Thiều

Tấn bấm chuông, đợi bé Thiều ra mở cổng. Sáng thứ bảy nào Tấn cũng đến thăm anh chị Đoàn và lần nào người ra mở cổng cho chàng cũng là đứa cháu trai kháu khỉnh ấy của Tấn. Thiều năm nay tám tuổi. Hai mắt nó to và đen. Nước da nó trắng xanh. Dáng người nó mảnh khảnh. Thiều rất yêu cậu Tấn của nó. Lần nào cậu Tấn đến nhà, nó cũng kèo nài cậu Tấn đi chơi một vòng trong vườn với nó. Hai cậu cháu đi chơi trong vườn, la cà ít nhất cũng đến nửa giờ, trong thời gian ấy Thiều bắt cậu nó trả lời không biết bao nhiêu là câu hỏi. Anh chị Đoàn ở trong một ngôi nhà xinh xắn, xung quanh là một vườn cây khá rộng khoảng sáu ngàn thước vuông. Gần thành phố Montpellier này mà có được một ngôi nhà và một mảnh vườn như thế, thật anh chị Đoàn thuộc về số những người may mắn nhất. Anh Đoàn làm việc tại Viện Nghiên cứu Vật lý học và cũng là giáo sư dạy tại trường Đại học Montpellier.
Tấn ngạc nhiên thấy người ra mở cổng cho chàng sáng nay không phải là bé Thiều mà là chị của chàng.
– Cháu ốm từ hôm qua, chị Tuyết nói, giọng nhỏ nhẹ và hơi đượm lo âu.
Hai chị em đi theo con đường trải sỏi trắng vào nhà. Chị Tuyết đưa Tấn vào phòng Thiều. Cậu bé nằm nhắm mắt như ngủ. Có lẽ Thiều đã ngủ, vì nếu không thì cậu bé đã mở mắt và cười với cậu Tấn của nó rồi. Tuyết nhè nhẹ đến đặt tay lên trán con, kéo cái chăn lại cho ngay ngắn trên ngực Thiều, rồi trở ra thầm thì với Tấn.
– Nó mới vừa thiếp đi đấy. Thôi chúng ta ra ngoài này chơi.
Tại phòng khách, chị của Tấn kể cho chàng nghe về bệnh tình của đứa bé. Sáng hôm qua, thứ sáu, Thiều không đi học. Nó than nhức đầu. Tuyết cho nó uống một viên Aspirine bọc đường, và ép nó uống được một tách sữa. Trưa đó Thiều không ăn cơm, nó bắt đầu lên cơn sốt. Tuyết gọi điện thoại cho bác sĩ Peltier. Ba giờ chiều bác sĩ đến. Sau khi xem mạch cho Thiều, ông bảo đứa bé chỉ cảm sốt thường. Ông cho nó vài thứ thuốc, vừa thuốc nước ngọt vừa viên bọc đường. Vào khoảng sáu giờ chiều, nó có vẻ khá hơn và chịu xuống phòng ăn, ăn được vài muỗng súp. Nhưng đến chín giờ tối thì nó lên cơn sốt trở lại. Người nó nóng hầm. Lấy thủy đo thì tới hơn ba mươi chín độ. Tuyết hoảng kinh, điện thoại cho bác sĩ. Ông Peltier tới ngay nửa giờ sau đó. Sau khi khám xét trở lại, ông chính Thiều một mũi thuốc và bảo rằng tình trạng của cháu không có gì đáng lo ngại. Ông bảo ngủ một đêm, sáng mai Thiều sẽ khoẻ. Ông ra về, bảo sẽ trở lại chiều mai, tức là chiều hôm nay. Đêm ấy Thiều không ngủ. Nó hành mẹ nó cả đêm. Tuyết định gọi ông Peltier nhưng sợ phiền ông ta quá, lại thôi. Dù sao chiều hôm nay ông cũng sẽ đến kia mà. Buổi sáng, sau khi ngồi với con một lát. Tuyết ra dọn dẹp ngoài phòng khách. Một lát sau, Tấn tới. Khi hai chị em đi vào phòng Thiều thì đứa bé đã thiếp đi.
– Cầu Phật cho nó ngủ yên được một giấc.
Tấn cũng nghĩ là Thiều chỉ cảm sốt xoàng, nên bảo với chị đừng lo. Hai chị em ngồi nói chuyện về tin tức quê nhà một hồi thì Đoàn từ trong thư phòng đi ra. Đoàn tiến tới bắt tay Tấn, hỏi thăm sức khỏe của chàng, rồi nói:
– Hôm nay tôi bận đi họp trong trường tới chiều mới về. Tấn ở lại chơi ăn cơm trưa với chị nhé. Cháu Thiều ốm, chị có vẻ hơi lo.
Nói được từng ấy câu, Đoàn xin lỗi vào trong thay áo để đi họp. Chị Tuyết nói:
– Phải đấy Tấn, Tấn ở lại đây ăn cơm trưa với chị. Để chị đi vào xem tình trạng bếp núc ra sao, chị ra ngay bây giờ,
Tấn nói:
– Chị cứ thong thả. Em đi ra sau vườn chơi một lát. Lúc em trở vào, chị cho uống nước cũng không muộn.
Nói xong, Tấn đứng dậy, mở cửa đi ra vườn.
Khu vườn nhà Đoàn rất thịnh mậu. Bây giờ đầu tháng năm, lá còn xanh non. Các cây tilleul đã đầy lá. Chừng ba tuần lễ nữa mình đã có thể tới hái hình ảnh tilleul về uống nước rồi đây, Tấn nghĩ. Vào những đêm làm việc khuya, Tấn thường pha tilleul uống cho khỏe người và cũng cho dễ ngủ. Đã hai năm nay, đến mùa xuân nào Tấn cũng tới đây để hái tilleul. Cũng lạ, người Trung Hoặca gọi tilleul là cây bồ đề, và hoa tilleul là bồ đề hoa.
Tấn tới ngồi trên một cái băng gỗ bên gốc cây châtaigner. Hoa châtaigner đã ra. Các cành cây nâng những chùm hoa lên như những chân đèn cắm đầy hồng lạp. Tấn rất ưa hình dáng những cây châtaigner này. Nó gợi lên cho Tấn hình ảnh một cây đèn Dược sư mà chàng trông thấy ở chùa.
Có Thiều đi bên cạnh thì Tấn đâu được tự do một mình để quan sát cảnh vật xung quanh như thế này. Thiều hỏi Tấn một trăm chuyện, có chuyện Tấn không biết làm sao trả lời.
Có một lần Thiều chỉ vào một thân cây và hỏi Tấn cái thân cây chỗ đó màu gì. Nơi ngón tay Thiều chỉ là một thứ rêu màu giữa lục, giữa tím nhưng không phải xanh, một màu mà Tấn rất quen thuộc, nhưng Tấn không biết gọi là màu gì. Bí quá, Tấn nói liều:
– Thì đó là cái màu cháu đang thấy đấy, cái màu này này.
Tấn vừa nói vừa lấy ngón tay chỉ vào chỗ Thiều đang chỉ, nghĩ bụng rằng Thiều sẽ không bằng lòng cái kiểu trả lời của Tấn.
Tại sao Tấn không nói với Thiều: “Câu không biết người ta gọi màu này là màu gì”. Trả lời như vậy có phải giản tiện hơn không, và Thiều sẽ không thể nói là Tấn né tránh không muốn thú nhận cái không biết của mình. Nhưng lạ quá, cậu bé đã rất bằng lòng câu trả lời của Tấn. Nó gật đầu tán đồng với Tấn cho rằng cái màu đó là cái màu đó, còn cái tên của nó, mình biết hay không biết cũng không quan hệ gì.
Cái gật đầu thỏa mãn của Thiều làm cho Tấn thấy mình gần gũi đứa cháu không biết ngần nào. Tấn là họa sĩ. Cái màu giữa lục và tím ấy, chàng thường hay dùng trong các tranh sơn dầu của chàng; chàng quen thân với nó đến nỗi không cần biết tên của nó là gì nữa. Tấn nhận ra rằng ở đất nước chàng, sự giao tiếp giữa con người với nhau có khác sự giao tiếp ở xã hội Tây phương. Ở bên này, gặp nhau mà quên tên nhau thì người ta cho đó là một sự ơ hờ, thiếu sót. Còn ở bên nhà, cái tên không quan trọng. Gặp nhau hễ tay bắt mặt mừng nhận ra nhau là đủ. Người ta là anh Ba mà mình gọi lầm là anh Năm thì cũng không sao. Cái thiết yếu là sự nhớ mặt người mà không phải là sự thuộc lòng tên tuổi của nhau.
Thằng cháu Thiều của Tấn rất yêu mến Tấn bởi hai cậu cháu rất hợp ý nhau. Thiều ít khi thân cận với ba nó, bởi vì Đoàn hầu như để hết thì giờ vào công việc dạy học và nghiên cứu của mình. Thiều kể là rất ít khi bố nó chịu đi chơi trong vườn với nó. Đầu óc của bố nó cứ để ở đâu đâu ấy. Không phải là Đoàn không thương mến vợ con. Đoàn rất quý chuộng Tuyết và rất nâng niu Tuyết. Đoàn có thể chiều vợ và con trong mọi chuyện, nhưng Đoàn không thể để nhiều thì giờ cho họ, có thế thôi. Vật lý học là cái say mê của Đoàn. Đoàn say mê Vật lý như người ta say mê cờ tướng.
Tấn hiểu Đoàn, bởi Tấn là một nghệ sĩ. Khoa học, đối với Đoàn, là một sự theo đuổi có thể làm cho người ta say mê không kém gì nghệ thuật. Đi vào thế giới nghệ thuật, mình có thể trở nên thờ ơ với cái thế giới hiện thực. Có điều Tấn nhận ra là đối với chàng, cái thế giới nghệ thuật của chàng không bao giờ bị biệt lập với cái thế giới hiện thực. Tấn nghĩ là nếu Tấn có vợ con thì vợ con của Tấn cũng vẫn còn nằm trong thế giới nghệ thuật của chàng.
Tấn mỉm cười khi nghĩ đến những liên hệ giữa cái thế giới của những phương thức toán học của Đoàn với cái vầng trán rộng và hai con mắt tinh anh của Thiều, Đoàn có thể dùng toán học để miêu tả những định luật chi phối thế giới vật lý trong các hiện tượng phản xạ và sự truyền đi của ánh sáng, nhưng Đoàn chưa chắc thấy được ước mơ đơn giản mỗi sáng thứ bảy của đứa con trai mình.
Cái thế giới vật thể cực vi của Đoàn đôi khi có thể thực với Đoàn hơn là cái thế giới cảm giác.
Tấn nhớ lại có hôm giữa bàn ăn, trong giờ ăn tráng miệng, mẹ Thiều đưa cho Thiều một trái đào. Thiều mân mê mãi trái đào trong tay mà chưa chịu ăn. Nó ngắm nghía trái đào, đưa trái đào lên mũi ngửi rồi lại áp trái đào vào má nó. Tuyết nói:
– Con muốn có một trái đào để dành thì cứ ăn trái đào đó đi, mẹ sẽ cho con một trái đào khác. Cậu Tấn đem đến cho mình cả hai cân đào kia mà.
Thiều lắc đầu. Nó không muốn một trái đào khác. Nó chỉ muốn có một trái đào ấy mà thôi. Một lát sau, nó ăn trái đào.
Tấn nghĩ rằng thằng bé “cư xử” với trái đào không phải chỉ như một thức ăn mà là một hiện tượng gợi lên được sự chú ý của nó. Chiều hôm ấy đi chơi ngoài vườn với Thiều, Tấn hỏi nó tại sao trong bữa ăn nó không ăn trái đào sau khi mẹ nó trao cho nó. Thằng bé ngạc nhiên không nhớ là nó đã làm như vậy. Một lát sau nhớ ra, nó cười lên khanh khách, đưa hai tay làm hiệu cho Tấn cúi xuống để nó bá cổ, rồi nó nói:
– Cháu cầm trái đào lên rồi cháu nghĩ: cây đào phải để ra không biết là mấy tháng mới làm được thành một trái đào. Rồi cháu nhìn trái đào cho kỹ để thấy nó mấy tuổi, và để hỏi xem nó có bao nhiêu anh em.
Tấn ngạc nhiên thích thú, nhìn thằng cháu như nhìn một tác phẩm hội họa. Đúng rồi, ban đầu thằng bé đã không “cư xử” với trái đào như một miếng ăn, mà như một hiện tượng nó mới thấy lần đầu, tuy rằng nó đã được ăn đào nhiều lần rồi. Trái đào có thể như một đứa bạn mới mà nó gặp ngày tựu trường trong lớp học: nó quan sát, ngắm nghía xem thằng bạn chừng mấy tuổi, con mắt và cái mũi ra sao, bố mẹ nó có thể giống như bố mẹ mình hay không, v.v… Thiều có thể đã coi trái đào như một “nhân vật” ngang hàng với nó, đưa trái đào áp vào má như là ôm hôn một đứa bạn, nhưng rồi Tấn cũng cười lên khanh khách khi nhớ là thằng cháu đã cắn trái đào, ăn trái đào và nuốt trái đào vào bụng nó. Đi đời “đứa bạn” của Thiều rồi.
