Những cơ sở Làng Mai ở miền Tây Nam nước Pháp

Phương Khê

Trung tâm Làng Mai tại miền Tây Nam nước Pháp là Trung tâm đầu tiên được thành lập. Năm 1982 Thầy đi xuống miền Nam nước Pháp tìm đất lập trung tâm. Như đã kể trên, thầy trò tìm được một ngôi nhà lớn ở cách Bordeaux khoảng 100 cây số. Thầy đặt tên ngôi nhà này là Phương Khê vì có dòng suối nhỏ chảy quanh. Chân Không thấy căn nhà thì sợ quá vì nhà lớn mà cũ, nghe nói cất từ thế kỷ thứ 19 mà lúc đó mình đang ở cuối thế kỷ 20. Căn nhà có 15 căn phòng rất lớn và thoáng. Thầy rất thích vì nghĩ mình có bao nhiêu là tài liệu. Tài liệu còn giữ ở nhà đã bị đốt hết nhưng tài liệu báo cáo của Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội thì mình còn giữ. Tài liệu của mấy chục ngàn con nít đói trong chiến tranh mình cũng phải giữ, ít nhất là những phần quan trọng của những Tỉnh giáo hội, của những ni sư hay những thầy đã làm việc giúp các trẻ em và dấn thân trong xã hội như thế nào. Có những tài liệu lịch sử của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất, những hiến chương… Mười lăm phòng là chỉ đủ chỗ giữ những tài liệu đó. Nhưng Chân Không là người cạn cợt nên thấy căn nhà lớn quá mà sợ:

“Thầy ơi, con thấy nhà lớn quá, giống ngôi nhà ma quá!”

Nhưng Thầy nói, Chân Không cũng không cần phải ở đó và thầy cho Chân Không về ở với mẹ như các dân làng khác, chỉ có vài người ở lại phụ Thầy làm việc thôi. Mình sẽ mua đất làm một làng tu học lớn bên kia, xa Phương Khê. Mình cho Phật tử đứng ra làm cột trụ cho bên Làng. Phương Khê là chỗ giữ tài liệu nên Thầy không muốn cho nhiều người biết, sợ lỡ bị đốt cháy thì mình mất hết tài liệu. Mình gọi Phương Khê là Sơn Cốc của Thầy.

Sau này Thầy có đông con xuất sĩ nên Phương Khê có xây thêm một số phòng ngủ gọi là nội viện, dành cho xuất sĩ nhập thất hoặc nghỉ ngơi vào những ngày sinh hoạt chung trên Sơn Cốc. Khi Thầy bệnh rồi Thầy vẫn muốn sửa chữa thêm những căn nhà đổ nát và chuồng ngựa phía sau thành một thiền đường lớn và một phòng nhỏ để các thầy, các sư cô có nơi sinh hoạt vào những ngày Quán Niệm chỉ dành cho xuất sĩ.

Những cơ sở ở Xóm Hạ và sinh hoạt những năm đầu

Xóm Hạ

Mua Xóm Hạ

Có Phương Khê làm chỗ dừng chân rồi thì Thầy mới đi coi nông trại này nông trại kia và so sánh giá cả. Cuối cùng thì Thầy tìm một được một chỗ 21 mẫu, trong đó có 2 mẫu nho, 3 mẫu rừng và mấy mẫu ruộng. Mình có thể trồng hồng như dự định lúc đầu. Mình sống rất đơn giản nên không cần tiền tài trợ. Để trả lương cho anh Thiều mình mượn tiền của Giáo hội Phật giáo Việt Nam mà mình đã quyên cho trẻ em chiến tranh. Mình mượn rồi sẽ trả.

Mình mua đất từ những nông trại cũ, một thước vuông giá một franc, mua 10.000 thước vuông tức một mẫu chỉ có 10.00 francs. Tiền đi dạy của Thầy dư sức trả nên mình mua 21 mẫu. Trên giấy tờ mình khai mua cho Giáo hội Phật giáo Thống Nhất (Église bouddhique unifiée), lấy từ tên Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất mà Thầy là đại diện, nhưng thay vì “du Vietnam” thì mình để “de la France” tức là Giáo hội Phật giáo Thống Nhất tại Pháp. Hai mươi mốt mẫu đất mình để anh chị Thiều đứng tên, nhưng anh có viết giấy là tất cả là tiền của Giáo hội và anh chỉ đứng tên giùm. Đó là Xóm Hạ, sau này có tên chữ là chùa Cam Lộ.

Cư xá Tùng Bút

Vừa vào cổng Xóm Hạ thì có một bảng nhỏ với chữ Plum Village, Village des Pruniers rồi tới ngôi nhà đá cao to, có cửa vào 12 mét rộng, 6 mét cao có cửa hình vòng cung bán nguyệt cao to làm bằng gỗ nâu viền quanh những ô kính trong, vuông, 25cm x 25cm rất mỹ thuật theo lối những nhà giàu, sang trọng và cổ kính người Pháp. Đó là cửa vào chính thức cư xá Tùng Bút. Vừa vào là gặp ngay thiền đường to nhất làng năm 1983: Thiền đường Nến Hồng nằm giữa. Một cửa 4 mét x 3 mét cũng bằng gỗ sơn nâu gồm nhiều ô kính trong, vuông 25cm x 25cm. Bên trái là văn phòng ghi danh tu học ở Làng. Bên phải là quán sách Hoa Ô Môi, tiếp theo quán sách bên trái là cửa vào một hành lang 2 mét rộng thôi nhưng có điện thoại công cộng, hốc đá to để ông đưa thư hàng ngày đem thư từ và những colis sách… Bên trái của hành lang là cửa vào nhà bếp lớn để nấu ăn cho cả dân làng. Có khi nấu cho hai trăm người. Bên mặt tiếp theo nhà bếp là phòng to có hai thùng bằng xi măng (nông dân gọi đó là những chai” (đọc âm tiếng Việt là những se) chứa nước nho mới ép rượu bên trong là thùng gỗ và bên ngoài giống như những phòng vuông 5 mét x 5 mét x 2,5 mét bề cao bằng xi măng có thể chứa cũng vài chục mét khối rượu vang Pháp. Dĩ nhiên là thầy trò đã cho phá các thùng chứa rượu to tướng ấy và đem tráng nền xi măng cho căn phòng rộng 12×12 mét để làm phòng ăn và có một khoảng trống để các cháu trình diễn văn nghệ mỗi tối. Vào những năm đầu của Làng Mai thì năm nào các em thiếu nhi cũng tới đó trình diễn văn nghệ, đó cũng là nơi mà Thầy giảng Pháp mỗi khi xuống Xóm Hạ và đã giảng trọn hết Truyện Kiều cho những xuất sĩ mà lớn lên ở nước ngoài không biết văn chương Việt Nam. Những bài giảng đó sau này làm thành sách có tựa là Thả một bè lau.

Trọn vẹn ngôi nhà đá cao to giữa Xóm Hạ có thiền đường, văn phòng, quán sách Hoa Ô Môi, nhà bếp và phòng ăn, phòng học được gọi là cư xá Tùng Bút.

Thiền đường Nến Hồng, văn phòng, quán Hoa Ô Môi và Tham Vấn đường

Mình biến chỗ chứa rượu – những nhà se (thùng xi măng chứa rượu vang) của người dân cũ thành nhà bếp, phòng ăn và lớp học, lấy kho chứa rơm sửa thành thiền đường để ngồi thiền. Mình sửa nhà chứa rơm thành thiền đường Nến Hồng. Xóm Hạ có văn phòng (giữ từ năm đầu tiên cho tới bây giờ) bên trái của thiền đường Nến Hồng. Sau lưng văn phòng là thư viện. Hiện nay trong thiền đường Nến Hồng, có bàn thờ tổ tiên như thờ Sư Cố tức là thầy của Thầy, có hình Hoà thượng Trí Thủ và nhiều hình thờ ba má của Sư cô Chân Không, và ba má hay anh chị em quá cố của quý thầy quý sư cô. Bên trái của thiền đường, ngày xưa có một phòng nhỏ làm quán sách: quán Hoa Ô Môi, nhưng sau thì thấy quán sách nhỏ quá nên mình để một cây đàn piano và làm chỗ ngồi chơi cho mấy thầy, mấy sư cô và các cháu trẻ. Kế đó là hành lang để có cửa thông vào nhà bếp, một đầu là điện thoại còn đầu kia là nhà vệ sinh. Kế bên nhà vệ sinh là phòng của sư cô Chân Không ở bên mặt, phòng sư cô Chân Đức và Chân Vị ở bên trái. Trong phòng Chân Không có cất đèn tuệ giác Thầy cho mà bây giờ bị dẹp đi đâu rồi.

Hiện nay nhà bếp của Xóm Hạ đã làm mới khá lớn, đúng tiêu chuẩn nhà nước Pháp đòi hỏi nên khá quy mô. Phải làm đúng tiêu chuẩn của nhà nước để không bị đóng cửa nên đại chúng lấy luôn phòng sư cô Chân Không làm nhà kho lớn của nhà bếp lớn bây giờ. Sau đó thì mình dời quán Hoa Ô Môi ra Tham Vấn đường.

Tham Vấn đường là một căn nhà đá dùng để nuôi heo hay dê ngày xưa ở đối diện với phòng sinh hoạt công cộng. Vì không hôi thúi gì nên chỉ cần xịt nước rửa vách sạch và lót gỗ làm sàn để làm Tham Vấn đường cho Thầy tiếp thiền sinh.

