa trở lại kịp cho khóa tu mùa Hè. Chỉ có thiền đường là đúng tiêu chuẩn đón khách, nên mình chỉ cho khách xài thiền đường. Ngoài ra thiền sinh tất cả đều cắm lều. Mãi đến 1998, cư xá Đồi Mận mới được lên nóc, xây tường, tráng men nhà vệ sinh thì Xóm Hạ mới được phép chính thức hoạt động trọn vẹn.

Năm 1999 bác Mounet mất, nhà bác ở đầu thôn Hạ. Sau đó đứa con trai của bác cưới một cô vợ người Cao Miên, nhưng vì duyên nợ tiền kiếp như thế nào ấy khiến anh đổi tánh hoàn toàn. Anh thường gây khó khăn cho Làng, cứ liên tục đâm đơn đi kiện. Cuối cùng nhờ anh Chân Hộ Tăng (Pritam Singh) ở Mỹ mua giúp ngôi nhà đó, nên mình mới được yên; đó là căn nhà Cherry House bây giờ. Nhà Cherry House đã mua rồi nhưng nhưng chưa sửa sang gì cho nên chưa được đẹp lắm.

Sơn HạnLúc đó Thầy Pháp Lữ mới mách là ở dưới chân đồi Xóm Thượng về hướng Đông Nam có ông hàng xóm muốn bán mấy ngôi nhà rất đẹp. Hồi đó mình chưa có ý định mua, vậy mà không hiểu vì sao ông Dutheil cứ chạy lên chạy xuống hoài để năn nỉ mình mua. Cho đến một buổi chiều thứ tư hôm đó, ông đi lên Xóm Thượng và nói rằng: “Chuyến này chắc tôi không cách nào mà để dành cho quí vị được nữa, tôi đã hứa với mấy người Anh và thứ sáu này họ sẽ qua ký giấy; quí vị hãy xuống xem thử đi, tôi sẽ bán giá rẻ cho.” Mình đâu có nói mua đâu, chắc ông cũng thương mình và cũng không muốn bán cho mấy người Anh. Sợ họ làm hư mấy khu rừng tùng của ông vì ông biết mình sẽ bảo tồn rừng tùng do chính tay ông trồng. Lúc đó thì Thầy đang từ cốc Ngồi Yên đi ra xe về Sơn Cốc. Sau khi nghe vậy thì Thầy đồng ý đi xuống xem thử. Cùng đi với Thầy còn có sư cô Chân Không, thầy Pháp Ấn, và hai sư chú thị giả. Hiếm khi Thầy chịu đi xem đất lắm nhưng chiều hôm đó Thầy đã hoan hỷ đi. Sau khi đi thăm các dãy nhà, thì Thầy thấy trong dãy nhà kho bụi bặm đầy phân bò đó có một phòng với nhiều khung cửa đặc biệt. Với con mắt nghệ thuật Thầy nhận ra phòng này có thể làm thiền đường rất đẹp, nhưng Thầy thích nhất là khu rừng tùng chạy dài từ Vườn Bụt ở Xóm Thượng xuống dưới này. Ông chủ chỉ định bán ngôi nhà đẹp của ông thôi, rừng thì ông giữ lại. Nhưng Thầy bảo nếu ông chịu bán cả khu rừng từ Vườn Bụt Xóm Thượng xuống ngôi nhà mới này thì mình mới mua. Ông chủ do dự, vẫn còn thương khu rừng có rất nhiều nấm Truffes. Mình định đi về không mua, ông xin chờ vài phút để vào nhà bàn bạc với bà vợ, cuối cùng thì hai vợ chồng đều đồng ý bán luôn khu rừng chung với ngôi nhà. Khi mua xong thì mình liền chuyển một số các thầy và sư chú xuống ở và Thầy đặt tên là chùa Sơn Hạ. Như vậy là chùa Sơn Hạ được thành lập năm 2003 và đó là nhờ Bụt Tổ sắp đặt chứ mình không có tính trước. Sau đó không lâu ông chủ cần tiền nên ông bán thêm mấy khu rừng nữa, trong đó có luôn khu rừng sồi trước mặt thất Ngồi Yên của Sư Ông, trông rất hùng. Khu  nhà lụp xụp đầy phân bò với mấy khung cửa đẹp đã được sửa thành thiền đường Thánh Mẫu Ma Gia. Hai khung dài hai bên đã được đặt kính hoa rất nghệ thuật với hình Hoàng hậu Ma Gia vừa đản sinh Thái tử Tất Đạt Đa. Khung cửa kính bên kia đối diện với cửa chính là hình Bồ tát Địa Tạng tay cầm tích trượng. Từ ngày có Sơn Hạ thì thế đứng của Xóm Thượng trở nên vững chắc và hùng dũng hơn. Sự thật nếu không có Sơn Hạ thì chùa Pháp Vân bị mất thế phong thủy vì Sơn Hạ là mặt tiền của chùa Pháp Vân. Thầy nói, nếu sau này làm cổng chùa Pháp Vân thì phải làm từ Sơn Hạ. Khi thiền khách đến tu tập hay đến tham quan thì sẽ đi từ Sơn Hạ đi lên. Do đó vào năm 2004, Thầy đã cho xây hai trụ đá và khắc chữ Đất Bụt Phương Nam (Nam Phương Phật Độ). Thầy hay đi chơi từ Xóm Thượng xuống Sơn Hạ băng qua khu rừng tùng rất thẳng, hùng, đẹp, và nên thơ này. Những con đường ấy Thầy đặt tên là Những Con Đường Huyền Thoại. Nếu có dịp viếng thăm Sơn Hạ thì ta sẽ thấy câu thơ cạnh dòng suối do Thầy viết: “Sơn Hạ hữu tuyền, trạc chi tắc dũ.” (Câu thơ lấy từ Kinh Thủy Sám).

