Đối thoại với thiền sư Thích Nhất Hạnh về hạnh phúc – 2008

Buổi trực tuyến giữa nhà báo Nguyễn Anh Tuấn (tổng biên tập VietNamNet) với thiền sư Thích Nhất Hạnh trong chiều 4.5.2008 diễn ra với nhiều nội dung thú vị. Nhưng điều đọng lại lớn lao nhất, ấn tượng nhất trong người nghe là sự lý giải, gợi mở của thiền sư về hai chữ HẠNH PHÚC của con người.

Hình ảnh trong Bàn tròn trực tuyến giữa VietNamNet và Thiền sư Thích Nhất Hạnh

 

Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Chúng tôi mang đến đây tặng quý vị hai bức thư pháp. Bức "Từng bước nở hoa sen" là phương pháp thực tập để mỗi bước chân mình đi thảnh thơi, an lạc, tiếp xúc với những mầu nhiệm trên hành tinh này, đem lại cho mình hạnh phúc. Bức thứ hai là phương pháp lắng nghe để có thể hiểu được những khó khăn, khổ đau, bức xúc của người đối diện, và có thời giờ nhìn lại để chấp nhận và thương yêu: "Lắng nghe để hiểu, nhìn lại để thương". Phương pháp này có thể giúp mình tái lập lại truyền thông, hòa giải giữa hai người với nhau, đem lại hạnh phúc không chỉ cho riêng mình.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh và TBT VietNamNet Nguyễn Anh Tuấn

 

"Chúng tôi đã bỏ ra 30 năm để chia sẻ sự thực tập đạo Phật với người Tây Phương"

Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Cảm ơn Thiền sư Thích Nhất Hạnh và tăng đoàn đã có những món quà rất ý nghĩa tặng VietNamNet. Có lẽ chúng tôi không cần giới thiệu gì thêm về vị khách mời đặc biệt hôm nay, bởi tên tuổi cũng như uy tín của thiền sư đã lan tỏa sâu rộng cả trong và ngoài nước. Câu hỏi đầu tiên: Xin thiền sư chia sẻ về thành tựu chung hiện nay của đạo Phật trên toàn thế giới?

Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Chúng tôi đã để ra trên 30 năm để chia sẻ sự thực tập đạo Phật với người Tây phương. Hiện giờ đạo Phật ở phương Tây phát triển rất mạnh và nhanh, được giới trẻ, giới trí thức hâm mộ nhiều. Chúng tôi đã mở những khóa tu tập riêng cho giới doanh nhận, giới bảo hộ môi trường, giáo chức, cựu chiến binh, văn nghệ sĩ… Có khóa tu cho giới diễn viên Holllywood, dân biểu quốc hội Hoa Kỳ, những người lo an ninh (cảnh sát, người giữ tù…), luật sư… Đây đúng là đạo Phật đi vào cuộc đời, mình không cần phải quy y nhưng có thể thừa hưởng kho tàng tuệ giác của đạo Phật để tháo gỡ khó khăn trong đời sống nội tâm, tái lập lại truyền thông với những người khác, trong đó có gia đình, đồng nghiệp, đem lại hạnh phúc trong đời sống hàng ngày.

Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Thiền sư có thể lý giải vì sao Phật giáo lại được chấp nhận và ngày càng phát triển ở những vùng đất, những bối cảnh xã hội như châu Âu, nước Mỹ, nơi các tôn giáo khác như công giáo, tin lành… đã bám rễ rất sâu rộng?

Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Chúng tôi nghĩ một phần vì những cố gắng hiện đại hóa Cơ đốc giáo, Do Thái giáo chưa thành công lắm, trong khi chúng tôi thành công trong sự hiện đại hóa đạo Phật. Ở phương Tây đạo Phật được trình bày với ngôn ngữ mới, đưa ra những pháp môn tu tập rất thực tế để giúp mỗi cá nhân tháo gỡ những khó khăn ngay khi tu tập. Có những người đã từng là Linh mục, mục sư thương đạo Chúa rất nhiều, nhưng họ nói đạo Phật giúp họ tìm ra biện pháp cụ thể để tháo gỡ khó khăn.

Ví dụ như mục sư Cyber Lee ở Houston, Texas, nhờ đọc sách của mình (chúng tôi), áp dụng sự thực tập học ở trong sách mà chữa lành bệnh ung thư, nên sau đó đã xin thụ trì 5 giới, quy y tam bảo mà không thấy có sự mâu thuẫn gì giữa đức tin cơ đốc giáo của bản thân với tuệ giác đạo Phật. Sau đó vị mục sư này đến làng Mai tu học 3 tháng mùa đông, tiếp tục tu học cho đến khi thành một vị giáo thọ của làng Mai, tức người có khả năng mở những khóa tu theo giáo lý đạo Phật. Vị mục sư này đã viết thư cho bề trên, đề xuất nguyện vọng muốn được vừa làm mục sư, vừa làm giáo thọ đạo Phật, trong trường hợp bề trên không cho thì sẽ chỉ làm giáo thọ đạo Phật. Chúng tôi được tin là bề trên đã đồng ý cho ông vừa làm mục sư, vừa làm giáo thọ. Sáng chủ nhật thì ông giảng bài cho con chiên, buổi chiều thì hướng dẫn thiền tập cho mọi người, trong đó có cả những người trong nhà thờ.

Chúng tôi không nghĩ phải từ bỏ đạo Thiên chúa hay Do thái mới theo được đạo Phật, vì đạo Phật không phải chỉ là tôn giáo tín ngưỡng, mà còn là nguồn tuệ giáo sâu sắc, mà bất cứ ai cũng có thể thừa hưởng để tháo gỡ những khó khăn trong đời sống nội tâm, giúp cho đời sống an lạc, hạnh phúc.

"Mong Giáo hội Công giáo và Phật giáo ra văn bản có hậu về hôn nhân dị giáo"

Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Chính nhờ những bước phát triển, cập nhật cái mới mà đạo Phật đã có sức sống ở những vùng đất như Âu-Mỹ. Ngược lại, đạo Phật có học hỏi những điều hay của các tôn giáo khác để làm giàu thêm cho mình không?

Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Trong đạo tràng của chúng tôi, các thầy – sư cô – phật tử – cư sĩ đều có bổn phận phải học những truyền thống khác. Chúng tôi đã viết những cuốn sách đối thoại Phật giáo với những tôn giáo khác, như cuốn "Living Buddha, Living Christ" ("Bụt ngàn đời, Chúa ngàn đời"), "Về đi thôi, Bụt và Chúa là hai anh em" (Coming home, Buddha and Christ are brothers). Những cuốn sách đó cũng như những khóa tu chúng tôi mở ra cho những người Phật tử và Cơ đốc giáo đến tu tập chung là những phương tiện đối thoại rất hay, khiến cho nhiều người Cơ đốc giáo và Do Thái giáo có cơ hội tìm hiểu đạo Phật, đồng thời giúp những người đạo Phật có cơ hội hiểu thêm về giáo lý Cơ đốc giáo, Do thái giáo, nên sự hiểu biết chung ngày càng tăng, tình thân hữu nhờ đó mà phát triển.

Chúng tôi cũng đề cập đến Hôn nhân dị giáo. Bởi đã có biết bao thanh niên thiếu nữ đau khổ vì không được lấy nhau, do hai bên cha mẹ đều muốn giữ đạo của mình. Chúng tôi có đề nghị biện pháp như cho phép hai người cưới nhau, người nào giữ tôn giáo người đó, đồng thời có cơ hội học thêm truyền thống của người bạn hôn phối của mình. Chủ nhật 2 người cùng đi nhà thờ, rằm và mùng 1 hai người cùng đi chùa. Thay vì có 1 gốc rễ thì hai người có hai gốc rễ tâm linh, vì học 2 truyền thống thì khám phá được rõ hơn châu báu của mỗi truyền thống, chỉ làm giàu thêm thôi. Hôm chúng tôi đến thăm nhà thờ Phát Diệm, gặp một số vị linh mục, chúng tôi có bàn về chuyện này, các vị linh mục tỏ vẻ đồng ý. Hy vọng các giáo hội Công giáo và Phật giáo sẽ ra một văn bản để tuổi trẻ khỏi phải đau khổ như suốt mấy trăm năm qua khi có tình yêu với người khác truyền thống.

Hiện đại hoá đạo Phật?

Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Phật giáo VN đã có truyền thống lâu đời. Vậy thiền sư có nhận xét thế nào về Phật giáo hôm nay tại Việt Nam?

Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Phật giáo VN có nhiều tiềm lực, như mỏ dầu hỏa rất lớn. Vấn đề là có biết khai thác để làm hạnh phúc cho dân, cho nước hay không? Cái học của chúng ta trong các trường Phật học lý thuyết hơi nhiều, sự thực tập mới chỉ tập trung vào sự tín mộ, cầu nguyện, chứ chưa đi sâu vào quán chiếu và chuyển hóa. Chúng tôi mong phương pháp học Phật và thực tập đạo Phật phải được hiện đại hóa mau chóng, để Phật giáo đi kịp những trào lưu khác trong xã hội.

Chúng tôi ở Tây phương có hoàn cảnh thuận tiện nên hiện đại hóa đạo Phật rất dễ dàng, đào tạo những thế hệ tu sĩ, tăng sinh, thầy và sư cô mới, cư sĩ mới. Chúng tôi không tốn quá nhiều thời giờ mà vẫn đào tạo được những giáo thọ có khả năng mở những khóa thực tập (retreat) trong đó người ta tới học những cái chúng tôi vừa trình bày, học làm thế nào đem lại cái an, cái lạc cho thân tâm, thiết lập truyền thông với người khác, xóa bỏ hận thù bạo động, đem lại hạnh phúc. Sự thành công là nhờ ở chỗ chúng tôi dám làm mới đạo Phật, đem lại một đạo Phật thích hợp với tuổi trẻ, với người trí thức bây giờ. Việt Nam hiện giờ có nhiều điều kiện để làm mới, hiện đại hóa đạo Phật.

Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Thiền sư có thể làm rõ, ta cần hiện đại hóa, cập nhật điểm nào của đạo Phật?

Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Chúng tôi đã nói, cái học của chúng ta phải thay đổi, phải học những biện pháp cụ thể để chuyển hóa thân tâm chứ không học như lý thuyết suông. Sinh viên y khoa ngoài giờ học trong lớp thì phải vào bệnh viện xem các giáo sư chẩn mạch, cho thuốc. Các thầy, sư cô trong các phật học viện cũng vậy, phải có khả năng tổ chức giúp đỡ, tham vấn, soi sáng cho những người tới với mình. Họ có những khó khăn, bức xúc, khổ đau, tai nạn, thì mình phải dùng trí tuệ đạo Phật để giúp họ tháo gỡ.

Đức Thế tôn từ 2600 năm trước đã cho người phụ nữ vào trong giáo đoàn của ngài. Ấy vậy mà trong truyền thống của mình vẫn trọng nam khinh nữ. Tuần trước chúng tôi có đưa ra đề nghị BÁT KỈNH PHÁP của các thầy với các sư cô. Chúng tôi biết có nhiều vị sẽ mừng lắm, nhất là những người ở Tây phương. Nhưng cũng sẽ có những người bảo thủ, và chúng tôi sẽ phải gánh chịu búa rìu dư luận. Nhưng chúng tôi vẫn can đảm đưa ra để cho có được sự bình đẳng thực sự giữa nam và nữ trong giáo đoàn Đức Phật.

Chúng tôi cũng nghĩ Đạo Phật cần đi vào đời sống của tuổi trẻ. Chúng tôi mong tổ chức Gia đình phật tử ở Việt Nam được phục hồi, sẽ có những đoàn thanh niên Phật tử, những đoàn Phật tử hoạt động trong xã hội lành mạnh và từ bi hơn. Chúng tôi nghĩ rằng, làm cha mẹ phải học Phật để tháo gỡ khó khăn, chăm sóc nhau, giúp cho con mình học đạo Phật từ mình. Thầy cô giáo phải buông thả căng thẳng trong con người của mình, đối phó với những bức xúc trong tâm như sợ hãi lo lắng. Khi bố mẹ, thầy cô làm được thì sẽ giúp con cái và học trò. Vì thế, đạo Phật phải đi vào trong gia đình, trong học đường, trong xã hội.

Ví dụ ông là một doanh nhân, ông biết nếu đem Đạo Phật vào trong doanh nghiệp thì sẽ tạo ra sự hiểu biết, chấp nhận, thương yêu, và nếu biết cách thì những công nhân trong doanh nghiệp biết phương pháp buông thư, có thời giờ để tìm hiểu khổ đau, khó khăn của nhau, thì sự hiểu nhau, chấp nhận nhau, thương yêu nhau sẽ làm công việc phát triển và thành công hơn.

Nếu ông là nhà chính trị mà biết Phật-Pháp thì có thể đem phương pháp thực tập vào đảng của ông, thiết lập được sự đồng cảm, thương yêu, tin cậy giữa những người cộng sự thì sự nghiệp chính trị sẽ thành công. Mỗi chúng ta phải có chiều hướng tâm linh (spiritual dimension), nếu không thì không tháo gỡ được những khó khăn, bức xúc trong đời sống của mình, mà như thế thì rất khó thành công. Đạo Phật vì thế cần phải cung cấp cho mỗi người trong xã hội cái bình diện, chiều hướng tâm linh. Đó là điều mà giáo hội Phật giáo cần lưu tâm, đó là cái đẹp nhất, quý nhất mà đạo Phật có thể cống hiến cho xã hội, cho dân tộc.

Tâm an và nhiệt huyết sống! Có mâu thuẫn không?

Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Thưa thiền sư, vậy có mâu thuẫn không khi ta đề cao tâm an, nhẹ nhàng, thanh tịnh, nhưng thực tế cuộc sống lại rất sôi động, cạnh tranh, mỗi con người phải vươn lên. Cũng có khi người ta coi stress, căng thẳng như là một thách thức thú vị của cuộc sống (như việc chơi game chẳng hạn). Đạo Phật có mâu thuẫn khi gạt đi những sôi động, những thách thức khiến con người phát triển và có nhiệt huyết sống không?

Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Một nhà chính trị thì luôn muốn mình đem lại thành công cho đất nước. Một doanh thương cũng muốn thành công cho cả doanh nghiệp chứ không phải chỉ cho mình. Nếu hình hài không có an thì không thành công được. Thực tập đem lại sự yên ổn trong thân, trong tâm sẽ giúp họ thành công, dù là nhà chính trị hay doanh nhân, không có gì chống đối hết. Khi sử dụng ái ngữ và lắng nghe thì họ thành công hơn trong lĩnh vực chính trị, kinh doanh của họ. Những niềm vui của họ có thể rất lớn khi họ thực hiện những điều họ mơ ước. Sự thành công của mình không hẳn trả giá bằng sự thất bại của người khác. Tại sao người kia phải thất bại thì mình mới thành công? Đó là câu hỏi quan trọng? Làm thế nào để tôi thành công và anh cũng thành công, thì hạnh phúc của ta sẽ lớn hơn, vì không ai đau khổ vì sự thành công của chúng ta hết. Hạnh phúc của chúng ta đâu phải chỉ là quyền lực, danh vọng, tiền bạc. Hạnh phúc là khi chúng ta có tình thương và sự hiểu biết.

Trong mỗi chúng ta có hai nhu cầu sâu sắc, đó là nhu cầu hiểu biết và thương yêu. Những nhà khoa học vì nhu cầu hiểu biết mà thức đến 3, 4h khuya để nghiên cứu thí nghiệm. Những nhà đạo học không dùng phương tiện đo lường mà dùng thiền quán để tìm hiểu. Con đường tâm linh cũng khám phá, làm thỏa mãn nhu yếu hiểu biết của con người.

Nhu yếu thứ hai sâu sắc của con người là thương yêu và được thương yêu. Sở dĩ ngày xưa SIDDHARTHA bỏ nhà đi tu là tại thấy rằng tình thương dành cho một người không đủ, không làm thỏa mãn ý chí của người con trai đó, nên ra đi tìm tình thương có thể ôm lấy mọi người, mọi loài, tình thương không biên giới. Ta có khao khát rất lớn là được thương yêu, thương yêu có thể phát triển tới vô biên, ôm lấy vũ trụ. Khi ta có hiểu biết lớn, thương yêu lớn thì hạnh phúc lớn. Vì vậy nhà doanh thương, nhà chính trị mà trong khi hoạt động mở rộng được tình thương, hiểu biết của mình, càng hiểu thì càng thương, hiểu sâu thì thương nhiều, thì hạnh phúc rất lớn, không có gì mâu thuẫn.

 

Sử dụng tuệ giác đạo Phật để chuyển hóa thân tâm, tháo gỡ khó khăn?

Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Con người tìm đến với tôn giáo là tìm đến với thế giới tinh thần, với sự an ủi, như đạo Phật giúp giải thoát khỏi những đau khổ nội tâm trong cuộc sống. Nhưng thưa thiền sư, lý thuyết giáo lý cao đẹp ấy đã đi vào thực tế cuộc sống được nhiều chưa?

Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Với đạo Phật, phần lớn chúng ta mới thực tập tín mộ, tín ngưỡng, chứ ít người sử dụng được tuệ giác đạo Phật để chuyển hóa thân tâm, tháo gỡ những khó khăn. Cầu nguyện cũng phần nào đem lại sự an lạc, vì giúp lắng dịu những khổ đau, lo lắng. Nhưng muốn giải quyết tận gốc vấn đề thì phải có tuệ giác, mà tuệ giác phải do tu tập mới có được. Hiện ở Tây phương chúng tôi đang xướng xuất phong trào Phật học ứng dụng.

Hạnh phúc là an lạc, không có an thì không có lạc, an trong thân và trong tâm. Nếu con người chứa chất quá nhiều sự căng thẳng, stress, thân không an thì tâm làm sao an được? Trong khi đó tâm có những cảm giác, cảm xúc như giận hờn, tuyệt vọng, bạo động, nếu không có phương pháp cụ thể thì làm sao nhận diện và chuyển hóa được những bất an của tâm? Trong kinh Niệm Xứ hay kinh Quán Niệm Hơi Thở, Đức Thế Tôn đã dạy những phương pháp cụ thể để làm lắng dịu những căng thẳng trong thân, trong tâm, rồi nhìn sâu để xem gốc rễ của những khổ đau phiền não đó do đâu, từ đó mới bắt đầu chuyển hóa được những tâm hành. Đó là phương pháp khoa học.

Sở dĩ người Tây phương theo chúng tôi học hỏi, thực tập nhiều, vì chúng tôi không hiến tặng cho họ đạo Phật của đức tin mà hiến tặng cho họ đạo Phật của sự thực tập kinh nghiệm. Những khóa tu tổ chức ở New York, Los Angeles, Boston, Born, London, thường có trên 1000 người tới tu liền 6, 7 ngày, trong những ngày đó họ thực tập những phương pháp cụ thể, trước hết lấy ra những căng thẳng trong thân – tập buông thư, lấy ra những căng thẳng trong tâm – tập nhận diện và ôm ấp những đau buồn, lo lắng, sợ hãi của mình, nhìn sâu vào để có thể nhận diện những bản chất tâm hành đó. Rồi nhìn vào người thân của mình để thấy trong họ có căng thẳng trong thân, tâm, để phát khởi lòng thương, chấp nhận họ. Lúc đó mình cởi bỏ được thái độ trách móc, vì có sự lắng dịu trong thân và tâm, học thêm được phương pháp ái ngữ và lắng nghe, hiểu được khó khăn và bức xúc, mơ ước, khổ đau của người kia, từ đó chấp nhận để giúp đỡ họ. Không nói những lời chua chát, buộc tội, lên án, thì có thể giúp người kia hiểu được, thấy được những nhận thức sai lầm của họ để thay đổi.

Đó là những phương pháp cụ thể, chỉ cần tu trong 6, 7 ngày là đã có thể đạt được những tiến bộ rất lớn rồi. Không khóa tu nào mà không có phép lạ xảy ra, vợ chồng hòa giải, cha con làm hòa là chuyện rất thường. Có điều lạ lùng, nếu 2 người cùng tới khóa tu thì sự chuyển hóa dễ dàng là đúng, nhưng có trường hợp chỉ 1 người đến khóa tu, chuyển hóa và có khả năng nói được lời êm dịu và lắng nghe được khó khăn của người đối thoại. Đến ngày thứ 6 chúng tôi cho phép dùng điện thoại di động để thực tập lắng nghe và ái ngữ, và có nhiều người đã báo cáo rằng chỉ dùng điện thoại di động đã có thể hòa giải với người kia ở nhà (bố, mẹ, anh chị em, vợ chồng, con…). Khi nghe báo cáo như thế thì chúng tôi rất hạnh phúc, vì biết rằng mình đã giúp được nhiều người.
 

"Năm giới là sự thực tập cụ thể của tình thương"

Thực sự chúng tôi không chủ ý quyến rũ người ta theo đạo Phật, nhưng vào cuối khóa tu, người xin quy y và thọ 5 giới rất đông, có những khóa tu mà 6 – 700 người Tây phương quỳ xuống xin quy y Phật-Pháp-Tăng và thọ 5 giới. Vì họ biết rằng 5 giới là sự thực tập cụ thể của tình thương.

Giới thứ nhất là Bảo vệ sự sống không chỉ của loài người mà động vật, thực vật, khoáng vật. Giới này đi theo đường lối bảo hộ môi trường (deep ecology), không chỉ bảo vệ con người mà còn bảo vệ các loài khác trong đó có thực vật và khoáng vật.

Giới thứ hai là Chia sẻ thời giờ và tài vật của mình với những người thiếu thốn, đừng lạm dụng và bóc lột người khác. Đó là giới không trộm cắp, không bóc lột, trái lại hiến dâng, là sự thực tập của tình thương.

Giới thứ ba là Không tà dâm, không lạm dụng tình dục, bảo hộ trẻ em, bảo hộ những cặp vợ chồng. Đó cũng là tình thương, vì bao nhiêu trẻ em lớn lên trong gia đình không giữ giới thì đau khổ vô cùng. Bởi vậy, sự thực tập giới thứ ba là không ăn nằm với những người không phải vợ chồng, không lạm dụng tình dục, bảo hộ cho những đôi nam nữ, bảo hộ trẻ em cũng là sự thực tập của tình thương.

Giới thứ tư là Sử dụng ái ngữ và lắng nghe để tái lập truyền thông giữa những người thân… cũng là sự thực tập tình thương.

Giới thứ năm là Tiêu thụ trong chính niệm, chỉ tiêu thụ những sản phẩm mang lại sự an lạc cho thân tâm mình, còn những sản phẩm có độc tố (như phim ảnh sách báo) thì những độc tố đó sẽ làm thâm tâm bị hủy hoại. Biết chọn đối tượng tiêu thụ cũng là sự thực tập của tình thương, bảo hộ xã hội, bảo hộ con người.

Khi họ thấy 5 giới là phương tiện bảo hộ mình và những người thương thì đó không còn là đức tin mơ hồ mà là những thực tập cần thiết. Họ tiếp nhận 5 giới với thái độ khoa học chứ không phải người đi tìm đức tin, nên họ thấy không chống đối gì với truyền thống tôn giáo của họ.

 

Nên học vua A Dục và Trần Thánh Tông để thống nhất lòng người

Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Đúng là Giáo lý của đạo Phật rất đẹp, rất hay. Nhưng từ mong muốn mà chuyển hóa thành thực tiễn hành động, nhân cách mỗi con người thì không dễ chút nào. Liệu giáo lý đạo Phật có thể giúp định hình ra một nhân cách của dân tộc VN? Nhiều người mong muốn điều đó, nhưng nay còn bộn bề trăn trở nhiều. Thiền sư có đánh giá gì, có giải pháp gì đưa những điều hay của giáo lý Phật-Pháp đến với mỗi con người, để hình ảnh dân tộc Việt Nam có nhân cách tốt trong cộng đồng thế giới?

Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Đạo Phật ngày xưa giúp đất nước nhiều lắm. Học giả Hoàng Xuân Hãn đã nói Đạo Phật giúp đời Lý là triều đại thuần từ nhất trong lịch sử, khi từ vua quan tới dân đều thực tập đạo Phật. Đời Trần cũng vậy, sau khi chiến thắng Nguyên Mông, quan quân có đệ trình lên một hòm tài liệu của một số viên chức chính quyền liên lạc với giặc. Nhưng Vua Trần Thánh Tông đã đem hòm tài liệu đốt trước mặt bá quan để yên tâm trăm họ, bởi chúng ta đã giành được độc lập, đẩy lui được quân thù thì cần nhất bây giờ là đoàn kết quốc gia. Đó là hành động phát sinh từ tuệ giác của đạo Phật.

Hiện giờ, ta có thể học theo những hành động như thế. Cố nhiên là trong chiến tranh chúng ta bị chia rẽ, có những ý thức hệ đối chọi nhau, có những nhận thức khác nhau về chính trị, có cách thức yêu nước khác nhau. Giờ phải làm thế nào để buông bỏ thái độ đó đi. Đừng cho rằng chỉ có lý thuyết của chúng tôi là đúng, còn mọi lý thuyết khác đều sai lầm hết. Thái độ bám vào một chủ thuyết, không bao dung đó sẽ tiếp tục làm cho dân ta khổ.

Trong giới luật Tiếp Hiện của chúng tôi có đưa ra tinh thần đạo Phật là không thờ phụng bất cứ một chủ nghĩa nào, một lý thuyết nào, kể cả đó là lý thuyết Phật giáo. Đạo Phật đưa ra những phương tiện để tu tập, để học hỏi, để chuyển hóa bản thân chứ không phải là những lý thuyết để thờ phụng, để phải phát động những cuộc chiến đẫm máu. Tôi nghĩ thái độ đó rất cần thiết. Vua A Dục ngày xưa sau khi thống nhất đất nước đã đi tu, yểm trợ cho các tôn giáo để các tôn giáo thống nhất nhân tâm. Vì thế, vua A Dục đã thống nhất được nhân tâm sau khi thống nhất lãnh thổ. Chúng ta nên học bài học đó. Chúng ta thống nhất Nam Bắc nhưng chưa thống nhất được lòng người, vẫn có sự tị hiềm, hận thù, đau khổ trong lòng mỗi chúng ta. Áp dụng đạo Phật là để buông bỏ những hận thù trong quá khứ. Đó là một trong những thực tập mà ta có thể thực hiện ngay, thống nhất lòng người, ôm lấy nhau như đồng bào.