Thiều thấy cậu cười cũng cười theo. Hai cậu cháu tiếp tục đi chơi trong vườn.
Bây giờ thì Thiều ốm nằm trong phòng nó, Tấn ngồi một mình trên một tảng đá dưới gốc cây châtaigner. Chàng lại nghĩ đến cái khác nhau giữa thế giới vật thể cực vi của Đoàn và thế giới cảm giác của Thiều. Tấn không có toán học cao cấp nên không “đối thoại” được với Đoàn bằng thứ ngôn ngữ ấy. Nhưng dù những công thức toán học của Đoàn chính xác đến mấy đi nữa thì cũng không chắc rằng cái thế giới vật lý cực vi của Đoàn hiện thực với Đoàn hơn cái thế giới cảm giác của những người thường như Tấn và Thiều. Có lần, ngồi uống cà phê với Đoàn sau bữa cơm, Tấn cười bảo Đoàn:
– Cái thế giới vật thể cực vi của anh có thể chỉ là một thế giới ma quái mà thôi, anh Đoàn.
Đoàn cười:
– Có khi tôi cũng nghĩ như vậy. Tuy nhiên tôi vẫn tin là những con ma trong thế giới đó có thực cho nên tôi mới can đảm tiếp tục đi tìm, mong thấy rõ thêm phần nào mặt mũi của chúng. Tấn xem, cái thời người ta cứ cho rằng nguyên tử là những đơn vị bất di bất dịch cấu tạo thành vật chất, cái thời ấy đã qua lâu rồi. Bây giờ thì người ta không thể hình dung được các nguyên tử và các điện tử như những hòn bi có vị trí nhất định trong không gian và trong thời gian nữa. Càng tới gần chúng thì chúng càng trở nên mờ ảo. Cái tính chất đồng nhất và thường tại mà ta thấy trong thế giới hàng ngày của ta, ta không thể thấy trong thế giới vật thể cực vi.
Tấn cười:
– Như vậy là trong thế giới vật thể cực vi của anh, người ta có thể chứng nghiệm cái lý vô thường và vô dễ dàng hơn là trong cái thế giới sinh hoạt hàng ngày của mình.
Đoàn gật đầu:
– Chứ sao, Tấn cứ nghĩ xem. Trong cái thế giới cảm quan của mình, cái tách cà phê là cái tách cà phê, chứ không thể vừa là cái tách cà phê vừa là cái ly rượu, và cậu Tấn là cậu Tấn chứ không phải vừa là cậu Tấn vừa là bố Đoàn. Vậy mà trong thế giới vật thể cực vi những điện tử ma quái kia có khi ló đầu ra như những cái hạt (particule – chất điểm), có khi lại ló đầu ra như một làn sóng (onde). Là cái gì thì đúng ra phải là một cái thôi chứ, đằng này nó là một lần cả hai cái, khiến thiên hạ điên đầu trong suốt mất chục năm.
– Và bây giờ thiên hạ chịu thua rồi nên gọi các ông điện tử ấy là những hạt sóng (onduscule) phải không?
– Nói chịu thua thì không đúng. Bởi vì cái mâu thuẫn hạt và sóng ấy đã dạy cho người ta một bài học quý giá: người ta bắt buộc phải chấp nhận rằng không thể mượn những phạm trù hoặc hình ảnh quen thuộc trong thế giới con người để hình dung những vật thể cực vi được, bởi vì những vật thể này không có thường cũng không có ngã. Này nhé, cậu xem làm sao mà ta gọi một điện từ là thường được khi nó chỉ là một ba động; người ta cũng không thể theo dõi nó trên một đường đi nhất định (trajectoire définie) nào cả. Mà đã không thường thì làm gì có ngã. Người ta có thể phân biệt được cậu Tấn với bố Đoàn, phát hai thẻ căn cước khác nhau cho hai người, nhưng người ta không thể phân biệt được hai điện tử. Ta không thể nào “nhận diện” được một điện tử vì không thể nắm được đồng nhất tính của nó.
Tấn biết rằng những vật thể cực vi không có tính cách thường ngã mà cũng không chịu tuân theo những quy luật nhân quả và quy luật thống kê học cổ điển. Chàng nghĩ tới nhà bác học với những dụng cụ đo lường của ông ta mà thương hại. Tới với các vật thể cực vi, nhà bác học không những phải quăng bỏ hết mọi thứ thước đo, căn lường và đồng hồ mà ông ta dùng trong thế giới hàng ngày, mà trái lại, còn phải quăng bỏ luôn những lề lối suy tư và khái niệm thực dụng tức là cái “tâm hàng ngày” của ông ta nữa. Vậy ông ta tới với vật thể cực vi bằng cái tâm nào? Toán học có phải là một cái tâm hay không?
Đoàn cũng ưa đàm luận với Tấn về khoa học và Phật học. Hơn một năm nay, đã có nhiều đêm Tấn thức với Đoàn tới hai ba giờ khuya. Tấn ưa sự cởi mở của Đoàn và chàng đã tiện dịp nói cho Đoàn nghe những điều căn bản về nhận thức luận trong giáo lý Duy thức và Trung luận. Tấn biết Đoàn say mê công việc nghiên cứu của Đoàn và trong khi đàm luận với Đoàn, chàng biết được một ít những sự khó khăn mà những người như Đoàn đang gặp phải trong công cuộc nghiên cứu của họ.
Tấn suy nghĩ tới đó thì chị Tuyết ra tìm chàng, bảo rằng cháu Thiều đã tỉnh ngủ và đang đòi để được gặp cậu nó. Tấn đi vào nhà tới Tuyết. Tuyết nói:
– Cháu nó có vẻ khoẻ. Cậu vào chơi với nó một lát để chị đi làm cơm. Hôm nay Tấn ở lại chơi với chị đến chiều nhé.
Tấn gật đầu.
Thiều nằm trên giường, đưa hai cánh tay ra. Tấn đến cúi xuống sát giường cho Thiều bá cổ một lát. Tấn nói:
– Hôm nay Thiều ốm nên cậu đi chơi ngoài vườn có một mình.
Mắt Thiều sáng lên khi nghe tới chuyện đi chơi vườn. Nó nói:
– Lần sau cậu đến thế nào cháu cũng đi chơi vườn với cậu. Mấy bụi pivoines nở rồi, đẹp lắm. Cậu thấy chưa?
– Chưa, cậu mới đi tới cây châtaignier thôi, chưa đi tới bụi pivoines. Hay là để lần sau cậu tới rồi hai cậu cháu mình cùng đi thăm hoa pivoines. Hoa pivoines gọi tiếng Việt là hoa mẫu đơn, cháu biết chứ?
Thiều học ở trường tiểu học Pháp cho nên nó nói tiếng Pháp giỏi hơn tiếng Việt. Một đôi khi Tấn cũng nói tiếng Pháp với cháu cho có vẻ “copain”, nhưng chàng thường tập cho Thiều diễn tả bằng tiếng Việt. Tấn rất kiên nhẫn trong công việc này và chị của Tấn cũng rất sung sướng khi thấy hai cậu cháu Tấn nói chuyện với nhau bằng tiếng mẹ đẻ. Bây giờ Thiều đã nói tiếng Việt giỏi không kém gì tiếp Pháp. Tấn có cảm tưởng là khi thằng Thiều nói tiếng Pháp, nó không phải là “một” với thằng Thiều nói tiếng Việt, giống như nó có hai linh hồn khác nhau. Tấn lại mỉm cười nhớ lại hai cái tác dụng hạt và sóng của một điện tử.
Nói chuyện chơi với Thiều được mấy phút, Tấn để cho Thiều nằm nghỉ. Chàng ra phòng khách với Tuyết. Chị chàng hỏi thăm về công việc sáng tác của chàng. Tấn nói với chị là cả mấy tháng nay Tấn không có vẽ.
– Em không vẽ là tại trong người em có một sự thay đổi nào đó mà em biết là quan trọng. Em đang theo dõi sự thay đổi đó mà không muốn can thiệp vào.
Chị Tuyết thường hay tỏ vẻ lo ngại về sự sống của Tấn. “Sự sống” nơi đây không phải là sự sống tâm linh hay nghệ thuật mà là tiền bán tranh của Tấn. Tấn là một họa sĩ không chịu chiều theo thị hiếu của người mua tranh. Chàng rất ghét vẽ phụ nữ và trẻ em Đông Phương với những nét dịu dàng bụ bẫm để cho bọn nhà giàu mua trang trí trong phòng khách của họ. Chàng cũng không chịu để thì giờ bươi móc và tìm tòi những thủ thuật tân kỳ để mong khoác lên cho tranh chàng những hình thức mới lạ. Theo Tấn, cái mà chàng đi tìm không phải là phương tiện diễn tả. Dụng cụ ngôn ngữ của hội họa, Tấn nghĩ, chỉ là đường nét, màu sắc, sự sáng tối và chất liệu dùng dưới cây cọ. Ngôn ngữ hội họa giàu sang không kém ngôn ngữ của nhà thơ hoặc nhà văn. Người ta không cần dùng một lượt tất cả chữ nghĩa trong từ điển để làm thơ hay viết văn: người ta chỉ cần chọn một số chữ cần dùng mà thôi. Trong hội họa cũng vậy, Tấn không bao giờ cảm thấy lúng túng vì phương tiện diễn tả. Sự lúng túng về phương diện diễn tả chẳng qua chỉ là những biến hình của sự trống rỗng về phương diện sinh hoạt nội tâm.
Có nhiều khi Tấn cảm nhận được sự có mặt của những băn khoăn, thao thức và sôi động trong nội tâm, nhưng Tấn không cầm cọ. Chàng không cầm cọ bởi vì nếu cầm cọ, Tấn sẽ có một cảm giác tương tự như cảm giác lúng túng về phương tiện diễn tả. Tấn biết rằng đó không phải là sự thiếu thốn phương tiện diễn tả mà chỉ là sự “chưa chín” của chất liệu nội tâm. Công việc hội họa, theo Tấn, phải được bắt đầu ngay từ sự nhận diện những biến cố lớn trong tâm hồn. Những khổ đau, băn khoăn và thao thức của nội tâm cũng trải qua những tiến trình phát sinh, triển khai và biến động như bất cứ những hiện tượng nào khác của cuộc sống. Người nghệ sĩ phải quan sát chúng một cách thường trực, theo dõi chúng và chấp nhận chúng. Đến khi những nỗi đau, niềm thương hoặc sự phẫn nộ kia dâng lên như sóng cuộn và hình thành trong nội tâm mình thì người nghệ sĩ đã trở thành một với chúng: sự diễn tả trở nên cấp bách, cầm đến cây cọ là phương tiện diễn tả tự nhiên tìm đến, mình không cần phải đi lục lọi tìm kiếm nó. Kỹ thuật không phải chỉ là kỹ thuật pha màu và sử dụng cây cọ. Kỹ thuật còn là cách thức quan sát, theo dõi và thể nhập vào sự sống – sự sống ở nội tâm cũng như sự sống xảy ra từng giây từng phút quanh mình. Do đó kỹ thuật nằm ở sự tu luyện nội tâm mà không phải là ở sự tìm kiếm những thủ thuật mới lạ.
Tấn nghĩ như vậy cho nên Tấn không cho thì giờ ở không của chàng là thì giờ uổng phí. Không có tranh để bán thì Tấn đi làm việc trang trí cho các cửa tiệm để sống qua ngày. Tấn nói với chị Tuyết đừng lo Tấn chết đói:
– Khi nào đói thì em đến đây ăn cơm chực của anh chị, chị đừng lo.
Chị Tuyết cười:
– Em đến chơi thì trong nhà này ai cũng mừng, nhất là bé Thiều. Thôi, chị không lo Tấn thất nghiệp nữa. Em cứ lại đây ở luôn với anh chị và cháu Thiều cũng được. Có một cái phòng để riêng cho em đó. Chỉ tiếc ở đây không có chỗ rộng làm xưởng vẽ cho em. Mà tại sao lại không có? Có cave rộng lắm, có thể làm thành xưởng vẽ được. Như vậy em khỏi phải trả tiền nhà đằng đó, có phải hơn không?
Tấn cười:
– Căn nhà và cái xưởng vẽ của em đằng ấy khá tiện lợi và cũng rất thích hợp với em. Giá thuê lại rất rẻ. Chị cứ để em ở đằng đó, như vậy em có hai nhà, đi lại vui hơn.