Sau khi nghe tin Làng có thêm Sơn Hạ thì anh Chân Hộ Tăng có ý muốn mua một ngôi nhà ở gần Xóm Thượng, sau này xong công việc kinh doanh thì sẽ sang Làng ở để có thể tu tập và làm những việc mà anh thích. Anh đã nhờ sư cô Chân Không hỏi mua một ngôi nhà gần đó, nhưng sau đó kinh tế xuống, anh không giải quyết được công việc kinh doanh bất động sản của anh, còn mình thì không đi lui được vì đã ra hành chánh rồi, vì vậy cuối cùng mình cũng mua luôn. Đó là nhà Tây Hồ bây giờ nằm ở hướng tây của Sơn Hạ.

Tu Viện Rừng Phong và Thanh Sơn Miền Đông Hoa Kỳ

Nhà trà tu viện Rừng PhongNăm 1997, Thầy dẫn một phái đoàn gồm khoảng 30 thầy, sư cô, và sư chú đi du hóa ở Mỹ. Đây là chuyến đi du hóa ở Mỹ với đông đảo đệ tử xuất gia nhất kể từ trước tới nay. Anh cư sĩ Chân Hộ Tăng đã bảo trợ tiền vé phi cơ cho Tăng thân. Sau khóa tu ở Đại học Santa Barbara, khóa tu ở Colorado và khóa tu cho giới tâm lý trị liệu được tổ chức tại Key West, Florida, Thầy và Tăng thân được anh Chân Hộ Tăng mời về nhà của anh ở vùng New England miền Đông Hoa Kỳ vì anh muốn cúng một phần đất của anh làm Tu Viện, Sư Ông bằng lòng. Trong khóa tu ở Key West, Sư Ông có làm lễ xuất gia cho bốn Cây Phượng, đó là sư chú Pháp Ân, sư chú Pháp Lạc, sư cô Hằng Nghiêm và sư cô Uy Nghiêm. Sư chú Pháp Lạc và sư cô Hằng Nghiêm lúc bấy giờ chưa có quốc tịch và hộ chiếu nên không thể qua Làng được. Vì vậy cho nên mình đã đưa các vị này về đó ở và tu tập. Anh Chân Hộ Tăng có mua thêm một căn nhà ở bên kia đường để làm nơi ở và tu tập cho các sư cô. Thế là Tu Viện Rừng Phong đã bắt đầu thành lập từ mùa thu năm đó. Sau đó Làng cử sư cô Chân Đức và một vài sư cô khác qua để tu tập và dựng chúng ở tu viện mới này. Thật ra Tu viện Rừng Phong cũng chưa hẳn là tu viện của mình, đó là khu đất dưới quyền sở hữu của anh Pritam, mình chỉ được mời ở đó để tu tập thôi. Anh cũng muốn xây dựng thành tu viện nhưng có rất nhiều khó khăn về vấn đề xin giấy phép sinh hoạt công cộng. Sau đó không lâu thì mình cũng mua thêm miếng đất khoảng 30 mẫu Tây với giá là một triệu Mỹ kim, ở cách đó khoảng 20 phút lái xe để làm trung tâm thực tập chánh niệm. Mình đã đặt tên là Tu Viện Thanh Sơn (Green Mountain Dharma Center). Hơn một nữa số tiền là do anh Pritam cúng, phần còn lại là từ sự cúng dường của các Phật tử, thiền sinh thập phương. Thật ra anh Pritam hồi đó có thể trả hết được, nhưng mình không muốn để một người cúng hết mà phải để cho nhiều người có cơ hội cúng dường, để thấy rằng đó là ngôi nhà tâm linh chung mà ai cũng có cơ hội để xây dựng. Khi đã mua xong Tu Viện Thanh Sơn thì các sư cô dọn về đó vì nó rộng rãi và thoải mái hơn, cũng không quá gần Xóm các thầy. Tăng thân đã ở đó được mười năm. Trong vòng mười năm ấy, mình thấy rất khó phát triển vì nó quá xa các thành phố lớn, lại rất nhiều tuyết vào mùa Đông nên ít người đến. Thứ đến là vì người dân ở đó đa số là người giàu có, họ chỉ muốn vùng đó yên tĩnh, không muốn có những sinh hoạt mang tính công cộng ồn ào nên không xin được phép sinh hoạt cộng cộng. Tu viện là để cho người ta tới tu tập, nhưng nếu mình không có phép để mở khóa tu thì rất khó phát triển. Các thầy cô ở đây cũng chẳng khác gì ở tu viện kín, tách biệt với xã hội, đó không phải là con đường của mình. Tuy phong cảnh tu viện được bao bọc bởi thiên nhiên núi rừng hùng vĩ, hữu tình, mùa nào cũng đẹp cũng tráng lệ, nhưng mình đành phải dọn đi nơi khác. Mình đi tìm đất mới gần thành phố lớn hơn và cuối cùng đã tìm được Tu Viện Bích Nham vào năm 2007. Mình đã mua được trung tâm này vốn là khách sạn cũ với giá hai triệu bảy trăm ngàn đô la – đó là nhờ tiền bán lại Tu Viện Thanh Sơn. Nơi này có sẵn giấy phép sinh hoạt công cộng. Tu viện nằm trong rừng, khá yên tĩnh, không xa mấy với các thành phố lớn như New York, Boston, Massachusetts. Nay Tu viện Bích Nham phát triển rất tốt. Mỗi lần Sư Ông qua Mỹ thì khóa tu được tổ chức ở Tu viện Bích Nham có số người tham dự luôn trên 1000 người.