Năm ngoái về Việt Nam, chúng tôi được phép của Thủ tướng Chính phủ để tổ chức 3 đại trai đàn chẩn tế cầu siêu bình đẳng giải oan cho người Bắc, cho người Nam, cho người cộng sản và cả cho người chống cộng sản. Đó là tuệ giác của nhà nước Việt Nam. Đó là lần đầu tiên người Cộng sản và những người chống cộng sản được ôm lấy nhau để cùng khóc thương, cầu nguyện cho 6 triệu người chết, trong đó có bao người chết oan. Thực tập đó theo đúng tinh thần đạo Phật, buông bỏ những hận thù, bực bội, khổ đau trong quá khứ, đóng góp vào sự thống nhất lòng người.

 

Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Sau một năm thực hiện hành động mà thiền sư đánh giá là có tính đột phá và được Nhà nước ủng hộ đó, thiền sư có thấy tiến bộ thêm trong sự xóa bỏ hận thù của quá khứ không?

Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Công việc đó cần phải được tiếp tục, mọi giới đều phải đóng góp vào. Ba trai đàn chẩn tế cũng chỉ là sự bắt đầu. Tôi nghe rằng nhiều vị thượng tọa, đại đức cũng đang tổ chức những trai đàn như vậy ở địa phương. Đó là sự tiếp nối. Chúng tôi nghĩ rằng những công việc như thế rất quan trọng, bởi thống nhất lòng người là điều căn bản. Chúng tôi nghĩ hiện ta có điều kiện làm việc đó. Những người Phật tử hiện đại hóa, làm mới được đạo Phật thì đạo Phật đóng góp được rất nhiều trong sự nghiệp thống nhất lòng người.

Bạn đọc Nguyễn Trọng Chuyên: Thiền sư đã làm gì để gắn kết khối đại đoàn kết dân tộc giữa người Việt với người Việt, giữa người Việt với cộng đồng thế giới?

Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Chúng tôi đã giúp được rất nhiều người Việt ở Hoa Kỳ thoát khỏi ngục tù của quá khứ. Nhưng cũng nhiều người rất khó vượt qua vì trong quá khứ họ có những chức vị, quyền lợi và họ không thể chấp nhận được việc họ bị mất đi những chức vị, quyền lợi ấy. Họ trở nên hận thù. Cả những Phật tử cũng trở thành đối tượng hận thù của họ. Họ có thể chửi mắng, bôi nhọ… Riêng về phần chúng tôi, chúng tôi không đau khổ gì hết mà chỉ tội nghiệp cho họ. Vì bản thân họ bị quá khứ giam hãm nên họ không biết sống hạnh phúc trong hiện tại, do đó họ không có tương lai. Nếu họ cứ ôm khư khư cái hận thù thì họ rất đáng tội nghiệp.

Chúng tôi chỉ làm tối đa những gì có thể làm được, còn có lẽ phải nhờ một sự kì diệu nào đó, một ngày họ sẽ nhận ra thì đó là hạnh phúc của họ, và đó chính là sự giác ngộ.
 

"Thực tập để sống sâu sắc giây phút hiện tại" – cách để hoàn thiện nhân cách!

Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Nhưng thực tế không chỉ chuyện thống nhất lòng người, mà trong ứng xử hàng ngày hiện nay thì kể cả với những người theo đạo Phật, các bạn trẻ cũng như người lớn tuổi, tính ăn gian nói dối, chiếm dụng của công, đố kị tị hiềm, chụp giật "bốc ngắn cắn dài" không nghĩ đến ngày mai… vẫn rất phổ biến trong xã hội? Như vấn nạn giao thông, còn nhiều người đi đường lạng lách, không lo lắng an toàn cho người khác. Phải chăng đạo Phật bất lực trong việc này?
 

Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Những người ngoại quốc tới VN nghĩ rằng lâu nay trong chiến tranh người VN không được sống, nên nay có hòa bình thì họ sống hối hả, lái xe như điên. Cái đó chỉ đúng một phần thôi. Tôi nghĩ cách sống này là do cách suy nghĩ, quan niệm của chúng ta. Tuệ giác của đạo Phật là mình có thể sống an lạc và hạnh phúc trong giây phút hiện tại (hiện pháp lạc trú: Living happily in the present moment). Đó là giáo lý căn bản của đạo Phật. Chẳng hạn, khi đi từ đây ra bãi đậu xe, mục đích là lấy xe để đi, nhưng không ai cấm mình đi từ đây ra bãi đậu xe bằng những bước chân thảnh thơi, an lạc hạnh phúc, chứ không phải chỉ khi lái xe mới an lạc hạnh phúc. Nếu đi từ đây ra xe mà không an lạc hạnh phúc thì nắm vô lăng cũng không thể an lạc hạnh phúc được. Vấn đề là phải thực tập.

Làm thức ăn sáng cho gia đình thì trong khi đun nước, nướng bánh mỳ có thể vừa theo dõi hơi thở, mỉm cười, thực tập thư giãn. Ngồi xuống bàn thì dành môt phút nhìn nhau mỉm cười, để biết mình còn nhau, có ngay hạnh phúc trong giây phút hiện tại. Nếu ông cầm tờ Wall Street Journal để xem giá cổ phiếu lên hay xuống thì thay vì nhìn thấy vợ con, ông lại phóng tâm vào tương lai.

Nếu các thầy và sư cô đem ra giảng dạy, luyện tập cho người ta sống trong giây phút hiện tại, thì sự hối hả, đi tìm hạnh phúc trong tương lai kia sẽ giảm bớt. Vì biết tìm hạnh phúc trong hiện tại thì không cần bươn chải để đến tương lai. Hiện tại rất đẹp, quá khứ đã đi qua, tương lai thì chưa tới. Mình chỉ có giây phút thực sự sống là hiện tại, nếu sống sâu sắc mình có thể tiếp nhận trời xanh, mây trắng, chim hót, thông reo, hoa nở… những nhiệm màu của sự sống. Ly nước trong là nhiệm màu, mình có thể an trú trong hiện tại để tiếp xúc với ly nước không? Hay khi uống ly nước mà nghĩ tới dự án tương lai. Hiện pháp lạc trú là một nghệ thuật sống có hạnh phúc. Nếu hạnh phúc trong hiện tại thì chắc chắn tương lai sẽ hạnh phúc, còn nếu không có hạnh phúc trong hiện tại thì tương lai cũng không thể có hạnh phúc. Nếu lo rửa bát cho mau để cầm ly trà cho hạnh phúc, thì khi cầm ly trà cũng lại hối hả đến tương lai mà bỏ quên mất ly trà. Vấn đề là thực tập để sống sâu sắc giây phút hiện tại. Ta có đạo Phật mà không dùng đuợc tuệ giác của đạo Phật, nghĩa là đạo Phật của ta chưa thành công.

Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Mọi người vẫn đang thắc mắc, làm sao từ những khát vọng, lý tưởng của đạo Phật trở thành máu thịt, thành cuộc sống hiện tại của từng con người. Nếu trong 85 triệu dân Việt Nam mà có 80%, tức là hơn sáu mươi triệu dân làm được thì đất nước cũng hạnh phúc lắm rồi. Thiền sư có biện pháp cụ thể để điều đó thành hiện thực không?

Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Trong 30 năm, chúng tôi đã giúp cho vô số người Tây phương nắm được phương pháp thực tập để sống an lạc, hạnh phúc, hòa giải với nhau. Nếu phương pháp này đã thành công trong giới trẻ và giới trí thức ở Tây phương thì cũng sẽ thành công ở đây, trong giới trẻ và giới trí thức Việt Nam. Trong những lần về vừa qua, chúng tôi đã mở những khóa tu cho giới trẻ và giới trí thức, và thấy sự tiếp thu đạo Phật rất nồng nhiệt. Trước khi đi Hà Nội chúng tôi có khóa tu cho 4000 người trẻ tại tu viện Bát Nhã – Lâm Đồng. Chúng tôi cũng vừa kết thúc một khóa tu cho người trẻ Hà Nội tại chùa Bằng A. Người trẻ tuổi và trí thức tới rất đông, nét mặt rất rạng rỡ, rất hạnh phúc, bởi học được phương pháp buông thư, ái ngữ lắng nghe để tháo gỡ những khó khăn với người thân. Nghĩa là chúng tôi cũng đã thí nghiệm thành công trong đất nước. Nếu ở Việt Nam, giới xuất gia và giới tại gia biết lợi dụng phương pháp này thì vài ba năm đã có sự thay đổi lớn trong cách sống rồi.

Bạn đọc Tuấn Anh (TP.HCM): Xin thầy cho con hỏi phương pháp hiện tại lạc trú có phải là không nghĩ về quá khứ, cũng như không nghĩ tới tương lai? Nếu vậy thì làm thế nào để rút ra những bài học kinh nghiệm từ quá khứ, hay hoạch định kế hoạch cho tương lai? Còn nếu nghĩ về quá khứ hay tương lai thì có thể nào lạc trú trong hiện tại được không?

Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Hiện pháp Lạc trú tức là sống sâu sắc đời sống của mình trong mỗi phút giây. Nguyên tắc là đừng đánh mất mình trong sự tiếc thương hay hối hận về quá khứ, chứ không phải là không được học hỏi từ quá khứ. Mình có thể an trú trong hiện tại và coi quá khứ là đối tượng của sự nghiên cứu của mình. Trong khi mình thiết lập thân tâm trong hiện tại, mình đem quá khứ về hiện tại để học tập thì mình sẽ học hỏi được nhiều từ quá khứ.

Đối với tương lai cũng vậy, đừng đánh mất mình trong sự lo lắng và sợ hãi về tương lai. Còn mình có quyền thiết kế tương lai của mình chứ. Mình an trú trong hiện tại và mình đem tương lai về hiện tại để nghiên cứu và hoạch định.

Nói cách khác, sống sâu sắc trong hiện tại thì đồng thời mình cũng tiếp xúc được quá khứ, còn tương lai cũng nằm trong hiện tại. Mình cần biết xử lý hiện tại với tất cả khả năng của mình, thì có nghĩa là mình đang làm tất cả những gì mình có thể làm cho tương lai rồi.

Lo lắng và sợ hãi tương lai chỉ làm hư tương lai của mình, còn tiếc nuối và mặc cảm về quá khứ sẽ biến quá khứ thành nhà tù và mình không có khả năng sống trong hiện tại nữa. Đó là sự đáng tiếc!

 

Không phải ai đi tu cũng thành công

Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Nhiều người trẻ cũng như trí thức suy ngẫm, tự tâm niệm, cảm nhận đạo Phật và hướng theo với sự tự giác, sâu sắc. Nhưng có người nhìn vào đội ngũ tu hành và thấy những người tu theo giáo lý Phật giáo mà không hành động, sống được như vậy, nên họ thất vọng và không tin. Phải làm thế nào để giải quyết được chuyện đó. Chẳng hạn có nhiều tình trạng giữa các nhà sư đố kỵ hiềm tị lẫn nhau, thượng tọa này nói xấu hòa thượng kia. Rồi chuyện phân bổ về chùa nọ chùa kia, ở bên ngoài có chạy chức chạy quyền thì trong những người tu hành lại có chạy chùa. Làm sao phải để người dân cảm nhận sự mực thước, trong sáng trong đạo Phật?

Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Đi tu cũng có thể thành công hay thất bại. Nếu gặp thầy giỏi, đoàn thể tu tập giỏi thì có cơ hội thành công dễ dàng hơn. Nếu không gặp được minh sư thì thất bại như một người tu. Khi mình xuất gia, mình không sống đúng theo luật nghi thì cũng thất bại. Ở đạo tràng Mai thôn có tới 3, 400 người, nhưng chúng tôi thực tập không ai có xe hơi riêng, điện thoại riêng, không có chương mục ngân hàng riêng, bởi đi tu là không có của riêng nữa. Một người ra đường, dù đi dạy hay đi tổ chức khóa tu, kể cả khi lên mạng thì có người khác đi theo. Chúng tôi thực tập như vậy nên được an ninh rất nhiều.

Những người Phật tử thấy một thầy ra thuê nhà ở riêng thì phải biết rằng họ làm sai với giới luật của đạo Phật. Nếu mình để họ như vậy và yểm trợ, rồi tìm tới với họ không phải để học hỏi giáo lý, để tu tập mà để có một sự thỏa mãn về tình cảm là hại cho người xuất gia đó. Bên phía xuất gia thất bại vì không hướng dẫn được cho cá nhân người tu sĩ đó. Bên cư sĩ lại không biết nên đã yểm trợ và dung túng cho hành vi không đúng của người tu sĩ, khiến họ có thể có lỗi lầm, có thể lạm dụng tình dục một người cư sĩ. Người tu sĩ trở thành nạn nhân của sự không thực tập, lỗi một phần ở tăng đoàn, một phần ở người cư sĩ không biết để giúp ngăn ngừa. Đạo Phật là đạo thực tập vô ngã, không có cái ta riêng biệt, người kia cũng là mình. Như bàn tay trái bàn tay phải có tinh thần vô ngã, bàn tay phải không bao giờ nói bàn tay trái vô tích sự không làm được gì hết. Mỗi khi bàn tay trái bị thương thì bàn tay phải chăm sóc như chăm sóc chính bản thân mình. Hai bàn tay có tuệ giác vô ngã, tuy hai mà một, không có kỳ thị.

Người Phật tử mà nắm được tuệ giác vô ngã thì không thấy cha với con là hai người riêng biệt, mà hiểu trong cha có con, trong con có cha, con là sự tiếp nối của cha. Nếu cha đau khổ thì con đau khổ, con hạnh phúc thì cha hạnh phúc, thấy được đau khổ của cha là đau khổ của chính mình, hạnh phúc của con là hạnh phúc của chính mình. Người tu chứng thực được vô ngã thì sẽ không nói xấu những người khác, không cho mình là nhất. Thấy một vị xuất gia, thượng tọa, hòa thượng mà dương dương tự đắc thì thấy tội nghiệp cho họ vì đã tu bao nhiêu năm mà chưa chứng được tuệ giác vô ngã. Điều này áp dụng cho giới xuất gia cũng như tại gia. Vấn đề là làm thế nào để có được minh sư, mở được những môi trường để người tu tập có thể thành công. Vì ý chí muốn tu học là chuyện khác, thành công là chuyện khác. Ý chí không thì không đủ.
 

Thực tập yêu thương, hạnh phúc, an lạc để thành chân tăng

Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Từ ý chí đến kết quả còn khoảng cách. Làm sao để những điều hay và giá trị tinh thần cao quý đó phải được lan tỏa vào mỗi con người, chứ hiện nay tỉ lệ thành công chưa cao? Nhiều người đến chùa không phải vì nhu cầu tâm linh thiêng liêng mà chủ yếu vì… mê tín. Họ cầu may để xin thành công trong làm ăn, đôi khi cả làm ăn bất chính.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Nhiều người nghĩ Phật và các vị Bồ Tát là thần linh, nếu mình đến cầu nguyện và "đút lót", cúng cho vị Bồ Tát này mấy chục ngàn đồng, cúng cho vị Bồ Tát kia mấy chục ngàn đồng là mình về sẽ không bị tai nạn hay gặp tai hoạ nào trong cuộc sống nữa. Hiểu như vậy là hiểu lầm về đạo Phật. Nhưng sở dĩ họ hiểu lầm như vậy, một phần cũng là do các thầy, các sư cô và các vị cư sĩ đứng ở cương vị lãnh đạo, nên mình cũng không thể trách cứ những người dân thường được.

Nhiều người lại nghĩ nhầm rằng khi gặp thất bại trong cuộc đời rồi thì mới xuất gia. Ngày xưa, đức SIDDHARTHA xuất gia là bởi muốn tìm tình yêu thương lớn dành cho muôn người, muôn loài. Hay vua Trần Nhân Tông, một vị vua rất yêu nước yêu dân cũng xuất gia, và khi xuất gia rồi vẫn phục vụ cho nước cho dân. Vậy mà có những gia đình thấy con xin đi xuất gia thì cảm giác như đó là một nỗi nhục nhã. Quan niệm thất bại rồi mới đi xuất gia là một quan niệm rất sai lầm.

Quan niệm đó từ đâu tới? Đó là bởi đã có những thời điểm trong lịch sử mình cho chuyện đi tu là duy tâm, mê tín, tư duy không lành mạnh. Chúng ta cũng có một phần trách nhiệm trong sự tư duy như vậy. Tôi nghĩ rằng muốn thay đổi suy nghĩ này thì phải thiết lập những tăng thân – những đoàn thể tu học đúng mức mà trong đó, đạo Phật được thực tập như một nghệ thuật sống, mỗi người thực tập trong tăng thân đều được an lạc, hạnh phúc, được thương yêu. Khi có được những tăng thân như thế ở cả 3 miền để những người quan tâm có thể tới tiếp cận để trực tiếp tiếp xúc và thấy được đạo Phật thật sự mà họ cần phải hướng tới là đạo Phật hiện đại, phù hợp với tuổi trẻ và đời sống mới. Trong đạo Phật, sau khi qui y Phật, qui y Pháp thì còn cần qui y Tăng nữa. Tăng ở đây có nghĩa là "community" – là đoàn thể trong đó có người xuất gia – xuất gia tăng, có người tại gia – tại gia tăng. Khi mình tới với nhau để tu học mà thành công được thì hạnh phúc đạt được rất lớn, Tăng trở thành chỗ nương tựa cho nhiều người.

Quy y Tăng không phải là đặt niềm tin vào một cái gì đó mơ hồ mà Tăng là đoàn thể đang thực tập hạnh phúc, có tha thứ, có vô ngã, có vô thường. Trong Tăng có Phật và có Pháp. Còn Tăng mà có sự ganh tỵ, chỉ có hình thức bên ngoài như cúng lạy thôi mà không có hạnh phúc, không có tha thứ, không có sự tươi mát của tâm hồn và lắng nghe nhau thì đó không phải "chân Tăng", do đó không có Phật và không có Pháp ở đó.

Việc làm của chúng tôi bây giờ là thiết lập những tăng thân ở khắp nơi trên thế giới. Ở Tây phương, chúng tôi đã xây dựng được trên 1000 tăng thân, là nơi nương tựa của không biết bao nhiêu người. Ở mỗi thành phố lớn như London, New York, Los Angeles chúng tôi có trên 10 tăng thân như vậy. Tôi nghĩ, ở Hà Nội cũng nên có ít nhất 10 tăng thân, và mỗi tăng thân phải chứa đựng trong mình Phật-Pháp mang tính đời sống cụ thể hàng ngày. Xây dựng những tăng thân như vậy là công việc cao quí nhất của người Phật tử, tại vì đó là chỗ để con người tới để nương tựa, được che chở và bảo vệ.

 

"Doanh nghiệp Tăng, gia đình Tăng và… Quốc hội Tăng"?

Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Nói như vậy thì một tổ chức, một công ty có thể trở thành một tăng, một cộng đồng?

Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Doanh nghiệp mà thực tập theo Phật -Pháp thì thành doanh nghiệp Tăng. Một gia đình thực tập theo kiểu đó là gia đình Tăng. Khi tôi gặp ngài Chủ tịch Quốc hội Ấn Độ, chúng tôi có bàn luận làm sao để xây dựng quốc hội thành một đoàn thể mà ở đó mọi người lắng nghe nhau, vì trước đó tôi nghe có những buổi đàm luận rất bạo động, có khi một dân biểu nổi cáu đến mức cầm ghế phang một dân biểu khác.

Ở nước ngoài, một dân biểu thường thuộc một đảng và phải nói theo đường lối của đảng mình, nên mình không được hoàn toàn tự do nói kinh nghiệm sâu sắc của mình khi nói, nếu mình lại dùng ngôn từ nặng nề thì sẽ làm phía bên kia nổi giận lên, rồi chửi mắng lại. Như vậy thành ra không có ái ngữ, không có lắng nghe. Trong khi đó, dân biểu phải hiểu rằng dân chúng bầu mình lên là để lắng nghe và để chia sẻ kinh nghiệm, tuệ giác của mình, để làm ra những đạo luật cho tất cả mọi người được thừa hưởng.

Tôi đề nghị với ông Chủ tịch Quốc hội Ấn Độ rằng trước mỗi buổi họp Quốc hội thì nên đọc một bài quán niệm, nên thực hành một bài thiền, đọc một đoạn văn về bổn phận của người dân biểu là những người được dân chúng bầu lên, chúng ta có bổn phận phải lắng nghe nhau, học hỏi từ nhau để có thể đi tới những quyết định đúng đắn nhất, mang lại hạnh phúc cho nhân dân và đất nước. Do đó, trong phiên họp này, mọi người phải lắng nghe nhau, sử dụng ngôn từ hòa ái, đừng tức giận, đừng buộc tội, đừng chua chát, đừng lên án nhau. Ông Chủ tịch của buổi họp có một cái chuông, để khi thấy không khí của buổi họp căng thẳng, nóng bỏng, tranh chấp thì ông có thể thỉnh một tiếng chuông cho mọi người thở vào thở ra, khi nào lắng xuống thì mới tiếp tục phát biểu.

Chủ tịch Quốc hội Ấn Độ rất thích thú với đề nghị này, và 10 ngày sau đã cho xây dựng "Ủy ban Đạo đức" để lo lắng cho Quốc hội. Ngài có mời tôi trở về để nói chuyện với toàn Quốc hội về ái ngữ và lắng nghe, nhưng tôi đã không có cơ hội trở lại. Sau này, ngài Chủ tịch Quốc hội đã trở thành Tổng thống của Ấn Độ.

Một quốc hội cũng có thể trở thành một quốc hội tăng, trong đó mọi người lắng nghe nhau, hiểu nhau và như vậy có lợi cho đất nước.
 

Súng bom không bao giờ lấy đi được những tri giác sai lầm

Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Thế quốc hội Mỹ đã trở thành một quốc hội tăng chưa, thưa thiền sư?

Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Chưa, và còn lâu lắm. Chúng tôi cũng mong muốn Liên hợp quốc sẽ trở thành Liên hợp quốc tăng vì khi đó mọi lời nói, việc làm sẽ vì lợi ích chung của toàn thế giới. Tôi nghĩ Liên minh châu Âu là một sự thành công lớn vì nước nào cũng hy sinh bớt quyền lợi quốc gia để cho một Âu châu chung. Nghĩa là, họ đã thực tập đạo Phật mà họ không biết.

Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Nhưng phải chăng vì sự hy sinh quyền lợi quốc gia như vậy, mà ngày nay vị thế của Liên minh Châu Âu trên thế giới bị kém đi, mỗi nước châu Âu sẽ vì thế mà bị thiệt hại hơn. Thiền sư nghĩ sao về điều này?

Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Tôi không nghĩ như vậy. Bởi nếu từng quốc gia châu Âu riêng lẻ sẽ không đủ mạnh để là đối trọng với Hoa Kỳ.

Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Thưa thiền sư, Phật-Pháp dạy rằng các đệ tử của nhà Phật thì phải yêu thương lẫn nhau. Vậy mà vẫn có những đất nước, dân tộc cùng theo đạo Phật nhưng vì lợi ích dân tộc, lợi ích quốc gia xung đột, nên vẫn tồn tại tình trạng nước này ăn hiếp nước khác. Việt Nam ta cũng là một đất nước đi theo đạo Phật mà có khi vẫn bị ăn hiếp bởi một nước khác cũng theo đạo Phật, và họ vẫn chưa thực sự yêu thương, trải lòng với ta? Có cách nào để Phật-Pháp đi vào lòng mỗi người, mỗi dân tộc để mỗi quốc gia sẽ yêu thương, trân trọng và đối xử hữu nghị với các quốc gia khác, để thế giới này không còn cảnh hận thù, chiến tranh?

Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Nếu họ nói họ theo đạo Phật mà họ lại biến mình thành thế lực xâm lăng, có chủ trương xâm chiếm đất đai của người khác thì họ chỉ có đạo Phật trong danh từ, trong hình thức thôi. Do vậy, mình có thể nói thẳng với họ điều này, và hỏi thẳng họ rằng: "Từ bi của ông ở đâu? Tình huynh đệ của ông ở đâu? Tại sao ông lại đi xâm chiếm một nước khác? Đó có phải là chủ trương hoà bình của đức Thế Tôn hay không?"

Các Phật tử trên thế giới đã cố gắng lập ra "World Fellowship of Buddhiste" – Liên minh Phật tử thế giới để điều hợp các hành động tu tập trên thế giới này. Tôi thấy rõ rằng đạo Phật có nhiều cách để đi vào mọi lĩnh vực của sự sống, rằng sự thực tập lắng nghe và ái ngữ có thể áp dụng trong bất cứ trường hợp nào để tạo ra sự hòa giải.

Như cuộc chiến tranh Iraq chẳng hạn. Nguyên nhân căn bản của nó là sự hiểu lầm và những tri giác sai lầm, dẫn đến sự sợ hãi và oán thù, vì thế mà phải loại trừ nhau, để đạt được an ninh. Nếu mình nghĩ rằng người kia đang muốn giết mình, thì mình sợ, mà bản thân mình không muốn bị giết, do đó mình phải giết người ta trước khi người đó giết mình. Cái đó là tình trạng hiện nay ở Iraq.

