Chương 02: Bèo dạt mây trôi
SAO CHO CỐT NHỤC VẸN TOÀN
Sau khi Kim Trọng đi rồi:
Người đi cũng khổ mà người ở lại cũng khổ. ‘Hoa trôi giạt thắm liễu xơ xác vàng’ là cảnh vật xung quanh mà cũng chính là tâm trạng của Thúy Kiều.
Gia đình Thúy Kiều vừa đi sinh nhật bên ngoại về. Tai nạn ập tới:
Cha và em trai Kiều bị đóng gông và trói chung lại với nhau. Những người đàn bà được để tự do, vì trong xã hội ngày xưa, đàn ông chịu hết trách nhiệm về tất cả mọi chuyện xảy ra.
Lấy cố tìm tang vật chứng cớ để cướp của. Cụ Nguyễn Du gọi loại sai nha này là ruồi xanh.
Hỏi ra mới biết rằng:
Phải tên xưng xuất là thằng bán tơ.
Thấy thằng bán tơ và bạn của nó có vẻ dễ thương nên ông hàng xóm nhà họ Vương cho ở lại giúp việc. Ông không biết bọn này đã từng làm ăn cướp. Chính viên ngoại, cha của Thúy Kiều, cũng đã từng ngồi uống rượu với thằng bán tơ, tưởng nó là người lương thiện. Cảnh sát tìm ra bọn cướp và họ khai cho gia đình Kiều. Bây giờ sai nha lấy cớ đi bắt người để vào ăn cướp nhà Vương viên ngoại. Cảnh này thường xảy ra ở miền quê, nếu không có thế lực thì không thể nào tránh khỏi. Tai nạn xảy ra cho gia đình Kiều chứng tỏ sự tham nhũng trong xã hội thời đó.
Mặc cho ba người đàn bà lạy lên lạy xuống kêu oan, bọn sai nha vẫn làm ngơ, đánh đập Vương viên ngoại và Vương Quan tàn nhẫn. Tai lân tuất là tai xót thương, những người đến bắt bớ, vơ vét nhà Kiều cũng có lỗ tai này nhưng họ đóng chặt làm như điếc. Khác với sự thực tập: ‘Con xin tập lắng nghe bằng lỗ tai xót thương; của chúng ta.
Vì lòng tham mà họ hành hạ người ta như vậy. Kiều không thấy một giải pháp nào để cứu cha và em ngaòi giải pháp hối lộ. Bởi vì họ: ‘làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền.’ Phải có tiền thì họ mới chịu tha. Thúy Kiều đi tới một quyết định lớn, thay đổi hoàn toàn cuộc đời mình và đồng thời phải phụ bạc người yêu.
Duyên hội ngộ là mối tình với Kim Trọng. Đức cù lao là ơn sinh dưỡng khó nhọc của cha mẹ. Trong lòng Kiều có một sự xâu xé lớn. Muốn giữ vẹn lời thề với người yêu thì phải để cho cha mẹ đau khổ; còn nếu bán mình chuộc cha thì phải phụ tình người yêu mà mình vừa mới thề thốt cách đây có mấy giờ đồng hồ.
Kiều quyết định bán mình chuộc cha. Từ đây cuộc đời Thúy Kiều đi rẽ sang một hướng khác.
HOA DÙ RÃ CÁNH LÁ CÒN XANH CÂY
Tin Thúy Kiều bán mình chuộc cha được mối lái truyền đi.
Anh chàng đến rất ồn ào: ‘Trước Thầy sau tớ lao xao.’ Không chăm sóc chánh niệm và uy nghi gì cả. vào trong nhà rồi thì: ‘Ghế trên ngồi tót sỗ sàng,’ và ‘Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra.’ Thái độ của kẻ có tiền, đi mua vợ.
Đó là Thúy Kiều khi được trình bày ra như một vật để buôn bán. Người ta tới xem con heo, con bò như thế nào thì tới xem Thúy Kiều cũng vậy. Không có nhân phẩm của con người nữa.
Càng phô bày được tài sắc của mình chừng nào thì người ta càng trả nhiều tiền chừng đó. Kiều phải làm tất cả những điều bà mối bảo làm, như một cái máy.
Khi đọc tới đây ai cũng thấy tức trong lòng. Nhục nhã, ê chề, mất hết nhân phẩm của một cô gái! Thúy Kiều quý quá, thanh tao, tinh khiết bao nhiêu đối với Kim Trọng thì lại càng như một món hàng không có giá trị gì cả đối với Mã Giám Sinh. Đây là điều sĩ nhục đầu tiên của Thúy Kiều. ‘Đã đày vào kiếp phong trần, Sao cho sĩ nhục một lần mới thôi!’ Nhưng Thúy Kiều không phải chỉ bị sỉ nhục một lần! Cô sẽ bi sỉ nhục hàng chục lần trong đời mình.
Sau khi đã ngã giá (trên bốn trăm lượng vàng), công việc bắt đầu xuôi. Hai bên đưa thiếp cho nhau, trên hình thức là so tuổi bên trai và bên gái nhưng kỳ thực đây là một loại giao kèo. Cố nhiên là phải chồng tiền. Kiều nhờ ông họ Chung dùng số tiền này để lo lót, lãnh Vương ông về. Đây là những lời than khóc của người cha:
Người cha muốn gieo đầu vào tường tự tử để khỏi trông thấy cảnh con gái bị gả bán như vậy. Người nhà giữ ông lại khuyên giải:
– ‘Con chỉ là một đứa con gái thôi. Chưa làm được chút gì để đền ơn sinh thành của cha mẹ. Cha ngày một lớn tuổi mà phải gánh vác cho cả gia đình. Có cha đó thì mọi người đều đứng vững. Nếu cha không chịu dứt khoát để con bán mình mà cứ liều thân thì cơn mưa gió này sẽ làm tan nát hết cả gia đình. Thà một mình con chịu, hoa có tàn nhưng trên cây lá vẫn còn xanh, mẹ và các em con vẫn được an toàn. Cứ nói như ngày xưa cha mẹ sinh ra nuôi không được, chết từ nhỏ, cho đỡ khổ. Nếu cha cứ nghĩ quanh quẩn thì nhà mình sẽ tan nát mà thân cha sẽ thiệt thòi.’
Người cha nghe nói phải chấp nhận sự thật. Biết liều mình thì cả vợ lẫn con đều tan nát hết cho nên ông phải cố gắng.
Lễ tâm là tiền của đặt trên mâm khi tới quan. Lễ nhỏ thì vài bình trà, một chai rượu. Lễ này thì phải có ba trăm lượng vàng. Những câu này tố cáo sự tham nhũng của xã hội thời bấy giờ. Truyện Kiều không chỉ nói tới những sự thực tâm lý, tình cảm mà còn nói về sự thực của xã hội.
CẬY EM, EM CÓ CHỊU LỜI
Trong vài ngày, gia đình Kiều đã phải đi qua những cơn lốc lớn. Bây giờ đã đến lúc cụ Nguyễn Du tả tâm trạng Thúy Kiều. Khi quyết định bán mình chuộc cha, trình bày tài năng, sắc đẹp của mình cho người ta mua, rồi can ngăn cha già đừng tự tử, Kiều đã xử sự một cách rất xuất sắc với tư cách của người chị cả. Trong suốt thời gian đó, những đau khổ của Kiều không được nói tới. Khi công việc đã xong, mọi người đã đi ngủ thì Kiều còn thức và quay lại cuốn phim đau khổ trong lòng mình:
Đây là nỗi đau khổ đầu của Thúy Kiều. ‘Nếu mình chưa hứa hẹn gì hết thì đã đỡ cho chàng Kim biết mấy. Vì mình đã hứa hẹn đã thề bồi nên bây giờ chàng Kim phải dở dang.’ Kiều không nghĩ tới sự đau khổ của mình mà chỉ nghĩ đến sự đau khổ của người yêu.
– ‘Ở Liêu Dương giờ đây anh có biết người chịu trách nhiệm làm chia rẽ, tan nát cuộc nhân duyên của hai ta là em không?’ Đây là luân lý Á Đông, khi hai bên đã chấp nhận, thề thốt rồi thì coi như hai người thuộc về nhau. Coi như đã có gia đình rồi, đã có nhà có cửa rồi. Cái nhà cái cửa đó nằm trong lòng mình.
– ‘Chuyện thề bồi kiếp này coi như không thực hiện được. Dù đến kiếp sau em cũng sẽ không quên được lời thề nguyền ở kiếp này. Sẽ xin làm con trâu, con ngựa kéo cày, chở đồ cho chàng để đền bù cái nợ mắc chàng trong kiếp này.’ Câu này có mang ảnh hưởng thuyết Luân Hồi của Phật giáo.
Tình là một cái nợ. Chưa trả thì vẫn mắc. Khối nợ sẽ không tiêu mà phải đem theo xuống âm phủ. Như chuyện chàng Trương Chi. Đem chôn, da thịt nát hết rồi mà nội kết vẫn còn một khối.
Cứ suy nghĩ quanh quẩn, băn khoan lo lắng (bàn hoàn). Lưu luyến quấn quít, không buông tư tưởng đó ra được. Chong đèn khóc cả đêm.
Cô Thúy Vân này vô tâm lắm! Chị bán mình, sắp đi xa. Cô làm việc cả ngày nên mệt ngủ như chết. Chị khóc nức nở quá thành ra cô cũng phải thức dậy. Đây là bốn câu của cô em gái:
Cô nàng đã đoán ra được có cái gì ẩn giấu bên trong. Thúy Kiều òa ra khóc, nói sự thật cho Thúy Vân:
Nói ra thì mắc cở. Chuyện này là chuyện rất thiêng liêng trong trái tim. Bị buộc phải nói cho người thứ hai nghe thì rất khó chịu. Mà không nói thì rhành ra phụ bạc.
Keo loan (loan giao) là một thứ keo để nối dây cung lại. Người ta dùng diển tích này để nói tình xưa nghĩa cũ đã gián đoạn mà còn nối lại được. Mối tình của Thúy Kiều và Kim Trọng đã tan rồi, nhưng vẫn có cơ hội để gắn lại nếu Thúy Vân chấp nhận thay thế cho Kiều.
Kiều nói hết sự thật cho em gái và nhờ em thay mình làm hạnh phúc cho chàng Kim. Được như vậy thì dù phải chết, Kiều cũng có hạnh phúc. Đó là yêu cầu của Thúy Kiều. Tôi có một câu hỏi đặt ra trong đầu là: Chàng Kim có chịu không? – Kiều đưa những kỷ vật của hai người cho Thúy Vân và tưởng tượng ra cảnh Kim Trọng và Thúy Vân sum họp sau này:
Tâm hồn Kiều là một tâm hồn hết sức nhạy cảm. Lời nói của cô cũng vậy.
– ‘Khi đó chị đã chết rồi. Xin em rảy cho vài giọt nước để linh hồn chị được mát mẻ (giống như cam lồ tịnh thủy của đức Bồ Tát Quan Thế Âm.). Những câu thơ này cho thấy ảnh hưởng của Phật giáo rất sâu đậm trong tư tưởng và văn chương Việt Nam. Sau khi đã nói hết những điều phải dặn dò, Thúy Kiều khóc. Trách nhiệm đã làm xong rồi. Bây giờ chỉ khóc cho số phận mình thôi:
Đó là chỗ đau khổ nhất trong lòng Thúy Kiều. Đau khổ nhất không phải là phải bán mình và đi lưu lạc; đau khổ nhất là phải phụ bạc người tình của mình.
Xét về phương diện tâm lý, đoạn thơ này rất hay. Kiều có một khả năng tưởng tượng rất lớn. Cô tưởng ra cảnh em gái thay mình thành duyên với Kim Trọng; hai người có hạnh phúc, nhớ tới mình, đốt hương, gảy lại phím đàn ngày xưa; nhìn ra ngoài thấy gió hiu hiu thổi lay động cỏ cây thì biết hồn mình đang về thăm hai người; và hai người sẽ rảy nước để làm mát mẻ linh hồn oan ức, khổ đau của mình. Tưởng tượng xong rồi hướng về Kim Trọng mà than thở, diễn bày tâm trạng mình . Và khi kêu lên: “Ôi Kim Lang! Hởi Kim Lang, Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!” thì đau khổ đã lên tới mức cao nhất. Kiều thét lên, ngã xuống bất tỉnh. Đó là diễn biến về tâm lý và sinh lý. Tâm lý và sinh lý liên hệ mật thiết với nhau. Niềm đau khổ lên đến mức tuyệt đỉnh tạo thành phản ứng trong cơ thể, biểu hiện bằng một tiếng hét. Hét lên một tiếng thì bao nhiêu tinh lực của khổ đau toát ra. Kiều không còn năng lượng nữa, ngã xuống và bất tỉnh.
Nói được với em gái là làm tới mức tối đa rồi. Làm sao lặp lại được những điều đó cho cả nhà nghe! Thúy Vân tiết lộ niềm đau của Kiều cho mọi người:
Tôi vẫn còn ngạc nhiên. Với trái tim của con người thế kỷ 20, mình không hiểu được tại sao họ lại chắc vào việc thành tựu nhân duyên cho Thúy Vân và Kim Trọng. Tuy là hai chị em nhưng vẫn là hai người khác nhau. Người ta yêu cô chị chứ ai yêu cô em mà lại cứ tính đem cô em thay thế cô chị! Làm như vậy có được không? Với tâm lý người ngày xưa, thì việc này có thể làm được. người ngày xưa rất trọng tình. Khi cưới một người, họ cưới luôn cả gia đình cho người đó. Thương chị thì cũng thương em được. Lấy trái tim của thế kỷ 20 để hiểu trái tim của thế kỷ 19,18, 17 cũng hơi khó.
Những chuyện này đã xảy ra trong mấy ngày sau khi Kim Trọng đi. Anh chàng lúc đó đâu có biết gì, cứ đi, nhớ và tưởng tượng. Đâu có biết đời là vô thường. Phải đọc gần cuối truyện ta mới thấy đoạn Kim Trọng trở về.
BIẾT THÂN ĐẾN NƯỚC LẠC LOÀI
Kiều là một người con gái rất thông minh. Khi thấy Mã Giám Sinh và cái bầu đoàn kia bước vào nhà, cô biết họ không phải là những người đoàng hoàng và thân mình đã rơi vào tay những người vũ phu, không ra gì. Kiều giữ gìn là giữ gìn cho chàng Kim, người Kiều đem hết lòng dạ để thương yêu; bây giờ thì Kiều đâu có chủ quyền nữa. Sau này dù được gặp lại Kim Trọng, Kiều biết thân mình cũng sẽ không còn giá trị gì. Kiều nghĩ: ‘Biết trước tình trạng thế này thì chi bằng tối hôm đó mình hiến thân cho chàng Kim cho rồi.’ Đây là những câu mà ta phải quán chiếu. Chúng ta biết Thúy Kiều đang lâm vào tình trạng tuyệt vọng cho nên dã nghĩ như vậy. Đừng nghe cô nói mà tin liền. Trước đây cô nói: ‘Gieo thoi trước chẳng giữ giàng, Để sau nên thẹn cùng chàng bởi ai?’ Bây giờ cô nói ngược lại: ‘Biết như vậy thì tối hôm đó mình đã trao thân cho chàng cho rồi. Giữ gìn cho lắm bây giờ cũng lọt vào tay người vũ phu.’ Chúng ta có thể quán sát để thấy: Nếu cô gái trao thân cho người yêu tối hôm đó thì cô có thể mất chàng mãi mãi. Cô không trao thân cho chàng thì hình bóng cô vẫn còn đẹp trong lòng chàng suốt đời. ‘Biết thân đến nước lạc loài, Nhị đào thà bẻ cho người tình chung.’ Câu nói này rất liều, không có trí tuệ. Đó là suy nghĩ của một người đang quá đau khổ. Nếu Kiều làm như vậy thì cũng rất hại cho Kim Trọng. Giữ được hình bóng đẹp đẽ của Thúy Kiều trong suốt cuộc đời mình là có lời cho anh chàng lắm! Còn hình bóng của một người con gái quá dễ dãi, đòi là được liền thì đâu thể nào ở lại lâu ngày vơi chàng Kim được. Ta đừng vì cảm tình với Kiều mà vừa nghe cô nói là đã vội đồng ý ngay. Lời nói trên chẳng qua là tư tưởng của một người bất đắc chí mà thôi, không phản ảnh được trí tuệ. Và ý tự tử đã chớm nơi Kiều:
XÓT NÀNG CHÚT PHẬN THUYỀN QUYÊN
Mã Giám Sinh đóng vai trò của một chàng rễ, kỳ thực Mã chỉ là một con bài. Lực lượng đứng phía sau họ Mã là một nhà chứa mà giám đốc là một người đàn bà rất ghê gớm: Tú Bà. Tú Bà mua Kiêu về làm một cô gái giang hồ, tiếp những khách giàu ‘sộp’ để lấy tiền. Đây là chân tướng của Mã Giám Sinh và Tú Bà:
Túa Bà và Mã Giám Sinh đều xuất thân từ chỗ ăn chơi. Khi lớn tuổi họ lại tiếp tục sinh sống bằng cái nghiệp lầu xanh của mình. Tội nghiệp Thúy Kiều đã rơi vào ổ nhền nhện.
Người đàn ông đó rất vũ phu. Kiều như một đóa hoa rất mong manh. Anh chàng thì như ‘mưa gió nặng nề’, không hề có sự lễ phép, không có sự nương tay nhẹ nhàng. Xong chuyện anh chàng bỏ đi, không săn sóc, nói chuyệng gì với Kiều hết. Kiều cảm thấy bị hiếp, nhục nhã vô cùng:
Trong cơn nhục nhã, Kiều rút dao, định tự tử nhưng nghĩ lại sợ liên lụy đến cha mẹ nên phải cất dao lại:
‘Trước sau gì cũng chết. Đợi đi khuất khỏi vùng này rồi hãy hay.’
Câu ‘Vó câu khấp khểnh bánh xe gập ghềnh’ có giá trị âm hưởng rất hay. Đọc lên đã thấy khó chịu, khỏi cần ngồi trên xe ngựa.
Đây là phong tục cổ. Ăn tiệc chia tay rồi lại gánh tiệc đi theo tiễn mười, mười lăm dặm nữa. Tới chỗ nghỉ, dở tiệc ra ăn chia tay thêm lần thứ hai.
Ngoài thì chu khách dập dìu, Một nhà huyên với một Kiều ở trong.
Trong lúc mọi người ăn tiệc tiễn hành thì mẹ của Thúy Kiều vào phòng Kiều. Hai mẹ con nói chuyện. Kiều nói: ‘Chết con rồi mẹ ơi!’
Đó là nhận xét của Thúy Kiều. Mã Giám Sinh không phải là một người đàn ông bình thường mà giống như một tay lái buôn gian manh nào đó. Đời cô như vậy chắc sẽ không ra gì.
Dùng hình ảnh. Trong tám chữ mà thi sĩ có thể lột tả thấm thía nỗi đau nhức, oan ức của người mẹ.
Nghỉ (dấu hỏi) là hắn ta, anh ta, chỉ Mã Giám Sinh. Vương ông rất thương con gái, đến trước yên ngựa của Mã Giám Sinh năn nỉ:
Hai câu sau rất hay. Người đàn bà như dây leo (cát đằng), người đàn ông như cây tùng. Dây leo lên cao được là nhờ cây tùng đứng vững. Trong Quy Sơn Cảnh Sách (ngày xưa bằng chữ Nho, người xuất gia phải học thuộc lòng) có câu: ‘Khả bất kiến ý tùng chi cát, thượng túng tiên tầm, phụ thác thắng nhân, phương năng hữu ích.’ Có nghĩa là: ‘Há quý vị không thấy cây dây leo nương vào cây tùng mà leo lên cao tới nghìn tầm. Nếu tu học mà không nương vào những người có đạo đức lớn thì không thể nào thành công được.’ Trong câu này, Vương ông nói: ‘Xin nhờ anh làm chỗ nương tựa cho cho đứa con gái thương của tôi! Trăm sự nhờ anh hết! Hạnh phúc của con gái tôi hoàn toàn trông cậy vào anh.’ Nhưng năn nỉ sao được! Đây vốn là tay bợm già, năn nỉ đâu có ích lợi gì! Anh chàng nói:
‘Không sao đâu, ông đừng có lo! Có duyên mới thành vợ thành chồng được chớ! Sau này mà tôi ăn ở không đàng hoàng, không chăm sóc Thúy Kiều thì trời phạt tôi chết!’ Họ Mã đã thề như vậy đó.
MỘT XE TRONG CÕI HỒNG TRẦN NHƯ BAY
Hai câu tả đoàn rước dâu đi trong gió bụi. Đây cũng là thân phận của kiếp người bị cơn lốc của nghiệp báo cuốn theo. Con người không có năng lực để làm chủ lấy mình. Có những đau buồn, tham giận, kiêu căng mà lại thiếu trí tuệ, từ bi và sự trầm tĩnh. Đi trong cuộc đời như đi trong một cơn lốc, người ta không có khả năng làm chủ thân tâm. ‘Đùng đùng gió giục mây vần. Một xe trong cõi hồng trần như bay’ là số phận chung của tất cả mọi người. Hồng trần là bụi đỏ, chỉ cuộc đời đau khổ. Mỗi người đang cởi một chiếc xe và đang đi trong cơn lốc của những hạt bụi đỏ. Người tu thì sẽ có phương pháp để thắng xe lại, làm chủ tình thế. Người không tu thì ngồi trên xe và bị cuốn theo cơn lốc của bụi hồng. Hai câu thơ này rất hay, có thể viết để treo ở thiền đường.
Và đây là tâm trạng Thúy Kiều khi đang ở trên con đường nghìn dặm:
Sương lạnh đọng trắng trên cầu, bầu trời ảm đạm mây đen. Đó là khung cảnh Kiều đang đi ngang qua nhưng cũng là tình trạng bên trong trái tim Kiều – cũng rất lạnh và rất đen. Nội tâm và ngoại vật giống hệt như nhau. Con người trong cảnh rất cô đơn cho nên cả trời thu đó dường như chỉ để cho một người chịu đựng mà thôi.
Tâm trạng của Kiều luôn luôn có hai nỗi nhớ niềm thương. Một bên là nhớ người yêu, một bên là nhớ cha nhớ mẹ. Tấm lòng thần hôn là tấm lòng hiếu thảo muốn săn sóc sớm chiều cho cha mẹ.
SA VÀO Ổ NHỆN
Đi một tháng thì tới Lâm Truy. Và Thúy Kiều khám phá ra được sự thật là người ta đã mua cô về để làm gái làng chơi.
Đây là bà chủ chứa. Cụ Nguyễn Du tả bà đó cũng ghê!
Và Thúy Kiều thấy:
Thần lông mày trắng (thần bạch mi) là ông thần mà các nhà chứa thờ để ông phù hộ cho được đông khách. Thúy Kiều không hiểu gì cả. tưởng là vô lạy bàn thờ tổ tiên, ai dè là bắt tới lạy cái ông thần lạ kỳ đó!
Kiều không hiểu gì hết! Nàng là một cô gái nhà lành, làm sao hiểu được ngôn từ của nhà chứa! Nhưng cô càng lúc càng nghi.
Giận Mã Giám Sinh quá nhưng bà ta đâu đánh họ Mã liền ngay lúc đó được. Tú Bà quay sang chửi và đánh Kiều:
Kiều lấy dao ra và đâm vào bụng tự tử. Nàng bị thương rất nặng.
Trong lúc mê man, Đạm Tiên lại hiện ra với Kiều:
Bây giờ Tú Bà mới biết rằng Kiều rất gan dạ, không thể dùng oai lực mà nhiếp phục được. Bà phải vuốt ve:
– “Con ơi, con còn trẻ lắm mà! Làm chi như vậy, dại dột lắm con ơi!’
– ‘Con là con nhà lành, bác sẽ không ép con làm nghề này dâu! Nhưng con đã lỡ bước vào đây rồi, bác sẽ nuôi con và gã chồng đàng hoàng cho con.’ Khôn lắm! Ăn thua là để cho Kiều chịu uống thuốc, trị bệnh, sống trước dã rồi tính sau!
– ‘Nếu con tự tử thì thiệt thân con mà bác đây cũng sẽ khổ đau lắm.’
