Thiết kế Tăng Thân

Tự nuôi dưỡng mình là nuôi dưỡng tăng thân

Sáng nay, khi ngồi thiền, thầy đã quán tưởng về hình ảnh một tế bào trong tăng thân. Thầy thấy mình là một phần của tăng thân, mình chịu trách nhiệm về sự an toàn, sự hài hòa, hay sự bất an của tăng thân. Thầy thấy rất rõ rằng tự nuôi dưỡng mình cũng là đang nuôi dưỡng tăng thân. Giờ phút nào mà mình tự nuôi dưỡng được mình bằng bước chân, bằng hơi thở, bằng nụ cười, bằng sự vững chãi, bằng sự thảnh thơi thì giờ phút đó mình đang nuôi dưỡng tăng thân. Và chừng nào mình không tự nuôi dưỡng mình được thì tăng thân cũng không được nuôi dưỡng, tăng thân bị bỏ đói.

Thầy cũng thấy rằng khi nào mình có tình thương, mình chăm sóc, mình nuôi dưỡng tăng thân thì tuy là mình không có ý muốn nuôi dưỡng mình mà kỳ thực lúc đó mình cũng đang được nuôi dưỡng. Chẳng hạn khi thấy một sư anh, sư chị hay sư em đang có vấn đề mà mình khởi lòng lân mẫn để tìm tới, và bằng thân hoặc bằng lời, mình chăm sóc cho người đó, thì tuy rằng mình đang nuôi dưỡng tăng thân mà kỳ thực mình cũng đang nuôi dưỡng mình. Tự nuôi dưỡng mình tức là nuôi dưỡng tăng thân, và nếu mình đang nuôi dưỡng tăng thân thì đồng thời mình cũng đang nuôi dưỡng chính mình. Giữa hai cái đó không có sự phân biệt, vì vậy mình có thể thấy được tính vô ngã một cách rất rõ ràng.

Thầy cũng thấy rằng khi mình không thật sự ở trong tăng thân, khi lòng mình không phải là lòng của tăng thân thì mình không phải là dòng sông mà chỉ là một giọt nước, và mình sẽ thấy bơ vơ, lạc lõng trong tăng thân. Tuy mình đang ở trong tăng thân nhưng kỳ thực mình không ở trong tăng thân. Mình đang nghĩ tới một tương lai riêng, một sự nghiệp riêng, không dính líu tới tương lai và sự nghiệp chung của tăng thân, vì vậy mình không nuôi dưỡng được mình và mình cũng không nuôi dưỡng được tăng thân. Trong trường hợp đó, sự có mặt của mình trong tăng thân chỉ có tính hình thức và không thể nào kéo dài được, thế nào mình cũng sẽ bị văng ra. Mình không nhận được chất dinh dưỡng từ tăng thân và mình cũng không có khả năng nuôi dưỡng tăng thân. Sự có mặt của mình chỉ là một sự có mặt hình thức.

Tuệ giác tập thể – phép lạ của tăng thân

Khi nhìn vào một cơ thể, chúng ta thấy trong cơ thể có nhiều tế bào, và mỗi tế bào có thể là một cái ngã riêng. Tế bào này không phải là tế bào khác, tế bào não không phải là tế bào phổi, tế bào ruột không phải là tế bào gan, tế bào gan không phải là tế bào tim, tế bào tim không phải là tế bào não.Thoạt nhìn, các tế bào có sự khác nhau, có sự phân biệt, có tên gọi riêng. Nhưng nhìn kỹ thì tất cả tế bào trong cơ thể có chung một trí tuệ: Chúng làm việc hài hòa với nhau, nuôi dưỡng nhau và nuôi dưỡng cơ thể. Khi có vi khuẩn đột nhập vào cơ thể thì không phải là bộ óc hay tư tưởng ra lệnh chống cự, mà trong cơ thể có một phản ứng rất tự nhiên. Khi đó, cơ thể tự động tạo ra những kháng thể (anti-body) và kéo tới bao quanh con vi khuẩn mới xâm nhập, không để cho nó sinh sôi nảy nở và đi vào cơ thể, cho đến khi con vi khuẩn đó không hoạt động gì được và biến thành chất protein nuôi cơ thể. Không ai ra lệnh cho cơ thể làm điều đó. Cơ thể tự động biết phải làm gì, rất là mầu nhiệm.

Trong cơ thể không có một tế bào nào đóng vai trò chỉ huy để ra lệnh các tế bào khác. Không có một ông vua, một bà hoàng hay một tổng thống trong cơ thể. Ngay trong bộ não của mình cũng vậy, không có tế bào não nào làm lãnh đạo, và sự hài hòa, thông thương giữa những tế bào tạo ra một loại trí tuệ. Nhờ trí tuệ đó mà cơ thể biết cần phải làm gì để đối phó với những bất trắc xảy ra.

Trong một tổ ong, chúng ta nói tới con ong chúa, và chúng ta có thể nghĩ một cách sai lầm rằng con ong chúa điều động hết tất cả mọi việc trong tổ ong. Điều đó không đúng. Ong chúa không làm gì hết, ong chúa chỉ đẻ mà thôi. Tất cả các con ong trong tổ ong sống một cách rất hòa hợp, giống như những tế bào trong cùng một cơ thể. Chúng nâng đỡ nhau, đưa đường chỉ lối cho nhau tìm tới những chỗ nào có nhiều hoa để lấy mật. Sự thật là trong thiên nhiên, mình cũng không thấy một vị chúa tể, một vị lãnh đạo.

Ngày xưa đức Thế Tôn đã thấy được điều đó. Ngài đã không đóng vai trò của một người lãnh đạo mà chỉ đóng vai trò một thành phần của tăng thân, một thành phần có tuệ giác, có thương yêu. Khi Ngài lớn tuổi, có nhiều thầy hỏi rằng sau khi đức Thế Tôn nhập diệt thì ai là người thay thế đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn đã trả lời rằng Ngài chẳng cần ai thay thế, và Ngài chưa bao giờ chỉ định một người thay thế. Điều đó có nghĩa là tất cả chúng ta đều có nhiệm vụ như nhau, và chúng ta phải vận hành như một cơ thể.

Những phương pháp sinh hoạt theo giới luật đã phản chiếu được tinh thần đó. Tất cả các quyết định đều do pháp Tăng già yết ma tạo ra, và tất cả thành viên của tăng thân đều phải nương theo quyết định của pháp yết ma ấy mà hành trì. Khi các thành phần của tăng thân ngồi lại, tăng thân có cơ hội truyền thông với nhau, và trong sự thực tập truyền thông đó, tuệ giác tập thể được phát sinh. Tuệ giác tập thể đó chính là yếu tố chỉ đạo chứ không phải là sự chỉ đạo của một người. Có thể trong tăng thân có những người thông minh hơn, có nhiều kinh nghiệm hơn những người khác, nhưng không phải vì vậy mà những người đó lãnh đạo những thành phần khác. Những người thông minh, có nhiều kinh nghiệm đó cũng là những thành phần của tăng thân và họ đóng góp trí thông minh cũng như kinh nghiệm của họ cho tăng thân. Những thành phần khác của tăng thân cũng có người thông minh và có kinh nghiệm. Sự góp lại của những thông minh và kinh nghiệm đó trở thành tuệ giác chung. Chính tuệ giác chung đóng vai trò lãnh đạo tăng thân, chứ không phải là cá nhân.

Khi tăng thân ngồi chung để cùng quán chiếu và khám phá ra tuệ giác cần thiết, đó không phải là sự cộng lại của những kinh nghiệm hay những cái thấy của từng người. Tuệ giác tập thể không phải là một phép tính cộng. Anh có hai phần tuệ giác, tôi có một phần tuệ giác, hai cái đó cộng lại thành ba, không phải như vậy. Mỗi người trong khi làm vườn, tưới rau… đều có những cái thấy mà tăng thân cần đến để xây dựng tăng thân. Nhưng khi chúng ta họp lại, không phải là chúng ta góp nhặt những cái thấy riêng để làm thành một cái thấy chung. Không phải như vậy! Không phải đem cộng cái này với cái khác để thành cái thấy chung. Tại vì nhiều khi có những cái thấy rất khác nhau, đứng về phương diện hình thức thì nó chống trái nhau, nếu cộng chung lại thì thành một mớ hổ lốn rất lộn xộn.

Khi tăng thân họp lại, với niệm và định, sẽ xảy ra rất nhiều điều bất ngờ. Tuệ giác tập thể sẽ sinh ra những cái thấy mà không cá nhân nào có được. Đó là tài ba của tăng thân. Khi một cá nhân đưa ra cái thấy của mình thì phải ý thức rằng những người khác trong tăng thân đều có cái thấy riêng của họ, cái thấy của mình sẽ tới với cái thấy của họ, và sự va chạm đó làm nứt rạn cái thấy của mọi người. Cái thấy của mọi người đi qua một quá trình gọi là hóa thân (métamorphose), được thoát xác và đi lên. Chính mình cũng vậy, sau khi đã nói ra cái thấy của mình, đã tạo ra sự rúng động, nứt rạn trong cái thấy của người khác thì khi mình nghe một người khác nói ra cái thấy của họ, chính cái thấy của mình cũng bị va chạm, cũng bị nứt rạn. Khi ấy mình thoát ra được cái thấy của mình và đi tới một cái thấy cao hơn. Vì vậy trong buổi họp của tăng thân, điều mầu nhiệm có thể xảy ra, nhưng đó không phải là sự góp nhặt của tất cả những cái thấy, mà đó là làm cho một cái thấy siêu việt được thoát hình. Cái thấy đó thực sự là cái thấy của tăng thân, chứ không phải là cái thấy của từng người, hoặc gom góp tất cả cái thấy của mọi người. Cũng như trong vật lý nguyên tử, khi một chất điểm va chạm với một chất điểm khác sẽ tạo ra một chất điểm mới, cái đó gọi là sự va chạm giữa các chất điểm (collision between particles). Chỉ có trong những buổi gặp gỡ của tăng thân, với tinh thần mà trong truyền thống gọi là kiến hòa đồng giải, thì mới có thể xảy ra phép lạ đó mà thôi.

Tăng thân – một sáng tạo phẩm của tâm thức cộng đồng

Tăng thân là gì? Tăng thân là một sáng tạo phẩm của tâm ta, một sáng tạo phẩm chung của tất cả chúng ta. Tăng thân đó hùng tráng hay không, hạnh phúc hay không là do chúng ta. Vì vậy chúng ta phải có bổn phận sáng tạo và thiết kế một tăng thân cho thập đẹp, thật hùng, thật sáng. Bổn phận thiết kế, sáng tạo đó là bổn phận của mỗi người trong tăng thân, dù người ấy đang còn rất trẻ. Thiết kế tăng thân là công việc của chúng ta! Đức Thế Tôn dạy: “Tâm là họa sư”, họa sư có thể họa ra được tất cả mọi cái mà người ấy muốn. Tăng thân là một tác phẩm mà tâm ta sáng tạo, thiết kế. Chúng ta đã có những phương pháp thiết kế được trao truyền từ truyền thống và chúng ta phải tiếp tục sáng tạo thêm.

