Chương 4 – Đạo Phật trong các linh vực sinh hoạt

Đạo phật hiện đại hóa – Chương 4 – Đạo Phật trong các linh vực sinh hoạt

 

I. TRONG LĨNH VỰC TÍN NGƯỠNG

Nếp sống tôn giáo của người Phật tử phải được tổ chức cách nào để cho tinh thần đạo Phật được thấm nhuần và lưu lộ trong những sinh hoạt thường nhật. Đây là điều mà Giáo hội cần thực hiện ngay bởi vì đó là khởi điểm cho công việc đem đạo Phật đi vào cuộc đời. Mục đích của sinh hoạt tôn giáo là nuôi dưỡng tình cảm từ bi, phát triển trí tuệ phá chấp và bồi đắp ý chí phụng sự. Muốn đạt đến những kết quả tốt ấy, phải có đủ ba điều kiện: chùa, vị tăng sĩ hướng dẫn và chương trình tu học.

Chùa là quê hương của tôn giáo của người Phật tử, vì vậy hình bóng của ngôi chùa phải là một hình bóng thân yêu và dịu hiền trong lòng người Phật tử. Quê hương ta có những ngôi chùa thật đẹp, thật trang nghiêm mà mỗi khi nói đến ta thấy lòng ta rung động. Nhưng những ngôi chùa như thế bây giờ còn ít lắm. Ta thấy những ngôi chùa mới được dựng lên vào chỗ những ngơi chùa đổ nát và trong rất nhiều trường hợp, các ngôi chùa mới ấy không còn chiếm chỗ trong cảm tình của chúng ta nữa. Không phải vì chúng ta chỉ biết lưu luyến những gì cổ kính mà thực sự là vì lối kiến trúc và trang trí của những ngôi chùa ấy không mang được truyền thống dân tộc, không biểu lộ được tinh thần đạo Phật. Một cái nhìn về các ngôi chùa được tạo lập trong vòng ba mươi năm nay đủ cho ta thấy điều đó. Lối kiến trúc và trang trí thực là phản lại tinh thần đạo Phật. Kiến trúc thì chắp vá đủ kiểu, còn trang trí bằng những màu sắc nóng nảy, nhức mắt. Từ một cửa sổ trên chính điện cho đến một bức màn che nơi tăng xá, tất cả đều nói lên sự suy đồi của tinh thần đạo Phật. Nhìn những thứ ấy ta thấy bực bội và không ưa ngôi chùa lâu nữa. Đi tìm một công viên mà ngồi còn thấy tâm hồn yên tĩnh hơn. Vấn đề kiến trúc và trang trí cần phải đặt lại ngay từ bây giờ. Không phải cần lắm tiền nhiều bạc mới có thể làm lưu lộ được tinh thần đạo Phật, mới có thể làm đẹp được cho ngôi chùa trong tinh thần đạo Phật. Đôi khi ngược lại là khác. Một mái tranh mà đẹp thì cũng cứ đẹp như thường. Các kiến trúc sư, các nhà trang trí nên giúp cho các chùa lấy lại hình dáng và phong độ của mình. Tổng vụ kiến thiết trong Giáo hội phải có một văn phòng về kiến trúc, với sự tham gia của những kiến trúc gia và các nhà mỹ thuật Phật tử để mà hướng dẫn, giúp đỡ, kiểm sát và chỉnh đốn các công trình kiến trúc tự viện trong toàn quốc. Một số các chùa cổ được trùng tu với sự hợp tác của cơ quan bảo trợ cổ tích cho nên còn giữ lại được tính cách thuần túy của mình và do đó, giữ trọn được tình cảm của mọi người. Cố nhiên luôn luôn phải có sự sáng tạo trên phương diện kiến trúc cũng như trên các phương diện khác, nhưng sáng tạo phải là sáng tạo một cách đích thực. và đúng mức, hợp với tinh thần đạo Phật và tinh thần dân tộc chứ không phải là những chấp  nối một cách lố lăng một ít Tây một ít Tàu, một ít Ấn Độ, một ít Thái Lan. Không ai cấm làm những ngôi chùa có nhiều tầng, nhưng không ai thích nhìn những chiếc building có trang trí vàng đỏ đang được gọi là chùa ấy.

Chùa phải đẹp, phải giúp ta có cảm giác thảnh thơi, êm ả, dù là chùa nằm ngay trong thành phố cũng vậy . Nếu chùa mà rộn ràng, đầy những màu sắc nhức mắt và những âm thanh chói tai thì ta thì ta ở nhà còn hơn. Ta chỉ cần đến chùa mỗi khi có buổi họp. Mà như thế thì quả là một điều thua thiệt rất lớn cho đời sống tâm linh ta. Hiện nay còn có những ngôi chùa mà chỉ cần bước vào thôi ta cũng đã thấy tâm hồn êm dịu, thanh thoát. Lối kiến trúc và trang trí chùa phải là thế nào để cho mỗi khi bước qua tam quan, ta có cảm tưởng là đã bỏ lại ở ngoài tất cả những phiền muộn những bực dọc và những tầm thường của cuộc sống hằng ngày. Nếu không, chỉ cần nhìn vào những rộn rã và vụng về kia, kẻ bàng quan cũng đánh giá được nếp sống tâm linh của những người sinh hoạt trong những Cảnh kiến trúc và trang trí ấy.

Vị tu sĩ hướng dẫn chương trình tu học của chùa cũng phải có trình độ văn hóa cao để có thể thống nhiếp được đại chúng. Đại chúng (communauté) ở đây nên hiểu là tất cả những Phật tử cùng tu cùng học, cùng có nhiệm vụ xây đắp và bảo vệ cho chùa, dưới sự hướng dẫn của các vị tu sĩ được Giáo hội chỉ định. Như vậy, chữ đại chúng có nghĩa tương đương với chữ bổn đạo. Đại chúng chừng vài trăm người thì đã cần tới hai vị tu sĩ, một vì chủ trì và một vị phụ tá. Chừng nào đại chúng đông hơn, thì số tu sĩ cũng phải nhiều hơn. Khi đại chúng đông quá thì nên tách làm đôi và một ngôi chùa mới phải được tạo dựng để làm cơ sở sinh hoạt tôn giáo cho đại chúng mới. Chỉ trừ ở những nơi mà dân trí còn thấp kém quá và chỉ mong được thỏa mãn những nhu yếu tín ngưỡng rất bình dân thì không nói, chứ ở những nơi trình độ dân chúng khá cao thì các vị tu sĩ hướng dẫn cũng phải có trình độ học vấn cao mới có thể lãnh đạo được. Những vị tu sĩ làm việc trong ngành này phải có kiến thức vững chãi về giáo lý, nghĩa là phải tốt nghiệp ở một trường Phật học, phải có kiến thức về lễ nhạc Phật giáo để dạy bảo và hướng dẫn đại chúng về phương diện nghi lễ, phải có kiến thức về tâm lý, giáo dục, tôn giáo để có thể giúp đỡ những cá nhân trong đại chúng khi những người này cần đến mình để giải quyết những vấn đề thuộc tâm lý, gia đình hay xã hội của họ. Ở một ngôi chùa mà đại chúng có những nhu yếu đó thì thường thường có ít ra là hai vị tu sĩ tiếp hiện hướng dẫn: một vị chuyên trách về lễ nhạc và tổ chức, một vị Chuyên trách về giảng dạy và cố vấn. Tất cả những kiến thức cần thiết này đều phải được cung cấp tại trường Phật học.

Về chương trình sinh hoạt tôn giáo, ta có những mục như sau: học giáo lý, học tham thiền, ăn chay tụng kinh niệm Phật, sám hối, tham gia công việc xã hội. Tất cả những công việc ấy phải được thực hiện một cách nghiêm chỉnh đúng với tinh thần đạo Phật. Trước hết là việc học giáo lý. Học giáo lý không phải là đi tìm những giây phút tự hào những giây phút mà trong đó cả người dạy lẫn người học đều sung sướng nghĩ rằng giáo lý đạo Phật hay như thế này mà mình là Phật tử thì thật là mình đã đi đúng đường, chọn đúng đạo. Tâm lý này rất phổ thông, và ở tôn giáo nào cũng có hiện tượng ấy. Học Phật, thực ra, là để mà hành. Phải làm sao cho mọi Phật tử thấu đạt được tinh thần phá chấp, thực nghiệm, khế cơ và phương tiện của đạo Phật để tự luyện mình thành ra khiêm nhường, cởi mở và bao dung. Ta thấy Phật tử đang còn cố chấp quá và số lượng những người hành đạo trên căn bản tự ái tôn giáo vẫn còn đông quá. Học tập tinh thần phá chấp và thực nghiệm, người Phật tử sẽ chắc chắn đạt được đức khiêm nhượng và cởi mở, những đức tính căn bản không thể không có. Phải học Phật như thế nào để hiểu và hành Tứ Diệu Đế một cách thiết thực. Phải có dịp được hướng dẫn đi thăm và quan sát những hiện tượng khổ đau trong địa phương mình để phát khởi và nuôi dưỡng Từ Bi. Rồi lại phải học tri túc để có thêm thì giờ tham dự vào công việc phụng sự. Mỗi tuần một vài lần ở chùa phải có những lớp học giáo lý và thực tập giáo lý ấy Học tham thiền và thực hành tham thiền cũng nằm trong phạm vi ấy. Người Phật tử cần có những giờ sinh hoạt đơn độc vắng lặng để tự tìm mình, để tự mình còn là mình và để tự mình làm giàu thêm cho mình về phương diện tâm linh. và tâm đức. Điều này quan trọng quá bởi vì giá trị con người và hạnh phúc gia đình tùy thuộc nơi nó thật nhiều. Sống trong một xã hội đảo điên thác loạn ai cũng dễ đánh mất mình, cũng dễ trở nên cáu kỉnh, khó chịu, ngay đối với chính những người mình thương yêu nhất. Nếu ở nhà không có một căn phòng nhỏ im lặng, thì ta phải lên chùa tìm tới chính điện để ngồi tĩnh tâm và tham thiền. Phàm ai có thể thực hành phép tĩnh tâm và tham thiền đều thấy ngay được hiệu quả tốt đẹp của nó. Ăn chay cũng rất quan trọng. Người Phật tử không nên nghĩ rằng ăn chay là để cầu xin một phước đức siêu hình nào mà chỉ nên nghĩ rằng ăn chay là để nuôi dưỡng tâm đức mình và hạnh phúc của mình. Mỗi tháng nên có ít nhất là vài ba ngày ăn chay: hoặc là nên ăn chay trong tất cả mọi buổi chiều, bởi vì buổi chiều mà ăn mặn, nhất là ăn trễ và no quá thì thật là thiệt hại cho đời sống của mình quá. Các bà nội trợ nên sửa soạn những bữa cơm chay cho cẩn thận. Nhũng ngày ăn chay thì nên dùng khăn bàn và bát đũa đặc biệt. Trước khi ăn, mọi người nên chắp tay yên lặng để một người trong gia đình đọc lại một câu nào có ý nghĩa trích trong các lời dạy của đức Phật. Làm như thế ăn chay sẽ gây thêm được đức tin, tạo thêm được lý tưởng và bảo vệ được sự thân ái và hòa thuận trong gia đình. Nên thực hành việc ăn chay như là một phương tiện mà đừng nghĩ rằng đó là một cứu cánh, một giáo điều, một sự bắt buộc. Ăn chay không phải là một khổ hạnh. Ta có thể có những bữa ăn chay ngon lành và đầy đủ chất bổ nếu ta chú trọng tới vấn đề ăn chay.

Vấn đề tụng kinh niệm Phật cũng rất là quan trọng. Người ta chỉ có thể tụng kinh và niệm Phật khi người ta có học về phương pháp tụng kinh niệm Phật. Lời tụng, điệu tụng và cách tụng biểu lộ được nội dung sinh hoạt tâm linh và do đó phải có thiền vị. Có nhiều người tụng kinh nghe chát óc chát tai. Tụng kinh không có nghĩa là cúng tế cầu đảo. Tụng là đọc, đọc những lời Phật dạy, hay đọc những bài sám nguyện để phản tỉnh và cầu nguyện. Người tụng kinh cũng như người nghe kinh phải thấy tâm hồn êm ả, thanh thản và dâng lên cao vút. Phương pháp tụng niệm đã bị phá sản. Chỉ còn lại ít các chùa xưa là giữ được thiền vị trong các thời công phu, còn ở các chùa bây giờ, màu sắc lễ nhạc đang chứng tỏ sự thế tục hóa của đạo Phật. Rất nhiều chùa mang micro vào chính điện để phát ra những bài oang các điếc tai điếc óc không thể gọi là kinh được. Dùng máy phóng thanh trong chùa là một việc bất đắc dĩ, không dùng thì vẫn hơn. Nếu có dùng cũng chỉ nên để vừa cho trong phòng nghe mà thôi, chẳng nên bắc loa ra ngoài xóm làng phố phường như những rạp hát cải lương. Cái bệnh ham dùng máy phóng thanh ở các chùa và mở to đến mức tối đa đã lan tràn rất rộng và đã làm khổ không biết bao nhiêu người. Cuốn sách này viết hoài không xong cũng là do mấy cái máy phóng thanh. Có những ngôi chùa mà mỗi khi nghe tiếng chuông và tiếng tụng kinh đầy thiền vị ta muốn quỳ xuống và chắp tay. Trái lại có những ngôi chùa mà khi tiếng tụng kinh nổi lên ta đã muốn chạy trốn. Lễ nhạc cần được nghiên cứu, chỉnh lý lại; những vị tu sĩ phụ trách nghi lễ phải nắm cho được nguyên tắc và kỹ thuật của lễ nhạc ấy, bởi vì sinh hoạt lễ nghi là một sinh hoạt quan trọng nhất trong đời sống tôn giáo. Đến dự một buổi lễ sám hối, nghe những âm thanh nhìn những màu sắc chói tai chói mắt rồi lạy cho đến mồ hôi ướt đầm mấy lớp áo, chỉ mong cho khóa lễ chóng xong mà về: đó là một sự thất bại lớn của lễ nhạc. Không thể nói được rằng nhờ buổi lễ sám hối ấy mà tâm hồn thanh tịnh hơn, an lạc hơn.

Trẻ em của chúng ta cũng phải được chia thành từng nhóm tuổi để học hành và thực tập giáo lý trong những lớp học chủ nhật (Sun day school). Các em cũng cần có những cuốn sách giáo lý căn bản cho các em, luyện tập cho các em biết cởi mở, bao dung, khiêm nhượng, nuôi dưỡng cho các em tình thương và ý chí phụng sự, biết chịu trách nhiệm về những khổ đau xung quanh do mình gây ra hoặc không do mình gây ra. Chương trình học Phật cho người lớn và cho trẻ em phải được Giáo hội cho ấn hành thành sách, và các Phật tử cư sĩ đã học Phật khá vững nên tham dự và giúp đỡ các vị tu sĩ tiếp hiện trong việc mở dạy những lớp giáo lý chủ nhật cho các em thuộc các lứa tuổi khác nhau. Vì vậy cho nên phòng xá sinh hoạt cho từng lớp cần được trang bị thêm cho được đầy đủ. Gia đình Phật tử có thể giúp đỡ được rất nhiều trong việc tổ chức học tập và thực hành Phật pháp.

Chương trình học Phật phải sát với sự sống và do đó phải bao hàm luôn những vấn đề giáo dục gia đình, tổ chức ngân sách gia đình, nuôi dạy trẻ con, vấn đề y tế vệ sinh, vấn đề luyến ái nam nữ. . . tùy theo các lớp tuổi.

Sau hết là vấn đề tham gia những công tác tương trợ và hưởng ứng những kế hoạch văn hóa, kinh tế, xã hội do Giáo hội chủ trương. Người Phật tử chân chính không bao giờ ích kỷ chỉ biết tự lo cho mình. Phải mở rộng tầm mắt, phải tiếp xúc với sự thực thứ nhất để mà phát khởi tình thương, để mà phát tâm phụng sự. Chương trình và kế hoạch phụng sự được các vị tu sĩ hướng dẫn đề nghị. Đại chúng trong những buổi họp đông đủ tại chùa sẽ thảo luận và quyết nghị. Làm thế nào để đừng làm ngơ trước những đau khổ quanh mình. Làm thế nào để từ bi và hùng lực của đạo Phật là những sự thực mà không phải chỉ là ngôn từ trên đầu môi chót lưỡi. Và đến khi Giáo hội đề ra những kế hoạch văn hóa giáo dục xã hội chung, phải biết hy sinh thì giờ và nếu cần một ít quyền lợi của mình, để tham dự trong ý hướng làm vơi đi những khổ đau và bất công của xã hội.

Tóm lại, trong lĩnh vực sinh hoạt tôn giáo, ta có những công việc sau đây cần thực hiện:

1/ Sáng tạo và chỉnh đốn kiến trúc và trang trí, làm cho chùa đẹp, thanh tịnh, phản chiếu được văn hóa Phật giáo và dân tộc; công việc này cần có sự tham dự của các nhà văn hóa, các nhà kiến trúc và mỹ thuật.

2/ Nghiên cứu truyền thống lễ nhạc, sáng tác lễ nhạc mới khế hợp với tâm hồn Việt Nam trong xã hội mới, dạy lễ nhạc và tham thiền tại các Phật học viện, các chùa: công việc này cần có sự hợp tác của các tu sĩ tinh thông lễ nhạc tôn giáo.