Mấy năm đầu ai muốn tham vấn Thầy thì tới ngồi trình bày và Thầy lắng nghe. Một bác lớn tuổi mặc áo tràng đi vòng vòng bên ngoài Tham Vấn đường để giữ sự im lặng chung quanh. Sau này Thầy không có thì giờ nên người nào có khó khăn trong cuộc đời thì báo cáo với Chân Không rồi Chân Không báo cáo lên Thầy. Tới giờ tham vấn người ta sắp hàng năm, bảy người thì cũng không đủ giờ nên Thầy biểu Chân Không trả lời luôn. Chân Không thay Thầy cho thiền sinh tham vấn. Tham Vấn đường sau này đổi thành quán Hoa Ô Môi, nóc quán có dây hoa Bignolia leo màu đỏ cam rất đẹp. Trước quán có bụi trúc xanh ngày xưa nhỏ xíu mà bây giờ lớn lắm rồi, mình tỉa bỏ hết các cây trúc phía trong rồi đặt băng ghế ngồi pháp đàm bên trong bụi tre cho mát.

Cư xá Hồng Giòn

Một ngôi nhà đá bên trái cư xá Tùng Bút là cư xá Hồng Giòn, là nhà ở của những nông dân ngày xưa, anh chị Thiều và Tý Miu, cháu bé, chú Dũng ở cư xá Hồng Giòn đó. Bên hông cư xá Hồng Giòn cũng có khu để máy cày… và cũng có một se chứa rượu. Tại sao lại có tên là cư xá Hồng Giòn? Đó là tại vì hồng mình trồng bên Pháp toàn là hồng mềm ăn rất chát, phải chờ cho trái chín thì nó mới ngọt. Năm đó Chân Không đi Mỹ đem về một cây hồng giòn duy nhất trồng ở đó nên mình đặt tên là cư xá Hồng Giòn. Hiện giờ cư xá Hồng Giòn cũng được sửa sang lại thành nhiều phòng làm chỗ tạm trú cho thiền sinh tới Xóm Hạ tu tập.

Cư xá Mây Tím

Bên mặt cư xá Tùng Bút trước kia là chuồng bò, anh Trần Nguyên Đức – sau này đi tu thành thầy Trời Đại Nghĩa – thấy vậy nên cao hứng dọn rửa sạch sẽ rồi Làng kêu thợ tráng xi măng, sửa lại thành cư xá Mây Tím. Lúc đầu chỗ này chỉ có một phòng làm thư viện (bây giờ là phòng làm việc của các sư cô) và một phòng vệ sinh, phía sau là hai phòng nhỏ trong đó có một phòng dành cho Thầy nghỉ ngơi và tiếp khách mỗi khi Thầy xuống dạy ở Xóm Hạ. Phòng này gọi là phòng Hoa Cau, trên tường đá còn có cái móc là dấu vết của chuồng bò ngày xưa. Trong phòng Hoa Cau có treo hình của bé Trúc. Bé Trúc lần đầu tới Làng chỉ mới có ba tuổi, sau này bé Trúc trở thành nhạc sĩ vĩ cầm tí hon của Làng trong những dịp lễ vào thập niên 1990 – 2000.

Phía trên là gác lửng chứa rơm nuôi bò. Sau này có hai anh chị người Đức là Karl và Helga đã hướng dẫn thợ sửa phía gác lửng thành một tầng nữa gồm năm phòng ngủ để các sư cô có thêm chỗ ở cũng như sửa thêm tầng dưới để có thêm một phòng cho Chân Không tiếp gia đình tới thăm hay tiếp những thiền sinh muốn tham vấn riêng và phòng vệ sinh công cộng.

Cư xá Đồi Mận

Phía tay mặt có một dãy nhà trước là chỗ phơi thuốc lá chỉ có cái nóc thôi. 7 thước bề ngang và 40 mét bề dài thôi. Ngày xưa vùng đó người ta vẫn còn trồng thuốc lá. Mình lấy nhà phơi thuốc lá xây với gạch thô thành chín phòng bên mặt, bảy phòng bên trái và một khối bảy nhà tắm, bảy nhà vệ sinh.

Đó là cư xá Đồi Mận với các phòng tên Lá Mồng Tơi, Lá Tía Tô, Cải Cúc, Tần Ô… Hiện giờ cư xá Đồi Mận là ni xá của các sư cô nhưng cũng sắp bị đập đi xây lại vì gần sập và không đủ tiêu chuẩn an toàn để cư trú.

Cốc Tuổi Ngọc và hồ sen

Trong cư xá Mây Tím, ở tầng dưới có một phòng dành cho Chân Không. Ngoài ra các sư cô Xóm Hạ còn cất một cốc “nói là” dành cho sư cô Chân Không nhưng thật ra để cho khách đặc biệt như các ni trưởng hay sư bà lớn. Cốc Tuổi Ngọc này nằm ngay bên mặt cổng Xóm Hạ, sát đường. Cốc này, hai tầng bằng gỗ, chia thành ba phòng: hai phòng bên trên rất thoáng. Bên dưới là phòng khách và nhà vệ sinh. Cốc Tuổi Ngọc nhìn ra hồ sen Xóm Hạ. Ban đầu Thầy dạy nên xây một hồ sen ở Xóm Hạ. Chân Không là thủ quỹ nhưng hôm đó Chân Không theo Thầy đi hướng dẫn các khoá tu một vòng nhiều tiểu bang nước Mỹ, nên giao chức thủ quỹ cho thầy Pháp Lữ vì thầy biết làm sổ sách bằng tiếng Pháp. Thầy Nguyện Hải lên xin tiền mua vật liệu thì thầy Pháp Lữ nhất định không đưa tiền cho thầy Nguyện Hải vì Pháp Lữ tiết kiệm cho Làng, nghĩ là xây hồ sen phí tiền. Phải đợi Chân Không về trách thì thầy Pháp Lữ mới đưa tiền. Làng xây xong hồ sen thì mới thấy giá trị của một làng Tu Học đẹp tuyệt vời. Một hồ đầy sen hồng làm thay đổi ngay phong cảnh của Xóm Hạ. Xóm Hạ trở nên tâm linh hơn. Thầy không ngờ sen sinh trưởng rất dễ ở Làng Mai, hồ sen cho những hoa sen to màu hồng đẹp hơn cả hoa sen ở Việt Nam. Nhưng có điều lạ là ngó sen không cho hột sen, hột sen lép cho tới năm thứ 12, 13 hột sen mới bắt đầu chắc nhưng gương sen nào cũng rất ít hạt sen. Có lẽ vì từ khi hạt sen tượng hình cho tới khi sen tàn lụi vì khí trời đã sang thu, quá lạnh, sen chết sớm chưa kịp có hạt thành hình là lá sen ngó sen đều chết nhưng rễ sen còn sống để mọc lại cây sen mùa sang năm. Bây giờ các xóm của Làng Mai đều có sen, sen hồng và sen trắng ở xóm Tây Hồ.

Thiền đường Cam Lộ

Từ từ mình thấy thiền đường Nến Hồng cũng quá nhỏ nên mình cất thêm một cái nóc nhà dài 20 thước ngang 13 thước phía sau thiền đường Nến Hồng và đặt tên là thiền đường Cam Lộ. Lúc đầu thiền đường Cam Lộ chỉ có cái nóc, rồi từ từ mình làm thêm vách và cửa kiếng. Mình nhờ một bà nghệ sĩ ở Paris làm một tượng Phật rất thanh giống nữ Bồ tát mà cũng giống nam Bồ tát đặt ngoài trời. Thiền đường Cam Lộ được sưởi bằng lò sưởi củi to nằm giữa thiền đường.

Nhà Cây Anh Đào

Ông hàng xóm Mounet là một nông dân. Ông rất thương mình, ông hay chạy qua chỉ mình cái này cái nọ từ những ngày đầu mình dọn về Xóm Hạ. Khi ông mất rồi thì con ông dọn từ thành phố về không được dễ thương lắm, nhưng mình cũng chịu đựng thôi. Anh ta hay làm khó làm dễ, đòi mua đất của mình để xây hồ tắm. Mình không chịu thì anh ấy đòi kiện mình ra toà (vì không chịu bán đất cho anh ta). Cuối cùng Chân Không thấy ông này khó chịu quá nên nhờ một ông người Pháp đi mua nhà của họ. Khi bán xong rồi ra toà ký tên thì Chân Không mới lộ diện ra ký tên của Cộng đồng Phật giáo Việt Nam đứng ra mua của anh ấy. Nhà mua của gia đình Mounet trở thành nhà Cây Anh Đào (Cherry House vì nhà này cho Xóm Hạ năm cây anh đào khá ngon). Hiện giờ nhà này cũng vừa được sửa sang cho đúng tiêu chuẩn của nhà nước Pháp gồm bảy phòng ở cho thiền sinh.

Thiền đường Hội Ngàn Sao

Thiền sinh tới nghe pháp càng ngày càng đông nên sau này thiền đường Cam Lộ cũng không đủ chỗ, vì vậy mình xây thêm một thiền đường to gọi là thiền đường Hội Ngàn Sao. Hành lang của thiền đường Hội Ngàn Sao khá lớn, thiền sinh có thể ngồi ở ngoài để nghe giảng. Phía sau thiền đường Hội Ngàn Sao có bụi tre to nhất Làng, thân tre rất mập vì chỗ đó đất thấp và ẩm ướt và phía sau bụi tre là nhà vệ sinh công cộng. Kế bụi tre này là hai cái thất nhỏ của sư cô Chân Đức và sư cô Chân Vị. Còn cô Chân Diệu Nghiêm, trụ trì xóm Hạ thì có một cái thất lục giác bằng kiếng ở giữa rừng, sau lưng thiền đường Hội Ngàn Sao.