– Chị nói thế nhưng tùy Tấn chứ. Có thể em ở đằng ấy một mình tự do hơn. Thôi để chị vào dọn cơm kẻo trời đã trưa rồi.
*     *
*
Tấn thức giấc, nhìn đồng hồ trên mặt bàn thì thấy chỉ mới hai giờ sáng. Chàng vừa nằm mơ một giấc mơ quái lạ. Giấc mơ chưa tan biến hẳn. Những hình ảnh trong giấc mơ còn lảng vảng trong đầu óc chàng, và mồ hôi còn lấm tấm trên trán. Tấn với lấy chiếc khăn lau mồ hôi rồi nằm buông xuôi hai tay hai chân, bắt đầu thở những hơi thở nhẹ và dài để lấy lại sự thư thái cho thân tâm mình.
Trong giấc mơ, Tấn thấy mình nắm tay bé Thiều đi chơi trong một khu rừng đầy hoa thơm cỏ lạ. Hai cậu cháu đang bẻ lá bẻ cành để xây dựng một tòa lâu đài, thì tự nhiên trời tối sầm lại và hai người không còn trông thấy nhau nữa.
Tấn lên tiếng gọi bé Thiều nhưng không nghe tiếng bé Thiều đáp lại. Trời bây giờ hoàn toàn tối đen như mực. Tấn đưa tay ra sờ soạng tìm bé Thiều, nhưng tay Tấn chỉ chạm tới khoảng không. Lạ quá, cây lá trong rừng hình như cũng đã biến đi đâu mất hết. Tấn đưa tay sờ mặt đất, thì lạ quá, mặt đất đã trở thành một chất loãng như nước. Tiếp theo đó, Tấn mất thăng bằng. Chàng ngã xuống.
Đang chới với trong nước thì Tấn nắm được cánh tay của bé Thiều. Hai cậu cháu ngoi ngóp hồi lâu thì vịn được một cành cây, leo lên. Bây giờ trời đã sáng trở lại, nhưng rừng cây không còn nữa. Tấn thấy Tấn đang nắm tay Thiều chạy qua một vùng đất hoang vu lởm chởm những tảng đá nhọn, những miểng chai và những bụi cây cháy xém hết cành lá, chỉ còn trơ lại những thân cây đen đúa và nhọn hoắt. Trên đầu hai người, hình như có giông bão sắp trút xuống, và phía sau hai người có tiếng reo hò của những đoàn người đang đuổi theo. Tấn có tìm một nơi kín đáo nào để hai cậu cháu có thể ẩn nấp, nhưng khắp chốn chỉ là cảnh tượng hoang tàn của rừng núi tàn phá. Nhìn tới phía trước, Tấn thấy ngả nào cũng đầy chông nhọn và gai góc, biết rằng có chạy trốn nữa thì cũng không đi đến đâu. Nghĩ tới đó Tấn liền nắm tay bé Thiều đứng lại, sẵn sàng chờ đón những đoàn người rầm rộ đuổi theo mà Tấn biết là rất hung dữ. Nhưng khi hai cậu cháu vừa dừng lại thì tiếng reo hò phía sau im bặt và giống tố trên đầu cũng lặng thinh. Vừa lúc đó, Tấn giật mình tỉnh dậy.
Một cơn ác mộng như thế, ít khi Tấn nằm thấy lắm. Chàng tiếp tục thở những hơi thở nhẹ, tập trung tâm ý vào hơi thở, và chờ đợi một vài ý tưởng có thể bất ngờ đến soi sáng về ý nghĩa của giấc mộng.
Một hồi lâu sau đó, Tấn vẫn không thấy có tư tưởng nào tự nhiên tìm đến để giải đáp về giấc mộng cho chàng. Tấn không muốn dùng trí năng để phân tích giấc mộng, bởi vì Tấn không tin tưởng ở phương pháp đó. Đối với những vấn đề thuộc tiềm thức và tâm linh, Tấn thường tin cậy ở tác động trực giác tự nhiên hơn là ở khả năng phân tích của lý trí.
Bây giờ Tấn đã khỏe khoắn trở lại. Không muốn tiếp tục ngủ nữa, chàng choàng dậy, đi tắm. Nước ấm trên gương sen tuôn xuống ào ào như tiếng mưa làm Tấn dễ chịu, chàng lau mình thật khô, lấy một bộ đồ bà ba trong tủ còn thơm mùi long não ra mặc. Xong xuôi, Tấn ra thư phòng, đốt một cây hương bạch mai cho thơm và đến ngồi tĩnh tọa trên một chiếc chăn gấp tư để ở giữa phòng. Tĩnh tọa là một phần quan trọng trong nghề hội họa của Tấn.
Tấn tập trung tâm ý vào hơi thở như thường lệ. Khoảng hai mươi phút sau, chàng buông hơi thở và thả lỏng cho tâm ý muốn đi hướng nào thì đi trong khi chàng vẫn để ý theo dõi như một đứa bé chăn trâu để trâu tự do đi ăn trên đồng cỏ nhưng vẫn không rời mắt khỏi trâu. Đột nhiên Tấn thấy được mình đang trở về bến sông nơi quê hương chàng sinh trưởng.
Nơi sinh trưởng của chàng là một thôn xã thuộc tỉnh Long Xuyên, nơi có con sông Hậu Giang chảy qua. Dọc bờ sông là những thửa ruộng phì nhiêu. Trên những bờ ruộng này ngày xưa Tấn đã từng chạy chơi, đào trùng, câu cá, bắt dế, đặt lờ với những đứa bạn trong làng. Những đứa bạn ấy bây giờ đứa thì đã chết ở chiến trường, đứa còn đang học trong trại học tập, đứa thì biệt tích. Thằng Quế, bạn thân nhất của Tấn từ ngày học lớp nhất, chết ở chiến trường Pleime, bây giờ chắc đã thành đất. Con cháu của thế hệ Tấn cũng đã có nhiều đứa chết vì đạn lạc, bom rơi. Thằng Thiều là một đứa trẻ may mắn. Nó là một đứa trẻ cha Việt mẹ Việt nhưng sinh ra ở đất Pháp. Nó có cộng nghiệp với những đứa trẻ Việt Nam cùng tuổi với nó, nhưng nó lại có cái biệt nghiệp may mắn của nó mà phần lớn trẻ em xứ nó không được thọ hưởng.
Từ khi qua Pháp tới nay, hễ khi nào nhìn thấy trẻ em nô đùa ở sân trường hoặc bên đường phố là Tấn nghĩ đến trẻ em xứ nó không được thọ hưởng.
Từ khi qua Pháp tới nay, hễ khi nào nhìn thấy trẻ em nô đùa ở sân trường hoặc bên đường phố là Tấn nghĩ đến trẻ em xứ Tấn. Ngày còn ở Việt Nam, Tấn đã nhiều lần ôm trong tay những thân hình trẻ em bị thương vì viên đạn, mảnh bom, và có khi chàng cũng đã đem chôn những thân hình bé bỏng kia trong lòng đất. Hồi ấy Tấn làm việc trong ban cứu thương của tổ chức Gia đình Phật tử Quy Nhơn. Trong những trận đánh lớn, đoàn của Tấn đã xông pha đi tải thương dân sự, bất chấp lửa đạn. Một đoàn sinh trong đoàn của Tấn đã bị tử thương trong công tác cứu trợ năm 1974.
Không bao giờ, có lẽ không bao giờ Tấn quên được giây phút chàng nâng một xác em bé đồng nữ bốn tuổi trên tay, biết rằng em bé đã chết thật rồi, không có cách nào cứu chữa được nữa. Trong hai tay Tấn, em bé nằm buông xuôi như một con chim trúng đạn. Đầu của nó ngả về một bên, tóc của nó bê bết máu. Tấn có khóc được đâu lúc đó. Thì giờ đâu mà khóc, tâm sự đâu mà khóc. Còn có hàng trăm trường hợp nguy cấp đang đợi Tấn và các bạn Tấn. Tấn không có thì giờ nhìn em bé lâu. Chỉ chừng một phút thôi. Một phút, nhưng ngàn đời không quên.
Cái ngày bước lên máy bay đi Paris để “đoàn tụ gia đình” cách đây gần bốn năm. Tấn cảm thấy đau xót một cách lạ lùng. Đất nước đang đau khổ từng nào, tâm hồn chàng càng mọc rễ sâu vào đất nước từng ấy. Đi như thế sao lành? Nhưng chàng đã đi. Không phải vì tương lai chàng. Không phải vì nghệ thuật. Không phải vì cơm áo. Vì cái gì? Có thực sự vì tự do không? Cái tự do riêng cho một cá nhân mình, một cá nhân mà gốc rễ đã ăn sâu vào đất nước đến mức độ của chàng, cái tự do ấy có thể có hay không? Tấn lắc đầu hoài nghi. Chàng không muốn nghĩ tiếp.
Xương cốt của thằng Quế bây giờ có thể đã hoàn toàn mục nát thành đất. Xương của anh Trúc, anh cả của Tấn, chắc cũng đã mục nát hết rồi trong miền rừng núi nào ở biên giới Lào Việt. Anh Trúc là sĩ quan truyền tin trong quân đội. Anh chết từ năm 1972 trên chiến trường rừng núi, không tìm ra được thân xác. Còn xương cốt của em bé gái bốn tuổi kia bây giờ đã mục nát hết hay chưa? Tấn còn nhớ vị trí ngôi một con con trong cái phần đất nghĩa địa của Giáo hội Bình Định ấy, nhớ rất rõ ràng. Con chim con đã hoàn toàn biến thành đất hay chưa? Tấn đã tự tay chôn em bé, chôn sâu xuống lòng đất, không có hòm gỗ, không có tang lễ. Tấn không biết đứa bé tên gì, con ai. Chàng nhớ là khi lấp đất, chàng đã không ngớt niệm “Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật”.
Gia đình Tấn chỉ có một người chết ở chiến trận là anh Trúc. Ba má Tấn qua đời năm Tấn mười chín tuổi. Ông bà chết trong ngôi nhà do tổ tiên mấy đời để lại. Khi ngôi nhà này bị bom dội sập. Tấn được ông chú của chàng nuôi cho ăn học tiếp tục cho đến khi tốt nghiệp trường Cao đẳng Mỹ thuật. Ông chú đã chạy lo cho chàng được hoãn dịch suốt trong sáu năm liên tiếp.
Ngôi nhà của cha mẹ chàng tại Long Xuyên từ khi bị sập đã không được ai xây dựng lại. Vôi, gạch, gỗ và ngói chồng chất hoang tàn. Có một lần về thăm quê Tấn ngồi trên một tảng đá ở bên đống vôi gạch để chiêm nghiệm. Chàng chợt thấy một bông hoa nhỏ, năm cánh, màu tím, gọi chàng. Bông hoa từ dưới kẹt đá chui lên, năm cánh mơn mởn của nó bất giác làm cho lòng Tấn rung động. Bông hoa mảnh mai nhưng không nề hà gì về sự sụp đổ hoang tàn trong cảnh vật cũng như trong lòng Tấn. Tấn cảm nhận được, qua sự có mặt của bông hoa, sức sống mãnh liệt và mầu nhiệm đang vươn lên, bất chấp tang tóc, đổ nát, uất hận và căm thù.
Từ ngày ấy trở đi, Tấn có cảm tưởng mình hiểu được ông Toàn, vị giáo sư lớn tuổi dạy trong trường Cao đẳng Mỹ thuật. Ông Toàn là người điềm đạm, ít nói. Kiến thức về lịch sử mỹ thuật Đông phương cũng như Tây phương rất vững vàng nơi con người có dáng điệu gầy gầy ấy. Hai bàn tay ông trong khi cầm dùi đục hoặc nắn chất đất dẻo, có dáng điệu của những bàn tay đang bắt ấn quyết, vừa dịu dàng, vừa vững mạnh, vừa trang trọng. Ông sáng tác rất ít, nhưng các tác phẩm của ông, những tác phẩm mà Tấn được nhìn ngắm, đều tràn đầy tính cách sinh động. Có lần ông đưa Tấn lên chùa Ấn Quang để nhìn bức tượng Bồ Tát Văn Thù chạm nổi của ông gắn trên chánh điện. Tấn đã trở lại chùa nhiều lần sau đó, không phải để gặp chư tăng trong chùa, mà là để nhìn ngắm lại pho tượng. Một nghệ sĩ chưa từng đau khổ và thương yêu đến mức thảm thiết thì không thể nào tạo dựng được một bức tượng như thế, Tấn nghĩ. Trên nét mặt của bức tượng, Tấn không thấy một nét ước lệ nào. Những nét lông mày, mí mắt, và cả nét trán nữa, tất cả đều phụ họa lại với nhau để diễn tả một cái thấy sâu sắc về cuộc đời, một cái thấy đi sâu vào lòng muôn vật, một cái thấy quán xuyến hết những trầm luân cũng như những thăng hoa của con người. Trước một cái nhìn như vậy, không có vật gì có thể che dấu được chân tưởng nữa cả. Tất cả đều phải tự cởi mở ra, tự trình bày ra, như khi ánh sáng mặt trời chiếu đến thì tất cả các loài hoa đều xòe cánh để làm cho đài hoa hiển lộ. Cái nhìn không phải là một cái nhìn soi mói mà là một cái nhìn trầm tĩnh và cảm thông, thấm nhuần chất lượng từ bi. Nụ cười trên môi pho tượng Bồ Tát chứng thực một cách hùng hồn điều đó. Một kẻ đã không từng đau khổ cùng cực thì không thể cười một cái cười hiền dịu đến thế, và không thể nhìn bằng cái nhìn bao dung đến thế.