Cái sợ hãi do tri giác sai lầm mà ra. Hoa Kỳ có những tri giác sai lầm về mình và người Ả rập. Người Ả Rập cũng có những tri giác sai lầm về mình và về Hoa Kỳ. Do đó chiến tranh xảy ra dựa trên những tri giác sai lầm của cả hai phía. Tri giác sai lầm luôn luôn mang đến nghi ngờ, sợ hãi và bạo động. Ta biết rất rõ trong ánh sáng của đạo Phật, muốn cho đừng có những nghi ngờ, bạo động, sợ hãi đó thì phải lấy những tri giác sai lầm ra, bằng cách đối thoại và lắng nghe nhau, phải nói với nhau những lời mà người kia có thể hiểu được. Còn súng, bom… không bao giờ lấy đi được những tri giác sai lầm cả.

Thành ra, càng đánh dẹp khủng bố bao nhiêu thì càng tạo nên những người khủng bố bấy nhiêu. Thực tế đã cho thấy, bao nhiêu năm tiêu diệt khủng bố mà có bớt người khủng bố đi đâu? Tại vì, họ không hiểu rằng phương pháp để tiêu diệt khủng bố chính là lấy ra những sợ hãi, căm thù, bạo lực, bằng tình người và bằng sự lắng nghe nhau. Phải có những buổi gặp gỡ, để lắng nghe những sợ hãi, khổ đau của nhau. Rồi từ đó, có cơ hội nói cho bên kia hiểu chúng tôi không có chủ đích muốn tiêu diệt các vị như một tôn giáo, một nền văn minh, một lối sống. Quý vị đã hiểu lầm. Chúng tôi đã nói, đã làm gì gây ra cho quí vị cảm tưởng đó thì chúng tôi xin lỗi. Chúng tôi sẽ không nói, không làm như vậy nữa. Đó là phương pháp duy nhất để mang lại hòa bình và là phương pháp thuần tuý từ đạo Phật mà đi ra.

Khi nói chuyện với những doanh nhân, nhà chính trị,… ở Hoa Kỳ, chúng tôi cũng chỉ nói như vậy thôi. Chúng tôi đã từng bảo trợ cho những gia đình người Palestine, Do Thái tới Làng Mai để tu học. Ban đầu, họ nhìn nhau không được vì rất nghi kị và sợ hãi nhau. Nhưng sau những tuần lễ thực tập để buông thư, ôm ấp, nhận diện những sợ hãi đó và mọi người thực tập lắng nghe, mục đích là để hai bên nói được hết những khổ đau, sợ hãi, lo lắng của họ mà không bị cắt lời. Sau vài 3 buổi thì hai bên sẽ hiểu rằng: "À, hoá ra bên kia cũng giống hệt bên mình, cũng có những sợ hãi, khổ đau, lo lắng như vậy…", và họ có thể bắt đầu nhìn bên kia bằng con mắt cảm thông, nhận ra những tri giác sai lầm tồn tại, để từ từ gửi những thông tin để giúp cho bên kia tháo gỡ, điều chỉnh lại những tri giác sai lầm. Và họ ngồi ăn cơm, nắm tay nhau đi thực tập được.

Khi trở về Trung Đông, họ đã thực tập, họ lập ra những tăng thân để cho những người khác tới cho bớt khổ. Chúng tôi đã làm được điều đó. Chứng tỏ rằng, mối quan hệ giữa 2 quốc gia Palestine và Israel cũng có thể cải thiện. Tương tự, mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Iraq cũng có thể thay đổi được nếu áp dụng phương pháp này của đạo Phật.
 

"Tôi nghĩ, TT Bush là một trong những người đau khổ nhất trên thế giới"

Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Thiền sư nghĩ thế nào về trường hợp của tổng thống Bush ở Hoa Kỳ? Liệu ông Bush có thể thực tập theo phương pháp của nhà Phật thành công được không?

Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Tôi nghĩ, Tổng thống Bush xuất thân từ bối cảnh tôn giáo bảo thủ, và lực lượng của TT Bush là một lực lượng bảo thủ. Những người bảo thủ đứng sau TT Bush, và những người cố vấn, cộng sự của TT Bush cũng đại diện cho quyền lợi của những người đó thành ra rất khó. Tôi đã từng viết thư cho TT Bush nhưng không lọt đến tay ông được. Tôi nghĩ, TT Bush là một trong những người đau khổ nhất trên thế giới. Ông ta không ngủ ngon được, sẽ bị trăn trở hàng đêm. Làm sao ngủ ngon được khi biết rằng con em của mình mỗi ngày đều bị chết ở Iraq. Những người Iraq và những người Mỹ chết mỗi ngày một nhiều, hận thù ngày một nhiều và ông ta sa lầy trong chiến tranh Iraq. Nuốt cũng không vào mà khạc ra cũng không được.

Nhiều người nghĩ rằng ở cương vị của TT Hoa Kỳ, hẳn ông Bush sẽ có rất nhiều quyền lực. Nhưng tôi thấy TT Hoa Kỳ là một người rất bất lực, với quyền năng đó, quân đội đó, với nền kinh tế đó mà không thể làm được gì để giải quyết những vấn đề như vấn đề Iraq. Quyền năng trên thế gian không đủ đưa lại hạnh phúc. Phải có quyền năng tâm linh, nghĩa là khả năng hiểu và khả năng thương, mà những điều này thì TT Bush không có đủ.

Tôi nghĩ, nếu ứng cử viên Obama mà lên được TT Mỹ thì khả năng không kỳ thị ở nước Mỹ là rất lớn. Nó chứng tỏ nước Mỹ không kỳ thị người da đen, không kỳ thị người trẻ. Do đó, nó thể hiện một hình ảnh mới của Hoa Kỳ.

Với ông Obama, những người trí thức, những người tiến bộ có một cơ hội để có thể mong muốn lý tưởng công bằng xã hội, lý tưởng đổi mới, không kỳ thị được thực hiện trong xã hội Hoa Kỳ.

Bạn đọc Phan Dũng (Hà Nội): Làm thế nào để tĩnh tâm, giữ bình yên thanh thản trong nền kinh tế hiện tại khi mà cái tham lam dục vọng của con người ngày càng nhiều? Trong cuộc sống hiện đại, nhiều khi con người muốn sống thiện cũng rất khó vì sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Vậy thiền sư hãy chỉ cho tôi cách nào để tránh những cái ác, cái tà tâm mà vẫn có thể phát triển bản thân và góp phần phát triển xã hội?"

Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Tôi nghĩ rằng mình không cần đua đòi, đừng nghĩ phải có tiện nghi như mọi người khác trong xã hội thì mới có hạnh phúc. Chúng tôi là những người xuất gia, chúng tôi sống trong cộng đồng 300 – 400 người, sống rất đơn giản. Không ai có xe riêng, không ai có điện thoại riêng, không ai có tài khoản ngân hàng riêng, chúng tôi tiêu thụ rất ít nhưng hạnh phúc chúng tôi có rất lớn. Chúng tôi có rất nhiều tình huynh đệ và trong cuộc sống chúng tôi giúp được rất nhiều người.

Điều đó chứng tỏ rằng không phải mình phải có rất nhiều tiền bạc, quyền hành, bằng cấp thì mới có hạnh phúc. Nếu mình thấy được con đường như vậy thì mình không sợ hãi nữa. Mình thấy rằng mình có khả năng sống đơn giản và hạnh phúc. Đó chính là con đường sống hạnh phúc của chúng ta, của không chỉ người Việt Nam mà còn của nhiều người trên thế giới.

Ở tu viện Lộc Uyển, chúng tôi không dùng điện nữa. Trong một cộng đồng mấy trăm người, chúng tôi chỉ dùng năng lượng mặt trời thôi cũng đủ sống. Chúng tôi không dùng xăng, mà dùng dầu ăn người ta thải ra để chạy xe hơi của chúng tôi. Chúng tôi không ăn thịt, không ăn cá, không uống bia, không dùng các sản phẩm sữa, pho-mát, bơ… Vậy mà chúng tôi rất mạnh khoẻ. Chúng tôi rất hài lòng vì sống như thế là cách góp phần để trái đất có một tương lai.

 

Đừng lo lắng thái quá về lạm phát

Bạn đọc Lê Đình Thuận (Thanh Hoá): Về Việt Nam lần này, Thiền sư thấy đất nước có những sự thay đổi nào? Việt Nam đang phải đối mặt với những khó khăn như lạm phát, thiền sư có suy nghĩ về giải pháp nào không?

Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Lần này, về Việt Nam, chúng tôi có tiếp xúc với rất nhiều bạn trẻ và các phật tử, thì tôi thấy có những đau khổ mới, bức xúc mới. Cùng với sự phát triển kinh tế thì các tệ nạn xã hội tăng thêm mà luật pháp không đủ để khống chế. Bên cạnh luật pháp, cần phải có đạo đức xã hội. Phải làm sao để đưa đạo đức vào từng gia đình, phải đưa sự thực tập vào từng gia đình để giảm thiểu những tệ nạn xã hội đó.

Khi 400 người thanh niên, phật tử quì xuống để tiếp nhận 5 giới ở tu viện Bảo Lộc và 300 thanh niên quì xuống để tiếp nhận 5 giới ở tu viện Bằng A, chúng tôi biết rằng những người này có một con đường. Đó là con đường của yêu thương, của sự thực tập để bảo hộ mình và gia đình mình khỏi rơi vào những tệ nạn xã hội như ma tuý, cờ bạc, tà dâm…

Về chuyện lạm phát, tôi có kiến giải thế này. Chúng ta phải đối diện với sự sợ hãi, lo lắng của chúng ta. Nếu chúng ta biết chấp nhận nhau, yêu thương nhau, lá lành đùm lá rách, đừng lợi dụng để làm giàu riêng, đừng đầu cơ thì chúng ta có đủ khả năng để đi qua được cuộc khủng hoảng kinh tế này.

Do vậy, lạm phát nhiều hay ít, có đi qua được lạm phát hay không phụ thuộc rất nhiều vào cách suy nghĩ của chúng ta chứ không chỉ vào yếu tố kinh tế khách quan. Sự lên xuống của đồng đôla phụ thuộc phần nhiều vào sự lo lắng của chúng ta mà thôi. Thành thử ra, đừng lo lắng quá, đừng làm cho tình trạng nguy ngập thêm vì sự lo lắng sợ hãi của chính chúng ta. Đó chính là điều chúng tôi muốn nói.
 

Mỗi người là một phần của sự nghiệp lớn của dân tộc

Bạn Nguyễn Tuấn Anh: …Câu hỏi ở đây là ý chí của dân tộc, hồn thiêng của sông núi, vận mệnh của Tổ quốc, của dân tộc Việt Nam, theo Thiền sư có MỘT lần nữa sẽ lại tích tụ, lại sinh ra một cá nhân kiệt xuất, một người con dân đất Việt với TÂM HỒN TRONG SÁNG NHƯ PHA LÊ và có một TRÍ TUỆ PHI THƯỜNG, như một lãnh tụ tinh thần dẫn dắt dân tộc Việt Nam vươn lên một cách thần kỳ, ngoạn mục?

Trong thâm tâm của mình, đã có lúc nào Thiền sư nghĩ đến điều kỳ diệu đó chưa? Tại Việt Nam đã có hay chưa NGƯỜI đó, trong dịp này Thiền sư có nghĩ rằng, có mong rằng mình có NHÂN DUYÊN gặp NGƯỜI đó không? Nếu gặp, Thiền sư sẽ đàm đạo với NGƯỜI đó về những vấn đề gì? Là một nhà tu hành, Thiền sư quan niệm như thế nào về sự kỳ diệu nói chung và sự kỳ diệu trong nền kinh tế tri thức, kỷ nguyên của Internet và Công nghệ thông tin nói riêng? Thành tâm cảm tạ thiền sư.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Tôi có ý thức rằng dân số VN giờ này đông hơn dân số Pháp, và đều rất trẻ. Khi về VN, tiếp xúc với người trẻ nào tôi cũng nhìn bằng con mắt đặc biệt: "Người trẻ này có thể là người đặc biệt đó". Tuổi trẻ bây giờ rất thông minh, và bất cứ người trẻ nào cũng có thể trở thành một vĩ nhân được.

Và tôi muốn trao truyền cho mỗi người trẻ toàn bộ những kinh nghiệm mà mình có, để họ trở thành tương lai của đất nước. Tôi rất lạc quan, vì gia tài tâm linh của mình rất lớn. Tôi không nghĩ nhiều đến chủ nghĩa anh hùng cá nhân. Chúng ta thành tựu được một sự nghiệp không phải do 1 người mà do nhiều người hợp sức. Một vị lãnh tụ không phải tự nhiên xuất hiện mà do khí thiêng của sông núi, do những người phụ tá hỗ trợ.

Như lúc nãy tôi nói, ông Bush không phải chỉ là cá nhân ông ta, mà muốn hiểu ông ta thì phải hiểu hoàn cảnh của ông ấy, bạn bè, phụ tá của ông ấy.

Ở Việt Nam cũng vậy, phải nhìn vào quá khứ dân tộc Việt Nam, nhìn vào những người cộng sự thì mới thấy được cụ Hồ. Thành ra tôi không để ý quá đến anh hùng cá nhân.

Khoa học thần kinh não bộ đã khám phá ra rằng, không có tế bào nào là tế bào làm lãnh tụ hết. Tất cả các tế bào đều hoạt động trong một bản "đại hoà tấu" và không có nhạc trưởng. Khi tới với nhau thì tự nhiên có những cảm xúc, tư duy và vì vậy khoa học đã chứng tỏ được tuệ giác vô ngã trong đạo Phật.

Đây là một cái nhìn của đạo Phật về đất nước. Mỗi người trong chúng ta đều có tài năng, phần đóng góp của mình. Và khi chúng ta tới với nhau được bằng tình huynh đệ, bằng tinh thần đồng bộ thì ta làm ra việc lớn thôi. Tôi không nghĩ đến cảnh một người hướng dẫn tất cả mọi người đi theo, mà mỗi người cũng là một phần của sự nghiệp lớn. Tôi nghĩ rằng tư duy này nó đúng với khoa học hơn, đúng với tinh thần Phật giáo hơn.

 

"Nhà báo đang thực hành Phật-Pháp như một người chân tu"

Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Thiền sư có chia sẻ gì với những nhà báo về tinh thần Phật giáo?

Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Chúng tôi tiếp xúc rất nhiều với các nhà báo, những người làm phim và làm phóng sự. Chúng tôi không muốn chỉ cung cấp thông tin cho họ, vì cung cấp thông tin không thì không đủ. Do đó chúng tôi cố gắng thiết lập mối liên hệ tình người với họ. Nếu các vị có khả năng lắng nghe, nhìn được bằng con mắt của từ bi, tha thứ, thương yêu thì quí vị có thể viết một bài phóng sự sâu sắc. Người đọc của quí vị cũng sẽ có cơ hội tưới tẩm hạt giống thương yêu, tha thứ, hiểu biết, chấp nhận. Còn nếu quí vị viết trên căn bản sợ hãi, hận thù thì bạn đọc cũng sẽ cảm nhận được điều đó.

Do vậy, mỗi nhà báo đều có thể hành nghề ký giả như một vị Bồ Tát, mang yêu thương, hạnh phúc cho độc giả bằng cách tường thuật những gì đã nghe và đã thấy. Nhà báo cần phải được bình an trong trái tim, nhà báo phải có khả năng nhìn cho thật kỹ, lắng nghe cho thật rõ để hiểu nguồn cơn tại sao sự việc ấy lại xảy ra như thế này, hay như thế khác. Như vậy, nhà báo đang thực hành Phật-Pháp như một người chân tu.

Trong con người chúng ta có một chiến sĩ, một nghệ sĩ và một tu sĩ. Và nếu chúng ta để cho cả 3 con người đó hoạt động cùng lúc với nhau thì chúng ta sẽ trở nên hạnh phúc. Nhà chiến sĩ muốn thành công, nhà nghệ sĩ phải làm thế nào cho đẹp và người tu sĩ phải tham dự vào đời sống để có khả năng tháo gỡ những đau khổ, khó khăn. Nhà báo sẽ thành công nếu để cho nhà chiến sĩ, nghệ sĩ, chân tu có cơ hội đóng góp vào sự nghiệp của mình.
 

Những ai sẽ tiếp nối trọng trách của thiền sư Thích Nhất Hạnh?

Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Thiền sư là một người có uy tín, có ảnh hưởng ở trong nước và quốc tế, đã truyền bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới. Chúng tôi mong sẽ có những người tiếp nối trọng trách này của thiền sư. Vậy trong những hậu duệ thì thiền sư trông đợi vào những ai?

Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Tôi may mắn có nhiều học trò xuất gia và tại gia mà tôi rất tin tưởng. Những năm gần đây thì học trò của tôi đã được gửi đi khắp nơi trên thế giới để tổ chức những khoá tu. Và họ đã chứng tỏ được họ có thể độ đời và giúp đời rất nhiều. Cho nên tôi rất an tâm. Nếu tối nay tôi phải thở hơi thở cuối cùng thì tôi cũng không tiếc nuối gì, bởi tôi nghĩ mình được tiếp nối xứng đáng. Tôi nghĩ rằng bố mẹ nào cũng có tâm trạng đó, thầy giáo, cô gíáo nào cũng có tâm trạng đó. Để tâm đến thế hệ tương lai, trao truyền cho thế hệ tương lai những gì quí nhất của mình là sứ mệnh rất quan trọng. Mai mốt, mình cũng phải từ giã cõi đời này thôi. Nên nếu mình bận rộn quá mà không trao truyền được cho con cháu mình và học trò, đệ tử của mình những gì quí giá thì tức là mình chưa làm tròn bổn phận của một người con, một công dân.

Tôi xin khuyên các vị làm cha mẹ, làm thầy bớt bận rộn lại để có thì giờ ngồi với các con, cháu của mình, học trò của mình mà dùng ngôn từ thương yêu, ái ngữ, trao truyền tất cả những thương yêu, kinh nghiệm sống cho họ. Khi đó, mình có thể rời bỏ cuộc đời này không luyến tiếc.
 

Tìm hạnh phúc cho dân, cho nước từ văn hoá tâm linh?

Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Thưa thiền sư, thiền sư có suy nghĩ gì về tương lai của đất nước Việt Nam ta, ít nhất là trong 10 năm tới?

Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Tôi nghĩ, chúng ta phải tận dụng nền văn minh tinh thần của chúng ta mà đừng quá tin tưởng vào xã hội tiêu thụ Tây phương. Người Tây phương bây giờ khổ lắm, nhiều người tiền bạc rất nhiều, quyền lực rất lớn nhưng lại cực kỳ cô đơn, và phải tự tử. Chúng ta đừng theo dấu xe đổ của họ. Đừng tin rằng ta chỉ hạnh phúc nếu có tiền bạc, quyền lực…

Chúng ta chỉ hạnh phúc khi có an trong lòng, có tình yêu và tình thương. Nếu chúng ta có thể an lạc trong từng giây phút của hiện tại thì chúng ta mới có thể có hạnh phúc. Vì vậy, chúng ta hãy trở lại kho tàng tuệ giác, văn minh của chúng ta đã có mà làm hạnh phúc cho dân, cho nước.

Một điều rất rõ là trong 30, 40 năm vừa qua, chúng tôi đã sử dụng kho tàng tuệ giác đó của dân tộc Việt Nam để mang lại hạnh phúc cho biết bao người Tây phương. Tại sao họ có được hạnh phúc nhờ nó mà chúng ta thì không? Mình là chủ nhân của nền văn hoá tâm linh đó mà không khai thác được thì rất lãng phí. Chúng ta phải tu tập, học hỏi.

Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Giá trị tâm linh đó có phải là một trong những giá trị đặc sắc của Việt Nam đóng góp với kho tàng văn minh nhân loại không?

Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Đúng như vậy. Chúng tôi đã truyền bá văn hoá đó, nếp sống, văn minh tinh thần đó trên thế giới. Mỗi khi người ta tu tập, nghe đến truyền thống đó, đọc sách đó thì ai cũng biết gốc của nó là từ Việt Nam.

Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Bạn đọc Phan Công Tuấn gửi đến VietNamNet kèm một đề xuất rất dài về vấn đề: Tệ nạn giao thông đang là một vấn đề lớn của người Việt Nam hiện nay. Đề nghị thiền sư tổ chức những khoá tu tập để giúp cho người Việt Nam có ý thức hơn trong việc tham gia giao thông, Trong 2 tháng ở VN, thiền sư có kế hoạch gì cho việc này không?

Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Chúng tôi có thể đề nghị một vài ý tưởng cụ thể thế này: Người nào muốn có bằng lái thì phải qua một khoá tu 7 ngày, học về chánh niệm trong khi lái xe, học về phương pháp theo dõi hơi thở khi muốn lái xe hay muốn vượt một xe khác. Và cứ 6 tháng thì phải về tu tập 3 ngày trong một khoá tu như vậy để được nhắc nhở. Bộ Giao thông nên làm việc này, có những thầy, những sư cô sẽ tình nguyện giảng dạy không lấy tiền. Đó là một trong những điều chúng tôi có thể đề nghị được.

Cố nhiên những người bị say không nên lái xe, do vậy thực tập 5 giới giúp mình trở thành người lái xe lý tưởng. Vấn đề là phải tổ chức sao để mọi người được nhắc nhở thường xuyên, và nếu không đi theo những lớp tu nghiệp như vậy thì không có quyền sử dụng bằng lái xe của mình mãi mãi. Xin bộ Giao thông lắng nghe!

Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Câu hỏi cuối cùng, thiền sư trông đợi gì ở đại lễ Phật đản Vesak tổ chức ở VN trong vài ngày tới?

Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Tôi thấy đây là một vinh dự lớn. Phật tử bốn phương tới để tham dự sẽ thấy rằng Việt Nam đang trên con đường mở ra và đi lên. Chúng tôi trong dịp này đã cố gắng để đóng góp phần mình vào đại lễ. Chúng tôi đã đưa về chừng 500 thiền sinh ngoại quốc từ 40 quốc tịch. Trước khi vào tham dự đại lễ Phật đản, chúng tôi có một khóa tu "Đạo Phật đi vào cuộc đời" tu tập suốt 7 ngày, 7 đêm cho người nước ngoài. Rồi chúng tôi sẽ đem năng lượng đó, nội dung đó đi vào trong lễ Phật đản. Lễ Phật Đản này sẽ có nội dung rất sâu sắc chứ không phải chỉ có hình thức thông thường. Và trong lễ Phật Đản sẽ có những buổi hội đàm về những vấn đề nóng bỏng của thế giới như chiến tranh, hoà bình, năng lượng, môi trường, bạo động, căm thù… Các thiền sinh của chúng tôi đã được học hỏi nhiều năm sẽ tham dự vào các buổi tọa đàm như vậy. Tôi tin rằng đây là lần đầu tiên một lễ Phật Đản có nội dung rất là sâu sắc được tổ chức.

Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Cảm ơn thiền sư. Hy vọng những giá trị tinh thần cao quí của Phật giáo sẽ đi vào đời sống của dân tộc Việt Nam và lan tỏa trên thế giới, để dân tộc Việt Nam có nhân cách tốt, được bạn bè thế giới yêu mến, trân trọng. Xin cảm ơn Thiền sư đã tham dự bàn tròn với bạn đọc VietNamNet.

http://www.tuanvietnam.net//vn/tructuyenvoitop/3665/index.aspx
05-08-2008 12:23:14

 

 


 

 

PHỎNG VẤN THIỀN SƯ NHẤT HẠNH
Bùi Dũng

 

Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã vận dụng giáo lý đạo Phật như thế nào để mong muốn hòa giải lòng người, thống nhất dân tộc? Và trong cuộc sống của chúng ta ngày nay, đạo Phật đóng vai trò như thế nào trong việc xây dựng nhân cách, lối sống và giữ gìn văn hóa dân tộc?

 

“…Năm xưa khi đi ra ngoài để kêu gọi hòa bình, tôi có viết cuốn Hoa Sen Trong Biển Lửa (Lotus in sea of the fire) bằng tiếng Anh, được dịch ra nhiều thứ tiếng. Tôi nói rằng chiến tranh Việt Nam biến thành biển lửa nhưng mà có sức sống tâm linh trong đó, thành thử trong biển lửa nó có một sự kháng cự và có một đài hoa sen mọc lên mà không bị cháy trong lửa. Cái đó là đạo Phật của Việt Nam, cái đó là yếu tố làm cho mình không bị ngập tràn bởi bạo động, bởi căm thù, bởi chiến tranh…”

 

Thiền sư Thích Nhất Hạnh và TBT VietNamNet Nguyễn Anh Tuấn

 

Đó là lời của thiền sư Thích Nhất Hạnh, người đứng đầu Thiền Phái Tiếp Hiện (còn gọi là “An trú trong hiện tại”) trong cuộc trò chuyện với Vietimes (chuyên trang của VietNamNet) tại thiền viện Bát Nhã – Lâm Đồng, năm ngoái.

Trong những năm đất nước bị phân cắt, đặc biệt là giữa thập kỷ 60 của thế kỷ trước, Sư ông Thích Nhất Hạnh từng rất nổi tiếng vì những hành động phản chiến và tham gia lãnh đạo phong trào Phật giáo phản chiến.

Năm 1966, dưới áp lực của chính quyền Việt Nam Cộng hòa, ông đã từng bị phải sống lưu vong. Từ đó đến giờ, đạo tràng Làng Mai tại Pháp và giáo phái Tiếp Hiện của thiền sư Thích Nhất Hạnh đã có sự lan tỏa mạnh mẽ ở phương Tây.

Triết lý của Thiền sư Nhất Hạnh đã cho con người phương Tây nhận ra con đường giúp họ thoát khỏi bế tắc và sự u uẩn của đời sống tinh thần trong một xã hội hậu hiện đại. Và triết lý này cũng cần thiết với đời sống tinh thần của người Việt Nam nói chung, và giới chuyên gia, doanh gia nói riêng trước những đe doạ của một nhịp sống công nghiệp ngày một hối hả.