Thúy Kiều nghe nói thấy cũng đúng và cũng hy vọng Tú Bà sẽ giữ lời. Trong giấc mộng, Đạm Tiên cho Kiều biết cô có những nghiệp duyên kiếp trước phải đền trả, không thể tránh khỏi bằng cách chấm dứt sự sống của mình.
Túc nhân là nghiệp nhân trong quá khứ. Túc là kiếp trước (Ví dụ: Túc mạng thông là hiểu thấu, nhớ được tất cả những kiếp trước.) Trong Kinh có bài kệ:
Nghĩa là: Muốn biết nhân đời trước thì coi quả đời này; muốn biết quả đời sau thì coi nhân đời này.
Dùng chữ trời ở đây là cụ Nguyễn Du muốn cho tới luật nghiệp báo. Trong giai đoạn này, cụ còn trộn lẫn thuyết thiên mạng với thuyết nhân quả. Về sau này, khi Phật học của cụ đã sâu sắc, cụ viết rất khác về tư tưởng nhà Phật.
Đây là niềm tin bình dị của xã hội Á Đông ngày xưa: ‘Thôi, ráng sống mà trả cho hết nghiệp báo. Chết thì nghiệp báo vẫn còn hoài, kiếp sau thế nào cũng phải trả nợ chồng chất.’
Kiều vẫn còn nghi: ‘Đâu có ai muốn chết, nhưng sống đục sao bằng thác trong? Bác nói như vậy nhưng liệu bác có làm theo như vậy hay không? lỡ sau này người ta làm nhục con thì thà con chết bây giờ mà được trong sạch còn hơn là phải sống ô nhục.”
– ‘Nếu bác mà không giữ lời thì trời đất sẽ không dung bác.’ Mấy người này hay thề độc lắm!
Kiều chấp nhận.
AI CÓ THỂ GIÚP KIỀU?
Chúng ta phải tìm cách độ những người đang và đã sa vào hoàn cảnh như Thúy Kiều. Những người đang ăn chơi, tàn hoại thân thể và tâm hồn mình cũng cần người đến cảm hóa. Trong Kinh có câu: ‘Dâm phòng, tửu tứ vô vi thanh tịnh đạo tràng.’ Quán rượu và nhà chứa đều là những đạo tràng mình phải đi vào để cứu độ. Phải biến những chỗ đó làm những đạo tràng thanh tịnh để hành đạo chứ không nên nhắm mắt lại, nói rằng những chỗ đó không có. Nhắm mắt lại thì không chuyển hóa được. Không độ được. Không độ được một Mã Giám Sinh hay một Tú Bà thì có biết bao Thúy Kiều sẽ rơi vào những ổ nhện đó. Giải tán được một ổ nhện là cứu được không biết bao nhiêu những cô thiếu nữ. Ở Bangkok, Manila hay Sài Gòn bây giờ có rất nhiều những ổ nhện như vậy. Đây là chuyện xảy ra ở tất cả các thành phố lớn. Các cô gái mười ba, mười bốn ở miền quê lên thành phố bán bánh nuôi em có thể bị lọt vào những ổ đó rất dễ dàng. Ban đầu họ chỉ cho vài chục đồng hay một chỗ ở, sau đó họ dụ: ‘Con làm cái nghề đó thì sẽ nhiều tiền gởi về nhà. Làm nghề này một ngày thì được họ cho mấy trăm, mấy ngàn đồng, thấy khỏe quá. Rồi mới lún từ từ vào sâu. Ở Sài Gòn cũng có những trẻ em bụi đời, những ‘người Việt gốc me’ (không có nhà, ngủ dưới gốc cây me.) Nếu sa vào ổ nhện rồi thì muốn ra rất khó. Ngày xưa dưới thời ông Thiệu ông Kỳ có ngã tư Quốc Tế, ngã tư Chú Lía… ghê gớm lắm. Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, vấn đề này còn to lớn hơn. Phải có kế hoạch, phải biết rõ tình trạng thì mới có thể hành đạo ở những chỗ đó. Có khi nào các thầy, các sư cô nghĩ tới chuyện đi đến những chỗ ấy để hành đạo không? Nếu các thầy cứ ở chùa mà thuyết Pháp thì tiếng Pháp của các thầy làm sao tới được những người đau khổ như Thúy Kiều? Nếu quý vị muốn đem đạo Phật đi vào cuộc đời thì phải nghĩ đến đạo Bụt nhập thế, nghĩa là Phật giáo nhân gian. Ngày xưa sư Giác Duyên đã làm chuyện ấy.
Rất ngộ nghĩnh là Kiều đã tự tử, đã được bán cho một thương gia giàu có (Thúc Sinh), đã được một ông đại tướng (Từ Hải) cưới về, và đã đi tu nữa, vậy mà cũng không thoát ra được. Cô đã tìm mọi cách để thoát ra. Nhưng số phận vẫn đưa cô về lầu xanh, làm vật chơi cho người khác. Rốt cuộc là chính một ni sư đã cứu Kiều và đem Kiều về nếp sống bình thường, cho Kiều cơ hội gặp lại cha mẹ và người yêu cũ.
Vớt người trầm luân, đó là công việc của một sư cô. Điều này đã xảy ra trong quá khứ. Hiện nay, những thanh niên Việt Nam đã không có hạnh phúc đi theo băng đảng ở Mỹ rất nhiều. Tình trạng này lan sang cả Canada và Âu Châu. Các thầy, các cô có làm được gì để giúp những người ấy hay không? những bài thuyết pháp của quý vị có động tới được những thanh thiếu niên đó không? Trước khi là thanh niên du đãng thì họ cũng đã là những thanh niên bình thường. Các thầy đã giảng được cho các thanh niên bình thường ấy chưa?
BỒ TÁT QUÁN TỰ TẠI
Khi đọc Kiều, nghe những đau khổ và chán chường như thế, ta không thấy dễ chịu. Chúng ta đi tìm sự thật. chúng ta phải có câu trả lời cho tình trạng. Đây không phải chỉ là tình trạng ngày xưa, đây cũng là tình trạng bây giờ. Khi giảng Tâm Kinh Bát Nhã, tôi cũng đem Tâm kinh vào xã hội ngày. Tôi nói rằng một em bé ở Bangkok bị dụ làm gái ăn sương, chiều đi sáng về, trông thấy những cô nữ sinh áo trắng đi học, ngẫm lại thân mình thì tủi. Các cô gái nhà lành thật may mắn. Thân phận em là thân phận ô uế của một cô gái ăn sương. Em có mặc cảm mình là con gái bỏ đi, còn những cô nữ sinh kia là những cô gái đáng sống. không ai có thể cứu em bé này ra khỏi mặc cảm ô nhục, dơ bẩn, ngoại trừ Bồ Tát Quán Thế Âm. Bồ Tát nói như thế này: “Con không dơ mà mấy cô kia cũng không sạch. Sở dĩ mà con như thế này là vì xã hội kia như thế kia (Thử hữu cố bỉ hữu thử vô cố bỉ vô.) Xã hội kia được như vậy là vì có những người như con. Con làm ra xã hội và xã hội làm ra con. Không phải chỉ có con mới chịu trách nhiệm về con mà cả xã hội kia cũng phải chịu trách nhiệm về con. Con đừng có mặc cảm con là người duy nhất chịu trách nhiệm. Tất cả những nhà giáo dục, kinh tế, chính trị trong xã hội đều chịu trách nhiệm về con cả.’ Đó là ý ‘Không dơ cũng không sạch, Không thêm cũng không bớt’ trong Tâm Kinh Bát Nhã. Nghe Đức Quan Thế Âm nói như vậy thì ranh giới giữa dơ và sạch, bên này và bên kia mới được tháo sạch và mặc cảm của các cô gái ăn sương lúc đó mới có thể được tiêu trừ. Đó là giọt nước Cam Lộ mà chỉ có đạo Phật mới cung cấp được. Cái thấy bất nhị này chúng ta ít tìm thấy trong các truyền thống tôn giáo khác. Cái này như thế này là vì cái kia như thế kia. ‘Thân phận con, cả xã hội đều chịu trách nhiệm. Con đừng có mặc cảm tội lỗi. Nếu người ta sống đàng hoàng, biết lo cho tất cả thì con đã không đến nỗi như thế này đâu.’ Em bé sẽ khóc và ôm lấy chân Đức Quan Thế Âm: ‘Xin Ngài dạy cho con cách để thoát ra khỏi’. Lúc ấy Đức Quan Thế Âm mới bắt đầu dạy cho em được. Chúng ta cũng phải làm như thế. Ngày xưa ở Sài Gòn có các sư cô làm chuyện đó. Ngày nay cũng vậy.
Có một em bé ở nhà quê lên bán bánh. Người cô không cho em ở vì em không có tên trong tờ khai gia đình. Em ngủ ngoài nghĩa địa. Sợ ma. Một bữa nọ Tú Bà lại nói: ‘Nếu con chịu ngủ với người ta thì con sẽ có nhiều tiền. Con được một trăm thì cô chỉ giữ lại hai chục để trả tiền nhà, tiền nước.’ Nhà chứa không chánh thức; công an, cán bộ biết, nhưng được lo lót thì cũng để cho yên. Một sư cô thấy em bé nhỏ xíu, mới mười sáu tuổi mà đứng ngoài được kiếm khách. Sư cô kêu em lại nói chuyện. ‘Thôi, Tú Bà biết liều không sợ chứa chấp con thì cô cũng liều. Thay vì ở nhà Tú Bà thì con về ở chùa đi.’ Cô cho em ở đậu và giúp em một xe bán bánh mì. Sư cô này hiện đang sống ở Sài Gòn, đã và đang làm những việc như vậy. Đừng nói rằng những chuyện đó là những chuyện quá khứ, những chuyện minh không làm được. Đó là một trong những chuyện đang xảy ra.
Nếu sư cô nọ có thể giúp em bé kai thì sư cô cũng đã có thể giúp những em bé khác. Ngoài sư cô cũng còn biết bao nhiêu những sư cô khác đang làm được chuyện này. Đây không phải là chuyện lý thuyết. Sự thật ở Sài Gòn bây giờ có những sư cô buổi sáng mở chùa cho trẻ con bụi đời vô học. Các cô nói: ‘Nếu các con chịu khó học được bốn tiếng đồng hồ thì trưa nay sẽ được ăn cơm chay.’ Giữ con nít ở trong chùa để các em khỏi ra được làm du đảng hay đào bới trong những đống rác. Ăn trưa xong các em có thể lăn ra ngủ. Ở lại học buổi chiều từ ba đến sáu giờ thì các em lại được ăn cơm chiều. Nhìn bề ngoài thấy giống như trẻ em mỗi ngày được cung cấp mấy giờ học và hai bữa cơm. Kỳ thực kết quả lớn lắm! Các cô đã giữ được cho các em khỏi sa vào những ổ nhện và khỏi trở thành những trẻ em du đảng. Cho một em ăn trưa chỉ tốn 25 cents thôi. Ở Tây phương, 25 cents thì mua gì được! Nhưng vào tay sư cô, 25 cents là một bữa ăn cho em bé. Bao nhiêu công việc như vậy. Rất đẹp, rất hay. Đạo Phật là như thế, không phải là đạo nói trên trời dưới biển. Thúy Kiều bây giờ nhiều lắm. Có khắp nơi. Chỉ thương hại cho cô Thúy Kiều của cụ Nguyễn Du không thôi thì rất bất công. Cô này đã có người thương rồi, đã có một sư cô tên Giác Duyên lo cho rồi. Còn biết bao nhiêu Thúy Kiều nhỏ tuổi, dại dột hơn Thúy Kiều này đang ở khắp nơi trên quê hương mình. Đọc truyện Kiều với cái thấy này thì truyện Kiều trở thành ra Kinh. Ích lợi như đọc Kinh.
NỬA TỈNH NỬA CẢNH
Tú Bà đã hứa sẽ lo cho tương lai của Kiều và để Kiều dưỡng bệnh ở lầu Ngưng Bích. Đây là những câu thơ đẹp tả cảnh quanh lầu Ngưng Bích; đồng thời nói lên tâm trạng nhớ thương của Thúy Kiều:
Núi xa, trăng gần. Những cồn cát màu vàng, những con đường chạy về nơi xa tắp có màu hồng của Đất. Hình ảnh đẹp. Có tương phản (xa – gần, cát vàng – bụi hồng, cồn nọ – dặm kia) và có kếp hợp (ở chung). Có động (cát – bụi) và có tình (non – trăng). Hay một phần nữa là ở chỗ ngắt nhịp. Thay và ngắt ở chữ thứ tư như những câu tám thông thường trong lục bát (ví dụ: Cát vàng cồn nọ/ tấm trăng gần/ ở chung. Hơi thơ vì vậy khác thường, không đều đều một điệu.
Tâm tình thương nhớ và khổ đau sẵn có xúc chạm với cảnh đẹp làm tâm trạng Kiều càng thêm xao xuyến:
Người chị cả trong nhà nghĩ rằng mình đã không làm tròn được bổn phận của người con lớn. Trông vời cố hương, nghĩ về thân phận. Không biết mình sẽ đi về đâu trong tương lai:
Ngồi ngắm cảnh mà trong lòng thì buồn. Chữ buồn trông lặp qua lập lại đến bốn lần khiến cái buồn thêm vị sắt se, thấm thía. Tâm người ngắm cảnh tràn vào cảnh, khoác lên cảnh vài sắc thái xa xa, man mác, dàu dàu, bàng bạc trong những câu thơ tài tình.
NHẮM MẮT ĐƯA CHÂN
Cảm niềm đau của một người xa quê hương (đau lòng lưu lạc) Kiều ghi xuống tâm sự mình dưới hình thức những câu thơ. Làm thơ xong, buông màn xuống ngâm lên thì nghe phía tường bên kia có tiếng một người con trai ngâm họa lại. Người con trai đó được tả như thế này:
Rất hay! Anh chàng có dáng dấp học trò, không giống Mã Giám Sinh nhưng cũng rất khác với Kim Trọng. Hữu ư trung tức hình ư ngoại. Qua cách tả chúng ta cũng đã thấy được phần nào nội dung tâm lý của anh chàng rồi.
Thấy nàng Kiều anh chàng cũng có vẻ quyến luyến. Anh ta mở lời:
Anh chàng muốn chứng tỏ mình là một trang hảo hán, có lòng anh hùng nghĩa hiệp, có thể cứu đời. Theo cách nói như vậy, chúng ta thấy rất rõ đây chỉ là nghĩa hiệp ở hình thức. Hình như Thúy Kiều cũng cảm thấy điều đó. Nhưng cô đang ở trong một hoàn cảnh quá ư khó khăn nên cố bíu lấy bất cứ cái sào nào được đưa ra.
Thúy Kiều viết thư kể chuyện mình. Tảng sáng gửi sang (tiện hồng) nhà bên kia. Đến chiều đã thấy thư trả lời (phục thư) của ‘chàng nghĩa hiệp’.
Kiều rất thông minh. Mở thư thấy hai chữ ‘Tích Việt’ thì đoán được thông điệp bí mật. Chữ Tích () phân ra có ba phần: trấp () là hai mươi () nhất () là một, nhật () là ngày. Chữ Việt () có nghĩa là vượt, trong đó có chữ () tuất (). ‘Ngày hai mươi mốt, giờ Tuất (19: 00 – 21:00 giờ) mình sẽ đi trốn.’ Đó là thông điệp bí mật của chàng.
Bây giờ hai người mới thật sự gặp nhau. Trước kia chỉ gặp bằng thơ văn.
Rất nhiều người thuộc lòng hai câu cuối và hay liều lĩnh làm theo. Khi bị đặt vào hoàn cảnh phải đi tới một quyết định, ta phải cẩn thận lắm mới được. nếu ta không tin tưởng ở giải pháp đó một trăm phần trăm thì đừng làm liều như Thúy Kiều. Bị bí, không có nước ra mà cứ chấp nhận càn một giải pháp mạo hiểm. ‘Cũng liều nhắm mắt đưa chân, Mà xem con tạo xoay vần đến đâu’ Thực ra là một lời cảnh cáo. Không bao giờ nên làm một cái gì mà mình chưa suy nghĩ kỹ càng. Phải đem hết tất cả trí tuệ của mình mà quán sát. Chỉ khi nào thấy rằng giải pháp đó là hay nhất, không có con đường nào hay bằng thì mình mới làm thôi. Trông vào may rủi (taking chance) là không nên.
QUẤT NGỰA TRUY PHONG
Canh là đơn vị thời gian dài, khắc là đơn vị thời gian ngắn (15 phút). Đồng hồ (hồ nước bằng đồng) ngày xưa làm bằng hai chậu nước thông nhau, thời gian được đo bằng mực nước nhỏ từ chậu trên xuống chậu dưới. Chữ lậu trong khắc lậu có nghĩa là rỉ ra, lọt xuống. Người tu hành mà còn sa xuống thì gọi là hữu lậu, không còn rơi xuống nữa thì gọi là vô lậu.
Có tiếng đoàn người đuổi theo. Sở Khanh lộ ra chân tướng:
Hãy tưởng tượng cảnh người con gái đang đi một mình trong rừng, sau lưng có một đoàn người đuổi theo! Cụ Nguyễn Du xót cho Kiều:
GIÀY TÍA VÒ HỒNG
Tú Bà đánh Kiều tơi bời. Chỉ một cái tội đi trốn thôi là đủ để đánh rồi. Kiều chịu không nổi:
Kiều dùng phương pháp mặc cả, đánh vào cái lợi của người ta, để đừng bị đau đớn. Câu sau cùng là câu chua chát nhất:
Đây là câu thơ cay đắng, chua xót và đau đớn nhất trong truyện Kiều. Chừa những thói hư tật xấu như tham lam, sân hận, kiêu căng thì gọi là chừa. Nhưng lòng trinh bạch mà phải chừa thì là một bản án rất lớn của số phận đè lên con người. Đó là bi kịch lớn của loài người. Tất cả những độc giả của Nguyễn Du khi đọc tới câu này đều phẫn uất. Phẩn uất cho con người, phẫn uất cho xã hội. Một xã hội mà trong đó cô thiếu nữ phải hứa là sẽ chừa đi cái trong sạch và trinh trắng của minh! Dễ sợ!
Tú Bà bắt Kiều phải thề thốt và cam kết sẽ ra tiếp khách mới chịu tha. Trong thanh lâu có cô Mã Kiều thương tình, đứng ra bảo lãnh cho Thúy Kiều.
– ‘Ít nhất Tú bà đã trả cho Sở Khanh ba mươi lạng vàng để đưa cô vào tròng. Hắn trở mặt nhanh lắm! Thôi, cô đừng nói năng gì với hắn nữa hết kẻo mà thiệt thân’.
– ‘Nghe đồn có con nào ở đây mới phao vu cho tôi quyến rũ nó? Nó hãy ra đây coi thử cái mặt này có phải là mặt của thằng đó không?
PHONG TRẦN NHƯ AI
Bây giờ mình đau khổ như thế này là vì kiếp trước mình đã không biết tu tập đàng hoàng. Vậy thì đừng than thở nữa, hãy tu tập để chữa lại những lỗi lầm trong quá khứ. Ở đây Kiều nghĩ rằng mình phải chấp nhận tiếp khách để ‘trả cái nợ’ mình đã mắc trong tiền kiếp. Cương quyết ‘trả nợ’, chấp nhận tiếp khách. Nhưng tiếp khách đâu phải dễ. Tú Bà gọi Kiều vào và dạy: phương pháp tiếp khách. Là con gái nhà lành, Kiều phải đi qua một lớp ‘huấn luyện’ thì mới có thể làm ăn được.
Trong khi tiếp khách bận rộn thì Kiều không có thì giờ để đau khổ. Nhưng những khi tỉnh rượu giữa đêm khuya là những lúc Kiều đau khổ cực kỳ. ‘Một mình mình lại thương mình xót xa’. Câu thơ có tới ba chữ mình mà không chữ nào dư.
Bốn chữ sao lặp đi lặp lại như tiếng than, như câu hỏi, là nỗi day dứt không đành trước nghịch lý trớ trêu của thân phận.
ĐÒI ĐOẠN XA GẦN
Cũng có những lúc rảnh rổi. Ngồi tựa cửa nghe gió, ngắm hoa, Kiều thấy tuyết rơi ngậm một nửa bức rèm trước cửa sổ hay trăng chiếu sáng bốn bề. Những lúc đó Kiều thấy gì?:
Cảnh đẹp. Nhưng khi tâm mình buồn thì không có cảnh nào là không chứa đựng trong lòng nó tính chất sầu đau của tâm lý. Thuần túy Duy Thức Học!
Cũng có những giờ phút giống như là an lạc: ngồi vẽ, đánh đàn dưới trăng, chơi cờ với khách. Đứng ngoài ngó vô thì giống như mình cũng là một người phong lưu, lịch sự. Nhưng mà:
Kiều nghĩ đến cha mẹ già. Ở xa, hai đấng sinh thành đâu biết thân phận con mình đã ra đến thế này! Hai em còn nhỏ ở nhà không biết có săn sóc được cha mẹ như mình mong muốn không?
Tưởng tượng Kim Trọng về, nghe Kiều đi lấy chồng rồi thì buồn biết bao nhiêu mà kể! Không biết cuộc nhân duyên mà Thúy Kiều mong muốn tác hợp giữa người yêu và em gái có thành tựu được không?
Thơ rất hay! Thời gian đi qua, lặp lại. Những lúc chiều xuống là những lúc người ta nhớ nhà nhiều nhất.
SÁU CHỮ ‘CHO’
Bốn câu thơ thế đi rất mãnh liẹt. Có sáu chữ cho. Như đóng đinh vào gỗ, mỗi chữ cho chuyên chở sức mạnh của một lát búa, thể hiện sự phẫn uất của con người (và tác giả) trước số mệnh. Nếu tác giả không từng đau khổ thì không thể nào viết được bốn câu thơ này. Tác giả cũng đã từng bị sỉ nhục trong cuộc đời.
Cảm giác bị ô nhục không phải là cảm giác của riêng Thúy Kiều. Tất cả chúng ta trong đời thế nào cũng đã hoặc sẽ có lần cảm thấy bị sỉ nhục như là bị hãm hiếp (dầu con trai). Đây là một sự thật. Trong thơ có chữ hồng nhan, kỳ thực ai mà không phải là hồng nhan? Cuộc đời tàn nhẫn, bất nhân. Con gái, con trai gì một ngày nào đó cũng sẽ đi qua những lần cảm thấy mình bị sỉ nhục như sự sỉ nhục của nàng Kiều. Nếu quý vị là những người trẻ chưa từng bị sỉ nhục thì nên nhớ điều này. Xã hội sẽ đem tới kinh nghiệm đó cho quý vị. Hồi tôi đi làm công tác cứu người trên biển tôi cũng đã bị sỉ nhục. Xã hội làm cho mình nhục nhã trong khi mình đi làm những công việc có tính cách thanh cao. Tôi đã bị nhiều lần như thế chứ không phải chỉ một lần. Thân phận mình lúc đó giống như thân phận nàng Kiều. Xã hội đã được tổ chức thế nào mà tất cả chúng ta, sanh ra làm kiếp người ai cũng sẽ phải đi qua thân phận của nàng Kiều ít nhất là một lần. ‘Đã đày vào kiếp phong trần, Sao cho sỉ nhục một lần mới thôi!’
Đọc xong sáu chữ cho, tự nhiên trong tâm mình thấy có thoải mái. Vì mình đã hét lên sáu tiếng hét. Ghê gớm không thua gì sáu tiếng hét của thiền sư Lâm Tế. Bao nhiêu đau khổ, uất ức tản ra và tâm tình mình nhẹ đi.
MỘT TỈNH MƯỜI MÊ
Trong thời gian tiếp khách, Kiều gặp một người đàn ông đem lòng say mê và cứu Kiều ra khỏi thanh lâu. Anh chàng tên là Thúc Kỳ Tâm, trước là học trò, bây giờ vừa học trò và là thương gia tập sự.
Anh chàng là một người có nhiều tiền. Cô nàng là một người rất có nhan sắc. Vì vậy:
Liên hệ giữa hai người ban đầu chỉ là liên hệ của những người chơi. Sau biết nhau, hiểu nhau thì đem lòng thương nhau. Trăng gió là vấn đề sinh lý. Đá vàng là có sự gắn bó, thương mến về tâm lý.