Tu Viện Lộc Uyển Miền Tây Hoa Kỳ

Tu viện Lộc UyểnNgay từ chuyến 1997, khi nghe có người cúng dường Sư Ông Trung tâm ở Miền Đông Bắc Hoa Kỳ mà miền này quá ít người Việt, nên rất nhiều Phật tử Việt Nam ở California tha thiết mong Sư Ông có được trung tâm Miền Tây ngay ở California này. Có ba người học trò cũ của Sư Ông là ông bà bác sĩ Nguyễn Văn Tiếng, bác sĩ Phạm Văn Điến và anh chị Nguyễn Trung Quân phát tâm mua một ngôi nhà để cúng dường làm trung tâm tu học. Đó là ngôi nhà ở Oceanside, khá rộng, kế nhà hai nha sĩ Mỹ Hạnh và Lê Văn Hòa. Sư Ông vui lắm và đặt tên là chùa Hải Biên (Oceanside). Nhưng tại đây cũng gặp cùng một vấn đề như Tu viện Thanh Sơn. Tăng thân đi theo Sư Ông không được quyền tiếp khách công cộng. Chỉ được tới thăm đông nhất là vài ba xe hơi nên sau đó mình đành trả lại thí chủ. Cô Hải ở San Diego thì một lòng một dạ muốn xây dựng một trung tâm tu học tại đây. Mùa Hè năm 1999, trong khi Thầy và 50 xuất sĩ nghỉ ngơi ở nhà bác sĩ Nguyễn Xuân Ba thì chị Hải mời anh Pritam cùng đi với thầy Giác Thanh, thầy Pháp Ấn, sư cô Trung Chính và sư cô Chân Không xem một số địa điểm, hy vọng làm trung tâm tu học tại miền Tây. Cô Hải đưa mọi người đi cả ngày xem mấy nơi chục bất động sản mà không tìm ngôi nhà nào vừa ý. Ngày thứ hai cũng tiếp tục đi mà chưa tìm được nơi nào. Cuối cùng anh Pritam mời mọi người đi xem một mảnh đất mà dịch vụ bất động sản mới đề nghị cho anh mua hôm qua. Đó là một khu thung lũng an tĩnh với bốn mặt phẳng đã ủi sẵn, có vài ngôi nhà, được bao quanh bởi đồi núi trùng điệp, rừng sage và vách đá cheo leo rất hoang dã mà lại ở sát phố thị. Chỉ lái xe 10 phút là tới thành phố Escondido thị tứ, bốn mươi lăm phút là tới trung tâm thị xã San Diego, một giờ mười lăm phút là tới Orange County quận Cam và hai giờ là tới phi trường Los Angeles. Trong 437 mẫu đất này lại có được bảy lô đất thổ cư nằm ở lối vào có thể cất nhà được. Tuy giá là trên một triệu hai trăm ngàn, (vì sẽ đưa ra đấu giá và giá sẽ cao thêm tùy người muốn đấu giá mua tranh với mình), nhưng mình có thể bán được bảy lô đất ngoài cổng vào cho những ai muốn cất nhà gần trung tâm và mua với giá ủng hộ là đủ lấy vốn với giá mua đất. Mặc dù bề ngoài khu đất này trông xấu xí, nhà cũ rệu, mười dãy nhà dài thủng nóc, thật nhiều vỏ đạn mà cảnh sát San Diego đến tập dượt để lại, nhưng trong chúng tôi ai cũng biết khu đất này có thể chuyển hóa thành một trung tâm tu học rất đẹp. Được biết khu này được dân da đỏ gọi với