3/ Dạy giáo lý và làm cố vấn giáo lý cho các Phật tử đủ các lớp tuổi về những vấn đề của đời sống bản thân, gia đình, xã hội: công việc này cần có sự hợp tác của các vị cư sĩ có học lực vững chắc về Phật học và về các môn học v.v . . . và của tổ chức Gia Đình Phật Tử, một tổ chức có rất nhiều triển vọng trong tương lai.

4/ Hướng dẫn Phật tử ý thức về các vấn đề khổ đau của sự sống và cố gắng đóng góp phần của mình trong các công tác xã hội: công việc này cần sự tham gia của nhiều người, trong đó có cả những người làm việc trong các cơ quan xã hội của chính quyền.

 

 

II. TRONG LĨNH VỰC VĂN HỌC NGHỆ THUẬT

Phần lớn văn nghệ sĩ Việt Nam có cảm tình với đạo Phật. Một số thương yêu lý tưởng đạo Phật và ước ao được phụng sự cho lý tuởng ấy. Sự kiện phần lớn văn nghệ sĩ Việt Nam có cảm tình với đạo Phật là một sự kiện dễ hiểu. Văn nghệ sĩ Việt Nam chưa bao giờ đi quá xa để tách khỏi tính cách dân tộc; mà nói đến dân tộc tính ít khi chúng ta có thể quên được đạo Phật. Tuy nhiên trong hiện tình của sinh hoạt đạo Phật, sự đóng góp đích thực của gia đình văn nghệ sĩ cho Phật sự quả thực chưa có gì đáng kể. Đó không phải là lỗi của các nhà văn học và nghệ thuật: đó là lỗi của các nhà lãnh đạo Phật giáo không biết đón nhận họ thực sự vào trong hàng ngũ Phật tử mà chỉ muốn nhờ vả họ một vài việc lặt vặt: viết cho ít bài, vẽ cho ít tranh, soạn cho ít nhạc. Đã thế lại không trình bày cho họ rõ ràng xem họ phải viết phải vẽ phải soạn cái gì, theo nguyên tắc nào, và cho ai. Anh em văn nghệ sĩ dù có muốn đóng góp phần mình cũng không biết đóng góp cách nào. Viết truyện nói về quả báo nhãn tiền, soạn nhạc ghi chép điệu tụng kinh, vẽ tranh có mái tam quan và có gác chuông, những việc ấy ai mà chịu làm. Viết truyện ngắn cho một tờ báo Phật chẳng hạn, rất khó. Biết viết gì đây. Viết về một tên tham quan hay một tên ô lại, độc ác, giết người, ăn hối lộ suốt mười lăm năm trời; rồi một buổi sáng nào đó vợ bỗng lăn đùng ra chết, con bị Tây bắn, nhà cửa bị bom dội. Viết như thế thì ai mà đọc. Bọn tham quan ô lại thì không bao giờ ngán những chuyện như thế, và cũng đời nào cầm lấy một tờ báo Phật mà đọc những chuyện như thế. Chỉ có giới bình dân đọc và đọc xong thì cũng chẳng thấy có gì mới lạ, bởi vì thuyết thiện ác nghiệp báo vốn là triết lý của họ từ lâu.

Đề tài đã khan hiếm như thế mà tiền thù lao lại chẳng có gì, trong khi người văn nghệ sĩ nào cũng phải lo chạy gạo cho con, không lấy đâu ra thì giờ mà “phát tâm” sáng tác cho chùa, cho Giáo hội. Cho nên ít nhất là hai vấn đề được đặt ra: vấn đề phương tiện sáng tác và vấn đề đường hướng sáng tác.

Trước hết ta hay bàn về phương tiện sáng tác.

Thực ra, độc giả Phật tử rất nhiều và số quần chúng đông đảo ấy có thể ủng hộ đắc lực cho sự phát triển nền văn học và nghệ thuật đạo Phật, được xem như là phương tiện vĩ đại nhất để thực hiện công trình hiện đại hóa đạo Phật và đem đạo Phật đi vào cuộc đời . Các sách Phật bán rất chạy. Những cuốn sách như cuốn Ánh Đạo Vàng của nhà văn Võ Đình Cường đã được in tới ngót mười lần. Cả những cuốn sách dở cũng có thể bán được, và đã có khá nhiều những người lợi dụng điều đó để in ra những cuốn sách chẳng phản chiếu được chút nào tinh thần chân chính của đạo Phật. Một nhà xuất bản và phát hành đứng đắn được Giáo hội bảo trợ sẽ có thể nâng đỡ rất nhiều cho văn nghệ sĩ về phương diện vật chất. Một nhà xuất bản và phát hành như thế, theo chúng tôi biết, sẽ thu được rất nhiều tiền lời, và số tiền ấy có thể dung để trả thù lao cho các ký giả, mua bản quyền các tác phẩm với một giá không cần “phát tâm” chút nào. Một hiệp hội văn nghệ sĩ Phật tử cần được thành lập và thành lập gấp, để ngoài sự giải quyết các vấn đề thuộc phạm vi sinh tồn và tương trợ cho các hội viên, những vấn đề phải được nhận định như là nền tảng của mọi phát triển về mặt sang tác văn học và nghệ thuật, những vấn đề có thể giải quyết tương đối dễ dàng hơn dưới sự bảo trợ của Giáo hội. Uy tín của Giáo hội cũng như thị trường tiêu thụ các văn nghệ phẩm trong quần chúng Phật tử sẽ là những yếu tố quyết định sự thành công trong lĩnh vực này. Việc tiêu thụ sản phẩm văn nghệ đương nhiên là có liên hệ đến đường hướng sáng tác văn nghệ. Cố nhiên một nền văn hóa tự do như đạo Phật sẽ không bao giờ dung túng được việc ép buộc văn nghệ sĩ sáng tác theo một chiều hướng, trong những khuôn khổ nhất định và là ép buộc bằng những phương tiện vật chất mà mình có thể cung cấp cho họ. Tuy nhiên trong chúng ta không ai có thể chấp nhận được một thứ văn nghệ phá sản đầu độc quần chúng, nhất là trong lúc mọi người đang cố gắng xây đựng lại những gì đã đổ nát. Một nền văn nghệ Phật giáo phải là một nền văn nghệ biểu hiện tình thương và tinh thần cứu khổ, và như thế là một nền văn nghệ được hướng dẫn bởi tinh thần Phật giáo. Hướng dẫn bởi tinh thần Phật giáo chứ không phải được điều khiển bởi một nhân vật hoặc một nhóm nhân vật nào, dù nhân vật ấy hay nhóm nhân vật ấy tự nhận là uy quyền của Phật giáo. Một nền văn nghệ mà biểu hiện được tinh thần đạo Phật thì cố nhiên sẽ được Giáo Hội Phật Giáo nâng đỡ, ủng hộ, bảo trợ. Bởi vì nếu không, thì Giáo hội đâu còn là Giáo hội nữa. Mà nếu Giáo hội nâng đỡ và bảo trợ cho một nền văn nghệ đầy sinh lực như thế thì chắc chắn là quần chúng Phật tử sẽ tin tưởng và ủng hộ một cách nồng nhiệt. Ý thức hiện đại hóa đạo Phật sẽ được phổ biến mau lẹ và sâu rộng, các kế hoạch xây dựng văn hóa kinh tế xã hội do Giáo hội chủ trương cũng sẽ được tích cực hưởng ứng và tham dự.

Vấn đề phương tiện sáng tác có liên hệ đến vấn đề đường hướng sáng tác. Văn nghệ sĩ cần phải có phương tiện để làm cho phong phú đời sống tâm linh của mình. Một trong những phương tiện ấy là sự thoát bỏ thỉnh thoảng cái không khí náo nhiệt, cái guồng máy mưu sinh đầy dẫy những phiền não bực dọc, cái xã hội đầy dẫy những đảo điên, thác loạn, trong đó chúng ta phải lặn hụp hằng ngày. Ở các đô thị văn nghệ sĩ phải có một ngôi chùa riêng cho họ, trong đó có chính điện: thờ Phật, có thư viện Phật học, có phòng tham thiền, viết lách, sáng tác, có nơi uống trà và đàm đạo. Tất cả những thứ ấy đều do họ tổ chức và trang hoàng lấy. Vị tu sĩ của ngôi chùa này phải tự mình là một nhà văn hay một nghệ sĩ để có thể hiểu biết và hường dẫn sinh hoạt tâm linh cho gia đình văn nghệ sĩ một cách dễ dàng hơn các vị tu sĩ khác. Ngôi chùa cố nhiên sẽ thanh tịnh, trang nhã, mát mẻ. Các văn nghệ sĩ Có thể ngồi tĩnh tâm trong phòng tham thiền để cho tâm tư lắng đọng. Những giờ tham thiền như thế sẽ giúp rất nhiều cho công việc sáng tác, và ảnh hưởng nhiều tới công việc sáng tác. Văn nghệ sĩ nào cũng thấy được điều hệ trọng đó. Sản phẩm văn nghệ sẽ vững mạnh hơn nhờ những giờ tham thiền. Ngôn ngữ, hình tượng, cảm xúc sẽ không bị non yếu và méo mó vì những phiền não bực dọc ta phải chịu đựng ngay trước giờ sáng tác. Nhờ tham thiền và các sinh hoạt tôn giáo, người văn nghệ sĩ giữ lại được sự bình tĩnh, lấy lại được phong độ của mình, nuôi dưỡng được đức tin nơi cuộc đời và tình thương đối với con người. Nhờ tủ sách Phật học được trang bị đặc biệt cho văn nghệ sĩ, họ có dịp tìm hiểu thêm về đạo Phật, dưới sự hướng dẫn của vị tu sĩ chủ trì. Thường thường văn nghệ sĩ Việt Năm ít đọc về đạo Phật. Không phải vì các bạn làm biếng, mà vì các bạn không biết sách gì mà đọc, không có sách gì mà đọc. Lắm lúc sinh kế bức bách, chẳng có thì giờ đi tìm mua một cuốn sách Phật. Tủ sách Phật học trong chùa phải cung cấp những sách hay nhất và trình bày linh động nhất về đạo Phật. Bởi vì những sách khảo cứu khô khan trong bước đầu sẽ không gây được hứng thú. Có học Phật, có tĩnh tâm, tham thiền, người văn nghệ sĩ mới thấy được hướng dẫn bởi những nguyên lý phật học trong khi sáng tác và mới bảo tồn được lý tưởng và con người đích thực của mình. Người văn nghệ sĩ mới có thì giờ suy tư và trao đổi với nhau về những vấn đề như sáng tác cái gì, sáng tác cho ai, và sáng tác thế nào? Người văn nghệ sĩ tạo một không khí gia đình trong ngôi chùa dành riêng cho mình, trong đó mình sống những giờ thanh tịnh, thoải mái, tràn đầy ý thức về sứ mạng, và nếu cần có thể sáng tác tại thư viện của chùa hay trong các phòng xá dành cho công việc ấy. Cơ sở xuất bản sẽ bảo đảm quyền tác giả của họ và họ sẽ không sợ bị những nhà xuất bản và những ông chủ báo bóp nghẹt và lợi dụng nữa.

Cố nhiên người văn nghệ sĩ Phật tử có thể sáng tác mà không cần dùng hình tượng chùa chiền, kinh điển, tăng ni, giáo hội, tiếng chuông tiếng mõ và một mớ danh từ đạo Phật. Sáng tác theo tinh thần đạo Phật, nhất là đạo Phật vì cuộc đời, thì không cần phải có những màu mè như thế. Mà dù có muốn cho một nghệ phẩm có tính cách đạo Phật bằng cách đưa các danh từ, hình ảnh và âm thanh ấy vào, nghệ phẩm ấy cũng không thể được gọi là thành công. Một bản nhạc có tinh thần đạo Phật chẳng hạn, khi đánh lên, sẽ tự chứng minh được tinh thần đó. Nếu bản nhạc kia không có bản chất đạo Phật thì khi đặt lời cho nó dù ta có chêm vào nào Nam mô, nào Từ bi, nào Niết bàn thì nó cũng không thể vì thế mà trở thành một bản nhạc Phật. Được hướng dẫn bởi tinh thần đạo Phật thì dù viết chuyện về cờ bạc, viết chuyện mặt trận, viết chuyện thanh lâu thì nghệ phẩm vẫn là nghệ phẩm xây dựng có bản chất Phật giáo.

“Được hướng dẫn” không có nghĩa là bị khép vào một khuôn khổ hay bị quy định bởi những luật lệ nào. Không có ai có nhiều tự do cho bằng những người Phật tử. Đạo Phật không phải là một hệ thống những giáo điều khắt khe. Giáo hội Phật giáo không phải là một cái đảng đang chủ trương đấu tranh với các đảng khác, không phải là một giai cấp đang chủ trương đấu tranh với một giai cấp khác. Giáo hội tồn tại để bảo vệ cho tự do, nuôi dưỡng cho tình thương và bồi đắp cho ý chí phụng sự. Phụng sự không phải là phụng sự cho một người nào, một nhóm người nào, một đoàn thể nào, dù đoàn thể ấy là Giáo hội coi như một cái ngã tách biệt ra khỏi những cái ngã khác. Phụng sự ở đây là chống lại vô minh, căm thù, cuồng tín, vu khống – chứ không phải là chống lại con người. Đạo Phật không chống ông A, ông B, ông C mà chỉ chống tham, sân, si. Nếu ông A mà tham, sân, si thì ông A sẽ ráng mà chịu, thì ông A phải diệt tham, sân, si đi nếu không muốn bị chống đối. Mà cái tham, sân, si gần nhất cần phải chống là cái tham, sân, si nằm ngay trong lòng những người Phật tử – những người chủ trương chống tham, sân, si. Cho nên đạo Phật phải tiêu biểu cho tự do và tình thương và nếu có một quy luật sáng tác thì quy luật đó là quy luật của tự do và tình thương. Chưa bao giờ các vị Tổ lên án một tư tưởng gia đã sáng tác ra một tông phái mới dù tông phái đó trái chống với tông phái của các vị. Chưa có vị tăng sĩ nào bị trục xuất vì đã sáng tác và khởi xướng một lý thuyết mới. Nếu hai yếu tố tự do và tình thương mà vắng mặt trong đạo Phật thì thiết tưởng dù đạo Phật có triết lý cao siêu đến mấy ta cũng không nên theo. Và nếu đạo Phật có đóng góp được gì cho thế giới hôm nay và ngày mai thì cũng là nhờ bản chất tràn đầy tự do và tình thương của nó.

Vì tự do cho nên đạo Phật không cố chấp, luôn khiêm nhượng cởi mở và không bịt tai trước bất cứ tiếng chuông nào. Vì tự do nên người văn nghệ sĩ Phật tử không tự hào tự đại cho mình là phản ảnh được thực tại một cách hiện thực nhất, còn bao nhiêu quan niệm và đường lối văn nghệ khác đều là hoàn toàn sai lạc, phản bội, cần phải lên án. Người văn nghệ sĩ Phật tử phải có đức bao dung như chính bản chất của tư tưởng Phật giáo. Người văn nghệ sĩ Phật tử phải tôn thờ tự do mà không được nghĩ rằng tự do là một chướng ngại vật cho tiến bộ. Bởi vì nghĩ như thế tức là độc tài rồi. Nhìn sứ mệnh văn nghệ qua khía cạnh nhiệm vụ, ta thấy tự do là cần thiết. Anh có thể nói cho tôi nghe tôi sai lạc ở chỗ nào và anh hãy làm cho tôi chuyển hướng đi bằng cách chinh phục lý trí và tình cảm của tôi. Chứ anh không thể tước đoạt tự do của tôi. Luôn luôn thao thức đón nhận thực tại linh động, người văn nghệ sĩ Phật tử mở rộng trí não để học hỏi thêm trong từng giờ từng phút, không bao giờ được cho mình là đã biết đủ, không bao giờ được nhất quyết rằng người khác là hoàn toàn sai. Như thế người văn nghệ sĩ biết trừ bỏ sở tri chướng và tiến những bước tiến mau lẹ trên đường nhận thức.

Mục đích của văn nghệ là gây hứng thú mỹ cảm cho người thưởng thức và đồng thời trình bày thực tại theo tinh thần tứ điệu đế để làm phát sinh nơi người đọc nhận thức cần thiết về những vấn đề thiết thực nhất của sự sống, phát triển và nuôi dưỡng những tình cảm tốt đẹp trong lòng họ, và cuối cùng động viên họ tham dự vào công việc diệt trừ khổ đau và kiến tạo an lạc. Một nghệ phẩm mà đạt được từng đó mục đích thì là một nghệ phẩm lý tưởng. Một nghệ phẩm chỉ đạt tới một phần của mục đích trên thì cũng là một nghệ phẩm có ích. Người văn nghệ sĩ Phật tử chấp nhận mọi sản phẩm nghệ thuật chỉ trừ những sản phẩm cổ súy cho dục vọng và vô minh.

Một chuyện thần tiên cho trẻ em, tuy không diễn bày sự thực xã hội, nhưng kích thích được óc tưởng tượng của các em và gây cho các em những cảm tưởng tươi sáng, yêu đời thì cũng đã đạt đến một kết quả tốt của văn học. Một cuốn tiểu thuyết tả chân của phái tự nhiên ghi chép một cách vô tư các hiện tượng mà tiểu thuyết gia đã cảm giác và ý thức được cũng có thể gây hứng thú cho người đọc và do đó cũng đạt được một kết quả tốt của văn học. Gây được hứng thú mỹ cảm cho người thưởng thức, dù bằng đường lối nào, miễn là đừng nối giáo cho dục vọng và vô minh, cũng có thể gọi là thành công rồi. Bởi ta không thể chấp nhận được một vũ trụ văn nghệ luôn luôn cổ súy, gầm thét, sách động. Thần kinh con người sẽ căng thẳng trong một không khí văn nghệ như thế, và tình cảm chân thực của con người bị bóp chẹt, không được nảy nở phát triển.