Thầy đã tham dự những buổi họp của tăng thân để thiết kế các khóa tu. Thầy đã ngồi như vậy ở xóm Thượng, xóm Hạ, xóm Mới, xóm Vững Chãi… và thầy thấy tăng thân làm việc rất đẹp. Có một cái bảng rất lớn và một người phụ trách viết bảng, trong buổi họp, từng người trong tăng thân đưa ra cái thấy của mình. Những cái thấy đó được ghi lên bảng, rồi những cái thấy khác tới và làm thay đổi cái thấy ấy. Khi ấy, những cái đã được viết trên bảng được xóa đi và được thay bằng những cái thấy mới. Nhưng không có nghĩa là cái thấy mới ấy sẽ đứng yên hoài cho tới cuối buổi họp, tại vì sau đó còn có thể có những cái thấy khác cao hơn, tốt hơn, sáng hơn. Rồi thì vị ghi bảng phải lấy khăn lau đi những cái đã viết lên bảng lần thứ ba, thứ tư ấy và từ từ như vậy, buổi họp đi tới một cái thấy chung của tăng thân và cái thấy đó giúp cho tăng thân thiết kế được khóa tu như là tăng thân thấy. Chúng ta đã làm như vậy, chúng ta đang làm như vậy và chúng ta sẽ tiếp tục làm như vậy. Càng ngày chúng ta sẽ càng làm hay hơn. Cho dù là một người thông minh, một người có kinh nghiệm, ta không thể nào tự mình thiết kế một khóa tu. Muốn thiết kế một khóa tu, ta phải nương vào tuệ giác của tăng thân.

Sống và thực tập như một cơ thể

Là những tế bào của cơ thể tăng thân, mỗi người trong chúng ta đều có một phận sự, đều có một niềm vui để đóng góp vào hạnh phúc, vào sự vững chãi của tăng thân, cũng như vào sự thành tựu ý nguyện của tăng thân. Sự thật là nếu chúng ta không sống được như một cơ thể tăng thân đích thực thì chúng ta không đi xa được trong sự nghiệp chuyển hóa tự thân, xây dựng tăng thân và phụng sự xã hội.

Tăng thân của chúng ta không phải là một trường đại học, nơi mà người ta tới ở một thời gian bốn năm, năm năm, sáu năm để được đào tạo, rồi sau đó mỗi người đi một phương để làm sự nghiệp riêng, để lo một tương lai riêng. Nếu chúng ta thiết kế một tăng thân như vậy thì chúng ta không đi xa được.

Chúng ta phải làm như thế nào để tăng thân trở thành một cơ thể, để chúng ta tiếp tục được nuôi dưỡng và ta cũng nuôi dưỡng được những người anh, người chị, người em của chúng ta. Nếu chúng ta có thể làm nên lịch sử, có thể nối tiếp được sự nghiệp cao quý của đức Như Lai là do chúng ta có thể sống, có thể thực tập được như một cơ thể tăng thân. Sống và thực tập như vậy, chúng ta thực hiện được những điều mà đức Thế Tôn mong ước, đó là vượt thoát cái vỏ bản ngã. Thực chứng được vô ngã là đạt tới tuệ giác, là hạnh phúc lớn nhất của người tu.

Tập thấy, tập hiểu những khổ đau của sư anh, sư chị, sư em của mình và giúp chữa trị những vết thương ấy, giúp cho người đó cười lên được, vui lên được, đó không phải là chuyện độ đời, giúp người, mà là chuyện đem lại hạnh phúc cho chính mình, chuyển hóa chính mình. Mình làm được như vậy là vì mình đã thấy được tính vô ngã của mình và những thành phần khác của tăng thân. Chính nhờ xây dựng tăng thân mà ta diệt trừ được ngã chấp. Đứng trên cái ngã riêng để diệt trừ ngã chấp thì không bao giờ chúng ta diệt trừ được ngã chấp.

Nếu chúng ta có những buổi pháp đàm trong khóa tu, chúng ta nên đề cập tới đề tài: “Thiết kế, nuôi dưỡng và làm mới tăng thân”, nghĩa là làm thế nào để sống cuộc sống hàng ngày, để tu tập và xây dựng tăng thân, để làm thỏa mãn nhu cầu hiểu biết và thương yêu trong ta với tư cách một cơ thể và bằng tuệ giác của một cơ thể, của một dòng sông.

 

Cô Hạnh Phúc

Đi tìm hạnh phúc

Có một bài thơ của Xuân Diệu có lẽ ít người biết đến, nói về hạnh phúc. Hạnh phúc được diễn tả bằng một cô gái trẻ: Cô Hạnh Phúc (Mademoiselle Bonheur). Những câu cuối của bài thơ như thế này:

Cô Hạnh Phúc, gớm, đợi chờ cô mãi

Chữ gớm ở đây có nghĩa là: Trời đất ơi, mèn đét ơi, ối giời ơi, dữ không, tức là chờ hoài chờ mãi.

Xây dựng cô sứt mẻ những bàn tay

Xuân Diệu là nhà thơ của tình yêu. Bao nhiêu bàn tay đã sứt mẻ vì cố công xây dựng hạnh phúc!

Trật bả vai, rỏ máu những lông mày

Đi kiếm hạnh phúc gian nan, bị thương tích rất nhiều.

Nhưng cô đến, cả huy hoàng trên trán

Cô đến là đến chứ không phải do ta đi tìm hay xây dựng. Ta hình dung cô Hạnh Phúc xuất hiện, trán phóng hào quang.

Dẫu đã muộn rồi, hãy còn sớm chán

Cô đến hơi trễ, bây giờ răng tôi đã long, đầu tôi đã bạc, chân tôi đã yếu. Thấy như là đã hết hy vọng. Nhưng nghĩ cho cùng, may mà có cô tới trước khi mình thở hơi thở cuối cùng.

Hội loài người hỷ lạc lắm hôm nay

Tôi sẽ xin Đời về một buổi mai

Đời là sự sống với tất cả những mầu nhiệm của nó, nhưng ta quá bận rộn nên không có thì giờ để tiếp xúc. Được ra đời và đáng lý được sống một cuộc đời, nhưng con người không có cơ hội, con người quá bận rộn nên không được sống cuộc đời của mình. Trong lo toan, chạy chọt, tìm kiếm, chúng ta đánh mất sự sống, đánh mất cuộc đời. Bây giờ xin lại, dầu là hơi trễ, nhưng cũng chưa trễ lắm. Buổi mai ở đây là một buổi mai hồng.

Cũng bởi vì tôi nhớ tôi mong

Một sớm mai hồng tôi sẽ lên đường trở lại

Trở lại đâu? Trở lại sự sống đích thực mà chúng ta đã đi lạc, đã nhầm lẫn, đã đánh mất. Sự sống đẹp đẽ, mầu nhiệm là cái ta nhớ, ta mong. Và vì còn nhớ mong nên ta còn có cơ hội để trở về.

Rất nhiều người đang trên hành trình đánh mất tự thân và đánh mất luôn sự sống mầu nhiệm. Ta bị những danh vọng, quyền hành, tiền bạc, sắc dục kéo đi mà tưởng chúng là hướng của hạnh phúc. Nhưng cái thật sự sâu thẳm ta mong muốn là sự sống mầu nhiệm. Cái mong muốn đó vẫn còn trong con người của ta, cho nên ta đi xuất gia. Bồ đề tâm, tâm ban đầu đó vẫn còn sống. Đó là một khối lửa, là một nguồn năng lượng có khả năng giúp cho người xuất gia sống trọn đời tu của mình và có hạnh phúc trong từng phút từng giây. Đó là bồ đề tâm, là tâm ban đầu, là cái nhớ mong sâu nhất mà không phải là những cái nhớ mong tầm thường. Người xuất gia không nhớ mong những tiện nghi vật chất, những tiện nghi tình cảm. Người xuất gia nhớ mong cái lý tưởng, lời đại nguyện phát ra khi quỳ xuống để thầy cắt tóc chấp nhận ta trở thành một sư chú, một sư cô. Tâm ban đầu, khối lửa lúc ban đầu đó là cái nhớ, cái mong.

Cũng bởi vì còn cái nhớ, cái mong đó nên chúng ta có cơ hội quay ngược trở lại (U-turn) để tìm sự sống đích thực. Ta đã đánh mất hầu hết cuộc đời của mình, tại vì ta tìm theo ảo ảnh của hạnh phúc. Có khi đã sứt mẻ hai bàn tay, đã trầy hai vai và đã rỏ máu trên lông mày mà vẫn chưa thấy có hạnh phúc. Chỉ cần có sự tỉnh thức thì hạnh phúc tới rất huy hoàng. Cái người tu cần không phải là tiền bạc hay địa vị, dù là địa vị trong giáo hội, mà là sự tỉnh thức. Tỉnh thức là đủ để cho ta trở về và trở về rồi thì ta liền có hạnh phúc rất lớn. Tự nhiên cô Hạnh Phúc đến.

Xuân Diệu nói: “Thầy ơi, tôi dùng chữ vui vẻ chứ đâu có dùng chữ hỷ lạc trong thơ, tại sao thầy cho vào trong đó?”. Vui tức là hỷ. Bây giờ chúng ta trả lại chữ của Xuân Diệu cho Xuân Diệu:

Hội loài người vui vẻ lắm hôm nay

Ta nên trở về với sự sống đích thực của mình, nếu không trở về được thì thật đáng tiếc! Một ngày nào đó ta sẽ nằm trên giường bệnh và lúc ta sắp thở hơi thở cuối cùng thì mọi thứ đã trễ quá rồi, không thể nói “hãy còn sớm chán“ được nữa. Khi đó, cho dù có muốn đứng dậy để đi một bước thiền hành cũng không được. Trong Quy Sơn cảnh sách, Thiền sư Quy Sơn đã gióng lên một tiếng chuông: “Nhất triêu ngọa tật tại sàng, chúng khổ oanh triền bức bách” (Một mai nào đó ta nằm hấp hối trên giường, tất cả những khổ đau bao vây chung quanh). Lúc ấy dù có muốn trở về cũng không còn kịp nữa, có muốn tìm hỷ lạc trong một bước chân cũng không còn được nữa. Bấy giờ, khi đã không còn đủ sức để ngồi dậy hay bước một bước chân, ta mới nuối tiếc rằng tại sao cả một cuộc đời chưa bao giờ ta thử đi một bước chân mà trong bước chân đó có hỷ và lạc. Tại sao? Có phải tại vì thầy không cho đi, hay tại chùa cấm không cho ta đi những bước thảnh thơi. Mới đi khóa tu về, ta tập đi những bước thảnh thơi nhưng thầy nói: “Đi gì mà như người thất tình vậy! Không được đi như vậy, phải đi cho xăng xái! Công việc thì nhiều mà đi rờ rờ như vậy thì làm sao được?”. Nói như vậy không có nghĩa là chúng ta không có cơ hội. Nếu khéo léo, chúng ta có thể đem năng lượng của khóa tu về chùa.

Tôi đã từng viết nhiều truyện ngắn như: Bưởi, Tố, Hồng v.v. Một câu chuyện tôi đã có ý lâu rồi nhưng chưa viết ra, đại ý như thế này:

Trong một ngôi chùa đó có hai thầy trò. Chú tiểu rất thông minh. Nếu có được một đệ tử thông minh thì người thầy cảm thấy rất may mắn. Một đệ tử thông minh, rất muốn tu và nhất là hiểu được thầy, đó là niềm vui rất lớn cho một vị thầy.

Ngôi chùa nằm dưới chân núi. Một hôm hai thầy trò đi lên núi. Thầy khám phá ra một vùng đẹp kỳ lạ trên sườn núi. Khoảng đất rất thanh thoát và xanh tốt. Có tiếng chim hót hết sức mầu nhiệm. Hai thầy trò thường đi thiền lên đó, ngồi xuống và không làm gì hết. Một hôm người thầy tâm sự với đệ tử:

– Này con, chùa của thầy là ở đây chứ không phải ở dưới kia!