cái tên rất dễ thương là Deer Park (Vườn Nai). Sau đó có nhóm da trắng chiếm đóng. Có ghi vào điều lệ của chủ đất là cấm không cho dân da màu (đỏ, đen, vàng…) vào! Họ lập nhóm nudists (lõa thể, không mặc quần áo) trong khu của họ. Sau đó thì chính phủ mua lại và làm trung tâm cai nghiện cho 300 người, sau đó biến thành nhà tù và cuối cùng là trung tâm cho cảnh sát tập dượt bắn súng. Vì cần chỗ cho 300 người nên nhà nước đã cất mười dãy nhà sử dụng cho tù, có căn cứ làm văn phòng và nhà cho nhân viên ở. Có nhà bếp thật to để nấu cho 300 người, phòng ăn vĩ đại nhìn ra núi rừng bao la. Mọi người ưa thích quá nên Tăng thân định mời Sư Ông tới xem nhưng Sư Ông không đi được và nói tùy thuận Tăng thân. Thế là Tăng thân quyết định nộp đơn đấu giá. Giá đầu trong cuộc đấu giá là một triệu hai nhưng có thể lên tới năm sáu triệu vì có tới năm hội đoàn muốn ra đấu giá. Họ đề nghị là đừng đấu giá. Cứ giả vờ đấu giá thôi để giá chỉ là một triệu hai không lên cao. Mua xong thì sẽ chia ra năm phần và mỗi người chỉ trả non 300 ngàn. Tăng thân mình không chịu đề nghị đó. Vì nếu chia ra năm phần, rủi nhóm kia làm “nudists” hay đi săn bắn khác với lý lưởng mình thì sao? Sáu tháng sau mới có tin ngày đấu giá và các hội đoàn sẵn sàng hợp nhau lại đấu với Làng Mai tới cùng, ít nhất là có thể mua đến bảy triệu dollars. Chúng tôi nhờ anh Pritam đi đấu giá và căn dặn: Sư Ông không thích mình vay nợ nghe. Đủ tiền thì mua không thì thôi nhé. Anh nên thay mặt Tăng thân trả giá đến hai triệu rưởi thôi nghe. Nhưng một giờ sau, có một Phật tử ẩn danh điện thoại đến và thưa là vợ chồng con muốn cúng dường hai triệu dollars để Sư Ông mua trung tâm tu học vùng này cho thế hệ con cháu chúng con được nhờ. Nhưng ngay bây giờ thì chúng con xin cúng một triệu dollars trước. Khi nào thấy quý thầy quý sư cô đệ tử tiếp nối Sư Ông tu giỏi thì chúng con xin cúng nốt một triệu đô la còn lại. Nhờ thế nên sáng hôm đó Anh Pritam đi đấu giá với sự ưng thuận của Tăng thân là có thể trả giá lên đến bốn triệu đô la. Nhưng một giờ sau Pritam điện cho chúng tôi biết là đã thua cuộc rồi: “Em ngừng đấu lúc trả đến ba triệu chín”. Tôi tiếc rẻ hỏi tại sao, anh Pritam nói vì thấy có cái gì kỳ kỳ nơi cái ông đại diện cho năm nhóm kia. Sau khi ông thắng thì ông đưa cho em danh thiếp và dặn muốn mua thì liên lạc với ông, Pritam liên lạc sau đó thì ông đòi mình bỏ tiền ra làm một con đường vòng quanh núi vì nhà ông cũng là láng giềng. Mà làm con đường như thế