Phái tự nhiên thường bị buộc tội là chỉ lo ghi chép một cách tỉ mỉ những gì mình thấy mình nghe, không chịu đưa quan điểm và lập trường của mình vào tác phẩm và như thế, sự sáng tác văn nghệ thiếu hẳn ý thức về hoạt động sáng tạo. Thực ra, nếu quả thực người văn nghệ sĩ thực hiện được một thái độ vô tư và khách quan trong lúc ghi chép thực tại thì đó là một điều vô cùng quý giá. Nhận thức của con người thường thường bị che lấp và bị ảnh hưởng bởi những tư kiến và những tình cảm chủ quan, do đó ít khi trực nhận được bản thân thực tại. Khách quan chủ nghĩa không phải là một chủ trương bắt người văn nghệ sĩ phải nhìn thực tại như một cái gì xa lạ không ăn thua gì đến mình. Một sự kiện như thế không bao giờ xảy ra được. Người văn nghệ sĩ nếu rửa sạch được thành kiến và cố chấp thì có thể dễ dàng nhận thức được bản thân của thực tại và vượt ra khỏi cái vòng tròn chủ quan sai lạc. Chỉ sợ rằng người văn nghệ sĩ không thực hiện được thái độ tư phá chấp ấy mà thôi. Chứ nếu mà thực hiện được thì không những họ đã không xa lạ với thực tại mà họ còn có thể được gọi là nằm trong lòng thực tại nữa. Vô tư và khách quan, hiểu theo tinh thần phá chấp không có nghĩa là tách mình ra khỏi đối tượng, không phải là đối tượng hóa. Thái độ vô tư và khách quan giúp cho con người phá vỡ biên giới chủ thể và đối tượng và chính người văn nghệ sĩ được thể nhập vào thực tai. Trong trường hợp này tính chất nghệ phẩm của họ còn hiện thực gấp mười lần những người tự xưng là hiện thực mà luôn luôn bị nô lệ cho kiến chấp cho giáo điều, dù giáo điều duy tâm hay duy vật.

Hơn thế, thực tại không phải chỉ là thực tại xã hội mà còn là thực tại tâm linh nữa. Khám phá tâm linh mình, công việc ấy có khi còn quan trọng gấp ngàn lần công việc khám phá thực tại xã hội. Người văn nghệ sĩ cần tự biết mình, dùng ý thức soi rọi tâm linh mình, tâm linh không phải như sản phẩm của não bộ và thần kinh, không phải như một tấm gương phản ảnh thực tại xã hội, phản ảnh hệ thống sản xuất mà như một thực tại mầu nhiệm. Nói như thế không phải là nhảy từ khách quan chủ nghĩa đến chủ quan chủ nghĩa một cách đột ngột đâu. Nói như thế là để nêu rõ rằng dù duy tâm hay duy vật, người ta cũng chỉ đi loanh quanh trên ngọn mà không bao giờ tìm tới gốc. Tìm tới gốc thì khách quan chủ nghĩa cũng thế, chủ quan chủ nghĩa cũng thế mà hiện thực chủ nghĩa cũng thế. Sự đối kháng nhau bắt nguồn từ khuynh hướng phân biệt cành lá và bỏ quên gốc rễ. Tìm tới gốc rễ thì chủ quan sẽ không phải để đối lập với khách quan, hiện thực sẽ không phải để đối lập với lãng mạn. Tất cả sẽ tạo nên một hòa điệu và những chống đối những cố chấp sẽ tan biến.

Trong trường hợp chủ quan chủ nghĩa, người ta thường nói rằng các văn nghệ sĩ không thèm đếm xỉa đến thực tại mà cứ ỷ vào thiên tài mình để tưởng tượng và sáng tạo ra những liên quan giả tạo giữa các hiện tượng. Nhưng thực tại tâm linh tự nó không phải là một thực tại sao? Hơn nữa nếu bảo rằng ý thức là tấm gương phản ảnh thực tại xã hội, thì tại sao lại có những tấm gương kỳ cục, nghĩa là những tấm gương không chịu phản ảnh thực tại theo kiểu những tấm gương khác những tấm gương được tưởng thưởng và hoan hô? Liêu Trai Chí Dị cũng phản chiếu thực tại, không những thực tại tâm lý mà là thực tại xã hội nữa. Ai có chút ít kiến thức văn học cũng phải công nhận như thế. Truyện Trinh Thử của Hồ Huyền Quy và truyện Tây Du Ký cũng vậy. Ai dám nói là chúng không phản ảnh được dù ít dù nhiều cái thực tại xã hội mà trong đó các tác giả đã sống?

Những ai không chịu nói hùa theo đa số thì thường bị lên án là sa vào chủ quan chủ nghĩa. Cái nhìn của đa số đâu chắc đã là cái nhìn sáng suốt nhất. Cái nhìn của đa số không thể nói là cái nhìn khách quan. Khi tôi không chịu tán dương ca ngợi, thì người ta bảo là tôi bôi đen thực trạng bằng cái nhìn chủ quan đen tối của tôi. Cũng như Trận Dần bị mắng là đã bôi đen cái thực trạng đẹp đẽ khi anh viết:

“Tôi bước đi không thấy phố thấy nhà

Chỉ thị mưa sa trên mầu cờ đỏ”

Trong khi Tố Hữu được khen là phản ảnh đúng thực tại khi anh ca ngợi :

“Đường ta rộng thênh thang tám thước “.

Thực ra, đường tám thước cũng rộng đấy. Nhưng có khi những con đường rộng mười lăm thước mà có người vẫn cho là hẹp và có khi con đường chỉ có hai ba tấc mà cũng được cho là rộng lắm rồi. Rộng hẹp là tùy theo trường hợp, tâm lý nhận thức. Ai có thể đoán quyết rằng chỉ có những con đường tám thước mới là những con đường rộng?

Khi tôi không chịu đả phá nói xấu những gì anh thích tôi đả phá, thì người ta bảo là tôi tô hồng tô thắm thực tại bằng cái chủ quan lạc quan của tôi. Thực ra trong trường hợp trên, chưa chắc là Trần Dần đã bôi đen, và chưa chắc Tố Hữu đã không tô hồng. Có lẽ thực tại là một cái gì liên hệ vào chủ thể nhận thức, và có lẽ cả hai đều thành thực. Điều đáng nói là nếu quả họ thành thực thì ta phải tôn trọng họ. Còn nếu ta đem một chủ thuyết kinh điển nào ra để phê phán, tán dương hoặc công kích họ thì ta đã xâm phạm vào tự do của họ rồi. Ta tự nhốt ta trong một tháp ngà chủ quan mà ta đặt tên là hiện thực chủ nghĩa. Một thái độ hiện thực chân chính là một thái độ vô tư, khách quan, tôn trọng tự do. Mà muốn có thái độ ấy, người văn nghệ sĩ không thể không tự giải phóng ra ngoài ngục tù cố chấp, cuồng tín. Phải gạt bỏ kinh điển, thần tượng, phải đừng bám chặt vào những giáo điều, những tín ngưỡng siêu hình, phải trở về miếng đất thực nghiệm để học hỏi và chiêm nghiệm. Muốn phản ảnh trung thành thực tại, dù là thực tại tâm linh hay là thực tại xã hội, người văn nghệ sĩ phải là một tấm kính trung thực, không méo mó trước đã. Do đó, đi sâu vào cuộc đời, tham gia vào cuộc sống đồng lao cộng khổ của quần chúng cũng chưa đủ. Phải giữ cho tâm hồn trung thực nữa. Phải đừng để cho thành trì cố chấp bưng bít nữa. Phải tự mình là mình nữa. Và do đó, người văn nghệ sĩ phải chú trọng đến sinh hoạt tâm linh trong khi không quên tiếp xúc thẳng với thực tại xã hội đầy dẫy khổ đau, những khổ đau phần lớn đã được gây ra vì cố chấp, thành kiến và độc tài.

Cho nên ta thấy rằng lột hết những cặp kính màu mà thấy được mặt mũi chân thực của thực tại không phải là chuyện dễ. Tinh thần phá chấp và thực nghiệm của đạo Phật có thể giúp đỡ người văn nghệ sĩ rất nhiều. Đi sâu vào cuộc sống, tham dự vào những xót xa khổ đau của kiếp người là điều cần thiết, đạo Phật công nhận điều đó và khích lệ điều đó Sự thực thứ nhất trong Bốn Sự Thực Mầu Nhiệm dạy con người xoay lưng về phía siêu hình để mà tỉnh táo nhìn về những cái khổ của nhân loại. Nhiếp pháp đồng sự dạy con người hòa đồng vào khối đại chúng để tìm hiểu mà hướng dẫn họ. Người văn nghệ sĩ Phật tử cần biết rõ hơn ai hết điều đó. Nhưng người văn nghệ sĩ Phật tử cũng biết thêm rằng nếu mình không biết rõ mình là ai, nếu mình không nắm chắc được mình thì mình sẽ tự đánh mất mình trong dòng đời phiền tạp, và thay vì chuyển hóa cuộc đời cho tốt đẹp, mình bị cuộc đời chuyển hóa theo nó và cuối cùng trôi giạt theo nó. Cũng vì vậy cho nên người văn nghệ sĩ không thể không học Phật, tham thiền, tĩnh tâm, cầu nguyện.

Không ai không thấy rằng phần lớn các vị thiền sư đạt đạo, như ở Trung Hoa, Nhật Bản và Việt Nam chẳng hạn, đều là những thi sĩ hay họa sĩ. Hoa đạo và trà đạo cũng là những biểu hiện của Thiền, của sức mạnh tâm linh tự cường và tự tỉnh. Nghệ phẩm của các thiền sư không phải là những bài diễn văn chính trị, không là những bản nhạc thúc đẩy ý chí đấu tranh giai cấp, sản xuất kinh tế, nhưng vẫn là những tiếng nói phô diễn thực tại: thực tại tâm linh nhiệm mầu, phong phú. Thiền sư Bách Trượng vừa thiền định vừa cuốc đất: còn có bài thơ nào tràn đầy tính chất hiện thực hơn thế nữa?

Ngôn ngữ thiền là một ngôn ngữ đặc biệt và chỉ có những tâm hồn phong phú mới có thể tiếp nhận được bản chất nghệ thuật tuyệt vời chuyên chở trong hình thức nghệ thuật ấy. Chỉ tiếc rằng nhóm Xuân Thu Nhã Tập không chịu tu Thân thành ra không tự bảo vệ mình được một cách danh chính ngôn thuận. Khi bị người ta trách cứ là làm thơ khó hiểu, vô nghĩa, nhóm Xuân Thu Nhã Tập lấy giọng Thiền sư

“Đừng vội thất vọng vì một bài thơ khó hiểu. Hãy căng lại dây đàn. Hãy đặt mình trong tình trạng có thần trợ. Thiết tha và tin tưởng. Trong sạch mà nhập Thần. Sẽ trực giác được thơ. . . Tục nên không thể giao tiếp với thần linh. Lỗi không phải ở thần linh”.

Lỗi không phải ở thần linh, nhưng lỗi ở nhóm Xuân Thu Nhã Tập: không có bản chất thần bí mà đi tìm một loại ngôn ngữ thần bí thành ra sa vào một chủ nghĩa hình thức lập dị. Nhưng dù sao nhóm Xuân Thu Nhã Tập cũng không phải vì vậy mà bị kết án là trốn tránh sự sống đâu. Họ ham mê sự sống và họ đã làm thơ, đã xuất bản, đã tranh luận. Các Thiền sư, bằng cuộc sống của họ, thơ và họa của họ, đã chứng tỏ sự hiện diện của sức sống tâm linh trong lòng cuộc đời: những đóng góp vô hành của họ, trong nhãn quan đạo Phật, là một thứ đóng góp vô cùng quan trọng.

Tuy nhiên, nguồn đạo đức vô hành được khơi mở từ suối tâm linh ấy cần được lưu nhuận trong cuộc đời và cũng vì vậy mà văn nghệ sĩ lại có thêm sứ mạng đem đạo Phật thực hiện an lạc ngay trong lòng cuộc đời. Đạo Phật không sinh ra để được ca tụng, phục vụ mà là để phụng sự con người. Văn học nghệ thuật cũng thế. Chúng ta không thể đem văn nghệ phụng sự cho một đảng phái nào, một chủ nghĩa nào. “Nghệ thuật chỉ phụng sự nỗi thống khổ và quyền tự do con người “, Albert Canmus đã nói rất chí lý. Có những nỗi thống khổ của con người. Những nỗi thống khổ ấy đều có nguyên nhân, trong đó sự kiện tự do bị tước đoạt là một nguyên do quan trọng. Diệt trừ khổ đau và kiến tạo an lạc bằng cách đóng góp vào công việc tiêu hủy ngu dốt, cơ cực, độc tài, cuồng tín là con đường phải đi. Vậy thì quy luật này là quy luật vô cùng đơn giản của Bốn Sự Thực. Và quy luật này là quy luật phổ biến nhất trong các quy luật.

Nhận thức được nguy cơ của những cái nhìn phiến diện, người văn nghệ sĩ Phật tử luôn luôn mở toang các cánh cửa nhận thức. Đành rằng ta công nhận tầm quan trọng của vấn đề sản xuất kinh tế nhưng ta không nên vì vậy mà quên rằng có rất nhiều vấn đề khác cũng quan trọng như thế và có khi hơn thế. Đành rằng ta công nhận quy luật tranh chấp giữa giới thợ thuyền và giới tư bản, nhưng ngoài quy luật ấy còn có nhiều quy luật khác nữa của xã hội chúng ta, có khi còn quan trọng hơn. Vậy tại sao ta lại bắt mọi người phải quên tất cả những phần kia của thực tại để chỉ chú ý vào một phần này của thực tại, và để tự dành cho mình cái danh dự là đích thực hiện thực? Nguyên do khổ đau có thể là phân phối lợi tức không đồng đều, có thể là sự bóc lột của tư bản đối với người nghèo. Chúng tôi sẵn sàng công nhận điều đó. Những nguyên do của khổ đau còn là cố chấp, thành kiến, cuồng tín, độc tài và tham vọng. Những kẻ thù đó của loài người không phải chỉ đứng về phía giới tư bản. Chúng nằm sâu trong lòng mọi giới, kể cả giới tiểu tư sản, cũng như giới nông dân thợ thuyền. Chính những kẻ thù đó mới là kẻ thù không đội trời chung của con người. Xin đừng giết con người bằng nhân danh, dù là nhân danh hạnh phúc của con người, nhân danh tự do, nhân danh đảng phái hay tôn giáo. Hãy giết tham vọng, căm thù và cố chấp – trong ta và trong mọi người.

Người văn nghệ sĩ Phật tử tiếp xúc với Sự Thực Thứ Nhất để cho tâm hồn rung động vì xót thương (bi), nuôi dưỡng xót thương ấy cho lâu bền để biến thành ý chí phụng sự. Người văn nghệ sĩ Phật tử mở rộng cánh cửa nhận thức để học hỏi và trực nhận thực tại (Trí), và can đảm tố cáo những sự thực khổ đau để cùng gây ý thức xây dựng an lạc xã hội mà không sợ hãi bạo lực và khổ đau (Dũng). Người văn nghệ sĩ Phật tử, được hướng dẫn bởi tinh thần Phật giáo, đóng góp nhận thức và ý kiến mình cho giáo hội trong những chương trình và kế hoạch cải tiến xã hội về mọi mặt sinh hoạt. Người văn nghệ sĩ Phật tử bằng sáng tạo nghệ thuật, hướng dẫn và giáo dục quần chúng, khiến quần chúng tự nguyện tham dự những công trình xây dựng chung phù hợp với tình thương và tự do. Đó là pháp thí trong nhiếp pháp thứ nhất. Người văn nghệ sĩ Phật tử không tin ở giải pháp gây căm thù bởi vì căm thù thường đi với tàn bạo. Sức mạnh không phải chỉ có thể tạo được do căm thù. Lòng xót thương (Bi) và tình thương yêu (Từ) là chất liệu tạo nên một sức mạnh không kém gì sức mạnh của biển cả. Sức mạnh của từ bi luôn luôn được soi sáng bởi lý trí mà không phải là một sức mạnh mù quáng. Căm thù thì khó mà sáng suốt được; trong chúng ta ai cũng biết rằng giận mất khôn và mặn mất ngon.

Tình thương và sự cởi mở dễ chiếm được lòng người. Có trong lòng tình thương rồi, người văn nghệ sĩ Phật tử sẽ đạt được nghệ thuật làm rung động con người một cách dễ dàng. Họ sẽ không chửi mắng công kích một cách thô tục. Họ thực hành ái ngữ, nhiếp pháp thứ ba. Họ chỉ bình tĩnh trình bày sự thực, điều hơn lẽ phải với một ngòi bút ướt mực thương yêu và xót xa.

Cho nên đi vào cuộc đời, văn nghệ đạo Phật mang theo cảm thông, cởi mở và tình thương – tiêu chuẩn của người văn nghệ sĩ Phật tử là Tứ Nhiếp Pháp: Bố Thí, ái Ngữ, Lợi Hành và Đồng Sự.