Nhà Bạch Dương và văn phòng làm sách

Năm 2016 có cặp vợ chồng ở miếng đất kế liền thiền đường Hội Ngàn Sao ly dị nên bán đất bán nhà cho mình, vì vậy Xóm Hạ có thêm một căn nhà ba phòng tên là Bạch Dương và các sư cô ban làm sách tiếng Anh đã sửa nhà để xe kế bên thành văn phòng làm sách, đặt tên là Mưa Xuân.

Như vậy Xóm Hạ có nhà Đồi Mận, nhà Mây Tím, cư xá Tùng Bút, nhà Tuổi Ngọc, thiền đường Nến Hồng, thiền đường Cam Lộ, thiền đường Hội Ngàn Sao, quán Hoa Ô Môi, cư xá Hồng Giòn, nhà Cây Anh Đào và nhà Bạch Dương. Ngoài ra Xóm Hạ còn có nhà Nắng Thuỷ Tinh là một ngôi nhà nhỏ ở gần Xóm Trung. Tên chữ của Xóm Hạ là chùa Cam Lộ.

Những năm đầu Làng chỉ mở cửa có một tháng mùa hè để đồng bào về Làng tụ họp và nghe pháp. Sinh hoạt Làng trong mùa hè nghiêng về mặt giữ gìn văn hoá vì đây là lúc gia đình người Việt cùng đi nghỉ hè với nhau ở môi trường Việt Nam trên đất Pháp.

Bé Trúc là cô bé mà được tất cả dân làng yêu mến. Mỗi lần có Hội Thuỷ Tiên thì cháu đem đàn violon ra đứng đàn cho đại chúng nghe giữa hàng triệu hoa thuỷ tiên. Bây giờ bé Trúc đàn cho dàn nhạc quốc gia Pháp đi trình diễn trên toàn quốc. Bé Trúc về Làng lúc ba tuổi, cháu nghe tiếng chim hót thì hỏi mẹ đó là tiếng gì hở mẹ? Tại vì bé lớn lên ở Bordeaux nên chưa hề nghe tiếng chim hót. Mẹ cháu nói:

“Con chim nó nói chuyện với con đó.”

Chân Không nói đùa:

“Nè con, hễ con chim hỏi, bé Trúc đó hả, thì con nói, dạ bé Trúc đây!”

Chân Không chỉ nói chơi với con nít cho vui vậy mà khi dẫn bé Trúc đi một hồi thì nghe cháu nói “dạ”, đi một đoạn nữa thì nghe cháu nói “dạ”. Chân Không hỏi:

“Sao con dạ vậy con?”

Bé Trúc nói:

“Dạ con nói chuyện với con chim. Nó hỏi con tới hồi nào nên con dạ.”

Bé Trúc dễ thương như vậy. Nhiều cháu bé tới Làng cũng rất là thông minh, ngọt ngào và đem niềm vui cho bao nhiêu người. Mẹ các bé cũng vậy: dì Tâm Trân, dì Yến, dì Mười, cô Hà có nụ cười rất xinh, vợ chú Chân Thuyên, khéo ơi là khéo, là những bà mẹ Việt Nam tuyệt vời. Chú Chân Thuyên, Chân Minh, chú Nguyễn Xuân Vinh, chú Nguyễn Bá Thư, chú Minh thiền sư ôm đàn hát nhạc dân ca Việt Nam với các cháu vang cả các Xóm mỗi trưa, dạy các cháu học thuộc 21 điều căn bản về văn hoá Việt. Đang học bài hay ca hát chợt có tiếng rao hàng: “Ai ăn chè đậu xanh, bột khoai, nước dừa đường cát… không!” Giọng cô Chín rao lảnh lót giữa trưa hè khi mọi người thiu thiu ngủ khiến nhiều cô bác lòng vui rộn lên như mới được về quê Sài Gòn. Lại có tiếng rao hàng khác nổi lên: “Bánh tiêu bánh bò giò cháo quảy đây!” Những giọng rao quà từ Châu Đốc, Long Xuyên, Vĩnh Long, Sa Đéc, Cần Thơ tới Sóc Trăng, Bạc Liêu, Rạch Giá xa xôi, rao nhộn nhịp vui ơi là vui, thương quá là thương! Giờ quán cốc đã mở, mọi người rộn ràng tới quán cốc dưới gốc Cây Sồi. Quán cốc là một cái chòi nhỏ rất đơn sơ như những căn chòi bán quán bên đường ở Việt Nam. Mẹ các bé thay phiên nhau nấu chè làm bánh còn các bé mặc áo bà ba hay áo dài ra phụ múc ra chén cho dân Làng. Sau giờ quán cốc mở là giờ thiền trà, mỗi hôm chỉ có 16 trà khách (gồm những vị nhận được thư mời của trà chủ). Một buổi thiền trà thường chỉ gồm 12 đến 16 trà khách, một trà chủ, hai người pha trà rất thiền vị, nam nữ, lớn bé ai cũng mặc áo dài (ai không có thì mua hoặc mượn ở quán Hoa Ô Môi để làm đẹp cho Làng).

Mỗi năm mình có Hội Hoa Mai vào tháng Tư. Mùa Hè mình chỉ mở cửa từ 15 tháng 7 tới 15 tháng 8. Nhưng sau này các Phật tử bên Hoa Kỳ “ganh tị” nên Làng Mai làm khoá tu suốt tháng 7 ở bên Pháp, rồi qua Hoa Kỳ cho khoá tu suốt tháng 8, nửa tháng ở miền Đông và nửa tháng ở miền Tây. Mỗi hai năm Thầy đi dạy ở Hoa Kỳ một lần. Sau này thì mình xong ở Pháp thì qua Đức dạy rồi mới đi Hoa Kỳ. Nhưng khổ nỗi là bên Pháp trong tháng 8 là các trường nghỉ hè, nếu Làng không mở cửa thì người ta không có chỗ để dẫn con cái đi tu học.

Trong mùa hè năm nào mình cũng có một ngày mình đốt đèn, đi bộ tới cái hồ trong rừng ở Xóm Hạ, vừa đi vừa niệm Phật. Tới hồ mình thả đèn trôi trên nước rồi thả cá xuống hồ. Hồ thông ra suối ra sông nên cá không ứ đọng trong hồ.


Xóm Thượng

Mua Xóm Thượng

Thật ra Xóm Thượng mới là dấu mốc quan trọng của Làng Mai. Sau Phương Khê thì mình tìm ra một nông trại mà Thầy thích nhất ở Thénac. Nông trại đó nhìn thì toàn là đá. Bên tay trái có một vách đá có nhiều lỗ hổng, bên tay mặt là một con đường nhỏ giống như con đường làng của Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội ngày xưa ở Phú Thọ Hoà, bề ngang khoảng chừng 1,5 thước thôi, nếu đi lấn lên trên cỏ thì cũng được 2 thước. Thầy thấy yêu phong cảnh này (có lẽ vì nó giống con đường đất gần Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội cách đây 50 năm) nên Thầy muốn mua miếng đất ở Thénac, nhưng ông chủ Deson không chịu bán tại vì đất này là từ ông cố của ông Deson để lại. Ông có nhiều đất chỗ khác có thể có huê lợi nên ông không cần bán. Bà vợ năn nỉ:

Thôi mình bán đi để tiền cho thằng Út (hơi khuyết tật). Nó không làm được gì, chỉ trồng trọt hữu cơ (bio) không có xịt thuốc rầy.”

Trong lúc đó có những nông dân bán nông trại để lên thành phố thì bán một cơ sở 21 mẫu mà giá chỉ mắc hơn chút trong khi miếng đất ở đây chỉ có 6 mẫu thôi. Nhưng miếng đất đó thì ở làng Loubès Bernac, Lot-et-Garonne còn miếng đất mà Thầy thích thì ở Thénac, Dordogne. Chân Không hỏi:

“Ông coi trên bản đồ coi nó cách Thénac bao xa, nếu chừng bốn, năm cây số thì tôi mua.”

Ông coi rồi nói:

“Ô, nó giáp ranh Thénac.”

Từ đó tới Thénac chưa tới 4 cây số giống như tổ tiên đã sắp đặt sẵn cho mình nên mình mua liền. Đó là Xóm Hạ ở Loubès-Bernac. Vì vậy mà Xóm Hạ có trước Xóm Thượng dù Thầy đã chọn đất Xóm Thượng trước. Sau đó thì mình mua được miếng đất ở Thénac tức là đất Xóm Thượng. Khi đi làm giấy tờ thì cô thư ký nói:

“Hồi xưa gia đình tôi sống ở đó mà sắp chết đói đó cô tại vì đất ở đó đào lên toàn là đá không hà. Mình muốn trồng một hàng cà rốt cũng không được nữa, đất chỉ có một lớp cỏ mỏng ở trên thôi. Tội nghiệp cô quá, thế nào cô cũng chết đói thôi!”