Những nét về tư thế ngồi của bức tượng và về dáng điệu của hai bàn tay cũng không hề phảng phất tính cách ước lệ của nghệ thuật tạo tượng, trong sách vở cũng như ở nhân gian. Nhìn bức tượng, người ta không nhìn thấy Phật mà chỉ thấy người, một con người rất người và do đó đã thành Phật. Bồ Tát ngồi an ổn trong vị thế của mình, không xa cách cuộc đời. Bồ Tát có những cánh tay như cánh tay của thường nhân, nhưng những cánh tay ấy đã ở vào vị trí biết mình đang cần làm gì và phải làm gì.
Tấn thường đến chơi nhà ông Toàn và bắt đầu học ngồi thiền từ độ ấy. Ngồi thiền, ông Toàn nói, là để làm hiển lộ cảm hứng, đưa chất liệu nghệ thuật đến chỗ chín muồi trước khi nghệ thuật đầu thai vào tác phẩm.
Dân tộc nào cũng có những giai đoạn thăng trầm vinh nhục, những thất vọng và những ao ước cũng như những đau khổ và những niềm kiêu hãnh của mình. Mỗi dân tộc đi tìm những phương cách để tự thể hiện và con người nghệ sĩ trong khi diễn tả những nỗi niềm của tâm tư mình cũng nói lên được những ước vọng và những đau khổ của dân tộc mình. Tấn thấy nỗi khổ đau và niềm hoan lạc không phải là những hiện tượng trái chống nhau mà lại là những yếu tố bổ sung cho nhau, cũng như sự sinh thành và sự hoại diệt, cũng như sự tan rã và sự tập hợp.
Khổ đau của cuộc đời là hiện thực, bởi vì bản chất của sự sống là vô thường vô ngã. Nếu không có vô thưởng và vô ngã thì cuộc sống không còn là cuộc sống, nghĩa là một thực tại sinh diệt biến động không ngừng. Cái bông hoa mong manh từ kẽ đá đó ló ra gọi Tấn là chỉ để nói với chàng điều đó.
Hình ảnh của đứa cháu trai sống an lành trên một đất nước không có chiến tranh, vây bọc bởi những săn sóc của người lớn và những tiện nghi của một xã hội tương đối khéo tổ chức lâu nay đã thường xuyên gợi lại hình ảnh của những đứa trẻ thân hình dập nát vì bom đạn hoặc thiếu ăn thiếu mặc, hoặc lạc lõng trong thế giới hận thù, không nhìn thấy con đường trước mắt. Tấn bàng hoàng sực nhớ lại cơn ác mộng. Tấn đã nắm tay bé Thiều chạy trong một cơn bão lửa. Chiến tranh đã chấm dứt từ năm năm nay, bé Thiều và Tấn sống an toàn trong một xứ tương đối có hòa bình và dân chủ, vậy mà thực tại Việt Nam vẫn hiện thực từng giây từng phút trong lòng Tấn, trong từng tế bào, trong từng kẽ tóc, chân lông của Tấn. Giấc mộng kia không phải là một cái bóng. Nó là một sự thật xác thực như bất cứ hiện tượng vật chất nào chung quanh Tấn lúc này. Tấn đã lên máy bay qua Pháp, nhưng rốt cuộc, Tấn vẫn không đi khỏi đất nước chàng. Chính Tấn là đất nước của chàng. Chạy trốn cái chết, chạy trốn sự thất vọng. Chạy trốn vô thường vô ngã.
Tấn chợt nhớ lại đoạn cuối của giấc mơ, khi chàng biết không chạy trốn vào đâu được nữa và nhất quyết cùng bé Thiều đứng lại, thì tiếng hò reo theo đuổi dữ dội phía sau lưng chàng đột nhiên bặt mất. Có phải tất cả những lo âu sợ hãi và đau buồn của chúng ta đều phát xuất từ ước mơ thường ngã của chúng ta không? Cuộc sống như một bà mẹ: bà sanh ra chúng ta để rồi bà cũng vùi dập chúng ta; sinh và diệt nối tiếp không ngừng; không có diệt thì không có sinh, không có sinh thì không có diệt. Chấp nhận sự sống là chấp nhận cả hai mặt sinh diệt của cuộc đời.
Chiêm nghiệm đến đây, Tấn bỗng thấy em bé đồng nữ bốn tuổi mà mình đã ôm trong lòng hai tay bảy năm về trước nhoẻn miệng mỉm cười. Ôi, cái nụ cười huyền diệu quá. Đó là nụ cười của bé Thiều. Đúng rồi, em bé đó với bé Thiều là một.
Tấn nhè nhẹ xuất thần, đứng dậy, bắt đầu đi bách bộ trong thư phòng. Chàng đặt những bước chân chậm rãi trên bức thảm lót, từng bước chân trang nghiêm trân trọng như muốn in hình dấu chân dày đặc trên mặt đất.
Buổi sáng đó, Tấn khởi sự vẽ Thiều bên cạnh một khóm mẫu đơn với những bông hoa mãn khai rực rỡ.
Chàng làm việc suốt ngày và suốt đêm hôm đó, chỉ dừng lại để ăn một miếng bánh mình phết bơ, một trái cam và uống một ly nước lọc. Buổi tối đó chàng ngủ được chừng bốn giờ đồng hồ. Sáng lại, sau nửa giờ thiền tọa, chàng xuống xưởng vẽ bật đèn tiếp tục công việc. Nhiều lần nghe tiếng chuông cổng reo, chàng làm lơ. Chàng không muốn tiếp ai, không muốn nói chuyện với ai trong khi chàng vẽ bé Thiều.
Cho đến trưa ngày thứ năm.
Trưa ngày thứ năm, bức tranh được xem như gần hoàn tất. Chỉ còn một vài chi tiết nhỏ cần phải chỉnh lại mà thôi. Tấn dọn dẹp xưởng vẽ của chàng cho gọn gàng, quang đãng. Chàng đi lấy thêm một bóng điện nữa gắn vào phía tường bên trái để soi sáng bức họa, và lùi xa, bắc một chiếc ghế, ngồi ngắm.
Nụ cười của Thiều rạng rỡ không thua gì bông hoa mẫu đơn nó đang mân mê trong hai tay. Nụ cười đó chính là nụ cười Tấn trông thấy trên môi em bé đồng nữ trong giờ thiền định. Tấn đã vẽ bé Thiều trong một bộ đồ bà ba trẻ em, thay vì trong bộ y phục trẻ em Tây phương. Em bé đồng nữ ngày xưa cũng mặc bộ đồ như thế. Em bé đã sống dậy rồi, nơi Thiều và nơi bao nhiêu em bé khác trên đất nước chàng. Này hỡi tất cả các em bé đang đi về tương lai, hãy mang theo với các em những em bé đã từng ngã gục trong suốt cuộc chiến tranh thảm khốc. Và những người lớn si mê kia, hãy đứng qua một bên, để đường cho các em bước tới. Đừng có cản đường bít lối các em.
Một bé Thiều như bé Thiều trong tranh không bao giờ chết được. Nó không phải là của riêng hiện tại. Nó chuyên chở quá khứ, và nó thể hiện tương lai.
Tấn tắt mấy ngọn đèn, khép cửa xưởng vẽ, đi lên. Lòng chàng thoải mái. Chàng định lên phòng nghỉ ngơi chốc lát, làm một vài thức ăn để ăn trưa rồi sẽ xuống xưởng vẽ hoàn tất những chi tiết còn lại của bức tranh. Nhưng khi đi ngang qua hộp thơ mình, Tấn thấy một dấu hiệu đỏ, một mẩu giấy báo pli urgent. Chàng móc túi quần lấy chìa khóa mở hộp thư. Có một điện tín của chị Tuyết. Nội dung: “Chị rất cần em, đến ngay. Tuyết”.
Tấn lập tức lên thay áo rồi ra trạm xe buýt.
*     *
*
Cơn bệnh của bé Thiều trở nặng vào ngày thứ tư. Vào khoảng một giờ rưỡi trưa, Thiều bỗng trở nóng trên 40 độ và bắt đầu nôn ọe. Sau đó nó ôm đầu hét lên những tiếng hét kinh khủng làm chấn động cả tâm can của Đoàn. Trong khi Tuyết cuống cuồng ôm chặt lấy Thiều thì Đoàn đi gọi điện thoại cho bác sĩ Peltier. Bác sĩ bảo chàng lấy xe chở ngay Thiều vào bệnh viện nhi đồng. Ông bảo ông cũng sẽ đến bệnh viện này và sẽ đứng chờ ngoài cổng chính bệnh viện. Lập tức hai vợ chồng đưa Thiều đi. Vào tới bệnh viện Thiều đã bắt đầu hôn mê. Sau khi xem xét và làm electro-encéphalographie, các bác sĩ đề nghị giải phẫu cho Thiều ngay lập tức. Thiều vừa bị tumeur cérébral vừa bị méningite. Sự nhiễm độc đã đưa tới giai đoạn nguy hiểm.
May mắn cho Đoàn là vị bác sĩ chuyên môn giải phẫu óc giỏi nhất bệnh viện hôm ấy có mặt. Các bác sĩ chuẩn bị ba giờ đồng hồ mới bắt đầu sẵn sàng đi vào công việc giải phẫu. Thiều được đem đặt nằm sấp trên một chiếc bàn đặc biệt. Tuyết và Đoàn không được phép vào phòng. Nghe nói phòng giải phẫu thần kinh này rất tối tân vào được trang bị một hệ thống ánh sáng rất đặc biệt.
Cuộc giải phẫu kéo dài, Đoàn và Tuyết ngồi ở phòng ngoài chờ đợi. Tuyết thầm niệm đức Quan Âm không ngớt. Đoàn không biết niệm Phật. Lòng chàng nóng như lửa đốt. Càng nghĩ, chàng càng giận bác sĩ Peltier. Ông này đã quá dễ ngươi và đã ba lần liên tiếp chẩn đoán bệnh trạng của Thiều một cách hời hợt quá. Một bác sĩ như thế, Đoàn nghĩ, không thể tin cậy được. Mặt chàng nóng bừng.
*     *
*
Các bác sĩ giải phẫu cho Thiều xong thì đêm đã xuống. Thiều vẫn còn bất tỉnh. Bác sĩ nói cho Đoàn biết rằng cuộc giải phẫu đã được thực hiện, tình trạng của Thiều vẫn còn nguy hiểm nhiều. Phải tiếp tục chữa trị cho Thiều bằng các loại sérum, trụ sinh và corticcides. Nếu trong vòng sáu tiếng đồng hồ nữa mà Thiều tỉnh được thì tình trạng mới thật có nhiều hy vọng.
Nhà thương chỉ cho phép một trong hai người ở lại túc trực. Tuyết ở lại. Đoàn dặn Tuyết hễ có tin gì mới thì gọi điện thoại ngay về cho chàng, nhất là khi biết tin Thiều tỉnh dậy. Hai người dặn nhau là hễ tình trạng vẫn y nguyên thì Tuyết không cần điện thoại. Trước khi Đoàn ra về, Tuyết còn dặn chàng niệm Phật cầu nguyện cho con. Tuyết lại dặn chàng đánh điện tín cho Tấn.
*     *
*
Tối hôm đó, Đoàn không ăn cơm; chàng chỉ uống một cốc sữa và ngồi chờ điện thoại của Tuyết. Bắt đầu từ lúc đó, Đoàn mới từ từ cảm nhận thấy cái dung tích của sự bất an trong lòng mình. Cái ghế dựa trên đó chàng ngồi hình như có lửa ở dưới. Đoàn không ngồi yên được. Chàng đứng dậy đi bách bộ, từ phòng khách sang nhà bếp, từ nhà bếp sang phòng khách, từ phòng khách sang phòng đọc sách, từ phòng đọc sách sang phòng ngủ của Thiều, rồi từ phòng ngủ của Thiều sang phòng ngủ của mình. Sàn nhà hình như cũng có lửa. Chân chàng bước trên than hồng. Chàng bước vội về phòng khác, ngồi xuống trên chiếc ghế dựa quen thuộc. Chỉ mấy phút sau, chàng lại đứng dậy. Lòng ghế cũng như đầy lửa.