Văn nghệ biểu hiện sinh hoạt hoặc tâm linh hoặc xã hội phải được thực hiện trong những hình thức khế cơ. Đại chúng hóa văn nghệ cũng là tuân theo nguyên tắc khế cơ của đạo Phật để văn nghệ có thể có tác dụng mạnh mẽ trong đa số quần chúng Việt Nam. Nhưng nói như vậy không có nghĩa là tất cả các văn nghệ sĩ phải làm nhất loạt như nhau: mỗi lĩnh vực cần có văn nghệ sĩ cho lĩnh vực ấy, tuy rằng đại chúng đòi hỏi sự có mặt của một số đông văn nghệ sĩ bên cạnh họ.

Cố nhiên người văn nghệ sĩ không nhất thiết cần phải viết những bài thuyết pháp, những mẩu chuyện thiện ác nghiệp báo mới được gọi là phục vụ cho lý tưởng đạo Phật. Người văn nghệ sĩ Phật tử có thể vẽ tranh hài hước, có thể viết tiểu thuyết trang trong các nhật báo, có thể soạn dân ca. . . và đề tài sẽ là đề tài lấy trong cuộc sống hàng ngày. Ngòi bút sẽ chẳng bao giờ hạ xuống để viết hay vẽ những gì khích động dục vọng thấp hèn. Ngòi bút sẽ ca ngợi tình thương yêu, sẽ gây ý thức cho quần chúng về những khổ đau hiện thực của cuộc đời, động viên quần chúng đứng dậy trong công cuộc cách mạng xã hội để cải tiến đời sống đang đầy dẫy khổ đau. Sức mạnh của lòng xót xa và tình thương yêu có thừa năng lực dựng quần chúng dậy trong một niềm tin vào tự lực của mình và vào ngày mai. Lòng xót xa ấy, tình yêu thương ấy và niềm tin tưởng ấy là những hoa trái tốt đẹp nhất mà người văn nghệ sĩ Phật tử có thể hiến tặng.

Tỉnh táo trong ý thức về Sự Thực Thứ Nhất, người văn nghệ sĩ Phật tử sẽ không thể không đứng trong hàng ngũ của chủ nghĩa chân hiện thực. Do đó, mà người văn nghệ sĩ Phật tử không xa lìa quần chúng. Và cũng nhờ thái độ khiêm cung cởi mở sẵn sàng học tập mà người văn nghệ sĩ Phật tử sẽ không như những con người tuy rằng đứng ngay trong môi trường sinh hoạt của quần chúng mà không thể nào hiểu được quần chúng, vì lẽ những cái vỏ cố chấp và cuồng tín đã khép họ lại thật chặt cho đến nỗi bất cứ sự xúc tiếp nào cũng trở thành vô hiệu.

Những văn nghệ sĩ nào đã đi thật sâu trong phạm vi sinh hoạt tôn giáo cũng cần chú trọng đến sự cải tiến nền lễ nhạc kiến trúc và mỹ thuật tôn giáo. Lễ nhạc, kiến trúc và mỹ thuật tôn giáo cần biểu lộ tinh thần trí dũng của đạo Phật và công việc này còn có giá trị mười lần hơn những bài thuyết pháp hùng hồn. Nhìn một tượng Phật còn xấu hơn cả hình người, nhìn một ngôi chùa kiến trúc còn rườm rà vá víu hơn cả một cái rạp hát, nghe những bài nhạc và lời tụng còn chát chúa ồn ào hơn cả một bài hát thế gian, ai cũng có quyền nghi ngờ thực chất của đạo Phật. Người văn nghệ sĩ Phật tử chân chính sẽ phải có mặt ở mọi lĩnh vực sinh hoạt để mà chỉnh đốn lại mọi lệch lạc và đảm nhiệm lấy trách vụ nói lên bằng ngôn ngữ nghệ thuật của mình tiếng nói của đạo Phật trong cuộc đời.

 

III. TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC

Sự nghiệp trí thức của nhân loại là một sự khám phá liên tục về thực tại và trao truyền những kết quả khám phá ấy từ thế hệ này sang thế hệ khác. Thực tại đây là thực tại tâm linh cũng như thực tại vật lý và xã hội. Chân lý bất cứ khám phá được từ đâu cũng mang tính cách nhân bản và vì vậy có liên hệ mật thiết với chủ thể nhận thức của con người. Bởi vì chân lý vừa linh động vừa không có tính cách thuần túy khách quan cho nên vai trò của giáo dục không thể là vai trò của một cái máy truyền đạt kiến thức: vai trò của người giáo dục phải là vai trò của thực thể sinh động và tràn đầy ý thức.

Khi một nhà thám hiểm nổi danh trao truyền kinh nghiệm và kiến thức của mình cho một người sắp lao đầu vào cuộc thám hiểm đầu tiên trong đời người đó, thì nhà thám hiểm không nghĩ rằng mình đang làm một việc đáng được trả tiền thù lao. Động cơ giáo dục ở đây là tình thương, là sự lo sợ cho tính mạng người khác, là niềm thao thức muốn trao truyền kinh nghiệm và kiến thức linh động đang cần được trao truyền. Do đó khi nhìn một người học trò đem tiền học hàng tháng nạp cho một vị giáo sư, ta thấy có một cái gì bất nhẫn và tủi hổ, tuy rằng sự thật lặp đi lặp lại nhiều lần đã khiến cho cảm tưởng ấy lờn đi rất nhiều. Thà rằng người giáo sư đóng vai trò làm một cái máy truyền đạt kiến thức thì sự thù lao sỗ sàng như thế còn có thể chấp nhận được. Nhưng nếu tất cả các giáo sư trên trái đất này đều làm những cái máy truyền đạt kiến thức thì thật bất hạnh cho nhân loại: bởi vì những cái máy thì chỉ có thể truyền đạt được một phần nhỏ của kho tàng kiến thức nhân loại: đó là những mảnh kiến thức về khoa học, kỹ thuật – những mảnh kiến thức mà nếu đứng riêng thì sẽ đưa con người tới một nếp sống thực sự duy vật.

Sự truyền đạt những ý chết không phải là mục đích của giáo dục. Những ý chết không có ích lợi gì cho ai cả mà lại làm hại cho trí óc của lớp người đang phải chịu đựng để chuyên chở chúng. Trí óc của người ta không bao giờ là một cái hầm chứa những kiến thức khô chết. Nếu bắt nó phải làm công việc của một cái hầm chứa tức là chúng ta bức bách nó, dày vò nó, thống trị nó và như thế là tiêu hủy nó. Trong phạm vi giáo dục, kiến thức phải được trí óc tiếp nhận như những gì linh động để có thể được nẩy nở tươi tốt và biến thành chất liệu cho sự sống. Cho nên nhà giáo dục phải sống những gì mình dạy và dạy những gì mình sống. Người thu nhận giáo dục phải được trao truyền những kiến thức sống. Khi người giáo sư dạy những điều mà chính mình đã sống, đã cảm, đã chiêm nghiệm thì sức truyền cảm sẽ được tạo nên một cách dễ dàng và do đó người sinh viên sẽ tiếp nhận được những kiến thức và kinh nghiệm kia như là những chân lý linh hoạt mà không phải là những ý chết nữa. Trong đạo Phật, sự lặp đi lặp lại những công thức và cái biết chữ nghĩa bề ngoài được coi là những chướng ngại lớn lao trên con đường tu học. Người Phật tử phải coi trọng thực chứng, thực nghiệm. Trong các học phái Duy Thức, Bát Nhã, và nhất là trong học phái Thiền, thứ kiến thức khô chết luôn luôn bị đả phá, lên án. Uy quyền của một thiền sư không là ở chỗ học rộng nghe nhiều mà là ở chỗ thực chứng. Trong số các môn đệ của đức Phật, không ai nghe nhiều nhớ nhiều bằng A Nan tôn giả, những địa vị của A Nan đối với các vị khác như Ca Diếp, Xá Lợi Phất v.v . . . còn thấp kém xa bởi vì trình độ thực chứng của A Nan trong sinh thời của Phật còn chưa có gì đáng kể. Dù là thực chứng tâm linh hay thực chứng chân lý của cuộc đời, tính cách thực chứng của giáo dục phải được xem như là căn bản của một nền giáo dục tốt đẹp và hữu hiệu. Khi mà tôi đã từng ăn trái sầu riêng, đã biết hương vị trái sầu riêng rồi thì tôi mới diễn tả được trái sầu riêng cho người khác được. Cái đó chính là thực chứng. Những gì ta không thực chứng thì ta không thể diễn tả linh động được. Trong mọi lĩnh vực văn học, triết học, xã hội, những cái biết thực chứng thật là cần thiết cho giáo dục. Sở dĩ ta chỉ tiếp nhận và truyền đạt những kiến thức khô chết là vì ta không sống, không suy tư, không thấy được những liên hệ giữa các kiến thức ấy với đời sống tâm lý, sinh lý và xã hội của ta.

Uy quyền của nhà giáo không phải được quy định bởi những điều lệ của một học đường mà chính là ở nơi tính cách thực chứng của các kiến thức. Khi mà một thầy giáo không tỏ vẻ trân trọng và sốt sắng trong sự trao truyền kiến thức – cố nhiên là kiến thức thực chứng – mà chỉ vụ làm cho xong công việc dạy giờ ăn tiền của mình thì chính thầy giáo đã tự mình đánh mất uy quyền của mình. Những thầy giáo đó có thể ví với một ông thợ vẽ, thay vì một họa sĩ. Họa sĩ trong khi vẽ đem hết tâm hồn mình để vẽ, trong khi ông thợ vẽ chỉ cần chút kỹ thuật khéo léo của mình thôi.

Giáo dục mới thường tự hào là để cho trẻ em tự do phát triển khả năng mình bằng cách thầy giáo chỉ đóng vai trò hướng dẫn, giúp đỡ. Một ít nước Tây phương, nhất là nước Mỹ, đã đi quá đà trên chủ trương này. Uy quyền của giáo sư bị đánh đổ và học sinh trở thành thần tượng trong phạm vi giáo dục. Thầy giáo, trong quan niệm giáo dục này, không có quyền chi phối học sinh bằng quan điểm và nhận thức của mình. Người học trò rất ý thức điều đó, cho nên chỉ trong phạm vi khoa học và kỹ thuật mới chịu cúi đầu khuất phục. Còn những nhận thức khác, dù đã từng được mua bằng kinh nghiệm của cả một cuộc đời, cũng không được tiếp nhận đúng với tầm quan trọng của chúng. Cho nên một nền giáo dục thực chứng sẽ mang lại sinh khí và hiệu quả tốt đẹp cho sự trao truyền kiến thức đồng thời tái lập uy quyền của nhà giáo, uy quyền đã được tạo dựng bởi chính sự thực chứng chứ không phải bởi một quan niệm phong kiến độc tài. Thực chứng bao giờ cũng tôn trọng thực chứng từ người giảng dạy với sự phát triển kiến thức thực chứng cho nên sự tiếp nhận kiến thức thực chứng nơi người sinh viên sẽ không thể có mâu thuẫn và hỗ tương chướng ngại.

Thực chứng là hoa trái của dòng sinh hoạt kinh nghiệm vì vậy luôn luôn có một giá trị thực dụng và nhân bản. Sở dĩ tất cả những gì được thực chứng trong địa vực tâm linh, cũng như trong mọi địa vực khác của sinh hoạt con người, đều mang tính chất thực dụng và nhân bản là vì các kiến thức và kinh nghiệm kia đều được rút ra từ sinh hoạt con người mà không phải là từ những giả định hoặc những tín ngưỡng siêu hình.

Con người hay làm khổ nhau vì không chịu đứng trên miếng đất thực nghiệm, vì cứ muốn chụp vào đầu kẻ khác những giả định hoặc tín ngưỡng siêu hình của mình. Thái độ đó dễ đưa đến cuồng tín và độc tài Một nền giáo dục biết đặt đúng vị trí của giả thiết và siêu hình, một nền giáo dục căn cứ trên thực chứng thực nghiệm sẽ khiến cho kho tàng hến thức sinh động của con người được truyền đạt vĩnh cửu và phát triển thêm mãi để phục vụ cho con người. Tính cách nhân bản được nhận thấy rõ ràng trong một nền giáo dục như thế, bởi vì chỉ có con người và kiến thức thực chứng của con người trong địa hạt tâm linh, vật lý và xã hội mới là nguồn gốc và cứu cánh cho sự sống của con người, chứ không phải là thần linh hay hệ thống sản xuất kinh tế. Tính cách thực chứng của giáo dục do đó bao gồm tính chất sinh động nhân bản, thực dụng và phi siêu hình.

Đặc điểm thứ hai của một nền giáo dục theo quan điểm Phật giáo là tính cách phá chấp. Tính cách này thật là yếu tố căn bản cho phương pháp nhận thức Phật học. Chấp có nghĩa là ôm chặt, kẹt vào,vướng vào, làm nô lệ cho những gì mình thờ lạy như chân lý tuyệt đối và nhất định không chịu mở rộng nhận thức để đón nhận những hiến dâng của kinh nghiệm mới cũng như của sự trao đổi quan điểm với kẻ khác. Cố chấp tức là tự mãn, tự túc, tức làm chấm dứt sự tìm kiếm học hỏi, tức là tự giam mình trong một cái vỏ cứng chủ quan nhỏ bé. Phương pháp Thiền học chú trọng nhiều nhất đến sự phá chấp; những người nhiều cố chấp nhất theo đạo Phật, là những người khó đạt đạo nhất. Cố chấp thì sẽ không còn khiêm cung, không còn khách quan, không còn cơ hội để xúc tiếp với sự thực. Cố chấp thường đưa đến cuồng tín, cuồng tín nơi đức tin cũng như nơi chủ nghĩa. Cố chấp tức là tự mình đánh mất tự do rộng lớn của mình, cái tự do của người đang được bơi lội thỏa thích trong biển thực nghiệm chân lý. Cố chấp cũng đưa tới khuynh hướng tước đoạt tự đo ấy nơi những kẻ khác. Trong mười năm qua, ở xứ ta miền Nam cũng như miền Bắc, con người Việt Nam đã bị nhồi sọ một cách sỗ sàng trong địa vực tuyên truyền và giáo dục. Chứng liệu nằm sờ sờ ra đó, sẵn sàng để cho lịch sử phê phán. Hãy nói chuyện với các bạn trẻ vừa bước qua ngưỡng cửa Tú tài ta sẽ thấy một phần đáng kể là nạn nhân cho sự nhồi sọ. Họ là những chứng liệu linh động cho sự vi phạm tự do của con người phát sinh từ cố chấp và cuồng tín. Một nền học vấn giúp cho con người thái độ phá chấp sẽ bảo tồn được tự do, được sự thao thức thường xuyên trong bước đường học hỏi sẽ tạo được niềm thông cảm rộng lớn giữa người với người, sẽ tiêu diệt mầm mống của tự hào và chia rẽ. Một nền học vấn phá chấp sẽ giúp điều kiện thuận lợi nhất để cho con người thiết lập những cuộc đối thoại chân thật rất cần thiết cho sự hiểu nhau, thương nhau để đoàn kết xây dựng. Thái độ phá chấp sẽ tự nhiên đưa đến kết quả điều hợp các quan điểm và nhận thức để tạo nên nhận thức tổng hợp. Khai phóng, nếu chỉ được hiểu theo nghĩa mở cửa để thâu hóa văn hóa quốc tế thì phạm vi vẫn còn nhỏ hẹp. Học hỏi phải là một quá trình nhận thức trong đó những kiến thức và kinh nghiệm mới được thường xuyên đón nhận để hoặc chỉnh lý hoặc bổ túc hoặc thay thế cho những kiến thức và kinh nghiệm trước còn thô sơ hơn và non yếu hơn. Nhờ có tinh thần cởi mở, nhờ có niềm thao thức của con người biết rằng mình đang đi trên con đường tìm sự thực chứ chưa phải đã giữ độc quyền về sự thực mà con người mở rộng được cánh cửa nhận thức phía trước mình. Điều kiện của tiến bộ là ở đấy, mà điều kiện của tự do, của cảm thông, của điều hợp và đoàn kết cũng là ở đấy.

Đặc điểm thứ ba của một nền giáo dục theo quan điểm Phật giáo là tính cách khế cơ. Giáo dục phải là để phục vụ cho con người, vì vậy phải kết hợp với điều kiện và tình trạng của con người. Khế cơ như vậy có nghĩa là thực tế, hữu hiệu, và cũng do đó mà nền giáo dục sẽ phải có tính cách dân tộc. Dân tộc tính nơi con người và nơi xã hội Việt Nam là một cái gì hiện thực không thể không chú ý đến, nếu nền giáo dục không muốn thất bại. Đề cao tính cách dân tộc không phải là đề cao một cái ngã, nuôi dưỡng tự hào tự phụ, mà là để nhắc nhở rằng giáo dục luôn luôn phải là giáo dục cho ai và phải giáo dục như thế nào để có thể thích hợp. Truyền thống văn hóa Việt Năm đã nuôi dưỡng người Việt Nam, và do đó một nền giáo dục và bản chất phản lại với nếp truyền thống đó sẽ dễ dàng chuốc lấy thất bại. Cố nhiên không phải truyền thống nào của Việt Nam cũng là tốt đẹp. Nói đến dân tộc tính Việt Nam là nói đến những gì có thể làm rung động được trái tim Việt Nam, là nói đến tình cảm tốt đẹp đã nuôi dưỡng người Việt và tạo nên được đồng nhất tính của dân tộc. Ý niệm khế cơ tuy bao gồm ý niệm khế dân tộc tính, nhưng rộng rãi hơn nhiều. Giáo dục cần được đặt trên cơ sở nhận thức về bốn sự thực, và bởi vì giáo dục trước tiên phải nhắm đến hướng thực dụng – thực dụng hiểu theo nghĩa rộng – nên đường hướng của nó phải được soi sáng bằng thực trạng con người và xã hội. Chênh lệch xã hội, cơ cực lầm than, tật bệnh, chiến tranh, du đãng, phạm pháp, cuồng tín, độc tài. . . . tất cả những sự thực ấy của xã hội cần được nghiên cứu một cách chính xác và với tất cả sự tỉnh thức để nền giáo dục của chúng ta có thể khế cơ một cách đích thực.