Đáng lý cha đi vắng, Thúc Sinh ở lại phải lo chăm sóc cửa hàng. Nhưng anh chàng chỉ đi lầu xanh:
Chất đam mê rất lớn. Khi học đạo tỉnh thức thì chúng ta đi về hướng ‘mười tỉnh một mê’. Ở đây anh chàng lại đi về hướng ‘mười mê – một tỉnh’!
Nhà Nho Nguyễn Du tả một thiếu phụ khỏa thân tắm. Nhà Nho này cũng ghê lắm chứ đâu phải chơi. Trong nguyên lục, tác giả chỉ tả cái đẹp của Kiều buổi tối ấy sau khi nàng vừa mới tắm ra, chứ không tả Kiều trong khi nàng tắm. Cụ Nguyễn Du lại tả Kiều trong khi nàng tắm. Bài thơ của Thúc Sinh làm ra để ca tụng sắc đẹp Kiều tuy có nói đến băng cơ tuyết thái (da băng vẻ tuyết) nhưng cũng chỉ ca tụng mỹ nhân đã mặc áo vào rồi, còn những câu thơ của cụ Nguyễn Du lại là để ta tụng mỹ nhân khi nàng khỏa thân. Truyện Kiều như vậy là erotic hơn nguyên lục! Đọc tới chỗ này tôi thấy tức cười vì cụ nhà Nho biết cô này thuộc về hàng buôn hương bán phấn mà lại tả ‘rõ ràng trong ngọc trắng ngà’. Với một cô gái làm nghề mãi dâm thì thi sĩ không thể dùng những chữ này được. Hơn nữa tôi chắc chắn là cô ta có một cái sẹo ở bụng rất lớn mà cụ lại không nói tới. Cô đã tự tử gần chết thì cái sẹo đó phải rất lớn. Nếu cô đâm vào cổ tự tử thì cái sẹo nằm ở cổ, tại sao cụ quên mất cái vụ đó đi mà không tả? Tôi sẽ hỏi cụ như vậy. Có phải cụ giấu diếm một sự thật hay không? Vết thương trong tâm, cụ đã nói quá nhiều, mà cụ lại không nói đến những vết thương nơi thân. Vết thương do tự tử và những vết thương do những khách làng chơi đưa tới.
Thúc Sinh làm thơ ca ngợi sắc đẹp của Kiều. Kiều viện cớ nhớ nhà không họa lại.
– ‘Em không phải là con gái Tú Bà? Vậy tại sao lại gọi mẹ mẹ con con ngọt xớt như vậy?’
– ‘Anh đừng nói nhiều làm chi. Liên hệ của chúng ta là liên hệ phù phiếm của con bươm bướm và bông hoa tàn. Thời giờ của mình là ghời giờ để ăn chơi vì vậy đừng động tới những niềm đau sâu sắc trong lòng nhau.’
– ‘Tôi muốn chuyện lâu dài chứ không phải chuyện liên hệ nhất thời.’ Đây là những lời rất thành thật của Thúy Kiều:
– ‘Cảm ơn anh, nhưng mà anh không thực tế. Thứ nhất anh đã đến đây là vì hình thức hấp dẫn. Mai kia nhan sắc em tàn tạ thì biết anh có còn thương em nữa hay không?’
– ‘Hơn nữa anh đã có vợ ở nhà. Bây giờ có thêm một người nữa thì làm sao không có sự chia sẻ tình yêu. Đừng vì em, một cánh bèo, một đám mây trôi, mà làm thay đổi xáo trộn tình chồng vợ.’
– ‘Sau này nếu trong nhà cơm không lành canh không ngọt, hai bên giận, đánh nhau và từ nhau thì ai chịu tội đó nếu không phải là em? Nếu chàng có uy lực thì mười phần cũng chỉ che chở cho em được vài phần thôi. Ngược lại, nếu vợ cả là sư tử Hà Đông thì tình trạng của vợ lẽ (đằng la) rất nguy hiểm. Em đang chịu cái khổ của lửa nồng (lầu xanh) nhưng chui vào hoàn cảnh đó để gặp cái khổ của giấm chua (ghen) thì lại càng tệ hại hơn. Nằm trong đối tượng của sự ghen tuông người ta khổ vô cùng.’ Rất tội nghiệp, Thúy Kiều đã lớn lên trong đau khổ và đã nói ra những sự thật.
– ‘Rồi còn ba anh nữa! Liệu ông có chấp nhận thân phận cây liễu mọc đầu ngõ, bông hoa nở bên tường của em không? Nếu ba anh đuổi em về lầu xanh thì đành thân phận em là vậy nhưng danh giá của anh cũng sẽ bị tan nát vì chuyện này.’ Đọc ngang đây tôi phục Thúy Kiều lắm. Trải qua bao nhiêu tủi nhục ê chề nàng Kiều đã học được bài học của thực tế và đã nói hết ngọn ngành hơn thiệt cho Thúc Sinh nghe. Nhưng anh chàng không nghe. Kiều lập lại để kết luận:
– ‘Anh là con trai. Nếu đã thương thì anh phải tính cho trọn và đã quyết định thì anh phải chịu trách nhiệm.’ Buộc bằng một câu nói rạch ròi như vậy. Rất thông minh.
Gan mà! Mê quá rồi! Lát nữa chúng ta sẽ biết có nên tin anh chàng hay không.
– Lại thề nữa!
HOÀN LƯƠNG
Thúc Sinh lập mưu đón Thúy Kiều đi nghỉ mát ở vườn trúc rồi bắn tin về Tú Bà dọa kiện Tú Bà đã lừa mua con nhà lương thiện bắt đi làm đĩ (chiến) nếu Tú Bà không cho chuộc Kiều (hòa). Tú Bà phải chịu nhận tiền và ký giấy hoàn lương cho Kiều.
Thúc Ông về, thấy con trai đem một cô gái giang hồ về nhà ở thì nổi trận lôi đình. Thúc Ông không những ngại (nặng lòng e ấp) về danh giá nhà mình mà còn lo đối với nhà vợ cả của Thúc Sinh sẽ có chuyện lôi thôi. Ông bắt Kiều phải về lại lầu xanh.
Có người còn đố chơi: Thúc Sinh làm nghề gì? Trả lời: làm thợ nhuộm. Vì nếu không thì nhúng tay vào chàm làm gì? Truyện Kiều đã được yêu mến và đi vào đời sống người dân dưới những hình thức đố Kiều, bói Kiều, lẫy Kiều… vân vân.
Thúc Sinh nhất định chết chứ không chịu đuổi Kiều về lầu xanh.
Thấy con trai cứng đầu quá, Thúc ông đi thưa với chính quyền.
HIỂU NGHĨA CHỮ THƯƠNG
Quan phủ mắng Thúc Sinh trước, nhưng chỉ mắng một câu thôi. Quay sang Thúy Kiều, ông la rất nhiều:
Gọi người con trai là ‘con đen’ ‘dại nết’ và như vậy bao nhiêu lỗi ông mặt sắt đều đổ hết lên người con gái. Rõ ràng có sự thiên vị, không công bình. Mặt ông, thật ra, cũng không ‘sắt’ bao nhiêu.
Kiều phải chọn một trong hai giải pháp: bị đánh, bị gông hoặc là trở lại lầu xanh. Kiều nhất quyết không trở về đời sống lầu xanh nữa:
– ‘Dầu đục dầu trong thì thân con người vẫn là thân con người, ai cũng biết đau như nhau. Con chọn hình phạt.’
Với một người nhi nữ thì hình phạt kia quả thật là quá đáng! Nhưng cụ Nguyễn Du không nói thương Thúy Kiều mà lại nói thương Thúc Sinh:
Trong khi mọi người nhìn vào đều thấy cái khổ bị trừng phạt của Thúy Kiều thì cụ lại nhìn thấy cái khổ của Thúc Sinh. Người thương của mình đang bị hình phạt thì mình rất đau khổ. Nhất là nỗi khổ đó lại do vì mình mà có! Đau còn hơn là chính mình bị gông cùm và đánh đập nữa!
Cạn lòng là suy nghĩ và tiếp xử với sự việc xảy ra trong một ngày một cách hời hợt, không biết quán chiếu sâu sắc. Vì vậy cho nên ‘để ai trăng tủi hoa sầu vì ai?’ Lúc đau khổ xảy ra mới biết kiểm thảo, hối hận! Ngày xưa vì mê quá, cho nên anh chàng chỉ nói: ‘Để anh lo hết ! Em đừng sợ.’ Anh hùng mà sợ gì! Nhưng đến lúc này ta mới thấy anh chàng chẳng anh hùng gì cả.
Ở đây chúng ta cũng thấy được nghĩa của chữ thương. Thương mà chỉ biết nghe tiếng gọi của đam mê, không biết nghe tiếng gọi của trí tuệ thì mình sẽ làm khổ và gây thương tích cho người mình thương.
Đây là lần đầu tiên ông phủ mở lời khen Thúy Kiều. Định kiến của ông về người con gái xuất thân từ giới trăng hoa bắt đầu thay đổi.
Được quan bắt đầu hiểu thì bên này chàng Thúc nức lòng, liền khoe: ‘Dạ bẩm quan lớn. Em con tuy không có phước đức nhiều nhưng ngày xưa cũng đã được đi học. Khá giỏi văn chương.” (Kiều giỏi lắm đó! Không phải thường đâu, bẩm quan lớn!) Bây giờ quan phủ đã bắt đầu có cảm tình với Kiều:
Quan lớn chịu chơi: ‘Hay lắm! Vậy thì bảo nó thử làm một bài thơ vịnh cái gông (một già) để ta xem thử tài học của nó đã tới trình độ nào (trình nghề)’ Nghề ở đây là nghề văn chương. Trình kệ kiến giải cũng là trình nghề; những chuyển hóa mình đã đạt được sẽ xuất hiện trong bài kệ kiến giải.
Nguyên bản Phong Tình Lục có bài thơ Kiều làm như sau:
Nghĩa là:
– ‘Thôi ông hoan hỉ cho cả hai đứa!’ Mặt sắt bây giờ không còn sắt đá nữa. Ông quan này là người có khả năng thưởng thức văn chương. Cái may của Thúy Kiều là chỗ đó. Biết làm thơ đôi khi cũng hay! Rồi ông quan chịu chơi hơn còn cho xe ngựa đưa cặp vợ chồng này về và giúp phương tiện tổ chức đám cưới, chính thức hóa cho họ nữa:
Đó là thái độ mới của ông già chồng, chịu ảnh hưởng của thái độ quan huyện. Thấy được đức hạnh và tài năng của Thúy Kiều nên ông đã chấp nhận Kiều như con dâu của mình. Trước đó ông đâu thèm ngó tới! Ông có một ý niệm: ‘đây là một cô gái từ thanh lâu tới’; và chỉ có ý niệm đó nên thôi. Kế đến là sợ thế lực của quan Lại Bộ bên nhà vợ cả Thúc Sinh. Hành động trên căn bản sợ và thành kiến vì vậy ông đã không có khả năng thấy được con người của Thúy Kiều. Nhờ quan phủ mà bây giờ Thúc Ông đã thấy được đức hạnh và tài ba của Thúy Kiều. Ông hết giận không còn những câu chửi rủa, mắc nhiếc và lên án nữa.
Hạnh phúc bây giờ lớn hơn vì con người đã trải qua những đắng cay, đau khổ. Sau khi giận thì người ta lại thương nhiều hơn. Sau những khó khăn thì tình người trở nên đậm đà.
TRONG ẤM NGOÀI ÊM
Bị kiện tụng là hồi mùa thu. Qua mùa Đông, mùa Xuân và bây giờ bắt đầu mùa Hạ. Không biết trong thời gian Thúc Sinh có học hành hoặc buôn bán gì không? Chỉ nghe cờ với rượu. Kiều bây giờ đã giỏi, có kinh nghiệm trong cuộc đời rồi. Kiều biết lo xa chứ không phải chỉ ham chơi như anh chàng. Kiều khuyên Thúc Sinh về thăm nhà và nói tất cả sự thật cho vợ cả nghe để được chấp nhận đàng hoàng, không phải sống chui sống nhủi một cách không chính thức.
Những lời này chứng tỏ Kiều đã chín, đã có kinh nghiệm.
Trong nguyên bản Phong Tình Lục có năm chữ: ‘Vô nãi hữu trá hồ?’ Hay là trong nhà (người ta đã biết và) có mưu mẹo gì rồi? ‘Hoặc là trong có làm sao chăng là?’
Đi theo đường lối giấu, giấu và giấu. Đó là tình trạng bế tắc, không thông. Đối với các tâm hành trong ta cũng vậy, ta phải đưa tất cả ra dưới ánh sáng của chánh niệm thì mới mong tạo được tình trạng lưu thông, thông suốt và an toàn.
THƯƠNG NHAU XIN NHỚ LỜI NHAU
Kiều đã có trí tuệ. Làm sao để cho bên trong ấm thì bên ngoài mới êm được.
Khi vô ý thì cái yếm màu thắm đỏ cũng không thấy. Khi có ý thì tuy cái lỗ kim nhỏ ta vẫn thấy và xỏ chỉ qua được. Đừng khinh thường, nghĩ rằng người ta không biết. Những chuyện sờ sờ như vậy không biết làm sao được! Đừng bưng mắt bắt chim (yểm tự bồ tước), đừng tự dối mình!
– ‘Dầu khó khăn, sóng gió thế nào đi nữa thì chị là lớn, em là nhỏ. Danh phận đâu ra đó.’
Thúy Kiều như một nhà tiên tri, biết trước những gì sẽ xảy ra và nói rõ cho Thúc Sinh những điều cần phải làm. Nhưng Thúc Sinh vẫn không làm. Anh chàng không chuyển hóa gì cả.
Rất cảm động: ‘Thương nhau xin nhớ lời nhau’ Sáu chữ thôi mà rất hay. Nếu quả thực mình thương thì mình phải nhớ, phải hiểu được lời người kia nói. Bằng không thì mình sẽ trở thành một Thúc sinh, đem lại đau khổ cho chính mình và cho người kia. Thương nhau xin nhớ lời nhau. Nếu mình lạy Bụt, kính Bụt, thương Bụt thì cách hay nhất để biểu hiện tình thương của mình là nhớ, hiểu và làm theo lời Bụt. Liên hệ giữa bằng hữu và thầy trò cũng vậy. Phải nhớ lời nhau.
Hình ảnh rất đẹp! Chia bào là buông vạt áo ra. ‘Thôi thôi buông áo em ra, Để em đi chợ kẻo mà chợ trưa.’ Ở đây là: ‘Thôi thôi buông áo anh ra, Để anh thăm vợ kẻo mà vợ la.’
Câu ‘Vầng trăng ai xẻ làm đôi’ có liên hệ đến hai câu thơ chữ Hán và một giai thoại thi ca. Hai câu thơ đó là:
(Ai đem cái chén vàng chẻ làm hai mảnh? Một mảnh chìm dưới đáy nước, một mảnh nổi lơ lửng trong hư không.)
Một hôm thi sĩ Trương Kế ngồi làm thơ trong thuyền trên sông gần thành Cô Tô. Làm được hai câu thì bí:
(Trăng lặn, có tiếng quạ kêu, sương rơi đầy trời; Những cây phong ở bờ sông, đèn của người đánh cá ban đêm; Trước cảnh đó lòng phát sinh một mối hoài cảm, chạnh buồn (đối sầu miên).
Lúc đó trên chùa Hàn Sơn (Hàn Sơn và Thập Đắc là một cặp thi sĩ Phật tử rất nổi tiếng ngày xưa) ở thành phố Cô Tô, thầy trụ trì sau giờ thiền tọa, thấy trăng đẹp thầy cũng làm thơ. Làm được hai câu thơ thì thầy cũng bí:
(Đầu canh ba canh tư trăng mơ hồ; Nửa giống cái liềm bằng bạc, nửa giống cái vòng cung.)
Làm không xong bài thơ, thầy đi bách bộ. Chú tiểu thông minh và tài ba đã làm giúp thầy hai câu sau cho tròn bài thơ.
Thầy trụ trì nói: ‘Hay quá! Hay hơn hai câu của thầy nữa!’ Hai thầy trò quá vui: ‘Để ăn mừng bài thơ của mình, thôi có lầu chuông mới xây xong mình hãy lên thỉnh đại hồng chung.’ Thường người ta chỉ thỉnh chuông lúc 4 giờ rưỡi sáng (công phu khuya.) Đây là đúng nửa đêm mà lại đi thỉnh chuông! Cặp thầy trò này hình như cũng ham chơi lắm! Lúc ấy thi sĩ Trương Kế đang ngủ gục dưới thuyền nghe chuông giật mình thức dậy. Tiếng chuông làm thức dậy trong ông một ý tưởng và ông làm tiếp bài thơ:
Hai thầy trò kia bây giờ không biết ở đâu? Nhìn cho kỹ có thể mình cũng còn thấy họ đâu đây.
LỬA TÂM CÀNG DẬP CÀNG NỒNG
Giận, cố nén xuống. Nén chừng nào thì sức mạnh của cái giận càng lớn lên chừng đó.
Nộ rồi phẫn. Phẫn rồi hận. Móng tâm trả thù. Những từ Hoạn Thư dùng (trong suy nghĩ) như ‘trẻ ranh’, ‘ta’, ‘kiến trong miệng chén’ cũng đang đóng góp phần tưới tẩm những tâm hành kiêu mạn, khinh lờn, dùng quyền thế ép người của cô. Ngôn ngữ hàng ngày ta sử dụng là khúc đàn ta tấu lên cho cuộc đời. Hãy chọn từ mà nói, cân nhắc từng chữ để tâm ta ngày càng đi gần với chánh pháp, có thêm chất liệu của trí tuệ và từ bi. Buông lung trong lời nói và suy tư của mình chúng ta sẽ có thể ngày một đi sâu vào con đường của khổ đau và cô độc.
Ghê quá! Lặp lại mấy lần mà chữ làm cho! Bản án của Kiều đã được tuyên bố bởi công tố viên Hoạn Thư.
Đoạn văn này nói rất rõ về tính khí và con người của Hoạn Thư. Một con người ghen đến mức tột độ. Ra vào cười nói rất thong dong nhưng trong lòng đầy chất độc của ghen và giận.
CƯỜI NÓI TỈNH SAY
Cô ta nhất định không nói. Anh ta cũng không nói. Chỉ nói những chuyện: ‘Xa em lâu quá! Rất nhớ.’ ‘Anh đi lâu quá! Em ở nhà cũng nhớ lắm!’ Hai bên đều giả dối với nhau. ‘Chữ tình càng mặn chữ duyên càng nồng’ có tính cách rất hình thức.
Hoàn toàn không đề cập đến chuyện kia. Làm như mình không biết gì cả. Anh chàng lầm:
– ‘Tại sao người ta không hỏi mà mình lại nói?’ Đó là ý kiến của anh chàng. Thương nhau không nhớ lời nhau!
Quá nhút nhát! Không dám nói. Trong khi đó thì cô nàng:
– ‘Tình nghĩa của mình là vàng đá. Chúng ta tin nhau một trăm phần trăm. Đôi khi người ta đặt ra những chuyện nói chàng thế này thế kia. Đó là những chuyện buồn cười. Em hoàn toàn không tin.’
Rất dễ sợ. Mỗi người có một tâm sự bên trong và cả hai đều đóng kịch.
Bắt đầu mùa thu trở lại. Thúc Sinh sống với vợ gần được một năm. Nhớ đến chuyện đi, kỳ thực là nhớ Kiều:
Chưa dám nói: ‘Anh nhớ ba quá! Muốn về thăm ba.’ Thì tiểu thư đã nói: ‘Thôi, Anh về thăm, hầu hạ cha đi!
BỐN BỀ LỬA DONG
Thúc Sinh vừa đi, Hoạn Thư cũng về thăm mẹ, kể hết mọi chuyện:
Lại cũng sáu chữ cho, lần này hợp với vần ê tạo ra âm thanh đay nghiến hả hê. Hai mẹ con thực hiện kế hoạch bắt cóc Thúy Kiều. Họ không biết những điều họ nói, nghĩ và làm đều sẽ mang lại những nghiệp quả mà họ sẽ gặt hái sau này:
Thúy Kiều bấy giờ đang ở Lâm Truy, kinh đô nước Tề cũ (nên gọi là biển Tề.) Đây là tình trạng của Kiều:
Nghĩ tới cha mẹ giờ đây không biết ai săn sóc. Nghĩ đến việc đính ước ngày xưa, không biết em gái đã thay mình thực hiện cuộc hôn nhân với Kim Trọng hay chưa. Nghĩ đến thân phận lẽ mọn của mình bây giờ, không biết người vợ cả có chấp nhận không:
Có người đọc câu này cho là tác giả nói về tâm sự, vì chữ tâm ( ) có một vành trăng và ba ngôi sao. Thao thức không ngủ, Kiều dậy, thắp hương khấn trước bàn thiên ngoài trời:
Đốt nhà, bắt cóc Thúy Kiều, bỏ một tử thi chết đuối bên sông vào đám cháy để giả bày một vụ rủi ro hỏa hoạn. Ngọn lửa trong tâm Hoạn Thư bây giờ đã phát hiện ra thành đám cháy ở nhà Thúy Kiều. Một niệm ghen tức trong lòng có công năng phá hoại rất lớn mà ai trong cuộc sống cũng đều là nạn nhận.
TIẾC HOA
Thúy Kiều được làm chay sống hai lần. Đây là lần đầu tiên:
Thúc Sinh về:
Càng thương thì càng suy nghĩ. Càng suy nghĩ thì càng tội nghiệp, càng thấy tội nghiệp thì lại càng đau thương thêm. Điều này rất đúng với tâm lý học Phật giáo (Duy Biểu Học) ở điểm nói về sự tưới tẩm hạt giống, chủng tử sinh hiện hành, hiện hành sinh chủng tư.
Thúc sinh tìm một ông thầy đồng để hỏi Kiều chết rồi thì đi về phương nào. Nàng từ đâu tới và đi về đâu?
Kiều chưa chết đâu. Một năm nữa sẽ biết tin. Sau này nếu gặp lại nhau thì hai bên sẽ không dám nhận mặt nhau:
– ‘Ông này nói lạ quá! Rõ ràng đã chết rồi mà nói chưa chết, sẽ gặp lại. Ai mà tin được! Ông nói trật.’
NƯỚC TRÔI HOA RỤNG
Nước trôi hoa rụng đã yên,
Kiều chưa chết nhưng với chàng Thúc thì Kiều đã chết rồi. Nước đã trôi, hoa đã rụng! Và mình chấp nhận sự thật đó. Con người vô minh chưa! Người ta chưa chết mà mình cứ nghĩ rằng người ta đã chết rồi và đành lòng chấp nhận sự chết. Nếu có quán chiếu chúng ta sẽ thấy câu rất thật. Người kia có thể là chưa chết nhưng cách sống của mình và cách đối xử của mình chứng tỏ là người đó đã chết rồi. Dầu người kia đã chết, đã làm giấy khai tử, chính mắt mình thấy người đó đã được hỏa thiêu, nhưng chưa chắc người đó đã không còn. Người đó có thể đang còn có mặt trong nhiều cách thức. Đang còn trong tự thân mình, và đang còn trong thế giới. Trong Kinh Bụt dạy sự vật vô thường nhưng sự vật không đoạn diệt. Chấp về thường là một thái cực. Chấp về đoạn là một thái cực khác. Chấp rằng con người sẽ như vậy cho đến vô biên, không thay đổi trong tương lai là chấp thường. Chấp rằng khi con người chết là không còn gì nữa là chấp đoạn. Con đường Bụt dạy là Trung Đạo. Thực tại không phải thường (permannence) mà cũng phải đoạn (annihilation). Trước khi chết cũng vậy. Sau khi chết cũng vậy. Chúng ta phải có trí huệ trong cách đối xử để có thể sống phù hợp với chân lý đó. Khi người kia đang sống, ta phải nhìn người kia với con mặt không thường không đoạn. Sau khi người kia chết rồi mình cũng phải nhìn người kia với con mắt không thường không đoạn. Tuệ giác đó sẽ đem lại cho chúng ta bình an, hạnh phúc, không tiếc nuối.