Mười một giờ khuya, vẫn không có điện thoại của Tuyết. Thiều vẫn còn bất tỉnh. Sự bất an trong lòng chàng lớn quá. Đoàn muốn trấn áp nó, nhưng Đoàn không biết làm thế nào để trấn áp. Đoàn biết giờ này Tuyết đang niệm Phật. Đoàn cũng muốn niệm Phật cho tâm hồn lắng dịu xuống nhưng chàng tự cho là mình “không biết niệm Phật”. Đoàn cho rằng niệm Phật không thể có ảnh hưởng tốt đến tình trạng cho bé Thiều. Và trong thâm tâm, chàng cho rằng chỉ có khi nào tình trạng của Thiều khả quan thì chàng mới có được sự an tâm mà thôi. Đoàn ao ước giờ này chàng có được niềm tin đơn thuần của Tuyết để chàng có thể niệm Phật, và để tâm chàng được an. Tuyết đã dặn chàng niệm Phật cho Thiều. Ít khi nào chàng không chiều Tuyết. Nhưng chàng không niệm Phật, và chàng cho rằng đó là vì chàng “không biết” niệm Phật, chớ không phải vì chàng “không muốn” niệm.
Chuông đồng hồ báo nửa đêm. Đoàn thay áo ngủ, lên giường nằm, hy vọng chợp mắt đi được để có thể quên đi sự lo âu. Nhưng chàng không sao ngủ được. Niềm lo âu lớn quá. Hình ảnh bé Thiều luôn luôn hiện ra trước mắt. Đoàn rùng mình mỗi khi nghĩ tới cái chết của bé Thiều. Đoàn trăn trở, tìm một tư thế nằm có thể cho chàng một sự an ổn. Nhưng tư thế đó, chàng tìm mãi không ra. Giường chàng cũng như có lửa. Đoàn có cảm tưởng rằng chàng, Tuyết và Thiều cùng cả ngôi nhà của chàng đang trôi bềnh bồng trên đại dương, và có thể bị sóng gió làm chìm đắm bất cứ lúc nào. Chưa bao giờ Đoàn thấy rõ sinh mạng của Thiều liên hệ tới sinh mạng của mình một cách lạ lùng như thế. Đoàn thấy rằng nếu Thiều chết thì chàng không còn là chàng nữa, nói một cách khác hơn là chàng cũng chết. Chàng thấy Thiều là chính chàng. Lâu nay, Đoàn cứ có cảm tưởng là Thiều đang ở vào một vị trí rất an ninh. Đất nước này không có chiến tranh. Thiều được bao bọc bởi sự săn sóc của gia đình, của học đường, của quỹ bảo hiểm xã hội. Lâu nay, Đoàn cứ yên trí rằng mình đã làm hết bổn phận của mình đối với Thiều, cũng như sau khi đã trồng trọt một cái cây mạnh khỏe vào một khu vườn đất tốt, có dậu che gió bốn bề, người làm vườn có thể an tâm phó mặc cây kia cho đất vườn để đi lo làm những công việc khác. Bây giờ thì Đoàn thấy rõ là Thiều không phải là cái cây nữa mà chính là người làm vườn, là trái tim hoặc lá gan của người làm vườn. Trái tim ấy hoặc lá gan ấy mà khô héo thì người làm vườn cũng khô héo. Trong suốt mấy năm qua, Đoàn thường nghe nói đến những người tị nạn bằng đường biển và những nguy hiểm họ gặp trên biển cả: nào sóng gió, nào hải tặc. Mới tháng trước đây chàng có được đọc lá tâm thư của nữ Tu sĩ Savier hiện đang phục vụ đồng bào tị nạn tại các đảo Bidong vàTengah. Soeur Savier nói rằng số người sống sót tới được các trại tị nạn có thể ít hơn 50 phần trăm tổng số những người ra đi tị nạn. Mỗi khi nghĩ đến nỗi gian nguy trên biển cả của đồng bào tị nạn, Đoàn lại thấy được sự may mắn của gia đình chàng. Chàng thấy gia đình mình ở trên đất liền, trong một quốc gia không có chiến tranh, tại một thành phố nơi đó chàng có thể thi thố khả năng nghiên cứu học hỏi của mình, trong một ngôi nhà xinh xắn có vườn cây xanh um, bên cạnh những người chàng thương yêu nhất trên đời. Ấy vậy mà thoạt một cái, chàng thấy tất cả những an ninh ấy biến mất. Chàng cảm thấy rất rõ là giờ này mình cũng đang lênh đênh trên biển cả; số phận chàng không khác gì số phận của những “thuyền nhân”.
Cái điều phát kiến lớn nhất của Đoàn trong lúc đó là Thiều không phải chỉ là đứa con của chàng; nó chính là chàng. Nó mà chết thì chàng cũng chết. Nếu chàng có sống đi nữa thì chàng cũng sẽ chỉ là một bóng ma mà thôi. Chàng giật mình khi tìm ra sự thật kia. Với một niềm thao thức lớn lao như thế, làm sao người ta có thể ngủ thiếp đi được, chàng nghĩ. Đoàn có cảm tưởng là mình đang mang một mũi tên bên bả vai; mũi tên cắm sâu, nhức nhối, và người mang tên không thể nào thiếp ngủ. Đoàn từ bỏ hy vọng ngủ để quên, biết rằng hy vọng đó rất hão huyền. Chàng đi xuống bếp, pha cho mình một tách cà phê khá đậm.
Đoàn biết mình đang đối diện với một thực tại, và chàng phải chiến đấu. Chàng chiến đấu như một thuyền nhân chiến đấu với biển cả. Chàng chiến đấu để không bị chìm đắm trong sự lo âu, cũng to lớn, cũng mênh mông, cũng nguy hiểm như biển cả. Tuyết vẫn chưa điện thoại về, mà nếu Tuyết điện thoại về thì chưa chắc là để báo tin rằng Thiều đã tỉnh. Rất có thể là điện thoại sẽ báo hung tin. Từ đầu hôm đến giờ, Đoàn trông điện thoại reo. Bây giờ chàng lại bắt đầu e ngại điện thoại. Đoàn biết chàng phải đứng vững trước cơn bão tố đe dọa. Cơn bão tố có thể kéo cả Thiều, cả chàng và cả Tuyết xuống biển sâu. Nội một sự lo sợ của chàng cũng đã có thể làm chàng phát điên lên được rồi. Mới có nửa đêm thôi mà Đoàn có cảm tưởng là tóc mình sắp bạc. Chàng biết chàng phải chiến đấu. Nhưng chiến đấu với thứ vũ khí nào đây? Tuyết còn có đức tin của nàng, Tuyết niệm Phật. Tuyết treo tất cả hy vọng của nàng vào đức Phật. Cậu Tấn cũng là Phật tử, nhưng chắc cậu Tấn không chiến đấu theo kiểu Tuyết. Cậu Tấn có phương pháp tọa thiền. Đoàn không có đức tin của Tuyết, không có thiền pháp của Tấn, Đoàn biết chiến đấu bằng gì bây giờ? Cái mớ kiến thức khoa học của Đoàn hay chăng? Cái mớ kiến thức ấy của Đoàn trong tình cảnh nguy nan này, có thể dùng vào việc gì? Nó có thể giúp Đoàn trấn áp được nỗi lo sợ như đang chực làm nổ tung Đoàn ra từng mảnh hay không?
Bây giờ đã hai giờ rưỡi khuya. Đoàn đã đi bách bộ không biết mấy trăm lần từ phòng này qua phòng khác. Đoàn đã trăn trở hàng trăm cách trên giường chàng. Đoàn đã ngồi xuống, đứng dậy hàng trăm lần từ chiếc ghế dựa quen thuộc ngoài phòng khác. Chàng đã thử đọc báo, đọc sách, nhưng mỗi lần cầm cuốn sách hay tờ báo lên, chàng chỉ đọc được nhiều nhất là hai dòng. Chàng biết giờ này Tuyết cũng còn thức và Tuyết chắc chắn đang niệm Phật. Chàng thử hỏi xem giờ này chàng muốn có ai ngồi bên cạnh chàng để có thể chia xẻ một ít lo âu. Chàng nghĩ tới các bạn bè của mình, và cảm thấy không ai có thể chia xẻ được cái lo âu hiện tại của mình. Không ai có thể đi vào thế giới cô đơn của Đoàn được. Chàng có cảm tưởng là ngồi đối diện với chính mình còn dễ chịu hơn ngồi với một người không thể chia xẻ nỗi cô đơn và lo sợ của mình. Bỗng chàng nhớ đến Tấn. Có thể là chàng sẽ cảm thấy ít cô đơn hơn khi có Tấn ngồi đó, đối diện chàng, dù Tấn không nói lời nào. Cái gì đã khiến Đoàn có cảm giác thân thiết đó đối với Tấn? Chàng nghĩ đó là sự kiện Tấn yêu bé Thiều không kém Tuyết và chàng.
Nếu nhà Tấn có điện thoại thì có thể chàng đã gọi điện thoại cho Tấn ngay lúc này. Tấn hay đi lông bông lắm, có thể là đêm nay chàng không có nhà. Đoàn chợt nhớ mình chưa đánh điện cho Tấn theo lời dặn của Tuyết. Chàng đến máy điện thoại, gọi số, và gửi một message téléphone cho Tấn, ký tên Tuyết, yêu cầu Tấn đến gấp.
Bỏ ống điện thoại xuống, Đoàn đi bật hết đèn phòng khách cho thật sáng, và ngồi xuống chiếc ghế dựa. Message téléphone chắc là tám giờ mới đến và nếu Tấn có nhà, Tấn sẽ đến và khoảng mười giờ. Biết được tin Thiều chắc Tấn cũng hoảng gần như mình. Nhưng chắc chắn phản ứng của Tấn không giống phản ứng của mình. Dù yêu Thiều đến mấy Tấn cũng không thể có phản ứng giống mình được, Đoàn nghĩ.
Đồng hồ treo điểm ba giờ một khắc. Như vậy là giờ này Thiều còn mê man bất tỉnh. Tình trạng Thiều thật là nguy kịch. Một thân hình bé bỏng như thế mà vừa có tumeur cérébral lại vừa méningites, không nguy sao được. Có Peltier ở đây, có thể là Tấn đã chửi vào mặt ông ta như tát nước rồi.
Đoàn tin vào khả năng khoa học, nhưng chàng cũng biết rằng bệnh trạng của con chàng rất trầm trọng. Mới hồi tháng giêng, Bính, bạn chàng đã mất tại bệnh viện Lariboisière ở Paris mặc dù cuộc giải phẫu óc đã thành công. Tin ở khoa học thì tin, nhưng có lẽ phải trông chờ vào một phép lạ nào đó nữa. Tuyết đang khẩn cầu phép lạ đó. Nàng đang niệm đức Quan Âm và đức Dược Sư. Đoàn muốn có một đức tin để có thể bám víu vào trong những trường hợp như đêm nay. Đoàn đã nghe Tấn nói về đạo Phật và thấy được chiều sâu của nếp sống tâm linh này. Nhưng lòng mến chuộng đạo Phật của chàng không phải là niềm tín ngưỡng của Tuyết.
Thần kinh của Đoàn căng thẳng quá, và chàng có cảm tưởng rằng nếu không có gì xảy ra thì trong một vài giờ đồng hồ nữa chàng sẽ nổ tung ra như một trái tạc đạn. Chàng nhìn máy điện thoại. Chàng muốn gọi vào nhà thương. Nhưng chàng biết làm như thế là vô ích. Tuyết đang ngồi ở đó và đang chờ đợi Thiều tỉnh dậy. Nếu Thiều tỉnh dậy thì tức khắc nàng chạy đi gọi điện thoại cho chàng.
Đã bốn giờ sáng rồi. Đoàn nằm buông duỗi tay trên giường như một cái xác chết, nhưng hệ thống thần kinh của chàng không buông duỗi chút nào hết. Nó căng thẳng đến tột độ. Chàng bật dậy đi lấy hai viên Séresta. Chàng chiêu hai viên thuốc an thần với một hớp nước lạnh, rồi trở về giường nằm nhắm mắt, buông duỗi hai chân hai tay, hy vọng thần kinh sẽ bớt căng thẳng. Vào lúc bốn giờ rưỡi sáng, chàng nhận ra rằng hai viên thuốc không có hiệu lực gì hết. Đầu chàng nóng bừng. Sau khi bưng đầu trong hai tay một lúc lâu, chàng chặc lưỡi, buông mình theo sự cám dỗ. Chàng vào lục tủ lấy hai viên Imménoctal, loại thuốc ngủ khá mạnh. Uống xong hai viên thuốc, chàng đi tắt hết đèn trong phòng khách, nhà bếp, và vào nằm trên giường, tắt đèn đầu giường và đắp chăn cẩn thận. Năm giờ sáng rồi, chàng vẫn không ngủ. Vào khoảng năm giờ một khắc, Đoàn thiếp đi. Chàng rơi vào một loạt nhiều cơn ác mộng. Trong cơn ác mộng cuối cùng, chàng thấy Thiều, Tuyết và chàng đi trên một chiếc thuyền con trên biển, và bão tố đã làm lật ngã chiếc thuyền, cả ba người chìm xuống đáy biển. Chàng hét lên và tỉnh dậy.