Nếu quả một nền giáo dục có thể có thể lay tỉnh được con người Việt Nam tới sự nhận thức thấm thiết về những thảm trạng đó của xã hội và con người thì bản chất của giáo dục cũng bao hàm lòng xót thương và ý chí phụng sự. Học hành mà chỉ để giật lấy một mảnh bằng và kiếm cho mình một địa vị trong lòng xã hội để phó mặc các vấn đề của cuộc đời cho kẻ khác thì quả thực đó là một thứ giáo dục phản bội. Người Việt Nam không nên tự mình sa vào vũng lầy đó. Nếu đã sa vào thì phải vùng vẫy với tất cả sức lực mình để thoát ra. Không thể học đòi bắt chước các nước khác. Người Phật tử biết giác ngộ điều đó nên liên kết lại và dùng tất cả mọi biện pháp để xoay giáo dục về hướng khế cơ và thực dụng.

Giáo dục phải là một phương tiện cải tạo sự sống, lấp bằng những hố bất công chia rẽ, bồi đắp tình thương và tinh thần liên đới trách nhiệm về những khổ đau của dân tộc.

Trong Giáo Hội, phải có cả một Tổng vụ giáo dục chuyên môn lo về tất cả những công trình đóng góp của Giáo Hội về phương diện giáo dục, Tổng vụ phải phổ biến một lý thuyết giáo dục, một kế hoạch giáo dục trong viễn tượng cải thiện nếp sống xã hội, tạo nên một cuộc cách mạng thực sự trong lĩnh vực giáo dục, một cuộc cách mạng thực chứng, phá chấp và khế cơ.

Giáo dục thôn ấp hiện giờ phải được xem như là công tác lớn lao nhất để cải thiện đời sống nghèo khổ tật bệnh của dân quê. Để thực hiện tính cách khế cơ, chương trình giáo dục bậc tiểu học nhất định là phải được cải thiện để được đơn giản hơn và thực dụng hơn. Song song với giáo dục trẻ em trong thôn ấp phải có giáo dục căn bản cho tráng niên để giáo dục thôn ấp có thể đóng vai trò xây dựng thôn ấp một cách thiết thực.

Nền giáo dục thôn ấp phải nhắm đến đối tượng thiết thực nhất tức là những vấn đề liên hệ đến sự sống của con người trong thôn ấp. Địa lý và lịch sử trước hết phải là địa lý và lịch sử của địa phương. Thảo mộc, thú vật, bệnh tật và kinh tế trước hết phải là thảo mộc, thú vật, bệnh tật và kinh tế của địa phương. Tìm hiểu rõ rệt những gì ở các tỉnh và các nước xa trong khi mù tịt về thực trạng của địa phương mình tức là làm uổng phí thì giờ, tức là thiếu tinh thần khế cơ và thực dụng. Ta nên xét qua về ý niệm giáo dục căn bản. Ở các nước mà mức sống đã cao, người ta đòi hỏi một con người phải có những kiến thức căn bản khá rộng rãi để có thể xứng đáng là người. Nhà giáo dục John Daniel Wild nói: “Có một số kiến thức căn bản mà mỗi con người phải đạt tới nếu muốn sống một đời sống cho ra người trong gia đình, trong quốc gia và trong nhân loại…”. Rồi ông kể ra: a/ ngôn ngữ, tức là khí cụ của tri thức, nhất là tiếng mẹ đẻ, phương pháp suy luận và toán học sơ đẳng; b/ phương pháp của vật lý, hóa học, sinh vật học và những thực hiện căn bản mà các khoa học ấy đã khám phá ra được; c/ sử học và nhân văn; d/các tác văn chương giá trị nhất trong nước, văn học thế giới và nghệ thuật; đ/ triết học. Nếu ta đòi hỏi như thế trong trường hợp giáo dục nông thôn tức là ta tham lam quá và không biết khế cơ chút nào. Mục tiêu của giáo dục thôn ấp trong giai đoạn hiện tại, là làm cho trẻ con và dân làng hiểu biết và yêu mến địa phương họ, giúp cho họ có khái niệm căn bản về các vấn đề sinh hoạt xã hội để họ có thể tự cải thiện và nâng cao đời sống của họ. Và như thế thì kiến thức về y tế và kinh tế là những kiến thức quan trọng nhất.

Cố nhiên con người cần đạt tới nhiều loại kiến thức; nhưng nếu nhìn vào thực trạng sinh hoạt thôn xóm hiện nay, ta thấy không thể không tập trung giáo dục vào một số các chủ điểm quan trọng nhất. Giáo dục nông thôn phải cung cấp cho người nông thôn khả năng tiếp nhận văn hóa – nghĩa là thanh toán nạn mù chữ – trao truyền một cách cẩn thận những kiến thức thực tiễn về y tế, vệ sinh, canh nông, kỹ thuật canh tác mới, hợp tác xã sản xuất và tiêu thụ v.v. . . Ngoài ra còn phải bài trừ óc bảo thủ, mê tín, bài trừ cờ bạc rượu chè và củng cố nền tảng gia đình. Một trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội của Giáo Hội cần được tổ chức ngay để đào tạo những thanh niên và thanh nữ thiện chí đi về nông thôn và bằng kiến thức và lý tưởng của họ, thổi vào một luồng sinh khí mới cho sinh hoạt thôn ấp. Tình thương và ý thức mới sẽ giúp họ từ công tác giáo dục nông thôn đi đến sự thực hiện một cuộc cách mạng xã hội đích thực.

Những con số thống kê cho biết là bốn mươi phần trăm trẻ em đến tuổi mà không được vào trường, và năm mươi phần trăm trẻ em vào trường chỉ học được nửa chừng, nghĩa là vào khoảng lớp ba, rồi bỏ học vì những điều kiện sinh hoạt gia đình và kinh tế. Các nhà giáo dục đều đồng ý rằng cái học nửa vời như thế không có hiệu lực. Hiệu lực của giáo dục phải được xây dựng ít nhất là bằng năm năm tiểu học mới được lâu dài. Như vậy, bổ túc cái học thiếu sót cho những trẻ em chưa học hết tiểu học, thanh toán nạn mù chữ cho tráng niên và thực hiện giáo dục căn bản cho mọi người là những việc to lớn phải làm song song với việc cung cấp giáo dục cho hằng triệu trẻ em đến tuổi chưa được vào trường và việc khế cơ hóa chương trình tiểu học. Giáo Hội Phật Giáo có thể đóng góp rất nhiều vào các công việc này bởi vì số thanh niên thanh nữ Phật tử tình nguyện phục vụ cho chương trình sẽ không phải là ít nếu chương trình được thực hiện hợp lý và cung cấp cho những người thanh niên thiện chí những điều kiện sinh hoạt vật chất tối thiểu. Ngân sách quốc gia và viện trợ văn hóa của các nước sẽ cần ủng hộ cho chương trình.

Ở các thành phố lớn, vấn đề thiếu nhi phạm pháp và thanh niên du đãng đã trở nên một trong những vấn đề lớn lao của giáo dục. Nguyên do của hiện tượng phải được tìm ở gia đình, ở những điều kiện sinh hoạt thiếu thốn, ở tiểu thuyết, phim ảnh, ở sự chán nản và ở chiến tranh liên miên từ hai mươi năm nay. Bà Odette Philipin trong cuốn La jeunesse coupable vous accuse (1950) cho biết rằng 81,88 phần trăm các trường hợp thiếu nhi phạm pháp có nguyên nhân từ gia đình. Đó là những gia đình không bình thường, hoặc thiếu cha mẹ, hoặc thiếu tình thương, hoặc thiếu giáo dục. Trong xứ ta, Giáo Hội Phật giáo có thể đóng góp nhiều cho sự xây dựng cơ sở gia đình và giáo dục gia đình nếu số lượng những nhà tu tiếp hiện trở thành đáng kể. Giáo Hội phải chú trọng về việc cung cấp tài liệu giáo dục gia đình, không phải chỉ là những cuốn sách khô khan nói về giáo lý mà những cuốn sách đề cập tới mọi khía cạnh sinh hoạt của gia đình như vấn đề giáo dục con cái, vấn đề sinh hoạt tôn giáo, vấn đề tổ chức ngân quỹ gia đình, vấn đề bảo tồn hạnh phúc gia đình. Tổ chức Gia đình Phật tử phải được nâng đỡ và có tự do để có thể tự phát triển và lan rộng thêm mãi, nhất là ở thôn quê các tỉnh miền nam. Biện pháp hay nhất để bài trừ nạn du đãng và phạm pháp không phải là biện pháp trừng trị mà là biện pháp ngăn ngừa. Ngăn ngừa bằng cách làm cho thanh thiếu niên say mê lý tưởng. Trong rất nhiều trường hợp, người thanh thiếu niên trở thành du đãng và phạm pháp là vì chán nản, thiếu lý tưởng, thiếu tin tưởng, không thấy được một cái gì hay đẹp để mà tôn thờ, phụng sự. Lý tưởng đồng sự và lợi hành của đạo Phật là một lý tưởng đẹp: Giáo Hội cần phải khai thị cho người thanh niên thời đại để cho họ có thể tìm thấy ở đấy một đời sống biết thương yêu biết phụng sự. Phải chứng minh bằng thực tế rằng đạo Phật không phải chỉ là một nền tín ngưỡng. Tín ngưỡng chỉ là một phương tiện của đạo Phật. Đạo Phật là một lý tưởng phụng sự căn cứ trên trí tuệ phá chấp và trên tình thương lợi hành. Những trường Thanh Niên Phụng Sự Hội vì thế cần được tạo dựng gấp để đào tạo thanh thiếu niên thành những con người biết phụng sự lý tưởng Bồ tát.

Về phương diện học đường, Phật giáo nên lập thêm nhiều trường tiểu học và trung học nữa để một mặt góp sức với chính quyền trong việc giáo dục, một mặt thực hiện tinh thần thực chứng, phá chấp và khế cơ. Rất không nên nghĩ rằng lập trường học là để mà giữ người, để mà có thêm tín đồ, hoặc để mà huấn luyện cho trẻ em sau này trở thành Phật tử trung kiên sùng đạo. Tinh thần thực chứng, phá chấp và khế cơ của nền giáo dục mới sẽ tạo nên những Phật tử trong bản chất – Đạo Phật không thấy sự cần thiết của một số lượng Phật tử hình thức. Thiển nghĩ trong các học đường của Phật giáo chủ trương rất không nên tuyên truyền cho đạo Phật. Không cần đọc kinh hay niệm Phật trước giờ học, cũng không cần giờ giáo lý hàng tuần. Bắt học sinh đọc kinh hay niệm Phật trước giờ học và học giờ giáo lý hàng tuần, theo thiển ý, không có lợi gì cả mà chỉ thêm mang tiếng là nhồi sọ giáo lý cho trẻ em. Các em có thể tới chùa để học lớp giáo lý chủ nhật, hay có thể gia nhập Gia đình Phật tử để học chương trình Phật pháp do các huynh trưởng dạy. Ý kiến bỏ lệ đọc kinh và giờ giáo lý tại các trường có thế bị một số đông Phật tử cho là sai lạc, nhưng trong tương lai sẽ được chấp nhận. Chúng tôi biết thế, bởi vì điều đó phù hợp với tinh thần tự do và dân chủ. Mà đạo Phật thì bao giờ cũng sẵn sàng chấp nhận tinh thần đó.

Hiện nay có rất nhiều trường tiểu học và Trung Học Bồ Đề tại các tỉnh. Số lượng cần tăng thêm gấp mấy mươi lần. Tuy nhiên, sự hiện diện của những trường Bồ Đề không hẳn là sự hiện diện của nền Giáo dục Phật giáo, dù tại trường Bồ Đề có giờ giáo lý đi nữa. Tổ chức của các trường Bồ Đề phải nói lên được một cái gì độc đáo của tinh thần đạo Phật và giáo sư Bồ Đề trước hết phải được thấm nhuần tinh thần đạo Phật và nắm vững phương pháp giáo dục Phật giáo. Hiện trạng các trường Bồ Đề trong toàn quốc không cho phép chúng ta lạc quan. Do đó những chứng chỉ sư phạm Phật giáo mở tại Viện Cao Đẳng Phật Học cần được tổ chức ngay để cung cấp giáo sư cho các trường Bồ Đề.

Những trường Bồ Đề và những gia đình Phật tử cần gửi mỗi năm một số giáo sư và huynh trưởng về để ghi tên học các chứng chỉ ấy, trong khi chờ đợi có một trường Sư Phạm do Giáo hội chủ trương. Có như thế các trường Bồ Đề mới có được bản chất của Bồ Đề và mới có được lý do để tồn tại. Các trường Đại học và Cao Đẳng Phật học cần chú trọng đến sự tinh luyện và bồi đắp ý thức hệ mới của đạo Phật và nắm lấy vai trò hướng dẫn sự thực hiện nền văn hóa Phật giáo. Những đặc tính của nền giáo dục Phật giáo như thực chứng, phá chấp và khế cơ cần được biểu lộ rõ rệt tại các cơ sở giáo dục cao đẳng ấy để làm mẫu mực cho các ngành giáo dục khác của Giáo hội. Cuối cùng, vấn đề giáo dục có liên hệ đến vấn đề kinh tế. Tuy vậy ta phải phân biệt ranh giới giữa giáo dục và công tác từ thiện. Giáo dục tự nó cũng là một hành động phụng sự và do đó phải giữ được tính chất, lập trường và giá trị của nó. Do đó xem giáo dục như một công tác từ thiện, ta có thế vô tình làm mất hiệu lực của giáo dục. Một ngôi trường mở ra để dạy miễn phí cho học trò nghèo mà không chú trọng đến đường lối kỹ thuật giáo dục thì chỉ có thể làm thỏa mãn ý niệm từ thiện nhưng lại phản bội sứ mạng giáo dục vậy.

 

IV TRONG LĨNH VỰC KINH TẾ VÀ XÃ HỘI

Ý niệm về quyền tư hữu cần được tìm hiểu trước nhất nếu ta muốn biết quan điểm Phật giáo về vấn đề kinh tế. Do hành động (karma) của mình mà con người tạo cho mình một chính báo và một y báo. Chính báo là thân thể, sức khoẻ, kiến thức và tình cảm, nói tóm lại là tâm sinh lý của mình. Còn y báo là những điều kiện xã hội trong đó mình đang sống, kể cả đất nước, không khí, gia đình, bè bạn, chính thể, tài sản v v của mình. Cơn người toàn diện là kết quả của tất cả các nghiệp nhân do chính con người tạo ra (cũng giống như Sartre nói rằng l’homme est la somme de ses actes). Vậy thì con người chịu trách nhiệm về cả hai phần chính báo và y báo của mình, và do đó được hưởng quyền tư hữu về sức khỏe, kiến thức và tài sản của mình.

Tuy nhiên, ý niệm về nghiệp báo (nghĩa thực của hai chữ nghiệp báo là những hoa trái của hành động mình) phải được soi sáng bằng ý niệm biệt nghiệp và cộng nghiệp (karma individuel và karma collectif). Nguyên lý nhân duyên sinh trong đạo Phật không cho phép ta tách rời một hiện tượng ra khỏi những hiện tượng khác trong khi tìm hiểu chân tướng của hiện tượng kia, vì vậy hiện tượng một nghiệp báo bao giờ cũng cần được đặt trong liên hệ nhân duyên của nó với những hiện tượng khác. Cơn người sống trong xã hội không thể chỉ nghĩ đến mình: luân lý đạo Phật dạy con người nghĩ đến những kẻ khác. Những cơ cực lầm than của những kẻ khác không thể không có liên hệ nhân duyên với bản thân mình: trong ý thức ấy, quyền tư hữu theo quan niệm đạo Phật không thể nào tuyệt đối được. Nếu người Phật tử công nhận luật nghiệp báo cộng đồng (cộng nghiệp) tức là người Phật tử thấy được trách nhiệm của mình đối với những khổ đau cơ cực của kẻ khác. Thêm vào đó, ý thức Sự Thực Thứ Nhất nhắc nhở người Phật tử đừng bao giờ quên đi những khổ đau cơ cực ấy của kiếp người. Vậy thì không có lý do gì mà người Phật tử có thể sống an lành trong sự lãng quên và trong sự hưởng thụ vô tư những chính báo và y báo của mình. Người Phật tử, nói một cách khác hơn, có quyền làm giàu nhưng đồng thời không có quyền lãng quên những cơ cực của kẻ nghèo. Nói như thế không có nghĩa là người Phật tử chỉ cần bỏ ra một ít của cải giúp người nghèo để có thể an tâm hưởng thụ những gì mình có mà không sợ lương tâm cắn rứt. Nói như thế chỉ để nêu rõ rằng quyền tư hữu không thể là một thứ quyền tuyệt đối, thế thôi. Đem của cải mình để bố thí cho kẻ khác chưa hẳn là một hành động luân lý, nhất là trong trường hợp mua lấy sự an tâm hưởng thụ. Làm thế nào để có thể đóng góp phần mình vào công cuộc xây dựng công bình xã hội, bằng tình nguyện, bằng sự xót xa, bằng tình thương yêu, đó là vấn đề đặt ra cho người Phật tử, giàu cũng như nghèo. Và như thế, không phải là chỉ người giàu mới có thể đóng góp.