Ở dưới đó bổn đạo tới đòi hỏi cái này, cái kia. Họ đòi hỏi sự chú ý, họ muốn chụp hình với thầy. Người nào cũng muốn chụp hình riêng với thầy, muốn uống một ly trà với thầy, muốn thầy cho họ thì giờ. Họ đòi hỏi rất nhiều. Họ đóng góp vào chuyện xây chùa, chuyện trả tiền điện, nước, telephone, tiền rau đậu nên họ nghĩ họ có quyền.

Chú tiểu rất thông minh, hiểu được câu nói của thầy. Đây mới đích thực là chùa của thầy, nơi không có ai tới quấy rầy hay đòi hỏi gì cả. Nhiều hôm thầy lên trên núi ngồi rất lâu. Sáng hôm đó trời sương mù, có một ông bổn đạo tới tìm thầy. Sư chú gặp ông ở cội tùng ngoài sân. Ông hỏi, hình như có chuyện gì gấp gáp lắm:

– Sư chú, thầy ở đâu?

Sư chú nói:

– Thưa, thầy con đang ở trên chùa.

Và sư chú tiếp tục quét lá. Ông bổn đạo đi lên chùa mà không thấy thầy, ông đi tìm quanh nhà khách, tới tăng phòng, lên chánh điện cũng không thấy thầy. Ý của sư chú là thầy đang ở trên chùa thật kia, đang thảnh thơi ngồi thiền chứ không phải dưới chùa giả này. Ông khách hình như là trưởng ban quản trị của chùa.

– Chú nói thầy ở trên chùa, tại sao tôi lên tìm không ra? Thầy ở đâu vậy chú?

Sư chú đáp:

– Từ sáng sớm thầy đi vào núi hái thuốc. Tôi cũng ráng tìm thầy nhưng tôi nghĩ khó mà tìm được, sương mù nhiều quá, làm sao mà tìm thầy được.

Câu chuyện đó tôi lấy cảm hứng từ bài thơ Tầm ẩn giả bất ngộ của thi sĩ Giả Đảo đời Đường:

Tùng hạ vấn đồng tử

Ngôn sư thái dược khứ

Chỉ tại thử sơn trung

Vân thâm bất tri xứ.

Dịch là:

Dưới cội tùng chú bảo

Thầy vừa đi hái thuốc

Chỉ tại núi này thôi

Mây mù không thấy được.

Chú nói: “Thầy con đi hái thuốc. Chắc cũng quanh quẩn trong núi này thôi, không xa đâu. Nhưng mây mù như vậy làm sao mà tìm cho được”. Đó là cách sư chú bảo vệ thầy mình, không để thầy bị quấy rầy nhiều quá. Nhu yếu của thầy cũng là nhu yếu của sư chú. Thương thầy nên sư chú muốn bảo hộ cho thầy.

Tiếp xúc với hạnh phúc thật sự

Khi học hỏi kinh điển và giáo lý, ta sử dụng rất nhiều khái niệm như giác ngộ, giải thoát, niệm, định và tuệ. Tuy vậy, thường thì đó chỉ là những danh từ và ý niệm. An lạc hay Tịnh độ có thể cũng chỉ là những ý niệm mà chưa phải là thực tại. Ta nói tới trái kiwi, nhưng có thể chỉ là cái tên và một ý niệm về nó chứ chưa bao giờ nếm trái kiwi, chưa bao giờ biết mùi vị của nó. Khi mới học những khái niệm ấy, chúng ta hồ hởi, phấn khởi, muốn tiếp cận, muốn có kinh nghiệm về những thực tại đó. Nhưng thật ra chúng có thể chỉ là những danh từ hay những ý niệm không thật, trong đó có Tịnh độ hay Phật. Phật đối với ta có thể chỉ là danh từ và ý niệm. Ý niệm về Phật không phải là Phật, ý niệm về Tịnh độ không phải là Tịnh độ, cũng như ý niệm về trái kiwi không phải là trái kiwi.

Sáng nay chúng ta đã tụng Bài Bốn phép tùy niệm, trong đó có đoạn:

Tự thân của đức Như Lai, người từ chân như tới, thầy của chúng con

Là bậc xứng đáng nhất để được cúng dường

Là bậc có trí giác chân thực và toàn diện

Là bậc có đầy đủ công hạnh và tuệ giác

Là bậc đã qua tới một cách nhiệm mầu

Là bậc hiểu thấu thế gian

Là bậc nhân sĩ cao tột có khả năng điều phục con người

Là bậc thầy của cả hai giới thiên và nhân

Là bậc tỉnh thức toàn vẹn

Là bậc được tôn sùng quý trọng nhất trên đời.

Chúng ta ca ngợi Bụt đêm ngày, tán dương Bụt bằng những bài tán rất hay. Rồi ta lạy Bụt rất nhiều, lạy 108 lạy và thỉnh thoảng còn thực tập nhất bộ nhất bái, đi 300 cây số. Có thể ta làm như vậy trong mười năm, hai mươi năm mà vẫn chưa tiếp xúc được với Bụt bởi vì đối với ta, Bụt vẫn còn là một ý niệm, một danh từ. Chúng ta sống bằng danh từ. Hầu hết chúng ta đều sống với danh từ, với ý niệm. Giải thoát, giác ngộ, an lạc là những danh từ đầu môi chót lưỡi. Chúng ta chưa có khả năng tiếp xúc với những thực tại ấy. Như nói cam mà chưa bao giờ được ăn cam, nói lê mà chưa bao giờ được ăn lê. Mỗi ngày chúng ta tôn kính, gọi Hồng danh của Bụt một trăm lần, một ngàn lần. Chúng ta gọi tên Ngài ra rả mà không tiếp xúc được với Ngài. Chúng ta không cho mình có cơ hội để tiếp xúc đích thực với Bụt, với Tịnh độ, với an lạc, trong khi Bụt, Tịnh độ hay an lạc đã có sẵn và có thật. Nếu biết cách, ta có thể tiếp xúc được với Bụt bây giờ và ở đây mà không cần phải kêu tên hay lễ lạy. Tịnh độ cũng vậy, ta có thể tiếp xúc được ngay bây giờ và ở đây mà không cần phải cầu xin đi sang bên đó. Chính giải thoát, an lạc cũng có mặt bây giờ và ở đây. Phải có khả năng lột hết và liệng đi những danh từ, những ý niệm thì lúc đó chúng ta mới có thể tiếp xúc được với những cái mình đang đi tìm, trong đó có Bụt hay Tịnh độ.

Trong khi sư chú đi thiền thì mỗi bước chân là một cơ hội để Bụt được biểu hiện trong tự thân của sư chú, và để cho hỷ, lạc, giải thoát được biểu hiện ngay trong giây phút hiện tại.

Nguyện thấy được tịnh độ dưới mỗi bước chân mình

Nguyện tiếp xúc bản môn trong mỗi khi hành xử

Bước trên thật địa

Thở giữa chân không

Đó là chuyện ta có thể làm được bây giờ và ở đây mà không cần phải đợi năm năm, tám năm, mười năm hay hai mươi năm mới làm được. Chỉ cần nhìn sư chú bước đi một bước, tôi có thể thấy được trong bước chân của sư chú có an, có lạc, có tiếp xúc với những mầu nhiệm của Tịnh độ hay không. Những mầu nhiệm được diễn tả trong kinh A Di Đà như những đóa sen lớn, những hàng cây phát ra âm thanh vi diệu trong đó có thể nghe được Tứ đế, Bát chánh đạo, Ngũ căn, Ngũ lực… đều có thể tiếp xúc được ngay bây giờ và ở đây. Sư chú chỉ cần bước một bước, và nếu bước chân ấy chế tác được năng lượng của niệm, của định, tiếp xúc được với thực tại bây giờ và ở đây thì sư chú đang an trú trong Tịnh độ hiện tiền, hỷ lạc hiện tiền. Đức A Di Đà, đức Thích Ca đều hiện tiền trong bước chân đó. Nhưng có thể sư chú đã không cho Bụt, không cho Tịnh độ, không cho hỷ và lạc một cơ hội. Sư chú đi như bị ma đuổi. Ta không cho Bụt có cơ hội biểu hiện mà cứ gọi tên Ngài nhiều lần trong ngày và có khi còn lạy tới sói đầu. Ta có thể đang làm những chuyện ngược lại với mong muốn của ta ngày xưa.

Trong bài thơ, Xuân Diệu nói: Không trễ lắm đâu!

Dẫu đã muộn rồi, hãy còn sớm chán

Hai chân ta còn khỏe, mỗi bước chân có thể giẫm vào Tịnh độ. Nếu có niệm và định thì chắc chắn là ta giẫm được vào Tịnh độ ngay trong phút giây hiện tại. Chúng ta không cần phải cầu xin được sinh về Tịnh độ và cũng không cần phát tâm nhàm chán cõi Ta bà, mà mỗi hơi thở chính là một cơ hội, mỗi bước chân cũng chính là một cơ hội. Ta đòi hỏi gì nữa? Tại trung tâm tu học, chúng ta được ngồi, được thở. Ông trưởng ban quản trị không thể cấm ta thở, không thể cấm ta ngồi. Giáo hội cũng không thể cấm ta thở, cấm ta ngồi, cấm ta nghe chuông. Đảng cũng không thể cấm ta thở, cấm ta ngồi hay cấm ta nghe chuông. Mỗi người tu phải có cơ hội để đi những bước chân như vậy, thở những hơi thở như vậy, ngồi những buổi ngồi như vậy. Mỗi hơi thở, mỗi lúc ngồi, mỗi bước chân là một cơ hội để ta tiếp xúc với cái mà ta đang tìm. Đó là hạnh phúc chân thật, là cô Hạnh Phúc. Trán cô rất huy hoàng, cô có sẵn đó, không cần phải đi tìm, không cần phải xây dựng hay lao động khó nhọc.

Hôm qua, một vị đã phát biểu rằng, pháp môn này chỉ có thể tu tập với tính cách cá nhân thôi, chứ mang về chùa chắc chắn là không tu được. Phải chăng trong chùa đó mọi người không được đi thảnh thơi, không được ngồi thảnh thơi? Phải chăng trong chùa ấy mọi người không được thở, không được nghe chuông hay ăn cơm chánh niệm? Một ngôi chùa lập ra là để làm những chuyện đó chứ không phải để cấm người ta làm chuyện đó. Nếu không được thực tập những pháp môn ấy thì người ta phải viết lên bảng: “Chùa này cấm đi thảnh thơi, cấm nghe chuông và cấm mỉm cười”. Có danh sách những điều cấm như thế trong chùa, có nghĩa là cấm Bụt không được ở chùa, cấm đạo Bụt không được thực tập ở chùa.

Câu chuyện được tiếp tục thế này:

Một hôm có một vị khách tăng tới chùa của hai thầy trò. Vị khách tăng này không đòi gặp thầy. Sư chú ra thưa:

– Để con đi tìm thầy.

Khách tăng nói:

– Thôi khỏi. Tôi tới đây để tham quan, lễ Phật và đi thiền.