Những cơ sở ở Xóm Thượng

Bà thư ký đó tên là Dedieu, bà sợ mình chết đói thật là dễ thương. Vậy là mình mua Xóm Hạ nằm ở xa mút tí tè của tỉnh Lot-et-Garonne và Xóm Thượng ở Thénac thuộc một tỉnh khác nữa, đó là tỉnh Dordogne. Thành phố lớn nhất của Lot- et-Garonne là Agen, còn thành phố lớn nhất của Dordogne là Périgueux. Từ Thénac lên Périgueux cũng mất 80 cây số, còn từ Loubès Bernac tới Agen cũng mất 70 cây số. Nhưng nhờ vậy nên mình rất yên. Mình mua Xóm Hạ vào tháng 10 năm 1982, không có ai làm khó dễ. Vừa mua xong thì mình dọn tới liền, gọi gia đình anh Thiều từ trại tị nạn ở Pháp dọn vô cư xá Hồng Giòn. Cháu bé mới sinh của anh Thiều ở trại tị nạn Strasbourg tên “Chó Con” – Lê Nhật Tâm – vì anh Thiều đọc quyển Trái tim mặt trời của Thầy ở trại tị nạn, thích quá nên đặt tên con. Xóm Thượng mình mua được vào tháng 3 năm 1983, không có ai ở nên buồn quá. Thấy vậy Thầy tình nguyện lên ở đó, có lò sưởi bằng củi. Loại lò sưởi này nhỏ, mình mở cái nắp tròn chừng 12 phân đường kính rồi nhét thanh củi vô, ba bốn thanh thì cháy được một giờ đồng hồ. Giữa khuya mình phải thức dậy bỏ thêm củi, cứ mỗi đêm là phải thức dậy khoảng hai ba lần để bỏ củi.

Thầy ở Xóm Thượng và viết cuốn Đường xưa mây trắng ở đó, tuy Thầy cũng có Sơn Cốc nhưng Thầy chỉ cất giấy tờ ở đó và đa phần ở với đại chúng. Còn Chân Không thì có một phòng ở Loubès-Bernac, Xóm Hạ tên là phòng Phượng Vĩ.

Pháp Thân Tạng

Bữa đó Thầy gọi điện thoại kêu tất cả Xóm Hạ đều phải lên Xóm Thượng coi cái này đẹp lắm. Tất cả leo lên xe của Chân Không là xe Quatre Chevaux cũ kỹ gần hư. Tới Xóm Thượng thì mình thấy bên trái chỗ triền đá có hàng triệu hoa thuỷ tiên mọc lên. Tuyệt vời! Thầy nói cảnh này giống như trong kinh Pháp Hoa “Tùng địa dũng xuất” và đặt câu thơ:

Qua vườn trúc thôn trên, xuống Pháp Thân Tạng

Thầy gọi chỗ hoa thuỷ tiên mọc đầy là Pháp Thân Tạng. Pháp thân là cái gì đẹp nhất của Phật pháp. Tạng là kho tàng. Kho tàng của Pháp thân là chỗ này, chỗ có hàng triệu vị Bồ tát vượt đá trồi lên. Sau mùa đông hàng triệu lá xanh tách đá nhô lên. Rồi hai lá xanh tách ra có nụ vàng ở giữa. Rồi nụ vàng tách ra thành bốn năm cánh rung rung dưới nắng. Chân Không đặt bài hát:

Qua vườn trúc thôn trên, xuống Pháp Thân Tạng Hội thuỷ tiên, ngàn tiên hé cánh.
Qua đồi mai thôn dưới, ngang Tham Vấn đường, Ngày thả cá, đàn cá tung tăng.

Ngàn tiên hé cánh, ngàn tiên hé cánh…

Xóm Thượng năm nào cũng có Hội Thuỷ Tiên vào tháng Ba ở Pháp Thân Tạng để mọi người thưởng thức hoa. Mình mời những người bạn của Làng tới chơi. Mình mời bé Trúc đàn violon và quang cảnh cô bé đứng kéo đàn giữa rừng hoa thuỷ tiên rất đẹp.

Vừa quẹo vô Xóm Thượng thì bên tay trái có một bãi đậu xe lớn cho cả trăm chiếc xe trên miếng đất mới mua được của ông hàng xóm Bonnamy. Sau đó có bảng viết chữ Village des Pruniers lieudit Le Pey. Trong Le Pey có con đường cây xanh nhỏ huyền thoại giống như đường quê Việt Nam. Ngay từ đầu Thầy đã thích con đường đó nên nhất định đòi mua Xóm Thượng. Tên chữ của Xóm Thượng là chùa Pháp Vân. Năm đầu tiên, Thiền đường chùa Pháp Vân nằm trong cư xá Trúc Lâm. Bên trái thiền đường là Quán Sách. Bên phải là chuồng thỏ mình xây lại thành hai tầng có ba phòng ở dưới và ba phòng ở trên leo lên bằng một cầu thang gỗ xinh xinh. Thầy Pháp Dung là cựu kiến trúc sư nên Thầy dạy thầy Pháp Dung trình bày và xây nhà ăn của đại chúng cho có vẻ văn hoá. Ban đầu chưa có tiền nên chỉ vẽ nóc và để thiên hạ ngồi ăn ở Hiên Nghe Mưa, chỉ có nóc chưa có vách. Năm sau đủ tiền mình cất luôn dãy phòng ăn từ Hiên Nghe Mưa, lên vách, xây tường, làm cửa kính và cửa sổ rất thanh tú. Cũng trong năm này anh chồng chị Thục Quyên, một kiến trúc sư người Đức trình bày giúp mặt tiền thiền đường Chuyển Hoá nguyên là cái chuồng ngựa nhà ông Deson xưa. Mặt thiền đường sửa theo hình trình bày của anh đã thay đổi căn chuồng ngựa, biến thành ngôi thiền đường thật thanh tú, hoàn toàn mất hết các dấu vết chuồng ngựa xưa. Vì thế nên tăng thân đặt tên là thiền đường Chuyển Hoá (Transformation Meditation Hall). Thiền đường này lại tiếp tục chuyển hoá thêm nhờ hai anh thợ cất chùa mà Chân Không đưa từ Việt Nam sang, hai anh làm một bàn thờ tổ Tăng Hội rộng 2 thước rưỡi, cao một thước rưỡi, điêu khắc y chang theo truyền thống gỗ điêu khắc xưa, sơn son thếp vàng như các chùa xưa ở Việt Nam vậy nhưng thật ra là làm bằng xi măng. Từ chuồng ngựa vừa dơ vừa hôi mình sửa thành một thiền đường. Thiền đường Chuyển Hoá chia thành ba phần. Có bàn thờ vong, đầu tiên là thờ ông chủ đất cũ của Xóm Thượng rồi tới ba của mấy thầy. Còn có thờ thầy Pháp Ngạn, một thầy tu xuất gia khi đã lớn tuổi vừa lên tỳ kheo thì thầy mất vì đột quỵ, thờ thầy Pháp Ý tu mười năm thì bị đột quỵ chết, có thờ bác Tư là bác hay đặt mấy bài nhạc theo điệu vọng cổ miền Nam. Vì bác đã từng thường trú lâu năm ở Xóm Thượng nên khi bác mất các con đem tro của bác từ Úc về thờ ở Xóm Thượng. Trong thiền đường Chuyển Hoá có hình chụp đại giới đàn đầu tiên lúc sư cô Chân Không và sư cô Chân Đức được Thầy truyền đăng. Có một chuyện rất tức cười trong ngày hôm đó. Thầy là thầy nhưng từ khi có thế hệ thứ hai tức con cái của những học trò của Thầy thì mấy em nhỏ không gọi Thầy là Thầy mà gọi là Sư Ông. Chỉ có ba má của tụi nhỏ mới gọi Thầy là Thầy thôi. Hễ nghe gọi Sư Ông thì ai cũng biết đó là thầy Nhất Hạnh. Hôm đó là đại giới đàn đầu tiên ở Làng, mình mời Sư bà Đức Viên ở San José qua. Mình nói với nhau: “Chiều nay Sư bà Đức Viên qua.” Mình nói với nhau một cách tự nhiên, thật ra Đức Viên là tên chùa, tên đúng của Sư bà là Thích Nữ Đàm Lựu. Mấy đứa nhỏ nghe vậy nói với nhau: “Mình chờ coi vợ của Sư Ông mặt ra sao!” Tụi nó nghĩ hễ Sư bà thì phải là vợ của Sư Ông!!! Trong hình chụp Sư bà ngồi bên đây, phía bên kia là Thầy, có hàng trống ở chính giữa để các giới tử lên thọ giới. Sau thiền đường Chuyển Hoá quá nhỏ nên mình lấy một ngôi nhà lớn, hồi xưa là chuồng thỏ chia làm ba phần. Bên tay mặt mình làm quán sách, ở giữa có bàn thờ thay cho tượng Phật và một chữ Khán 看 (tức là nhìn lại) thật to bằng chữ Nho do chính Thầy viết. Bên tay trái ngày xưa là một dãy chuồng thỏ, mình xây mái cho đàng hoàng rồi chia thành ba phòng ở tầng dưới và ba phòng ở tầng trên giống như cư xá cho mấy thầy. Sau thiền đường này cũng quá chật nên cuối cùng mình xây một thiền đường rất lớn, lớn hơn cả thiền đường Xóm Hạ. Đó là thiền đường chùa Pháp Vân, sau này mình xây rộng thêm, Thầy đặt tên là thiền đường Nước Tĩnh. Đây là lần đầu tiên mình làm một thiền đường đàng hoàng nên trước khi xây mình phải nộp bản vẽ cho Socotec tức là cơ quan làm việc cho chính quyền để kiểm soát đúng tiêu chuẩn. Họ kiểm soát rất gắt gao đúng theo tiêu chuẩn, chẳng hạn người ngồi xe lăn đi vào không bị gập ghềnh… Thiền đường Nước Tĩnh khá dài, tượng Phật lớn được đặt ở ngoài dưới gốc cây dương. Bên trong thiền đường có một tượng Phật nhỏ màu đen trên bàn thờ. Sau tượng Phật nhỏ này bị ai lấy đi mất tại vì ở Làng Mai mình không có khoá cửa. Bên tay phải của thiền đường Nước Tĩnh có một chái lớn để cho thiền sinh ngồi nghe pháp thoại. Như vậy cũng chưa đủ, mình còn dựng thêm nhiều lều phía ngoài. Pháp thoại được dịch ra nhiều thứ tiếng. Đó là nhờ công của anh Chân Sinh Hoàng Phúc, anh là kỹ sư ở Canada. Khi Thầy giảng bằng tiếng Anh thì mình dịch ra tiếng Pháp, tiếng Việt. Mình mua loa có những lỗ cắm để thiền sinh có thể cắm tai nghe vào nghe. Có khi đông quá mình đặt luôn loa trong lều dựng bên ngoài. Nằm bên tay trái thiền đường Nước Tĩnh là một khu nhà vệ sinh được xây đúng với tiêu chuẩn có hệ thống tháo nước. Mình cũng không ngờ xây một khu vệ sinh thôi mà phải tốn 250.000€. Mình cũng phải xây một khu tháo nước cho mỗi xóm rất là tốn kém.