Đạo Phật không bao giờ có thể chấp nhận được những giải pháp độc tài bắt buộc. Nhưng đạo Phật cần phải tìm đủ mọi cách thuần từ để giác ngộ những con người chỉ biết đến mình, biết đến quyền lợi mình mà quên lãng những khổ đau cơ cực của sự sống. Phải khai thị Sự Thực Thứ Nhất cho họ, để đánh thức tình thương và lòng xót xa nơi họ. Những người vô tình nhất và ích kỷ nhất cũng có một trái tim. Sự đe dọa lắm khi không lay chuyển được họ nhưng đạo đức chân thực, tình thương, sự hy sinh, ái ngữ và sự kiên nhẫn sẽ làm họ rung động. Trước một phong trào xã hội lớn mạnh khơi mở bằng tình thương, bằng tự nguyện, dìu dắt bởi những người biết sống khổ hạnh và biết hy sinh thì không ai sẽ có thể trơ như đá vững như đồng được, nhất là khi mà mọi khả năng văn học, nghệ thuật và giáo dục đều hướng về sự khai thị Chân Lý Thứ Nhất. Dù trong lĩnh vực phát triển kinh tế hay tái phân lợi tức, người Phật tử cũng phải hành động trên căn bản tự nguyện. Mà tự nguyện là một hình thái của tự do. Một kế hoạch phát triển kinh tế muốn được khế cơ, cần phải kêu gọi đến sự thắt lưngbuộc bụng của mọi người công dân. Nhận thức được tình trạng chậm tiến của kinh tế nước nhà, người dân cần tự nguyện hy sinh bớt sự tiêu thụ những sản phẩm không cần thiết lắm và tích cực tham dự vào các kế hoạch phát triển kinh tế mà mình đã chấp nhận là cần áp dụng để có thể thực hiện được mau chóng sự giải phóng của dân tộc trên bình diện kinh tế.

Cố nhiên người Phật tử không thể chấp nhận được một nền kinh tế chỉ huy độc tài trong đó mình chỉ có giá trị như một công cụ sản xuất hay như một cái bánh xe răng cưa vô tri trong cái guồng máy kinh tế cũng vô tri vô giác. Người Phật tử có thể hy sinh, có thể thắt lưng bóp bụng, nhưng chỉ trên căn bản tự nguyện chân thành mà thôi. Tự nguyện là vì thấy rằng nếu không làm như thế thì không hy vọng gì giải phóng được cho dân tộc và cố nhiên người Phật tử cũng biết rằng trên tinh thần khế cơ, một chế độ kinh tế tư bản tự do không thể nào được áp dụng trong một xã hội như xã hội Việt Nam bây giờ, bởi vì một chế độ như thế chỉ có thể càng lúc càng đào sâu cái hố giữa người giàu và người nghèo để rồi khiến cho những bất công xã hội càng ngày càng trở nên trầm trọng.

Kinh tế phải phục vụ cho con người, vì thế dù có thi hành phương pháp hạn chế, cố gắng, con người vẫn phải luôn luôn ý thức rằng tất cả những hạn chế và cố gắng ấy đều do tự nguyện. Một nền kinh tế theo quan niệm Phật giáo là một nền kinh tế tự nguyện. Bất cứ một kế hoạch kinh tế nào cũng chỉ được thực hiện khi quần chúng tham dự đông đảo. Trong một chính thể thực sự có tự do, không có sự bắt buộc quần chúng phải theo, mà chỉ có thể có sự tự nguyện tham dự vì lý tưởng. Chính ở điểm này mà ta thấy rằng trong viễn tượng giải phóng dân tộc về phương diện kinh tế đạo Phật có thể đóng góp rất nhiều. Ta đã không chấp nhận được sự độc tài thì ta chỉ còn có thể tạo được sức mạnh bằng chất liệu lý tưởng. Giáo Hội Phật Giáo gồm có một quần chúng đông đảo có thể là động lực chính yếu để hưởng ứng tham dự và thực hiện những kế hoạch kinh tế nào mà Giáo hội nhận định là phù hợp với tinh thần đạo Phật. Trong tình trạng phân tán của xã hội Việt Nam hiện tại, một chính phủ dù tài giỏi bao nhiêu cũng phải cần đến sự ủng hộ của các tôn giáo. Vì vậy nói rằng tôn giáo phải rút lui vào địa vực thuần túy tôn giáo mình tức là nói một điều vô nghĩa. Vai trò và năng lực đóng góp của các tôn giáo lớn tại Việt Nam là một yếu tố quyết định sự thành bại của công cuộc cách mạng xã hội tại Việt Nam.

Đối với đạo Phật, không có cái gì có thể được gọi là địa vực thuần túy tôn giáo. Nếu nghĩ rằng địa vực thuần túy tôn giáo là sự cúng lễ, sám hối và tụng kinh tức là không hiểu gì hết về đạo Phật. Đạo Phật mà rút vào cái vỏ ốc ấy thì không còn là đạo Phật nữa mà chỉ còn là một hình thức lễ bái. Công việc hiện là công việc chung: nhà chính trị phải ngồi lại với nhà lãnh đạo tôn giáo để đàm luận, để thiết lập kế hoạch xây dựng, để thấy rằng mình không thể thành công nếu không có sự tham dự xây dựng của các tôn giáo và cũng để tìm biết các tôn giáo có thể và phải đóng góp những gì với tư cách tôn giáo của mình.

Các tôn giáo, trong hiện tình của đất nước, là yếu tố duy trì và bồi đắp xã hội tính của dân tộc. Mọi kế hoạch nếu đã không thể thực hiện bằng sự ép bức độc tài thì chỉ có thể thực hiện bằng một sự đoàn kết. Mà chất liệu của sự đoàn kết ấy trong trường hợp chúng ta hiện nay là lý tưởng tôn giáo. Cho nên một sự phân công hợp tác giữa nhà chính trị và nhà tôn giáo không chỉ là một sự hợp lý mà còn là một sự tất yếu. Trong mục đích phụng sự dân tộc và nhân loại và trên nhận thức thực nghiệm về những dữ kiện xã hội, các tôn giáo sẽ dễ dàng thực hiện được vấn đề phân công hợp tác với nhau và với chính quyền. Tôn giáo sẽ phải gánh vác những gì mà chính quyền không đủ sức gánh vác, bởi vì quyền bính không phải là một chiếc đũa phép vạn năng mà ai có nó trong tay thì có thể thực hiện được bất cứ điều gì mình mơ ước. Có thể nói rằng trong hiện tình đất nước không có sự đóng góp của các tôn giáo thì chính quyền cũng không thể làm được gì đáng kể.

Để bênh vực cho nền kinh tế tư bản, người ta thường nói rằng nếu không có tự do kinh doanh thì không thể có sự hăng say trong công việc sinh lợi, đầu tư, sản xuất, và vì vậy, tư lợi là yếu tố kích thích khả năng và ý chí kinh tế rất cần thiết cho một xã hội đương tiến bước trên đường phát triển kinh tế. Lẽ dĩ nhiên là ta không chấp nhận một nền kinh tế chỉ huy độc tài nhưng ta cũng phải công nhận rằng tư lợi trong khi kích thích ý chí kinh tế của con người cũng là nguồn gốc của tham vọng tàn ác và chia rẽ. Không phải độc tài và tham vọng là những sức mạnh duy nhất trên cuộc đời. Chúng ta phải nhớ rằng sức mạnh do tình thương và do lý tưởng tôn giáo cũng là những sức mạnh lay thành chuyển núi và chúng bám vào niềm tin đó mà con người còn có đủ ý chí đứng dậy đối phó với độc tài và tham vọng. Đạo Phật tin nơi khả năng tình thương và ý chí diệt khổ của con người. Người Phật tử phải cương quyết tố cáo những khổ đau, những bất công, cơ cực, lầm than của xã hội, tố cáo những trò dối gạt và mê hoặc lòng người, nói tóm lại, phải làm cho mình và mọi người có ý thức thâm thiết về Đệ Nhất Khổ Đế. Bằng giáo dục học đường, bằng văn học, nghệ thuật và bằng mọi phương tiện khác có thể có, Giáo hội khai thị cho mọi người thấy thực chất đau khổ của cuộc đời để làm phát sinh niềm xót xa thương cảm, ý chí và lý tưởng phụng sự. Tri túc vốn không phải là một giáo lý khuyến khích sự tự mãn tự nguyện với những gì ít ỏi mình có mà chính là một thái độ biểu lộ sự thao thức của mình đối với khổ đau chung của dân tộc và nhân loại. Chính vì thông cảm với nỗi khổ đau ấy mà người Phật tủ chân chính không an tâm thâu góp riêng cho mình những tài lợi những tiện nghi mà mình có thể có và có quyền thâu góp. Chính vì thông cảm với nỗi khổ đau ấy mà người Phật tử quên bớt mình đi và nghĩ đến người, cho rằng những điều kiện vật chất của mình đang có là có thể tạm đủ cho mình rồi, để mà có thì giờ tâm lực lo cho kẻ khác.

Chính nhờ tự nguyện tri túc như vậy mà người Phật tử có thể hạn chế được sự tiêu thụ những xa xí phẩm và có thể tình nguyện tham dự vào những kế hoạch cần đòi hỏi một ít hy sinh, một ít thắt lưng bóp bụng và một ít sự hạn chế hưởng thụ. Cho nên nói rằng tri túc làm tê liệt ý chí kinh tế là một điều lầm lớn. Có thêm vài mẫu ruộng để cày cấy, có thêm một tủ lạnh, có thêm một chiếc xe hơi, điều đó không có gì trái chống với giáo lý đạo Phật cả. Đạo Phật không bắt ai phải tri túc để cứ nghèo khổ mãi, cũng không cấm ai mua sắm những thức nói trên trừ khi phương tiện để đạt đến những thức ấy là những phương tiện bất chính. Đạo Phật chỉ nhắc rằng trong lúc người khác đang thiếu thốn cơ cực mà mình chỉ biết lo cho sự sung sướng riêng tư của mình thì là mình cố tình bịt mắt bịt tai trước Sự Thật Thứ Nhất. Tri túc do đó là tri túc cho mình để có thể hy sinh mà phụng sự cho người. Ý chí kinh tế nếu được nuôi dưỡng bằng tư lợi thì sẽ đưa đến những hậu quả không tốt đẹp về phương diện đạo đức luân lý. Biết bao nhiêu hợp tác xã đã thất bại – mà hợp tác xã chính là một phương tiện thần diệu để đạt tới những tiến bộ kinh tế – là vì dục vọng và óc tư lợi cá nhân. Nếu ý chí kinh tế mà được phát sinh và nuôi dưỡng bằng lòng xót thương và lý tưởng phụng sự chung thì sẽ tránh được những tệ hại đó. Và do đó cuộc cách mạng kinh tế cần được dẫn đầu bằng cả một cuộc cách mạng tư tưởng: tình thương và lý tưởng phải đến thay thế cho độc tài và óc tư lợi để dẫn đạo cho tiến bộ xã hội. Sự đoàn kết dài lâu sẽ dựa trên căn bản nhận thức thực nghiệm, trên lý tưởng, trên tình thương mà không phải dựa trên sự hỗ tương lợi dụng.

Đạo Phật dạy người Phật tử rằng vì tình thương, vì lý tưởng, con người có thể chấp nhận được sự gian khổ, và do đó với tinh thần tự nguyện người Phật tử có thể chấp nhận những kế hoạch đòi hỏi ở mình một ít hy sinh và khổ hạnh. Cũng như cậu học trò phải biết tự khép vào những kỷ luật nào đó để có thể hoàn tất chương trình đèn sách, người Phật tử tự nguyện tham dự vào những kế hoạch phản chiếu được lý tưởng mình mà không có cảm giác rằng mình bị bắt buộc. Chỉ có với tâm trạng đó với thái độ đó chúng ta mới có thể vượt ra khỏi giai đoạn khó khăn này của lịch sử dân tộc mà thôi.

Chúng ta hãy thử xét lại vấn đề qua khía cạnh nhu yếu kinh tế. Ngày nhân loại còn trong buổi sơ khai, nhu yếu kinh tế chỉ là những gì hết sức đơn giản: ăn lấy no, mặc lấy ấm. Dần dần các nhu yếu ấy biến thành phiền tạp: ăn không những phải no mà còn phải ngon nữa, mặc không những phải ấm mà còn phải đẹp nữa. Và vì cái ngon và cái đẹp không biết tới đâu là hết giới hạn cho nên nhu yếu càng ngày càng tăng và sự cố gắng để thỏa mãn những nhu yếu ấy cũng tăng. Cái ngon và cái đẹp cũng tùy thuộc từng trường hợp. Những thức ăn sang trọng không chắc là những thức ăn ngon. Những chiếc áo sang trọng chưa phải là những chiếc áo đẹp. Một người có làm việc tay chân, có bộ máy tiêu hóa tốt thì ăn thức ăn đạm bạc cũng thấy ngon. Nếu không quan tâm đến những điều ấy mà cứ đi tìm sự thỏa mãn những nhu yếu cảm giác càng ngày càng phức tạp càng khó khăn thì ta sẽ tự tạo cho ta một sự thèm khát thường xuyên không bao giờ có thể thỏa mãn được. Dục vọng không có biên giới và cái khát khao của dục vọng không bao giờ được thỏa mãn cả. Kinh Phật nói rằng con người muốn được thỏa mãn yên ổn bằng dục vọng thì cũng giống như khát nước mà cứ tìm rượu uống, càng uống thì càng khát. Tiêu chuẩn tri túc có lẽ cần được đối chiếu với tiêu chuẩn bảo vệ sự sống: những nhu yếu căn bản của con người ít nhất phải thiết lập trên căn bản những gì bảo đảm được sức khỏe và sự an lạc của con người, về thân thể cũng như về tinh thần ăn thế nào, mặc thế nào để giữ gìn được sức khỏe của thân thể và của tâm hồn, đó là tiêu chuẩn quy định những nhu yếu căn bản.

Ta có thể nói chắc rằng những nhu yếu căn bản này là những nhu yếu chính đáng và tất yếu. Còn những nhu yếu tới sau các nhu yếu căn bản ấy có chính đáng hay không, đó là tùy theo trường hợp. Những sản phẩm kinh tế nào giúp cho ta bớt được sức lao động nặng nhọc, cung cấp cho ta thêm tiện nghi, sung sướng mà không tập cho ta tính lười biếng, ỷ lại, không tàn phá sức khỏe và sự an lạc của tâm hồn ta thì ta cũng có thể gọi đó là những nhu yếu chính đáng. Trong tinh thần tri túc, cố nhiên người Phật tử có thể hạn chế bớt sự tiêu thụ những sản phẩm nhằm thỏa mãn những nhu yếu tới sau các nhu yếu căn bản (và hạn chế như thế để mà có thể có thêm điều kiện tham dự vào kế hoạch phát triển kinh tế chung), nhưng người Phật tử cũng cương quyết bài trừ những sản phẩm tập cho mình tính lười biếng, ỷ lại và tàn phá sức khỏe tinh thần cũng như thể chất của mình.

Thuốc phiện, rượu mạnh, phim ảnh sách báo âm nhạc khiêu dâm chẳng hạn, là những sản phẩm thuộc loại tàn phá sức khỏe tinh thần và vật chất. Một xã hội muốn tiến tới trên con đường thực hiện công bình xã hội như xã hội ta phải cương quyết tạo cho mình một sức khỏe tinh thần và vật chất, những điều kiện khắc khổ tối thiểu để thực hiện một chương trình. Với sự ủng hộ triệt để của các tôn giáo, quốc hội có thể ban hành những đạo luật liên hệ đến sự sản xuất, nhập cảng và tiêu thụ tất cả những sản phẩm có công dụng tạo nên sự lười biếng và sự phá sản của sức khoẻ thể chất cũng như tinh thần. Một dân tộc trong lúc nguy vong muốn đứng dậy để tự cường phải biết tự mình đặt quy luật khổ hạnh cho mình, điều đó trong chúng ta không ai là không trông thấy. Không thể vừa muốn thực hiện những tiến bộ kinh tế vượt bực vừa muốn thỏa mãn những nhu yếu không chính đáng. Nhận thức được thực trạng khổ đau, ta không thể ngồi yên để cho những người cơ cực càng ngày càng xa cách với giới giàu có chỉ biết mỗi ngày mỗi tìm cách tăng thêm những nhu yếu mới để mà có những khoái lạc mới. Nghệ thuật quảng cáo đã đi sát với sự kinh doanh sản xuất, và trong rất nhiều trường hợp đã nhắm đến sự kích thích dục vọng, tạo ra những nhu yếu kinh tế mới càng ngày càng phiền tạp và ám ảnh được giới tiêu thụ. Quảng cáo đã quá lợi dụng phần dục vọng trong con người và cần phải được quốc hội đặt thành vấn đề. Dân tộc ta muốn thực hiện cách mạng xã hội thì phải thực sự có một đạo đức cách mạng. Không ai không biết rằng một kế hoạch lớn chỉ có thể được thực hiện bằng rất nhiều thiện chí và một ít khổ hạnh – thứ khổ hạnh có công dụng lành mạnh hóa nếp sống dân tộc – kế hoạch phải nhắm về hướng sản xuất những gì đáp ứng với những nhu yếu căn bản và lành mạnh nhất trước đã. Vốn liếng sẽ được dồn vào công việc nghiên cứu những chương trình thực hiện có tính cách khoa học và dài lâu, đào tạo chuyên viên, trang bị máy móc v.v . . . thay vì để đầu tư sản xuất những xa xí phẩm. Giáo hội có thể có ảnh hưởng rất lớn trên vấn đề kinh doanh sản xuất của tư nhân bằng cách hưởng ứng một đường lối giáo dục quần chúng để thực hiện đạo đức trong phạm vi tiêu thụ sản phẩm kinh tế. Trong khi ấy một chính quyền lành mạnh, được sự ủng hộ của Giáo hội, sẽ đánh thuế rất nặng vào những sản phẩm xa xí để ngăn chặn chúng lại, áp dụng quyền bính pháp trị để ngăn ngừa sự lạm dụng, sự lấn áp, sự gian thương và sự thao túng thị trường. Giáo hội có thể, bằng mọi hình thái hoạt động của đức trị, giáo hóa và khuyến cáo những cá nhân nào trong Giáo hội chỉ nghĩ đến tư lợi mà đi ngược lại với quyền lợi của đại đa số quần chúng, làm giàu trên mồ hôi nước mắt của người nghèo. Nếu những biện pháp đức hóa không thành, chính quyền có thể nhân danh đạo đức cách mạng để mà áp dụng biện pháp trưng dụng hoặc truất hữu, hoặc nhất phần hoặc đa phần tư sản của đương sự – hành động ấy sẽ được xem như là biện pháp thích hợp với ý niệm liên đới trách nhiệm về những khổ đau của dân tộc và do đó được người Phật tử và Giáo hội Phật giáo ủng hộ. Cố nhiên chính quyền phải là một chính quyền trong sạch, vô tư, và Giáo hội chỉ có thể ủng hộ những hành động pháp trị cứng rắn đó khi Giáo hội biết chắc rằng chính quyền là trong sạch và vô tư.