Vị đó không cần đón tiếp, không cần chào hỏi. Vị ấy thảnh thơi đi thiền lên núi và tình cờ gặp thầy ở đó. Cuộc gặp gỡ là cái duyên để thầy trụ trì học được phương pháp thiền đi. Hôm sau là ngày rằm, trước khi lên khóa lễ, thầy nói ra ước muốn của thầy với đạo tràng, thầy mong người nào cũng nếm được pháp lạc khi đi thiền. Và thầy dạy cho đạo tràng đi thiền lần đầu tiên trong chùa. Nhờ sự viếng thăm của vị khách tăng thảnh thơi kia mà thầy trụ trì biết cách chuyển hóa một ngôi chùa thực tập tín mộ trở thành một ngôi chùa thực tập đích thực, có thể mang lại hỷ, lạc, hạnh phúc, Tịnh độ hiện tiền, không phải chỉ cho người xuất gia mà cho tất cả mọi người.

Đó là nội dung của truyện ngắn tôi muốn viết mà chưa viết được. Những người viết văn hay, xin viết thành truyện đàng hoàng giùm tôi.

Mỗi bước chân là một bài pháp thoại

Chúng ta có nói rằng mỗi bước chân cũng là pháp thoại. Đây là quà tặng cho các vị giáo thọ tập sự, các vị giáo thọ đã được trao đèn và cả các vị giáo thọ lớn hơn. Trong khi đi mà mỗi bước chân tiếp xúc được với Tịnh độ thì ta không cần phải sinh qua bên đó, bởi vì Tịnh độ đã có bên này. Cõi này là Tịnh độ hay Ta bà đều do mình. Nếu tâm tư còn đầy lo lắng, buồn khổ và sợ hãi thì cõi này là cõi Ta bà. Nhưng nếu ta có vô úy, giải thoát, tự do thì cõi này là Tịnh độ. Tịnh độ không phân chia Nam Bắc, không phân chia Đông Tây. Tịnh độ ở phương Tây chỉ là một cách nói. Bởi vì nếu Tịnh độ chỉ có ở phương Tây thôi thì ở phương Đông không có Tịnh độ hay sao? Bụt A Súc ở phương nào? Đó là giáo lý vô đắc, không cần phải đi tìm một cái gì nữa cả, tất cả đều có đó. Vấn đề là chúng ta có tiếp xúc được hay không mà thôi. Cũng không có gì khó lắm và hãy còn sớm chán! Những ngày còn lại của đời ta, mỗi ngày có thể là một ngày hạnh phúc, mỗi giờ có thể là một giờ hạnh phúc, mỗi giây phút có thể là một giây phút hạnh phúc.

Khi ấy, nếu có khổ đau thì chúng ta cũng không sợ, bởi vì đã biết thực tập thì ta sẽ xử lý khổ đau rất dễ dàng. Khổ đau rất cần thiết. Cũng như bùn rất cần thiết để chế tác ra sen, khổ đau là chất liệu cần thiết để chế tác hạnh phúc. Chúng ta là chủ chứ không phải khổ đau là chủ, ta biết cách không để khổ đau tràn ngập. Chúng ta sử dụng khổ đau để chế tác hạnh phúc như người nông phu sử dụng bùn đất để chế tác hoa màu. Khi đi một bước chân chánh niệm thì trong bước chân đó có đủ cả, có Tịnh độ, có Bụt A Di Đà, có Bụt Thích Ca, có tất cả các vị Bụt trong quá khứ, có hỷ, có lạc, có giải thoát.

Đây là hai câu sau cùng trong bài tụng cuối của Duy thức tam thập tụng:

An lạc giải thoát thân

Đại Mâu Ni danh pháp

Mỗi người có nhục thân, tức hình hài bằng xương, bằng thịt. Nhưng nếu là người tu thì phải có an lạc thân và giải thoát thân, và các thân này sinh ra từ sự thực tập. Đi đến đâu người tu cũng đem thân đó theo. Người tu không chỉ đem theo thân xương thịt mà còn đem theo cả thân an lạc, thân giải thoát. Nếu thân giải thoát mà ốm yếu, èo uột thì nó không đủ nuôi chính ta, nói gì tới chuyện nuôi được người khác. Ta phải làm cho thân giải thoát lớn lên, nghĩa là phải có nhiều tự do hơn.

Chúng ta có được bao nhiêu tự do? Đó là vấn đề. Chúng ta có rất nhiều ràng buộc, không những bị ràng buộc bởi vật chất bên ngoài mà còn bị ràng buộc bởi sự sợ hãi, lo lắng, giận hờn. Chúng ta thiếu không gian, thiếu tự do, thiếu giải thoát. Giải thoát của chúng ta èo uột, ốm yếu. Vì vậy mỗi bước chân, mỗi hơi thở là để nuôi lớn thân giải thoát, để có thêm tự do. Tự do không phải là một ý niệm. Người đời nói tới tự do như một ý niệm, nhưng là người tu thì ta phải có tự do thật sự. Khi ta mỉm cười được trước một nghịch cảnh thì ta thấy rõ ràng là ta đang có thân giải thoát, có tự do, có không gian trong lòng. Những nghịch cảnh, những thách đố có thể làm cho người khác khổ nhưng không thể làm cho ta khổ. Ta có tự do với những bực tức, bất mãn và lo sợ trong ta.

Người tu phải chế tác tự do, nhưng chế tác bằng cách nào? Khi bước một bước chân thì bước chân đó phải giúp ta buông xuống những lo lắng, buông hết quá khứ, buông hết tương lai, buông hết những dự án. This is it, tức là cái ta tìm kiếm, cái mà Xuân Diệu gọi là Đời, là Cô Hạnh Phúc, đang có ngay trong mỗi bước chân. Bước chân như thế có công năng nuôi dưỡng đời tu, tháo gỡ những ràng buộc và cho ta thêm tự do. Đó gọi là thân giải thoát. Thân giải thoát đi đôi với thân an lạc. Không thể nào có an lạc nếu không có giải thoát. Freedom is the foundation of happiness and peace. Đi được những bước chân như vậy, thở được những hơi thở như vậy, quán chiếu được những giờ phút như vậy thì ta có an lạc và giải thoát. Đó là mục đích của giáo pháp mà bậc thầy chúng ta (Mahamuni) trao truyền lại. Muni nghĩa là ông thầy tu tĩnh lặng, là danh hiệu đẹp nhất của đức Thích Ca. Mahamuni là Đại Muni, tức ông thầy tu có tĩnh lặng lớn. Tôi thấy gọi đức Thích Ca là Ông Thầy Tu Tĩnh Lặng hay hơn là gọi Pháp Vương hay đức Thế Tôn. Chính Ngài cũng muốn làm một ông thầy tu bình thường và tĩnh lặng mà thôi. Muni là ông thầy tu không ồn ào, không khoa trương.

Mỗi bước chân như vậy đích thực là một bài pháp thoại. Dù ta không nói gì và chỉ đi thôi thì bài pháp thoại đó cũng làm chấn động những người chung quanh. Đi ở phi trường, ở bờ sông hay đi trên hè phố, cách mình đi có thể làm thay đổi cả thế giới, làm thay đổi những người chung quanh. Lúc tăng thân 300 người về Hà Nội, chúng ta có tổ chức một buổi thiền hành quanh hồ Hoàn Kiếm. Lần đầu tiên trong lịch sử 1000 năm Thăng Long, có một đoàn người đi như vậy quanh bờ hồ Gươm. Xuất sĩ và cư sĩ, người nào cũng đi thảnh thơi, an lạc. Đó là một cống hiến của Làng Mai cho thủ đô. Ta không đem về tiền bạc hay danh vọng mà đem về năng lượng của hạnh phúc, tự do.

Vì vậy mỗi bước chân là một bài pháp thoại. Sư chú, sư cô đang nói pháp thoại một cách hùng hồn trong khi bước đi. Và không đợi tới ngày mai mà chính ngay hôm nay, sư chú, sư cô đã có thể làm được. Nếu có niệm và định hùng hậu thì mỗi bước chân của ta sẽ tỏa ra năng lượng thảnh thơi, giải thoát, an lạc và bước chân ấy sẽ nuôi được thân giải thoát, thân an lạc của ta. Là một vị sư trưởng, ta phải cho đồ chúng một cơ hội được thực tập. Dù ta ăn ít hơn, ở nghèo nàn hơn, nhưng ta phải được thực tập đầy đủ bởi vì đó chính là cái ta mong muốn nhất. Ngày xưa, mỗi buổi sáng các thầy chỉ đi khất thực, khỏi phải đi chợ nấu cơm nên có thì giờ để thực tập đi như vậy, ngồi như vậy. Chúng ta cần phải tổ chức đời sống trong chùa như thế nào để có thể nối tiếp được người xưa. Nếu ta quá bận rộn đến nỗi không có thì giờ để đi những bước thảnh thơi, không có thì giờ để ngồi trong yên lặng, không có thì giờ để nghe chuông và chế tác hỷ lạc thì đó không phải là bản hoài của đức Thế Tôn.

Mỗi bước chân là tình thương

Mỗi bước chân là pháp thoại, mỗi bước chân là tình thương. Người thầy nào cũng muốn đệ tử của mình đi được những bước chân như vậy. Nếu thương thầy thì ta phải đi như vậy. Và đại chúng cũng muốn ta đi như vậy. Thầy và đại chúng trông chờ ta đi những bước chân như là pháp thoại, đầy đủ tình thương. Vì thương thầy nên ta đi như vậy và đi như vậy thì tự nhiên ta thương luôn cả mình, thương cả Bụt, thương cả cha mẹ. Cha mẹ để ta đi tu nên ta phải biết ơn. Nếu không thành công được trong những bước chân thì ta không có hiếu với cha mẹ.

Trong mỗi bước chân có tình thương, có sự hiếu đễ, có ân nghĩa. Tôi nhớ có lần người ta dành cho tăng thân một đại lộ vinh dự nhất trong buổi thiền hành ở New Dehli. Tôi đã đi cho Sư Ông, cho Sư Cố, mỗi bước chân tràn đầy tình thương và Sư Ông đã đi bằng hai chân của tôi trên đại lộ Maharaja ấy. Rồi tôi đi cho mẹ. Mẹ của tôi đã đi bằng hai chân của tôi. Tôi cũng đã đi cho cha, đi cho tổ tiên và đi cho các vị đệ tử. Mỗi bước chân tràn đầy tình thương. Mỗi bước chân tràn đầy nuôi dưỡng. Chuyện này không khó.

Khi nghĩ tới mẹ suốt đời tất tả ngược xuôi, không có những giờ phút thảnh thơi, lo cho chồng, lo cho con những lúc con ốm không có thuốc, ta thấy thương quá. “Mẹ ơi, con đang đi cho mẹ. Mời mẹ đi với con, mẹ đi cho thảnh thơi”. Sự thật rất rõ ràng là mẹ đang có trong từng tế bào cơ thể của mỗi chúng ta. Chúng ta tưởng mẹ đã qua đời, nhưng kỳ thực mẹ đang còn sống trong từng tế bào cơ thể ta. Vì vậy mỗi bước chân là đi cho mẹ, cho cha. Lúc thực tập, ta có thể thấy mẹ mỉm cười trong mỗi tế bào của ta. Mẹ được đi thiền. Trong khung cảnh mầu nhiệm đó, ta trở thành một đứa con có hiếu nhất trong những đứa con có hiếu. Ban đầu vì thương thầy mà đi, nhưng sau một lúc thì tình thương lớn lên và ta ôm được cả tổ tiên, cha mẹ cùng các thế hệ tương lai trong mỗi bước chân của ta.