Năm 2005, trong chuyến trở về Việt Nam đầu tiên kể từ khi đất nước thống nhất, thiền sư Thích Nhất Hạnh đã từng có rất nhiều nỗ lực “xóa khổ đau” của một dân tộc nhiều phân ly loạn lạc; xóa bỏ định kiến để con người gần nhau hơn bằng tình yêu thương và hiểu biết.

Lần trở về thứ nhì năm ngoái, với “Đại trai đàn giải oan” được tổ chức ở cả ba miền Nam – Trung – Bắc, ông hoan hỉ nhận thấy: “Việt Nam ngày một cởi mở và tiến bộ hơn”. Mỗi  lần trở về và “ở lại” của ông trên đất Việt là mỗi lần cố gắng kéo người Việt gần nhau thêm để dân tộc thực sự hòa giải và thống nhất.

Chúng tôi dùng hình thức lắng nghe và ái ngữ để dung hoà và kêu gọi hòa giải. Quan điểm của tôi là ôm lấy cả hai bên, không gây thù oán. Tình thương đích thực có chất liệu của sự kiên nhẫn và không có kỳ thị” (Người Viễn xứ – chuyên trang của VietNamNet).

Dùng tình thương để xóa bỏ hận thù là tinh thần, là triết lý của Phật giáo. Nhập thế một cách hữu hiệu nhất của người hiểu Phật pháp là lan tỏa tinh thần tốt đẹp của đạo Phật để giúp con người làm được nhiều điều tốt, sống có ích hơn trên thế gian này.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã vận dụng giáo lý đạo Phật như thế nào để mong muốn hòa giải lòng người, thống nhất dân tộc? Và trong cuộc sống của chúng ta ngày nay, đạo Phật đóng vai trò như thế nào trong việc xây dựng nhân cách, lối sống và giữ gìn văn hóa dân tộc?

Đó là chủ đề của buổi trực tuyến giữa nhà báo Nguyễn Anh Tuấn (TBT Báo điện tử VietNamNet) và thiền sư Thích Nhất Hạnh vào lúc 15:00 – 04.05.2008 tại toà soạn báo VietNamNet nhân dịp thiền sư và tăng thân Làng Mai về Việt Nam tham dự Đại lễ Phật đản.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh xuất hiện tại Tòa soạn với gương mặt và ánh mắt hiền từ. Đi cùng Thiền sư là 6 vị tăng, ni – những học trò của Thiền sư. Cuộc trò chuyện, đối thoại được bắt đầu với hai bức thư pháp được Thiền sư viết trên tấm toan trắng: "Từng bước nở hoa sen" và "Lắng nghe để hiểu, nhìn lại để thương".

 

Nội dung đó, thật tình cờ, với diễn giải của Thiền sư, cũng là chủ đề chính của cuộc Bàn tròn: Để yêu thương hơn, hạnh phúc hơn và đi qua đau khổ.

1. Chủ đề đầu tiên về tình hình đạo Phật trên thế giới. Theo Thiền sư Thích Nhất Hạnh, đạo Phật Tây phương đang phát triển mạnh, được giới trẻ, giới khoa học và nhiều tầng lớp dân chúng hâm mộ, yêu thích. Các khóa thực tập cho nhiều giới đã được mở ra thường xuyên (ở Mỹ có khóa cho các nghệ sĩ Hollywood, cho các vị dân biểu Hoa Kỳ…).

"Đạo Phật đi vào cuộc đời. Nhờ vậy, mỗi có thể thừa hưởng kho tàng tuệ giác, được tháo gỡ những khó khăn, bế tắc gặp phải trong đời sống nội tâm", Thiền sư nói.

Với ý hỏi về sự nảy mầm của đạo Phật ở những vùng đất mà các đạo giáo khác như Tin lành, Thiên Chúa đã ngự trị từ lâu; thiền sư Thích Nhất Hạnh nói tiếp: Đó là vì đạo Phật đã đưa ra được những phương pháp thực tập rất thực tế, đã hiện đại hóa. Chính trong đạo Phật, nhiều người đã tìm ra ý nghĩa của các đạo giáo khác, tìm thấy sự hòa hợp.

2. Sự an lạc trong thân và trong tâm – đó một ý nghĩa to lớn mà đạo Phật đã đem đến mọi người. Sự an lạc đó càng có ý nghĩa hơn trong đời sống hiện đại hôm nay khi con người  đứng trước sự lựa chọn: sống ở hiện tại hay sống vì tương lai hoặc cho quá khứ.

"Phật học ứng dụng không chỉ là Phật giáo tín ngưỡng. Người Tây phương theo Phật học ngày càng nhiều không phải được vì tín mộ mà là được thực tập. Những khoá tu thường có trên 1000 ngàn người, trong 6, 7 ngày. Khi đó, mỗi người lấy ra những căng thẳng trong tâm, nhận diện căng thẳng, sự sợ hãi… từ đó có sự lắng dịu trong thân và tâm… hiểu thấu được những khó khăn, bức xúc…".

Thành công và hạnh phúc dưới góc nhìn Phật pháp của Thiền sư, đó là khi "có tình thương và sự hiểu biết". Khi có hiểu biết lớn, thương yêu lớn thì có hạnh phúc lớn. Hiểu sâu thì thương nhiều.

"Có khả năng sống trong giây phút hiện tại thì đó là nghệ thuật sống. Biết sống an lạc trong hiện tại thì tự tại đi tới tương lai. Quá khứ đi qua, tương lai chưa tới. Giây phút hiện tại là thực sự sống. Do đó cần an trú trong giây phút hiện tại… Hiện tại không có hạnh phúc thì làm sao có hạnh phúc trong tương lai", Thiền sư nói.

3. Theo Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Đạo phật có tiềm lực lớn. Giống như mỏ dầu hỏa, cần làm sao để khai thác, đem tới hạnh phúc cho dân.

"Lắng nghe để hiểu, nhìn lại để thương".

 

Ở phương Tây điều kiện để hiện đại hóa đạo Phật đã diễn ra nhanh chóng. Ở Việt Nam cũng đang có nhiều điều kiện để hiện đại hóa. Lúc này những người đến với đạo Phật cần được thực tập nhiều chứ không chỉ dừng lại ở sự tín mộ. Mỗi người chúng ta cần có chiều hướng tâm linh để tháo gỡ bức xúc trong đời sống hàng ngày..

Thành công của đạo Phật là dám làm mới đạo Phật, đưa ra một đạo Phật thích hợp với tuổi trẻ, trí thức bây giờ. Kết quả là đạo Phật đi vào gia đình, học đường, xã hội và có những "tăng thân" (trong một thành phố, mỗi hội sở…) – đó là nơi có mọi người biết "lắng nghe để hiểu và nhìn lại để thương".

4. Có thể áp dụng đạo Phật để buông bỏ tất cả hận thù trong quá khứ, thống nhất lòng người, ôm lấy nhau như đồng bào cả nước.

Thiền sư đã đưa ra hai ví dụ về sự "thống nhất lòng người, hòa hợp dân tộc". Ở Ấn Độ, A Dục vương chọn cách thống nhất nhân tâm sau khi thống nhất lãnh thổ. Với Thiền sư, lần trở về trước (năm 2007), "chúng tôi làm lễ cầu siêu cho tất cả. Những người dân thuộc các giới khác nhau cùng cầu nguyện cho nhau, khóc thương cho những người đã chết, bông bỏ những hận thù khổ đau trong quá khứ, thống nhất lòng người".

Như thế, hiện đại hoá đạo Phật thì đạo Phật sẽ đóng góp rất nhiều trong sự nghiệp hiện đại hoá dân tộc.

5. "Trong đời sống, đạo Phật là thực tập để sống vô ngã. Người xuất gia nắm được tuệ giác vô ngã thì không thấy cha và con là hai người riêng biệt. Trong con có cha, cha là sự tiếp nối của cha. Vị sư tăng mà nắm được điều đó thì không cho mình là nhất, nếu không thì tội nghiệp cho họ. Ý chí muốn tu học là một chuyện, thành công là chuyện khác", Thiền sư lý giải.

"Nhiều người nghĩ Phật là thần linh, cầu nguyện là đút lót. Đó là sự hiểu lầm đạo Phật rất nhiều. Có người nghĩ thất bại trong cuộc đời thì mới đi xuất gia. Có thời đại cho rằng theo tôn giáo là duy tâm, mê tín, không lành mạnh. Đó là sai lầm. Đạo phật thực tập như nghệ thuật sống".

6. Trong thế giới và trong từng cộng đồng ngày nay, "tăng thân" rất quan trọng; vì quy pháp rồi phải quy tăng (tăng là đoàn thể – community, có người xuất gia, có người tại gia). Tăng trở thành chỗ nương tự cho nhiều người.

"Một Quốc hội cũng có thể trở thành Quốc hội tăng, họ lắng nghe nhau, hiểu nhau, có lợi cho đất nước. Tôi mong Liên Hợp Quốc trở thành tăng thân. Khi đó không phải nói gì là vì quyền lợi quốc gia không thôi mà không phải vì quyền lợi trái đất", Thiền sư nói.

"Cuộc chiến tranh Iraq căn bản là sự hiểu lẫm, oán thù. Sợ hãi nhau thì muốn loại trừ nhau để được an ninh. Nghĩ người kia giết mình thì sợ hãi, trước khi người khác giết mình thì mình phải giết họ.

Sợ hãi do tri giác sai lầm mà ra. Hoa Kỳ có tri giác sai lầm về Iraq và ngược lại. Tri giác sai lầm đem tới sợ hãi, nghi ngờ, bạo động. Thế nên cần lấy tri giác sai lầm ra, ngồi lại lắng nghe để hiểu nhau. Tri giác sai lầm sao có thể lấy đi bằng bạo lực!

Tổng thống Bush là một trong những người đau khổ nhất của thế giới. Làm sao ngủ ngon khi biết con em mình mỗi ngày chết ở Iraq. Sa lầy trong chiến tranh Iraq mà nuốt không vào, khạc ra cũng không được… Quyền năng thế gian không đủ đưa lại hạnh phúc, quyền năng tâm linh thì mới có đủ".

 

7. Với những vấn đề thiết thực của Việt Nam, ví dụ lạm phát đang diễn ra hay cách nào để tĩnh tâm trước những tham lam, dục vọng…, Thiền sư có những dẫn giải riêng với những câu hỏi mà bạn đọc gửi đến.

"Không phải có nhiều tiền bạc, quyền hành mới hạnh phúc. Có khả năng sống đơn giản, hạnh phúc, thương yêu nhau, đó là con đường không chỉ của VN mà còn trên thế giới",  Thiền sư nói.

Thiền sư làm gì cho cộng đồng người Việt ở Hoa Kỳ quên đi quá khứ? – một bạn đọc hỏi. Thiền sự Thích Nhất Hạnh: "Có những người rất khó để quên đi quá khứ. Họ không bao giờ tha thứ cho những người đã khiến họ mất đi những địa vị đã có. Không có hiện tại thế nên họ không có tương lai. Nếu cứ ôm khư khư hận thù, giam hãm quá khứ thì rất tội nghiệp. Một ngày tỉnh thức nào họ thấy được điều đó thì họ được giác ngộ".

Và Thiền sư Thích Nhất Hạnh còn trả lời nhiều câu hỏi lý thú, đầy ý nghĩa khác, ví dụ câu hỏi của một bạn đọc: "Ý chí, hồn thiêng dân tộc ngày hôm nay có thể một lần nữa tích tụ và sinh ra cá nhân kiệt xuất? Thiền sư sẽ đàm luận gì khi đối diện với con người kiệt xuất đó?…".

"Dân tộc, cộng đồng, khi đồng bộ sẽ tạo ra được sự nghiệp lớn. Mỗi người là một phần của sự nghiệp lớn...", Thiền sư gợi mở. Và mỗi con người như Thiền sư nói, cần mang ba phẩm chất: Chiến sĩ, nghệ sĩ và tu sĩ.

Những tâm sự và kiến giải đầy lý thú của Thiền sư Thích Nhất Hạnh sẽ sớm được chuyển tài đầy đủ đến quý độc giả.

 

Bùi Dũng
(tuanvietnam.net)
05-04-2008 05:25:12

Tăng thân yêu quý

Giấc mơ của Mục sư Martin Luther King Jr. và chuyến trở về miền Nam nước Mỹ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh

(BBT chuyển ngữ từ bài viết “Beloved Community: Influenced by King’s teachings, Buddhist leader returns to Mid-South” của tác giả David Waters, đăng trên tờ Commercial Appeal – một tờ báo lớn của thành phố Memphis, ngày 28/9/2013)

 

Giây phút hạnh phúc

Cách đây mười một năm, vào năm 2002, có một cậu bé mười tuổi được nắm tay một vị thầy đi thiền hành trong yên lặng cùng với hàng trăm người khác nữa. Họ đi ngang qua công viên Overton với những bước chân bình an và chậm rãi – một hành động tưởng nhớ đến nhà lãnh đạo phong trào bất bạo động Martin Luther King Jr.

Họ cùng nhau thiền hành qua những hàng cây tỏa bóng mát, nhẹ nhàng như làn gió trong nắng sớm. Nơi đó cách chỗ Mục sư Martin Luther King Jr. bị ám sát khoảng 8 km, cách nhà cậu bé ở Bắc Mississippi khoảng 97 km và cách Việt Nam – quê hương của vị thầy hơn 14000 km. Khi đó, cả cậu bé và vị thầy đều không thể nào tưởng tượng được khung cảnh mà họ sẽ gặp lại nhau hơn một thập kỷ sau.

Vị thầy đó là thiền sư Thích Nhất Hạnh, năm nay đã 87 tuổi, một trong những vị thầy tâm linh được thế giới kính ngưỡng nhất. Thầy cũng là người chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi cuộc đời của Mục sư Martin Luther King Jr. và cả sự ra đi của ông. Thầy Nhất Hạnh hiện đang hướng dẫn khóa tu chánh niệm cho một ngàn người tại tu viện Mộc Lan – một tu viện Phật giáo của người Việt tại phía Bắc tiểu bang Mississippi.

Cậu bé ngày xưa tên là Alan Hồ, nay đã trở thành thầy Pháp Triển, 21 tuổi, một vị xuất sĩ trong tăng thân Làng Mai. Cậu cũng đang tham gia hướng dẫn khóa tu tại Mộc Lan, trung tâm tu học mà ông Bình – cha của cậu, một người Việt nhập cư – là một trong những người đồng sáng lập. Cách đây 11 năm, chính ông Bình đã dẫn cậu con trai của mình tham gia cuộc đi bộ vì hòa bình tại công viên Overton và từ đó ông mong ước đem những lời dạy của Thầy Nhất Hạnh đến cho mọi người ở vùng châu thổ sông Mississippi (Mississippi Delta) ở miền Nam nước Mỹ – nơi gia đình ông đang sinh sống.

“Chúng tôi coi việc xây dựng tu viện Mộc Lan là hành động đem Tăng thân yêu quý (Beloved Community) mà mục sư Martin Luther King Jr. hằng mơ ước về với quê hương của nó” – thầy Pháp Triển chia sẻ khi đang ngồi cùng với một người bạn trong khuôn viên của tu viện Mộc Lan, tọa lạc gần thành phố Batesville thuộc tiểu bang Mississippi. Từ năm 2010 đến nay, tu viện Mộc Lan đã trở thành nơi thường trú của hơn 32 thầy và sư cô đến từ nhiều trung tâm tu học của Làng Mai.

 

Thầy dạy cho các cháu cách bắt ấn

Trong một tuần qua, có hơn 100 vị xuất sĩ và 900 cư sĩ trên khắp nước Mỹ đã về tu viện Mộc Lan để được học hỏi và thực tập nghệ thuật sống chánh niệm từ Thiền sư Thích Nhất Hạnh – một trong những vị thầy tâm linh có ảnh hưởng lớn nhất ở phương Tây trong lĩnh vực Phật giáo, chỉ đứng sau Đức Đạt Lai Lạt Ma.

Thầy Nhất Hạnh đã đi qua ba cuộc chiến tranh khốc liệt trên quê hương Việt Nam. Thầy đã dẫn đầu Phái đoàn Phật giáo Việt Nam trong cuộc đàm phán hòa bình Paris nhằm chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam. Vì lập trường chống chiến tranh đó mà Thầy Nhất Hạnh đã bị lưu vong hơn ba mươi năm.

Bốn mươi năm sau khi Hiệp định hòa bình Paris được ký kết năm 1973, Thầy Nhất Hạnh giờ đây đang có một chuyến hoằng pháp tại Bắc Mỹ trong ba tháng. Thầy đã hướng dẫn một ngày thực tập chánh niệm tại trụ sở của Ngân hàng thế giới (World Bank) ở Washington và tại trường Đại học Y tế Cộng đồng Harvard (Harvard School of Public Health) ở Boston.

Trong một tuần qua, tại tu viện Mộc Lan – một trong ba trung tâm tu học của Làng Mai tại Mỹ, Thầy Nhất Hạnh đã hướng dẫn một khóa tu với chủ đề “Healing Yourself is Healing the World” (Trị liệu cho bản thân ta là trị liệu cho cả thế giới). Khóa tu sẽ kết thúc vào ngày Chủ nhật.

Thiền hành tại tu viện Mộc Lan

Hàng trăm thiền sinh tham dự khóa tu đã cắm lều hoặc ngủ trong các xe “camper” chuyên dùng cho cắm trại trong khuôn viên rộng 120 mẫu tây của tu viện, được bao bọc bởi những rừng cây. Một số thiền sinh thì ở trong các căn phòng tập thể tương đối nhỏ hẹp của tu viện. Hàng trăm thiền sinh khác thì ở những khách sạn hoặc có nhà gần đó.

Trong thời gian khóa tu, các bạn thiền sinh thức dậy từ lúc 5h15 sáng và bắt đầu các thời khóa như thiền tọa, thiền hành, thiền làm việc (chẳng hạn như rửa chén trong chánh niệm), thiền buông thư…và hoàn toàn không sử dụng điện thoại di động.

“Chúng tôi muốn tạo cơ hội cho các bạn thiền sinh được nếm một chút hương vị của nếp sống chánh niệm và bình an. Tôi thường gọi đó là cảm giác của “ngày Chủ nhật tuyệt vời” (Sunday feeling)” – chia sẻ của sư cô Hiến Nghiêm, một sư cô người Anh vốn được sinh ra và lớn lên giữa lòng những ngôi giáo đường của Anh Giáo và Tin lành.

“Trong xã hội ngày nay, mọi người đều có một cuộc sống quá bận rộn. Không phải lúc nào bạn cũng có thể dừng lại những gì mình đang làm. Vì vậy mà chúng tôi có mặt ở đây trong khóa tu này để giúp các bạn sống chậm lại và dừng những rong ruổi, tìm cầu để thực sự có mặt trong giây phút hiện tại, ít nhất là trong một tuần lễ”, sư cô Hiến Nghiêm chia sẻ thêm.

Sự có mặt của Thiền sư Nhất Hạnh với giọng nói nhẹ nhàng và hóm hỉnh không những mang lại cho các bạn thiền sinh cơ hội được nếm hương vị của giáo lý và pháp môn thực tập của đạo Bụt, mà còn nhiều hơn thế nữa.

Mỗi buổi sáng, hàng trăm thiền sinh có mặt tại thiền đường Thủy Triều Lên (Rising Tide) để ngồi yên lặng trong tư thế thiền tọa, chăm chú lắng nghe những lời dạy của Thiền sư. Bài pháp thoại có thể kéo dài trong 1 giờ hoặc 2 giờ đồng hồ.

“Một bài pháp thoại hay cũng giống như một cơn mưa. Nó tưới tẩm những hạt giống hiểu biết, thương yêu, hạt giống từ bi trong chiều sâu tâm thức của ta”, Thầy chia sẻ.

Thầy còn kể những câu chuyện thú vị như: một ngày nọ, Bụt cùng một số đệ tử của Người đang đi trên đường thì gặp một bác nông dân đang sầu khổ và lo lắng vì chưa tìm được bốn con bò bị lạc. Nếu không tìm được mấy con bò này thì không biết bác phải sống ra sao. Sau khi bác nông dân đi khỏi, Bụt mới quay sang các đệ tử của mình và nói: quý thầy có thấy là mình rất may mắn không? vì quý thầy không có con bò nào để mất cả.

Vui chơi cùng các cháu

Trong buổi vấn đáp, Thầy trả lời những câu hỏi của thiền sinh đôi lúc rất dí dỏm. Có một thiền sinh đặt câu hỏi: “Thưa Thầy, nếu con đứng giữa hai con đường và không biết phải chọn lối nào để đi thì con phải làm gì?”.  Thầy tủm tỉm trả lời: “Thì anh phải chọn một trong hai thôi”.

Trong chiếc áo tràng nâu giản dị, Thầy chia sẻ với mọi người về ý nghĩa của những pháp môn như: thực tập buông bỏ; dừng lại và nhìn sâu; thực tập vô tác; thực tập ái ngữ và lắng nghe; thực tập chánh niệm và chế tác bình an trong khi đi đứng, nói năng và suy nghĩ.

Có một thiền sinh hỏi Thầy rằng liệu những người Phật tử có nên tham gia vào những phong trào bất tuân dân sự (civil disobedience) để phản đối chiến tranh hoặc chống lại những hành vi bạo lực hay không. Thầy trả lời rằng: “Cách tốt hơn là xây dựng một tăng thân có bình an, có tình huynh đệ – một “tăng thân yêu quý”- để làm gương cho mọi người noi theo, để mọi người thấy rằng mình có thể sống một nếp sống tốt đẹp hơn”.

Thầy chia sẻ rằng Thầy bắt đầu dùng cụm từ “tăng thân yêu quý” từ khi gặp Mục sư Martin Luther King Jr. vào năm 1965 và năm 1966. “Tôi nhớ lần cuối cùng gặp Mục sư King, chúng tôi chia sẻ với nhau về việc xây dựng tăng thân. Nhưng không may là sau cuộc gặp gỡ đó không lâu thì Mục sư bị ám sát. Kể từ đó, tôi nguyện rằng dù đang bị lưu vong, tôi cũng sẽ nỗ lực gấp đôi và để hết tâm sức vào việc xây dựng Tăng thân yêu quý – điều mà chúng tôi đã chia sẻ cùng nhau”.

Được trao giải Nobel Hòa bình năm 1964, Mục sư Martin Luther King Jr. đã đề cử Thầy Nhất Hạnh cho giải Nobel Hòa bình năm 1967, trong lúc cuộc chiến tranh Việt Nam đang diễn ra ác liệt. Cuộc gặp gỡ với Thầy Nhất Hạnh đã thúc đẩy Mục sư King đi đến quyết định công khai phản đối cuộc chiến tranh Việt Nam vào năm đó. “Cá nhân tôi không thấy ai xứng đáng được trao giải Nobel Hòa bình hơn vị thầy tu Phật giáo đến từ Việt Nam này” – Mục sư King đã viết những lời này cho Ủy ban Nobel. Tuy nhiên, giải Nobel Hòa bình của năm đó không được trao cho ai cả.

“Thầy đã nói với Mục sư King rằng ông chính là một vị Bồ tát – một bậc giác ngộ” – đó là chia sẻ của sư cô Chân Không – một đệ tử lớn của Thầy Nhất Hạnh, người luôn đồng hành cùng Thầy từ cuối những năm 50 của thế kỷ trước.

Tuần vừa qua, một số quý thầy và sư cô Làng Mai đã đến thăm Viện Bảo tàng Dân quyền  Quốc gia để tỏ lòng kính ngưỡng đối với những đóng góp vì hòa bình của Mục sư Luther King và vị thầy tâm linh của họ.

“Hôm nay, Thầy không trực tiếp đến đây được, vì vậy mà tôi mang Thầy trong trái tim và trong những bước chân thiền hành của tôi khi đến nơi này, một nơi thật thiêng liêng”, chia sẻ của sư cô An Nghiêm – một người Mỹ gốc Phi, có truyền thống Thiên Chúa Giáo; sư cô đã từ bỏ công việc của mình trong lĩnh vực chính trị ở Washington cách đây một vài năm để trở thành một sư cô của Làng Mai như hiện nay.

“Tôi thực sự xúc động khi nghĩ rằng sau bao nhiêu năm, sự nghiệp vì hòa bình và xây dựng tăng thân mà Mục sư Martin Luther King Jr. và Thầy Nhất Hạnh đã nỗ lực cùng nhau vẫn đang được gìn giữ và tiếp nối trên mảnh đất này”, sư cô An Nghiêm chia sẻ.

Xem bài tiếng Anh tại đây: Nhat Hanh brings Dharma to Delta


Thi kệ của Sư Ông Làng Mai tại phi trường Denver, USA

Tại phi trường Denver, tiểu bang Colorado Hoa Kỳ, hành khách được đọc thi kệ “Đã về đã tới” của Sư Ông trên một tấm pa nô có bề dọc là 2.5 m và bề ngang dài 3m. Chúng tôi không được biết là tấm pa nô này được trưng bày ở đó bao lâu. Chỉ biết là trong khi còn nằm ở đó, mỗi ngày, phi trường hiến dâng cho hành khách câu nhắn nhủ của Sư Ông rằng đích đến của họ đang nằm trong mỗi bước chân.

Bài thi kệ đó là:

I have arrived,    (tôi đã tới)
I am here           (tôi đã về tại đây)

My destination is  (Nơi tôi tới

in each step          đang nằm trong mỗi bước chân )


Mời các bạn xem cho vui và cùng thực tập đi những bước chân vững chãi để “quê hương đi về trên mỗi bàn chân”, bạn nhé!