Giáo hội không đứng ra đầu tư kinh doanh, nhưng Giáo hội phải biết ủng hộ và xây dựng cho những ngành kinh doanh nào phù hợp với tình trạng kinh tế dân tộc hơn hết và cũng phải biết phản đối những sự làm giàu trắng trợn, những ngành sản xuất nhắm tới sự đánh thức dậy những lười biếng và dục vọng của con người. Đúng về phương diện chính trị, Giáo hội không đứng ra tham chính nhưng Giáo hội phải biết ủng hộ xây dựng cho một chính phủ lành mạnh biết thuận theo ước vọng thực sự của đại chúng, và cũng phải biết phản đối những chính phủ tham nhũng, tệ lậu. Khi đã có một chính phủ tin cậy, các Giáo hội cũng như quần chúng sẽ ủng hộ cho chính phủ trong việc thực thi các kế hoạch kinh tế khế hợp với tình trạng và nguyện vọng quần chúng, và trong công việc đứng ra đầu tư kinh doanh trong những ngành then chốt nhất của nền kinh tế quốc gia. Thực ra trong tình trạng xã hội ta, nếu có một chính quyền tốt được các tôn giáo ủng hộ, thì việc hạn chế hoặc cấm đoán những kinh doanh của tư nhân là một việc cần được thực hiện. Có như thế thì kế hoạch kinh tế mới được chặt chẽ. Nếu một kế hoạch kinh tế đã chứng tỏ trước mắt mọi người là một kế hoạch thiết thực khế cơ và khả hành thì cần được thực hiện một cách nghiêm chỉnh và chặt chẽ. Như thế nghĩa là, sau khi nhận định và thừa nhận kế hoạch ấy, người dân phải thực sự tham dự và do đó chính quyền có thể động viên quần chúng để thực hiện kế hoạch mà không còn sợ mang tiếng chỉ huy hay độc tài. Giáo hội có thể đóng góp phần ủng hộ tinh thần tối đa của mình.

Tuy nhiên dù kế hoạch có chặt chẽ; dù tình trạng có đòi hỏi hy sinh và gian khổ, con người phụng sự dân tộc trong phạm vi kinh tế phải được mãi mãi còn là một con người, phải được đối xử như một con người mà không phải là một bánh xe, một công cụ hay một con vật sản xuất. Con người phải phụng sự bằng óc thông minh và trái tim biết thương yêu của mình chứ không phải chỉ bằng sức lao động của mình. Con người phải có tự do phát biểu ý kiến, phải có những quyền hạn để cho một con người có thể là một con người. Những guồng máy lớn máy nhỏ đều là vô tri cả, không lý gì ta thoát ra một guồng máy lớn để lăn vào chết trong một guồng máy nhỏ. Công tác lao động dù trí óc hay chân tay cũng phải được phân phối thế nào để bảo vệ được con người. Một người thợ máy làm luôn tám tiếng đồng hồ trong xưởng máy, không có dịp dùng trí óc, chỉ cần làm những cử động tay chân cho đều và cho kịp: người thợ máy ấy quả thực đang là một chiếc máy, lâu ngày sẽ trở nên mệt mỏi, mụ người. Một ngày kia nếu không đủ sức khỏe, anh có thể bị sa thải bởi vì không theo kịp với nhịp của máy. Một người chỉ biết có lao động trí óc cũng có thể trở nên bạc nhược, ốm yếu, ho hen. Tại sao một giáo sư lại không thể làm việc ba tiếng mỗi ngày ngoài vườn để cho công tác trí óc và chân tay được thăng bằng, và tại sao người thợ máy không thể chỉ làm việc bốn giờ đồng hồ mỗi ngày bên cạnh cái máy, còn bốn giờ còn lại thì để làm việc ở một nơi khác?

Đã đành là giải phóng con người, ta phải thực hiện công cuộc phát triển kinh tế, nhưng không nên vì công việc phát triển kinh tế mà ta lại giết con người bằng những guồng máy. Một chủ nghĩa độc tài là một guồng máy lớn, mà tính cách phi nhân bản của chủ nghĩa cơ khí hợp lý hóa cũng lại là một thứ độc tài đáng sợ.

Trong tình trạng hiện thời của đất nước đạo Phật có thể đóng góp một cách đáng kể cho công việc thực hiện công bình xã hội, bởi vì Giáo hội Phật giáo hàm chứa trong tự thân rất nhiều tiềm lực xây dựng tràn đầy xã hội tính. Đây chính là lúc mà đạo Phật phải đem tình thương và tự do vào trong cuộc đời để thực hiện lý tưởng Phật giáo. Những gì chính quyền không làm được hoặc chưa làm được thì Giáo hội ủng hộ cho chính quyền, bằng tất cả khả năng văn hóa và đạo đức của mình. Những gì cần thiết cấp bách mà chính quyền không làm, Giáo hội phải cương quyết đứng ra thực hiện, cố nhiên là bằng những phương tiện trong lĩnh vực tôn giáo của mình.

Trong Viện Hóa Đạo, một phòng nghiên cứu về các vấn đề kinh tế và xã hội phải được thiết lập, với sự tham dự của những học giả, những chuyên viên về kinh tế và xã hội. Các nhà Phật học sẽ làm việc chung với các nhà khảo cứu và chiếu rọi ánh sáng Phật học vào những vấn đề như thế, dựa trên một nhận thức Phật học về các vấn đề kinh tế và xã hội, Giáo hội mới có thể có thái độ rõ rệt đối với các kế hoạch kinh tế và mới có thể quyết định ủng hộ hay không ủng hộ một kế hoạch được nêu ra. Không có lý do gì mà Giáo hội lại không ủng hộ những kế hoạch khế cơ, khế thời, thiết thực và đáp ứng lại được ước vọng của đa số quần chúng, nhất là quần chúng Phật tử. Phật giáo đi vào cuộc đời thì phải hiểu biết những vấn đề của cuộc đời. Giáo hội không thể nói rằng: “làm sao đó thì làm, miễn là đừng trái với giáo lý đạo Phật là được, Giáo hội phải nói rằng: “Phải làm như thế này thì mới phù hợp với giáo lý đạo Phật”. Không những thế Giáo hội phải có phần đóng góp tích cực của mình trong công việc thực hiện công bằng xã hội – đóng góp bằng những phương tiện Giáo hội có thể có, những phương tiện phản ảnh được tinh thần và sinh lực đạo Phật. Phòng nghiên cứu về các vấn đề kinh tế và xã hội sẽ tinh luyện nên những kế hoạch mà tăng sĩ cũng như cư sĩ trong Giáo hội có bổn phận thực hiện và thực hiện một cách có phương pháp, và bằng động cơ lý tưởng.

Để đạt tới mục đích ấy, các trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội phải được thành lập ở các đô thị lớn trong toàn quốc để đào tạo những thanh niên thiếu nữ muốn đem tâm lực trí lực của mình mà phụng sự cho lý tưởng đạo Phật. Các thanh niên ấy sẽ là những sứ giả của tình thương và của sự cảm thông mà đạo Phật gửi đến tận những nẻo đường xa xôi nhất của xứ sở. Những thanh niên thiếu nữ học lực khoảng đệ tứ trở lên là đã có thể theo học các trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội rồi. Tốt nghiệp họ sẽ được gửi đi về các miền quê, trước hết là các vùng tương đối có an ninh, để phụng sự. Phòng nghiên cứu về các vấn đề kinh tế và xã hội cố nhiên phải có kế hoạch thực tế và phải phân phối bổ dụng các nam nữ thanh niên tốt nghiệp ấy một cách hợp lý. Cơ sở tài chính của Giáo hội phải được mở mang, bằng sự đóng góp tùy tâm của Phật tử, nhất là các Phật tử giàu có, bằng sự hoạt động của những cơ quan chuyên lo về các việc kinh tài cho Giáo hội, bằng sự trợ cấp của quốc gia và bằng sự giúp đỡ của các nước bạn như Nhật Bản, Tây Đức, v.v… để có thể đài thọ lương hướng tối thiểu cho những thanh niên đã tốt nghiệp và đang phụng sự. Cố nhiên là làm việc cho lý tưởng, người thanh niên sẽ không đòi hỏi lương bổng phải đúng theo tiêu chuẩn lương bổng quốc gia.

Chương trình học tập sẽ gồm những môn học áp dụng thiết thực: xã hội học, tâm lý học, chính trị học, phát triển cộng đồng, Phật học, giáo dục, y tế, kinh tế, v.v. . . Tất cả những môn đó đều nhắm đến sự trao truyền cho người thanh niên những kiến thức căn bản cần thiết nhất để phụng sự mà không phải là những môn học có tính cách bác học. Trong thời hạn học tập, vấn đề thực tập được xem là rất quan trọng, nhất là về các môn giáo dục, y tế, kinh tế. Môn Phật học được xem như là để trao truyền những nguyên lý căn bản của một chủ nghĩa xã hội Phật giáo. Các nam nữ thanh niên sẽ tìm hiểu về triết học hành động của đạo Phật để có thể thực sự đem đạo Phật vào cuộc đời bằng những phương tiện giáo dục, y tế và kinh tế. Họ phải học và thực tập ái ngữ, đồng sự, lợi hành; họ phải thực tập nhận thức bằng tứ diệu đế. Họ phải tập tươi cười, tập nhẫn nại, tập tham thiền. Những điều đó quyết định sự thành công của họ. Chúng ta ai cũng đã từng gặp những cán bộ hoặc y tế hoặc giáo dục hoặc kinh tế với nét mặt nhăn nhó khó thương. Sở dĩ như vậy là tại họ thiếu lý tưởng, thiếu nhẫn nại. Chắc là ban đầu họ cũng có thiện chí đấy, nhưng sau khi tiếp xúc hàng ngày với những bực dọc, lợi dụng và khó khăn trong một thời gian khá lâu, thiện chí ấy bị phá sản. Thương yêu được người nghèo quả thực không phải dễ như người trẻ tuổi tưởng. Rất nhiều khi vì nghèo mà người ta phải khó khăn, phải biết lừa dối, phải biết lợi dụng. Nhiều khi vì nghèo mà trở thành cộc cằn, thiếu lễ nghĩa. Một người thanh niên đã học và đã được huấn luyện, thực tập thì có thể thương yêu họ dễ dàng hơn và không vì những khó khăn bực dọc mà chán nản. Những thanh niên này sẽ về trường sau mỗi sáu tháng phụng sự để tu nghiệp và trao đổi kinh nghiệm; trong thời gian ấy cần phúc trình lại tất cả những gì đã thấy đã nghe và đã nhận định để phòng nghiên cứu có thể có thêm dữ kiện mà cải tiến chương trình phụng sự chung. Do đó kế hoạch sẽ càng ngày càng sát với thực tại và nhờ đó tính cách địa phương được tôn trọng trong kế sách chung.

Chương trình học tập sẽ có hai: chương trình đoản kỳ và chương trình bình thường. Trong chương trình đoản kỳ người thanh niên sẽ học theo đa nhiệm, nghĩa là phải học cả ba ngành kinh tế, y tế và giáo dục để có thể lâm vào trường hợp nào cũng có thể phụng sự được. Chương trình này, trong giai đoạn hiện thời, chỉ nên thu lại trong một năm. Tốt nghiệp, người thanh niên có một kiến thức thực tiễn về các hoạt động kinh tế, y tế và giáo dục ở hương thôn. Anh có thể dạy tại trường tiểu học theo phương pháp và tiêu chuẩn đã được huấn luyện, hoặc anh có thể làm những công việc phổ thông thuộc phạm vi y tế và vệ sinh, hoặc anh có thể giúp đỡ dân làng về các vấn đề về kinh tế như vấn đề giúp ý kiến mở các hợp tác xã sản xuất tiêu thụ, phổ biến những phương pháp mới về canh tác, chăn nuôi v.v… Sau một thời gian phụng sự anh cũng có thể trở về để học chương trình bình thường với các bạn khác. Chương trình này thì đơn nhiệm, nghĩa là chỉ đi chuyên môn về một trong ba ngành hoạt động xã hội mà thôi, hoặc giáo dục, hoặc kinh tế, hoặc y tế. Kiến thức chuyên môn vì thế sẽ sâu sắc hơn, vững chãi hơn và đo đó, năng lực phụng sự sẽ to tát hơn.

Mười tháng trước đây chứng tôi đã cùng với một số thanh niên khởi đầu làm vài “làng thí nghiệm” theo phương thức phụng sự với tinh thần thuần túy Phật học và đã thâu thập được nhiều kết quả đẹp, xứng đáng với niềm ước mong. Chúng tôi chọn những xóm quê sống bằng nông nghiệp và ngư nghiệp và gọi những địa điểm thí nghiệm ấy là “làng”. Phương châm của chúng tôi là phụng sự với tinh thần đạo Phật mà không phải là với danh nghĩa đạo Phật. Không ai về làng mà tự xưng là Phật tử cả. Hôm đầu thì có hai người trẻ tuổi về, ăn mặc hết sức đơn giản, lấy cớ hỏi thăm để làm quen với trẻ con trong làng. Khi hai người tới thăm “làng” lần thứ ba thì ngỏ ý muốn tìm chỗ ở lại vài ba tháng để học ôn, kẻo Sài Gòn chật chội, nóng nảy và ồn ào quá, trong khi kỳ thi đã đến gần. Hai người thuê được một cái chái nhà rất nghèo nàn mỗi tháng trả một trăm bạc, và dọn sách vở về học. Buổi chiều vài ba trẻ em thấy lạ đến chơi. Hỏi thăm về các em, giải cho các em về một bài toán ở trường, cắt móng tay cho các em, tập cho các em hát vài câu hát: những việc làm nhỏ bé đó chiếm được tình cảm các em hết sức mau chóng. Vài ngày sau các em bé đến đông đảo, và tuần sau thì cả làng đều biết đến hai cậu con trai dễ thương vừa về ở lại trọ học trong làng. Các em mà mến thì cha mẹ các em cũng sẽ mến theo: em nào cũng muốn mời hai anh về chơi. Trong tuần thứ ba, sau khi đến thăm các xóm, hai người đã biết được khá rõ rệt về sinh hoạt trong làng: người lớn trẻ em trong làng thường hay đau ốm về các bệnh gì; mỗi tháng thì trung bình có một hay hai em bé chết vì bệnh đi sông; dân làng sống về nghề gì và gặp những trở ngại nào; chừng bao nhiêu trẻ em không được đi học; người lớn uống rượu và say sưa như thế nào; v.v . . . Một căn nhà trong xóm lập tức được thuê để làm trường học nghèo cho các em đến tuổi hay quá tuổi mà không được đi học. Một tủ thuốc nhỏ được kê trong gian phòng của hai người để chặn đứng những bệnh tật tầm thường có thể làm cho trẻ con chết như bệnh đi chảy, bệnh cảm cúm, v.v... Một sinh viên y khoa năm thứ sáu về làng mỗi tuần hai lần để khám bệnh cho thuốc. Trong tháng thứ ba, nhờ sự ủng hộ của dân làng và “những người bạn của làng” căn nhà thuê đã trở thành một nếp trường sáng sủa có ba lớp, và tủ thuốc trở thành một trạm y tế, hoạt động hữu hiệu trăm lần hơn trạm địa phương vốn thiếu thốn rất nhiều từ ý thúc phận sự đến phương tiện và đức tin của quần chúng.