Chế tác năng lượng của niệm, định và tuệ

Niệm, định và tuệ là trái tim của sự thực tập đạo Bụt. Trong chúng ta có người không thật sự biết niệm là gì. Ta có một ý niệm về nó, ta biết danh từ niệm nhưng ta không thấy được sự mầu nhiệm của năng lượng đó. Bằng mỗi hơi thở, bằng mỗi bước chân chúng ta có thể chế tác năng lượng niệm. Khi uống nước, chúng ta phải uống với năng lượng niệm. Uống trong niệm là như thế nào? Trước hết chúng ta phải có mặt. Có thể là ta đang suy nghĩ tới chuyện quá khứ, chuyện tương lai hay đang băn khoăn về những dự án chưa thực hiện được. Tâm của chúng ta không có đó. Ta cần mang tâm về với thân, để tâm nơi hơi thở và bắt đầu thở vào. Chỉ trong vòng hai hay ba giây đồng hồ, ta liền đem được tâm về với thân, không để cho tâm rong ruổi nữa. Tâm ta như con khỉ chuyền từ cành này sang cành khác không bao giờ ngừng nghỉ. Ta cũng thế, phiêu lưu, trôi lăn, rong ruổi suốt ngày. Dù đang nằm trên giường hay ngồi trên ghế ta cũng rong ruổi, cũng trôi lăn trong cõi thất niệm, cõi quên lãng. Với hơi thở chánh niệm, xin mọi loài từ bỏ cõi lãng quên. Chỉ trong hai hay ba giây đồng hồ, ta có thể đem tâm trở về với thân, khiến cho tâm được giải thoát khỏi những lo lắng, sợ hãi về tương lai hay những ưu sầu, tiếc nuối về quá khứ.

Giải thoát không phải là chuyện của mười năm, hai mươi năm sau. Giải thoát có thể có được bây giờ, ở đây, và một hơi thở có thể đem tới giải thoát. Khi hoàn toàn nương vào hơi thở, tâm ta buông xuống hết những cái khác, lúc ấy, đối tượng duy nhất của tâm là hơi thở, những cái khác tan rã ra và ta có tự do, tự do trong một tích tắc. Tự do là giải thoát, giải thoát trong giây phút đó. Nếu giỏi thì ta có thể duy trì giây phút giải thoát ấy liên tục hơn. Khi thân và tâm hợp nhất thì ta mới có mặt. Đó là năng luợng của niệm. Niệm là năng lượng giúp ta có mặt bây giờ và ở đây. Mỗi hơi thở, mỗi bước chân trong chánh niệm đều có khả năng đưa ta trở về với chính ta. Khi thực tập nghe chuông ta cũng có thể đưa thân tâm về một mối, có mặt bây giờ và ở đây. Khi có mặt bây giờ và ở đây, tự nhiên ta nhận diện được sự có mặt của ly trà. Ta có mặt thì những mầu nhiệm của sự sống cùng có mặt. Lý như vậy và sự cũng như vậy. Ta có mặt thì mây trắng, trời xanh, thông reo, chim hót là của ta. Có mặt là một sự thực tập. Ta có mặt cho ai? Ta có mặt cho sự sống. Có mặt là tự do, không còn bị giam hãm bởi quá khứ hay bị lôi cuốn theo tương lai.

Giải thoát là vấn đề bây giờ và ở đây chứ không phải là vấn đề tương lai. Không phải tu mười năm hay hai mươi năm mới có giải thoát. Khi ta thật sự có mặt thì cái kia cũng thật sự có mặt. Cái kia là sự sống, là Cô Hạnh Phúc, là đời sống mầu nhiệm. Không còn là một ý niệm, một bóng ma, ta là một thực tại mầu nhiệm. Tự nhiên ly trà trong hai tay cũng là một thực tại mầu nhiệm. Sự tiếp xúc giữa người uống trà với ly trà là một sự tiếp xúc mầu nhiệm. Một thực tại tiếp xúc với một thực tại. Ly trà không phải là một ảo tưởng, một hình ảnh trong giấc mơ. Nếu bị cuốn theo những suy tư, lo lắng thì ly trà, dù là trà Cao Sơn, cũng chỉ là một ảo ảnh, một bóng ma.

Chánh niệm giúp cho ta có thật và giúp cái trước mặt ta có thật, như trời xanh, mây trắng. Trong giây phút đó sự sống có mặt thật sự. Cử chỉ uống trà là một cử chỉ chánh niệm. Chánh niệm làm cho sự sống có thật và giúp ta sống sâu sắc từng giây phút của đời sống hàng ngày. Không có chánh niệm thì ta sống như những bóng ma, ta đi như người mộng du. Ta không sống được cuộc đời của ta. Chánh niệm là năng lượng có thể chế tác được bất cứ lúc nào trong đời sống hàng ngày. Khi rửa bát, ta cũng có thể chế tác được năng lượng chánh niệm và ngay khoảnh khắc ấy, có thể tìm thấy niềm vui và an lạc. Rửa bát trở thành một cái gì thiêng liêng chứ không phải chỉ có thắp hương cắm lên bàn thờ, hay tụng kinh mới là thiêng liêng. Rửa bát, lau bàn mà có chánh niệm thì đều trở thành thiêng liêng. Không có cái gì quí hơn cái gì. Tất cả đều quí như nhau. Đi tiểu hay đi cầu mà có chánh niệm thì cũng là những giây phút linh thiêng. Chính vua Trần Thái Tông, vị vua đầu tiên của nhà Trần cũng nói rằng đi tiểu, đi cầu đều là Phật pháp. Không phải ngồi nghe pháp thoại hay tụng kinh mới là Phật pháp. Chúng ta có những người cha, người anh giỏi như vậy thì không lý do gì mà ta không làm được như cha anh của mình.

Niệm không nên chỉ là một danh từ suông. Danh từ không nuôi cuộc đời mình được. Danh từ có thể làm cho ta hồ hởi, phấn khởi một lúc nhưng sau đó ta thấy chúng chỉ là những danh từ. Ta vẫn đói tự do, đói hạnh phúc, đói tình huynh đệ. Trong Kinh Bách dụ có câu chuyện rất hay.

Có một người bị bệnh, ông thầy thuốc rất giỏi nói với người đó:

– Bệnh của anh chỉ cần ăn cháo chim trĩ là lành. Con chim này có dược tính rất hay.

Ông thầy có rất nhiều chuyện phải làm nên nói như vậy rồi đi. Người bệnh hiểu lầm, suốt ngày chỉ ngồi lặp lại hai chữ “chim trĩ”. Anh ta có lặp lại 100 lần, 1000 lần, 100000 lần cũng không lành được bệnh. Hôm đó có một anh bạn tới thăm, thấy anh kia cứ ngồi nói “chim trĩ”, “chim trĩ” giống như sắp bị bệnh tâm thần nên hỏi:

– Tại sao anh cứ ngồi lặp đi lặp lại hai chữ “chim trĩ” như vậy?

– Ông thầy đó nói chim trĩ mới chữa được bệnh, vì vậy tôi phải lặp đi lặp lại hai chữ đó.

Cũng giống như người ta lặp đi lặp lại Hồng danh của chư Bụt, chư Bồ tát bên đạo Bụt, hay lặp đi lặp lại Hồng danh của mẹ Maria và chúa Kito bên đạo Chúa, gọi là trì danh niệm Phật, trì danh niệm Chúa.

Anh bạn nói:

– Không phải thế. Chim trĩ không phải là một danh từ mà là một thực tại. Tôi sẽ vẽ cho anh coi con chim trĩ như thế nào.

Rồi anh bạn, là họa sĩ, vẽ ra một con chim trĩ giống như thật. Anh bạn đi rồi, anh kia nghĩ:

– Mình ngu quá! Cái này mới thật là chim trĩ.

Anh ta liền lấy kéo cắt hình chim trĩ ra, nhai và nuốt vào bụng. Thấy chưa lành, anh ta thuê thợ tới vẽ thêm nhiều chim trĩ nữa. Mỗi ngày anh ta ăn chim trĩ giấy nhưng cũng không thấy lành bệnh.

Ta đừng nên cười anh chàng này vì có thể chúng ta cũng đang làm giống như anh. Chúng ta tưởng cái đó sẽ đưa tới giải thoát, ta cứ lặp đi lặp lại những cái mà người ta bảo mình phải làm.

May cho anh chàng là có một người bạn thứ hai tới thăm. Thấy anh cứ nhai chim trĩ giấy hoài nên nói:

– Anh làm trò gì thế? Sao lại có người cứng đầu như vậy? Anh đi với tôi!

Người bạn dắt anh ta ra chợ mua một cặp chim trĩ, nấu cháo và bắt anh ta ăn trước mặt mình. Anh chàng lành bệnh.

Đây là một trong 100 chuyện hài hước mà đức Thế Tôn đã dùng để dạy các đệ tử. Chúng ta đừng nghĩ làm sao mà có người ngu đến mức đó? Sự thật là ở trên đời có rất nhiều người như vậy. Dù biết niệm, định và tuệ là hạt nhân của sự tu tập, nhưng có thể đối với ta chúng chỉ mới là những ý niệm, là những danh từ suông, là những ảo ảnh mà chưa phải là năng lượng thật. Trong khi đó người tu có thể chế tác được năng lượng niệm trong khi đi, trong khi ngồi, trong khi uống nước, trong khi rửa bát. Người có thực tập thì biết niệm quan trọng ra sao. Người nào cũng có hạt giống niệm trong lòng, thực tập ba bốn ngày thì hạt giống đó sẽ lớn lên và chế tác thành năng lượng chánh niệm.

Hễ có niệm là có định. Định là chuyên chú vào một đối tượng và kéo dài sự chuyên chú ấy. Định là đẳng trì, tức là làm cho kéo dài. Đẳng là đều đều, trì là giữ, đẳng trì là giữ mãi trên bình diện của sự chuyên chú. Khi thở vào và để ý trọn vẹn nơi hơi thở vào thì gọi là niệm hơi thở. Ý thức được hơi thở vào, hơi thở ra, và nếu duy trì được ý thức ấy từ đầu tới cuối thì niệm sinh ra định. Ta không những ý thức được sự có mặt của hơi thở vào mà còn chuyên chú vào hơi thở vào. Định chính là niệm được thực hiện sâu sắc và liên tục.

Hễ có niệm và định là có tuệ. Tuệ không phải là vấn đề tương lai. Tuệ có thể có ngay lập tức. Ví dụ câu “Breathe, you are alive” (Thở đi, anh đang còn sống). Đó là tuệ, tức cái thấy có khả năng chuyển hóa, khai phá, giải phóng, đó là Bát nhã (prajña). Người tu có thể chế tác tuệ mỗi ngày nhiều lần, trong từng giây phút. Tuệ không phải là cái hy vọng đạt được ở tương lai. Trong khi thở vào, nếu thật sự để ý và tập trung nơi hơi thở thì chúng ta khám phá ra rất nhiều chuyện, trong đó có chuyện chúng ta đang có mặt ở đây, trên thế giới này. Đó là chuyện tương đối dễ làm, tại vì ai cũng biết rằng, người đã chết thì không làm sao thở vào được nữa. Đang thở vào thì rõ ràng là đang còn sống. Đang còn sống là một phép lạ! Có phép lạ nào mầu nhiệm hơn phép lạ là ta đang có mặt và đang sống đây không? Một người đã chết thì dù có 100 triệu dollars hay có quyền hành trên tổng thống đi nữa, họ cũng không thể thở vào, dù chỉ một hơi. Đang thở vào là một phép lạ, là một sự mầu nhiệm mà ta phải hết sức trân quý. Chỉ cần một hơi thở vào trong ba giây là ta có thể đạt tới cái thấy đó, một cái thấy hết sức đơn giản: “Ta đang còn sống và ta đang phung phí sự sống. Ta không biết sống, ta không biết trân quý giây phút của sự sống!”. Thở vào và biết ta đang có mặt, đang có tuổi trẻ, có hai chân khỏe, có hai mắt sáng. Cái thấy đó đều là tuệ. Tuệ đưa tới hạnh phúc ngay lập tức.