Đoàn sờ tay lên trán thấy mồ hôi mình lấm tấm. Đồng hồ đeo tay của chàng chỉ tám giờ mười lăm. Như vậy là chàng đã ngủ mê khoảng ba giờ đồng hồ. Người chàng nhọc mệt hơn trước và những dây thần kinh của chàng vẫn còn căng thẳng. Chàng biết càng bị đàn áp nỗi lo âu của chàng càng tàn phá con người của chàng. Vừa thức dậy được chừng năm phút, Đoàn nghe chuông điện thoại reo. Trái tim chàng đập thình thịch. Chàng chạy vào phòng khách. Ở đầu dây bên kia quả là Tuyết. Tuyết cho chàng biết Thiều vẫn chưa tỉnh; các bác sĩ túc trực bảo tình trạng của Thiều chưa thấy khả quan hơn và trong lúc này nếu Thiều tỉnh dậy thì cũng phải chích các loại sédatifs vào cho Thiều tiếp tục ngủ. Giọng nói của Tuyết đầy nước mắt. Đoàn bảo Tuyết là chàng đã gửi điện cho Tấn và có lẽ khoảng mười giờ trưa nay thì Tấn đến. Tuyết bảo Đoàn chờ Tấn đến rồi hai người sẽ vào nhà thương một lượt. Nàng hứa là từ đây đến đó hễ có tin tức gì mới về tình trạng của Thiều thì nàng sẽ gọi trở lại.
Buông ống điện thoại xuống, Đoàn mới thấy là bệnh tình của Thiều có vẻ nguy kịch hơn là mình đã tưởng từ tối hôm qua tới giờ. Sau khi nói chuyện với Tuyết, Đoàn thấy niềm lo lắng của chàng tăng thêm cường độ. Biết đến lúc nào bệnh tình của Thiều mới có dấu hiệu thuyên giảm? Chiều nay, ngày mai, hoặc ngày mốt? Thần kinh của Đoàn có thể chịu đựng được tới ngày mốt không?
Đoàn ngồi thừ trong chiếc ghế dựa. Chàng thấy giờ này đây Thiều đang chiến đấu với tử thần. “Gắng lên con, gắng lên con”, chàng nói nhỏ. Tuyết cũng đang chiến đấu. Chàng cũng đang chiến đấu. Chàng nhớ lại hôm qua chàng đã đặt vấn đề về vũ khí chiến đấu. Tuyết được vũ trang bằng đức tin. Tấn được vũ trang bằng phép tu thiền. Chàng không được vũ trang bằng cái gì hết. Chàng không thể mượn khí cụ chiến đấu của kẻ khác. Khí cụ chiến đấu phải do chính mình tạo ra cho mình. Như con ốc hoặc con sò. Cái vỏ ốc hoặc vỏ sò là do chính con ốc hay con sò tạo ra để tự bảo vệ mình. Đức tin của Tuyết cũng từ lòng Tuyết phát sinh, phép thiền của Tấn cũng do sự sống của Tấn đúc kết mà thành. Chàng không thể mượn của họ. Chàng chỉ có sự theo đuổi khoa học vật lý. Cái khí cụ mà chàng đang cần đến có thể là cái môn khảo cứu mà chàng đã để vào thật nhiều tâm huyết từ bao nhiêu năm nay hay không? Nó có thể là cái vỏ ốc của chàng hay không?
Nghĩ đến đây, Đoàn bỗng thấy nhu yếu muốn đi vào ngồi trong phòng làm việc của mình. Chàng đi rửa mặt, thay áo và vào phòng làm việc. Sáng nay thứ năm, đáng lý chàng phải có mặt tại sở vào lúc mười giờ. Chàng biết là chàng sẽ không thể vào sở sáng nay. Nếu vào sở sáng nay chàng sẽ tham dự vào một cuộc hội thảo có sinh viên tham dự, về tính chất bất chính xác của thời gian và không gian trong những lãnh vực vô hạn tiểu của các vị trần như điện tử và trung hòa điện tử. L’imprécision de l’espace du temps dans les domaines infinitésimaux de l’ordre des corpuscules.
Cảm giác đầu tiên mà Đoàn nhận thấy khi ngồi xuống trước cái bàn giấy làm việc của chàng là một cảm giác dễ chịu. Thần kinh chàng có vẻ như dịu xuống; chàng như bước vào trong một môi trường quen thuộc. Chàng như tự khép vào trong cái vỏ ốc của chính chàng. Hoặc như con nhện nằm đúng giữa trung tâm của cái lưới mà nó vừa dày công bủa giăng. Có phải là mình đang chui vào trốn trong chiếc tháp ngã của mình chăng, Đoàn tự hỏi. Niềm lo âu của chàng to lớn quá, cảm giác về sự hiểm nguy của chàng mênh mang quá, cái tháp ngã của chàng làm sao đủ sức dung chứa được chàng lúc này? Mới có một đêm trôi qua thôi mà Đoàn thấy như là một thế kỷ. Thời gian, thời gian. Thời gian của chàng, thời gian của Thiều, thời gian của những điện tử (électrons) và những giới tử (mésons). Thời gian của vật lý có độc lập với thời gian của tâm người hay không?
Đoàn đã từng suy tư chung với Tấn về vấn đề thời gian. Đoàn với Tấn cũng đã đề cập đến quan niệm thời gian của thuyết Tương đối trong đó thời gian không phải là một thực tại phổ quát và độc lập ngoài không gian. Tấn từng nói rằng thời gian cũng như không gian và mọi hiện tượng khác mà ta gọi là hiện tượng vật lý có liên hệ mật thiết đến nhận thức con người và chỉ qua tâm trí con người nó mới có được cái hình thức và bản chất mà con người nhận biết. Điều mà Tấn nói đó, Đoàn thấy gần như chàng có thể chấp nhận hoàn toàn được. Những khám phá trong mấy mươi năm qua trong lĩnh vực vật lý cực vi đã làm sụp đổ nền vật lý học duy vật. Cái mà người ta tưởng là nền tảng của hiện hữu, kể từ Démocrite đến nay, tự nhiên đã mất hết bản chất. Các nhà khoa học không tìm thấy một cái gì có thể gọi là bản chất tự thân của các vật thể cực vi cả. Khi người ta thực hiện những cuộc thí nghiệm trên các vật thể cực vi, người ta chỉ được các vật thể này phản ứng khi thì như là một làn sóng, khi thì như một hạt… Đối tượng mà ta quan sát có vẻ không phải là tự thân của các vật thể cực vi, mà là khái niệm của ta về các vật thể cực vi. Đoàn biết rằng vật chất, không gian và thời gian liên hệ với nhau một cách mật thiết không thể tách rời ra khỏi nhau, và chàng tin rằng hình thái hiện hữu của chúng được quy định nhiều bởi nhận thức của con người. Ai cũng nghĩ rằng giữa quá khứ và tương lai có một lằn phân biệt: lằn phân biệt đó là hiện tại. Theo thuyết Tương đối của Einstein, hiện tại dài hay ngắn là tùy theo khoảng cách không gian giữa người quan sát và sự kiện xảy ra. Hiện tại do đó không nhất định phải là một khoảng thời gian ngắn ngủi của một phần trăm giây (hoặc một niệm hay một sát na theo danh từ của Tấn thường dùng) mà có thể kéo dài cả hàng năm, hàng chục năm hoặc hàng chục triệu năm. Đứng trên trái đất này ta thấy ngôi sao kia đang băng, nhưng đứng ở một nơi khác có thể là ngôi sao kia chưa băng hoặc đã băng từ hàng chục triệu năm rồi. Như vậy là cái hiện tại không những đã không có tính cách phổ quát mà lại còn có thể được đồng nhất với cái quá khứ hoặc cái tương lai nữa. Lĩnh vực nghiên cứu lâu nay của Đoàn là lĩnh vực lực học lượng tử (mécanique quantique). Chàng thấy trong thế giới vật thể cực vi, mỗi khi người ta cố mình định đích xác vị trí của một điện tử hoặc phân ranh không gian một cách chính xác thì người ta vấp ngay vào một sự bất định vô cùng tận về tốc độ cũng như về năng lực. La théorie des quanta a montré que quand on précise la position et qu’on délimite strictement l’escape, il en résulte une indétermination infinie de la vitesse ainsi que de l’impulsion et de l’énergie (1). Điều đó khiến cho người ta không thể diễn tả được bằng toán học một cách thỏa đáng những tác động hỗ tương của các vật thể cực vi. Trong lĩnh vực vật lý cực vi, tính cách của thời gian và không gian trở thành không chính xác, và lắm khi ta không thể phân định được đâu là quá khứ, đâu là vị lai nữa cả. Pour l’instant il faul se contenter de l’hypothèse que dans les domaines infinitésimaux de l’ordre de grandeurs des corpuscules, l’escape et le temp ont une imprécision particulière, ce qui veut dire que même les concepts d’avant et d’après deviennent indéfinissable pour des intervalles de temps aussi réduits (1). Các khoa học gia lại còn nói rằng lắm khi trong địa vức không – thời – gian của các vật thể cực vi, sự vật lại còn như đi ngược chiều thời gian, nghĩa là đi ngược cả tiến trình nhân quả nữa. Il faudrait compter avec la possibilité que des expériences concernant des processus dans des domaines infinitésimaux de l’escape-temps montren que certains d’entre eux se déroulent apparemment en sens inverse de l’ordre causal (1).
Đoàn có cảm tưởng mình vừa từ một giấc mơ này đi qua một giấc mơ khác. Trong gần tám năm trời, Thiều có mặt đó nhưng chưa bao giờ đứa con trai yêu quý của Đoàn trở nên hiện thực một cách thấm thía như bây giờ. Trong giờ phút này đây, Thiều không còn là đứa con của chàng nữa, mà là chính chàng. Đoàn thấy Thiều rõ hơn và do đó chàng cũng thấy mình rõ hơn. Những ảo tưởng về an ninh và thường còn chợt tan biến; hiện hữu và sinh mạng con người trở nên mong manh như sợi chỉ mành treo chuông. Quá khứ quả như một giấc mộng. Nhưng cái hiện tại phập phồng mà Đoàn đang sống đây sao lại không có thể là một giấc mơ?
Trong lòng Đoàn chợt nẩy sinh một thứ ước muốn mới mẻ và kỳ lạ: làm sao rũ bỏ được cảnh giới một để thoát được ra đến cõi thức tỉnh. Lần đầu tiên chàng nhìn thời gian và không gian như một cái lưới bủa vây và giam giữ lấy chàng. Tình trạng nguy kịch của Thiều từ trưa hôm qua đã làm cho Đoàn lo lắng khốn đốn đến phát điên. Nhưng cũng chính biến cố này đã mở toang được một cánh cửa mà từ lâu nay Đoàn chỉ thấy he hé khép. Biến cố tới giáng trên đầu chàng một đòn chí mạng: nó chỉ cho Đoàn thấy rằng cái thế giới của những khám phá khoa học mà chàng hé thấy trong sự nghiên tầm và quan sát có thể là hiện thực không kém cái thế giới sinh hoạt ăn ngủ giao tiếp hàng ngày của chàng. Lâu nay Đoàn tưởng mình mân mê những khám phá khoa học của chàng như người sưu tầm tem thơ chơi với tem thơ, như người họa sĩ chơi với màu sắc, như người thi sĩ chơi với hình ảnh và âm vận. Nhưng công trình nghiên cứu và hội thảo của chàng không hoặc chưa có ảnh hưởng thực sự nào đến đời sống thường nhật: ăn, ngủ, giải trí, giao tiếp, hạnh phúc gia đình, v.v… Trong khi đó Đoàn thấy rằng cái mà người ta thường gọi là “nhận thức thông thường” (le bon sens), cái nhận thức căn bản của đời sống giao tiếp hàng ngày, so với những nhận thức khoa học, đã chứng tỏ chứa đựng đầy dẫy những sai lầm và ảo tưởng. Những sự vật mà ta thấy, nghe, cầm, nắm hàng ngày, những sự vật mà ta cho là hiện thực một cách chắc chắn, tự nhiên trở thành những ảo tưởng khi ta đi sâu vào bản chất cực vi của chúng. Một khi đã vào thế giới cực vi và quan sát vật chất qua hai biểu tượng sóng và hạt của nó rồi thì ta không còn có thể nhìn sự vật hàng ngày như bình trà và trái cam như trước nữa. Chúng ta đã mất đi tính cách hiện thực tuyệt đối mà trước ta tưởng chúng có. Il faut considérer la matière sous ses deux aspects comolémentaires, onde et particule, etrenoncer à ces objects ou à ces choses don’t était constituée pour nous depuis toujours la nature. Câu nói đó của Alfred Kastler cũng là câu nói chung của người đã từng làm quen với phép lực học lượng tử (2).