Địa ngục Thúy Kiều đang đi qua không phải ở dưới cửu tuyền mà ở ngay bên cạnh Thúc Sinh. ‘Địa ngục ở miền nhân gian’ là một sự thật. Chiến tranh, nghèo khổ, áp bức, tham lam, giận dữ, si mê… là địa ngục ở miền nhân gian. Nếu không khéo thì nội trong nửa giờ đồng hồi nữa mình đã có thể đi vào địa ngục. Người ta nói một câu làm cho mình nổi sân nổi si lên. Đó là địa ngục chứ gì nữa! Đừng nghĩ rằng địa ngục là cái mình sẽ chứng nghiệm sau khi chết. Địa ngục là cái mình có thể chứng nghiệm ngay bây giờ. Địa ngục ở khắp nơi trên trái đấy và ngay trong lòng mình.
MỘT CƠN MƯA GIÓ
Kiều được mang đến nộp cho bà lớn, mẹ của Hoạn Thư.
Hoàng lương (giấc kê vàng) là giấc mộng trong đó thăng trầm, thay đổi của một đời người xảy ra trong thời gian nấu chưa chín một nồi chè kê. Kê là một loại ngũ cốc, nấu sôi đặc lại rồi lại loãng ra đến mấy lần mới chín. Ngày xưa có một chàng sinh viên họ Lư thi hỏng. Trên đường về, mệt nhọc và buồn bã chàng ghé vào một quán cơm. Một đạo sĩ trong quán nhường cái gối của mình cho Lư Sinh gối đầu nằm nghỉ trong khi chủ quán bắt đầu nấu một nồi kê cho khách. Sinh thiếp đi, thấy mình đi thi, đỗ tiến sĩ, được vua cử làm quan, cưới một người vợ đẹp và giàu; vinh hiển trong hai mươi năm, con và rể đều làm quan to. Giật mình tỉnh dậy, thấy nồi kê của ông chủ quán vẫn chưa chín. Thời gian trong giấc mộng là hai mươi mấy năm. Thời gian thật của sự sống là chưa chín một nồi kê. Sinh bàng hoàng tự hỏi: ‘Việc đó là chuyện mộng ư?’ Đạo sĩ cười: ‘Việc đời thì cũng như mộng vậy thôi!’
Thúy Kiều trả lời những câu hỏi của bà lớn, mẹ của Hoạn Thư, một cách đàng hoàng, có nhân cách. Dầu sao bây giờ Kiều cũng là vợ của một thương gia có vai vế trong xã hội, nàng có thể nói rõ ràng nguồn gốc của mình mà không có mặc cảm gì. thấy Thúy Kiều không sợ hãi, khúm núm, bà lớn nổi giận:
Thật ra không phải vì Thúy Kiều không khúm núm với tư cách một nô lệ bị bán mà bà lớn nổi giận. Bà chỉ viện cớ để trả thù cho con gái. Con gái khóc: ‘Con khổ lắm! Ảnh thế này, thế kia… Con đàn bà kia nó cướp chồng của con…’ Trong lòng bà chỉ có nỗi khổ của con gái. Niềm đau khổ của Kiều bà không thấu được. Dầu Kiều có kể hết ngọn nguồn của mình bà cũng không nghe lọt lỗ tai. Khi người ta đã đầy những ý kiến và cảm xúc rồi thì mình không thể nói vô thêm được gì nữa cả. Không nên nói gì lúc đó, vì nói cũng không ích gì. Phải đợi cho người kia lưng lại nửa túi (lưng túi) thì mới nói gì được. Đó là một bài học.
Đây là một trong những nỗi khổ nhục của kiếp người. Không phải chỉ riêng Kiều gánh chịu. Khi người ta đồng nhất mình với một phe để biểu lộ tình cảm thương hay ghét của mình, khi người ta không muốn lắng nghe và tìm hiểu thì dù có một trăm cái miệng mình cũng không thể nào bày tỏ được nỗi oan. Mình có cảm tưởng uất ức, nhục nhã như bị hải tặc hãm hiếp. Đàn ông cũng như đàn bà, người trẻ cũng như người già, không ai tránh khỏi những cơn ô nhục như vậy. Đó là chuyện rất người! Khác nhau là ở chỗ có tu hay không tu. Nếu có tu thì mình sẽ đi qua giai đoạn đó một cách nhẹ nhàng, ít khó khăn. Còn nếu không tu thì mình sẽ đau khổ bằng trăm bằng ngàn lần.
Thái độ ả hoàn là thái độ của người nô lệ, không có chủ quyền. Bị khống chế bởi những cảm xúc, phẫn nộ, yêu và ghét của đám đông và của chính mình, con người có thể trở thành công cụ của bạo hành. trước những nhục nhã, bất công và bức bách mà xã hội đã dành phần sẵn cho mỗi chúng ta, chúng ta phải làm gì? Ta không thể cam lòng đánh mất mình. Thái độ của người tu là thái độ dũng mãnh của người biết nắm lấy thân tâm đi trong cơn lốc của những cảm xúc, ghét, thương, phẫn nộ và mặc cảm bên trong hay bên ngoài mình. thực tập chánh niệm và chánh kiến chúng ta sẽ có rất nhiều tự do để đi qua những thăng trầm kia một cách nhẹ nhàng. Nếu không tu chúng ta sẽ ‘một phen mưa gió tan tành một phen’. Hai phen mưa gió tan tành hai phen, ba phen mưa gió tan tành ba phen… Phải cẩn thận lắm mới được!
PHẬN CON HẦU
Thế đứng của Thúy Kiều bây giờ là con ở. Chịu đựng những khổ nhục và vất vả của giới thị tì. Chúng ta nên biết con ở của thời xưa không phải là người giúp việc ngày hôm nay nói nặng tới họ thì hoặc họ gọi cảnh sát, hoặc la mắng lại hay không chịu làm nữa. Họ có quyền bình đẳng. Nhưng thân phận người ở ngày xưa là thân phận người nô lệ. Họ phải chịu đánh đập và hành hạ mà không có quyền lên tiếng đòi nhân quyền.
Bà quản gia nhà họ Hoạn thấy dáng điệu và nết na của Thúy Kiều thì đặc biệt đem lòng thương. Bà đã săn sóc, thuốc thang, an ủi và khuyên nhủ Kiều. Trong nguyên lục Kiều chỉ bị đánh hai chục roi, thay vì ba chục roi. Khiêng xuống, bà quản gia lấy rượu trắng hâm nóng, khuấy vào vài muỗng đường cho Kiều uống. Kiều nói: ‘Con không uống được. Tim con đang tức, uống vô không nổi.’ – ‘Con uống đi nếu không sẽ chết đó! Uống cái này cho máu huyết lưu thông thì con sẽ sống được.’ Kiều ráng uống được nửa bát rượu đó thì máu huyết chảy lại đàng hoàng, tim bớt tức. Kiều lại muốn chết. Bà quản gia khuyên: ‘Con đừng chết ở đây. Con chết ở đây thì không có nghĩa lý gì cả, bất quá chỉ như con chó hay con gà chết thôi. Không ai để ý, không ai thương xót. Nhìn con thím biết con là con nhà đàng hoàng, sau này sẽ có tương lai. con nên giữ lấy thân con, đợi có cơ hội thoát ra khỏi cái cũi, cái lồng này.’ ‘Đem lời phương tiện mở đường hiếu sinh.’ Bà quản gia này có Phật tâm trong lòng. Phương tiện và hiếu sinh là hai từ nhà Phật. Dùng pháp môn phương tiện, lựa lời khuyên nhủ. Mở đường hiếu sinh là bảo vệ sự sống, là biết thương lấy con người và mọi loài.
Phải có những oan nghiệp trong quá khứ nên ta mới phải trả cái quả ngày hôm nay. Không phải tự nhiên mà mình lại gánh chịu những oan khổ này. Nếu hôm nay mình bị khổ là vì trong quá khứ mình đã có gây những nghiệp không lành. Vì vậy mình phải biết chấp nhận cái khổ đó và tìm cách chuyển hóa. Trốn chạy không giải quyết được vấn đề. Chẳng dưng nghĩa là không phải tự nhiên mà xảy ra như vậy. Cái gì cũng có nguyên do. Nếu quý vị có đau đầu, nhức mỏi hay bị người la mắng… thì đều có nguyên do hết, không phải tự nhiên mà xảy ra như vậy.
Hình như bà quản gia biết chuyện. Bà khuyên Kiều phải cẩn thận, có gặp người quen cũ (cố nhân) thì cũng đừng nhìn. Bà là một người có lòng thương đối với Thúy Kiều. Lâu lâu ở trên đời mình được gặp một người như vậy và mình biết mình có may mắn. Có những người đi suốt cuộc đời không bao giờ gặp một người biết thương mình như vậy. Bà quản gia là một vị Bồ-tát.
Bạc tức là mỏng. Người có hạnh phúc, may mắn thì gọi là có đức dày (đôn hậu) Ăn ở cho đôn hậu và cho có tình thì số phận mình sẽ không bạc (mỏng). Ngày xưa Kiều đã nói thân phận mình mỏng như cánh con chuồn chuồn (Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn.) Phận Kiều mỏng là vì Kiều không có đức. Đức có là do chuyện tu hành. Thương người nhiều thì tự nhiên có đức dày. Phận mình sẽ từ từ dày thêm lên.
Đó là giai đoạn Kiều làm đầy tớ trong dinh quan Lại Bộ.
Kiều vâng lời theo Hoạn Thư về. Kiều vẫn chưa biết là mình đang đi về đâu. Mờ mờ, mịt mịt đi trong cõi mơ hồ. Trong Qui Sơn Cảnh Sách, Thầy Quy Sơn nói: ‘Tiền lộ mang mang bất tri hà vãng’: đường trước mờ mờ, không biết về đâu. Đó đúng là tình trạng của Thúy Kiều. Mình không phải là mình. Minh hoàn toàn bị hoàn cảnh kéo đi. Không tự chủ được, mình không biết mình đang đi về đâu. Đó cũng là hoàn cảnh của nhân loại. Nhân loại bây giờ đang đi về đâu? Tiền lộ mang mang bất tri hà vãng. Trong cửa thiền có câu truyện một anh chàng cưỡi ngựa. Con ngựa phóng rất mau. Một người quen đứng bên đường hỏi vói theo: ‘Anh đi đâu đó?’ Anh ta ngoái cổ lại: ‘Tôi không biết, anh hỏi con ngựa.’ Con ngựa đưa anh ta đi đâu thì anh đi đó. Con ngựa nắm chủ quyền. Anh không kiểm soát được con ngựa. ‘ Cũng liều đánh mắt đưa chân, Mà xem con tạo xoay vần đến đâu.’ Là những câu cho thấy mình không nắm được chủ quyền cuộc đời mình. Sóng gió cuộc đời đẩy mình đi đâu thì mình theo đó thôi. Đây là một tình trạng khổ đau của con người. Người tu phải nắm lấy vận của mình. Phải biết mình đang đi về đâu. Đừng để thời thế, hoàn cảnh kéo đi. Trong hoàn cảnh nào, thời thế nào, mình cũng phải nắm lấy vận mạng của mình. Bước từng bước do ý chí của mình chứ không phải làm theo sự sai khiến của họ. Đó là nắm lấy chủ quyền của mình. Thúy Kiều sở dĩ khổ là vì Thúy Kiều không nắm lấy được chủ quyền của mình.
Biết tài đàn của Kiều, Hoạn Thư cũng thương thương và bớt phần nghiêm khắc.
Thui thủi. Gậm nhấm trong lòng với những nhớ thương, buồn tuổi. Đó là tình trạng Kiều với tư cách con ở.
CÙNG TRONG MỘT TIẾNG TƠ ĐỒNG
Nhìn thấy vầng trăng non thì chàng nhớ lông mày của Thúy Kiều. Nhìn những hộp phấn và những chai nước hoa của Kiều thì lại càng xót xa. Nhà đã cháy rồi, không biết tại sao lại còn phấn, còn hương? Chắc là thi sĩ tưởng tượng ra chứ làm gì có thiệt!
Cứ như vậy mà qua hết một năm. Bây giờ đến lúc Thúc Sinh nhớ vợ. Trở về Vô Tích:
Tiểu thư ra đón rất nồng nhiệt. Nói chuyện trên trời dưới biển, rồi cuối cùng gọi con đầy tớ mới chào chủ:
Mỗi bước đi ra là lại càng thấy rõ, Kiều nhận ra ông chủ của mình là Thúc Sinh. Không thể lầm được. Càng bước càng sợ, không dám bước thêm nhưng vẫn phải bước vì bà chủ đã gọi. ‘Bước ra một bước một dừng. Trông xa nàng đã tỏ chừng nẻo xa.’ Nhiều cặp chữ lặp lại một cách khéo léo trong câu này chứng tỏ sự ngần ngại, giật tới, giật lui trong bước chân cũng như trong tâm trạng Thúy Kiều.
Bây giờ mới hiểu: Mình bị mắc mưu. Đây cũng là một sự giác ngộ.
Một cặp vợ chồng vừa đôi phải lứa mà phải đóng vai một bên là con ở, một bên là chủ nhà. Con ở với chủ nhà là một trời một vực. Nên nhớ rằng chế độ của người giúp việc ngày hôm nay. Không có sự bình đẳng. Giống như ở Ấn Độ, giai cấp cùng đinh không thể nào nói chuyện, đối diện hay đụng vào giai cấp Bà-la-môn. Khi đã bị liệt vào hàng nô lệ rồi thì chuyện nhận người kia là chồng cũ là không thể được. Nếu không hiểu bản chất của giai cấp thì không hiểu thấu chuyện này. Âm mưu của Hoạn Thư là làm cho một người biến thành con ở để hai bên hoàn toàn bị xa cách, hoàn toàn viễn ly nhau.
Cứng miệng. Không thể nói được. Đó là người thương của mình mà mình không có quyền nhìn, quyền nói. Không làm gì được hết!
Tồi quá! Sợ quen có nghĩa là chuyện sợ vợ đã thành thói quen rồi. Không dám nói gì hết. Anh chàng chỉ biết khóc thôi.
– ‘Anh vừa mới mãn tang mẹ. Nhớ mẹ nên anh khóc.’
Tẩy trần là tiệc rượu để rửa sạch những bụi bặm đường xa. Họ tẩy trần bằng rượu. Không giống với dương chi tinh thủy của chúng ta. Chúng ta tẩy trần bằng sự thực tập chánh niệm.
– Hoạn Thư bắt bẻ Kiều từng ly từng tý: ‘Rót rượu cho chàng thì phải quỳ trước mặt chàng mà rót. Mời thì phải mời tận tay chứ không được để trên bàn.’ Chủ ý là để làm nhục cô gái kia. Càng bắt bẻ hành hạ Kiều chừng nào thì anh chàng càng đau khổ chừng đó.
Sợ người yêu bị đánh thành ra khi được mời chén nào anh chàng cũng phải ráng mà nuốt cho cạn chén ấy. Ngậm cái đắng nuốt vào. Thấy bi kịch xảy ra như vậy, Hoạn Thư vẫn tỉnh bơ, giả bộ như không biết hai người đang đau khổ cực kỳ.
Lòng của Thúy Kiều rất xót xa nên đã làm phát hiện trên bản đàn bao nhiêu là tức tối, khổ đau. Thúc sinh càng nghe càng thấy tan nát trong lòng.
Cùng một bản đàn mà người thì rất khoái, người thì đau khổ tan nát. Người ngoài cuộc (Hoạn Thư) thì cười nụ. Người trong cuộc (Kiều và Thúc sinh) thì phải khóc thầm. Đó là duy tâm. Cùng một đám mây đó mà người trông thì thấy nhớ nhà, người thì mừng là trời sắp mưa, lúa sẽ mọc. Cùng một hoàn cảnh mà người thì khổ đau, người thì sung sướng.
Không kiểm soát được nữa, anh chàng rơi lệ, phải cúi đầu xuống lau nước mắt.
Tiểu thư lại thét lấy nàng:
Họ uống tới nửa đêm. Hoạn Thư nhìn mặt Thúc sinh thấy đau khổ đã lên tới cùng tột rồi thì trong lòng rất đã. Lâu nay đau khổ cực kỳ, tối nay mình mới có dịp trả thù. Cái vui của mình được làm bằng niềm đau của người khác. Đây là niềm vui không có bản chất tu tập, không có bản chất trí tuệ. Chính cái vui này sẽ đem lại những tai nạn cho Hoạn Thư sau này. Ngay trong hiện tại, Hoạn Thư cũng đang đánh mất chồng mình và trở nên một người rất cô đơn. Cái vui vẻ, săn đón của hai vợ chồng này không thật, mang đầy sự chịu đựng và oán trách. Gần nhau nhưng thật sự họ đã mất nhau. Đánh mất nhau, họ đánh mất hạnh phúc của chính mình.
Đó là nỗi khổ của cái đêm bị Hoạn Thư trả thù. Bị cướp bắt, bị làm đầy tớ, tuy là khổ nhưng chưa khổ lắm. Cái đêm hầu rượu cho hai người là đêm khổ sở nhất. Vừa khổ nhục vừa lo sợ không biết thân phận mình sẽ ra sao.
XIN NHỜ CỬA KHÔNG
Đoạn sắp tới là đoạn Thúy Kiều đi tu. Khổ quá chỉ muốn thoát nợ. Đi tu nhưng không biết tu như thế nào. Không có thầy dạy thực tập chánh niệm, không biết an trú trong hiện tại thành ra tu không thành công.
– ‘Tại sao cái mặt mày rầu rầu vậy?
Thúc sinh biết hết tất cả những nỗi đau của Kiều nhưng không nói ra được. Nếu nói: ‘Anh biết cô này từ hồi xưa hồi xưa…’ thì sợ lụy cho Kiều thành ra phải giả bộ tra hỏi.
Kiều khai hết thân thế mình vào một tờ giấy và trình lên cho Hoạn Thư.
Tài văn chương kỳ này cũng giúp được Kiều. Kỳ trước làm bài thơ vịnh cái gông thì được ông quan phủ chấp nhận, tha bổng và được chính thức hóa cho quan hệ với Thúc sinh. Kỳ này viết tờ văn, Hoạn Thư đọc cũng thấy tội nghiệp và tiếc cho người tài. Có tài, có sắc mà không có duyên (thiếu những điều kiện tốt) cho nên phải khổ đau.
Trong nguyên lục, Hoạn Thư nói: ‘Thôi để em mở cho nó một phía của cái lưới. Cho nó đi tu.’ (Ngày xưa, người ta bẫy thú trong lưới; thỉnh thoảng có người thương những loài vật sẽ bị chết trong lưới săn nên mở cho chúng một lối thoát.) Quan Âm Các là ngôi chùa trong vườn nhà Hoạn Thư. Thúy Kiều được ra ở đó với tư cách trụ trì và lo việc chép kinh. Theo nguyên lục, Hoạn Thư khen chữ Kiều đẹp và muốn Kiều chép giùm mình một bộ Kinh Hoa Nghiêm.
Ở đây nói có lễ xuất gia mà không cho biết ai là thầy truyền giới. Và thay vì Thọ Tam Quy và Thập Giới thì Kiều lại thọ Tam Quy và Ngũ Giới. Pháp danh Trạc Tuyền do ai đặt? Theo nguyên lục thì chẳng có thầy nào tới truyền giới cả. Chính cái pháp danh Trạc Tuyền cũng do Thúc sinh đặt. Trong Quan Âm Các, có thờ một tượng Đại Sĩ Quan Âm và trong chánh điện có một biển treo đề hai chữ Trạc Tuyền. Thúc Sinh mới đề nghị lấy hai chữ Trạc Tuyền làm pháp danh cho Kiều. Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh và những bài thơ viết về đạo Bụt sau này chứng tỏ cụ Nguyễn Du có một kiến thức về đạo Bụt khá sâu sắc. Nghe nói khi lìa đời cụ cũng tịch một cách êm ái. Khi sáng tác truyện Kiều, kiến thức Phật pháp của cụ còn chưa được sâu sắc lắm. Điều đó biểu hiện ở một vài nơi. Triết lý của truyện Kiều phối hợp vừa triết lý đạo Bụt, vừa triết lý Thiên Mệnh, đạo Khổng, đạo Lão; không được mạch lạc rõ ràng. Cụ Nguyễn Du cũng không biết muốn xuất gia thì phải thọ mười giới chứ không phải năm giới. Thọ năm giới cũng phải có thầy truyền giới. Chúng ta có thể sửa lại là: ‘Tam Quy Thập Giới cho nàng xuất gia.’ Trạc Tuyền tuy vậy là một pháp danh rất hay. Tuyền là dòng Suối, Trạc là tắm gội. Trạc Tuyền là tắm gội trong dòng suối, có lẽ là suối Giải Oan. Trong bài tựa Kinh Thủy Sám (Từ Bi Tam Muội Thủy Sám Pháp) kể lại tích Quốc sư Ngộ Đạt và mụt ghẻ120 ; lúc thầy Ca Nặc Ca rửa mụt ghẻ cho Quốc sư Ngộ Đạt thầy nói: ‘Tôi xin rửa tạm mụt ghẻ này cho huynh bằng nước ấm có muối. Ngày mai khi trời sáng, tôi sẽ đem huynh xuống dòng suối dưới chân núi. Suối tên là Giải Oan. Lấy nước đó rửa thì thế nào mụt ghẻ cũng lành.’ Nham hạ: dưới núi; Hữu tuyền: có một dòng suối. Minh đán: sáng mai; trạc chi: rửa nó; tắc dũ: thì lành. ‘Dưới núi có một dòng suối. Sáng mai rửa thì sẽ lành.’ Đó là câu trong bài tựa Kinh Thủy Sám. Hai chữ Trạc Tuyền là từ câu đó mà ra. Những nỗi oan của nàng Kiều chỉ có thể rửa đi bằng nước của dòng suối từ bi. Từ Bi Thủy Sám là sám hối bằng nước từ bi.
Giả dụ Hoạn Thư đã có mời một sư bà ở đâu tới làm lễ xuất gia cho Thúy Kiều, cho nàng thọ mười giới và sau lễ Truyền Giới sư bà đi mất. Kiều ở lại làm trụ trì Quan Âm Các. Dù có vậy đi nữa thì Kiều tu hành cũng không thành công được! Thọ mười giới mà không có ai dạy hành trì giới luật và uy nghi, không có ai dạy tụng Kinh, ngồi thiền, thở, đi thiền hành… thì biết gì mà hành trì? Không có tăng thân cũng không có thầy. Tu như vậy thì thất bại là phải rồi! chúng ta sẽ thấy sự thất bại ấy sau này. Kiều đi tu, mục đích chưa hẳn vì muốn tu. Kiều chỉ muốn thoát khỏi hầm lửa, thoát khỏi thân phận đầy tớ mà thôi. Hoạn Thư cũng hơi tội nghiệp nên muốn cho Kiều thoát, nhưng thoát như thế nào mà vẫn nằm trong sự kiểm soát của mình. Hoạn Thư cung cấp đầy đủ gạo tương, dầu đèn và còn cho Kiều hai người thị giả:
DƯỜNG GẦN RỪNG TÍA DƯỜNG XA BỤI HỒNG
Rừng tía, do câu ‘Tứ trúc lâm trung Quán Tự Tại’ (Đức Quán Tự Tại ở trong khu rừng trúc tím), là nơi cư ngụ của Đức Quan Âm, cũng tức là nhà chùa, là mảnh đất của giải thoát. Từ khi được ra ở Quan Âm Các, Kiều như được gần thế giới của giải thoát. Dường gần rừng tía thôi chứ chưa hẳn là đã ở trong rừng tía. Lòng chưa ở hẳn thiền môn. Chưa quyết tâm tu. Dường xa bụi hồng là có vẻ như đã xa cuộc đời bụi bặm nhưng kỳ thực chưa xa, vẫn còn vương vấn lắm. Dường gần rừng tía, dường xa bụi hồng. Nếu không phải là một ông thánh thơ thì làm sao nói lên được như vậy! Chập chờn qua lại, chưa chịu tu hẳn. Vấn đề là ở chỗ đó. Nếu đã ‘quyết vào rừng tía quyết xa bụi hồng’ thì đâu còn có vấn đề nữa!