Tới mùa hè thì thỉnh thoảng có vài anh thiền sinh Việt Nam lái xe tới đại mà không biết phải ghi danh trước. Mình cũng phải nhận họ, họ ở chật một chút cũng không sao. Bây giờ Tây phương cũng học theo phong cách “tự tiện ẩu” của Việt Nam, họ chẳng thèm ghi tên, tới thì lựa góc rừng có cắm lều đàng hoàng rồi lên văn phòng trình diện và nói đã chọn xong cái lều ở góc đó và xin trả tiền. Không ghi tên trả tiền thì không được chia nhóm pháp đàm để hưởng được lợi lạc của những chia sẻ trong nhóm.

Tới năm thứ hai thì nhà nước đòi đóng cửa Làng Mai vì lý do không đủ tiêu chuẩn an toàn. Mình hoảng quá vì người ghi tên hơn hai trăm người mà cấm không cho tới tu thì chắc Chân Không… chết mất(!) Chân Không tìm cách cầu cứu với các vị chức sắc trong chánh quyền mà Chân Không quen hồi chiến tranh Việt Nam như ông Chaban Delmas, cựu thủ tướng, ông bộ trưởng Bộ Ngoại giao Jean François Poncet hay mấy ông thượng nghị sĩ Bernard Dusaut… Chân Không cứ bám vô mấy cụ mà cầu cứu để mấy cụ nói chính quyền nới tay cho mình. Nếu không có tiếng nói của mấy cụ thì cũng không xong tại vì mình xây cất chỗ ăn ở cho thiền sinh không đúng tiêu chuẩn. Nước Pháp cũng xuề xoà nhưng có một sự kiện đã xảy ra là một khán đài trong sân vận động bị sập làm chết nhiều người tại vì khán giả leo lên quá tải. Ông tỉnh trưởng của vùng đó bị phạt tù nên từ đó Uỷ ban An ninh Hoả hoạn làm việc rất nghiêm khắc. Họ tới đóng cửa Làng ngay và khi Làng mua được nhà đúng tiêu chuẩn đón khách tu học ở Dieulivol nên mở trở lại thì họ cũng theo dõi mình rất sát. Sự trùng tu xây sửa phải đúng tiêu chuẩn nhà nước quy định và có chữ ký của Socotex là Ban Quản lý về kỹ thuật mà nhà nước có niềm tin.

Trên Xóm Thượng có một nhà ăn lớn do thầy Pháp Dung vẽ mẫu và thiền đường Chuyển Hoá. Phía sau thiền đường Chuyển Hoá dính liền với ngôi nhà mà sau này ông Bonnamy mới bán cho mình. Mình mua nhà của ông Bonnamy rồi xây mười phòng bên trái và mười phòng bên mặt gọi là Friendship Building (nhà Tình Bằng Hữu). Tình Bằng Hữu là ngôi nhà ngày xưa Thầy ngồi hơ tay trên lò sưởi củi để viết cuốn Đường xưa mây trắng. Phía sau nữa là chỗ đậu xe mà ông hàng xóm vừa bán cho mình. Gần đây nhất ông hàng xóm dọn đi ở gần con gái nên bán luôn cho mình phần nhà và đất còn lại của ông, nhà cũ lắm rồi không ở được nhưng đất khá rộng, nên đất của Xóm Thượng được nối liền rất thông thoáng.

Sau khu nhà vệ sinh và hệ thống thoát nước là một vùng đất đá, nơi mình làm Hội Thuỷ Tiên. Ở đó có căn nhà tên là Linh Quy (Turtle Lodge) do mấy anh thiền sinh xây. Nhưng hiện nay Linh Quy sắp bị đóng cửa tại vì nó rung rinh và có thể sập bất cứ lúc nào. Kế bên Turtle Lodge có một ngôi nhà bằng gỗ gọi là cốc Thanh Phong dành cho thị giả, tại vì cốc Thanh Phong nằm gần cốc Ngồi Yên của Thầy. Sau cốc Ngồi Yên là cốc Phù Vân của thầy Giác Thanh, sau này dùng làm nơi nấu ăn cho Thầy mỗi khi Thầy ở lại Xóm Thượng.

Cốc Ngồi Yên

Cốc Ngồi Yên được làm bằng gỗ và có một sân thượng rất rộng đưa ra ngoài. Những đêm trăng lên, thiền sinh có thể tới ngồi thiền, ngắm trăng. Ngoài hành lang, Thầy có treo một cái võng. Bên trong cốc có một cái giường nhỏ, một kệ sách kê bằng những viên gạch và gỗ, một ghế xích đu, một bàn Phật nhỏ bên tay trái, tượng Phật đơn sơ thanh tú. Sau ghế xích đu là nhà vệ sinh. Có một bếp nhỏ và bàn ăn để Thầy có thể ngồi ăn cùng thị giả sau bếp. Trong cốc cũng có một máy photocopie nhỏ để Thầy viết thư rồi photocopie ra gởi cho các xóm. Cốc Ngồi Yên nằm trên một triền núi và phía dưới là rừng sồi đỏ.

Kế bên cốc Ngồi Yên là cốc Phù Vân. Sau đó là tăng xá của quý thầy. Tăng xá được xây theo hình chữ khẩu 口, chính giữa là một cái sân có trồng cây cảnh thật đẹp.

Khu đất phía trên cốc Ngồi Yên thì đã bị ông người Nga, chủ của lâu đài rượu mua hết. Ông ta rất muốn mua khu rừng phía tay trái của Xóm Thượng.

Bên tay mặt của Xóm Thượng là một triền núi mình đã mua lúc ông chủ nhà mới mất và mấy người con cũng muốn bán. Nhưng chỉ mới trả có 10% số tiền thì mình gặp những rắc rối như là ông tá điền không chịu dọn đi. Ông ta đòi 10.000€ (tiền túi!) mới chịu đi ra. Mình không đồng ý hối lộ nên ông hỏi qua ông chủ lâu đài rượu. Bên Pháp nơi làm rượu được gọi là lâu đài rượu. Ông chủ lâu đài rượu muốn mình rút ra để ông mua khu đất đó trồng nho làm rượu tại vì nơi đó nắng chiều rất tốt và làm cho nho ngon, trong khi đất bên tay trái thì vì bị rừng che mất nắng nên nho không ngon. Mình nghe ông trồng nho làm rượu thì không thích nên cuối cùng mình cũng không nhường lại cho ông lâu đài rượu. Nhưng mười năm sau khi ông chủ đất mất, mấy đứa con của ông tới nói ông tá điền bây giờ không làm việc nữa nên mình có thể mua. Mình trả luôn 90% còn lại và mua luôn miếng đất. Theo nguyên tắc khi mua xong thì mình phải tới đăng ký ở toà thị chính. Nhưng mình mua xong mà ông lâu đài rượu ở sát toà thị chính cũng không hay. Xóm Thượng có khu đất bên mặt rất vững chãi là khu rừng sồi cho nên Xóm Thượng rất vững về phương diện phong thuỷ. Chân Không nghĩ tin vào sự thăng bằng của mặt đất thì cũng rất khoa học. Sau đó thì năm nào Xóm Thượng cũng có ít nhất là mười người xuất gia, có đủ các quốc tịch như Đức, Hoà Lan, Tây Ban Nha, Mỹ, Canada. Xóm Hạ, Xóm Mới cũng có người xuất gia nhưng người châu Âu rất ít, đa phần là từ Việt Nam và các nước Đông Nam Á.

Bây giờ đi tới Xóm Thượng mình chỉ có một con đường nhỏ xíu như cho thỏ đi, bề ngang chừng 3 thước có cắm bảng Villages des Pruniers, Le Pey. Mấy thầy tính vẽ một đường xe hơi tráng nhựa chạy từ chân núi lên, bọc ngang cốc Ngồi Yên tới thiền đường Nước Tĩnh và có bãi đậu xe. Bên đây có một con đường đi ngang qua nông trại Hạnh Phúc (Happy Farm) có hồ sen trắng. Chỗ đó mình chưa xây cất gì cả. Một ông nhà giàu cho mình 500.000USD để mua ngôi nhà Les Pinadas (lieudit Les Pinadas) của một ông người Anh. Les Pinadas ăn thông qua Xóm Trung.