Đi xa vào thế giới tinh tú, người ta cũng khám phá được tính cách ảo tưởng của nhận thức thông thường. Cái mặt trời đỏ chói kia sáng lạn trên đầu núi, ánh sáng của nó còn làm cho da mặt ta ấm áp thế này, ai ngờ nó đã lặn cách đây tám phút rồi. Mặt trời ta đang thấy không bao giờ là mặt trời của hiện tại cả. Ngôi sao kia mà nhà thi sĩ muốn gỡ ra để cài vào tóc người yêu có thể đã tắt ngấm hàng triệu năm về trước. Và dù nếu ngôi sao đó chưa tắt thì đầu tóc người yêu của thi sĩ cũng làm sao chịu nổi một khối lượng nặng và to lớn bằng mấy triệu lần trái đất? Thi sĩ mang đôi găng tay nào để gỡ ngôi sao ra khỏi nền trời mà không bị cháy tay? Thiều sanh năm 1972. Đứng tại thời điểm nào đó trong vũ trụ để quan sát thì có thể thấy rằng Thiều chưa sanh. Một ngàn năm sau đứng tại một địa điểm khác thì vẫn có thể thấy Thiều đang cười nói. Những điều đó có thể là những điều ngộ nghĩnh mà người khác có thể lặp lại trong lúc trà dư tửu hậu, nhưng đối với Đoàn, đó là những sự thực quan trọng phải được xác nhận. Những phát kiến lớn lao trong lĩnh vực các vật thể cực vi cũng như trong lĩnh vực thế giới thiên tượng đã làm cho những con người như Đoàn nhận thức được tính cách mê vọng của cái mà ta gọi là “nhận thức thông thường” trong cuộc sống thường nhật. Tuy vậy cuộc sống của nhân loại vẫn tiếp diễn trên căn bản cái “nhận thức thông thường” kia, và mọi khổ đau, mọi dằn vặt của kiếp người vẫn tiếp tục phát sinh trên cái căn bản nhận thức này.
Đạo Phật thường nói con người sống trong vô minh hoặc trong mê vọng, và phần lớn khổ đau đã phát sinh từ những vô minh và mê vọng đó. Đối với chân lý của vũ trụ, những khám phá của khoa học còn thật là nhỏ bé và khiêm nhượng. Tuy vậy những khám phá này cũng đủ để hé cho con người thấy được tính cách vô minh và mê vọng đó. Liệu khoa học có thể thực sự lay tỉnh được con người ra khỏi giấc mơ mê vọng không? Đoàn tin rằng khoa học có thể đóng góp rất nhiều trong nỗ lực đạt đến một cái nhìn càng lúc càng gần với thực tại, càng lúc càng xa mê vọng, cái nhìn mà Tấn ưa gọi là chính kiến. Đoàn chợt thấy rằng ước vọng của mình không khác mấy với ước vọng của Tấn: rũ bỏ được nhận thức mê vọng để được thênh thang tự do đi vào thế giới thực tại. Tấn thường nói đến giải thoát như là một trạng thái tâm linh. “Mình bị ràng buộc bởi chính nhận thức của mình”. Là khoa học gia, Đoàn rất ưa cái ý niệm sở tri chướng của đạo Phật. Cái sở tri của mình chính là chướng ngại cho sự tiến bộ của mình. Mỗi một phát minh mới trong lĩnh vực khoa học là một sự giải phóng của nhà khoa học đối với cái kiến thức khoa học cũ. Không có nấc thang này thì không thể leo lên nấc thang khác. Cái thế giới kỹ hà học của Euclide đã giam hãm bao nhiêu thế hệ học giả?
Giờ đây, Đoàn ngồi im lặng trong thư phòng nhà chàng như một đạo sĩ ngồi tĩnh tọa trên bồ đoàn. Nếu ai hỏi ước ao thâm trầm nhất của chàng lúc này là gì, có lẽ chàng sẽ nói rằng đó là một sự thức tỉnh. Tại sao không ước mong trở lại giấc mơ đầu tiên, tức là giấc mơ trong đó con chàng không có bệnh hoạn và chàng tiếp tục cuộc sống hàng ngày, chia thì giờ của mình cho sở làm và gia đình? Có thể đó là một giấc mơ êm đẹp, nhưng vẫn là một giấc mơ. Một giấc mơ được xây dựng trên “nhận thức thông thường”. Mà hễ có giấc mơ thứ nhất đó thì có giấc mơ hãi hùng thứ hai mà chàng đang trải qua, một cơn ác mộng mà cường độ đã suýt làm nổ tung cả bản thể chàng.
Đoàn chợt cảm thấy thần kinh mình êm dịu lại và chàng không khỏi lấy làm lạ. Suốt thời gian ngồi ở phòng sách, chàng vẫn có ý thức minh mẫn về tình trạng nguy cập của đứa con mình, nhưng chàng thấy chàng không còn hoảng hốt như trước. Chàng biết rằng thần kinh chàng êm dịu lại không phải là vì chàng đã trốn vào tháp ngà của những suy tư về khoa học để tìm sự lãng quên, như chàng đã thử tìm sự lãng quên trong hai viên thuốc ngủ. Chàng biết niềm lo âu của chàng lớn lao quá và chàng không thể nào đàn áp nó hoặc ru ngủ nó. Nó hung bạo như mặt biển trong một cơn phong vũ điên cuồng, không có gì để trấn áp. Vấn đề không phải là trấn áp mà là thăng vượt. Đột nhiên Đoàn nhận ra rằng những điều chàng phát kiến trong lĩnh vực nghiên cứu của chàng không phải chỉ là những ý tưởng. Chúng đã trở thành một phần của tâm não chàng. Chúng đã ăn sâu vào tim óc chàng và chính tim óc chàng đã dự phần vào sự đúc kết nên chúng. Đúng rồi, chúng đã trở nên cái vỏ ốc và cái lưới nhện của chàng. Chúng là thứ khí giới chiến đấu duy nhất mà chàng có thể có. Chính chúng đã đứng dậy với chàng trong cơn sóng gió. Sự phát kiến này đến với Đoàn nhanh như một làn chớp giật.
Đột nhiên, Đoàn ngồi ngay ngắn lại. Chàng bắt đầu thở những hơi thở thật dài và thật nhẹ. Chàng khao khát buông bỏ mọi kiến thức, mọi quan niệm để có thể được thực sự tự do. Chàng nhớ lại rằng đã nhiều lần chàng suy tư về cái chết, và chàng đã không xua đuổi ý niệm về cái chết khi nó lảng vảng trở về trong tâm trí, như nhiều người khác đã làm. Là người nghiên cứu về khoa Vật lý học nhưng Đoàn không thờ ơ về khoa Sinh vật học. Chàng chấp nhận dễ dàng thuyết tiến hóa và không hề thấy có một mặc cảm nào khi biết rằng loài người đã tiến hóa từ những loài sinh vật đơn tế bào như loại a-míp. Tiến hóa là sinh diệt nhưng đồng thời cũng là bất sinh bất diệt. Chàng mỉm cười nghĩ rằng từ con a-míp đến chàng, sự sống đã luôn luôn liên tục. Con a-míp kia chưa bao giờ chết, cũng như chàng, chàng chưa bao giờ chết. Chàng đã sinh ra từ lúc nào? Có phải là chàng đã bắt đầu hiện hữu cả trước những con a-míp đầu tiên trên trái đất, hiện hữu trong những điều kiện đã đưa đến sự tiến hóa thành những con a-míp. Chàng chưa bao giờ chết, từ hồi vô thỉ, thì làm sao một ngày kia chàng sẽ chết được. Có một lần Tấn nói với chàng rằng “sinh diệt là họa đốm giữa hư không”, chàng đã không hiểu Tấn nói gì. “Rien ne se crée, rien ne se perd”. Lavoisier nói về tính cách bất sinh bất diệt của các vật thể vô cơ, của vật chất và năng lực. Định luật của Lavoisier chàng thấy có thể áp dụng vào địa vức sinh vật hữu cơ: tất cả mọi loại hữu tình đều bất sinh bất diệt. Những biểu tướng sinh diệt của vật thể vô cơ nếu đã là “hoa đốm giữa hư không” thì tại sao những biểu tướng sinh diệt của các vật thể hữu cơ lại không là “hoa đốm giữa hư không”? Sự sống nơi chàng và nơi Thiều sẽ truyền đi, bất diệt. Dòng sông mãi mãi còn đó và những biểu tượng sinh diệt có tính cách “không hoa” của những giọt nước không hề làm suy suyển đến tính cách bất sinh bất diệt của dòng sông. “Không có gì sinh ra, không có gì diệt đi”. Lạ thay, ngôn ngữ của một nhà khoa học và ngôn ngữ của một nhà đạo học tại sao lại trùng nhau từng chữ như vậy? Bất Nhã Tâm Kinh đã chẳng nói “thị chư pháp không tướng, bất sinh bất diệt đó hay sao?”.
Tới đây Đoàn chợt nhớ đã từng nghe một triết gia hiện đại nào đó khuyên người đừng nên thắc mắc rằng “ngày mai mình sẽ chết”. Triết gia kia nói: “Đời người được giới hạn trong không gian cũng như trong thời gian. Tôi không thể sống một lần ở khắp nơi trong vũ trụ được, tôi không biết đến thành phố Bắc Kinh nhưng tôi vẫn sống, và chấp nhận giới hạn của đời sống tôi trong không gian. Như vậy tại sao tôi lại không chấp nhận giới hạn của tôi trong thời gian? Đến năm 2000 thì trong tổng số những người hiện đang sống trên mặt đất sẽ chỉ còn một số người còn sống, và chẳng có ai đang sống bây giờ có thể sống tới năm 3000”. Đoàn không chấp nhận được sự cắt xén đó. Không có Bắc Kinh thì làm sao có được Princeton, bởi vì mọi hiện tượng liên hệ nhau mà hiện hữu, “cái này có cho nên cái kia có” (3). Ta liên hệ tới tất cả vũ trụ, có ta là có cả vũ trụ, ta sống với toàn thể vũ trụ, tại sao có thể cắt xén đi được? Ai bảo là trong mỗi hơi thở vào của tôi không có một vài phần tử không khí mà ngày xưa Jules César đã thở?
Về phương diện thời gian cũng thế, Đoàn thấy là mình cũng không thể giới hạn và cắt xén được thời gian. Đã sống, là sống tột cùng với thời gian vô thủy vô chung. Không có quá khứ thì làm gì có vị lai và hiện tại; không có vị lai thì làm gì có hiện tại và quá khứ? Hiện tại có phải là một cái mốc giả tạo để chia cắt thời gian làm hai phần quá khứ và vị lai? Chỉ vì ta vạch một đường phân chia trước mắt cho nên ta mới có hai bên tả hữu. Xóa bỏ đường phân chia thì làm sao còn tả và còn hữu? Tả hữu và trung ương, cũng như quá khứ, vị lai và hiện tại, có thể cũng chỉ là những biểu tướng sinh diệt che lấp thực tại bất sinh bất diệt. Đoàn chợt thấy là một khi mình đã hiện thể, mình chỉ có thể hiện thể cùng không gian vô cùng và thời gian vô tận mà thôi. Có phải ngục tù giam hãm nhận thức con người là những biểu tướng sinh diệt do chính nhận thức con người sáng tạo?
Những điều mà từ hơn một năm nay Đoàn đàm luận với Tấn đột nhiên mang lại một tầm quan trọng lớn lao vô cùng. Đoàn nhớ tới những điều Tấn nói liên hệ với óc “phân biệt biến kế”. Tấn nói chính nhận thức của mình cắt xén thực tại và phân chia thực tại thành sinh và diệt, một và nhiều, thường và đoạn, quá khứ và vị lai. Tấn đã nói với chàng về triết gia Long Thọ (4) với tác phẩm Trung Quán Luận của người, một tác phẩm chuyên sử dụng phép biện chứng để chỉ rõ sự vô lý của những quan niệm sinh và diệt, thường và đoạn, quá khứ và vị lai. Einstein trong thuyết Tương đối của ông đã chứng minh rằng quán tính (inertie) và trọng lực (pesanteur) là một. Thời gian và không gian cũng đã được xem như không phải là hai. Vật chất và năng lượng cũng không phải là hai. Và Đoàn hiện có khuynh hướng cho rằng sóng và hạt rốt cuộc cũng không phải là hai. Chướng ngại trên đường đi, theo chàng, là cái biến kế phân biệt của nhận thức. Nó cắt xén thực tại, tạo ra ảo tưởng về sinh diệt trên bình diện biểu tướng.