Pháp thừa tự

Niệm, định, tuệ là ba loại năng lượng có thật mà người tu phải chế tác mỗi ngày. Chế tác được ba loại năng lượng này thì ta sẽ có hỷ, có lạc, có hạnh phúc và giải thoát. Không có gì thần bí, không cần phải cầu nguyện, không cần phải lạy sói trán mà ta vẫn có thể có được hỷ lạc, hạnh phúc và giải thoát. Nếu sự thực tập hàng ngày của ta chế tác được hỷ lạc và giải thoát, tức là nếu có thân an lạc và thân giải thoát thì ta trở thành một người rất giàu có, có rất nhiều cái có thể để lại cho con cháu. Vũ Hoàng Chương có viết một bài thơ bắt đầu bằng câu: “Ta còn để lại gì không?”.

Là những người tu, chúng ta có thể hỏi câu hỏi đó: “Ta còn để lại gì không?”. Có, chúng ta để lại kho tàng giải thoát, an lạc mà ta chế tác trong suốt một đời tu. Chúng ta để lại thân an lạc, thân giải thoát. Thân thể xương thịt này của ta sẽ tan biến, nhưng thân an lạc và thân giải thoát của ta sẽ được truyền lại cho con cháu, cho các thế hệ tương lai. Trong kinh có danh từ Pháp thừa tự. Thừa tự là tiếp nhận gia tài của ông, của cha, của anh. Pháp thừa tự, tiếng Phạn là Dharmadayada. Bụt rất giàu, Ngài là một bậc cự phú đứng về phương diện hạnh phúc và tự do. Chúng ta là những đứa con rất may mắn được tiếp nhận gia tài vô tận của an lạc và giải thoát ấy. Chúng ta đi tu không phải để tiếp nhận ngôi chùa từ bổn sư của mình. Đó không phải là thừa tự! Chùa không phải là gia sản của thầy để lại. Thầy để lại một cái gì lớn lao hơn nhiều, đó là thân an lạc, thân giải thoát của thầy mà người học trò giỏi phải kế thừa cho được. Nếu không, ta chỉ là một kẻ cùng tử đi xin chút hạnh phúc từ chỗ này tới chỗ kia. Tại sao là con nhà giàu mà ta lại cư xử như một tên cùng tử, đi ăn mày hạnh phúc?

Pháp thừa tự là chữ mà chính đức Thế Tôn đã dùng. Kinh Hải đảo tự thân, đức Thế Tôn nói: “Trong đại chúng có người rất giàu, ví dụ như thầy Xá Lợi Phất, thầy có một gia tài kếch sù để lại cho con cháu gọi là pháp tài”. Tài là tài sản. Tài sản ở đây không phải là dollar, euro hay pound mà là an lạc, là giải thoát. Cũng trong kinh này, Bụt lại dạy: “Người đi tìm sự giàu sang về chánh pháp thường hay tới các thầy lớn như thầy Xá Lợi Phất, thầy Mục Kiền Liên, thầy Phú Lâu Na”.

Nhờ có phước đức lớn và nhân duyên lớn ta mới được làm người xuất gia cho nên mỗi sư chú, mỗi sư cô phải biết rằng mình là con nhà giàu, mình xứng đáng để thừa tự cái gia tài vô tận ấy, đó chính là pháp thừa tự.

Không có gì quý hơn tình huynh đệ

Chánh niệm là suối nguồn của hạnh phúc

Có một lần tôi đi xem một cuộc triển lãm xác chết ở San Diego. Người ta ướp những xác chết của hàng trăm người trẻ nam và nữ, và trình bày trong một chỗ giống như chỗ thực tập thiền quán. Người ta ướp rất khéo nên giữ lại được những nét đẹp của người trẻ. Có một xác đang đứng trong tư thế đánh golf rất hùng tráng nhưng cứng đơ. Trong khi xem triển lãm chúng ta thấy đời là vô thường. Là người trẻ chúng ta cũng có thể chết như những người trẻ này. Vì vậy trong khi ta còn hình hài, còn sức khỏe; trong khi ta còn đi đứng được, còn cúi xuống được thì ta phải có hạnh phúc. Đợi đến khi hình hài ta cứng đơ như vậy thì đã hơi trể rồi.

Niệm là nhớ, nhờ có chánh niệm nên ta mới biết trân quý những gì ta có trong giây phút hiện tại. Hạnh phúc có được là nhờ ta có chánh niệm, cho nên ở Làng Mai chúng ta thường nói: chánh niệm là suối nguồn của hạnh phúc. Chúng ta không đi tìm hạnh phúc nơi tiền bạc, danh vọng, quyền hành, sắc dục mà chúng ta tìm hạnh phúc ở chánh niệm. Chánh niệm là một nguồn suối hạnh phúc bất tận chúng ta có thể chế tác ra trong khi đi, đứng, nằm, ngồi.

Thực tập thiền đi một trăm phần trăm

Ngày hôm qua trong buổi lễ đối thú an cư chúng ta đã đồng ý với nhau rằng trong khóa an cư này chúng ta sẽ thực tập nghiêm chỉnh thiền đi. Chúng ta cũng biết rằng nếu ta thực tập 100% thì rất dễ, còn nếu ta chỉ thực tập nửa vời thì sẽ không thành công. Và nếu thực tập thành công thiền đi thì chúng ta sẽ thực tập những chuyện khác dễ dàng hơn.

Xuất sĩ cũng như cư sĩ, chúng ta đã quyết định phải thực tập thiền đi 100%, có nghĩa là hễ bước chân đi là phải có chánh niệm. Muốn có chánh niệm thì chúng ta phải ngưng sự suy nghĩ, tại vì tư duy làm chúng ta bay bổng lên không trung, hay kéo ta đi về quá khứ hoặc đi đến tương lai. Tư duy, tuy đôi khi cũng hay nhưng rất có hại. Thường thì nó kéo ta về hướng thất niệm. Tâm trí ta bị phân tán, ta suy nghĩ lung tung. Phương cách hay nhất để làm ngưng lại sự suy nghĩ là cột tâm vào hơi thở, dùng hơi thở làm đối tượng duy nhất của tâm gọi là tâm nhất điểm. Tâm nhất điểm là định. Tâm ta chỉ để ý tới hơi thở và ta phối hợp hơi thở đó với bước chân. Hơi thở vào đi theo với một hay hai bước chân, hơi thở ra đi theo với một, hai, ba hay bốn bước. Khi ta cột hơi thở vào bước chân thì tự nhiên tư duy sẽ ngưng lại. Tùy theo ta muốn ta có thể an trú trong “không tư duy” đó trong thời gian 10, 15 hay 20 phút.

Trong thiền phái Tào Động có nói: Tư duy cái mà ta không tư duy được thì làm sao mà tư duy? lương cá bất tư lương để, bất tư lương để như hà tư lương? How can you conceive of something that cannot be conceived? Not thinking, not conceiving is the secret of meditation. Tư là tư duy, lương (hay hượng) là đo lường. Thực tại không thể nắm được bằng tư duy. Trong khi đi chúng ta phải thực tập phi tư lương 非 思 量. Ta cột tâm vào hơi thở, vào bước chân. Đó là niệm và định. Niệm là nhớ hơi thở, nhớ bước chân. Định là ở với hơi thờ, ở với bước chân. Có niệm và định thì ta tiếp xúc được với tuệ: ta đang còn sống, ta đang đi trên Đất Mẹ mầu nhiệm. Mỗi bước chân có thể có hỷ, lạc và tự do. Đó là thảnh thơi. Chữ thảnh thơi (moksa, vimukti) có nghĩa là tự do (freedom), là không bị ràng buộc, lôi kéo, đè ép. Có thảnh thơi thì ta mới có hạnh phúc.

Trở về giây phút hiện tại

Trong chúng ta có những người bị ràng buộc bởi quá khứ, họ không thể quên được quá khứ. Họ có những đau buồn trong quá khứ và cứ trở về quá khứ để nhai lại đau buồn đó mà không thoát ra được. Họ không có thảnh thơi, không có tự do. Ví dụ một thiếu nữ bị hãm hiếp trong thời còn thơ ấu, và nỗi đau buồn đó còn hằn trong thân và tâm của cô. Hằng ngày cô không có khả năng sống trong giây phút hiện tại. Cô không thấy trời xanh rất đẹp, cô không thấy được mây trắng rất xinh, cô không thấy được hoa nở, cô không nghe được tiếng chim hót và tiếng thông reo. Người đó bị quá khứ trấn ngự. Muốn đừng bị quá khứ trấn ngự nữa thì người đó phải phá bỏ ngục tù quá khứ và trở về giây phút hiện tại. Cô có thể nhờ một người khác nhắc cô rằng chuyện bị hãm hiếp đã xảy ra trong quá khứ. Chuyện đó bây giờ không còn nữa, bây giờ cô đang có an ninh, cô phải tự nhắc mình: Bây giờ không có chuyện đó nữa, nó đã là quá khứ. Nhưng tại vì quá khứ đó giống như một cuốn phim quay ở dưới tiềm thức và mình cứ chui vào để xem cuốn phim đó để đau khổ rồi khóc. Đó không phải là sự thật, nó chỉ là những cuốn phim. Trong khi đó thì hiện tại là sự thật. Trời xanh, mây trắng, chim hót, thông reo, hoa nở là những chuyện có thật. Mình không có khả năng sống với những sự thật đó mà cứ chui vào trong hầm tối để coi lại cuốn phim, coi lại và coi lại nữa. Mình không có thảnh thơi, không có tự do.

Khi thở một hơi kéo dài chừng ba hay bốn giây mà mình để hết tâm vào trong hơi thở thì trong thời gian ba hay bốn giây đó mình buông được quá khứ và mình có tự do. Tâm nhất điểm (one pointed mind) có nghĩa là tâm chỉ có một đối tượng là hơi thở vào. Nếu trong hơi thở vào đó có niệm và định, mình hoàn toàn chuyên chú vào hơi thở thì trong bốn giây đó mình có tự do tại vì mình buông bỏ được quá khứ.

Tương lai cũng vậy, nó cũng ràng buộc mình. Mình không biết ngày mai ra sao? Có ai để cho mình nương tựa không? Cái gì sẽ xảy ra cho mình? Mình buồn khổ cho tương lai, tương lai trở thành tù ngục cho dù nó chưa tới và mình sợ hãi tương lai. Quá khứ hay tương lai đều là những sợi dây ràng buộc. Khi mình bắt đầu thở và chỉ chú tâm vào hơi thở thì trong một, hai, ba hay bốn giây đó mình buông hết quá khứ. Mình chỉ ở trong giây phút hiện tại, tại vì hơi thở vào đó đang xảy ra trong giây phút hiện tại. Mà nếu có được tự do trong bốn giây thì mình sẽ có được tự do trong tám giây, tại vì khi thở ra mình cũng chú tâm vài hơi thở ra và không để tâm trở về quá khứ hay đi tới tương lai. Tư duy thường kéo mình về quá khứ hay tương lai nên mình phải chấm dứt tư duy.