Gần đây, Xóm Thượng đã làm một con đường trải đá đi từ chùa Sơn Hạ dưới núi lên chùa Pháp Vân (tên chữ của Xóm Thượng) ven theo bìa rừng rất đẹp.

Xóm Đoài

Năm 1983 – 1984, Làng Mai sắp bị đóng cửa vì nhà cửa lôi thôi, không đúng tiêu chuẩn tiếp khách công cộng. Khi đó, anh Chân Pháp Nhãn và chị Chân Diệu Thục Quyên đề nghị hùn tiền mua một căn nhà gần Xóm Thượng để làm chỗ cho mấy thầy. Mình sửa lại cho đẹp, có nhà tắm, nhà vệ sinh đàng hoàng. Nhà đó nằm ở hướng tây và Thầy mình là thi sĩ nên gọi là nhà thôn Đoài. Thật ra chỉ là nhà nông dân nghèo, mình sửa lại thành 12 phòng có nhà vệ sinh, nhà tắm rất sang.

Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người
Tương tư (Thơ Nguyễn Bính)

Sơn Hạ

Mua Sơn Hạ

Ông hàng xóm của Xóm Thượng ở trong một ngôi nhà rất sang. Ông nói bây giờ ông già rồi nên muốn bán cho mình ngôi nhà của ông. Ông nói với thầy Pháp Lữ, thầy Pháp Lữ năn nỉ Chân Không, Chân Không nói:

“Thôi đủ rồi. Bây giờ mình không có đủ tiền mua nhiều cơ sở quá, để từ từ.”

Nhưng một hôm ông lên, không có thầy Pháp Lữ. Ông gặp được Thầy và Chân Không, ông năn nỉ:

“Bây giờ cô xuống coi nhà tôi đi. Tôi biết cô coi thì sẽ thích. Nếu cô không mua thì tôi sẽ bán cho mấy người Anh. 11 giờ trưa này họ ký giấy mua. Tôi rầu lắm nhưng buộc lòng phải bán. Tôi không thích mấy người đó lắm. Tôi thấy quý vị ở đây ăn ở có trước có sau. Ngày Tết đem hoa cúng ông bà tổ tiên ở các nghĩa địa Pháp. Quý vị đem những chậu hoa cúc cúng dường các ngôi mộ mà con cháu nghèo quá, không có tiền lo. Tôi thật cảm động nên muốn bán cho quý vị hơn.”

Thầy xuống coi nhà thì thấy nhà cũng được, nhưng nếu ông bán luôn cánh rừng đi suốt từ nhà ông lên Xóm Thượng thì Thầy mới chịu mua. Ông nói mình chờ nửa giờ sau ông sẽ trả lời. Ông vào hỏi ý bà vợ thì bà đồng ý bán để có tiền xây một ngôi nhà nhỏ hơn ở gần đó. Ông chịu bán với giá 370 ngàn. Lúc đó mình có vừa đủ tiền. Tiền của các khoá tu mình không xài gì cả, chỉ để dành sửa nhà cửa cho hợp lệ thôi. Mình mua nhà đó rồi thì ông cất một ngôi nhà trắng mới tinh ở bên kia đường Xóm Trung mà sau này khi ông mất bà cũng bán luôn cho mình gọi là nhà Nắng Thuỷ Tinh.

Những cơ sở ở Sơn Hạ

Ở Sơn Hạ có một dòng suối mình không thấy rõ, nhưng nước cứ trào lên rồi tràn qua cái ao trước nhà mình. Lúc đầu ông chủ nhà Dutheil chỉ bán cái nhà nhưng sau thì ông bán luôn cho mình rất nhiều nhà xưa cũ bỏ hoang bên sau, bán luôn dòng suối và cái hồ. Nhà Fontagnane rất sang. Thầy thấy có hai ngôi nhà xưa cũ bỏ hoang đó, ông Dutheil không để ý tới mà mình có thể sửa lại để làm thiền đường, có thể gắn vitrailles tức là một loại hình bằng kiếng màu đặc biệt của Tây phương mình thường thấy trong các nhà thờ. Mình biến cái nhà kho đó thành thiền đường ở Sơn Hạ và sửa những vitrailles thành hình Bồ tát Địa Tạng tay cầm hoả châu tròn soi đường đi xuống địa ngục giúp người, một vitraille khác là hình Maya phu nhân mới sinh hài nhi là thái tử Siddharta. Đó là thiền đường Thánh Mẫu Maya. Hôm đó ông Đại sứ của Việt Nam tới gặp Thầy, ông thấy mấy cái vitrailles (kính ghép màu) thì nói rằng Thầy nổi tiếng là vì Thầy nắm vững văn hoá của nước khác, Thầy biết dùng văn hoá của người để chuyển thành văn hoá Phật giáo. Những vitrailles hình thiên thần, thiên chúa mà Thầy biến thành hình Maya phu nhân sinh Siddharta hay hình Bồ tát Địa Tạng đi vào địa ngục thì hay quá. Phía ngoài có một nhà chứa rượu, trong tương lai mình sẽ làm thành phòng học. Bên tay trái của phòng chứa rượu có một ngôi nhà, nhìn xấu ơi là xấu giống như một đống rác. Mua xong thì Thầy cho đập bỏ hết lớp tô bên ngoài để lộ ra những khối đá bên trong.

Lúc này mình có bảo lãnh chú Hiếu là em của thầy Từ Hoà ở chùa Từ Hiếu qua Pháp. Mình giúp em của thầy Từ Hoà qua đây làm thợ hồ, trả lương căn bản SMIC để có tiền nuôi ba mẹ. Nhờ đó ba thầy Từ Hoà có thể mua được một miếng đất ở Vỹ Dạ để dọn ra từ chùa Từ Hiếu. Có chú Hiếu nên mình sửa ngôi nhà nhỏ đó thành cái thất của Thầy. Trong nhà có lò sưởi củi và cửa sổ tròn rất đẹp do chú Hiếu làm. Đó là thất Da Cóc. Ba của một thầy có làm một bài thơ tả thất Da Cóc: Ngoài da cóc trong ngọc ngà. Mỗi lần Thầy tới Sơn Hạ thì ở trong thất Da Cóc. Trong ngôi nhà lớn của ông Dutheil thì mình làm thiền đường. Bên hông nhà lớn, ông Dutheil có làm một nhà khách (gîte) cho khách thập phương tới mướn. Nhà khách có nhà bếp, có phòng ngủ và phía trên có một cái gác làm phòng làm việc. Mình để quý thầy ở và làm việc ở đó. Mình sửa ngôi nhà chính thành nhiều phòng ngủ cho quý thầy ở. Sau nhà có một khu vệ sinh và một nhà bếp khá lớn. Nhiều thiền sinh cắm lều trong khu rừng xung quanh Sơn Hạ. Bây giờ chùa Pháp Vân phía trên Xóm Thượng được gọi là Sơn Thượng và chùa phía dưới Fontagnane thì gọi là Sơn Hạ.

Xóm Tây Hồ – nông trại hạnh phúc (Happy Farm)

Sau đó có anh Pritam, anh có tiền nên nhờ mình mua giùm một căn nhà bao nhiêu cũng được, anh muốn có nhà ở sát Thầy. Có một căn nhà người ta muốn bán 437 ngàn Euro. Tuy là nhà không tới giá đó, nhưng anh cũng muốn mua. Tới giờ chót anh không đưa tiền, nói mình đưa tiền trước rồi anh trả lại sau. Mình đưa tiền thì Giáo hội đứng tên chứ không phải anh. Như vậy thì kể như là mình mua luôn và đặt tên là xóm Tây Hồ. Sở dĩ mình đặt tên là Tây Hồ tại vì nó cũng nằm ở hướng tây và có một cái hồ rất dễ thương. Mình chỉ thả có vài củ sen xuống hồ mà hai năm sau sen trắng mọc đầy hồ rất đẹp.

Ở đó đường đi không dễ nên mình làm xóm Tây Hồ ra thành Happy Farm, tức là một nông trại trồng rau hạnh phúc, không có xịt rầy, xịt sâu, xịt chất hoá học. Happy Farm cũng rất thành công, trong đó có một anh chàng rất nổi tiếng ở Hoa Kỳ. Anh đàn violon solo, người ta nói người đàn violon solo phải rất tài ba. Anh bị trầm cảm nên qua làm việc ở Happy Farm. Không ai biết là anh nổi tiếng. Anh cứ trồng trọt và quý trọng từng nắm đất, từng bụi cây, không dùng thuốc trừ sâu rầy, không dùng chất hoá học. Một năm sau thì anh hết bệnh và về Mỹ. Mình nhớ vào ngày Tết, lúc các sư cô ngâm Kiều thì anh người Mỹ này đàn vĩ cầm hoà theo tiếng ngâm thơ của Việt Nam rất hay.

Lúc sau Thầy đề nghị người Việt thì bói Kiều, người Anh thì bói Shakespeare và người Pháp thì bói thơ của Victor Hugo. Một cô người Tây phương ngâm hai câu của Shakespeare thì anh này cũng đàn theo rất là hay. Đó là từ Happy Farm mà mình có những văn nghệ sĩ tài ba.

Xóm Mới

Cuối năm 1995, vì người tới đông quá nên mình cho xây một thiền đường sườn sắt nóc bằng tôn. Đó là thiền đường Cam Lộ ở Xóm Hạ. Làm xong mình mời Uỷ ban An ninh Hoả hoạn tới thăm. Xem xong họ nói:

“Trời ơi, chỗ này mà đón khách đông như vậy hả? Phải đóng cửa!”