Thiền sư Thích Nhất Hạnh: “Viết thư pháp là một môn thiền định”

Nâng chén trà trên hai tay, Thiền sư Thích Nhất Hạnh chậm rãi nhấp từng ngụm nhỏ nhẹ. Khuôn mặt ngài thư thái. Thời gian như ngưng đọng. Mấy trăm khách mời đang chăm chú xem các đệ tử của ngài bày bút nghiên, mực, giấy dó lên bàn viết, háo hức chờ đợi cái thời khắc ngài biểu diễn thư pháp thiền nhưng trước mắt vị thiền sư lúc này, dường như chỉ có sự hiện diện của chén trà nóng đang tỏa hương.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh_radiovietnam.vn

Nhấp ngụm trà thứ ba, cảm nhận trọn vẹn cái hương thơm, vị đượm của trà, Thiền sư Thích Nhất Hạnh nghiêng chén, chậm rãi châm một ít trà vào nghiên mực rồi nhẹ nhàng cầm ngọn bút, chấm mực, viết. Toàn thân ngài tĩnh lặng, bàn tay ngài với những ngón tay thanh mảnh chậm rãi đưa từng nét bút đều đặn. “This is it”. (Tạm dịch: Nó đây rồi. Cái mà ta tìm kiếm đây rồi”. “Present moment, wonderful moment” (An trú trong hiện tại, giây phút đẹp tuyệt vời). “Breathe and smile” (Thở và cười)…

Viết xong mỗi bức, ngài mỉm cười nâng bức thư pháp cho quan khách xem. Cả khán phòng bừng lên niềm ngạc nhiên, thích thú và hạnh phúc trước nguồn tuệ giác của vị thiền sư già qua từng nét chữ đậm chất thiền.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh_radiovietnam.vn

Sau hàng loạt các cuộc triển lãm thư pháp thiền gây tiếng vang lớn ở Pháp, Đức, Canada, Thái Lan, Đài Loan và Hồng Kông, đêm ngày 5 tháng 9 năm 2013, Cuộc triển lãm với chủ đề “Thiền thư pháp: Nghệ thuật chánh niệm của Thiền sư Thích Nhất Hạnh” đã chính thức khai mạc tại ABC home, New York (Mỹ), thu hút sự quan tâm đông đảo của những người mộ điệu và giới truyền thông quốc tế.

Đây cũng chính là một trong những hoạt động nằm trong chương trình Hoằng pháp của Thiền sư Thích Nhất Hạnh kéo dài suốt hai tháng trên đất Mỹ. Hàng trăm tác phẩm được trưng bày chính là kinh nghiệm thiền định trong cuộc sống cho những người thưởng ngoạn. “Không có bùn, không có sen”, “Đi như một dòng sông”, “Hòa bình trong mình. Hòa bình trong thế giới”… Những dòng chữ ngắn gọn, giản dị mà sâu sắc ấy đã trở thành những thiền ngữ chứa đựng trong đó giáo lý căn bản của đạo Phật, nhắc nhở mọi người những niềm vui luôn song hành cùng nghệ thuật sống chánh niệm.

Người xem tranh của Thiền sư Thích Nhất Hạnh_radiovietnam.vn

“Trong thư pháp của tôi, có mực, trà, hít thở, chánh niệm và tập trung. Viết thư pháp là một môn thiền định. Tôi viết các từ hoặc câu mà có thể nhắc nhở mọi người về thực hành chánh niệm. Khi viết thư pháp, tôi luôn tìm cách viết như thế nào để có thể chế tác và duy trì được năng lượng niệm, định, tuệ và từ bi trong suốt thời gian viết. Khi bắt đầu vẽ một vòng tròn, tôi thở vào và vẽ nửa vòng tròn trong khi thở vào, rồi tôi thở ra và vẽ nửa vòng còn lại trong khi thở ra. Trong suốt thời gian vẽ vòng tròn, tôi cũng đồng thời ý thức rằng trong bàn tay này của tôi có bàn tay của cha, của mẹ, của ông bà tổ tiên. Vì vậy mà khi tôi vẽ vòng tròn này thì cha, mẹ, ông bà tổ tiên và cả các vị thầy tâm linh của tôi cũng đang vẽ cùng tôi. Và vì chúng tôi cùng nhau vẽ vòng tròn này nên không hề có một cái ngã riêng biệt. Do vậy, chỉ vẽ một vòng tròn thôi nhưng ta có thể có được tuệ giác về vô ngã (anatta)” – Thiền sư Thích Nhất Hạnh chia sẻ.

Người xem tranh của Thiền sư Thích Nhất Hạnh_radiovietnam.vn

Chính sức mạnh từ phương pháp thiền tập và tuệ giác đó đã làm cho nghệ thuật thư pháp của Thiền sư Thích Nhất Hạnh trở nên đặc biệt và được nhiều người yêu thích trên khắp thế giới. “Mọi người đều muốn đem năng lượng của Thầy về nhà. Bức thư pháp Thầy viết chứa đựng năng lượng mà Thầy đã chế tác ra, đó là năng lượng hiểu biết, thương yêu và chánh niệm”. Một quan khách người Pháp đã hoan hỉ chia sẻ sau khi mua bức thư pháp: “Breathe, you are alive” (Thở đi con và ý thức rằng con đang sống).

Tại cuộc triển lãm, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã đề nghị những người tham dự buổi triển lãm thư pháp thực tập im lặng và giữ chánh niệm trong suốt buổi tham quan. “Ta cần duy trì hơi thở chánh niệm và đem tâm trở về với thân. Khi ta thực sự có mặt thì ta có thể để cho năng lượng của bức thư pháp đi vào trong trái tim ta. Trong chiều sâu tâm thức của ta có hạt giống của hiểu biết, thương yêu, hạt giống của niềm vui, hạt giống của tuệ giác, của giác ngộ. Nếu chúng ta để cho năng lượng của bức thư pháp đi vào và tiếp xúc với hạt giống tuệ giác trong ta thì chúng ta sẽ có được sự giác ngộ mà chúng ta mong muốn. Vì vậy khi chúng ta đi thật chậm qua các bức thư pháp và để cho năng lượng của bức thư pháp đi vào trong ta và tiếp xúc, tưới tẩm những hạt giống đẹp và lành nơi ta thì chúng ta sẽ được chuyển hóa và trị liệu trong thời gian đi xem các tác phẩm thư pháp. Nửa giờ trong phòng triển lãm là nửa giờ thiền tập. Nếu làm được như vậy thì khi bước ra khỏi phòng triển lãm, chúng ta có thể trở thành một con người hoàn toàn mới”.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh_radiovietnam.vn
Phóng viên đã có cuộc trò chuyện với thiền sư Thích Nhất Hạnh bên lề Cuộc triển lãm tại New York:
PV: Thiền sư bắt đầu thực hành thư pháp từ bao giờ ạ?

Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Tôi bắt đầu viết thư pháp vào năm 1994 chỉ với mục đích là làm phương tiện để nuôi dưỡng các học trò của mình trong nghệ thuật sống chánh niệm. Thư pháp của tôi không xuất sắc gì mấy. Vậy mà tập viết hoài ngó cũng được. Càng viết, chữ càng ngó được hơn.

Năm 1999, trong chuyến thăm Trung Quốc, một phật tử có mang theo nhiều giấy, bút và mực. Anh xin tôi viết mấy chục tấm để bán lấy tiền cúng dường chùa tổ Lâm Tế, thuộc thành phố Thạch Gia Trang, tỉnh Hà Bắc. Anh nói đa số những người trong phái đoàn đi Trung Quốc là người Tây phương nên tôi có thể viết chữ tiếng Anh. Tôi chiều lòng anh. Và số tiền bán chữ đã lên tới hàng ngàn đô-la. Phái đoàn đã cúng dường toàn bộ số tiền cho chùa tổ Lâm Tế để giúp vào quỹ mua thêm đất và xây cất thêm tăng viện. Hòa thượng trụ trì Hữu Minh rất cảm động.

Vào lễ giáng sinh năm đó, nhiều minh tinh màn bạc nổi tiếng Hollywood như Marlon Brando, Jack Nicholson, Sean Penn… cũng nhận được nhiều bức thư pháp tôi viết do bạn hữu của họ tặng. Mỗi khi trao đổi thư pháp với các vị tọa chủ các chùa lớn ở Trung Quốc, Hàn Quốc, tôi cũng viết chữ Tây cho lạ. Số thư pháp tôi đã viết, tính đến nay ước chừng cũng hơn 10.000 tác phẩm. Số tiền thu được dùng để tài trợ cho các chương trình nhân đạo tại các nước đang phát triển.

PV: Ở Việt Nam, thư pháp phát triển khá mạnh. Song hầu hết các nhà thư pháp Việt đều viết bằng chữ Hán. Tại sao thiền sư lại chỉ viết thư pháp bằng tiếng Anh và tiếng Việt?

Thiền sư Thích Nhất Hạnh:
Chữ Hán tôi viết rất ít vì hiện giờ ít người đọc được chữ Hán. Tôi thấy những bức chữ Anh, chữ Việt hoặc chữ Pháp lồng kính treo lên cũng đẹp vô cùng và khi đọc, người ta hiểu liền. Tôi cũng có viết nhiều câu đối chữ Việt và cả chữ Âu Mỹ nữa. Tôi chỉ viết những chữ mà khi treo lên người ta có thể thực tập theo được mà thôi. Có thể kể tên một số tác phẩm thư pháp được mọi người yêu thích nhất như: Breathe, you are alive (Thở đi, bạn đang là sự sống màu nhiệm). “The tears I shed yesterday have becam rain” (Nước mắt ngày xưa nay đã thành mưa”. “Be beautiful, be yourself” (Bạn chỉ đẹp khi là chính bạn). I have arrived, I am home (Con đã về, con đã tới)…

Thiền sư Thích Nhất Hạnh_radiovietnam.vn

Mỗi tác phẩm thư pháp đều là một đề tài thiền tập. Chẳng hạn như bức thư pháp “Be beautiful, be yourself”. Ta phải là chính ta thì ta mới đẹp. Ta không cần phải trở thành một ai khác. Ví như một đóa sen, tự thân nó đã rất đẹp, nó không cần phải cố gắng để biến thành hoa hồng hay một loại hoa khác mới đẹp. Trong mỗi chúng ta đều có hạt giống của niềm vui, của thương yêu và hạnh phúc. Nếu chúng ta để cho những hạt giống này được biểu hiện thì ta sẽ trở thành một đóa hoa đẹp trong vườn hoa của nhân loại.

Hay bức thư pháp “Let go and be happy” (Buông bỏ để có hạnh phúc). Buông bỏ ở đây nghĩa là buông bỏ những ham muốn, hờn giận, và buông bỏ luôn cả ý niệm của ta về hạnh phúc. Mỗi người trong chúng ta đều có một ý niệm về hạnh phúc. Chúng ta nghĩ rằng chúng ta cần phải có cái này hoặc cái kia thì mới có thể hạnh phúc. Nhưng chúng ta đâu biết rằng: chính cái ý niệm về hạnh phúc đó lại là chướng ngại để chúng ta có hạnh phúc thực sự. Nếu chúng ta can đảm buông bỏ ý niệm đó thì hạnh phúc sẽ đến với chúng ta ngay lập tức.

PV: Bức thư pháp tiếng Việt nào của thiền sư được người Việt yêu thích nhất?


Thiền sư Thích Nhất Hạnh:
Bức mà Phật tử Việt Nam yêu thích nhất là bức có ba chữ: “Thở đi con”. Ai cũng muốn thỉnh một bức về treo trong phòng khách để khi có chuyện bất an thì nhớ mà thực tập. Còn khi bình thường mà thực tập thì nuôi dưỡng thêm hạnh phúc đang có.

Có những bức tôi viết trọn một vài câu thơ hay cả bài thơ. Những câu thơ trong Truyện Kiều có thể hiểu theo nghĩa thiền quán cũng rất được hâm mộ. Ví như câu: “Bây giờ rõ mặt đôi ta. Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao”. Hay câu: “Trời còn để có hôm nay. Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời”. Có một cặp tân hôn xin chữ, tôi đã cho câu: “Trước sau cho vẹn một lời. Duyên ta mà cũng phúc người phải không?, tôi đổi một hai chữ cho thích hợp.

PV: Những bức thư pháp của thiền sư bao giờ cũng đậm chất thiền và chuyên chở tuệ giác của đạo Phật. Có điều gì khiến thiền sư trăn trở trong việc truyền bá đạo Phật cho giới trẻ trong thời buổi hiện đại này không?

Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Tôi muốn nói chuyện đạo Bụt. Đạo Bụt tại châu Á nói chung và Việt Nam nói riêng. Đạo Bụt nếu không được làm mới để có thể đáp ứng được nhu cầu đích thực của người thời nay thì đạo Bụt sẽ từ từ vắng mặt, nghĩa là sẽ chết như ông đồ xưa trong bài thơ “Ông đồ” của Vũ Đình Liên.

Phải giảng dạy đạo Bụt như thế nào để tuổi trẻ bây giờ có thể áp dụng được vào trong đời sống hàng ngày của họ, chuyển hóa được khổ đau, khai thông được bế tắc, xây dựng lại được tình thâm. Lễ bái, cầu phước và tín mộ không đủ. Tuổi trẻ không muốn đến chùa chỉ để đốt nhang, đốt vàng mã, vái lạy và tụng những kinh mà họ hoàn toàn không hiểu. Buổi công phu sáng gần hết là bằng tiếng Phạn, có tính chất của Mật Tông, mà lại là tiếng Phạn phiên âm tiếng Hán – Việt xa lắc với nguyên âm. Buổi công phu chiều thì chủ yếu là để cầu sinh Tịnh Độ.

Không mấy ai hiểu được và đọc được kinh chữ Hán. Vậy mà ta không có can đảm đem hai buổi công phu dịch ra quốc văn để hành trì. Ta sợ người ta đàm tiếu, chê bai là bỏ gốc rễ. Ta có bỏ gốc rễ đâu. Ta chỉ chăm sóc và làm mới cho gốc rễ thôi để cho cội cây xưa có được sức sống mới đâm lên những chồi mới, nếu không cây sẽ chết.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh_radiovietnam.vn

Cách đây chừng vài trăm năm, người ta đã từng bĩu môi chê chữ Nôm là quê mùa, là mách qué. “Nôm na là cha mách qué”. Người ta bảo người đứng đắn và người trí thức chỉ dùng chữ Hán thôi. Vậy mà đại thi hào Nguyễn Du đã sáng tác nên kiệt tác “Truyện Kiều” bằng chữ Nôm và đã tạo nên được một niềm tin lớn cho quốc dân. Không dùng súng đạn và gươm giáo mà thi sĩ đã xây dựng được thành lũy vững chãi cho nền độc lập dân tộc. Độc lập chính trị chỉ có thể bền vững khi có độc lập văn hóa. Cụ Nguyễn Du là một ông đồ không bao giờ già, không bao giờ chết. Hồn của cụ sống mãi trong hồn của người trẻ bây giờ. Bài học đó há không đủ cho chúng ta sao? Con cháu chúng ta bỏ chùa, bỏ đạo gốc tổ tiên chạy theo những trào lưu từ ngoài tới. Lỗi đó là của ai?

Làm mới đạo Bụt, áp dụng ngay những pháp môn của đạo Bụt nhập thế, sử dụng ngay tiếng Việt để tụng niệm trong hai buổi công phu là điều rất cần thiết. Chúng ta đừng làm như ông đồ xưa, dần dần vắng mặt trong cuộc đời. Chúng ta phải tái sinh ngay lập tức để trở thành ông đồ nay. Chỉ có ông đồ nay mới làm thỏa mãn được những nhu yếu của người ngày nay. Từ thế kỷ thứ 14, vua Trần Nhân Tông và thiền sư Huyền Quang đã thấy được sự thực này. Các vị đã bắt đầu sáng tác bằng tiếng Việt, sử dụng chữ Nôm.

Ở Triều Tiên, ngày xưa cả nước đi theo đạo Bụt. Vào đầu thế kỷ này, chỉ còn dưới 50% dân chúng là Phật tử. Giới trẻ đi theo ngoại lưu nhiều như thác lũ. Lý do là đạo Bụt bên đó quá bảo thủ và còn rất kỳ thị phụ nữ. Ta cầu xin xác vị tôn đức trong sơn môn ta nghĩ lại cho con cháu được nhờ. Đạo Bụt không thể không hiện đại hóa.

Tại Tây phương, nhiều người đang muốn cho đạo Ky tô được hiện đại hóa nhưng họ chưa thành công vì thái độ thủ cựu và giáo điều của giới chức sắc bề trên. Nhiều nhà thờ vắng bóng tín đồ. Người xuất gia rất hiếm chỉ vì người ta bảo thủ quá, không chịu làm mới, không chịu cách mạng giáo lý và giáo chế. Đạo Bụt có tinh thần cởi mở tự do, dễ làm mới hơn nhiều. Ta có thể thành công trong vài thập niên nếu chúng ta tỉnh thức. Chúng ta không có lý do gì để không thành công.

PV: Xin cảm ơn thiền sư!

Hoàng Anh Sướng

Đi học “nghệ thuật chuyển hóa khổ đau” giữa lòng nước Mỹ

Radiovietnam- Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã có những chia sẻ ý nghĩa trong buổi nói chuyện có chủ đề “nghệ thuật chuyển hóa khổ đau” tại Khách sạn Boston Park Plaza (Mỹ) ngày 12/9 vừa qua.

 

Buổi nói chuyện của thiền sư Thích Nhất Hạnh_radiovietnam.vn

 

Làm thế nào để chế ngự được những âu lo, sợ hãi? Bằng cách nào để chuyển hóa được những nỗi khổ, niềm đau? Con đường nào đưa ta đến cuộc sống thảnh thơi, an lạc, ngập tràn hạnh phúc và tình yêu thương? Chỉ có một con đường duy nhất, đó là nghệ thuật chánh niệm, là ý thức hơi thở, là nghệ thuật lắng nghe sâu và sử dụng ngôn từ ái ngữ…

Với thiền sư Thích Nhất Hạnh, đó chính là những phương pháp chánh niệm có công năng trị liệu đặc biệt, mang lại cho chúng ta tuệ giác và tình yêu thương đối với chính bản thân mình và đối với mọi người, mọi loài mà thiền sư đã chia sẻ trong buổi nói chuyện về chủ đề “nghệ thuật chuyển hóa khổ đau” tại Khách sạn Boston Park Plaza (Mỹ) ngày 12 tháng 9 vừa qua…

Ý thức hơi thở – Hạnh phúc hiện ra ngay bây giờ và ở đây.

Buổi nói chuyện của Thiền sư Thích Nhất Hạnh do trường Đại học danh tiếng hàng đầu nước Mỹ Harvard tổ chức tại tiền sảnh của Khách sạn Boston Park Plaza đã thu hút đông đảo giới mộ điệu nước Mỹ, trong đó, phần lớn là giới trí thức, thượng lưu, doanh nhân, chính trị gia, trong đó, có cả gia đình cố Tổng thống Mỹ John F.Kennedy.

1.200 vé đã bán hết veo trong vòng 3 ngày với giá cao ngất ngưởng: 450 đô-la/vé đã chứng tỏ sức hút đặc biệt của Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Song điều đó cũng cho thấy phần nào tảng băng chìm trong đời sống tâm linh nước Mỹ.
Dường như người Mỹ cũng đang phải đối diện với những khổ đau, những căng thẳng, âu lo và sợ hãi. Dường như chính họ cũng đang bế tắc trong việc truy tìm bến bờ của hạnh phúc, của an lạc.

Một bác sĩ tâm lý trị liệu tham dự buổi nói chuyện tâm sự với tôi: “Tôi đã tư vấn, trị liệu thành công cho hàng ngàn bệnh nhân mắc bệnh trầm cảm, u uất, đau khổ. Nhưng chính tôi nhiều lúc cũng bị căng thẳng, lo sợ, hoang mang. Tôi đến đây là để nghe một trong những vị thiền sư danh tiếng nhất thế giới nói về phương pháp chánh niệm để vận dụng trong công việc tâm lý trị liệu. Song trước tiên, tôi muốn trị liệu tâm lý cho chính tôi”.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Thiền sư Thích Nhất Hạnh ngồi an nhiên trong tư thế kiết già trên bục giảng sân khấu. Khuôn mặt thầy bình thản, đôi mắt sáng, tinh anh, giọng thầy nhỏ nhẹ, đều đều như hơi thở. Thầy bắt đầu câu chuyện bằng việc theo dõi hơi thở.

Mọi người ở dưới ồ lên. “Tưởng thiền là điều gì khó khăn ghê gớm chứ theo dõi hơi thở của mình thì đơn giản quá”. Thầy mỉm cười. Cái cười độ lượng, nhân từ. “Ta thở vào và theo sát hơi thở xuống dưới bụng. Trong khi thở, ta nhủ thầm “Con đã về”. Rồi ta theo dõi hơi thở ra từ đầu cho đến cuối trọn vẹn, thỏa mái, đồng thời nhủ thầm “Con đã tới”. Chỉ bằng một động thái đơn giản như thế, tâm ta lập tức sẽ trở về với thân, tiếp xúc với một sự thật màu nhiệm tuyệt vời là ta đang còn sống trong giây phút hiện tại và đây là giây phút hạnh phúc”. Thiền sư Thích Nhất Hạnh gọi đó là hơi thở có ý thức, hơi thở chánh niệm.

Mọi người ở dưới chậm rãi thực hành theo. Thân thể thả lỏng, mắt từ từ nhắm lại. Chậm rãi theo dõi hơi thở. Thở vào: “con đã về”. Thở ra: “con đã tới”. Và ngay lập tức, dường như mọi người đã nhanh chóng thoát ra khỏi những lo toan, ồn áo huyên náo trong đầu, và bước vào một trạng thái thức tỉnh khác lạ. Khuôn mặt ai cũng trở nên thư thái. Có lẽ, họ đã hiểu, thế nào là giây phút hiện tại.

Thiền sư giảng giải: “Chúng ta thường bị mắc kẹt trong những ưu sầu vì nuối tiếc quá khứ và lo lắng, sợ hãi cho tương lai. Chúng ta cho rằng hạnh phúc chưa thể có trong hiện tại và chúng ta cần phải có nhiều điều kiện hơn nữa mới thực sự có hạnh phúc. Đó chính là lý do khiến chúng ta khổ. Theo lời dạy của Đức Thế Tôn, tất cả những gì chúng ta đang cần tìm đều có mặt trong giây phút hiện tại. Nếu chúng ta biết thực tập hơi thở ý thức và định tâm thì chúng ta có thể đi ra khỏi những khổ đau này và chạm tay vào những màu nhiệm của sự sống ngay trong giây phút này. Quá khứ đã đi qua, tương lai thì chưa tới, chỉ có duy nhất giây phút mà ta có thể thực sự sống. Đó là giây phút hiện tại.

Trong Kinh quán niệm hơi thở, Bụt đã chỉ dạy cho chúng ta những bài tập cụ thể để tạo dựng niềm vui, hạnh phúc, an lạc. Đó là một giáo pháp rất rõ ràng và sâu sắc. Nếu chúng ta biết cách tạo ra năng lượng niệm và định thì chúng ta có thể tiếp xúc với vô vàn hạnh phúc đang có mặt với ta ở đây, ngay bây giờ.

Chẳng hạn như chúng ta tiếp xúc với hai mắt. “Tôi đang thở vào và ý thức về hai mắt của tôi. Tôi đang thở ra và mỉm cười với hai mắt của tôi”. Khi ta thực tập như vậy thì tuệ giác sẽ nảy sinh. Chỉ trong hai, ba giây là ta có thể nhận thấy rằng: đôi mắt của mình vẫn còn sáng. Một thiên đường của màu sắc, hình ảnh đang hiện ra trước mặt. Đối với những người bị khiếm thị, thiên đường ấy, chưa một lần họ nhìn thấy. Vì vậy mà đôi mắt là một trong những điều kiện căn bản để có hạnh phúc. Ta chỉ cần thở vào thể thắp sáng ý thức rằng, mình đang có một đôi mắt sáng.

Buổi nói chuyện đã thu hút đông đảo giới mộ điệu nước Mỹ.


Ta cũng có thể thực tập tiếp xúc với trái tim mình: “Tôi đang thở vào và ý thức về trái tim của tôi. Tôi đang thở ra và tiếp xúc với trái tim của tôi”. Khi chúng ta sử dụng năng lượng chánh niệm, chúng ta sẽ khám phá ra rằng: trái tim mình đang đập bình thường trong khi biết bao người bị hở van tim, rối loạn động mạch vành. Họ có thể bị đột quỵ bất cứ lúc nào. Nếu ta cứ tiếp tục thực tập như vậy thì ta sẽ tiếp xúc được với vô vàn hạnh phúc đang có mặt trong ta, quanh ta. Đó là tập chánh niệm, nghĩa là đem tâm trở về với thân và an trú trong giây phút hiện tại.

Nếu mình hoàn toàn có mặt trong giây phút này, mình có thể nhìn sâu hơn để bước một bước chân ý thức trên hành tinh đẹp đẽ này hay thở vào một hơi để ý thức là ta đang sống trong cõi niết bàn, tịnh độ. Và khi ta ở trong cõi thiên đàng thanh tịnh đó rồi thì ta đâu cần phải mệt nhọc chạy theo những danh tiếng, tiền tài, địa vị hay những dục lạc khác. Bình an, niềm vui, hạnh phúc có thể đạt tới ngay. Và sự thực tập này đủ đơn giản cho tất cả mọi người”.

Không có bùn, không có sen và nghệ thuật chuyển hóa khổ đau

Sảnh khách sạn đông nghẹt người mà im phăng phắc. Có thể nghe thấy tiếng thở chánh niệm đều đều của những người ngồi kề bên. Trên bục giảng, thiền sư Thích Nhất Hạnh vẫn thuyết pháp với giọng điệu nhẹ nhàng, thong dong.
Những lời giảng của ngài như những giọt sương trong vắt cứ nhẹ nhàng rơi, nhẹ nhàng thấm từng giọt, từng giọt vào những tâm hồn cằn khô vì lo toan, phiền muộn, sầu khổ. “Ai trong chúng ta cũng chẳng có ít nhiều khổ đau. Nhiều người thường sợ phải đối diện và chìm đắm trong biển khổ đau của mình nên tìm mọi cách trốn chạy. Đọc sách báo, xem ti vi, uống rượu, hút thuốc phiện… hoặc vùi đầu trong công việc chồng chất.