Có lần Tấn đã vừa cười vừa nói với Đoàn rằng cái thế giới vật thể cực vi của Đoàn chỉ là một thế giới ma quái. Đoàn đã trả lời rằng chàng tin những “con ma” trong thế giới đó có thực. Dù sao cũng nhờ đi vào thế giới đó mà những nhà khoa học như Đoàn phát giác ra được tính cách ảo hóa của thế giới vật thể mà con người tiếp xúc bằng cảm quan trong đời sống thường nhật. Nhờ đi vào thế giới đó mà chàng mới biết được rằng cái “nhận thức thông thường” của con người đầy dẫy ảo tưởng. Những khám phá của khoa học vật lý trong vòng năm mươi năm nay đã đủ để cho ta thấy được điều đó. Đi vào thế giới vật lý cực vi mà còn mang theo nhận thức phân biệt biến kế đã từng sử dụng trong thế giới vật thể thông thường thì sẽ không thấy, không hiểu được gì. Cho nên chàng đã từng nói: phải bỏ lại cái lề lối nhận thức hàng ngày trước khi khởi hành đi vào thế giới vật thể cực vi.
Tuy Đoàn và nhiều đồng sự đã đồng ý về điểm đó, trong nhiều năm nay các khoa học gia vẫn còn đứng ở trong một cái thế giới kẹt lớn. Chàng nhớ rằng nội cuộc cãi vã về “sóng và hạt” cũng đã kéo dài có tới gần hai chục năm trời. Đoàn cho rằng sở dĩ các nhà khoa học gia còn kẹt là tại vì họ chưa rũ bỏ được nhiều những lề thói nhận thức thông thường. Dù rằng bây giờ ít ai còn có ảo tưởng muốn “miêu tả” các vật thể cực vi bằng hình ảnh thị giác, nhưng những khái niệm như hạt và sóng vẫn còn là những khái niệm hoàn toàn đối lập và nhận thức của nhà khoa học vẫn còn kẹt vào “nhị kiến” nghĩa là cái nhìn phân biệt ra từng cặp đối lập. Cái nhìn nhị kiến đã bắt đầu nứt rạn đối với các hiện tượng có biểu tướng đối lập như vật chất và năng lực, quán tính và trọng lực, thời gian và không gian, không gian vật chất, sóng và hạt,… nhưng vẫn còn nguyên vẹn đối với các biểu tướng tâm và vật, chủ thể và đối tượng. Hơn nữa sự rạn nứt đó chưa đủ để phá tan cái nhìn nhị kiến. Một mặt công nhận tính cách bất nhị của thời gian và không gian, mặt khác lại vẫn đi tìm cái khởi thủy và cái giới hạn của vũ trụ: hai điều đó thì làm sao phù hợp với nhau được? Những giả định về thuyết Big Bang, những đàm luận về thuyết vũ trụ phình giãn (dilatation) hoặc về giới hạn của vũ trụ, há không phải trái chống với lập trường “thời – không phị nhị” hay sao?
Gần đây Đoàn lại nghe một vài lý thuyết gia khoa học đàm luận về thời gian bên trong các hố đen (black holes) và bên trong các vật thể cực vi. Làm như thế là các loại thời gian ấy là những hiện tượng hoàn toàn khách quan không liên hệ gì tới nhận thức. Thời gian chỉ có tính cách địa phương, và sở dĩ như thế là vì nó là một phương trình của nhận thức. Không gian, theo chàng, cũng có tính cách địa phương. Thuyết Tương đối cho biết vật chất và không gian là đồng thể, đồng thời cũng cho biết thời gian không độc lập ngoài không gian. Như vậy cả ba thứ thời, không và vật dưới nhận thức phi nhị kiến có thể chỉ là đồng thể. Tuy nhiên chúng không phải là một thực tại độc lập với nhận thức: phá bỏ nhận thức nhị kiến, sự đối lập tâm và vật không còn tồn tại.
Các nhà khoa học đã gần như đồng thanh mà lên tiếng: tự thân của các vật thể cực vi ra sao, ta không thể nào biết được; chỉ có thể quan sát các vật thể đó qua nhận thức con người mà thôi. Bất cứ cuộc quan sát nào về các vật thể cực vi cũng đều làm sai lệch hoặc biến đổi đối tượng quan sát, vì vậy cái mà ta gọi là thực tại khách quan ta không bao giờ đạt đến được. Đoàn nghĩ rằng sở dĩ như vậy là tại sự quan sát đã được đặt trên nền tảng nhị kiến: ở đây đối tượng quán sát hoàn toàn độc lập với chủ thể quán sát. Khởi thủy sai lầm thì cứu cánh phải sai lầm. Tấn nói rằng trong đạo Phật danh từ quán sát không được xem trọng bằng danh từ quán niệm hoặc danh từ thể nhập: trong khi thể nhập, sự phân biệt chủ thể đối tượng không còn. Cái kẹt lớn nhất của khoa học có thể nằm tại điểm đó, Đoàn nghĩ.
Các nhà khoa học đã thoáng thấy được sự vô vọng của sự sử dụng khái niệm để miêu tả các vật thể cực vi và hành tung của các vật thể này. Họ có một nẻo thoát: đó là ngôn từ toán học. Nhưng ngôn từ này lại hoàn toàn trừu tượng. Hơn thế nữa, Toán học lại cũng chỉ là một sáng tạo ước lệ của trí óc con người; nó diễn tả cái nhận thức của tâm trí con người về các vật thể nhiều hơn là diễn tả tự thân của vật thể. Nói tóm lại là đi tới đâu con người cũng chỉ đối diện với chính mình.
Nếu có Tấn ở đây chắc Tấn đã kêu gọi tới cái nhận thức gọi là vô phân biệt trí của đạo Phật. Vô phân biệt trí là cái nhận thức không bị cái nhìn nhị kiến về chủ thể và đối tượng gò ép sai sử. Đoàn không biết khi đạt tới cái nhìn ấy thì người ta phải dùng thứ ngôn ngữ nào để diễn tả cái thấy của mình. Cố nhiên là không thể dùng những hình ảnh và khái niệm dựa trên nhị kiến. Cố nhiên là ngôn ngữ đó trở thành khó hiểu đối với những kẻ chưa bao giờ thoát ra cái nhìn nhị kiến. Ngôn ngữ đó có thể bị người đời cho là bí hiểm. Cái liên thể thời không (continuum d’espace-temps) và cái vũ trụ bốn chiều (l’univers à quatre dimensions) của Einstein, các thực thể vừa là hạt vừa là sóng của các nhà cực vi vật lý học phải chăng là những khái niệm mới dùng để đánh đổ những khái niệm nhị kiến cổ điển?
Tuy nhiên Tấn bảo rằng đạo Phật phá cái nhìn nhị kiến không phải để đi đến cái nhìn nhất kiến. Đã có một thì phải có hai, có ba. Vậy cái nhìn nhất kiến cũng không phù hợp với thực tại. Thực tại không phải là một cũng không phải là hai, “phi nhất phi dị”. Điều này sẵn sàng chấp nhận. Chàng cũng thấy rằng các cặp hiện tượng sóng và hạt, thời gian và không gian, v.v… tuy không phải là hai nhưng cũng không hẳn là một. Sự thực nằm ở đâu đó trên một con đường trung đạo.
Tấn có nói rằng để đánh đổ các khái niệm nhị kiến và biến kế, đạo Phật đã trình bày khái niệm vô ngã, tháo tung mọi biên giới chia cách giữa vật thể, chia các không gian và thời gian. Những quan hệ trắc bất chuẩn (relations d’indétermination) của Heisenberg há không phải là một thứ dụng cụ nhằm phá vỡ thói quen miêu tả thực tại bằng những biểu thị có tính cách quyết định (représentations déterministes) hay sao? Cái nền đạo học thiền học chủ trương phá bỏ thứ ngữ ngôn văn tự phát xuất từ biến kế ấy cũng đã dựng ra thứ ngữ ngôn văn tự của chính mình. Thì khoa học đã không đang dựng ra thứ ngôn ngữ riêng biệt của khoa học hay chăng?

*     *    *

Đoàn thong thả đứng dậy. Nhìn qua cửa sổ chàng thấy nắng chiếu rực rỡ ngoài vườn. Lá cành thấp thoáng. Chàng khao khát được đi ra vườn giữa những thân cây khỏe mạnh. Nỗi lo âu của chàng, chàng biết nó vẫn còn nguyên vẹn, nhưng chàng cảm thấy lòng chàng bình tĩnh hơn và chàng có nhiều nghị lực hơn. Nghĩ đến Tuyết, chàng thấy lòng tràn ngập một niềm thương. Tuyết hiện cũng đang chiến đấu như chàng với cảnh ngộ. Cảnh ngộ bên ngoài cũng như cảnh ngộ nội tâm. Hai thứ cảnh ngộ mà thật ra chỉ là một. Nhớ tới đêm qua, Đoàn chợt rùng mình thấy rằng trong cơn hiểm nguy, mình chỉ là một cành sậy mong manh phất phơ trong cơn gió dữ. Chàng biết là chàng sẽ đau xót cùng cực nếu con chàng không qua khỏi tình trạng hiểm nghèo này. Nhưng chàng cũng biết là từ đây, chàng có một khả năng chịu đựng lớn lao hơn. Chỉ trong một đêm một ngày, chàng đã thay đổi. Sự thay đổi vừa xảy ra có thể đã là sự thay đổi lớn lao nhất trong đời chàng. Chàng có cảm tưởng là giờ đây chàng có thể lấy chàng làm chỗ tựa cho Tuyết. Một cành sậy thì không có thể làm chỗ tựa cho bất cứ ai. Nhưng chàng đã không còn là một cành sậy. Cũng như Tuyết, cũng như Tấn, chàng đã được trang bị trên phương diện tâm linh để đối phó với những cuộc giông bão của cuộc đời. Chàng cũng đã phát giác ra cái vỏ ốc do chính tâm não và huyết mạch chàng tạo dựng.
Nghĩ tới đây, Đoàn đã ra tới vườn cây. Đoàn nhận ra lâu nay mình đã bị thế giới vật thể cực vi thâu hút và đã ít khi được nắm tay Thiều đi chơi trong khu vườn mát mẻ và rộng rãi này. Cố nhiên là chàng đã từng cùng Tuyết và Thiều đi dạo nhiều lần trong vườn cây, nhưng những lúc ấy, lòng chàng đã không hoàn toàn có mặt trong vườn cây với Thiều và Tuyết. Bây giờ đây, chàng biết mình thực sự có mặt. Đoàn ước ao giờ này có mặt Tuyết và Thiều ở bên cạnh chàng. Chàng đã thực sự đi vào thế giới vật thể cực vi, và nhờ đó chàng đã thực sự trở về thế giới của Thiều và của Tuyết.

*     *     *
Nhìn lại đồng hồ tay, Đoàn thấy đã một giờ hai mươi phút. Chàng rời khu vườn, chầm chậm bước vào nhà. Vừa tới phòng khách, chàng bỗng nghe tiếng chuông cổng. Nhìn ra ngoài, Đoàn thấy Tấn. Chàng quay lại, mở cửa bước xuống con đường trải sỏi. Đoàn biết ngay rằng người mà chàng có thể cởi mở nỗi lòng bây giờ là Tấn. Trong khi chờ ngoài cổng, Tấn thấy Đoàn bước từng bước chậm rãi trên lối đi trải sỏi. Phong thái của Đoàn thật nghiêm nghị, nhưng quanh đầu chàng như tỏa hào quang. Tấn lấy làm lạ. Một biến cố lớn lao nào vừa tới với Đoàn, Tấn cảm thấy như thế. Nhưng chàng quên rằng một biến cố lớn cũng vừa mới xảy đến cho chàng. Và cả hai đều không biết rằng chính cậu bé tám tuổi kia đã gây nên những thay đổi đó. Một mũi tên của Thiều bắn đi đã trúng một lần hai cái đích.

(1) Werner Heisenberg, La Nature dans la Physique contemporaine, Gallimard 1962.
(2) Alfred Kastler. Cette étrange matière, Stock 1976.
(3) “thử hữu cố bỉ hữu” Kinh A Hàm.
(4) nagarjuna, tăng sĩ Phật giáo Ấn Độ, thế kỷ thứ 2 trước Tây lịch, tác giả Madhyamika Sastra.