Trường học biến thành trung tâm văn hóa của làng, và giáo viên cũng như học sinh có bổn phận phát động những phong trào bài trừ các đống rác, bài trừ bệnh đau mắt hột, tổ chức học tập quốc ngữ và y tế vệ sinh cho tráng niên và dân làng. Một sinh viên nông lâm súc về làng hàng tuần và chỉ dẫn phương pháp mới để nuôi gà, chất nấm rơm, ghép cây mãng cầu trên gốc cây bình bát. Một anh sinh viên Luật về làng mỗi tuần và giúp dân làng về các vấn đề giấy tờ đất đai, giấy tờ khai sinh cho các em học sinh, và trình bày dự án thành lập các hợp tác xã. Giai đoạn thứ nhất giai đoạn cộng tác với dân làng để cung cấp giáo dục và y tế tối thiểu được thực hiện trong vòng vài tháng và gây được niềm tin tình thương giữa người làng với nhau cũng như giữa người làng với những người “bạn của làng”. Giai đoạn thứ hai là giai đoạn cố gắng giúp người dân trong làng nâng cao mức sống kinh tế, trong khi đem giáo dục từ học đường ra đến dân làng – những điều cần biết về pháp luật, y tế, canh tác mới, v.v . . . được giảng bày trong những khung cảnh gặp gỡ đơn sơ, thân mật, bằng những lời lẽ hết sức đơn giản. Đến giai đoạn thứ hai này mối tình giữa người làng và những người bạn của làng đã thấm sâu lắm rồi. Giai đoạn thứ ba là giai đoạn giải quyết những cơ cực của một số nhỏ các gia đình nghèo khổ nhất trong làng trên tinh thần liên đới trách nhiệm. Trong một khung cảnh đã được cải thiện rõ rệt, trong một niềm tin yêu, những người trong làng không còn có thể làm ngơ mà không tìm cách giải quyết chung để giúp cho mấy gia đình kia một vài phương tiện để họ có thể thoát ra khỏi cảnh túng quẩn hiện tại. Sự đóng góp và hy sinh của những người dân làng để giúp đỡ người cơ cực không được thực hiện bằng sự đe dọa hay ép buộc mà là bằng động cơ tình thương và ý thức trách nhiệm.

Acharya Vinoba ở ấn Độ đã theo phương pháp kêu gọi tình thương để làm cảm động những người giàu, khiến họ lấy bớt ruộng đất giúp cho người nghèo canh tác và sinh sống. Vinoba đi bộ hàng chục ngàn cây số, từ miền này sang miền khác, tìm tới các địa chủ và nói tương tự như sau: “ông bà có năm người con. Xin ông bà xem tôi như là người con thứ sáu của ông bà và chia ruộng đất cho tôi. Tôi nhân danh những người cơ cực không có tấc đất nào để xin phần đất ấy”. Có nhiều địa chủ cảm động hưởng ứng và tặng cho tổ chức Sarvodaya ấy ruộng đất có khi năm ba mẫu, có khi hàng ngàn mẫu hay hàng chục ngàn mẫu. Phong trào được gọi là phong trào Bhudan (tặng đất). Sau này chuyển sang giai đoạn tổ chức những làng mới tiến bộ, giống những nước cộng hòa bé nhỏ trong đó mọi sinh hoạt xã hội được tổ chức theo hình thức mới hướng dẫn bằng tình thương và sự hợp tác cộng đồng. Nhiều thôn xóm tự nguyện biến thành những làng mới như thế và vì vậy có danh từ Gramdan. Có những địa chủ không đáp ứng lại lời cầu xin của Vinoba nhưng Vinoba vẫn kiên nhẫn trong niềm tin rằng một ngày mai trái tim họ sẽ rung động. Vinoba không muốn dùng áp lực của dư luận quần chúng và do đó nhất định không nhận tấc đất nào của những người cho một cách bất đắc dĩ . Ông nói rằng việc thực hiện tặng đất đưa tới hai kết quả đẹp: người nghèo có đất cày cấy và người giàu tiếp nhận một sự thay đổi trong trái tim. Điều thứ hai Vinoba cho là còn quan trọng hơn điều thứ nhất. Tại sao một cuộc cách mạng chính trị có thể thực hiện bằng phương pháp bất bạo động (bất hại, ahimsa) mà một cuộc cách mạng kinh tế lại không?

Hiện nay có tới vào khoảng hai ngàn làng cả mới cả cũ trong phong trào Gramdan và Tây phương đã nói nhiều đến công việc của Vinoba. Việc làm của ông được căn cứ trên niềm tin có thể làm cảm động được con người. Và trong một xã hội phân tán như xã hội ấn Độ (bao nhiêu là khuynh hướng tôn giáo, giai cấp) một thân một mình khởi xướng thi hành mà có thể làm được từng ấy việc thì kể ra đã là một thành công rất lớn. Không có lý do gì mà Giáo hội Việt Nam, một giáo hội đông đảo và có cơ sở tại một nơi, lại có tính cách thuần nhất hơn cả Giáo hội Phật Giáo các nước mà không thể đạt tới thành công rực rỡ trong việc lấp bót đi sự chênh lệch về tài sản trong xã hội. Giáo hội Phật giáo Việt Nam có cơ hội và điều kiện một ngàn lần nhiều hơn Vinoba để làm công việc ấy. Vinoba sở dĩ vấp phải nhiều khó khăn là vì đã không nghĩ đến sự chuẩn bị đức tin và niềm thông cảm, những yếu tố cần thiết của tâm lý để tạo tình thương và sự phát tâm tự nguyện. Trong phong trào làm Làng của đạo Phật, các thanh niên tốt nghiệp Trường Phụng Sự Xã Hội sẽ không đột ngột thực hiện ngay giai đoạn thứ ba như Vinoba đã làm đâu – tức là giai đoạn giải quyết vấn đề của những gia đình khổ đau thiếu thốn nhất trong làng trong tinh thần liên đối trách nhiệm về những cơ cực của hiện hữu. Mới tới mà đi ngay vào việc xin đất hay xin sự giúp đỡ của những người giàu có thì quả là đột ngột thực. Phải sống, phải hoạt động tại chỗ, phải hy sinh tận tuy trong giai đoạn thứ nhất (cung cấp giáo dục y tế tối thiểu) và giai đoạn thứ hai (cải thiện và nâng cao mức sống kinh tế, văn hóa) để chúng minh sự có mặt của tình thương chân thành và của thiện chí chân thực, làm rung động trái tim của mọi người và lấy được niềm tin của mọi người trước khi đề cập đến vấn đề trên đó trách nhiệm về những hiện tượng cơ cực trong làng trong xóm.

Dân Việt Nam chúng ta đã sống quá lâu trong sự hứa hẹn lừa gạt và trong không khí chiến tranh nên bây giờ thiếu niềm tin về mọi điều tốt đẹp có thể thực hiện. Bây giờ hiệu quả của những bài thuyết pháp không còn đáng kể nữa. Bây giờ phải hành động, hành động để chứng tỏ rằng tình thương và thiện chí là những gì có thực chứ không phải chỉ là những danh từ họa mỹ chỉ có ở văn chương và ở đầu môi chót lưỡi. Nói một cách khác, Giáo hội phải thực hiện bài thuyết pháp cao hơn hết trong các bài thuyết pháp, đó là bài thuyết pháp bằng hành động – hành động để thực hiện và chứng tỏ sự có mặt của Từ, của Bi, của Trí, của Dũng. Mà như vậy, lớp thanh niên phải mang đạo Phật đi vào cuộc đời, các nhà lãnh đạo Phật giáo phải chịu trách nhiệm hết sức lớn lao về giai đoạn này của lịch sử đạo Phật. Lớp thanh niên và trí thức Phật tử đang nhìn vào Giáo hội, sẵn sàng hưởng ứng tham dự kế hoạch phụng sự của Giáo hội. Ít ra cũng là có hàng chục ngàn thanh niên nam nữ sẽ tình nguyện tham dự cuộc cách mạng xã hội bất bạo động, cuộc cách mạng xã hội bằng tình thương và thiện chí. Niềm tin của thanh niên đối với đạo Phật đang còn – các nhà lãnh đạo Phật giáo không có quyền làm tiêu hao chất liệu quý giá đó.

Công việc đòi hỏi rất nhiều nổ lực ở cấp lãnh đạo. Kế hoạch phải là một kế hoạch chung cho toàn quốc nhưng tùy theo địa phương mà có sự gia giảm để được khế cơ và đừng đi ngược lại những đòi hỏi của người dân địa phương. Vì các tôn giáo chính thức làm việc xã hội nên ngân sách quốc gia phải dành  những khoản đặc biệt đáng kể để phụ cấp với sự dự kiến sáng suốt của cơ quan hành pháp quốc gia trong quá trình thực hiện. Tình trạng chúng ta nhất định là không bi thảm: nước ta là một nước dồi dào về tài nguyên căn bản – cao nguyên, rừng và biển lại là những nguồn lợi tức bất tuyệt và dồi dào. Giáo hội, trong tinh thần Quán Thế âm (nghe ngóng tiếng kêu thương của cuộc đời) và tinh thần đồng sự, phải đạt đến sự hiểu biết mỗi ngày mỗi tường tận về tình trạng và khả năng đặc biệt về kinh tế của từng vùng, từng địa phương, từng tỉnh. Như thế chương trình toàn quốc là một chương trình gồm có nhiều chương trình nhỏ hợp lại, tạo nên một hòa điệu dẫn tới sự phát triển cộng đồng. Có bốn mươi tỉnh chẳng hạn sẽ có bốn mươi chương trình sát với địa phương và như thế kế hoạch lớn sẽ không vướng vào những khó khăn địa phương mà lại được hoan nghênh bởi tất cả các địa phương nữa.

Có nhiều khó khăn chờ đợi các nam nữ thanh niên tình nguyện làm bạn của nông thôn, của làng. Người ta đã nghi ngờ nhiều rồi, chia rẽ quá rồi. Chiến tranh cản ngăn và tàn phá. Người dân quê lại cứ quan niệm rằng chính quyền thì vạn năng, muốn làm gì cũng được, muốn làm gì để ích quốc lợi dân cũng được, chỉ vì họ không muốn làm đấy thôi. Người dân quê chờ đợi chính quyền mà không tự động đứng lên xây dựng. Mà nếu có người cán bộ của chính quyền về thì cũng bị nghi ngờ. Mà nghi ngờ lắm khi cũng đúng. Cán bộ về làm việc theo kiểu tắc trách, việc quan, thiếu lý tưởng, thiếu thương yêu. Còn một trở lực lớn nữa là họ quá tin ở kinh nghiệm cổ truyền, y tế cũng như kinh tế. Họ không dễ dàng chấp nhận thuốc Tây (chúng tôi có gặp một bà mẹ trẻ sắp sinh cháu bé thứ hai, nhất quyết không chịu uống thuốc Tây vì lo sợ cho đứa con trong bụng), không sẵn sàng chấp nhận kỹ thuật canh tác và chăn nuôi mới. Phải kiên nhẫn và khiêm nhượng lắm mới có thể chinh phục được họ.

Trong sáu tháng đầu tiên, Giáo hội có thể gửi các “thanh niên dựng làng” về làm việc trong một số độ chừng năm sáu mười làng trên toàn quốc sau khi đã có kế hoạch cẩn thận. Ít nhất phải có năm người cho mỗi làng và những người này ở thường trú trong làng, đơn giản như mọi người. Trong việc làm quen, tìm hiểu, thống kê, thiết lập kế hoạch làm làng, những người thanh niên ấy tỏ ra giản dị, không quan trọng, tự xem là con cháu của làng. Mỗi địa phương có những sắc thái và những vấn đề đặc biệt, vì vậy vấn đề học hỏi về thực trạng địa phương rất là quan trọng. Nếu có thấy gì khó khăn, họ phải nhờ đến nhưng chuyên viên trung ương. Cơ quan trung ương sẽ theo dõi hết sức tỉ mỉ những bản tường thuật và báo cáo để giúp đỡ họ trong công việc giải quyết những vấn đề khó khăn vượt quá khả năng họ. Những làng như thế một khi được hoàn thành sẽ đưa về trung ương một kho kinh nghiệm phong phú, và do đó, trong đợt thứ hai, phong trào sẽ tránh được những lỗi lầm và thực hiện được dễ đàng hơn trước. Ở thôn quê Việt Nam nơi nào mà không có chùa. Giáo hội sẽ gửi thông bạch về để các vị trụ trì địa phương giúp đỡ bằng mọi cách cho những thanh niên phụng sụ xã hội.

Với tiềm lực hiện có, đạo Phật Việt Nam có thể hoàn thành nhiệm vụ cách mạng xã hội bằng tình thương và chí nguyện. Trong vòng năm năm chắc chắn xã hội Việt Nam sẽ mang một bộ mặt mới, sẽ tràn đầy những sinh lực mới. Chúng ta mong rằng điều đó sẽ được thực hiện và những người Phật tử muốn thực sự làm sống dậy sinh khí đạo Phật phải đứng dậy cương quyết thực hiện nếu không muốn cho đạo Phật trở thành những hồ sơ cũ nát và dính bụi.

Nhưng liệu Giáo hội có thể thực hiện những gì ước muốn không nếu không có một chính quyền biết tán thành công việc của Giáo hội mà chỉ luôn luôn muốn gây khó dễ cho Giáo hội? Có phải vấn đề tiên quyết là dồn lực lượng vào việc vận động cho có một chính quyền tốt hay không? Và như thế có phải là nên bắt đầu bằng chính trị hay không? Những nghi vấn ấy trước sau gì cũng phải được giải đáp. Đức Tăng Thống dạy: người Phật tủ cũng phải biết tán thành những chính sách tốt và phản đối những chính sách không tốt. Điều đó thật là dĩ nhiên rồi. Giáo hội Phật giáo Việt Nam là một tập đoàn nhân dân được đúc kết bằng lý tưởng đạo Phật, một truyền thống quần chúng, một yếu tố quan trọng trong xã hội tính của dân tộc Việt Nam. Vậy thì sự phản đối hay tán thành của Giáo hội – trên cương vị tôn giáo – có thể có một giá trị quyết định đáng kể. Nhưng mà phản đối hay tán thành không đủ. Cần xây dựng nữa. Mà phương pháp xây dựng hay nhất là chỉ bày con đường của dân tộc một cách rõ rệt theo quan điểm Phật giáo. Không thể chỉ nói: chính sách này không tốt, mà phải nói: chính sách này mới tốt và ta hãy làm theo. Mà chính sách này là chính sách nào? Chính là con đường sáng, chính là lý thuyết, chính là phương châm và kế hoạch thực tiễn để thực hiện giải phóng dân tộc. Những điều đó không thể mơ hồ. Những điều đó phải được kết tinh bằng tâm não, bằng khổ đau, bằng máu và nước mắt, bằng công phu tu tập, quán cơ và tinh luyện.

Đạo Phật có mặt trong cuộc đời không có nghĩa là Giáo hội có thể đứng ra đầu tư kinh doanh như một nhà tư bản – về phương diện kinh tế – hoặc đứng ra vận động đưa người vào quốc hội lập pháp và chính quyền hành pháp – về phương diện chính trị – Thực ra khi đạo Phật mà còn phải hiện tồn dưới hình thức một Giáo hội (bởi vì đạo Phật có thể hiện tồn ở mọi nơi, dưới cây bút họa sĩ, trên chiếc đũa của nhạc sĩ, trong túi thơ của thi sĩ, đầu lưỡi cày của nông phu...). Chúng tôi xin nhắc lại, khi đạo Phật mà còn phải hiện tồn dưới hình thức một Giáo hội (hội tôn giáo) trong nhiều giáo hội trên thế giới, thì giới lãnh đạo tôn giáo không thể tham dự vào chính trị. Không phải vì tham dự vào chính trị thì sẽ bị hoen ố đâu. Lắm khi không tham dự chính trị mà vẫn hoen ố như thường. Với lại chính trị không phải là một cái gì hoen ố. Nhưng mà nói đến chính trị, người ta hay nghĩ đến uy quyền thế lực, mà uy quyền thế lực cũng như danh lợi, là những gì hoen ố. Cho nên trong lúc chính trị chưa được được chính và đại chúng còn nghi ngờ ở cái gọi là đạo đức chính trị thì quả thực tôn giáo mà xen vào chính trị thì bị nghi ngờ ngay, mất đức tin của quần chúng ngay và như thế dễ đi đến sự phá sản. Có lẽ một số Phật tử có thể kết hợp nhau thành một thực lực chính trị lúc mà giữ gìn và bảo vệ cho chính quyền đừng sai lạc vào nẻo đàn áp và gây khó dễ cho Giáo hội trong lúc Giáo hội thực hiện cuộc cách mạng xã hội từ bi của mình, chứ Giáo hội không thể bao giờ nhân danh Giáo hội để đi vào chính trị. Giáo hội sẽ im lặng khi lực lượng chính trị của những người Phật tử theo đúng tinh thần đạo Phật (cũng như sẽ không bao giờ phản đối những đoàn thể chính trị nào phản chiếu được ý hướng và nguyện vọng quần chúng) và im lặng có nghĩa là để họ làm việc. Nhưng khi lực lượng kia mà đi sai lạc, vướng vào danh lợi địa vị thì Giáo hội phải lên án ngay, dù là lực lượng kia có thể ủng hộ được Giáo hội. Giáo hội sẽ không cần một sự ủng hộ như thế, bởi vì để yên cho họ ủng hộ Giáo hội sẽ mang tiếng là lợi đụng tán thành và tùy hỷ hoạt động trái với tinh thần đạo Phật.

Như thế, người Phật tử có thể có mặt trong lĩnh vực chính trị để cố thực hiện việc bảo vệ xây đắp cho một chính quyền tốt đẹp mà Giáo hội vẫn giữ được tính cách phi chính trị của mình, tính cách thực ra không phải đẹp đẽ gì nhưng cần thiết trong căn cơ của thế kỷ.