Khi có tự do thì ta có hạnh phúc. Hạnh phúc là tiếp xúc được với những cái hay, cái đẹp, cái mầu nhiệm, cái tươi mát, cái nuôi dưỡng đang có trong giây phút hiện tại. Mỗi người trong chúng ta là một chiến sĩ. Ta phải dùng gươm trí tuệ để chặt đứt những sợi dây ràng buộc ta với quá khứ hay cột ta vào tương lai. Tự do là sự thực tập của chúng ta. Không phải sau khi thực tập mười năm thì chúng ta mới có tự do. Tự do đó, tuy còn ít, nhưng chúng ta có thể có liền được. Ngồi một mình ta có thể nói chuyện với em bé trong mình. Em bé đó muốn ta chú ý tới, nó hay kéo ta trở về quá khứ để gặm nhấm lại những đau thương. Ta phải trở về với em bé đó để nói chuyện với nó: Em bé ơi, tôi biết là em đang có đó trong tôi. Vì em đòi sự chú ý nên tôi đã trở về với em đây. Em bị thương rất nặng. Nhưng em nên nhớ rằng tôi cũng là em và em đã trưởng thành. Chuyện đau buồn của em là chuyện quá khứ. Hiện tại rất đẹp, có trời xanh, mây trắng, thông reo, hoa nở. Em phải cầm tay tôi ra khỏi quá khứ và đi vào trong giây phút hiện tại.

Tăng thân, những người tu với mình, giúp mình làm chuyện đó. Chúng ta giúp nhau đi ra khỏi ngục tù của quá khứ hay sự lo lắng về tương lai để an trú trong hiện tại. Mỗi hơi thở, mỗi bước chân đều có khả năng đem lại sự giải thoát, đem lại tự do. Niệm, định, tuệ là một thanh gươm rất sắc có thể chặt đứt những sợi dây. Hơi thở hay bước chân của mình có thể là những lưỡi gươm cắt đứt những sợi dây ràng buộc mình với quá khứ hay với tương lai.

Nếu nói chuyện trong khi đi là mình để câu chuyện hay sự suy tư kéo mình về quá khứ, kéo mình tới tương lai. Mình không có cơ hội để tranh đấu cho tự do. Có thảnh thơi, tự do rồi thì mình mới có an lạc, hạnh phúc. An lạc không phải là cái xa vời mình đạt được sau sáu năm thực tập. Mỗi hơi thở mà có chánh niệm và chánh định đều đem tới an lạc, tại vì mình tiếp xúc được với những mầu nhiệm của sự sống trong giây phút hiện tại.

Không có gì quý hơn tình huynh đệ

Ở Việt Nam người ta nói rằng ba thứ mà chúng ta đi tìm là độc lập, tự do và hạnh phúc. Chúng ta có thể hiểu ba chữ đó theo kiểu tu tập của chúng ta. Độc lập là không bị nô lệ cho quá khứ, cho tương lai, cho những đam mê của mình. Đó là những điều kiện căn bản để có tự do. Ta không tùy thuộc vào một cái khác hay là tùy thuộc vào một người khác. Chúng ta không cho rằng nếu không có cái đó hay không có người đó thì ta không có hạnh phúc. Chúng ta hãy tự hỏi: Tôi có độc lập không? Tôi có cần đòi hỏi phải có một người khác hay có cái này, cái kia thì tôi mới có hạnh phúc không? Có độc lập rồi thì tự nhiên ta có tự do, ta không vướng bận, ta không bị ràng buộc bởi quá khứ, bởi tương lai. Ta thênh thang tiếp xúc được với những điều kiện hạnh phúc có đầy trong mình và chung quanh mình. Đó là độc lập, tự do, hạnh phúc.

Ở Pháp người ta có ba chữ: liberté, fraternité, égalité. Những chữ này hiểu theo pháp môn của chúng ta cũng rất hay. Liberté là thảnh thơi, tự do, tự do đối với những đam mê, giận hờn, tuyệt vọng, đau thương của quá khứ và đối với những lo lắng về tương lai. Ta đã có tự do đó chưa hay là ta đã tranh đấu cho tự do nào ở bên ngoài? Tự do ở đây không phải là tự do chính trị mà là tự do tâm linh thật sự trong đời sống hằng ngày. Ta có được bao nhiêu tự do đối với những phiền não của mình? Ta phải tự hỏi như vậy. Ta có bị ràng buộc bởi cái lo, cái giận hay bởi sầu khổ của quá khứ và lo lắng cho tương lai không? Nếu không có tự do thì làm sao ta có hạnh phúc? Mà tự do là sự thực tập chứ không phải là món quà được gửi tới bằng bưu điện.

Fraternité hay tình huynh đệ rất hay. Nhưng ở Pháp các nhà chính trị, nhà giáo dục, nhà khoa học có xây dựng tình huynh đệ hay không? Chúng ta ở Làng Mai biết rằng tình huynh đệ là quan trọng nhất. Nếu không có tình huynh đệ thì không có gì nuôi dưỡng để mình có thể thực hiện được ước mơ của mình. Ở Làng Mai, tất cả những gì mình làm, mình nói đều phải có mục đích xây dựng tình huynh đệ. Có tình huynh đệ thì có tất cả, không có tình huynh đệ thì không có gì hết.

Năm 2005 tôi được về Việt Nam lần đầu sau 40 năm lưu đày. Các nhà báo hỏi tôi ngay ở phi trường Charles de Gaulle và khi tới Việt Nam họ vẫn tiếp tục hỏi:

– Thầy có muốn nói gì không? Xin thầy cho biết ý kiến về tình trạng ở Việt Nam.

Tôi nói:

– Tôi mới chân ướt chân ráo về tới đây. Tôi đã thấy gì đâu mà nói. Tôi phải ở lâu ngày, phải trải nghiệm rồi mới nói được. Nhưng hình như có một cái tôi nói được, đó là “tình huynh đệ là cái cao quý nhất“. Bác Hồ nói "không có gì quý hơn độc lập tự do“, còn tôi thì nói “không có gì quý hơn tình huynh đệ“.

Đó là kinh nghiệm của đời mình, nếu không có tình huynh đệ thì không làm được gì hết. Nếu ở Làng Mai mà không có tình huynh đệ giữa các thầy, các sư cô và các phật tử cư sĩ thì thử hỏi chúng ta có làm được gì không? Chúng ta không thể tổ chức được cả khóa tu. Không có tình huynh đệ thì làm sao có độc lập tự do? Có tình huynh đệ mới có đoàn kết, có tình thương yêu để nuôi dưỡng mình. Khóa tu đầu tiên cho người xuất sĩ tại chùa Từ Hiếu ở Huế có đề tài là “Xây dựng tình huynh đệ".

Tình huynh đệ là bản chất của một đoàn thể tu học. Nhìn lại đoàn thể tu học mà Bụt đã xây dựng thì chúng ta thấy có tình huynh đệ trong đó. Các thầy lớn luôn luôn chăm sóc cho các thầy trẻ. Điều này làm cho Bụt rất hạnh phúc.

Chữ fraternité (brotherhood) cũng có nghĩa là tăng thân, là một đoàn thể tu học. Khi một số các cha, các thầy ở với nhau để cùng tu học thì đoàn thể đó được gọi là la fraternité. Phật giáo có chữ lục hòa trong một đoàn thể hòa hợp hạnh phúc. Ba chữ liberté-fraternité-egalité rất hay nhưng hình như nó chỉ còn là chữ thôi mà không còn có ý nghĩa thực tế nữa. Các nhà chính trị la ó tấn công khi họ nói về nhau cho chúng ta thấy không còn chút gì là fraternité cả. Họ lên án, bêu xấu nhau ngay trong cùng một đảng phái. Chúng ta phải làm thế nào để phục hồi tình huynh đệ (fraternité) ngay trong những tổ chức chính trị.

Giấc mơ nhỏ bé: bình đẳng cơ hội

Egalité là công bằng, là bình đẳng. Người ta thường nói chúng ta sinh ra bình đẳng với nhau, nhưng sự thật thì không như vậy. Nếu ta có một bà mẹ nghèo thì ta đã không có bình đẳng rồi. Có những đứa con có cơ hội đi học đến tốt nghiệp đại học và có những đứa con không bao giờ được học hơn cấp tiểu học. Vì vậy chúng ta sinh ra là đã không bình đẳng, nói rằng ta sinh ra bình đẳng là không đúng với sự thật.

Chữ bình đẳng ở đây không có nghĩa là có tài năng như nhau hay có sự hưởng thụ bằng nhau. Sự thật là chúng ta nhìn thấy có những người quá giàu và có những người quá nghèo. Mục đích của chủ nghĩa cộng sản là: tất cả đều là của chung. Nhưng các ở nước cộng sản hiện nay như Việt Nam hay Trung Quốc thì người giàu lại quá giàu và người nghèo thì lại quá nghèo. Đứng về phương diện cơ hội thì chúng ta không có égalité.

Chữ égalité ở đây chúng ta phải hiểu là có cơ hội bằng nhau. Dù sinh ra ở miền Nam hay miền Bắc, dù có một bà mẹ da đen hay da trắng, dù sinh ra trong một gia đình công nhân hay gia đình triệu phú thì ta phải có được cơ hội bằng nhau. Ta phải được nuôi dưỡng, phải được uống sữa. Ở nhiều nước trẻ con không có sữa uống. Nếu bà mẹ không có sữa thì em bé hoàn toàn không có cơ hội và không lớn lên được.

Hiện nay ở Việt Nam, Làng Mai đang có những tác viên xã hội mà mục đích là vào thôn quê để giúp cho bất cứ trẻ con nào mỗi ngày ít nhất phải có được một ly sữa. Giấc mơ của Làng Mai rất nhỏ bé: Làm sao để mỗi em bé mỗi ngày có được một ly sữa. Chữ bình đẳng ở đây chúng ta phải hiểu như một cơ hội: một em bé sinh ra phải có được cơ hội như những em bé khác. Đó là giấc mơ của chúng ta: em bé nào sinh ra cũng có sữa uống, cũng được nuôi dưỡng đàng hoàng, cũng có cơ hội học tiểu học, học trung học, học đại học.

Nhưng tất cả những giấc mơ đó làm sao có nếu chúng ta không có tình huynh đệ. Có tình huynh đệ thì chúng ta mới có sức mạnh để tu tập, để tranh đấu. Tu tập, tranh đấu để có tự do ở ngoài và ở trong ta, tự do ở trong đối với những phiền não, tuyệt vọng, đối với những ngục tù của quá khứ hay những lo lắng về tương lai.

Quyết định trong tự do

Trong đời sống hằng ngày chúng ta thường bị đặt trước tình trạng phải đi đến quyết định và chúng ta quyết định một cách rất hấp tấp. Chúng ta quyết định trong tình trạng không có tự do. Nếu ta đi đến quyết định trong khi tâm ta không nhẹ nhàng, thanh thản thì quyết định đó sẽ đưa tới khổ đau cho ta và cho người khác. Khi đang giận mà ta quyết định thì quyết định đó đang bị sự giận hờn chế ngự. Khi quyết định trong lúc ta đang lo lắng, bất an thì quyết định đó không thể nào sáng suốt tại vì ta không có tự do. Mình quyết định tự tử là tại vì mình đang bị tình trạng tuyệt vọng hay giận hờn trào lên. Đôi khi mình tự tử là để trừng phạt người kia.