Mình phải đóng cửa Làng Mai liền tức khắc. Mình sợ quá, đã tháng Tư rồi mà mùa hè năm ấy không cho người tới thì tội nghiệp quá. Chân Không nhớ hồi chiến tranh Việt Nam, có lần Chân Không đại diện Giáo hội lên gặp ông bộ trưởng Bộ Ngoại giao, có khi cũng gặp ông thủ tướng trong những buổi tiếp tân của nhà nước Pháp cho nên ông cũng hơi biết Chân Không là ai. Lúc đó Chân Không còn trẻ, mặc áo dài trắng rất hiền lành trong đám quan khách mặc toàn đồ Tây nên ông cũng dễ nhớ. Ông tên là Jacques Chaban Delmas, ông cũng có lúc làm thủ tướng. Chân Không viết cho ông một lá thơ, nhắc lại: “Lúc đó hồi chiến tranh Việt Nam tôi có gặp ông. Bây giờ chúng tôi thành lập một trung tâm tu học ở đây mà sao nhà nước bắt đóng cửa?” Ông điều tra và cho biết tại vì mình không biết luật lệ là muốn tiếp khách ngoài thì trung tâm phải có đúng tiêu chuẩn an ninh cho mọi người. Các phòng phải có cửa sổ lớn để có thể nhảy ra khi có hoả hoạn. Cư xá Đồi Mận chỉ có mấy viên gạch dính nhau nên phải tráng xi măng lại… Trong khi chờ đợi được cho mở cửa thì mình phải sửa cả năm trời. Lúc đó là tháng Tư mà tới tháng Bảy là mình phải tiếp khách. Người ta đã ghi tên hai, ba trăm người rồi. Năm thứ nhất, mùa hè 1983, chỉ có một trăm người. Năm thứ nhì, mùa hè năm 1984, mình có hai, ba trăm người. Mùa hè năm 1985 thì có hơn ba trăm người. Lúc đó là năm 1996 thì số người nhiều hơn nữa. Mình sợ quá nên đi tìm một chỗ có thể tiếp nhận được khách thập phương tức là phải có nhà tắm, nhà vệ sinh đàng hoàng. Hay nhất là mình hỏi mua các khách sạn có quán ăn nhưng những chỗ như vậy thì mình không có đủ tiền.

Mua Xóm Mới

Xóm Mới là cứu tinh của mình. Năm đó Xóm Hạ và Xóm Thượng bị đóng cửa. Nhờ cầu cứu với mấy ông lớn nên họ cho mình sửa lại nhưng tạm thời mình không được mở cửa nhận khách vì lý do an toàn.

Lúc đó mình tìm mua được Xóm Mới ở Dieulivol. Nhiều nông dân bỏ nhà quê lên thành phố nên nhà nước mua lại mấy cơ sở còn hơi tốt của họ. Trong hai, ba năm gần đây mình có một số Phật tử Tây phương thương mình nên người thì cho 20.000-30.000USD, người thì cho 70.000USD. Cuối cùng thì mình cũng có được 800.000USD. Mình đi tìm nhiều chỗ và sau cùng mình tìm được một chỗ giá 800.000€. Mình xin bớt 100.000€ để sửa chữa. Ông chịu và mình mua một trung tâm mới, đó là Xóm Mới ở vùng có tên là Dieulivol. Mình mua chỗ này, mình chỉ sửa ít thôi vì nó có đủ tiêu chuẩn công cộng như nhà vệ sinh, nhà tắm… Xóm Mới là trung tâm cứu vớt hai trung tâm kia tại vì họ bắt đóng cửa Xóm thượng và Xóm Hạ. Nhờ có trung tâm Xóm Mới mà Làng Mai vẫn mở cửa. Chính thức là mình về Xóm Mới nhưng bán chính thức thì mình vẫn ở Xóm Hạ và Xóm Thượng.

Những cơ sở của Xóm Mới

Tiểu sử nhà Xóm Mới này cũng đáng để nhắc tới: vì tình trạng người trẻ từ từ bỏ xóm làng lên thành thị sống nên ông xã trưởng và cũng là tỉnh trưởng xin phép nhà nước cung cấp cho vùng này một ngôi nhà để làm trung tâm giải trí cho người trẻ và vận động người trẻ ở lại. Nhà nước đã mua căn nhà này với giá cao nhưng người trẻ vẫn không ở lại nên họ bị lỗ, phá sản, phải bán đấu giá…., nhờ vậy mà mình mua được ngôi nhà này ở ngay mặt đường. Gọi là Xóm Mới vì mới mua sau này chứ nhà đã bỏ hoang mười năm và chỉ có một ngôi nhà chứ không có nhiều cụm nhà nhưng mình vẫn gọi là Xóm cho giống hai xóm kia. Dieu là Thượng đế và livol có nghĩa là muốn, Dieulivol có nghĩa là ý Thượng đế muốn mình về đây làm trung tâm để phát triển pháp môn này trên khắp nước Pháp, tên chữ Thầy đặt là Thiên Ý thôn.

Vì là trung tâm giải trí nên họ xây một nhà khiêu vũ từ một nhà chứa rơm. Sau khi mua Xóm Mới thì mình biến nhà khiêu vũ thành thiền đường. Sau này xây thiền đường mới mình gọi chỗ này là Phật đường. Tường của nhà chứa rơm rất dày với nhiều đá. Mình khoét hang trong tường đá để đặt tượng Bụt rồi cho dây leo bám vào ghềnh đá nên Bụt ngồi thiền trong hang đá có lá xanh leo quanh rất trang nhã. Trên vách đá là hai bức hoành có chữ Thầy viết:

Bên mặt là câu: Trên đài sen trắng Như Lai hiện.

Bên trái là câu: Trong rừng trúc tím Quán Âm ngồi.

Vào Phật đường mình chỉ thấy Bụt ngồi trong động đá. Hai bên động đá là hai câu liễn Thầy viết chữ đơn sơ khiến tâm ai cũng lắng đọng. Sàn thiền đường lót thảm tím rất tĩnh lặng đậm đà thiền vị, gối và nệm ngồi thiền cũng bọc bằng vải tím. Thầy chọn màu tím cho Phật đường vì ở Phật đường có thờ một tượng Quan Thế Âm, Thầy nói rừng trúc tím là chỗ ở của ngài Quan Âm và ngày xưa vua chỉ ban y màu tím cho các vị cao tăng. Sau đó Xóm Hạ chọn màu xanh dương đậm và Xóm Thượng chọn màu nâu cho bồ đoàn toạ cụ của xóm mình.

Hai bên thiền đường là hai căn nhà đã sụp đổ chỉ còn bức tường và cái nền. Một bên mình sửa thành chỗ ở cho các sư cô gọi là khu Phật đường, gồm năm phòng bên trên, ba phòng bên dưới và khu vệ sinh. Một bên mình xây lại thành sáu phòng để làm văn phòng, phòng vi tính, phòng chứa băng đĩa, phòng cho tôn túc và phòng vệ sinh, trên lầu là một thiền đường nhỏ tên Mây Thong Dong. Tuy nhiên bây giờ phía bên này đã được sửa chữa lại thành văn phòng và quán sách, còn thiền đường Mây Thong Dong được dùng để làm phòng triển lãm sách và pháp khí của Thầy.

Tại nhà chính, các phòng trong nhà khách có vẽ tranh cổ vào thế kỷ 17 – 18, tường sơn màu nhạt, khắc hình rất đẹp. Mình dùng làm phòng ăn, phòng tiếp khách, phòng sinh hoạt cho cư sĩ. Phía trong có một dãy phòng, mình làm một phòng cho sư cô Chân Không, một phòng cho sư cô Bảo Nghiêm và phòng bên trên ngày xưa dùng làm thư viện, sau đông người nên để cho tám sư em ở, có nhà tắm, nhà vệ sinh. Bên kia cầu thang là phòng của Thầy, kế đó là phòng của sư cô Định Nghiêm, sư cô Tuệ Nghiêm và ba sư em. Trên lầu phía bên Thầy là phòng sư cô trụ trì Trung Chính với sư cô Thoại Nghiêm.

Cổng đi vô rất đàng hoàng dù đã cũ kỹ. Từ cổng vô bên tay trái có một dãy nhà dành cho cư sĩ, gồm có năm phòng ở trên lầu và ba phòng ở dưới. Phòng thứ ba là một khu nhà vệ sinh, tầng trên cũng có một khu nhà vệ sinh và nhà tắm. Sau khu vệ sinh là nhà kho có bốn, năm tủ đông đá để chứa thức ăn. Bây giờ thì dãy nhà này cũng là chỗ ở của các sư cô tên gọi là khu Rừng Cây. Bên tay mặt có một nhà lớn, trên lầu chia thành nhiều phòng nhỏ dành cho khách, bên dưới là một nhà nghỉ ngơi cho quý thầy để ngày quán niệm thì các thầy có không gian riêng. Hai phòng nhỏ kế đó được dùng làm phòng ở cho các em tập sự và phòng may. Xóm Mới có phòng nha do chị Thục Quyên giúp trang bị máy móc và anh nha sĩ Hiền ở Bordeaux chăm sóc, làm răng cho các thầy, các sư cô của mấy xóm. Kế đó là phòng lạnh chứa thức ăn cho bếp rồi tới nhà bếp. Nhà bếp cũng khá rộng, nhưng bây giờ người tới đông quá nên nhà nước chê nhà bếp Xóm Mới không đúng

tiêu chuẩn. Ban An toàn Vệ sinh Thực phẩm những nơi đón khách công cộng bắt phải xây lại hết khu bếp núc. Nguyên cái khu nhà bếp, phòng nha sĩ, phòng may, phòng tập sự và phòng dành cho quý thầy đều bị đập đi và xây lại vì phải có nhà bếp lớn đúng tiêu chuẩn. Phía trên lầu được sửa lại thành phòng may, phòng phơi đồ và một phòng trống để sinh hoạt. Khoảng sân giữa ba dãy nhà này gọi là Sân Chim vì các phòng hồi đó được đặt tên các loài chim, đã được các sư cô tự lót đá theo kiểu những con đường cổ ở châu Âu nên khá dễ thương, các sư cô rất thích tụ họp ở đó.