Chúng ta không biết làm cách nào để đối diện và chuyển hóa những khổ đau ấy. Chính vì điều này mà trong Kinh quán niệm hơi thở, Bụt khuyên chúng ta trở về và nhận diện những khổ đau trong ta.

Nếu chúng ta biết cách thực tập hơi thở có ý thức, thực tập đi chánh niệm, lái xe chánh niệm và ăn chánh niệm mỗi ngày thì năng lượng chánh niệm trong ta sẽ đủ mạnh để giúp ta trở về, ôm ấp, vuốt ve những lo lắng, sợ hãi, buồn khổ trong lòng và chỉ vài phút sau, những niềm đau, nỗi khổ sẽ vơi đi nhiều. Giống như một bà mẹ bỗng nghe tiếng con khóc. Bà sẽ chạy đến, ôm đứa con vào lòng với tất cả sự trìu mến. Bà mẹ chưa biết chuyện gì xảy ra với đứa bé nhưng cử chỉ yêu thương ấy sẽ làm cho nó hết khóc, hết khổ ngay lập tức. Năng lượng chánh niệm cũng vậy. Chúng ta chưa biết gốc rễ của những niềm đau, nỗi khổ trong ta nhưng nếu ta ôm lấy niềm đau ấy một cách dịu dàng với năng lượng chánh niệm, ta có thể làm dịu đi nhanh chóng cơn đau nhức ấy.

 

Trong Kinh về Bốn sự thật mầu nhiệm (Tứ Diệu Đế), Bụt đã chỉ cho ra cho ta sự thật thứ nhất là khổ. Sự thật thứ hai là bản chất của khổ. Nếu chúng ta biết cách lắng nghe sâu những khổ đau trong chính mình và nhìn sâu vào bên trong với năng lượng của chánh niệm và chánh định thì chúng ta sẽ hiểu được những gốc rễ đưa tới khổ đau đó và thoát khỏi nó. Cái hiểu sẽ làm phát khởi tình thương ngay trong trái tim ta.

Nếu ai đó hỏi tôi rằng: “Làm thế nào để chế tác tình thương yêu?”. Tôi sẽ nói rằng: Chỉ có một cách duy nhất là hãy nhìn sâu vào niềm đau, nỗi khổ của chính mình và tìm cách hiểu chúng. Nếu không, ta không thể hiểu được những khổ đau của người khác và không thể thương yêu ai được”.

Trong các phương pháp tu tập mà Bụt chỉ dạy, có một phương pháp gọi là lắng nghe với tâm từ bi và sử dụng ngôn từ hòa ái. Lắng nghe với tâm từ bi có thể giúp nối lại sự truyền thông.

Nhiều người trong chúng ta luôn tìm cách trốn chạy khỏi chính mình, bởi vì chúng ta không biết cách lắng nghe nỗi khổ của chính mình. Khi chúng ta bắt đầu hiểu được niềm đau của chính mình thì chúng ta có thể truyền thông được với chính mình dễ dàng hơn, nhờ đó, chúng ta sẽ dễ dàng truyền thông với người khác.

Ta có thể nói với người vợ đang khổ đau của ta rằng: “Em ơi! Anh biết em đã chịu nhiều đau khổ. Vậy mà, nhiều năm qua, anh đã làm những điều không phải khiến em khổ thêm bởi anh đã không hiểu được những khổ đau của chính anh và cả của em nữa. Hãy giúp anh em nhé! Hãy nói cho anh biết tất cả những khó khăn của em. Ạnh không muốn tiếp tục phạm phải những sai lầm trước đây và làm cho em khổ thêm nữa”. Nếu mình có thể nói với người thương của mình bằng ngôn ngữ như vậy thì người đó có cơ hội mở lòng mình ra. Khi đó ta có thể áp dụng phương pháp lắng nghe với tâm từ bi. Người thương của ta sẽ bớt khổ liền.

Khi ta đau khổ, ta có xu hướng nghĩ rằng khổ đau của ta là do một người khác gây ra. Chúng ta muốn trừng phạt người đó bởi vì họ đã làm cho ta khổ. Nhưng khi chúng ta thực tập hơi thở có ý thức và nhìn sâu vào nỗi khổ, niềm đau của người đó thì ta sẽ thấy rằng người đó cũng chỉ là nạn nhân của chính khổ đau trong lòng họ nên họ cần được giúp đỡ chứ không đáng bị trừng phạt.

Hoa sen không thể mọc và tỏa hương nếu không có bùn. Hạnh phúc và khổ đau cũng vậy, chúng nương vào nhau. Chúng ta không thể thấy được hạnh phúc ngọt ngào nếu như chưa nếm trải vị cay đắng của khổ đau. Nếu ta chưa bao giờ bị đói, ta sẽ không biết trân quý món ăn. Nếu ta chưa bao giờ thấy chiến tranh, ta sẽ không thấy được giá trị của hòa bình. Nếu chúng ta biết áp dụng sự thực tập chánh niệm vào đời sống hàng ngày thì chúng ta có thể tạo ra hạnh phúc ngay bây giờ và ở đây. Năng lượng chánh niệm là suối nguồn của hạnh phúc nhưng năng lượng đó không thể mua được trong siêu thị mà chỉ có thể do chính bản thân ta tự chế tác ra”.

Hơn ngàn quan khách đồng loạt đứng dậy vỗ tay tán thưởng. Khuôn mặt ai cũng ngời lên niềm xúc động, hạnh phúc, hoan hỉ. Trên bục giảng, thiền sư Thích Nhất Hạnh nở nụ cười rạng rỡ.

Ngài giơ đôi bàn tay lên vẫy vẫy – cách tán thưởng của ngài, trông đôi tay như hoa nở. Cả ngàn người bên dưới cũng giơ tay lên vẫy theo trông như một rừng hoa. Rồi ngài chậm rãi bước xuống, hướng dẫn mọi người đi bộ trong chánh niệm. Ngài đi trước, bước từng bước chậm rãi, thảnh thơi. Hàng ngàn người thong thả bước theo. Họ đi trong im lặng. Mỗi bước chân là một niệm cho an lạc, hòa bình, hạnh phúc, thương yêu.

Những bước đi thong dong, an nhiên như sen nở đưa dòng người chảy ra đường, hướng đến công viên Boston. Xe ô tô đang rầm rập chạy trên đường bỗng dừng lại. Những hành khách đang hối hả sải bước trên hè cũng dừng lại, nhường đường cho dòng người thiền hành trong im lặng chuyên chở biết bao năng lượng yên bình, hạnh phúc…

H.A.S.



Nguồn: http://radiovietnam.vn

Thiền sư Thích Nhất Hạnh thăm World Bank

Thiền sư Thích Nhất Hạnh thăm World Bank

Sư Ông trong buổi trò chuyện tại World Bank

Có lẽ Chủ tịch Jim Young Kim thấy nhân viên của World Bank (WB) đang bị sức ép thay đổi đè nặng lên vai nên đã đích thân mời Thiền sư Thích Nhất Hạnh tới thăm và nói chuyện.

Anh Nguyễn Anh Tuấn, cựu Tổng Biên Tập của VietnamNet, hiện là Tổng Biên Tập Diễn đàn toàn cầu Boston, đã gọi điện nhắc nhở tôi tham dự vì ngài là một người Việt ở Làng Mai (Pháp) nổi tiếng khắp thế giới, tựa như Dalai Lama của Tây Tạng. Buổi nói chuyện kéo dài gần 2 tiếng, người dự đông nghịt, dù là đầu tuần. Ngày mai, Thiền sư sẽ có buổi giảng trực tiếp về thiền cho những người đăng ký.

Theo thông báo của ban tổ chức, người muốn dự khá đông và chỗ thì có hạn. Nhân viên phải xin phép nghỉ trọn một ngày để nghe giảng và thực tập về thiền.

Đi theo Thiền sư, tăng đoàn Làng Mai có tới mấy chục thành viên từ khắp thế giới, từ Pháp, Việt Nam, New York, California… Lần đầu mình thấy người phương Tây trong trang phục người xuất gia, chứng tỏ ảnh hưởng của Làng Mai trên thế giới là khá lớn.

Trong lúc đợi, thấy một vị ngồi trên hàng ghế đầu, mình tiến tới làm quen. Không biết xưng hô nên cứ gọi là sư thầy và xưng con. Mãi sau mới biết đây là sư cô Chân Không. Tự giới thiệu và bắt chuyện một lúc, mình cũng nói, ngoài làm việc ở WB, còn là Blogger Hiệu Minh. Sư cô mỉm cười thân thiện, anh Nguyễn Anh Tuấn đã giới thiệu từ trước rồi.

Mình cực kỳ lúng túng, chẳng biết xưng hô thế nào cho phải đạo, vì lần đầu tiếp xúc với người xuất gia. May quá, sư cô Chân Không giải thích cặn kẽ, người xuất gia có nhiều thứ bậc, khá phức tạp. Để cho tiện, Thiền sư Thích Nhất Hạnh được gọi là Sư Ông. Còn cô là nữ nên gọi là sư cô, chắc là tu khá lâu rồi. Sư cô Chân Không gọi mình là “em” nên thấy thoải mái hơn, bắt chuyện dễ dàng.

Sư cô Chân Không (phải) và sư cô Chỉ Nghiêm

Sư cô kể, mỗi người chúng ta đều có một phần tinh hoa của cha, của mẹ từng tế bào. Giỏi giang, tài ba, không phải do người đó tự có, mà do cha mẹ kết mà thành. Có một anh rất giỏi toán, chỉ cần đưa ra ví dụ ngày 22-2-2014, thì anh có thể nói ngay đó là thứ 7. Đầu óc điện tử của anh không phải do anh tạo nên mà nhờ vào phần tinh túy của cha và mẹ. Anh giỏi thì phải cảm ơn cha mẹ. Hiệu là Chân Không – không có ta riêng biệt – một kiểu tu đã đắc đạo.

Có lẽ đến WB, một nơi chuyên xóa đói, giảm nghèo cho thế giới, nên Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã kể về thời thơ ấu của mình, sống trong nghèo khó. Những năm 1960, chiến tranh liên miên, sống ở miền Trung, ngay cạnh vĩ tuyến 17 bom đạn, nhưng Sư Ông đã cùng phật tử lo giúp người nghèo.

Chuyện đơn giản như cái nhà vệ sinh cho nông dân cũng phải làm mẫu, giúp cho họ hiểu “công nghệ” rồi nhân rộng. Đôi khi, lớp học bắt đầu dưới gốc cây đầu làng. Trẻ em đến đông hơn, rồi bị mưa gió nên phải vào nhà tạm.

Chờ đợi chính phủ chắc còn lâu nên các vị sư đi vận động đóng góp. Người góp cây tre, người góp vài gánh tranh, người góp công, giầu hơn thì đóng tiền. Cứ như thế, việc làm từ thiện được nhân rộng. Muốn xóa đói giảm nghèo, ta hãy bắt đầu từ chính bản thân trước. Nội lực sẽ giúp cho người nghèo vượt lên.

Đôi lúc kể về những ngày đã qua, Thiền sư như lặng đi, hội trường im phắc khi nhắc đến chiến tranh, bom đạn và mất mát.

Sư Ông kể cuộc gặp Martin Luther King (MLK) trong một bữa sáng. MLK từng đề cử Thiền sư vào giải Nobel Hòa Bình. Cả hai trao đổi về cuộc chiến phi nghĩa và đồng ý cần có những bước đi nhằm thay đổi tư duy bom đạn bằng hòa bình. Rất tiếc, sau đó MLK bị ám sát, giấc mơ của hai người theo đuổi đấu tranh bất bạo động dang dở.

Tháng 4 năm 1965, đoàn sinh viên Vạn Hạnh, trường đại học do Sư Ông sáng lập, đưa ra thông điệp vì hoà bình “Đã đến lúc hai miền Bắc-Nam của Việt Nam họp lại để tìm một giải pháp chấm dứt chiến tranh và đem lại cho mọi người Việt Nam cuộc sống hoà bình với lòng tôn trọng lẫn nhau.”

Phải 10 năm sau, với bao nhiêu máu đổ của cả hai bên, hòa bình mới có, nhưng di chứng sau gần 40 năm vẫn còn đó. Thiền sư có nhắc đến vụ tự thiêu của nhà sư Thích Quảng Đức tại Sài Gòn năm 1963. Sư Ông cho rằng đây là tín hiệu gửi cho cả thế giới, vì muốn mọi người hãy lắng nghe tâm tư của những người khốn khổ. Việc tự thiêu hoàn toàn không liên quan đến cổ vũ cho bạo lực.

Sau đó Thiền sư có nói về triết lý thiền. Có lẽ người đã đạt đến đỉnh cao về tu nhân tích đức nên có thể gói gọn trong vài câu đơn giản nhưng trở thành nổi tiếng.

“Lắng nghe và thấu hiểu những đau khổ trong nội tâm sẽ giúp chúng ta giải quyết được hầu hết các vấn đề ta gặp phải.”

“Muốn chữa lành cho người khác, trước tiên ta cần tự chữa lành cho chính mình. Để làm được điều đó, ta phải biết cách giải quyết những vấn đề của bản thân. Tuy nhiên, hầu hết mọi người không biết lắng nghe và thấu hiểu những nỗi khổ của chính mình.”

Do cuộc sống hiện đại với công nghệ thay đổi chóng mặt, thế hệ trẻ có xu hướng không muốn đối mặt với nguồn gốc của những khó khăn, thách thức, kể cả khổ đau, mà lại tìm cách giải tỏa bằng vật chất.

Sư Ông khuyên “Suy nghĩ, lời nói và hành động của chúng ta là những điều gây ra sự tức giận, sợ hãi và nghi ngờ cho người khác. Bởi vậy, chúng ta không thể đổ lỗi cho họ mà nên sử dụng ngôn ngữ để hiểu nhau hơn, cũng không nên chỉ trích, buộc tội khi đang lắng nghe họ nói”.

“Người mắc tội với ta thì bản thân họ đã tự chuốc lấy đau khổ vào người.” Có lẽ thế mà đúng thật. Tổng thống Assad từng gây tội ác chống dân tộc mình nên ông đang chuốc lấy hậu họa.

Một người nghe hỏi về công nghệ IT hiện có làm thay đổi cách truyền đạo thiền không, Thiền sư đùa vui, nói rằng dù dùng telephone lần cuối cách đây 30 năm và cho đến thời điểm này, cách truyền thông của người vẫn thấy ổn. Cả hội trường cười ồ.

Thiền sư biết làm cho người nghe không chán về đạo thiền, có vẻ mới tại WB. Có người hỏi làm sao tránh được stress, bị công việc thúc đẩy đúng hẹn. Dường như Thiền sư đã nắm chắc triết lý hạnh phúc là tại tâm, đỉnh cao là ước vọng khó mang tính định lượng, người ta chỉ có thể chọn một trong hai, hoặc hạnh phúc hoặc là số 1.

Sư Ông nhắc đến triết lý, hôm qua là quá khứ, không thể kéo lại được, ngày mai là tương lai chưa chắc chắn. Vì thế cuộc sống hiện tại mới quan trọng. Thiền sư nói có sở hữu chiếc đồng hồ không có số 1, 2, .. 12 như thường lệ, mà chỉ có chữ now, now, now (hiện tại), để nhắc nhở về thời ta đang sống.  Người nghe thán phục sự uyên bác của diễn giả.

Sau này đọc thêm, tôi mới biết, Thiền sư hiện 87 tuổi, không thể tin vào mắt mình. Ông rất nhanh nhẹn và uyên bác, nhà hoạt động toàn cầu về giáo phái thiền, được yêu mến và kính trọng trên khắp thế giới. Thiền sư từng đến Quốc hội Mỹ, Anh, Ấn độ, UNESCO và gần đây sang Hàn Quốc giảng về thiền, về hòa bình, chống chiến tranh. Theo ngài, các chính trị gia cần biết lắng nghe, hiểu Phật giáo thì sẽ biết hòa giải và yêu thương.

Mấy hôm trước, viết về hai người Hàn Quốc là Jim Young Kim, chủ tịch WB, và Ban Ki Mon, Tổng thư ký UN, tôi mơ người Việt tới WB nói chuyện và được người nghe chăm chú. Hôm nay, một phần của giấc mơ đã thành sự thực.

Tiếng Anh của Thiền sư trôi chảy, từ body language (ngôn ngữ cơ thể), đến nội dung chuyển tải rất rõ ràng, chẳng cần một chút giấy tờ. Mọi thứ cứ như tuôn như suối từ trong tim và khối óc của người nói. Gần 2 tiếng mà người nghe vẫn muốn cuộc nói chuyện tiếp, đông người xếp hàng đợi hỏi nhưng thời gian có hạn nên đành thôi.

Nơi đây thường mời chính khách như Bill Clinton, Hillary Clinton, Tony Blair, Al Gore, Ban Ki Mon và nhiều nhà kinh tế, khoa học được giải Nobel…tới đàm đạo. Hôm nay Thiền sư xuất hiện, hẳn nhiều người Việt tại tổ chức quốc tế này cảm thấy tự hào.

Có một câu hỏi của đồng nghiệp đọng mãi trong tôi. Anh nói, sức mạnh mềm của Việt Nam là văn hóa thiền, còn tìm đâu xa. Tại sao ngài Thích Nhất Hạnh và Làng Mai, một cái tên thuần Việt, được cả thế giới ngưỡng mộ về kiến thức và kính trọng về nhân cách, lại ngụ cư ở nước Pháp xa xôi?

 

Sư Ông và tăng đoàn Làng Mai niệm danh hiệu Đức Quán Thế Âm bằng tiếng Phạn (Namo Avalokiteshvara)

Quốc gia nào cũng có người xuất chúng. Vấn đề là sử dụng chất xám, sức mạnh mềm và nền văn hóa như thế nào trong phát triển. Lãnh đạo biết triết lý của đạo thiền, biết sống tại tâm, biết hướng tới Chân Không như vị sư nữ, biết tự hỏi mình như Thiền sư và các đồng môn Làng Mai, thì dân sẽ noi theo và đất nước đó sẽ vượt lên.

Bài và ảnh: HM. 9-9-2013

Nguồn: http://hieuminh.org/2013/09/09/thien-su-thich-nhat-hanh-tham-world-bank/

Một số hình ảnh tại World Bank

Tăng đoàn Làng Mai đến từ khắp nơi

Khoảnh khắc

Tăng đoàn Làng Mai trong thính đường

Sư Ông đang trả lời câu hỏi từ khán giả


Giây phúc vui vẻ

Khoảnh khắc tự tại

Harvard vinh danh Thiền sư Thích Nhất Hạnh


-Người đi tiên phong và nỗ lực không mệt mỏi cho sự nghiệp phát triển trí tuệ, từ bi và hòa bình-

-Nhà lãnh đạo toàn cầu trong phong trào vì hòa bình, nhân quyền và sức khỏe cộng đồng-


Trong chuyến đi giảng dạy và hướng dẫn thực tập ở Bắc Mỹ năm 2013 của tăng thân Làng Mai, trường Đại Học Harvard đã tổ chức một khóa học hai ngày trong chương trình giáo dục thường xuyên (continuing medical education) dành cho các nhà tâm lý trị liệu. Các bác sĩ phải trả 475 đô-la Mỹ để tham dự khóa học hai ngày này; đối với các giới khác như các nhà tâm lý học, giáo chức, nhà văn, tác giả, khảo cứu gia, v.v. thì chỉ cần trả 395 đô-la Mỹ. Số người ghi tên tham dự lên tới 1100 người cho nên khoá học đã được tổ chức tại thính đường lớn của Boston Park Plaza Hotel, vào các ngày 11 và 12 tháng 9 năm 2013. Các giáo sư Christopher Germer, Judy Reiner Platt và Ronald D. Siegel là những vị phụ trách đứng ra tổ chức. Ban giảng huấn gồm có 14 vị: Thiền Sư Nhất Hạnh, Lilian Cheung, Alice Domar, Elissa Ely, Christopher Germer, Devon E. Hinton, Judith V. Jordan, Jon Kabat-Zinn, David Leisner, Judy Reiner Platt, Susan M. Pollak, Ronal Siegal, David A. Sieberweig và Barent Walsh. Chủ đề của khoá học là Thiền Tập và Tâm Lý Trị Liệu (Meditation and Psychotherapy). Trường Đại Học Y Harvard (Harvard Medical School) đã đứng ra tổ chức khoá tu với sự cộng tác của tổ chức Cambridge Health Alliance Physicians.

Ngày đầu, 11-09-2013, học viên được nghe các giáo sư thuyết trình; ngày thứ hai, 12-09-2013, là một ngày thực tập do tăng đoàn Làng Mai hướng dẫn, trong đó có thiền toạ, thiền hành, pháp thoại, động tác chánh niệm, ăn cơm chánh niệm, buông thư và vấn đáp.

Sáng ngày 12-09-2013, lúc 8:30 trước giờ pháp thoại, cả lớp được thực tập thiền hướng dẫn. Trước giờ pháp thoại, giáo sư Julio Frenk, Trưởng khoa Sức khỏe Cộng đồng của trường Đại Học Harvard đã lên giới thiệu Thầy Nhất Hạnh.

Tiếp đó Giáo sư Julio Frenk – đại diện trường Đại Học Y Khoa Harvard và tổ chức Cambridge Health Alliance đã trao tặng Thầy tấm biển đồng danh dự, công nhận Thầy là một người đi tiên phong và nỗ lực không mệt mỏi cho sự nghiệp phát triển trí tuệ, từ bi và hòa bình (to the most Venerable Thich Nhat Hanh for your pioneering and tireless efforts in cultivating compassion, wisdom and peace). Tấm biển đồng được ký tên bởi hai vị: Giáo sư Caroline Shields Walker, Trưởng khoa Y (Faculty of Medicine), và Giáo sư Jack D. Burke, Trưởng khoa Tâm Lý Trị Liệu của trường Đại Học Y Harvard.

 

Biểu đồng danh dự Caroline và Jack D tặng.JPG

Biển đồng danh dự do đại học Harvard kính tặng

 

Trong lời đáp từ, Thầy đã nói: “Cảm ơn sự tin tưởng và thương yêu của quý vị. Chúng tôi, tăng thân Làng Mai, luôn luôn học hỏi, thực tập và phụng sự như một đoàn thể, một cộng đồng, một tăng thân, nên sự tin tưởng, niềm thương yêu và vinh dự này là dành cho tất cả mọi thành phần của tăng thân, trong đó có hàng trăm vị đang ngồi trong thính chúng.”

Cũng vào ngày hôm đó, Giáo sư Julio Frenk, Trưởng khoa trường Đại học Y tế Công cộng Harvard (Harvard School of Public Health) cũng trao tặng cho Thầy một chứng thư công nhận Thầy là một nhà lãnh đạo toàn cầu trong phong trào vì hòa bình, nhân quyền và sức khỏe cộng đồng (Harvard School of Public Health hereby recognizes Zen Master Thich Nhat Hanh as a global leader for peace, human rights, and health). Chứng thư có nội dung như sau:

Trường Đại học Sức khỏe Cộng đồng Harvard bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với Thiền Sư Thích Nhất Hạnh về những lời dạy và pháp môn thực tập của Thiền sư nhằm thúc đẩy một hướng đi chánh niệm phục vụ cho sức khỏe và hạnh phúc của cộng đồng; cũng như về những đóng góp nhiều mặt của Thiền Sư với tư cách một học giả và một nhà hoạt động vì hòa bình cho thế giới.”

Ngày thực tập chánh niệm đã diễn ra thật tốt đẹp, và năng lượng của chánh niệm, của niềm vui sống và của tình huynh đệ được chế tác rất hùng hậu.

Chứng thư do giáo sư Julio Frenk, Trưởng khoa của Đại học Sức khỏe Cộng đồng Harvard trao tặng

Julio Frenk tặng Thầy tấm biển đồng danh dự

 

Sau đây là một vài hình ảnh của khoá học do trường Đại Học Harvard tổ chức:

Đại chúng tụng Namo.JPG

Đại chúng niệm danh hiệu Bồ Tát Avalokiteshvara

Jon Kabat Zinn đặt câu hỏi với Thầy.JPG

Jon Kabat Zinn đặt câu hỏi với Thầy

Thầy thỉnh chuông.JPG

Lắng lòng nghe, lắng lòng nghe, tiếng chuông huyền diệu đưa về quê hương

Ngồi đây ngồi cội Bồ Đề

Thiền hành.JPG

Đi trong chánh niệm

Đại học Hồng Kông vinh danh Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Le trao bang Tien si.2

Sáng ngày 13/3/2014, tại thiền đường Nước Tĩnh, xóm Thượng Làng Mai,  Giáo sư Lap-Chee Tsui, Viện Trưởng (Vice Chancellor and President) Trường Đại Học Hồng Kông đã trao bằng Tiến sĩ Danh Dự trong lĩnh vực khoa học xã hội cho Thầy Làng Mai – Thiền sư Thích Nhất Hạnh để vinh danh những đóng góp của Thầy cho nền hòa bình thế giới.

Trong bài diễn văn tại buổi lễ, Giáo sư Michael Wilkinson thay mặt Ban Giám học của Trường đã phát biểu rằng: “Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã dành trọn cuộc đời mình cho sự nghiệp nhân đạo và hòa bình trên thế giới.  Thầy thực sự là một bậc thầy lỗi lạc và là nguồn cảm hứng lớn lao cho chúng ta (“Zen Master Thich Nhat Hanh  has dedicated his life to humanitarian work and world peace. He is a truly remarkable and inspirational man”).