sẽ tốn hai triệu dollars. Pritam nói: “Ông này điên rồi, sư cô quên đi để em tìm nơi khác cho.” Nhưng sư cô Chân Không tiếc quá bèn tìm cách xin số điện thoại của ông. Ông không có ở nhà, sư cô để lại tin nhắn, hai mươi phút sau ông gọi lại và nói: “Nghe tiếng cô bên kia đầu dây, tôi rùng mình và nghĩ rằng cô đã là người tôi trân quý từ nhiều kiếp rồi. Thôi cô gửi anh đại diện của cô đến đi, ta sẽ thu xếp để cô có khu đất đó.” Quả thật ông đã bán lại dễ dàng. Chỉ đắt hơn 100 ngàn dollars nghĩa là bốn triệu mốt để có thể giải thích được cho cái nhóm năm hội đoàn nhờ ông đại diện đứng ra đấu giá. Vậy là tháng 6 năm 2000, mình mua được Tu viện Lộc Uyển với diện tích là 437 mẫu đất nhưng không đủ tiền trả ngay được. Nhà nước cho mình thời hạn là hai năm. Vị thí chủ hứa cho hai triệu kia mới chuyển vô ngân hàng tu viện được một triệu thì ngay sau đó không lâu, nhiều cổ phần trên toàn quốc Hoa Kỳ bị xuống giá cho nên gia đình ấy không có khả năng cúng phần còn lại. Thật là nan giải. Cuối cùng mình làm phiếu kêu gọi Phật tử cúng dường hoặc cho Tu viện mượn tiền. Họ có thể cho mượn không lấy lãi từ 1000 đến 5000 đô la. Sau khi gởi phiếu kêu gọi đi thì có nhiều gia đình Việt Nam đem tiền lên cúng, hoặc cho mượn. Mỗi lần chúng tôi nhận tiền, có khi từ một cụ già (ông nói ông mượn chú hai con trai ông 1000, cô Ba 2000, cậu Tư 2000 và hứa trong vòng năm năm tu viện sẽ trả lại). Chúng tôi mới thưa với cụ rằng: “Chúng con thấy nhờ phước đức của cụ đứng ra làm việc này mà ngày mai đây sẽ có đông con cháu của cụ đến đây tu học, có thể đi tu và làm sáng rỡ sự nghiệp của Bụt ở tu viện này. Chúng ta xây Tu viện này là để cho thế hệ mai sau có nơi để trở về”. Thế là nhờ những bàn tay Bồ tát giúp đỡ nên chỉ trong vòng gần hai năm là mình đã trả hết được số tiền bốn triệu đó và mình đã có được một Tu viện Lộc Uyển hùng tráng như ngày hôm nay. Đó là do nhu cầu tu học của thiền sinh ở Mỹ và cũng nhờ những bàn tay giúp đỡ của nhiều người. Năm 2000 thầy Giác Thanh được cử về đó làm trụ trì cùng với các thầy như thầy Pháp Khâm, thầy Pháp Dụng, thầy Pháp Dung,… và các sư cô Trung Chính, sư cô Thoại Nghiêm, sư cô Châu Nghiêm,… Năm 2001, thầy Giác Thanh thị tịch trong lúc Sư Ông đang hoằng pháp ở Trung Quốc. Sư Ông có tặng thầy Giác Thanh bài kệ và đọc cho thầy nghe bài kệ đó qua điện thoại. Sau đó Sư Ông đánh điện từ xa về đề cử thầy Pháp Dung lên làm trú trì, ai cũng ngạc nhiên vì trước thầy Pháp Dung còn có nhiều sư anh lớn.