Làm sao còn hy vọng hàn gắn với Thúc sinh? Miễn không bị làm nhục là đã đỡ rồi! Trong câu này ý còn nuôi sự hy vọng. Nói không hy vọng nhưng trong đáy lòng vẫn còn hy vọng. Trên phương diện Ý thức thì quyết định như vậy (tu) nhưng dưới A Lại Gia thức vẫn có sự mong ước về tương lai. Đó là tâm trạng của Thúy Kiều. Vì vậy mà Kiều tu không thành công. Không quyết tâm tu. Quyết tâm tu thì tự nhiên có an lạc và tất cả tai nạn sẽ chấm dứt. Ở đây vì Kiều không quyết tâm tu, vẫn nghĩ rằng nếu có cơ hội thì mình sẽ được tháo cũi sổ lồng nên cô đã thất bại.
Đó! Dùng cửa Phật để vùi lấp những sầu thảm trong quá khứ của mình thôi chứ không quyết tâm chuyển hóa chúng. Có chỗ đề là ‘Ngày pho thủ tự đêm nồi tâm hương’ nhưng chữ nồi khó hiểu. Người ta đốt hương trong lư chứ ai lại đốt trong nồi. Chữ nhồi là động từ, có nghĩa là huấn luyện, thực tập. Tâm hương không phải là hương thường, phải đem lòng mình ra làm hương chư không phải lấy trầm để làm. Tâm nhiên ngũ phận là lấy lòng mình thắp lên năm thứ hương: Giới hương, Định hương, Tuệ hương, Giải thoát hương, Giải thoát tri kiến hương. Thực tập Giới, Định, Tuệ là cúng dường ba thứ hương đầu tiên. Sự giải thoát và cái thấy do sự giải thoát đem lại là những thứ hương quý để cúng dường Bụt. Chúng ta phải thực tập mỗi ngày năm thứ tâm hương thì mới có phẩm vật mà cúng dường. Đó là nhồi tâm hương. Nếu nhồi là một động từ thì chữ đối lại phải là một động từ. Chữ pho (danh từ) không thích hợp, phải được đọc là phô (động từ) Phô có nghĩa là trình bày ra. Ngày phô thủ tự, đêm nhồi tâm hương. Ban ngày thì bày kinh ra chép; ban đêm thì thực tập ngồi thiền. Trên nguyên tắc là phải làm như vậy. Nhưng trên thực tế, Kiều không khí được hướng dẫn để tu tập như thế.
‘Giọt nước cành dương’ là hình ảnh trong nghi thức Gia Trì Nước Tịnh:
Nghĩa là:
Tự tánh của nước đó là không; nước đó có tám khả năng (bát công đức) có thể làm tiêu tan những sầu khổ, phiền não, đưa lại sự thanh lương, mát mẻ và giải thoát cho con người.
Trong biển lửa cháy bừng mà có giọt nước Cam Lộ rưới vào thì tự nhiên có một đóa sen màu hồng nở.
Tôi dịch:
Giọt nước trên cành dương với sức tâm linh và từ bi của Đức Quan Thế âm có thể tưới tắt những khổ đau và nóng bức trong lòng mình. Phải là giọt nước Cam Lộ mới có thể làm được điều đó. Những câu vừa đọc có dính đến Kinh. Không hiểu Kinh thì không hiểu thơ.
Trên nguyên tắc là như vậy. Nhưng trên thực tế tâm của Kiều không có sự cương quyết và Kiều cũng không có một vị thầy hướng dẫn tu học. Thông minh cách mấy mà không có thầy, bạn và tăng thân thì cũng khó mà tu được. Vì vậy, tuy việc ở chùa có giúp Kiều thoa dịu phần nào những đau khổ nhưng vẫn chưa đủ để Kiều có an lạc, hạnh phúc. Ni cô Trạc Tuyền vì tu một mình, nên không thành công được bao nhiêu.
Chữ thiền có một số người phát âm là thuyền. Hồi còn là chú tiểu tôi cũng đọc là thuyền na (dhyana). Nhưng sau này tôi nghĩ chúng ta nên thống nhất cách phát âm là thiền để khỏi trùng với chữ thuyền là chiếc đò.
Cụ Trần Trọng Kim giải thích chữ quan phòng là Hoạn Thư canh giữ không cho Kiều trốn đi. Giải thích như vậy không đúng nghĩa. Quan phòng là vấn đề giới luật. Quan là cửa, phòng là hộ trì. Mười giới Sa Di được chia làm hai phần. Bốn giới đầu (sát, đạo, dâm, vọng) là bốn giới trọng, phải hành trì như cánh cửa đóng chặt lại, không thể mở ra được (quan). Sáu giới sau là sáu giới nhẹ, có mục đích bảo vệ, hộ trì (phòng). ‘Quan phòng then chặt lưới mau’ nghĩa là đứng về phương diện giưới luật thì phải nghiêm cẩn, giữ gìn. Nhặt và mau đều có nghĩa là sít sao. Then, chấn song, phải sát; nếu không thì người ta có thể đẩy cửa vào được. Lưới phải sít; nếu không sẽ bị thất thoát ra ngoài. Câu này có nghĩa là giới luật được hành trì tinh nghiêm, vững vàng. Đó là trên bề mặt. Bởi vì ‘nói lời trước mặt rơi châu vắng người’: vẫn có tâm sự, khi có mặt người (bổn đạo) thì nói nói cười cười, không có người thì vẫn khóc. Chứng tỏ sự tu hành cạn cợt. Niềm đau còn nhiều. Không quyết tâm tu học. Không có thầy, có bạn. Câu này đi đoi với câu ‘Phật tiền thảm lấp sầu vui’. Chôn giấu chứ không chuyển hóa, vì vậy niềm đau vẫn còn. Chúng ta không trách Trạc Tuyền vì Trạc Tuyền không có tăng thân, không có thầy nên không biết phương pháp chuyển hóa nội kết. Vùi sâu lấp thảm bằng gì? Bằng sự bận rộn. Ở đây sự bận rộn là chép Kinh, đốt nhang, quét dọn… Chuyện tụng Kinh, đốt nhang, làm công việc chùa… có thể chỉ là sự bận rộn để phủ lấp niềm đau của mình. Sự bận rộn đó không được gọi là sự tu học chân chính. Chúng ta có thể nhận thấy điều đó trong đoạn thơ này. Tụng Kinh, lạy Bụt, ngồi thiền, chấp tác… phải được thực tập như sự tu học. Phải làm những công việc hàng ngày này một cách có chánh niệm và hạnh phúc thì những công phu ấy mới có tác dụng chuyển hóa. Nếu chúng ta làm những việc này như những bổn phận hay những công tác thì chưa phải là tu. Đó chỉ là làm cho mình bận rộn để quên đi vấn đề của mình thôi. Vấn đề vẫn y nguyên như cũ. Rất nguy hiểm. Trên phương diện hình thức thì có thể gọi là tu, nhưng trên phương diện nội dung đó chưa phải là tu. Lấp thảm vùi sầu hay chuyển hóa thảm sầu? Chuyện này không thể che dấu được. Mình tự soi mình. Trước mặt bổn đạo có thể mình nói cười như đang có hạnh phúc và giải thoát nhưng khi trở về đối diện với chính mình thì mình có thể không nói không cười được với chính mình; mình khóc. Đó là trường hợp của Trạc Tuyền. Lại thêm:
Hai câu này tố cáo trong đáy lòng Kiều vẫn có ước muốn gặp Thúc sinh chứ Kiều chưa quyết tâm đi tu. Vì vậy đời của Kiều còn khổ. Chúng ta có thể học được rất nhiều bài học từ truyện Kiều. Làm việc và tu tập ở một nơi nhưng tâm không nằm ở đó mà nằm ở một chỗ khác. Tu như vậy thì làm sao thành công, làm sao chuyển hóa được!
Trong nguyên lục, Thúc sinh đang có một kỳ thực tập đi thi. Thời xưa sinh viên thỉnh thoảng có một kỳ thi thực tập ở quận. Các sinh viên đại tập (đã học xong, đang ôn luyện để đi thi) được tụ họp lại và làm những đề thi do các thầy giáo trong vùng đưa ra, làm bài trong thời gian tương đương với thời gian của trường thi. Các thầy chấm bài xem thử các ông học trò này nếu di thi thì có đậu không. Đó là kỳ thi tổ chức trong quận. Trong thời gian mười mấy ngày Thúc sinh đi thi thử đó, Hoạn Thư về thăm mẹ, Thúc Sinh quên một vật dụng gì đó, về lấy thì mới biết là Hoạn Thư đi vắng. Lợi dụng cơ hội đó, Thúc Sinh ra thăm Kiều ở Quan âm Các. Đó là trình tự trong nguyên lục. Trong truyện Kiều thì giống như Hoạn Thư gài bẫy, đi thăm mẹ rồi giữa chừng trở về xem Thúc Sinh có lẻn ra thăm Kiều không. Thúc Sinh ra gặp Kiều:
Chàng đã khóc quá trời đất! Không có tư cách của nam nhi gì cả. Áo xanh là áo của anh chàng, vì áo cô nàng bây giờ là áo nâu.
Than thở cho hoàn cảnh của Kiều. Anh chàng thấy mình cũng phải lãnh trách nhiệm. Phải hành động chứ! Vậy thì làm gì?
– ‘Anh chưa có con trai nối dõi nên chưa chết được.’ Trong luân lý ngày xưa người con trai có bổn phận phải có con trai để nối dõi tông đường. Nếu không có con trước khi chết là phạm tội bất hiếu rất lớn. Không thể hiểu câu này nếu không hiểu nhân sinh quan của người Á Đông thời xưa (thời nông nghiệp). ‘Bất hiếu hữu tam, vô lậu hữu đại’: Có ba tội bất hiếu, không con nối dõi là tội nặng nhất. Không có sự tiếp nói về sau (vô lậu) là tội bất hiếu lớn hơn cả. Đó là luân lý Khổng giáo trong bối cảnh xã hội nông nghiệp ngày xưa. Không có con trai nối dõi tông đường thì bao nhiêu cơ nghiệp của tổ tiên để lại sẽ không giữ được. Đứng về phương diện đó mà nhận xét thì những người con trai đi tu đều là bất hiếu! Đó là sự kích bác đạo Phật từ đạo Nho. Để đáp lại, trong đạo Bụt có một thời người ta phải viết lách, thuyết pháp để chứng tỏ rằng người đi tu cũng có hiếu lắm. Những chuyện như truyện Bà Chúa Ba (Quan Âm Nam Hải) hay Quan Âm Thị Kính đều chứng tỏ rằng người xuất gia có thể bày tỏ niềm hiếu thảo của mình, thực tế cứu độ được cha mẹ, gia đình và giúp cho xã hội. Bốn câu đầu của truyện Bà Chúa Ba:
Trả lời ngay sự kích bác của Khổng giáo: trong đạo Bụt có hiếu và có nhân, tại sao các ông nói chúng tôi không có nhân và không có hiếu?
Thúc Sinh nói: ‘Anh chưa chết với em được là vì anh chưa có con trai.’ Người Tây phương nghe lý luận này chắc là không hiểu được. Đây là ý niệm về hiếu trong xã hội cổ.
Nghĩ đến chuyện chung tình là nghĩ đến chuyện phải chết thôi, không có con đường nào để sống. Anh chàng này dở lắm.
Kiều nói: ‘Thân em quằn quại trong vũng bùn. Sống được đến ngày hôm nay là may mắn rồi. Em không đòi hỏi gì hết, chỉ mong anh nghĩ đến tình của chúng ta mà tháo cũi sổ lồng cho em ra khỏi tình trạng này. Chừng đó là đủ chứng tỏ anh thương em.’
Nói xấu vợ: ‘Đã từ lâu anh nghĩ rằng lòng người nói chung, lòng vợ anh nói riêng rất nham hiểm. Nếu bà ta nổi cơn thịnh nộ lên mà làm tình làm tội em thì tội nghiệp cho em mà lòng anh cũng tan nát!
Thúc Sinh khuyên Kiều đi trốn. Hoàn cảnh như một cái lưới buộc hai người, Thúc Sinh không thấy con đường thoát nào cho đời sống đôi lứa với Kiều. Hai người đang đi trên hai con đường hoàn toàn khác nhau, không còn cơ hội để chắp lại cuộc tình duyên dở lở.
Lâu quá hai người không được gặp. Khóc lóc, than thở, rồi đồng ý giải pháp Kiều đi trốn… vậy mà sau đó vẫn không thể rời nhau được. ‘Mặt trông tay chẳng nở rời’ tức là Thúc Sinh nắm tay Kiều. Như vậy ni cô này thật bê bối. Có người đi đến:
– ‘Anh đi xem hoa, tiện ghé vào coi sư cô chép kinh.’ Càng nghe tả về Thúc Sinh chúng ta càng thấy rõ tính khí của anh chàng. Hoạn Thư tiếp lời, khen luôn:
Hai vợ chồng uống trà ở chùa rồi từ giã ra về như một cặp uyên ương tương đắc lắm. Có vẻ như không có vấn đề gì cả nhưng tình cảm trong lòng mìh, hai bên không nói được với nhau. Rất tội nghiệp! Thiền trà là cách uống trà trong nhà chùa. Trà ở đây được làm bằng nước hồng mai, tức là nước gỗ cây mai sống gần trăm năm; màu gỗ đỏ, chẻ ra nấu trà mùi thơm rất tinh khiết. Ở chùa Hương Tích thỉnh thoảng thấy có bán trà hồng mai. Những cây mai ở Làng Mai mới có chín, mười tuổi. Phải đợi chín mươi năm nữa mới có thể làm trà hồng mai được.
Lạnh xương sống luôn! Thật là một người đàn bà ghê gớm!
Đáng lẽ bắt quả tang như vậy người ta phải chau mày nghiến răng, chửi mắng, giựt tóc, đánh lộn..luôn luôn… mà đây:
– ‘Rõ ràng đây là một con người rất sâu hiểm. Nếu không liệu mà trốn thì thế nào cũng có ngày bị đánh, giết, làm nhục.’
Đã là thân phận luân lạc rồi thì đâu còn sợ chuyện lênh đênh nữa! Lênh đênh ở đây cũng là lênh đênh mà lênh đênh bên Mỹ cũng là lênh đênh.
Thính chuyện đi trốn nhưng lo không có vài trăm quan Pháp hoặc mấy chục đô la Mỹ thì khi đói lấy gì mà ăn. Vì vậy cho nên:
Trong lòng Thúy Kiều có cảm tưởng bấp bênh, sợ đói. Vì vậy phát sinh tâm niệm ăn cắp. Lấy đồ thờ bằng vàng bạc trong chùa đem theo để khi đói quá bán đi mua cơm ăn. Điều này chứng tỏ Kiều chưa biết giữ giới, chưa thực sự tu. Khi đi tu, mặc vào người chiếc áo nâu sồng rồi thì đời sống mình phải được hoàn toàn nương tựa trên đàn na thí chủ. Tại sao phải sợ không có tiền mua cơm? Đã cạo đầu, mặc áo nhật bình, quyết chí đi tu rồi thì tại sao mình phải sợ đói? Ngày xưa, khi Bụt còn tại thế thì tình trạng đã là như vậy rồi. Thầy tu không cần nhà cửa, chỉ cần có một cái bát thôi. Khi đi tu là mình phải sống trên sự bố thí của người ta.
Nghĩa là:
Giáo hóa cho tất cả mọi người, mùa xuân cũng như mùa thu.
Tạm dịch:
Vấn đề lớn nhất, sứ mạng chính của người tu là giải quyết vấn đề sinh tử. Sinh tử sự đại: việc sinh tử là việc lớn. Người xuất gia phải giải quyết vấn đề sinh tử chứ không phải giải quyết vấn đề làm chùa, đi học để lấy cái bằng hay lên chức làm giáo thọ… Vấn đề quan trọng nhất của người xuất gia là thoát khỏi sinh tử. Bốn chữ Sinh Tử Sự Đại có thể được viết treo ở thiền đường. Ngồi thiền, đi thiền hành, ăn cơm… làm tất cả mọi cái là để giải quyết một vấn đề: vượt thoát sinh tử.
Khi đã đi tu thật rồi thì phải lấy cơm thiên hạ làm cơm của mình, lấy gốc cây làm nhà. Chùa nào cũng có thể là chùa của mình cả. Tại sao phải cất tiền riêng? Ngày xưa cũng như bây giờ, hễ người tu ròi thì không được sợ đói. Mình trở thành con người chung. Quần chúng Phật tử sẽ lo cho mình. Chỉ sợ mình không tu thôi. Nếu mình tu thì cơm của tín thí là cơm của mình. Ăn cơm đó là để hoàn thành sự nghiệp giác ngộ.
Nghĩ đi nghĩ lại quanh co: chỉ vì lo quá mà sinh chuyện. Thúy Kiều có cảm giác không có an ninh. Lo sợ đủ cái, trong đó có chuyện sợ đói. Rồi đi đến chuyện ăn cắp đồ thờ bằng vàng bạc để trốn đi. Chuyện phạm giới, thiếu niềm tin, thiếu quyết tâm này sẽ đưa lại những đau khổ trong tương lai cho Thúy Kiều. Chúng ta sẽ thấy ở đoạn sau. Nếu Thúy Kiều quyết chí tu hành, quyết chí làm ni cô thì Thúy Kiều sẽ không sợ nữa. Ở ngay tại đó cũng không sợ. Thái độ của Kiều đối với Thúc Sinh sẽ khác. Giả dụ như hồi Hoạn Thư đứng nghe lóm, dù Kiều không biết, mà Kiều nối: ‘Thôi anh đừng tới đây nữa! Em muốn tu. Em muốn làm một người xuất gia đàng hoàng.’ Hoạn Thư nghe biết thì sẽ sung sướng và kính phục Kiều lắm. Kiều sẽ khỏi phải trốn đi đâu cả. chỉ ở đó tu thôi cũng đã có an ninh rồi, huống hồ trong tương lai lại có cơ hội đi tham vấn, học Đạo với các ni sư khác. Thành ra cái căn bản nằm ở trong trái tim của Thúy Kiều chứ không phải nằm ở Hoạn Thư hay Thúc Sinh. Vì tu mà không có quyết tâm cho nên mới có vấn đề. Trong cuộc nói chuyện với Thúc Sinh, Kiều không chứng tỏ quyết tâm tu gì cả. Chỉ khóc lóc và than thở chuyện người đàn bà kia đọc ác và bàn chuyện đi trốn. Bây giờ đi trốn cũng vậy. Trốn đi không phải để làm ni cô tu hành. Chỉ muốn thoát ra thôi. Chính vì không được bảo vệ bởi niềm tin, bởi Bồ-đề Tâm và nhất là bởi Giới Luật nên ni cô Trạc Tuyền phạm giới tùm lum: ăn cắp, leo tường chạy trốn, không có niềm tin và sau này sẽ phạm giới nói dối.
Nửa đêm Kiều trèo tường đi về hướng Tây. Trong nguyên lục, Thúc Sinh nói: ở hướng Tây có một số chùa của các ni sư, trốn về hướng đó thì có thể tạm trú được trong những ngày đầu. Kiều không đi ngõ chính mà phải leo tường, ta có thể nghĩ muốn vào Quan Âm Các thì phải vào cửa chính của tư thất Hoạn Thư. Đây là những câu thơ đẹp vẽ lên hình ảnh người trốn đi trong đêm khuya;
Thật tội nghiệp.
AM CHIÊU ẨN
Trong Nguyên lục: Thúy Kiều tới Chiêu Ẩn Am gõ cửa, một chú tiểu đi ra. Kiều hỏi: Trụ trì ở đây là ai? Chú tiểu trả lời ‘Ni sư Giác Duyên.’ Do đó Kiều biết tên ni sư trụ trì. Khi gặp ni sư, Kiều nói dối: ‘Con là đệ tử của thầy con ở Bắc Kinh. Thầy con và con định tới Chiêu Ẩn Am thăm ni sư Giác Duyên nhưng giữa đường con lạc mất thầy con. Vì vậy con tìm tới trước.’ Ni sư Giác Duyên nói: ‘Có phải ni sư Hằng Thủy ở Bắc Kinh không? Nếu phải thì đó là bạn thân của tôi.’ Kiều đáp: ‘Dạ đúng là ni sư Hằng Thúy.’ Vào am rồi, Kiều giở bọc lấy chuông vàng, khánh bạc trao cho ni sư Giác Duyên, nói của thầy mình dặn đem tới cúng dường. Đi tu mà đem tiền, vàng, đô la tới bỏ vào chùa là nguy hiểm lắm. Chỉ nên đem tấm lòng của mình tới là tốt hơn.
Truyện Kiều của Nguyễn Du kể khác Nguyên lục một chút:
Mình là thầy tu, thấy một người khác mặc áo thầy tu thì tự nhiên có cảm tình.
Thúy Kiều nói dối. Vì sợ nói thiệt mình từ Quan Âm Các trốn ra thì sẽ không được chấp nhận. Thiếu niềm tin, có rất nhiều sợ hãi, có cảm giác không an ninh… Bị bao nhiêu nỗi khổ trong lòng xô đẩy đi làm những chuyện không đúng. Nếu đi vào mà nói thiệt hết cho sư Giác Duyên thì sẽ không có vấn đề gì cả. Ở đây Kiều lại giấu quanh, nói dối. Hồi mười hai giờ khuya vừa mới phạm giới ăn cắp (giới thứ hai). Bây giờ lại phạm tới một giới lớn nữa, giới thứ tư, nói dối.
Sư Giác Duyên cũng không để ý tới chuyện vàng bạc.
Được sự che chở của sư Giác Duyên nên Kiều có một ít sự an ổn. Am mây có sự liên hệ đến chỗ các thiền sư tĩnh tu. Ví dụ như Ngọa Vân Am (Am Mây Ngủ) trên núi Yên Tử là nơi tĩnh tu của Trúc Lâm Đại Sĩ (vua Trần Nhân Tôn sau khi xuất gia.) Cao Tăng Truyện có thuật chuyện thiền sư Nhất Biển làm một cái cốc trên đỉnh núi. Đây là bài thơ của thiền sư chép lại trong Cao Tăng Truyện:
Nghĩa là:
Từ đó, những chiếc am dựng trên đỉnh núi thường được gọi là am mây.
Đã tu được ba tháng, chép Kinh cũng khá, công việc thắp nhang, đốt đèn, dọn dẹp trai đường, phòng ốc cũng đã quen thuộc rồi.
Đó là sinh hoạt hàng ngày trong thiền môn: tụng kinh, thỉnh chuông buổi sớm và buổi khuya. Văn chương rất đẹp! Có bản chép là ‘Sớm khuya lá bối phướn mây’ thì không đúng. Phướn là cái treo trên trần rũ xuống, nhiều màu, có đề ‘Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật’ hay ‘Nam Mô A Di Đà Phật’ để trang trí trong chùa, không dính đến công phu hàng ngày. Lá Bối tức là Kinh (ngày xưa người ta chép Kinh trên lá Bối); còn phiến mây là cái vân bản (cái khánh hình đám mây.) Ngọn đèn khêu nguyệt có lẽ được ảnh hưởng đoạn văn trong Nghi Thức Chẩn Tế:
Nghĩa là:
Từ cửa sổ (người thầy tu) ngồi đọc Kinh cái lạnh thấm vào ánh trăng canh ba; Trong thiền thất mờ mờ tỏ tỏ ngọn đèn nửa đêm. (Tam canh và bán dạ đều là nửa đêm.)
Nếu quen thuộc Kinh điển chúng ta sẽ thấy hình ảnh ‘ngọn đèn khêu nguyệt’ đẹp hơn. ‘Tiếng chày nện sương’ là tiếng chuông đại hồng ngân lên buổi sớm. Chu Mạnh Trinh, trong bài Chùa Hương, có hai câu nói về ảnh hưởng của một tiếng chuông trong lòng người:
MỖI HÀNH ĐỘNG ĐỀU CÓ KẾT QUẢ
Thúy Kiều thông minh, học mau, ni sư thương, cho ở lại lâu trong chùa.
Kiều ở Chiêu Ẩn Am cũng khá lâu. Trước kia ở Quan Âm Các chỉ được vài tháng mùa thu: ‘Sân thu trăng đã vài phen đứng đầu.’ Như vậy trốn đi, đến Am Chiêu Ẩn phải là đầu mùa Đông. Ở lại qua mùa Đông, rồi hết mùa Xuân.