Phía sau đất của Xóm Mới, ngày xưa vì muốn kéo người trẻ ở lại không bỏ lên thành phố nên nhà nước mở một cái quán bán rượu. Mình biến quán bán rượu xưa của họ thành quán bán sách, bán thư pháp của Thầy. Bây giờ mình đổi thành văn phòng làm việc của các sư cô, và dời quán sách về bên trái Phật đường.

Phía sau toàn bộ khu nhà chính này là đất trống, khi mình mới dọn về thì cỏ mọc ngút đầu. Sau đó mình xây một thiền đường đơn giản có sức chứa bốn trăm người gọi là thiền đường Trăng Rằm. Đây là thiền đường nhỏ nhất trong ba xóm nên mỗi khi Thầy giảng pháp ở đây vào mùa hè, tất cả những người nghe thông dịch qua tiếng khác đều phải ngồi ngoài thành từng nhóm trong khi người Việt (là nhóm đông nhất cần thông dịch) thì ngồi hẳn trong Phật đường.

Nếu trong Xóm Mới Trung Ương nhìn ra đường xuyên quận, thì sát bên tay mặt của Xóm Mới Trung Ương có một ngôi nhà của hai vợ chồng già đã mất nên con trai họ bán rẻ cho mình. Mình mua ngôi nhà và đặt tên là nhà Hoa Hồng (Les Roseraies), dùng để người trong gia đình các sư cô tới ở vì không đủ tiêu chuẩn nhận khách. Phía sau Les Roseraies là nhà của một ông nha sĩ người Anh về hưu rất khó chịu, ông bán nhà đó cho mình, mình mua và đặt tên là nhà Hoa Mai (Les Pruniers), sẽ tu sửa lại thành thư viện và phòng dưỡng bệnh. Kế bên Les Roseraies có một ngôi nhà lớn cho thuê, bây giờ người thuê dọn đi nên họ bán cho mình. Ngôi nhà này chung một chủ với cái đồi trồng toàn mận nên Xóm Mới có một đồi mận y như ở Xóm Hạ. Họ bán cho mình 6 mẫu trồng mận, 3 mẫu đất và mấy căn nhà cũ. Khu nhà này và nhà Les Pruniers, mình sẽ làm thành ni xá. Qua khỏi nhà có vườn mận là nhà Giếng Thơm (Les Puits) dành cho khách ở. Tiếp đó là một dãy đất mình đã mua rồi nhưng chưa xây cất, có hai cô thiền sinh là Michelle và Martine mua hai miếng đất kế bên, rồi em Hương ở Paris mua một miếng đất kế đến rồi mình mua thêm một miếng đất sát cạnh nữa. Vậy là nguyên khu đất đó là của mình, em Hương, cô Michelle và cô Martine. Sau con đường dẫn đi Dieulivol là tới Xóm Mới Lưng Đồi, nhà ở lưng chừng đồi và có khoảng mười hai phòng hạng sang tức phòng cho hai người, mỗi phòng đều có nhà vệ sinh.

Như vậy, từ Duras đi tới thì đầu tiên là nhà Đầu Thôn, một căn nhà hai tầng mà bỏ hoang nên mình mua đấu giá khi toà án phát mại, không có nhiều đất chung quanh. Mình sửa nhà lại thành nhiều phòng ngủ để cho thiền sinh ở. Đi chừng 300 thước nữa là Xóm Mới, nhà chính gồm có các cơ sở sinh hoạt và chỗ ở các sư cô như đã kể trên. Bên kia đường là miếng đất mình mua để làm chỗ đậu xe, có hai hàng tùng lọng và một nhà kiếng để trồng rau sạch. Sau đó là nhà Hoa Mai, nhà Hoa Hồng, nhà mà chủ có vườn mận (mình chưa đặt tên), nhà Giếng Thơm, đất của em Hương, đất kế nhà hai cô cư sĩ Pháp Michelle, Martine rồi tới nhà Lưng Đồi.

Như vậy thì Xóm Mới sắp giống một cái xóm thiệt vì có nhiều nóc nhà rồi.

Xóm Trung

Xóm Trung có tên gọi như vậy vì ở giữa Xóm Thượng và Xóm Hạ, cách Xóm Thượng một cây số và Xóm Hạ hai cây số. Nhà Xóm Trung là của hai ông bà khá giả, bên trong xây bằng gỗ hai tầng theo kiểu nhà đại gia khá đẹp. Nhưng nó đã cũ nên họ bán có 100 ngàn đô. Chị của sư cô Định Nghiêm hứa cho, nói muốn cúng dường 100.000USD. Thầy không chịu, không muốn mất sư cô Định Nghiêm tại vì người đi tu mà có gia đình giàu cúng dường 1, 2 trăm ngàn đô thì người đó sẽ sinh ra ỷ lại. Sư cô Định Nghiêm đi tu với hai tay không, chị sư cô có giàu thì là của chị thôi. Đi tu với hai tay không thì tu mới bền. Nhưng Chân Không cũng mua được Xóm Trung với giá ít hơn một trăm ngàn đô, nhờ bà chủ nhà Marniès chịu bớt 30 ngàn francs cho con nít đói vào năm 1998.

Nhà chính của Xóm Trung là ngôi nhà cổ có lầu, mình sửa lại tầng dưới thành bếp, ba phòng ngủ và thiền đường. Trong thiền đường Bụt cũng ngồi trong hang đá. Xóm có con suối băng qua bên dưới chân đồi là chỗ để cắm 100 lều.

Xóm Trung vào mùa hè được dành cho người Việt vì sau này ở Làng, người Việt ngày càng ít và người Tây phương ngày càng đông. Một mùa Hè có khoảng 100 – 150 người Việt, trong khi người Tây phương thì lên tới 300 – 1000 mỗi tuần. Thầy nói, khi ngồi giảng nhìn xuống thấy mặt người Tây phương thì Thầy thuyết pháp bằng tiếng Việt không được. Nên từ đó khi sắp chỗ ở, mình xếp tất cả thiền sinh người Việt về ở chung Xóm Trung, các thầy sư cô Việt Nam tu rất giỏi nhưng nói ngoại ngữ chưa giỏi đều về Xóm Trung chăm sóc đồng bào.

Nhà ở Xóm Trung không đúng tiêu chuẩn nên chỉ được để cho mấy thầy mấy sư cô ở tạm. Không biết mình có đủ tài chính để xây một căn nhà đàng hoàng ở Xóm Trung hay không? Mình phải cất một nhà bếp đúng tiêu chuẩn tại vì nếu có ai bị ngộ độc thì mình sẽ gặp rắc rối to. Hiện giờ Xóm Trung bị đóng cửa, gần như bỏ hoang vì mình chưa có đủ điều kiện để sửa sang cho đúng luật để nhận khách.

Nhà Nắng Thuỷ Tinh (gần Xóm Trung)

Ông Dutheil ở dưới Xóm Thượng bán cho mình khu rừng và ngôi nhà của ông ở Sơn Hạ rồi thì ông về xây một ngôi nhà song song với Xóm Trung ở bên kia đường. Ông ở được hai năm thì bị bệnh và mất năm 2012. Bà vợ lại năn nỉ mình mua giùm ngôi nhà mới cất. Bà nói căn nhà quá lớn, bà không thể ở một mình và muốn dọn về ở gần con gái tại quận Sigoules, cách đó 5 cây số. Căn nhà quá tốt, sơn thuần màu trắng nên mình đặt tên là nhà Nắng Thuỷ Tinh, trong đó có nhà vệ sinh, nhà tắm rất sang trọng. Hiện tại nhà Nắng Thuỷ Tinh thuộc sự chăm sóc của Xóm Hạ và là chỗ ở cho thiền sinh nữ khi nào Xóm Hạ không đủ chỗ nhận khách.

Như vậy thì mình có:

  1. Xóm Thượng (lieudit Le Pey Thénac).

Xóm Thượng hay Sơn Thượng Lieudit là địa chỉ nhưng ở nhà quê người ta không có tên đường chỉ gọi lieudit tức là một cụm nhà. Tên chữ của Xóm Thượng là Thệ Nhật sơn, Pháp Vân tự.

  1. Sơn Hạ (lieudit Fontagnanes, Thénac)
  2. Xóm Đoài (lieudit Les Combes, Thénac )
  3. Xóm Tây Hồ (lieudit Ramefort, Thenac), sau này thành nông trại Hạnh Phúc (Happy Farm)
  4. Xóm Hạ (lieudit Meyrac, làng Loubès-Bernac). Tên chữ của Xóm Hạ là Mai Hoa thôn, Cam Lộ tự.
  5. Xóm Trung (lieudit Cabane, Thenac ).
  6. Nhà Nắng Thuỷ Tinh thuộc Xóm Trung dành cho người Việt.
  7. Xóm Mới (Lieudit 13 Martineau, làng Dieulivol, tỉnh Gironde), tên chữ là Thiên Ý thôn, Từ Nghiêm tự.