Những Năm Đầu Sinh Hoạt của Làng Mai

khóa tu mùahèNhững năm mới thành lập Làng, thời khóa sinh hoạt của Làng còn rất đơn giản, tụng kinh rất ít, nhưng ngồi thiền nhiều. Sư Ông vẫn còn giữ những lễ nghi sinh hoạt theo truyền thống: ví dụ tới giờ thuyết pháp thì phải có hai vị cư sĩ vào làm lễ thỉnh sư đăng đàn, có khay trầm, nến và thỉnh khánh để thỉnh sư vào pháp đường; hoặc ăn cơm quá đường có đắp y vào mỗi tuần vào ngày quán niệm chủ Nhật và cúng ngọ theo nghi quá đường, hoặc đi guốc mộc như các Hòa thượng thời xưa ở truyền thống, hay cho tham vấn riêng (tiểu tham) và mỗi ngày Thầy chỉ cho tham vấn hai người, cũng rất nghi lễ… Sau này Sư Ông lược bớt những lễ nghi để người Tây phương hội nhập dễ dàng hơn. Một khi mình đã có nội dung rồi thì lược bớt sự thực tập hình thức để cho sự thực tập sinh động hơn và đem lại nội dung tốt hơn. Khi không có nội dung trong sự thực tập thì mình dễ bám vào sự thực tập hình thức. Kẹt vào sự thực tập hình thức thì sẽ không sáng tạo và đi xa được. Tuy nhiên những nét nào hay của truyền thống thì Sư Ông giữ lại hoặc điều chỉnh lại cho phù hợp, thực tiễn hơn với nhu yếu của thời đại. Đứng về phương diện giáo lý, giáo sản và sinh hoạt đều theo nguyên tắc này, tức là hiện đại hóa đạo Bụt. Và muốn cho đạo Bụt cắm rễ được ở đất Tây Phương, mình đã lấy bớt những tính chất nghi lễ mang nặng hình thức truyền thống, lấy đi bớt những kiến trúc chùa, Tu viện theo kiểu Á Đông và cách thờ phụng cũng vậy, để người Tây phương vốn đã có đạo gốc của họ có thể cảm thấy thoải mái khi đến với đạo Bụt. Mục đích là tạo không gian thoải mái để họ có thể học hỏi được cái tinh ba, cái nguồn tuệ giác thâm sâu của Bụt, Tổ để họ chuyển hóa tự thân. Cho nên mình đã có tinh thần cởi mở và linh động trong quá trình tu học, giảng dạy và trao truyền mà không để bị kẹt. Trong ba mươi năm qua, pháp môn tu tập của Làng Mai đã đối thoại được với các tư tưởng triết lý, thần học, tâm lý học và khoa học Phương Tây và chánh niệm là nền tảng tu tập căn bản của Làng Mai đã được áp dụng vào trong các lãnh vực kinh tế, chính trị, y tế, học đường, môi trường,… Pháp môn tu học của Làng Mai đã dựa một cách vững chắc trên nền tảng giáo lý nguyên chất của Bụt và kinh Quán Niệm Hơi Thở, Kinh Tứ Niệm Xứ, Kinh Người Biết Sống Một Mình, Kinh Kim Cương và kinh Tam Pháp Ấn hay Tam Giải Thoát Môn là những kinh hành trì căn bản của Làng Mai; ngoài ra còn có những kinh khác nữa. Nắm vững được những kinh này thì khi đọc vào những kinh lớn như kinh Hoa Nghiêm, Bảo Tích, Pháp Hoa, Đại Trí Độ Luận,… chúng ta không bị bay bổng trên những nguồn tuệ giác được cho là cao siêu mầu nhiệm, ngược lại nó giúp chúng ta ứng dụng được nguồn tuệ giác của những kinh luận ấy vào đời sống thiết thực trong hiện tại để giải quyết khổ đau, bế tắc bây giờ và ở đây.

_______________________

Đăng lại từ Lá thư Làng Mai 35 – 2012