Người bổn đạo này có lẽ đi đã nhiều chùa, trong đó có Quan Âm Các, cho nên đã nhận ra chuông vàng khánh bạc của Hoạn Thư. Chúng ta thấy: không có một hành động nào của mình mà không có kết quả. Theo cụ Nguyễn Du, Kiều bị lộ tung tích vào lúc cuối xuân. Nhưng theo nguyên lục (Phong Tình Lục) thì đó là mùa thu, lúc chùa Chiêu Ẩn tổ chức lễ Vu Lan. Ni sư Giác Duyên là người có đạo hạnh, rất dễ thương vì vậy khi có lễ các phu nhân và tiểu thư cũng đã đến rất đông. Hôm đó Kiều thoái thác là nhức đầu, nằm trên lầu không xuống. Dinh quan Lại Bộ Thượng Thư không cách Am Chiêu Ẩn bao xa. Kiều sợ bị nhận diện. Cũng theo nguyên lục, chuông vàng khánh bạc không bày trên chánh điện mà để trong phòng sư Giác Duyên. Người bổn đạo được phép vào phòng sư nên thấy và nhận ra. Câu chuyện chỉ xảy ra giữa hai người. Nguy lắm! Chùa mà chứa những đồ vàn bạc ăn cắp (lại từ một nhà quan nữa!) thì có thể bị cảnh sát tới thăm bất cứ lúc nào. Sư nghe sợ nhưng không nói liền. Đợi tới khuya, bổn đạo về hét, hai thầy trò ngồi lại với nhau sư mới hỏi Kiều.
Khi Kiều đến gõ Am Chiêu Ẩn, một chú tiểu ra mở cửa. Ngoài hai người chùa còn có người khác. Chi tiết ‘đêm thanh mới hỏi lại nàng trước sau’ cho thấy Trạc Tuyền được ni sư coi như một người thân, cho ở chung một phòng. Như vậy ni sư Giác Duyên rất thương Trạc Tuyền trong nguyên lục chứng tỏ Giác Duyên chưa phải là một ni sư lớn tuổi. Sư đối với Trạc Tuyền thân mật như em ruột của mình. Trạc Tuyền thường gọi Giác Duyên là ‘sư huynh’, ‘đạo huynh’ (đúng ra phải gọi là ‘sư chị.) Như vậy Giác Duyên cũng còn trẻ, hơn Kiều nhiều lắm là mười tuổi.
Cửa Phật là cửa rộng. Đó là một câu nói mà ai cũng thuộc lòng. Cửa Phật là cửa rộng, không ai có thể đóng cửa lại không cho mình vào. Đó là truyền thống của Đông phương và đã đi sâu vào lòng người Việt. Một năm nọ ở Cali, ban tổ chức khóa tu đã làm việc theo kiểu Tây phương, nghĩa là khi đã đủ 150 người thì khóa sổ. Có những người điện thoại muốn ghi tên thì được ban tổ chức trả lời: ‘Dạ thưa hết chỗ!”Nhưng những người muốn ghi tên không chịu thua: ‘Hết chỗ rồi hả? Cho tôi biết địa chỉ đi!’ Và họ nói với nhau: ‘Bửa đó mình cứ kéo nhau lên, thầy sẽ không đóng cửa đuổi mình đâu mà sợ!’ Đó là dân tộc tính của mình: Cửa Phật là cửa rộng. Hễ mình tới chùa thì không có ai có thể đuổi mình về được vì ai cũng công nhận cửa Phật là cửa rộng. Ban tổ chức bên Mỹ làm việc theo phương pháp Mỹ, không đi đôi được với tinh thần truyền thống: ‘Ở đây cửa Phật là không hẹp gì.’
– ‘Nhưng nếu không làm gì hết, cứ ngồi yên như vậy thì một ngày kia có tai họa, sư em sẽ bị bắt bớ và tra khảo thì sư chị cũng sẽ chịu không nổi.’
– ‘Em phải lánh đi, chứ nếu ngồi đây mà đợi nước đến chân mới nhảy thì quê lắm!’ Và do đó mà Kiều đã bị rơi trở lại trong vũng bùn một lần nữa. Bởi nghiệp còn nặng mà lòng không quyết chí tu!
Kiều mang chuông vàng khánh bạc đi tỵ nạn ở nhà họ Bạc.
Rốt cuộc là Kiều phải vương vào cái ổ nhền nhện thanh lâu một lần thứ hai.
BÀI HỌC TRẠC TUYỀN
Bởi vì Trạc Tuyền đã không có cơ hội thực sự thực tập đời sống xuất gia nên mới xảy ra những chuyện rủi ro và trầm luân trở lại. Trong truyền thống đạo Bụt đại thừa, đi xuất gia không là để trốn tránh những đau khổ trong cuộc đời. Có thể những đau khổ Kiều trong cuộc đời là những yếu tố tốt cho mình thấy được giá trị của cuộc đời và đi xuất gia. Nhưng xuất gia không phải là để trốn tránh những đau khổ đó mà là để chuyển hóa và giúp người khác chuyển hóa chúng. Đạo Bụt đại thừa nói rất nhiều đến Tâm Bồ Đề. Tâm Bồ Đề là một chí nguyện lớn. Đi xuất gia là phải có một chí nguyện lớn. Chí nguyện hoằng dương chánh pháp, độ thoát chúng sanh, đem niềm vui đến cho mọi người. Nếu không có nguồn năng lượng này thì lòng mình yếu lắm. Yếu cho đến nỗi những nội kết, khổ đau của chính mình mình cũng không chuyển hóa được. Chỉ ‘thảm lấp sầu vùi’ thôi thì làm sao chuyển hóa được! Nói và cười với bổn đạo đến chùa như bổn phận của một người tiếp khách, vậy thôi; khi người bổn đạo về thì mình lại đối diện với niềm đau của mình, chỉ biết khóc. Tu học như vậy thì không bao giờ thành công được. Không có quyết tâm, do đó những nội kết trong lòng mình vẫn y nguyên như cũ. Cái thảm và cái sầu đó được cộng thêm với những cái khác như cảm tưởng nghi ngờ, không có an ninh, lo sợ… Sự hành trì mười giới cũng không đàng hoàng cho nên không có gì bảo hộ cho mình. Tuy mặc áo thầy tu, ở chùa, tụng Kinh nhưng mình không được bảo hộ bởi Bồ Đề Tâm, bởi Giới Luật, bởi niềm tin. Tu như vậy có vẻ có hình thức mà không có nội dung. Nếu trong lòng mình có Tâm Bồ Đề thì mình được một sức mạnh rất lớn thúc đẩy và cho mình nhiều sinh lực. Năng lượng đó giúp mình làm việc và tu học. Mình thấy mình có sứ mạng đem tới sự thay đổi, độ mình và độ đời. Chính năng lượng Tâm Bồ Đề ấy giúp mình không vấp ngã. Mình biết rằng mình muốn làm gì và đi đâu. Trong thời tôi còn thơ ấu, mới đi tu, chưa biết gì nhiều, Phật Pháp chưa sâu sắc, chưa biết con đường thực tập, chưa biết con đường chánh niệm, chưa biết con đường chuyển hóa… nhưng trong con người của chú tiểu mười sáu tuổi ấy có một nguồn năng lượng rất lớn, một chí nguyện rất lớn. Chính nguồn năng lượng đó đã bảo vệ cho chú, cho chú sức mạnh để có thể học, tu, để có thể làm được những chuyện mà một người khác có thể không làm được. Ví dụ như bị áp đảo, khổ nhục, khó khăn mà không nản lòng. Đó là nhờ nguồn năng lượng của Bồ Đề Tâm. Trong sư cô Trạc Tuyền không có nguồn năng lượng đó. Chỉ muốn trốn thoát hoàn cảnh nước sôi lửa bỏng thôi. Thêm vào, không có thầy, bạn và tăng thân nên sự thực tập của cô trong chùa chỉ có tính cách hình thức. Nói đến mười giới thì chúng ta thấy Kiều phạm vào rất nhiều giới, trong đó có các giới nói dối và ăn cắp. Đã là một sư cô rồi nhưng khi người yêu cũ tới thì vẫn không có ý thức được mình là một sư cô. Trong khi nói chuyện, khi khóc, khi cầm tay thì Trạc Tuyền cư xử không có tính cách của một sư cô. Trong uy nghi cũng như giới hạnh Trạc Tuyền vi phạm rất nhiều và cái đó đem lại những hậu quả khổ đau về sau. Giá dụ đừng ăn cắp thì đã không xảy tới chuyện người bổn đạo nhìn ra vật sở hữu của nhà Hoạn Thư. Sự thật Hoạn Thư tuy là là một người đàn bà ghen tuông cực độ nhưng vẫn có những hạt giống của từ tâm. Hoạn Thư đã cố tình để cho Kiều đi trốn. Và dầu biết Thúy Kiều đã ăn cắp chuông vàng khánh bạc mang theo. Hoạn Thư vẫn tha thứ, không truy nã. Nếu muốn truy nã thì chỉ trong vòng bốn năm tiếng đồng hồ là bà có thể tìm ra Kiều ở đâu và lấy lại những bảo vật đó rồi. chính nhờ hạt giống lành đó trong tâm mà Hoạn Thư sẽ được cứu thoát sau này. Bất cứ một tâm niệm lành nào, bất cứ một hạt giống nào mình có trong lòng đều có thể nẩy mầm và sinh hoa kết trái. Chỉ cần tưới tẩm thôi. Luật nhân quả này cũng áp dụng được trong trường hợp Kiều ăn cắp. Hành động gọi là ăn cắp đó có kết quả về tương lai. Tuy không bị bắt, bị tù nhưng chính vì hành động ăn cắp đó mà Kiều rơi một lần thứ hai nữa vào dòng khổ đau.
Rõ ràng Hoạn Thư đã cố tình không theo đuổi, đã cố tình tha thứ cho Kiều mà Kiều vẫn sợ. Chính vì sợ nên Kiều mới lâm vào tình trạng này. Sợ rằng nếu không có tiền, không có gì để hộ thân thì mình sẽ bấp bênh:
Hành động phạm giới này được thúc đẩy bởi lòng tham mà bởi cái sợ. Nguyên nhân cái sợ ở chỗ nào? Ở chỗ vô minh, không thấy được rằng đã là người xuất gia thì mình không nên sợ đói, sợ không có chổ ở. Nếu mình là người tu đích thực thì ở đâu người ta cũng ủng hộ mình, tới chùa nào người tu cũng thương, cũng chấp nhận. ‘Nhất bát thiên gia phạn, cô thân vạn lý du.’ Bao nhiêu là không gian, bao nhiêu là tự do. Ở đâu mình cũng ở được vì mình có tu, có quyết tâm tu. Đã quyết tâm tu ròi thì không cần phải sợ cái gì cả. Kiều chưa quyết tâm tu cho nên cái sợ bấp bênh vẫn còn. Xuất gia, cạo sạch mái tóc là một hành động rất quả quyết. Gương mặt mình tự nhiên rạng rỡ, đẹp ra. Mình biết con đường mình đi thành ra không còn những vương vấn khác. Một cánh cửa đã đóng lại và mình đã cương quyết đóng lại mãi mãi rồi thì tự nhiên có một sự giải thoát. Sự giải thoát đó bừng tỏa trong con người, nơi nét mặt của mình. Trước đó một ngày, hai ngày, người ta chưa thấy điều đó vì cánh cửa chưa đóng. Xuất gia làm ni cô mình sẽ có cái hay đó. Một cánh cửa đã được đóng rồi và mình biết mình sẽ không đi qua cửa đó nữa, với chuyện chồng con. Thúy Kiều chưa được cái đó. Kiều bước vào cửa thiền như vào một chỗ tị nạn. Vậy thôi. Chưa quyết tâm. Tuy có cảm tình với thiền môn nhưng chưa hết lòng. Chưa nhận ra được mình là người tu hành, hoàn toàn phó hết tất cả thân mạng, tâm ý, lý tưởng mình cho đạo. Một người đã đi tu rồi là cương quyết tu học. Hành động ăn cắp ở đây không được thúc đẩy bởi lòng tham mà bởi sự sợ hãi có nguồn gốc ở vô minh và thiếu bồ đề tâm. Vô minh là không có sự sáng suốt. Có sáng suốt thì tự nhiên sẽ thấy rằng ngay ở Quan Âm Các mình cũng đã có thể có tự do và hạnh phúc rồi. Chính vì không thấy điều đó nên những vương vấn cũ của Kiều vẫn còn đó và đã biểu hiện trong giờ viếng thăm của Thúc Sinh. Tưởng rằng chỉ có hai người, không ai biết, không người người vợ cả đã đứng nghe hết tất cả. Cái sợ của Kiều vì vậy càng lớn thêm. Cái sợ càng lớn sự u mê càng to. Và Kiều lại phạm vào những lỗi lầm có ảnh hưởng đến đời sống sau này của mình. nếu không sợ đói khổ bấp bênh, chỉ đi thôi, không ăn cắp thì tới ở với sư chị Giác Duyên sẽ đâu có chuyện gì! Tị nạn xảy ra chỉ vì vướng có một chút xíu đó thôi! Chuông vàng, khánh bạc là vật chất nhưng cũng là biểu hiện của tâm thức. Mang theo chuông khánh đó không ích lợi gì cả. Mang theo chúng chứng tỏ mình mang theo vô minh, sợ hãi, nghiệp chướng. Chính chuông vàng khánh bạc đó đã đẩy Kiều xuống hố sâu một lần thứ hai.
Tất cả những đoạn này, nếu đọc với chánh niệm chúng ta sẽ thấy rất rõ giá trị của Bồ Đề Tâm, của sự trì giới và sự quyế tâm của một người tu học. Nếu chúng ta quyết tâm tu học thì những tai nạn sẽ tan biến như mây khói. Chúng ta biết con đường của chúng ta đi.
SỐ HOA ĐÀO
Tuy nhiên trốn trên lầu không gặp bổn đạo sáng hôm đó nhưng Kiều vẫn không tránh khỏi bại lộ tung tích. Giác Duyên thương, không muốn Trạc Tuyền bị bắt bớ tội tình nên tìm nhà bổn đạo để gởi gắm. Không ngờ lại vô tình đẩy Kiều đi vào chỗ tai nạn.
Trong xã hội có những người chuyên buôn bán thịt người! Giác Duyên không biết Bạc Bà cũng có hạt giống của Tú Bà. Thấy Kiều có nhan sắc thì liền nghĩ đến chuyện đem bán. Bán cách nào? Bằng cách mỗi ngày đều gieo tưới hạt giống sợ hãi sẵn có trong lòng Thúy Kiều:
‘Nguy hiểm lắm đó cô! Ở đây thế nào cũng bị bắt. Đôi khi cảnh sát đã được thông báo, đang đi tìm mà tìm chưa ra đó thôi! Không có chuyện gì cả nhưng người ta đặt thành vấn đề. Mỗi lần nói chuyện với Bạc Bà là Kiều sợ run lên, ngủ không được. Mỗi ngày đều bị tưới như vậy, cuối cùng Kiều phải cháp nhận đề nghị của Bạc Bà: ‘Cô phải đi lấy chồng và phải lấy chồng rất xa. Trong vùng này cũng không có ai dám lấy cô đâu! Cô phải lấy một người con trai ở xa cả ngàn cây số. Đi thật xa sống thì mới yên ổn được. Tôi có một thằng cháu trai ở Châu Thai, miền Chiếc Giang, mới về thăm. Nó chưa có vợ. Nếu cô chịu thì tôi giới thiệu cho. Nếu cô lấy nó thì sau đám cưới hai vợ chồng sẽ đem nhau về Chiếc Giang ở. Không ai biết mình nữa. Chỉ có cách đó mới có an ninh mà thôi. Còn ở đây thêm ngày nào thì nguy cho cô ngày đó!’ Đọc đến đây chúng ta biết rõ khổ đau của Thúy Kiều là ở chỗ sợ. Cảm giác không an ninh đã có sẵn rồi. Vì sợ mà ăn cắp. Bây giờ vì sợ mà làm tâm bậy một lần nữa: chịu lấy một người mình không biết và không thương.
Chúng ta phải quán chiếu hạt giống sợ trong ta. Vì sợ cho nên nhiều khi ta làm nhiều điều rất ngu xuẩn. Nhất là sợ không có an ninh trong khi mình đang có an ninh. Buồn cười như vậy đó. Có thể là trong giờ phút này mình đang thật sự có an ninh nhiều nhất mà mình lại không biết. Những cái không an ninh nhìn đâu mình cũng thấy! Ở đây lại có người tưới hạt giống sợ đó mỗi ngày.
Ghê gớm! Những câu này là những câu có tác dụng tưới tẩm hạt giống lo sợ. Bà càng nói chừng nào thì cái sợ của Kiều càng lớn lên chừng đó.
Quảng cáo cho cháu! Không biết có phải cháu thật không?
– ‘Tới nơi đó mới có an ninh.’ Nhưng nơi đó mới chính là chỗ đoạn trường đau khổ nhất.
Càng nghe dọa thì Kiều càng khổ. Dần là dùng sống dao hay khúc gỗ để đập cho mềm. Chúng ta hãy tưởng tượng khúc ruột của Kiều có sống dao đập lên! Mỗi lời nói tưới tẩm và dọa nạt đều có tác dụng cho người ta đau khổ, lo sợ, thắt ruột thắt gan như có sống dao đập lên.
Con chim đã từng bị bắn rồi thì mỗi khi thấy cành cây cong là sợ. Đi lấy chồng mà không biết người đó là ai thì làm soa mà dám tin. Kiều cũng thấy tất cả sự nguy hiểm của giải pháp Bạc Bà đề nghị chứ không phải không thấy.
Bán con cọp mà mua con chó sói thì có gì bảo đảm an ninh đâu?
Kiều vẫn còn tin ở lòng người, tin ở lời thề. ‘Nếu người ta thề với đất với trời thì con sẽ đi theo.’ Chúng ta phải nghĩ đến xã hội của Thúy Kiều. Thúy Kiều không sống trong cùng một xã hội với chúng ta. Không có những phương tiện về luật pháp, không có những tổ chức nhân đạo, không có những cố vấn tâm lý trị liệu… Thúy Kiều hoàn toàn bơ vơ, không có giải pháp nào nữa.
Trong nguyên lục, sau khi Kiều đã chấp nhận, Bạc Bà hỏi: ‘Như vậy cô tính cần phải bao nhiêu tiền sinh lễ để cưới?’ Kiều nói: ‘Con không cần tiền. Có lẽ nên đòi độ 20 lạng vàng thôi. Con sẽ biếu bác 5 lạng, nhờ bác đem lên chùa Chiêu Ẩn cúng 5 lạng. Còn 10 lạng con nhờ bác đi mua những vật dụng cần thiết để làm đám cưới và lo cho chuyến đi mấy ngàn cây số sắp tới.’ Rõ ràng Kiều không có lòng tham gì hết. Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du không nói tới việc này.
‘Nếu tôi mà có ăn ở hai lòng thì xin ông trời tru diệt tôi đi!’ Thề rất độc. Mấy người này không có tin Trời Đất và thần thánh. Họ thề để gạt Kiều đi theo mà đem bán.
Đi không biết bao nhiêu ngày mới đến Châu Thai, một vùng đất phía Nam, gần biển.
Theo nguyên lục, Bạc Hạnh bán Kiều được 240 lạng. Gấp 12 lần ‘tiền vốn’ bỏ ra (để cưới Kiều.) Khi đến bến, hai người dọn vào khách sạn. Kiều hỏi tại sao không về nhà mình mà lại dọn vào khách sạn. Dĩ nhiên anh chàng đâu có nhà ở đây, anh ta là kẻ đi buôn người mà! ‘Anh đi lâu quá, sáu bảy tháng thành ra nhà có người thuê. Mình ở tạm khách sạnh vài ngày đợi người ta dọn đi rồi về.’ Kiều hơi nghi. Bạc Hạnh nói là đi lo công việc, độ nửa ngày sau đưa về một người đàn ông tướng tá rất kỳ cục. Hai người vào tửu điếm trong khách sạn gọi thịt cá, cơm canh uống rượu với nhau tới khuya. Giới thiệu với Kiều này kia kia nọ. Khi người khách về rồi Kiều hỏi: ‘Anh đưa người nào về hồi chiều vậy? Người gì mà trông dễ sợ thế? Giống như ăn cướp!’ Bạc Hạnh nói: ‘Đâu phải! Người ở miền này làm nghề đánh cá. Dân quê tướng mạo họ như vậy đó chứ đâu phải là ăn cướp!’ Kỳ thực người kia là nhân viên của hành viện, đến để xem mặt Kiều. Mai lại, Bạc Hạnh nói: ‘Anh về nhà trước sắp đặt rồi chờ em ở nhà. Một giờ sau sẽ có kiệu tới đón. Em không cần mang theo hành lý vì sẽ có người tới lấy sau.’ Bạc Hạnh đi. Kiệu đến đón: ‘Bà nên đi một mình thôi, hành lý sẽ khiêng tới sau.’ Kiều đã nghi là mình đang chui vào một cái bẫy nào đây rồi nên nhất định đem theo tất cả vật sở hữu của mình và của anh chàng Bạc Hạnh (theo nguyên lục, trị giá khoảng 240 lạng vàng.) Sau khi tới hành viện nhận 240 lạng vàng. Bạc Hạnh trở lại khách sạn gom hành lý thì không còn gì cả. Tác phẩm của cụ Nguyễn Du bỏ hết tất cả những chi tiết không quan trọng đó. Ở đây chúng ta đề cập tới vì muốn biết cho tường tận gốc gác câu chuyện. Những dị biệt nho nhỏ này vẽ nên hai thần thái rất khác nhau của Đoạn Trường Tân Thanh và Phong Tình Lục.
Đây là lời mắng của cụ Nguyễn Du: ‘Hèn gì mà nó tên Bạc! Bạc tình, bạc bẽo!’
Thấy là biết rồi! Biết là mình đã bước vào cái ổ nhền nhện rồi. làm sao mà thoát ra được nữa!
Hai chữ chém cha là một lời chửi. Chửi bằng thơ. Rất mạnh. Cụ Nguyễn Du chửi, tại vì cái đau xót không thể diễn tả được nữa. Chém không phải là chém ai. Giận không phải là giận ai. Chỉ phẫn nộ, ginạ cho cái số phận mình, cái số hoa đào.
Than thở, uất ức cho số phận hẩm hiu. Cứ nghĩ rằng tất cả những gì xảy ra cho mình hoàn toàn do số mệnh, không biết rằng thái độ và nhận thức của mình đã đóng một vai trò rát quan trọng. Chính mình đưa mình vào chỗ này mà mình không biết. Hoàn toàn đổ hết trách nhiệm cho hoàn cảnh mà không thấy được những hạt giống, những nguyên do tâm lý đã đóng góp đưa mình vào hoàn cảnh này.
Lý thuyết của cụ Nguyễn Du là có tài có sắc thì phải đau khổ bởi vì ông trời ghen ghét. ‘Ông trời là cuộc đời, sự sống, thiên nhiên. Tài mệnh tương đố: tài năng và số mệnh ghanh ghét, đố kỵ nhau. Người mà có tài có sắc thì phải đau khổ nhiều. Muốn bình yên và an lạc thì phải làm như không có tài, không có sắc. Đó là kết luận tất yếu của thuyết tài mệnh tương đố.
Hồng quân là ông mặt đỏ, tức là ông trời. Hồng quần là người đàn bà (ngày xưa họ mặc quần đỏ.) Mở đầu truyện ông trời xanh ghen với má hồng: ‘Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.’ Ở đoạn này thì ông trời đỏ lại ghen với ‘người mặc quần đỏ’ (người đàn bà đẹp.) ‘Hồng quân với khách hồng quần. Đã xoay đến thế còn vần chửa tha,’ Hoàn toàn đổ lỗi cho ông trời. Không thấy chính tâm lý và thái độ của mình cũng đóng một vai trò quan trọng trong hoàn cảnh của mình.
Từ khi bước chân ra khỏi gia đình đã tiên đoán là mình sẽ đau khổ như vậy. Chấm dứt thời thơ ấu, có cha mẹ chị em. Chấm dứt cái thời của thiên đường tuổi thơ.
Mình đâu đã làm điều gì thất đức mà bây giờ phải khổ như thế này?