Đại học Hồng Kông đã gửi thư mời Thầy sang Hồng Kông để nhận bằng Tiến sĩ Danh dự nhân Đại hội lần thứ 190 của trường (được tổ chức vào ngày 18/3/2014). Tuy nhiên, do thời gian này ở Làng Mai đang có khóa tu mùa xuân nên Thầy không sang được. Vì vậy mà đoàn đại biểu của Trường (gồm 7 người) đã bay từ Hồng Kông sang để trao tặng Thầy tấm bằng danh dự này.

Đại học Hồng Kông là một trong những trường đại học hàng đầu châu Á và xếp thứ 26 trên bảng tổng sắp các trường đại học danh tiếng trên thế giới (theo đánh giá của Quacquarelli Symonds World University Rankings năm 2013). Bằng Tiến sĩ Danh dự là học vị cao quý nhất mà Đại học Hồng Kông trao tặng để vinh danh các cá nhân có những đóng góp to lớn cho nhân loại và cho thế giới. Tổng tống Bill Clinton, Mẹ Teresa, Tổng thống Nelson Mandela, Giáo sư Hồ Thích (Trung Quốc), Cựu Thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu, và Vua Edward VIII (nước Anh) là những người đã được Đại học Hồng Kông trao tặng học vị cao quý này.

Le trao bang Tien si.1

Thông điệp dành cho các bạn trẻ

Trong bầu không khí ấm áp, thân tình, với sự có mặt của tứ chúng Làng Mai, Thầy đã có lời chia sẻ với đoàn đại biểu của Đại học Hồng Kông cũng như với các sinh viên của trường (được chuyển ngữ từ nguyên bản tiếng Anh):

“Chúng tôi rất cảm kích và biết ơn trường Đại học Hồng Kông đã dành cho chúng tôi vinh dự này. Cảm ơn quý vị đã trân quý và tin tưởng chúng tôi. Chúng tôi xin đón nhận tấm bằng danh dự này như một nghĩa cử của tình huynh đệ, lòng từ bi và nhân ái của quý vị. Chắc quý vị cũng biết Làng Mai không chỉ ở nước Pháp mà còn có mặt ở khắp nơi. Chúng tôi đã giúp thành lập hàng ngàn tăng thân thực tập chánh niệm trên thế giới. Ở Hồng Kông cũng đã có trung tâm tu học của Làng Mai. Chúng tôi không hoạt động như một cá nhân mà luôn hoạt động như một Tăng thân. Vì vậy, vinh dự lớn lao này cũng thuộc về mọi thành phần của tăng thân.

Trong đạo Bụt, chúng tôi thực tập tuệ giác vô ngã. Nếu chúng tôi có thể làm được  điều gì để giúp thế giới này thì đó là nhờ có tăng thân. Nếu không có tăng thân, chúng tôi không thể làm được gì cả. Đức Bụt sau khi thành đạo đã nhận ra điều này, vì vậy mà việc đầu tiên Ngài làm là đi tìm những thành phần để xây dựng tăng thân. Bụt là một bậc thầy về xây dựng tăng thân. Bụt biết rằng nếu không có một tăng thân thì Bụt khó có thể thực hiện được ước nguyện giúp đời của mình. Vì vậy mà Bụt đã dành rất nhiều thời gian để xây dựng tăng thân. Ngay trong năm đầu tiên sau khi thành đạo, Bụt đã thành lập được tăng đoàn với 1250 xuất sĩ và tăng đoàn đó không ngừng lớn mạnh. Lần cuối cùng gặp Bụt, Vua Ba Tư Nặc đã thưa với Bụt là mỗi khi nhìn thấy tăng đoàn là vua lại có thêm niềm tin lớn nơi Bụt.

Khi tôi gặp mục sư Martin Luther King lần đầu tiên tại Chicago năm 1966, chúng tôi đã cùng nhau chia sẻ về việc xây dựng tăng thân, bởi vì Mục sư Luther King cũng biết rằng nếu không có một tăng thân thì chúng tôi không thể nào thực hiện được giấc mơ của mình. Thay vì sử dụng từ “tăng thân” (Sangha), Mục sư Luther King dùng từ “cộng đồng yêu quý” (beloved community). Lần thứ hai gặp nhau tại Geneva, chúng tôi cũng tiếp tục thảo luận về chủ đề này. Tôi đã nói với Mục sư Luther King là người Việt Nam xem Mục sư như một vị đại Bồ tát, một người suốt đời tranh đấu cho nhân quyền, cho công bằng xã hội. Tôi rất vui vì đã nói được điều đó với Mục sư Luther King, vì chỉ ba tháng sau đó thì Mục sư bị ám sát và không còn có thể tiếp tục sự nghiệp xây dựng tăng thân được nữa. Tôi đang ở New York thì nghe tin về vụ ám sát. Chuyện này làm cho tôi bị ốm một thời gian. Và tôi tự hứa với mình rằng tôi phải tiếp tục sự nghiệp xây dựng tăng thân, không chỉ cho tôi, cho chúng ta mà còn cho cả Mục sư Luther King nữa.

Điều mà tôi muốn nhắn gửi đến các bạn trẻ là: nếu các bạn có một giấc mơ lớn và muốn cho giấc mơ đó thành tựu thì các bạn cần có một tăng thân. Tăng thân là một đoàn thể mà ở đó có tình huynh đệ và sự hòa hợp. Muốn xây dựng được tăng thân, các bạn phải đầu tư rất nhiều thời gian và tâm sức mới có thể làm được. Gia đình cũng có thể là một tăng thân, trường học của các bạn cũng có thể là một tăng thân. Nếu có tình huynh đệ, có hiểu và thương thì chúng ta có thể thực hiện được giấc mơ của mình. Đó là lý do vì sao việc xây dựng tăng thân là dành cho tất cả mọi người. Dù anh là giám đốc của một công ty, anh cũng có thể biến công ty của mình thành một tăng thân – một đoàn thể mà ở đó mọi người có cơ hội học cách xây dựng tình huynh đệ, chế tác hiểu biết và thương yêu, chứ không phải chỉ là nơi để tìm kiếm lợi nhuận mà thôi. Chúng ta cần những nhà doanh nghiệp tham gia vào sự nghiệp xây dựng tăng thân để làm cho thế giới của chúng ta trở nên tốt đẹp hơn.

Làng Mai chúng tôi cũng là một trường học. Những gì chúng tôi học ở đây là làm thế nào để chế tác năng lượng bình an, chế tác niềm vui và hạnh phúc trong thân tâm. Chúng tôi cũng học cách xử lý những khổ đau trong tự thân. Bởi vì chúng tôi biết rằng nếu chúng tôi có thể làm được điều đó cho chính mình thì chúng tôi cũng sẽ giúp được cho những người khác. Vì vậy ở Làng Mai, thầy và trò cùng học với nhau, chúng tôi muốn xây dựng một tăng thân, một môi trường lành mạnh nơi mọi người có thể được nuôi dưỡng và chuyển hóa. Chúng tôi cùng nhau tổ chức những ngày quán niệm, những khóa tu để giúp cho mọi người đến tu học, thực tập và chuyển hóa, để có thể vơi bớt khổ đau trong lòng và tìm lại được niềm vui sống. Các khóa tu kéo dài trong một tuần, hoặc  2 – 3 tuần, hoặc 3 tháng. Chúng tôi luôn chứng kiến những chuyển hóa và trị liệu xảy ra trong các khóa tu.

Sự thực tập chế tác bình an, niềm vui và hạnh phúc trong đời sống hàng ngày cũng như thực tập xử lý khổ đau, sử dụng chất liệu khổ đau để chế tác hạnh phúc, đó chính là nguồn thức ăn rất lành mạnh nuôi dưỡng chúng tôi.  Sử dụng bùn để trồng sen là nội dung học hỏi và thực tập của chúng tôi ở đây. Vì vậy mà việc học ở trong lớp chỉ là một phần nhỏ trong sự thực tập của chúng tôi. Chúng tôi còn học cách làm việc chung với nhau, học chơi đá banh, chơi bóng rổ với nhau, học nấu ăn hay tổ chức khóa tu cùng nhau. Trong khi làm việc hay chơi cùng nhau, chúng tôi chế tác tình huynh đệ, sự hòa hợp và bình an. Chính điều này nuôi dưỡng chúng tôi và nuôi dưỡng cả những người đến và thực tập cùng với chúng tôi.

Vì vậy mà điều đầu tiên tôi muốn nhắn gửi đến các bạn trẻ ngày nay là: nếu các bạn có một giấc mơ trong cuộc đời và muốn giấc mơ đó được thành tựu thì hãy xây dựng một tăng thân.

Điều thứ hai tôi muốn nhắn gửi đến các bạn trẻ là: hãy mở rộng tình thương của mình để ôm trọn cả hành tinh này, không nên giới hạn tình thương của mình chỉ với đất nước và dân tộc mình mà thôi. Chính tôi đã nhận ra rằng quê hương tôi là cả hành tinh này, cả trái đất này. Tôi không giới hạn tình thương của mình trong một dải đất ở châu Á có tên là Việt Nam mà thôi. Tôi đã được chuyển hóa và trị liệu rất nhiều nhờ vào cái thấy này. Có thể tình thương trong bạn còn quá nhỏ bé, bạn cần làm cho tình thương đó lớn rộng ra để bao trùm cả trái đất này. Đó là tình thương của một vị Bụt, tình thương của những bậc đại nhân như Mahatma Gandhi, Martin Luther King, Mẹ Teresa, v.v. ”

Đối thoại về Tuổi trẻ Ngày nay
Nhân dịp này, Thầy Làng Mai và Giáo sư Lap-Chee Tsui, Viện Trưởng Trường Đại Học Hồng Kông đã có buổi đối thoại về chủ đề Tuổi trẻ Ngày nay. (Ban biên tập xin chia sẻ với các bạn trong một vài ngày tới. Xin các bạn đón đọc.)


 


Đối thoại về Tuổi trẻ ngày nay

Sáng ngày 13/3/2014, tại thiền đường Nước Tĩnh, xóm Thượng Làng Mai,  Giáo sư Lap-Chee Tsui, Viện Trưởng Trường Đại Học Hồng Kông đã trao bằng Tiến sĩ Danh Dự trong lĩnh vực khoa học xã hội cho Thầy Làng Mai – Thiền sư Thích Nhất Hạnh để vinh danh những đóng góp của Thầy cho nền hòa bình thế giới. Nhân dịp này, Thầy Làng Mai và Giáo sư Lap-Chee Tsui, Viện Trưởng cùng Giáo sư Lee Chak Fan – Giám đốc Trường giáo dục chuyên môn thường xuyên (HKU SPACE) của Đại học  Hồng Kông đã có buổi đối thoại về chủ đề Tuổi trẻ ngày nay. (Ban biên tập xin được trích dẫn một số nội dung chính của buổi đối thoại – nội dung được chuyển ngữ từ tiếng Anh)

 

Viện trưởng: Trong những năm qua, Đại học Hồng Kông đã không ngừng đổi mới chương trình dạy và học, cải tiến cách thức giảng dạy và nâng cấp môi trường đào tạo, v.v. Theo Thiền sư, chúng tôi có thể làm gì hơn nữa để đem lại cho sinh viên một môi trường học tập tốt hơn?

Thầy: Tôi nghĩ chương trình của trường như vậy là đầy đủ rồi. Điều tôi muốn đề nghị với quý vị là làm sao để thực hiện các chương trình đó cho có hiệu quả hơn. Tôi muốn nói về những kỹ năng truyền thông (communication skills). Đúng là chúng ta hiện nay đang ở trong tình trạng bị quá tải thông tin. Thông tin thì tràn ngập nhưng sự hiểu biết thì lại thiếu. Có nhiều thông tin không có nghĩa là chúng ta có thể hiểu được chính mình và hiểu được thực tại. Để hiểu được, chúng ta cần phải biết cách lắng nghe và biết cách sử dụng ái ngữ. Vì vậy mà tôi đề nghị là quý vị có thể tổ chức những khóa học về kỹ năng truyền thông để chỉ dẫn cho mọi người cách thức sử dụng ái ngữ và lắng nghe.

Lắng nghe trước tiên là lắng nghe chính mình, bởi vì ai trong chúng ta cũng có những niềm đau, nỗi khổ trong tự thân. Vì vậy mà chúng ta phải lắng nghe những khổ đau trong chính mình, chúng ta phải có mặt và ôm ấp nỗi khổ, niềm đau đó. Lắng nghe để hiểu được khổ đau của chính mình. Khi đã hiểu được khổ đau của chính mình rồi, ta mới có thể hiểu được khổ đau của người khác. Người đó có thể là cha, mẹ, vợ, chồng, thầy cô giáo hay học sinh của chúng ta. Đó là kinh nghiệm của chúng tôi ở Làng Mai.

Chúng ta cần phải học cách lắng nghe để hiểu khổ đau của chính mình. Bởi vì khổ đau của chúng ta có liên hệ mật thiết tới khổ đau của cha, của mẹ, của ông bà tổ tiên. Một khi đã hiểu được khổ đau của chính mình rồi, chúng ta sẽ hiểu được khổ đau của cha mẹ và ông bà tổ tiên. Khi đó chúng ta mới có thể thoát khỏi ngục tù của khổ đau.

Từ kinh nghiệm của mình, chúng ta có thể nhìn vào khổ đau của người khác, và ta có thể hiểu được nỗi khổ, niềm đau của người đó dễ dàng hơn. Một khi đã thấy và hiểu được khổ đau của người đó thì cơn giận trong lòng ta sẽ tan biến và tình thương trong ta ứa ra. Ta bắt đầu nhìn người đó bằng đôi mắt từ bi. Và người kia cũng sẽ bớt khổ liền khi đón nhận ánh mắt thương yêu đó. Sự truyền thông giữa ta và người kia có thể được nối lại một cách dễ dàng. Đó là sự thực tập chánh niệm về khổ đau, ý thức về khổ đau trong chính mình và khổ đau nơi người khác.

Khi đã hiểu được khổ đau nơi mình và nơi người thì tự nhiên giọng nói của ta cũng chứa đựng năng lượng từ bi. Cách nói của chúng ta cũng có thể giúp nối lại truyền thông, bởi vì giọng nói của ta không còn năng lượng trách móc, buộc tội nữa. Chỉ cần nửa giờ hoặc một giờ thôi là chúng ta có thể nối lại truyền thông và hàn gắn lại mối liên hệ của mình.

Tôi nghĩ người trẻ có thể học được điều này từ trường học, và khi trở về nhà, các em có thể hàn gắn lại mối liên hệ của mình với cha, với mẹ, với anh chị em trong gia đình mình. Kinh nghiệm ở Làng Mai cho thấy những người trẻ sau khi tham gia các khóa tu đều trở về hòa giải với cha mẹ và gia đình mình. Đây cũng là sự thực tập giới thứ tư trong Năm Giới mà Làng Mai chúng tôi đang hành trì – sự thực tập ái ngữ và lắng nghe.

Tôi nghĩ rằng thầy cô giáo cần phải dành thời gian để lắng nghe khổ đau của các sinh viên. Điều này rất cần thiết. Bởi vì nếu sinh viên có quá nhiều khổ đau thì thầy cô giáo cũng rất khó có thể truyền đạt kiến thức cho các em. Vì vậy mà việc giúp các em bớt khổ cũng giúp ích rất nhiều cho việc dạy và trao truyền kiến thức. Chúng ta có thể tổ chức như thế nào để thầy cô giáo có cơ hội lắng nghe học trò của mình.

Nếu thầy cô giáo biết cách lắng nghe và hiểu được khổ đau của chính mình thì cũng có thể lắng nghe và hiểu được những khổ đau của các học trò, có thể giúp cho các em bớt khổ liền chỉ sau một giờ thực tập lắng nghe. Khi thầy cô giáo có thể lắng nghe và hiểu được khổ đau của học trò mình thì học trò cũng sẽ lắng nghe khi thầy cô giáo có khổ đau trong lòng. Bởi vì thầy cô giáo cũng có rất nhiều nỗi khổ, niềm đau. Nếu các em đã thấy và đã hiểu được khổ đau của thầy cô giáo thì sự truyền thông sẽ trở nên dễ dàng, và như vậy việc dạy và học cũng sẽ trở nên dễ dàng hơn.

Chúng tôi đã khám phá ra điều này nhờ vào kinh nghiệm có được khi đào tạo các giáo viên về chánh niệm. Vì vậy chúng tôi thấy rằng sự thực tập ái ngữ và lắng nghe giữa thầy cô giáo và học sinh, sinh viên có thể giúp làm thay đổi môi trường học đường, và giúp cho việc dạy và học trở nên tốt hơn. Tôi nghĩ quý vị có thể đưa sự thực tập này vào nội dung đào tạo dành cho các giáo viên của trường. Muốn tốt nghiệp khóa học này, các giáo viên không chỉ nắm lý thuyết mà còn phải thực tập lắng nghe khổ đau của chính mình và khổ đau của những người xung quanh. Đây là một sự thực tập rất hay. Và nó luôn luôn có hiệu quả. Có những người chỉ tham dự khóa tu với chúng tôi trong vòng năm ngày và khi về nhà, người đó đã có thể hòa giải với vợ/chồng hoặc con cái của mình. Phép lạ của sự hòa giải là điều luôn xảy ra trong các khóa tu ở Làng Mai.

Chúng tôi đã từng bảo trợ cho các nhóm người Palestine và Israel đến Làng để thực tập. Ban đầu họ không thể nào nhìn mặt nhau. Vì vậy trong những ngày đầu, mỗi nhóm được hướng dẫn thực tập riêng. Chúng tôi hướng dẫn cho họ thực tập thở và đi như thế nào để buông bỏ những căng thẳng trong thân tâm và tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống để được trị liệu. Nhiều ngày sau đó, chúng tôi sắp xếp cho hai nhóm ngồi lại với nhau và mời họ thực tập ái ngữ và lắng nghe nhau.

Một nhóm bắt đầu chia sẻ trước và họ được chúng tôi hướng dẫn cách sử dụng ái ngữ trong khi nói để giúp cho những người ở nhóm kia có thể hiểu được khổ đau của mình:

“Các bạn có quyền nói lên tất cả những khổ đau mà chính bạn cũng như con cái của bạn đã và đang trải qua trong cuộc xung đột, nhưng điều quan trọng là phải nói như thế nào để những người ở phía bên kia có thể dễ dàng tiếp nhận. Lời nói không nên có tính buộc tội, trách móc và thù hận, đó là ái ngữ.

Trong khi nhóm này chia sẻ thì nhóm kia thực tập lắng nghe và cố gắng không ngắt lời, không đính chính. Bởi vì nếu ngắt lời hoặc đính chính trong lúc này thì ta sẽ biến một buổi thực tập lắng nghe trở thành một cuộc tranh luận, và như vậy thì sẽ hỏng hết mọi chuyện.

Các bạn có thể tự nói với mình rằng: Mình đang thực tập lắng nghe với tâm từ bi. Mình chỉ lắng nghe thôi, bởi vì mình muốn cho người kia có cơ hội nói ra nỗi lòng của mình, nhờ vậy mà người kia bớt khổ. Nếu người đó có nói những điều không đúng với sự thật, nếu người đó đang có tri giác sai lầm hay buộc tội thì mình vẫn tiếp tục lắng nghe, bởi vì mục đích của mình là cho người đó có cơ hội nói ra để cho người đó bớt khổ.

Nếu ta có thể duy trì chánh niệm về lòng từ bi trong suốt thời gian nghe thì ta có thể ngồi nghe người đó chia sẻ trong một giờ đồng hồ. Lắng nghe như vậy giúp cho chúng ta chuyển hóa và trị liệu rất lớn, ta sẽ có thể nhìn những người ở phía bên kia với con mắt từ bi. Khi đã trị liệu được cho chính mình rồi, ta có thể giúp cho những người kia cũng làm được như vậy.

Có thể ngày mai đến lượt nhóm của bạn chia sẻ, bạn hãy cố gắng sử dụng ngôn ngữ hòa ái để nói lên những khổ đau của mình. Bạn nói không phải với mục đích trách móc hay buộc tội, mà chỉ với mục đích là để cho những người ở nhóm bên kia hiểu được những khổ đau của bạn mà thôi.”

Trong khi thực tập lắng nghe như vậy, nhóm này bắt đầu hiểu được những khổ đau của nhóm kia. Họ nhận ra rằng những người ở phía bên kia cũng là những con người như họ và cũng đã gánh chịu những khổ đau mà họ đã trải qua. Khi đã hiểu được khổ đau của nhau rồi thì họ không còn thù hận nhau được nữa.

Cuối cùng thì hai nhóm người Palestine và Israel đã đến được với nhau, họ cùng ăn cơm im lặng, cùng nắm tay nhau đi thiền hành. Sau khóa tu, họ cùng nhau đến chia sẻ với chúng tôi về kết quả thực tập của mình: họ đã được chuyển hóa và trị liệu. Trước khi trở về Trung Đông, họ hứa với chúng tôi rằng họ sẽ tiếp tục thực tập cùng nhau, và sẽ tổ chức cho những người Palestine và Israel khác được đến và học cách chuyển hóa khổ đau như họ. Do vậy, có thể nói rằng phép lạ của sự chuyển hóa và trị liệu là điều có thể xảy ra, cho dù có những tình huống rất khó khăn như trường hợp của người Palestine và Israel.

Vì vậy tôi nghĩ rằng nếu các trường đại học có những khóa đào tạo về ái ngữ và lắng nghe thì sự chuyển hóa và trị liệu sẽ xảy ra ngay trong trường. Khi đã thành công ở trường học, chúng ta có thể mở rộng ra và đem sự thực tập đến với gia đình và toàn xã hội. Đó là mong ước của chúng tôi. Cũng vì lý do này mà các vị giáo thọ của Làng Mai đã và đang tổ chức rất nhiều khóa đào tạo cho thầy cô giáo và các bậc phụ huynh với mong muốn đem sự thực tập đến với mọi người, mọi thành phần trong xã hội.

Le trao bang Tien si.5

Viện trưởng: Hiện nay trên thế giới đang xảy ra tình trạng những người trẻ sau khi tốt nghiệp không tìm được việc làm. Điều này khiến cho giới trẻ luôn sống trong trạng thái bất an và nhiều buồn giận. Xin Thầy chia sẻ tuệ giác của mình để giúp cho người trẻ có thể đối diện với hoàn cảnh khó khăn hiện nay và tìm lại được niềm vui sống.

Thầy: Những người không có việc làm chắc chắn là khổ rồi, nhưng tôi thấy ngay cả những người có việc làm cũng vẫn khổ như thường. Vì vậy đây không phải là vấn đề của những người không có việc làm mà thôi.

Như quý vị đã thấy, trong tăng thân chúng tôi, nhiều người đã từng có công ăn việc làm rất tốt nhưng họ đã từ bỏ những công việc đó để trở thành “thất nghiệp”. Tôi nghĩ chúng ta phải nói với người trẻ về hạnh phúc chân thực là gì. Bởi vì nhiều người nghĩ rằng hạnh phúc được làm bởi tiền tài, danh vọng, địa vị, sắc dục, v.v. Và nếu không đạt được những thứ đó thì họ khổ. Nhưng chúng ta thử nhìn xem, trong xã hội có nhiều người đã có đầy đủ những thứ đó nhưng vẫn tiếp tục khổ đau, thậm chí có nhiều người còn đi đến chỗ tự tử.

Vì vậy, theo tôi, hạnh phúc chân thực chỉ có được khi ta được hiểu, được thương, và ta có khả năng hiểu và thương những người khác. Chúng ta hoàn toàn có thể sống hạnh phúc mà không cần có nhiều tiền bạc. Ở Làng Mai, chúng tôi đang chứng minh cho điều đó. Ở đây các thành viên trong tăng thân không ai có nhà riêng, xe riêng, tài khoản riêng và cũng không có lương hàng tháng. Nhưng chúng tôi đâu có khổ, chúng tôi rất hạnh phúc, các bạn có thể thấy chúng tôi vui cười cả ngày. Đó là bởi vì chúng tôi sống trong sự hòa hợp và biết cách chế tác tình huynh đệ. Ngoài ra, chúng tôi thấy mình sống có ích và giúp được cho nhiều người bớt khổ. Chúng tôi thấy rằng hạnh phúc chân thực được làm bởi lòng từ bi và tình thương chân thực. Vì vậy mà dù ta sống rất giản dị và tiêu thụ rất ít thì ta vẫn có thể hạnh phúc như thường.

Tôi nhớ trong một buổi nói chuyện với các học giả, các nhà lý luận theo chủ nghĩa Mác-xít tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tại Hà Nội, tôi có chia sẻ với họ về nếp sống ở Làng Mai: chúng tôi không ai có tài khoản riêng, nhà riêng, thậm chí không có điện thoại riêng, máy vi tính riêng, cũng không có lương hàng tháng, và tôi nói rằng: “chúng tôi mới là những người cộng sản thứ thiệt!”. Tất cả mọi người có mặt ở đó đều cười lớn. Bởi vì đó là sự thật mà ai cũng có thể thấy.

Vì vậy theo tôi, điều quan trọng là chúng ta cần thay đổi quan niệm về hạnh phúc. Mỗi người trong chúng ta đều có một ý niệm về hạnh phúc và ý niệm đó có thể là trở ngại chính ngăn chúng ta tiếp xúc với hạnh phúc chân thực. Nếu chúng ta chưa tìm được việc làm thì chúng ta vẫn có thể sống một cách đơn giản, tiêu thụ ít lại nhưng vẫn có thể hạnh phúc hơn nhiều người đang có rất nhiều tiền bạc, địa vị và quyền lực trong xã hội.