Biết không sao thoát ra khỏi cuộc đời khổ đau này, thôi thì phải chấp nhận. Phải bó tay thua trận. Biết thân chạy chẳng khỏi trời:’ Anh không làm gì được đâu! Anh hoàn toàn không có khả năng để thoát ra khỏi hoàn cảnh đau khổ của anh. Sức mấy mà thoát được!’ Đó là nhận thức rất nguy hiểm dẫn đến sự thua cuộc: ‘Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh.’ Đành liều! Không cố gắng, không tranh đấu nữa. Hai câu này chứng tỏ Kiều đang hoàn toàn thất vọng, không có ý chí tranh đấu. ‘Thôi, cố gắng làm chi! Tất cả những cố gắng của mình đều đã đưa đến chỗ thất bại cả. Bây giờ thôi kệ! Liều!’ Rơi vào vũng bùn, không còn ý chí. Ta không thể chấp nhận thí độ này được. Dù đang ở trong đau khổ cùng cực ta cũng không nên có thái độ đó. Thua keo này phải bày keo khác. Những người đau khổ quá nhiều thường có khuynh hướng buông xuôi. Nhưng ‘sông có khúc, người có lúc.’ Trong đời người thế nào cũng có những giai đoạn khó khăn. Nếu trong giai đoạn khó khăn mà mình buông xuôi, thất vọng, đánh mất ý chí thì làm sao mình đi tới được những giai đoạn quang đãng, hạnh phúc?
Chúng ta hãy để ý đến nghệ thuật pha màu của cụ Nguyễn Du trong đoạn thơ này: mặt phấn – ngày xanh, hồng quân – hồng quần, đầu xanh – má hồng. Chơi chữ rất khéo.
ANH HÙNG ĐOÁN GIỮA TRẦN AI.
Trong đời sống thanh lâu lần này Kiều gặp một người đàn ông khác. Thúc Sinh yếu đuối thế nào thì người này cứng rắn chừng đó. Hai người đàn ông này là hai thái cực. Tính khí khác nhau một trời một vực. Nhưng vì Kiều chưa có đủ tuệ giác và từ bi nên lần này cũng không giữ được hạnh phúc lâu bền.
Qua những câu thơ này của cụ Nguyễn Du diễn tả được khí phách hiên ngang của Từ Hải. Từ Hải (nghĩa là biển thương) là tên của nhà cách mạng Từ Minh Sơn, không chấp nhận được chế độ chính trị của nhà Minh nên đã đứng lên khởi nghĩa. Chỉ cần nghe âm điệu của câu thơ chúng ta cũng có thể biết được ông là người như thế nào rồi!
Từ Hải đi qua vùng Châu Thai nghe nói có một người đàn bà tên là Thúy Kiều sắc đẹp, tài năng và phẩm cách phi thường. Tuy ở thanh lâu nàng vẫn có nhân cách của mình, không phải người đàn ông nào cũng có thể tới với nàng được. Kiều có một nhận thức về đàn ông, ít người tới mà được Kiều cho là người có nhân cách và phẩm giá. Từ Hải nghe vậy muốn đến làm quen cho biết người đàn bà này.
Từ Hải hỏi: ‘Lấy bụng dạ, trái tim mà đến với nhau thì đâu phải là người trăng gió vật vờ. Lâu nay tôi nghe tiếng cô. Đối với cô không có người đàn ông nào là đáng mặt phải không? Đời phần nhiều là hạng tầm thường, thì không đáng bỏ công chơi với họ! Phải không?’ Mắt xanh là con mắt tinh đời, con mắt thấy được những người nào có giá trị và những người nào không có giá trị. Nguyễn Tịch dưới đời nhà Tấn mỗi khi tiếp khách gặp được người tri kỷ thì mắt xanh lè, còn gặp những người tầm thường thì mắt ông vẫn đục. Trong bài Hành Phương Nam của Nguyễn Bính có câu:
Thân phận tôi là thân phận một cô gái điếm thì có giá trị gì mà dám khinh thường người khác! Duy có điều này là thật: tôi có nỗi niềm riêng mà chưa tìm được một người tri kỷ nào để gửi gắm thông cảm. Còn khinh người, xem thường người thì: dạ không dám! Ai muốn đến thì bỏ tiền ra mà đến. Tôi đâu có quyền, đâu còn tự do gì nữa mà nói chuyện kén chọn.’
Kiều trả lời như vậy là rất thẳng, rất thật. đây là buổi nói chuyện đầu tiên giữa hai người. Gặp nhau họ nói chuyện liền chứ không có những sinh hoạt gọi là sinh lý gì cả. Vừa gặp mặt, anh chàng đã hỏi rất thẳng câu mình muốn hỏi chứ không một hai rào đón gì cả. Kiều cũng trả lời rất thật.
‘Lời nói của cô, có cái tình thật bên trong. Không khách sáo. Vừa mới gặp nhau mà tôi đã có cảm tưởng là mình đã được hiểu. Cô hãy đến gần lại một chút mà nhìn để xem thử tôi là người cô có thể tin cậy được hay không?’ Đây là một con người rất đặc biệt.
‘Nhìn đại nhân tôi biết đại nhân là người có tâm lượng và tương lai lớn. Mong sẽ nghĩ tình mà cho tôi nhờ cậy sau này.’
Tri kỷ là người hiểu mình. Chỉ cần nhìn một cái, nghe một câu là hiểu. Tìm được một người tri kỷ thật khó khăn hy hữu. Người gặp được tri kỷ là người rất may mắn, hạnh phúc.
Từ Hải khen Kiều trong đám bụi bặm, đầy những người vũ phu mà nhận diện ra được người anh hùng thì phải là người có con mắt rất tinh. Một lời nói thôi cũng đủ chứng tỏ là hiểu được mình. Khi tìm được người tri kỷ rồi thì cái gì cũng có thể chia sẻ với nhau được, không có gì thành vấn đề cả.
Hai người trở thành bạn thân, không phải do sự cầu thân mà được. Không phải muốn thân mà được thân. Thân là do có sự hiểu nhau. Vì hiểu nhau mà thành ra thân nhau.
Người đàn ông này tới thanh lâu chỉ vì tò mò, muốn nói chuyện với Kiều. Khi hai bên thông cảm, hiểu nhau rồi thì họ đặt vấn đề giải phóng Kiều ra khỏi tình trạng của cô ngay lập tức. Không cần phải trải qua giai đoạn đi chơi, đi ngủ với nhau.
Hai người ra ở riêng. Trong nguyên lục Thúy Kiều hỏi tại sao Từ Hải không làm đám cưới, đưa Kiều về nhà như những người khác. Từ Hải đáp: ‘anh chưa có nhà nên chưa làm chuyện đó được. Bây giờ mình sống với nhău như vậy thôi. Anh muốn đám cưới của anh là đám cướI của một vị quốc vương đi đón một hoàng hậu, có hàng chục ngàn quân lính tiền hô hậu ủng. Nhà anh phải là một dinh thự đàng hoàng chứ không phải là cái nhà bé nhỏ như vậy.’ Thúy Kiều thấy nơi người con trai này một tham vọng, một chí hướng lớn. Trong con người này có cả một vùng năng lượng. Kiều biết mình chẳng qua chỉ là một yếu tố làm nên sự sống của người đàn ông này thôi và Kiều chấp nhận. Con người này không phải vì sống bên cạnh người đẹp mà quên hết lý tưởng của mình. Con người này muốn người đẹp tham dự vào lý tưởng của mình. Đó là những dữ kiện trong nguyên lục không được nhắc tới trong tác phẩm của Nguyễn Du.
Trong nguyên lục, hai người ở với nhau năm tháng thì Từ Hải muốn đi. Ở đây là nửa năm, cụ Nguyễn Du muốn cho Kiều có thêm một tháng hạnh phúc. Cụ có thêm vào nhiều chi tiết rất dễ thương. Nàng Kiều của cụ Nguyễn Du dễ thương và từ bi hơn nàng Kiều trong nguyên lục nhiều lắm bởi vì nàng Kiều của cụ có khá nhiều dân tộc tính. Tuy có những lỗi lầm nhưng cũng có những cái đẹp có tính cách Việt Nam.
Khi sống với Thúy Kiều, năng lượng của người anh hùng vẫn còn nằm nguyên trong lòng Từ Hải. Đây là một người đàn ông đặc biệt. Không muốn làm tiêu ma ý chí trượng phu của người đàn ông, người đàn bà trong trường hợp này cũng là một người đàn bà đặc biệt. Ở đây chúng ta có trường hợp rất lý tưởng.
Từ Hải ra đi để xây dựng sự nghiệp. Thúy Kiều xin đi theo. Từ Hải nói: ‘Đã biết tim, biết bụng của nhau rồi mà sao em vẫn chưa bỏ được thói quen của người đàn bà? Anh là con người của cách mạng, chí hướng của người con trai nơi anh bắt buộc anh phải đi. Em đi theo chỉ làm vướng bận. Phận sự của em là ở nhà và đợi.’
– ‘Em đợi chừng một năm. Anh sẽ về với ít nhất là một vạn quân lính. Lúc đó chúng ta mới có nhà. Bây giờ em đi theo chỉ là vướng chân anh thôi. Em phải ở nhà, làm công việc của người đàn bà nghĩ là chờ đợi. ‘Con người này có đức tự tin, hoàn toàn trái ngược với anh chàng Thúc Sinh mít ướt, chỉ biết khóc thôi.
Cố nhiên, bổn phận của người đàn bà là phải nắm áo lại và bổn phận của người đàn ông là phải dứt áo ra đi. Hai bên, mỗi người làm công việc của mình. tất cả những câu những chữ cụ Nguyễn Du dùng để tả Từ Hải đều tài tình, từ nhạc cho đến nghĩa đều toát lên phong thái dứt khoát, rõ ràng của một võ tướng.
ĐƯỜNG KIA NỖI NỌ
Đây là tâm trạng của Kiều sau khi Từ Hải ra đi. Trong thời gian sống với Từ Hải những tâm sự này không có dịp phát hiện:
Không đi thiền hành, không cắt cỏ làm vườn. Đóng cửa trong phòng, gặm nhắm sự thương nhớ.
Rất đúng truyền thống nhà Nho: nhớ quê hương và cha mẹ trước. Bây giờ mới nhớ tới người yêu là Kim Trọng:
Sau tình thì nghĩa phát sinh. Với Kim Trọng thì giờ đây Kiều đâu còn cái tình bồng bột nữa, tình đã trở thành nghĩa.Tuy hai người chưa được sống với nhau nhưng sự thề bồi ngày xưa nay đã trở thành ân nghĩa. Trên căn bản này Kiều nhớ đến mối tình và bổn phận của mình với Kim Trọng. Hình ảnh ngó sen bị cắt đứt nhưng hai đoạn vẫn còn được nối với nhau bằng những sợi tơ sen đã được sử dụng một cách tài tình để nói về mối liên hệ này. Ngó ý tơ lòng. Ý là mạt-na (thức thứ bảy) và lòng là tàng thức (thức thứ tám.)
Nghĩ chuyện này, nghĩ chuyện khác. Bao nhiêu suy nghĩ ngổn ngang trong lòng. Dù đã từng đi tu nhưng vì không được ai hướng dẫn cả nên tâm tư vân còn hỗn độn. Không biết nắm lấy hơi thở để làm an tĩnh lại tâm hồn. Đường kia nỗi nọ ngổn ngang bời bời. Trở thành nạn nhân của hoàn cảnh và của tâm mình. Tâm mình có những lo lắng, sợ hãi, khổ đau, nội kết của quá khứ, vậy mà mình không biết cách tu, không biết cách điều phục. Ở Quan Âm Các tu không thành công mà về Chiêu Ẩn Am tu cũng không thành công. Một phần là lỗi của sư chị không dạy sư em – hoặc có thể thời gian ở Chiêu Ẩn Am quá ngắn. Nếu gặp sư chị bây giờ, ta phải nói với sư chị là lần sau nếu gặp sư em thì phải dạy liền. Ngay ngày thứ nhất người ta tới chùa phải dạy cho người ta thở và điều phục tâm tư của mình. Đừng để người ta ở tháng này tháng khác trong chùa mà không dạy người ta. Biết đâu thiền sinh tới đây chỉ ở được ba ngày hay một tuần với mình thôi. Đây là lời nhắn nhủ cho tất cả chúng ta. người nào trong chúng ta cũng là sư chị hết. Nếu sư em về nhà, về tiểu bang của mình mà ‘đường kia nỗi nọ ngổn ngang bời bời’ thì đó là lỗi của sư chị. Sư em có thể là người ngoại quốc, người Việt, đàn ông, đàn bà hay em nhỏ. Tới chùa mình phải chỉ liền cho họ phương pháp điều phục hơi thở và làm an tĩnh tâm tư của họ. Khi mình làm giỏi thì mình có thể dạy giỏi. Đó là bổn phận của mình. Sư chị Giác Duyên đã không thành công lần trước. Mình phải làm hay hơn sư chị.
Không nhớ em trai vì theo nguyên tắc nó là con trai, nó có đủ sức để tự lo.
Đó là tâm sự ngổn ngang, không có định, không có an lạc của Kiều. Cuối cùng, trở về với tình trạng hiện tại, Kiều chỉ thấy mình đang thiếu Từ Hải thôi:
Hoàn toàn không có khả năng sống an lạc trong hiện tại thành ra đã tu hai chùa rồi mà vẫn không thành công.
CHẤT CỦI CHO MÙA ĐÔNG
Vào khoảng đầu truyện, có một câu thơ nói lên sự khiếp đảm của một con người không biết tương lai vận mệnh của mình ra sao (câu 218.) Đó là lúc Kiều đi chơi Thanh Minh về mơ thấy Đạm Tiên cho biết mình có tên trong sổ đoạn trường. Kiều thức giấc trong một tâm trạng lo sợ, hoàn toàn mù tịt về tương lai.
Thức dậy một mình giữa đêm khuya, Kiều thấy mình rất cô đơn. Nghĩ đến tương lai cô không biết cái gì sẽ xảy ra cho mình. Hoảng sợ, lo lắng. Cuộc đời đoạn trường của Kiều bắt đầu từ chỗ đó. Kiều đã bước ra khỏi thời thơ ấu thiên đường, trở thành một cô gái lớn, nhưng không biết sẽ đi về đâu. Đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh. Có thể Kiều cũng sẽ đi một mình như Đạm Tiên ngày xưa; biết bao người giàu sang thăm viếng, hâm mộ sắc đẹp và tiếng hát của mình nhưng khi chết thì mình hoàn toàn trơ trọi. Khi Kiều bỏ Quan Âm Các trốn đi cũng có câu: ‘Đêm khuya thân gái dặm trường’. Thức dậy nửa đêm với cảm giác cô đơn và sợ hãi.
Càng lo nghĩ chừng nào thì những đợt sóng của tâm hành càng nổi lên mạnh mẽ chừng đó. Càng suy nghĩ tới sự cô đơn của mình thì sự sợ hãi lại càng lớn lên. ‘Nỗi riêng lớp lớp sóng dồi, Nghĩ đòi cơn lại sụt sùi đòi cơn.’
Không phải người đàn bà trong trường hợp cô đơn mới cảm thấy sợ hãi. Người đàn ông khi thấy một mình một bóng cô đơn, không ai hiểu mình cũng sợ hãi, không biết cái gì sẽ xảy ra trong đời mình. Đời một con người thế nào cũng có những giai đoạn may và những giai đoạn rủi. Chuyện may rủi này có thể không phải là ngẫu nhiên. Chúng đều có những nguyên nhân gần hay xa. Lâm vào tình trạng khó khăn mà bên mình có được một người hiểu mình, thương mình, yểm trợ cho mình thì đỡ lắm. Khi cô đơn, gặp tai nạn và khổ đau mà một thân một mình hoàn toàn cô đơn thì ta sẽ đau khổ tột độ. Nhưng nếu bên cạnh mình có vài người hay ít nhất là một người hiểu, thương nâng đỡ và bảo vệ cho mình thì hay vì khổ một ngàn lần mình chỉ khổ chừng một trăm lần thôi (hoặc có thể ít hơn.) Trong cuộc sống hàng ngày chúng ta phải biết đầu tư nơi bạn bè. Cũng như biết mùa đông sắp tới thì phải cưa củi để dành cho những ngày quá lạnh. Không có củi đốt thì mình sẽ chết cóng. Chúng ta làm thế nào để có được một, hai, ba… người bạn. Những người bạn đó sẽ là những người đứng cạnh mình, nâng đỡ, bảo vệ mình trong những lúc mình đau khổ, yếu đuối nhất. Xây dựng tăng thân là một việc làm quan trọng. Tăng thân không hẳn chỉ là những người cùng thực tập theo đạo Bụt; bạn bè nuôi dưỡng, giúp đỡ nhau trong cuộc đời cũng là một hình thức tăng thân. Trong khi đọc ‘Con về nương tựa nơi Tăng’ chúng ta phải hiểu Tăng bảo là một viên ngọc quý. Đừng coi Tăng bảo là những phần tử đang tu tập với mình mà thôi. phải thấy ở trong đó có những người anh, người chị, người em đích thực của mình. khi mình lâm nạn thì chính những người đó đến ôm lấy mình nói: ‘Chị đừng sợ! Em đừng sợ! Có em đây. Có anh đây. Không có gì mà sợ.’ Mỗi ngày sống ta phải đầu tư nơi huynh đệ, nơi tăng thân của mình. Ta phải quán chiếu, thấy được những khó khăn, khổ đau của những người sống xung quanh và thực tập làm vơi đi những nỗi khổ đó. Khi bạn mình nở được một nụ cưòi thì chúng ta cũng đã đặt thêm được một viên gạch xây dựng tình bằng hữu. ‘Sáng cho người thêm niềm vui, Chìều giúp người bớt khổ.’ Đó cũng đồng thời là sự thực tập đầu tư cho tương lai, để dành củi cho những ngày mưa. Tất cả những gì mình làm mình sẽ được hưởng trong tương lai. Tất cả những gì mình làm mình sẽ được hưởng trong tương lai. Hai phía đều dính líu tới nhau. Tình luôn luôn đi với nghĩa. Một người thực tập thông minh thì trong đời sống hàng ngày luôn luôn đầu tư vào các bạn. Những lúc các bạn có vấn đề, yếu đuối, sa xuống thấp thì mình đứng gần, có mặt: ‘Có chị đây. Em đừng lo! Có em đây. Anh đừng lo!’ Và mình chăm lo thật sự cho người đó chứ không phải chỉ lo vì bổn phận của một người trong tăng thân. Làm được điều đó thì đi đâu mình cũng có cảm tưởng được nâng đỡ. Đó là lời Bụt dạy khi Ngài dạy về Tứ Vô Lượng Tâm: khi thực tập tâm Từ, tâm Bi, tâm Hỷ và tâm Xả đi đâu mình cũng thấy có sự che chở, bảo vệ và nâng đỡ. Một người thực tập ‘Sáng cho người thêm niềm vui, Chiều giúp người bớt khổ’ thì không có cảm tưởng cô đơn, lẻ loi trong cuộc đời. Đường dài nhưng mình đi một cách rất vững chãi an lạc. Đường càng dài thì càng được đi xa. Không sợ, không thấy ‘đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh.’ Đường càng xa, càng đi càng thích. Dù có những khó khăn, trên đường của mình vẫn có chim, có bướm, có cây. Mình không sống một mình. Mình sống với các bạn.
Buổi sáng, sau khi ngồi thiền ta nên nhắc mình: hôm nay ta phải dâng cho người một niềm vui. Nếu buổi sáng đi qua mà ta không làm được cho một người nào vui thì ta không thực tập được sự đầu tư đó. Buổi chiều, nguyện giúp người bớt khổ, ta sẽ quán chiếu xem người huynh đệ nào đang cần sự săn sóc của ta. Và buổi tối, ngồi thiền xong, ta quán chiếu lại để thấy ngày hôm nay ta có làm công việc đầu tư ấy đàng hoàng không. Buổi sáng chúng ta đã cho ai được niềm vui? Buổi chiều ta có giúp ai được bớt khổ? Đó là một thực tập rất quan trọng. Làm điều đó cũng chính là làm cho mình. Lân mẫn, lo lắng cho họ tức là lân mẫn lo lắng cho chính mình. Đời một con người thế nào cũng có những lúc khó khăn, đen tối, bệnh tật, lo sầu. Nếu chỉ có một thân một mình, người ta sẽ không thể nào sống nổi. Người ta tự tử thường là vậy: hoàn cảnh khó quá, không thể nào vượt thoát. Nhưng nếu có được một người bạn, người anh hay người chị bên mình trong lúc đó thì ý tưởng tự tự sẽ bớt đi bảy mươi, tám mươi phần trăm. Tự tử không phải vì chán đời mà vì sợ. Sợ rằng mỗi ngày mình đều phải sống như vậy thì đau khổ quá, chịu không nổi. Sống trong chánh niệm, thấy người xung quanh đi, đứng, nói, cười… mình cũng phải nhìn để thấy rằng họ cũng đang có những nỗi khổ, niềm đau. Người nào cũng có vấn đề riêng của họ. Không phải chỉ có một mình mình mới có vấn đề thì mình trở nên khó chịu với những người xung quanh. Đôi khi thấy được những vấn đề của người xung quanh rồi mình lại thấy vấn đề của mình không quan trọng mấy và tự nhiên nỗi đau của mình nhẹ đi. Tới giúp người kia tự nhiên mình có niềm vui và vấn đề của mình cũng tan biến. Thực tập này rất quan trọng. Có những nỗi khổ đau lớn gấp trăm, ngàn lần nỗi khổ đau của mình mà mình không thấy. Mình chỉ nghĩ rằng nỗi khổ đau của mình là lớn nhất. Đó là một nguyên do khiến mình đau khổ và tự giam trói mình trong ngục tù chủ quan.
NHẬN DIỆN
Đọc truyện Kiều, ta thường tự đồng nhất hóa với những nỗi khổ đau của nhân vật chính. Nhưng ta cũng phải tập đồng nhất hóa với hoàn cảnh và những khổ đau của các nhân vật khác. Trong ta không những có chất liệu của Thúy Kiều mà còn có chất liệu của những nhân vật khác trong truyện nữa.
Chúng ta có chất liệu của sư trưởng Giác Duyên. Chúng ta rất thương sư em nhưng chúng ta làm ăn ra sao mà không dạy cho sư em cách thở, cách đi thiền hành, cách nắm vững tâm ý. Chúng ta phải thấy ni sư ở trong ta. Một người cũng có hạnh phúc, tu hành rất chân chính nhưng không biết tại sao mà không giúp được sư em về việc thực tập! Tại lo việc chùa hơi nhiều nên không có thì giờ? Hay sư chị chưa được học Kinh An Ban Thủ Ý? Như vậy thì ta càng thương. Ta nói: ‘Sư trưởng Giác Duyên, em sẽ cố gắng làm hay hơn chị. Vì chị không được gặp Sư Ông nhưng em đã có dịp gặp Thầy rồi.’ Nơi ni sư Giác Duyên có nhiều cái hay, cái đẹp mà có thể chúng ta chưa có. Ni sư rất thương Trạc Tuyền nhưng khi Trạc Tuyền gặp lại gia đình và được gia đình mời về thì ni sư không ngăn cản. Ni sư làm một cái chùa nhỏ là để ở chung cùng với sư em; sư em về nhà rồi thì ni sư khóa cửa, đi vân du. ‘Sư đà hái thuốc phương xa, Mây bay hạc lánh biết là tìm đâu.’ Không biết địa chỉ của ni sư để gửi thư. Ni sư là một đám mây tự do, thong dong bay, không vướng bận. Trong túi của ni sư có rất nhiều trăng. Đi tới đâu ni sư cũng có hạnh phúc. Đó là những cái chúng ta có thể học được từ sư chị Giác Duyên.
Chúng ta có một Thúc Sinh ở trong lòng. Không nhiều thì ít, trong mỗi chúng ta đều có chất liệu đam mê và nhu nhược. Chúng ta phải công nhận rằng chúng ta có hạt giống của sự đam mê nhu nhược đó. Đừng nói: ‘Đâu, tôi phải đâu phải Thúc Sinh nà!’ Phải công nhận sự có mặt của những hạt giống đó để có thể thực tập chuyển hóa. Thúc Sinh tuy rất thương Thúy Kiều nhưng thiếu hẳn trí tuệ. Không biết nghe lời khuyên của Kiều. Và khi Kiều bị lâm nạn, tuy rất đau khổ Thúc Sinh không có can đảm để hành động, cứu Kiều. Rất sợ vợ. Tuy có một ít sự chung tình nhưng sự chung tình đó không đủ mạnh để Thúc Sinh hành động. Những hạt giống của Thúc Sinh chúng ta đều có hết. Phải nhìn kỹ để thấy sự có mặt của những hạt giống đó mà thực tập chuyển hóa và để đừng làm như Thúc Sinh.
Hạt giống của Từ Hải trong ta cũng có. Chúng ta cũng có khí phách. Thấy những sự bất bình đôi khi ta cũng nổi giận như Từ Hải. Chúng ta cũng muốn làm cách mạng. Nói như vậy không có nghĩa là chống lại với điều vừa nói ở trên là trong ta có sự nhu nhược của Thúc Sinh. Chúng ta có hạt giống của sự nhu nhược nhưng chúng ta cũng có hạt giống của sự khí khái. Nếu chúng ta thực tập tưới tẩm những hạt giống khí khái, anh hùng thì những hạt giống đó sẽ lớn lên. Chúng ta sẽ trở nên một người có cái quyết tâm của Từ Hải. ‘Quyết lời dứt áo ra đi, Gió đưa bằng tiện đã lìa dặm khơi.’ Đi một cái rột. Người đàn bà không thể làm tiêu hao, lung lạc chí khí trượng phu. Đó là cái chúng ta cần phải học. Ta có Bồ Đề Tâm, có chí hướng, lý tưởng. Đừng làm theo kiểu của Thúc Sinh. Cần hoạt động, cần quyết định thì phải hành động và quyết định một cách rất mạnh mẽ. Nếu trí tuệ cho chúng ta biết hành động đó là hành động đúng, phù hợp với con đường lý tưởng của ta thì ta nhất định phải làm. Đừng để tình cảm này níu kéo, tình cảm kia xô đẩy ngày này sang tháng khác kéo dài., rốt cuộc không bao giờ ta làm được cả. Có những người ôm một cái mộng mà ba, bốn, năm mươi năm không thực hiện được. Đó là vì họ có quá nhiều tính chất nhu nhược của anh chàng Thúc Sinh. Nếu anh, chị có cái mộng nào muốn thực hiện thì phải làm như Từ Hải.
Chúng ta cũng có hạt giống của Hoạn Thư. Đừng nói: ‘Ôi Hoạn Thư làm một người ghê gớm quá! Mình làm sao mà là Hoạn Thư được!’ Kỳ thực Hoạn Thư và ta có những điểm giống nhau. Mỗi người trong chúng ta đều có hạt giống của sự ghen ghét trong lòng. Có khi chúng ta ganh với em, với chị, với anh, với bạn… Hạt giống ganh ghét đó, chúng ta không biết, không nhận diện ra và chúng ta lấy những lý do khác để bào chữa cho thái độ của mình. Không có ai trong chúng ta vượt ra khỏi tình trạng đó. Tôi cũng có hạt giống ghen. Trong tất cả quý vị ai cũng đều có hạt giống ghen cả. Vì vậy chúng ta phải học thực tập Hỷ Xả Từ Bi để chuyển hóa cái ghen của mình. Thấy một người có hạnh phúc, được thương, được may mắn, mình mừng cho người đó, vui cái niềm vui của họ gọi là Hỷ. Trong lòng mình có niềm vui, có sự nhẹ nhàng, thảnh thơi. Và người kia tự nhiên trở lại thương mình, chia sẻ hạnh phúc của họ cho mình. Nếu mình ghen người kia đau khổ và không thể nào chia sẻ được hạnh phúc cho mình. hạnh phúc của người kia bớt đi là vì sự ganh tuông của mình. Hoạn Thư có mặt trong ta. Nhưng Hoạn Thư không phải chỉ có ganh thôi. Trong cô cũng có lòng từ bi. Đọc tờ cung khai của Kiều, Hoạn Thư thương cho tài văn và tâm trạng của Kiều và đã cho phép Kiều đi tu, khỏi phải làm thân tôi tớ. Nghe lỏm được câu chuyện giữa Kiều và Thúc Sinh, Hoạn Thư vẫn lờ đi, không canh gác, cố ý để Kiều đi trốn. Kiều trốn đi, mang theo chuông vàng khánh bạc, Hoạn Thư vẫn không theo bắt, dù cô có đầy đủ phương tiện để truy nã. Hành động nhân từ đó đã có kết quả rất tốt mà chúng ta sẽ thấy trong những đoạn tới. Từ Hoạn Thư chúng ta cũng học được bài học nhân ái chứ cô không phải là một người bỏ đi. Tất cả chúng ta, giác ngộ nào cũng có những hạt giống tốt và xấu. Chúng ta phải chấp nhận nhau và giúp đỡ nhau để những hạt giống tốt trong nhau phát triển và những hạt giống xấu ngày một yếu dần đi.
Rồi những Tú Bà, Mã Giám Sinh, Ưng, Khuyển… đừng nói đó là những phường vô lại. Chúng ta cũng có hạt giống của họ. Mỗi người Việt đều có hạt giống của Lý Thường Kiệt, Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông… mà cũng có hạt giống của Trần Ích Tắc, Hồ Quý Ly… Nếu sống trong một môi trường không thuận lợi thì chúng ta sẽ thành ra Trần Ích Tắc. Và nếu được sống trong một hoàn cảnh gia đình và xã hội thuận lợi thì chúng ta sẽ thành ra những Lê Thái Tổ, Trần Thái Tông. Đừng nghĩ rằng bọn Sở Khanh, Ưng, Khuyển, Tú Bà là nên đem đi chém hết. Phải thấy rằng hoàn cảnh giáo dục, gia đình và xã hội của họ đã đưa họ tới chỗ đó. Chúng ta phải có lòng từ bi với những người này và phải chăm sóc họ một cách đặc biệt..
Đọc truyện Kiều theo phương pháp thiền quán, chúng ta phải đi vào da thịt từng nhân vật. Chúng ta sẽ thấy rằng người nào cũng có mặt trong ta cả. Họ ở ngay đó, trong đời sống hàng ngày. Ta chỉ đưa tay ra là đụng. Bằng chánh niệm chúng ta nhận diện liền lập tức những hạt giống của những nhân vật đó trong ta và trong người xung quanh. Ta phải thấy được họ và phải thấy một cách sáng suốt để có thể giúp họ và có thể phản chiếu lại nội tâm ta. Thấy để bắt chước những cái hay, cái đẹp cũng như tránh lập lại những lỗi lầm của họ. Và với tình thương Từ Bi Hỷ Xả, ta tìm cách giúp họ.
——————————————————————————–
57 Sai nha: nhân viên chính quyền.
58 Già giang: cái gông (già) gông vào cổ (giang)
59 Giậm: đồ dùng đánh cá; giàm: bẫy bắt chim hay bắt các loài thú.
Đan giậm giật giàm: ý nói lừa, đánh bẫy cho nên tội.
60 Nghi: ông ta (ông họ Chung), dấu hỏi chứ không phải dấu ngã.
61 Tấc cỏ ba xuân: bài Du Tử Ngâm của Mạnhöng Giao có câu: Thùy ngôn thốn thảo tâm, báo đắc tam xuân huy = Ai nói rằng cái lòng của tấc cỏ mà báo đáp được ánh sáng của ba tháng mùa xuân. Đó là lời người đi chơi xa (du tử) nhớ mẹ. Tấc cỏ ví cho người con: ba xuân ví như cha mẹ.
62 Nàng Oanh: Thuần Vô Úy, cha của nàng Đề Oanh phạm lỗi lớn, Đề Oanh viết thơ tâu lên vua Hán Văn Đế xin thế tội cho cha. Vua Văn Đế đọc biểu cảm động và tha tôi cho cha cô.
63 Ả Lý: Nàng Lý Ký nhà nghèo, bán mình nuôi cha mẹ. Theo Sưu Thần Kiểm soát: Hang núi ở quận Mân Trung, đất Đông Việt có con rắn to, hàng năm dân phải cúng cho thần rắn một đồng nữ. Có một năm, viên quan lệnhöng tìm đồng nữ mà chẳng được ai. Nàng Lý Ký ở huyện Tương Lạc muốn nhân dịp này bán mình lấy ít tiền nuôi cha mẹ, trốn đến cửa quan tự bán mình để nộp thần rắn, và xin được một thanh gươm tốt, một con chó dữ. Đến ngày nộp thần rắn, Lý Ký cầm gươm, dắt chó ngồi chờ sẵn trong miếu. Con rắn khổng lồ bò ra, Lý Ký thả chó ra cắn, còn nàng theo dùng gươm chém. Rắn chết, Hán Vũ Đế biết chuyện, mời nàng về cung lập làm hoàng hậu.
64 Tinh kỳ: Tinh kỳ hôn kỳ giã, hôn giả, kiến tinh nhi hành = Tinh kỳ là kỳ cưới vợ, đám cưới trông thấy sao thì đi
65 Trúc mai: tên của hai giống tre.
66 Dạ đài: đài đêm, chỉ âm phủ.
67 Rén chiềng: thưa trình mà có ý rụt rè. Chiềng là do chữ trình đọc trạnh ra.
68 Quản huyền: ống sáo, dây đàn (chỉ tiếng sáo, tiếng đàn rước dâu.)
69 Mạt cưa mướp đắng: người lấy mạt cưa giả làm cám đem bán, gặp kẻ lấy mướp đắng giả làm dưa chuột; chỉ những phường bịp bợm, chơi với nhau rất cân xứng.
70 Chén đồng: Chén rượu thề. ‘Người dưới nguyệt chén đồng’ là người cùng uống rượu và thề thốt dưới mặt trăng. Đây là Kim Trọng.
71 Người tựa cửa: người mẹ tựa cửa trông chờ con. Chiến quốc sách: Mẹ Vương Tôn Giả bảo ông: Nhữ triêu xuất nhi vãn lai, tắc ngô ỷ môn nhi vọng nhữ; nhữ mộ xuất nhi bất hoàn, tắc ngô ý tư nhi vọng nhữ = Con sáng sớm đi, chiều mới về thì mẹ đứng tựa cửa mà ngóng trông con: chiều tối ra đi thì mẹ tựa cổng làng mà ngóng trông con
73 Quạt nồng ấp lạnh: quạt khi trời nóng, ấp chiếu chăn cho ấm: khi trời rét, đó là cử chỉ săn sóc của người con hiếu, do chữ đông ôn hạ sanh trong Lễ Ký.
73 Hạ lai: Sân nhà Lão Lai tử, chỉ nhà cha mẹ. Theo Hiếu tử truyện, Lão Lai tử thờ cah mẹ rất có hiếu, đã ngoài 70 tuổi ông còn bày trò chơi trẻ con, mặc áo năm màu ra múa cho cha mẹ coi rồi giả đò té khóc như trẻ con để cha mẹ cười. Đó là gương người hiếu hạnh.
74 Gốc tử: gốc cây tử. Kinh thi: Duy tang dữ tử, tất cung kinh chỉ = Nhớ đến cây dâu với cây tử (cây do cha mẹ trồng) thì nên sanh lòng cung kính. Người sau nhân đó gọi là quê hương, nơi cha mẹ ở là tang tử . Gốc tử đã vừa người ôm: ý nói cha mẹ đã già.
75 Ý cả câu: Thúy Kiều lìa cửa lìa nhà, như con chim lạc đàn, phải mắc vào lầu xanh, mang lấy cái nợ làm gái điếm
76 Kết cỏ ngậm vành: chỉ sự báo ơn sâu. Kết cỏ: theo Tả Truyện, Ngụy Vũ Từ coù người thiếp trẻ đẹp, không có con, ngày thường dặn con là Ngụy Khỏa: ‘Nếu chẳng may có chuyện gì hoặc ốm mà chết thì con lo gả chồng tử tế cho nàng.’ Nhưng khi Vũ Từ ốm nặng sắp mất lại dặn Khỏa: ‘Đem vàng chôn theo ta.’ Khi Vũ Từ qua đời, Ngụy Khỏa cứ theo lời dặn của cha khi sáng suốt mà đem gả chồng cho nàng. Sau Ngụy Khỏa đánh nhau với quân Tần ở Phụ Thị, Khỏa thấy một ông già nắm từng bụi cỏ mà kết lại với nhau. Ngựa của tướng bên Tần là Đỗ Hồi bị vướng ngã, Đỗ Hồi bị Khỏa bắt. Đêm hôm ấy Ngụy Khỏa nằm mộng thấy ông già kết cỏ đến nói: ‘Tướng quân biết theo lời dạy sáng suốt của tiên nghiêm mà gả chồng cho con gái tôi. Vì vậy tôi kết cỏ cho ngựa Đỗ Hồi ngã để báo ơn sâu của tướng quân.’ Ngậm vành: Theo Tục Tề hài ký dẫn trong Hậu Hán Thư, Dương Bảo đời Hậu Hán đi chơi thấy một con chim sẻ vàng bị con chim cắt đánh rơi xuống đất, bắt đem về nuôi đến khi chim sẻ khỏe mạnh thì thả cho chim bay đi. Đêm hôm ấy, có một đứa bé mặc áo vàng đến trước Bảo, lạy nói: ‘Cậu là người nhân ái đã cứu sống tôi, thực cảm cái ơn đó nên nay đem bốn chiếc vòng ngọc đến tạ.’
77 Tam thập lục kế tẩu vi thượng sách: ba mươi sáu cách để giải quyết thì cách trốn đi là hay nhất.
78 Hóa nhi: ông trời, có khi gọi là trẻ tạo.
79 Đà đao: miếng võ hiểm lừa cho người ta đuổi rồi quay lại chém bất ngờ. Đây nói lừa đảo, đánh lừa.
80 Nghỉ: anh chàng
81 Người soi: người sành sỏi.
82 Gió lá cành chim: ý nói cảnh tấp nập đưa đón khách chơi. Nàng Tiết Đào đời Đường lúc bé có câu thơ Chi nghênh nam bắc điểu, diệp tống vãng lai phong = cảnh đón những con chim nam bắc, lá đưa những ngọn gió qua lại. Cha nàng xem bài thơ không vui vì biết con về sau không ra gì.
83 Tống Ngọc và Tràng Khanh là những người đẹp trai, văn nhân tài tử nhưng có tính trăng hoa.
84 Trân cam: những thức ăn quý, ngon ngọt là những vật phụng dưỡng cha mẹ già của người con hiếu.
85 Liễu Chương Đài: Theo Toàn Đường thi thoại Hàn Hoành đời Đường giỏi thơ, kết duyên với một người con gái ở phố Chương Đài thành Trường An là Liễu Thị. Hàn về quê thăm nhà. Kinh đô có biến, Liễu Thị bị tướng giặc cướp mất. Khi loạn được dẹp yên, họ Hàn cho người đem vàng bạc và bài thơ Chương Đài Liễu để dò tin Liễu Thị: Chương Đài Liễu. Chương Đài Liễu, tích nhật thanh thanh kim tại phủ? Túng sử trường điều tự cựu thùy, giã ưng phan chiết tha nhân thử = Cây liễu ở Chương Đài, Cây liễu ở Chương Đài, ngày trước xanh xanh, nay có còn không? Cho dù cành dài còn buông rủ như cũ thì có lẽ cũng đã vin bẻ vào tay người khác mất rồi! Sau Liễu Thị được trở về đoàn tụ với Hàn Hoành. Liễu Chương Đài chỉ người yêu xa cách.
86 Bốc rời: bốc tiền tiêu không cần đếm. Ý nói tiêu không tiếc tiền
87 Thang lang: nước hoa lan thơm nấu sôi để tắm.
88 Mây vàng: theo Tự Điển Truyện Kiều của Đào Duy Anh: ‘Có câu thơ cổ của tác giả người đất Thục sang ở đất Tần: ‘Thục trung đa hoàng vân’ nghĩa là trong đất Thục có nhiều mây vàng, do đó nói nhớ quê nhà người ta thường nói nhớ mây vàng. Bản của KOM, BKD và NKH thì chép ‘mây Hàng’ lấy tích Địch Nhân Kiệt lên núi Thái Hàng thấy mây trắng thì nói nhà cha mẹ ở đưới đám mây đó. Nhưng ‘mây Hàng’ thì không đúng vì điển Địch Nhân Kiệt nói mây trắng chứ không phải mây ở núi Thái Hàng, núi Thái Hàng là chỗ Nhân Kiệt đứng nhìn thấy đám mây ở nơi khác.
89 Thu ba: sóng thu, hai con mắt người đẹp trong sáng như nước thu gợn sóng.
90 Sân ngô: sân có trồng cây ngô đồng. Lá cây ngô đồng đổi sang màu vàng là dấu hiệu của mùa thu
91 Dậu thu: dậu hoa mùa thu. Gió sương: chồi hoa chịu được sương tức là chồi hoa cúc (hoa mùa thu).
92 Gối yên: gối dựa vào cái yên ngựa của các ông lão đời trước hay dùng. Xuân đường: người cha.
93 Mặt sắt đen sì: do chữ thiết diện chỉ ông quan nghiêm nghị, cương trực.
94 Ba cây: (tam mộc) là cái khóa tay (nữu), gông cổ (già) và cùm chân (giới).
95 Đào hoen quẹn má: mặt mũi thất sắc, nước mắt giàn giụa hoen cả má đáo. Liễu tan tác mày: nhíu mày chịu đau, lông mày lá liễu không còn ra hình lá liễu nữa.
96 Lầm cát: bùn và cát.
97 Vóc sương: khổ người nhẹ, thanh, trong trắng. Hình thù của Thúy Kiều tiều tụy khi bị hình phạt như gương không sáng nữa vì nước thủy ngân mờ đi, như cành mai bị sương tuyết.
96 Giải vì: mở vòng vây.
99 Có bản ghi: ‘giả lại thịnh Đường’, tức là còn hay hơn cả thơ đời hưng thịnh của nhà Đường nữa.
100 Châu Trần: họ Châu và họ Trần đời đời làm thông gia với nhau; đây là nói đến chuyện hôn nhân tốt đôi vừa lứa.
101 Cổ xúy: nhạc bát âm. Cổ là tên gọi chung những nhạc khi dùng để đánh như chiêng, trống. Xúy là những nhạc khí để thổi lên như kèn, sáo.
102 Cát lũy: dây leo, chỉ người vợ lẽ. Tao khang: bã rượu và cám gạo, những thức ăn hèn mọn, chỉ người vợ lấy từ buổi nghèo túng khốn khổ tức là người vợ cả.
103 Quan hà: cửa ải và sông, tượng trưng cho chuyến đi xa. Chén quan hà là chén rượu tiễn biệt.
104 Xuân đình: chỗ chơi, Cao đình: chỗ tiễn biệt.
105 Sông Tần: tượng trưng cho sự cách biệt. Có câu hát cổ (bài ca Vị Tây): ‘Dao vọng Tần xuyên can trường đoạn tuyệt’ = nhìn xa thấy nước sông Tần nát gan dứt ruột vì sự ly biệt.
106 Dương-quan: tên của một cửa ải phía tây nam huyện Đôn Hoàng, tỉnh Cam Túc, tượng trưng cho sự ly biệt.
107 Đằng: gác Đằng Vương (Đằng Vương Các.) Gió gác Đằng là chỉ duyên may hiếm có, cơ hội thuận lợi..
108 Tẩy trần: rửa sạch bụi. Tục cổ, khi có người ở xa mới đến, đặt tiệc mời ăn hay biếu vật gì cho người đó là tẩy trần, ý nói để rửa sạch những nỗi gian lao vất vả dọc đường.
109 tuần vược: do chữ thuần lô, rau thuần cá vược là hương vị của quê hương.
110 Cổ thi: Ngô đồng nhất diệp lạc, thiên hạ công tri thu = một lá ngô đồng rụng, ai cũng biết thu sang. Ý cả câu: Mùa thu đến.
111 Côn quang: gậy gộc, chỉ bầy du côn, cầm đầu là hai anh chàng Ưng và Khuyển.
112 Lục trình: đường bộ.
113 Phi phù tí quỷ: đốt một đạo bùa triệu thỉnh ma quỷ tới. Thông huyền: hiểu thấu được những lẽ huyền vi trong vũ trụ.
114 Tam đảo: ba hòn đảo tiên to như núi Bồng lai. Phương Trượng và Doanh Châu. Cửu tuyền: chín suối, chỉ âm phủ.
115 Cánh suyền: cánh buồm đi nhanh (suyền = đi nhanh.)
116 Hồn mai: linh hồn cây mai. Theo Long thành lục, Triệu Sư Hùng đời Tùy qua chơi núi La Phù. Trời chiều sắp tàn, thấy trong rừng có một quán rượu. Hùng ghé vào thấy một người con gái đẹp, trang điểm thanh nhã, mặc đồ trắng ra tiếp. Hai người nói chuyện, uống rượu hương thơm như tỏa vào người. Tỉnh dậy, thấy mình nằm dưới gốc cây mai đang nở rộ hoa. Đó cũng chỉ là một giấc mộng. Hồn mai trong câu này chỉ người đẹp trong cơn mê.
117 Bàn hoàn: nghĩ quanh nghĩ quẩn, băn khoan lo lắng.
118 Thù: chủ nhân rót mời khách. Tạc: khách rót mời lại chủ nhân. Chén tạc chén thù: người này mời mọc người kia uống.
119 Trì hồ: cầm bầu rượu (đứng hầu rượu).
120 Xem chuyện Tùng của Nhất Hạnh trong quyển Cửa Tùng Đôi Cánh Gài.
121 Điểm nguyệt: điếm cỏ, lều cỏ dưới trăng. Cầu sương: cầu ván có sương ướt. Thơ Ôn Đình Quân: Kê thanh mao điểm nguyệt, Nhân tích bản kiều sương = Tiếng gà gáy nơi điếm cỏ dưới trăng, vết chân người in trên cầu ván có sương ướt.
122 Đàn Việt: danna, cúng dường; người đàn việt là người cư sĩ đến chùa cúng dường. Cửa Già: chốn Già Lam, tức là tu viện.
123 Trác: bàn thờ, bàn hương án.
124 Biên đình: miền biên giới.
125 Côn: võ dùng gậy; quyền: võ tay không. Lược thao: do chữ lục thao tam lược là tên những bộ binh thư thời xưa, chỉ chung phép dụng binh, kế hoạch quân sự.
126 Việt Đông: ở miền nam Trung Hoa.
128 Bình Nguyên Quân: tên Triệu Thắng, con Linh Vương nước Triệu đời Chiến Quốc, là người hiền thích tân khách, tính hào hiệp, trong nhà có đến mấy nghìn khách ăn. Ông làm tể tướng cho Huệ Văn Vương và Hiếu Thành Vương, ba lần thôi không làm tể tướng, ba lần trở lại địa vị, được phong đất ở Đông Vũ Thành. Thơ Cao Thích: Vị tri can đảm hướng thùy thị, linh nhân khước ức Bình Nguyên Quân = Chẳng biết gan mật hướng vào ai cho phải, khiến người lại nhớ Bình Nguyên Quân. Đây nhân câu trên, Thúy Kiều nói: ‘Biết đâu mà gởi can trường vào đâu’ nên Từ Hải lấy ‘câu Bình Nguyên Quân’ mà đáp lại cũng là có ý tự ví mình.
129 Tấn Dương: tên đất, nơi Đường Cao Tổ từ đó dấy binh đánh nhà Tùy dựng nghiệp đế. Ý cả câu: Thúy Kiều tin rằng có phen Từ Hải làm nên được nghiệp đế vương như Đường Cao Tổ
130 Chung: hộc lúa: tứ: xe chở ngườI, vật dụng. Sự giàu sang được đo bằng lúa và xe.
131 Băng nhân: người làm mai.
132 Giường thất bảo: giường có khảm bảy thứ báu (vàng, bạc, phá lê, xà cừ, trân châu, mã não, đồI mồi.) Màn bát tiên: màn thêu hình tám vị tiên (Chung Ly, Trương Quả Lão, Hàn Tương Tử, Lý Thiết Quày, Tào Quốc Câu, Lữ Đồng Tân, Lam Thái Hòa, Hà Tiên Cô.)
133 Chiêng: nhạc khí bằng đồng, hình tròn có múm ở giữa để đánh. Tinh: cờ xí
134 Nghi gia: về nhà chồng.