Đó là lý do vì sao công tác giáo dục đóng vai trò rất quan trọng. Chúng ta cần đưa những nội dung như nghệ thuật xử lý khổ đau và chế tác hạnh phúc vào giảng dạy tại trường học. Điều này rất quan trọng. Tôi nghĩ các thầy cô giáo là những người cần phải nắm cho được nghệ thuật chế tác hạnh phúc và xử lý khổ đau, rồi sau đó mới trao truyền lại cho các sinh viên của mình. Chúng ta cần phải bắt đầu với các giáo viên trước. Thầy cô giáo hạnh phúc thì học trò cũng sẽ hạnh phúc và thế giới này cũng nhờ đó mà trở nên tốt đẹp hơn.

Giáo sư Lee Chak Fan: Chúng tôi vô cùng biết ơn Thầy vì đã dành cho chúng tôi những lời chia sẻ rất quý báu. Chúng tôi hoàn toàn đồng ý với đề nghị của Thầy: điều cần làm trước tiên là phải đào tạo để có những thầy cô giáo hạnh phúc. Làng Mai là một điển hình để chúng tôi học theo. Quý vị ở đây có một vị thầy lỗi lạc và biết sống hạnh phúc, nhờ vậy mà tạo ra được một môi trường đầy an lạc như Làng Mai ngày nay. Đây có lẽ là điều mà chúng tôi cần học hỏi từ Thầy để áp dụng cho Đại học Hồng Kông. Một điều nữa mà chúng tôi thấy có thể làm được, đó là gửi những người trẻ của trường đến Làng Mai để học về chánh niệm (chúng tôi rất vui khi được biết trong số quý thầy, quý sư cô Làng Mai có một sư cô đã từng là sinh viên của Đại học Hồng Kông).

Kết thúc buổi đối thoại, Thầy Làng Mai tặng quà lưu niệm cho Đoàn đại biểu của Đại học Hồng Kông bằng bức thư pháp “Happy teachers will change the world” (Thầy cô giáo hạnh phúc sẽ làm thay đổi thế giới). Mặc dù chỉ thăm Làng Mai được một ngày thôi nhưng đoàn đại học Hồng Kông đã có cơ hội thưởng thức rất nhiều “đặc sản” của Làng như thiền hành, thiền tọa, thiền trà, ăn cơm im lặng,…và đặc biệt hơn cả là không khí đầm ấm của một gia đình tâm linh. Có lẽ đây là lần đầu tiên các thành viên trong đoàn được chứng kiến một buổi lễ trao bằng Tiến sĩ danh dự trong không khí ấm áp và thân tình đến vậy. Đúng như lời của Thầy Làng Mai: “Chúng tôi không hoạt động như một cá nhân mà luôn hoạt động như một Tăng thân. Vì vậy, vinh dự lớn lao này cũng thuộc về mọi thành phần của tăng thân”.

Le trao bang Tien si.6

Nhà thơ Trần Đăng Khoa nói về Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Nhân dịp nhà báo Hoàng Anh Sướng ra mắt bạn đọc cuốn sách “Hạnh phúc đích thực” – tập hợp những bài viết của anh về cuộc đối thoại thú vị với Thiền sư Thích Nhất Hạnh về hạnh phúc, được đăng trên báo Tuổi trẻ & Đời sống, nhà thơ Trần Đăng Khoa đã chia sẻ với các thính giả của Đài tiếng nói Việt Nam (VOV) về Thiền sư Thích Nhất Hạnh và về cuốn sách này. BBT xin được trích đăng dưới đây:

Có lẽ với đông đảo người đọc, Thiền sư Thích Nhất Hạnh không còn xa lạ. Ông là một trong những đại Thiền sư nổi tiếng nhất thế giới, người được các Phật tử xem như là một vị Phật sống tái thế. Những cuốn sách của ông, những bài thuyết pháp của ông được lưu truyền trên khắp hành tinh. Từ những năm bảy mươi của thế kỷ trước, ông đã là ứng cử viên của Giải Nobel hòa bình. Tôi biết ông có phần muộn hơn, nhưng cũng trước Hoàng Anh Sướng đến cả hàng chục năm.

Dịp ấy đang độ xuân. Như mọi người dân Việt, tôi đưa vợ con đi lễ chùa Bồ Đề (Gia Lâm, Hà Nội). Ngôi chùa này, Thiền sư Thích Nhất Hạnh và tăng đoàn Làng Mai đã từng đến thuyết pháp. Thế rồi, trong lúc chờ vợ hóa vàng, tôi dắt con gái đi dạo chơi vãn cảnh chùa. Tôi thực sự ngạc nhiên khi nhìn thấy trong cửa hàng bán Kinh Phật cùng sách Tử vi bói toán, có rất nhiều đĩa CD thuyết pháp của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, cả đĩa hình, đĩa tiếng, nhưng đều bán đồng loạt một giá như nhau, và bán rất rẻ, chỉ có hai ngàn đồng một đĩa. Số tiền ấy không đủ mua một gói kẹo lạc hay một mớ rau muống. Nhưng nhờ với giá rẻ như thế mà một em bé đánh giầy lang thang cơ nhỡ hay một bà hành khất cũng dễ dàng có được cả một buổi thuyết pháp của một vị Thiền sư lừng danh thế giới. 

Tôi mua một vài đĩa về nhà nghe thử. Nghe cũng vì tò mò. Nhưng nghe rồi, tôi bắt đầu mê các bài thuyết pháp của ông. Tôi rất kinh ngạc khi trong các bài pháp thoại của vị Thiền sư nổi tiếng thế giới mà lại không thấy chùa, không thấy Kinh, không thấy cả Phật nữa, chỉ toàn những chuyện đời thường của mình, của gia đình mình, của những người thân. Nó vô cùng giản dị như muôn mặt của đời sống. Thiền sư hướng dẫn giúp ta làm sao có được sự an lạc, thảnh thơi giữa đời sống bộn bề những lo toan, hờn trách. Làm thế nào để có thể đứng vững trước bao nhiêu bão táp, mưa giông, bon chen, đố kỵ. Rồi cách ứng xử để lập truyền thông với bố mẹ, vợ chồng, con cái, bạn bè, để có tình yêu thương đích thực, để được hiểu và được thương. Đặc biệt, ta cần phải làm gì khi người thân mất? 

Người mất thì họ đi về đâu? Tôi rất thích lối diễn giải của Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Ông bắt đầu câu chuyện từ một giọt mưa. Giọt mưa rơi xuống phiến đá. Ta nhìn thấy rõ giọt nước ấy. Nó long lanh sáng. Rồi nó thẫm dần như một chấm nâu. Ta nhắp đi, ngoảnh lại, không còn thấy nó nữa. Lại nghĩ, giọt mưa đã chết. Nó đã biến khỏi mặt đất. Nhưng không! Giọt mưa không chết. Nó cũng không biến đi. Nó vẫn đang tồn tại. Nhưng tồn tại trong một hình dạng khác. Nó đã thành một đám mây che mát trên đầu ta. Rồi từ mây, nó hóa tiếp cơn mưa, tưới mát lành cả mặt đất. 

Cũng tương tự như thế, khi bố mẹ ta chết, bố mẹ cũng có mất đâu. Bố mẹ vẫn tồn tại, nhưng tồn tại ở một dạng khác. Bố mẹ vẫn luôn ở trong ta, trong từng tế bào cơ thể ta. Không cần phải xét nghiệm ADN, ta chỉ đứng trước gương. Thấp thoáng sau gương mặt ta là gương mặt bố mẹ, gương mặt của ông bà, và xa hơn nữa là các cụ kỵ, tổ tiên ta. Tổ tiên vẫn luôn hiện hữu ở ngay trong ta. Vậy thì ta phải sống thế nào, tu thế nào để gương mặt ta luôn sáng đẹp. Gương mặt ta sáng đẹp, tâm hồn ta sáng đẹp, thì gương mặt bố mẹ, ông bà, tổ tiên cũng sáng đẹp.

Bàn được đến thế là sâu sắc lắm!

Tôi cũng rất ám ảnh bởi câu chuyện của Thiền sư Thích Nhất Hạnh về một người lính Mỹ. Anh tham trận ở Việt Nam. Trong một trận càn, anh đã giết một đứa trẻ con. Đứa trẻ hoàn toàn vô tội. Vì thế, anh ân hận, dằn vặt và đau khổ. Nhiều người lính khác cũng thế. Đó là những người tốt. Chỉ những người tốt mới biết ân hận. Trở về Mỹ, họ mắc một căn bệnh – bệnh hội chứng chiến tranh Việt Nam. Có người bị tâm thần, không còn sống được bình thường, cũng không có bệnh viện nào chữa khỏi. Họ tìm đến Thiền sư Thích Nhất Hạnh, học một khóa tu của Ngài. 

Thiền sư bảo, dẫu sao anh cũng đã giết người. Bây giờ, anh có dằn vặt, ân hận hay đổi cả mạng sống của mình thì đứa trẻ ấy cũng không thể sống lại được nữa. Tội của anh rất nặng. Nhưng anh vẫn có thể thoát được nghiệp chướng. Đứa trẻ không sống lại được, nhưng vẫn còn rất nhiều những đứa trẻ khác đang nguy kịch. Chúng đang đói khát và tật bệnh. Chúng sẽ chết nếu như không được cứu. Vậy thì anh hãy cứu chúng đi. Anh cứu được một đứa trẻ thoát khỏi cái chết là anh đã giải được nghiệp rồi. Anh cứu được đứa thứ hai, thứ ba, thứ tư…, anh sẽ thành vị Bồ Tát. Và như thế, ngay cả những kẻ tội đồ cũng có thể thành được Bồ Tát, nếu biết tu tập. 

Người lính ấy bỗng như được giải thoát. Anh đã khỏi hẳn bệnh. Đã khỏe mạnh trở về được với đời sống thường ngày. Rồi anh đi làm việc thiện. Không phải anh cứu được một đứa trẻ thoát khỏi cái chết mà anh cứu được hàng trăm đứa trẻ bất hạnh ở Việt Nam và ở khắp nơi trên thế giới.

Tôi tìm mua các cuốn sách về Phật, các bài Kinh, rồi các bài giảng của các Đại đức, Hòa thượng khác. Nhưng phải nói thật, khi đã nghe Thiền sư Thích Nhất Hạnh thuyết pháp rồi thì rất khó nghe các vị sư khác. Nhiều khi, tôi còn thấy dị ứng. Có vị sư giảng Phật pháp mà mắt cứ long lên sòng sọc, giọng vỏng vót, gắt gỏng, đầy sân hận. Có vị vừa giảng vừa trêu ghẹo mấy nữ Phật tử ngồi dưới. Có vị lại còn tạo sự hấp dẫn bằng cách kể những câu chuyện tiếu lâm rất tục tĩu, bợm trợn, kể cả chuyện Đậu phụ làng cắn đậu phụ chùa. Giảng Phật pháp, hướng người ta đến với đạo Phật, lại mang chùa mang sư ra diễu thì ai còn tin Phật, tin sư nữa đây?

Tôi lại phải trở về với Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Lại sưu tầm các đĩa ghi hình những bài pháp thoại của ông. Rồi tôi lọ mọ chuyển các đĩa CD, VCD bài giảng của ông ra MP4, MP3. Tôi đưa vào các Ipod, Ipad rồi tặng bạn bè và người thân của mình. Nhà báo Hoàng Anh Sướng là người đầu tiên tôi tặng món quà quý đó. Tôi biết anh là nhà báo có tài. Anh cũng rất giỏi thuyết giảng. Nhiều bài viết, bài nói của Hoàng Anh Sướng về Trà đạo, về tâm linh, ngoại cảm rất hay, rất hấp dẫn. Bản thân tôi cũng đã viết bài giới thiệu tập sách “Bùa ngải xứ Mường” của anh. Tôi bảo Sướng: “Chú nghe đi. Trong này có hàng ngàn bài hát. Hàng chục cuốn tiểu thuyết đặc sắc của thế giới phát trong chương trình Đọc chuyện đêm khuya của Đài Tiếng nói Việt Nam. Nhưng trước hết, chú hãy nghe phần của Thầy Nhất Hạnh. Nhiều lắm. Nghe các bài thuyết pháp trước rồi nghe các truyện dài của thầy sau”.

Lúc bấy giờ, Hoàng Anh Sướng đang say mê nghiên cứu các nhà ngoại cảm. Anh lầm lụi vượt rừng, vượt núi cùng họ đi tìm mộ liệt sĩ, rồi nghiên cứu các cuộc gọi hồn. Trông anh lúc nào cũng tất tả, bận rộn. Người lúc nóng, lúc lạnh, lúc vui, lúc buồn. Có lúc cũng đau khổ vì sự hục hặc của các nhà ngoại cảm với nhau. Tôi hỏi : “Chú đã nghe chưa? Nghe Thầy Nhất Hạnh thuyết pháp chưa?”. “Em nghe rồi. Nhưng cứ nửa chừng lại bỏ. Ông cụ ề à quá. Cứ tháng Năm một câu, tháng Mười một câu. Oải vô cùng!”. 

Tôi biết mình thật vô duyên. Muốn hướng người thân đến với Phật pháp. Nhưng mặt mình trông cứ gian gian. Làm sao người đời tin được. Người nhẹ dạ còn chả tin thì làm sao thuyết phục được một cây bút sắc lẹm như Hoàng Anh Sướng!

Câu chuyện bỏ lửng đó. Tôi và Hoàng Anh Sướng vẫn gặp nhau thường xuyên nhưng không bàn đến chuyện ấy nữa. Anh cũng quẳng cái Ipod 160 GB tôi tặng ở xó xỉnh nào mất rồi. Tôi không hỏi mà anh cũng chẳng quan tâm.

Thế rồi mùa hè năm 2013, đột ngột anh khoe với tôi: “Thiền sư Thích Nhất Hạnh mời em sang Mỹ ba tháng tham dự những khóa tu và buổi thuyết pháp của thầy dọc nước Mỹ”. “Thế thì chú đi ngay” – Tôi bảo Sướng. “Tuyệt lắm đấy. Bận gì cũng hãy bỏ hết. Đây là cơ hội ngàn năm có một. Chú phải đi ngay!”.

Quả như sự tiên đoán của tôi. Chuyến đi ấy vô cùng thú vị. Cuộc gặp gỡ giữa nhà báo Hoàng Anh Sướng với Thiền sư Thích Nhất Hạnh như có sự dẫn dắt, sắp đặt của Trời, Phật. Anh có rất nhiều tư liệu quý về Thiền sư Thích Nhất Hạnh do tôi cung cấp trước đó, nhưng vì không chịu nghe nên đến khi tiếp xúc với Thiền sư tại Mỹ, anh vẫn là kẻ tay không. Anh hoàn toàn tinh khiết như một trang giấy trắng. Và rồi, suốt ba tháng theo chân Thiền sư Thích Nhất Hạnh dọc nước Mỹ, anh đã tự khám phá tầm vóc lồng lộng của Thiền sư.

Anh kinh ngạc khi thấy người dân khắp nơi trên hành tinh đổ về nước Mỹ nghe Thiền sư thuyết giảng Phật pháp. Trong số hàng ngàn người nghe đó có những nhà chính trị nổi tiếng, những nhà khoa học lỗi lạc từng được trao giải Nobel. Trình độ, địa vị xã hội và số phận của mỗi người cũng rất khác nhau nhưng họ đều sùng kính Thiền sư, coi Thiền sư như một vị Phật sống. Anh cũng ngạc nhiên khi biết mỗi giờ thuyết giảng của Thiền sư được trả rất nhiều tiền. Nhưng Thiền sư sống vô cùng đạm bạc. Tài sản và vật dụng của Thiền sư chẳng có gì đáng giá. Số tiền khổng lồ ấy, Thiền sư dùng để nuôi hàng ngàn đệ tử trong Tăng đoàn, rồi làm từ thiện cho những người bất hạnh ở khắp nơi trên thế giới. 

Ở Việt Nam, những năm bao cấp, rất nhiều nghệ sĩ nghèo khổ đã nhận được sự giúp đỡ của ngài. Một trong số họ là thi sĩ Hoàng Cầm. Sau này, qua cuốn hồi ký của sư cô Chân Không, tôi mới biết được bí mật ấy. Hoàng Cầm nhận được tiền qua sư cô Chân Không gửi. Và ông cứ tưởng Chân Không là một nhà doanh nghiệp hay một tiểu thư khuê các, một mệnh phụ phu nhân giàu có và lãng mạn, rất yêu những bài thơ tình của ông. Ông hoàn toàn không biết đó là một Ni sư. Và tiền ông nhận là tiền của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

Cái tài đặc biệt của Thiền sư Thích Nhất Hạnh là ông đã hiện đại hóa đạo Phật, đưa đạo Phật vào cuộc sống của mọi tầng lớp người, trong đó, có những người Tây phương đã từng theo nhiều tôn giáo khác nhau. Cũng nhờ có ông mà đạo Phật ở phương Tây phát triển rất nhanh và mạnh, đặc biệt được giới trẻ và trí thức hâm mộ. Ông mở nhiều khóa tu tập riêng cho giới doanh nhân, giới bảo hộ môi trường, giới giáo chức, cựu chiến binh, văn nghệ sĩ. Ông cũng mở cả khóa tu cho giới diễn viên Hollywood, các nghị sĩ Quốc hội Hoa Kỳ, rồi những khóa tu cho cả cảnh sát, an ninh, và người coi tù. Người dự khóa tu không cần phải quy y nhưng có thể thừa hưởng kho tàng tuệ giác của đạo Phật để tháo gỡ khó khăn trong đời sống nội tâm, tái lập lại truyền thông với những người khác, trong đó có gia đình, đồng nghiệp, đem lại hạnh phúc trong đời sống hàng ngày. 

Điều đáng kinh ngạc là những người tham gia khóa tu của Thiền sư, có người từng là linh mục, là mục sư, như mục sư Robert Schaibly  ở Houston, Texas. Vị mục sư này đã xin thụ trì 5 giới, quy y Tam bảo mà không thấy có sự mâu thuẫn nào giữa đức tin Cơ đốc giáo của bản thân với tuệ giác đạo Phật. Sau đó, ông còn đến Làng Mai của Thiền sư Thích Nhất Hạnh ở Pháp để tiếp tục tu học cho đến khi thành một vị giáo thọ của làng Mai, tức là người có khả năng mở những khóa tu theo giáo lý đạo Phật. Vị mục sư này cũng đã viết thư cho bề trên, đề xuất nguyện vọng muốn được vừa làm mục sư, vừa làm giáo thọ đạo Phật. Sáng chủ nhật ông giảng bài cho con chiên, chiều hướng dẫn thiền tập cho mọi người, trong đó có cả những con chiên ở trong nhà thờ…

Ai sinh ra cũng mong mình được hạnh phúc. Không phải ngẫu nhiên, trong Bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bàn đến hạnh phúc. Người dẫn cả tuyên ngôn của nước Mỹ, trong đó khẳng định, con người ai sinh ra cũng có quyền bình đẳng. Đó là quyền bất khả xâm phạm. Trong số những quyền ấy, có quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc. Trong tiêu chí của một Quốc gia mà chúng ta luôn vươn tới, cũng là “Độc lập” – “Tự do” và “Hạnh phúc”. Nhưng nói như một nhà thơ: “Hạnh phúc là gì? Bao lần ta lúng túng – Hỏi nhau hoài mà nghĩ mãi vẫn không ra?”. Chúng ta đi tìm hạnh phúc, nhưng sao chỉ gặp những khổ đau. Có lẽ vì quan niệm “Hạnh phúc là đấu tranh” thì làm sao mà hết khổ đau được.

Theo Thiền sư Thích Nhất Hạnh, không thể có hạnh phúc từ những cuộc tranh giành. Sự thành công của mình không thể lại phải trả giá bằng sự thất bại của người khác. Tại sao người kia phải thất bại thì mình mới thành công? Tại sao người khác cứ phải đau khổ thì mình mới hạnh phúc? Đó là câu hỏi quan trọng. Làm thế nào để tôi thành công và anh cũng thành công, thì hạnh phúc của ta sẽ lớn hơn, trọn vẹn hơn vì không ai phải đau khổ vì sự thành công của chúng ta hết. Hạnh phúc của chúng ta đâu phải chỉ là quyền lực, danh vọng, tiền bạc. Hạnh phúc là khi chúng ta có tình yêu thương và sự hiểu biết. 

Với đạo Phật, phần lớn chúng ta mới thực tập tín mộ, tín ngưỡng, chứ ít người sử dụng được tuệ giác đạo Phật để chuyển hóa thân tâm, tháo gỡ những khó khăn. Cầu nguyện cũng phần nào đem lại sự an lạc, vì giúp lắng dịu những khổ đau, lo lắng. Nhưng muốn giải quyết tận gốc vấn đề thì phải có tuệ giác, mà tuệ giác phải do tu tập mới có được. Hạnh phúc là an lạc, không có an thì không có lạc, an trong thân và trong tâm. Nếu con người chứa chất quá nhiều sự căng thẳng, thân không an thì tâm làm sao mà an được? Trong khi đó tâm có những cảm giác, cảm xúc như giận hờn, tuyệt vọng, bạo động, nếu không có phương pháp cụ thể thì làm sao nhận diện và chuyển hóa được những bất an của tâm? Trong Kinh Niệm xứ hay Kinh Quán niệm hơi thở, Đức Thế Tôn đã dạy những phương pháp cụ thể để làm lắng dịu những căng thẳng trong thân, trong tâm, rồi nhìn sâu để xem tận gốc rễ của những khổ đau phiền não đó do đâu, từ đó mới bắt đầu chuyển hóa được đau khổ, mới có được hạnh phúc.

Cũng theo Thiền sư Thích Nhất Hạnh, đạo Phật ngày xưa giúp đất nước nhiều lắm. Học giả Hoàng Xuân Hãn cho rằng, đạo Phật giúp đời Lý là triều đại thuần từ nhất trong lịch sử, khi từ vua quan tới thường dân đều thực tập đạo Phật. Đời Trần cũng vậy. Sau khi chiến thắng Nguyên Mông, quan quân có đệ trình lên một hòm tài liệu của một số viên chức chính quyền liên lạc với giặc. Nhưng Vua Trần Thánh Tông đã đem hòm tài liệu đó đốt trước mặt bá quan để yên tâm trăm họ, bởi chúng ta đã giành được độc lập, đẩy lui được quân thù thì cần nhất bây giờ là đoàn kết quốc gia. Đó là hành động phát sinh từ tuệ giác của đạo Phật. Hiện giờ, ta có thể học theo những hành động như thế. Cố nhiên là trong chiến tranh chúng ta bị chia rẽ, có những ý thức hệ đối chọi nhau, có những nhận thức khác nhau về chính trị, có cách thức yêu nước khác nhau. Giờ phải làm thế nào để buông bỏ thái độ đã trở nên không còn phù hợp với thực tiễn. Đừng cho rằng chỉ có lý thuyết của mình là duy nhất đúng, còn mọi lý thuyết khác đều sai lầm. Thái độ bám vào một chủ thuyết, không bao dung đó sẽ tiếp tục làm cho dân ta khổ.

“Trong giới luật Tiếp hiện của chúng tôi có đưa ra tinh thần đạo Phật là không thờ phụng bất cứ một chủ nghĩa nào, một lý thuyết nào, kể cả đó là lý thuyết Phật giáo. Đạo Phật đưa ra những phương tiện để tu tập, để học hỏi, để chuyển hóa bản thân chứ không phải là những lý thuyết để thờ phụng, để phải phát động những cuộc chiến đẫm máu. Tôi nghĩ thái độ đó rất cần thiết. Vua A Dục ca ngày xưa sau khi thống nhất đất nước đã đi tu, yểm trợ cho các tôn giáo để các tôn giáo thống nhất nhân tâm. Vì thế, vua A Dục ca thống nhất được nhân tâm sau khi thống nhất lãnh thổ. Chúng ta nên học bài học đó. Chúng ta thống nhất Nam Bắc nhưng chưa thống nhất được lòng người, vẫn có sự tị hiềm, hận thù, đau khổ trong lòng mỗi chúng ta. Áp dụng đạo Phật là để buông bỏ những hận thù trong quá khứ. Đó là một trong những thực tập mà ta có thể thực hiện ngay, để thống nhất lòng người, ôm lấy nhau mà sống…”

Cái tài của Thiền sư Thích Nhất Hạnh là thế. Ông giảng Phật pháp mà không thấy chùa, cũng không thấy Kinh, không thấy Phật, chỉ thấy đời sống, thấy những chuyện nóng hổi của đất nước, của xã hội, của gia đình mình và của chính mình. Đến với Phật không phải trông chờ vào phép mầu nhiệm của Phật trong cõi huyền bí nào đó. Điều quan trọng là chúng ta phải vững tin. Tin vào chính mình. Nghĩa là ta phải tự biến ta thành Phật, để tự giải thoát cho mình. Nhiều khi chỉ thay một quan niệm, chúng ta đã thoát được khổ đau, đã tìm thấy hạnh phúc đích thực. Bởi nhiều khi chính ý niệm về hạnh phúc lại là chướng ngại của hạnh phúc. Ta bị mắc kẹt, bị cầm tù bởi chính ý niệm của mình. Không phá được cái nhà tù tự mình dựng lên để giam hãm mình thì làm sao có được hạnh phúc.

Nhà báo Hoàng Anh Sướng trong buổi ra mắt sách “Hạnh phúc đích thực” tại Hà Nội. Ảnh: Vnexpress

Nguồn:

http://radiovietnam.vn/nhan-vat/2015/04/nha-tho-tran-dang-khoa-chuyen-doi-thuong–nhan-ngay-quoc-te-hanh-phuc-doc-nhanh-phuc-dich-thucn-p1/

http://radiovietnam.vn/nhan-vat/2015/04/nha-tho-tran-dang-khoa-chuyen-doi-thuong–nhan-ngay-quoc-te-hanh-phuc-doc-nhanh-phuc-dich-thucn-p2/