Sự thực tập của chúng ta là sự thực tập tự do (the practice of freedom). Khi thở vào mà mình chuyên tâm đi theo hơi thở vào thì tự nhiên mình buông bỏ quá khứ, lo lắng và mình có được một chút tự do. Và thở ra được với chánh niệm thì mình nuôi dưỡng tự do lớn lên. Thực tập trong năm, bảy phút thì tự nhiên mình có đủ tự do để đi đến một quyết định. Nguyên tắc là: khi không có tự do thì chúng ta đừng quyết định. Dù cho mọi người nói mình phải quyết định liền nhưng mình phải từ chối tại vì mình không có tự do, không có thảnh thơi, bình an để quyết định. Đi tới một quyết định sai lầm thì mình sẽ đau khổ suốt đời và làm cho người kia đau khổ suốt đời, cho nên tự do là một yếu tố rất quan trọng của hạnh phúc.

Chúng ta đã quyết định trong mùa An Cư Kiết Đông năm nay mình sẽ thực tập thiền đi rất đúng mức. Trong khi đi mình phải ngưng sự suy nghĩ, sự nói năng. Mình phải cột tâm vào hơi thở, vào bước chân. Mình không khổ trong khi thực tập. Nếu thật sự có niệm, định, tuệ thì mình sẽ tiếp xúc với trời xanh, mây trắng, với những mầu nhiệm của sự sống trong mình và chung quanh mình. Mỗi bước chân phải có thảnh thơi và an lạc. Sự thực tập của quý vị là đi như thế nào để mỗi bước chân có thể chế tác được an lạc, tự do. Khi ta cảm thấy được mỗi bước chân cho ta an lạc, hạnh phúc tức là ta đang thực tập đúng. Cái thảnh thơi, an lạc đó là sự bắt đầu của Niết bàn. Trong kinh Niết bàn được định nghĩa là sự thảnh thơi, an lạc, là sự vắng mặt của những phiền não như giận, buồn, tuyệt vọng, lo lắng. Chúng ta đừng nghĩ Niết bàn là cái gì xa xôi, ảo tưởng. Nó là tự do mà mình có thể đạt được bằng bước chân và bằng hơi thở. Khi cần nói mình có thể ngừng lại nói cho đã, nói xong thì mình đi tiếp. Chúng ta chỉ làm một chuyện thôi, đừng nên bắt cá hai tay. Khi thấy một hành giả quên thực tập thì mình dừng lại nhìn, mỉm cười và xá để nhắc người đó nhớ thực tập. Chúng ta phải giúp nhau.

Xem pháp thoại này: https://vimeo.com/55095965

2012.11.08.LH.VN.DT-H.264 – Webcasting widescreen copy from vimeo.com/thuvienlangmai on Vimeo.

 

Người yêu ơi, em là ai?

Con nuôi mẹ

Trước giờ khai mạc khóa tu ở Hòa Lan ngày 28.4.2000, phóng viên nhật báo Trow đã phỏng vấn tôi. Câu hỏi như thế này: “Đã trên bảy mươi tuổi, Thầy còn muốn làm gì trước khi tịch?” Nếu đây là câu hỏi của một vị thiền sinh thì câu trả lời sẽ rất dễ dàng. Nhưng vì đây là câu hỏi của một nhà báo, chưa hiểu Phật pháp nên tôi thấy khó trả lời. Tôi đã có thể trả lời: “Tôi đâu có chết”, nhưng như vậy thì nhà báo sẽ không hiểu được. Cho nên tôi đã nói: Tôi có muốn làm gì trước khi tôi chết đâu! Rồi tôi mỉm cười nói tiếp: “Tôi đã đi tới bản môn rồi, giây phút nào tôi cũng làm cái tôi thích cả, tôi có chết đâu mà phải hối hả làm một cái gì?”

Tôi không ráng tìm cách để giải thích cho nhà báo đó hiểu một chút về tâm tư của mình. Tại vì người đó chưa từng nghe Phật pháp, chưa bao giờ được thực tập pháp môn, vì vậy họ khó mà chấp nhận được những điều ta nói. Nếu nhìn lại, ta có thể tự đặt câu hỏi: “Bây giờ đây ta bao nhiêu tuổi?” Và thử trả lời: Bảy mươi hay bảy mươi lăm? Hay là mới có năm mươi? Hoặc mới có hai mươi lăm? Không chắc chắn là người bảy mươi tuổi sẽ chết sau người hai mươi lăm tuổi! Người hai mươi lăm tuổi có thể bị tai nạn mà chết trước người bảy mươi lăm tuổi. Câu hỏi này mỗi người nên tự đặt để tự mình trả lời. Giả dụ tuần sau ta chết, thì ta muốn làm cái gì trước ngày chết đó? Có thể có người sẽ trả lời rằng trước khi chết, tôi muốn đất nước tôi trở thành một đất nước có dân chủ. Có thể có người sẽ trả lời rằng trước khi chết, tôi muốn các con tôi thành lập gia đình đàng hoàng, có việc làm, để tôi có thể chết an tâm hơn. Sẽ có nhiều những câu trả lời khác nhau.

Là người tu, chúng ta sẽ trả lời câu hỏi kia như thế nào? Chúng ta có còn muốn thực hiện cái gì trước khi chết hay không? Có phải là một cái chùa cần xây cho xong, hay là một tu viện, hoặc là một cái gì đặc biệt khác nữa? Đây là một sự thỉnh mời quán chiếu. Nếu ngồi xuống và quán chiếu về điều này thì chúng ta có thể tìm ra được những cái rất hay. Tôi có nói với nhà báo là: “Những điều tôi muốn làm, tôi đã làm và đang làm. Đó là những điều rất nhỏ thôi. Từ hồi còn là một thầy tu trẻ cho đến bây giờ, tôi đã từng làm chuyện đó và chưa bao giờ tôi ngưng làm chuyện đó, những chuyện rất nhỏ. Vì vậy tôi không thấy có chuyện gì đặc biệt muốn làm cho xong trước khi tôi chết”.

Chúng ta thấy rằng khi rễ cây hút nước đưa lên cho lá cây thì đó mới chỉ là nhựa nguyên, nhựa nguyên chưa đủ sức để nuôi lá và nuôi cây, cho nên chiếc lá phải tiếp thu ánh sáng mặt trời, tiếp thu những chất hơi ở trong không gian và biến nhựa nguyên thành nhựa luyện. Khi nhựa nguyên đã được biến thành nhựa luyện thì mới có chất dinh dưỡng và chiếc lá gửi nhựa luyện trở lại để nuôi thân cây và nuôi những cành cây. Tất cả những chiếc lá đều có phận sự tự nuôi mình và đồng thời nuôi mẹ, nuôi cha và nuôi ông bà của chiếc lá, tức là nuôi cả thân cây và rễ cây. Thường thường ta cứ nghĩ là thân cây nuôi lá cây và rễ cây, nhưng kỳ thực nhìn cho kỹ, chúng ta thấy lá cây cũng nuôi thân cây, rễ cây và cành cây. Không những mẹ nuôi con mà con cũng nuôi mẹ. Điều này cũng đúng trong trường hợp của tôi. Tôi có nhiều đệ tử. Tôi thấy đệ tử nuôi tôi rất nhiều và cho tôi rất nhiều niềm vui mỗi ngày. Các học trò của tôi nếu thực tập sống cho có hạnh phúc, làm hạnh phúc cho nhiều người và giúp nhiều người bớt đau khổ, đó cũng là thực phẩm cho tôi hằng ngày. Sự thật là lá cây và cây nuôi dưỡng lẫn nhau. Lá cây nuôi cây từ hồi nào? Không phải là sau khi đã lớn lên lá cây mới nuôi cây mà đã nuôi cây ngay từ thời còn ấu thơ.

Con đã đi tìm Thế Tôn, từ hồi còn ấu thơ.
Con đã nghe tiếng gọi của Thế Tôn
từ khi mới bắt đầu biết thở.

Khi nghe lời đức Thế Tôn để thực tập thì chúng ta đã bắt đầu nuôi dưỡng giới thân, huệ mạng của mình, nhưng đồng thời chúng ta cũng nuôi dưỡng Đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn là cây và chúng ta là những chiếc lá. Nếu Đức Thế Tôn còn tồn tại được trên đời và tiếp tục giáo hóa là cũng do chúng ta, những đệ tử của Ngài.

Mỗi giây phút ta thở có chánh niệm, bước đi có chánh niệm đều là những giây phút để nuôi mình và nuôi Đức Thế Tôn. Giáo pháp của Đức Thế Tôn còn trường cửu được và đi về tương lai được để độ được nhiều người là do sự sống hàng ngày của chúng ta. Chúng ta thường gọi giáo pháp của Đức Thế Tôn là sữa, là pháp nhũ. Chúng ta nghĩ Đức Thế Tôn là mẹ, là cha, nhưng chúng ta chưa biết rằng chính chúng ta cũng là mẹ, là cha. Thực tập thiền hành, thiền tọa, mỉm cười, chuyển hóa thân tâm và độ đời tức là ta đang nuôi dưỡng Đức Thế Tôn. Con nuôi mẹ, nuôi cha. Từ khi còn ấu thơ, từ khi xuất gia cho đến bây giờ, không có ngày nào chúng ta không làm chuyện đó. Và để trả lời câu hỏi mình muốn làm cái gì trước khi chết, thì ta sẽ nói là tất cả những điều ta muốn làm ta đã bắt đầu làm từ lâu rồi, không có một cái gì đặc biệt khác nữa cần phải làm trước khi chết. Từ đây cho đến khi chết ta cũng tiếp tục làm chuyện đó, nghĩa là nuôi mình và nuôi Đức Thế Tôn.

Nuôi Đức Thế Tôn nghĩa là nuôi cuộc đời. Cuộc đời có nhiều đau khổ, có nhiều nứt rạn, có nhiều đổ vỡ. Sự nghiệp của Đức Thế Tôn là hàn gắn, chữa trị và nuôi dưỡng cuộc đời. Chúng ta là sự tiếp nối của Đức Thế Tôn, chúng ta cũng làm những việc đó, nghĩa là cũng làm công việc hàn gắn, chữa trị và nuôi dưỡng cuộc đời. Và đó không phải là việc ta chưa làm. Đó là việc ta đã từng làm trong quá khứ. Nếu còn sống được một năm thì ta làm thêm một năm, nếu còn sống hai năm thì ta làm thêm hai năm. Không có việc gì đặc biệt khác mà ta phải làm trước khi chết. Những việc ta phải làm, ta đã làm, đang làm và sẽ làm cho tới khi không còn làm được nữa. Khi mình không trực tiếp làm được nữa thì các con các cháu của mình sẽ tiếp tục làm cho mình. Nhìn cho sâu, mình là các con mình, mình là đệ tử của mình và như vậy mình không chết, mình không bao giờ chết. Mình đã đi vào trong các đệ tử của mình rồi, và đệ tử mình sẽ mang mình đi vào tương lai và do đó công việc hàn gắn, nuôi dưỡng và chữa trị kia mình sẽ tiếp tục làm sau khi mình chết, làm với hai bàn tay của con mình, của cháu mình, của đệ tử mình. Như vậy, tôi có thể đã nói là tôi sẽ không chết, nhưng nhà phóng viên kia vì chưa học Phật pháp nên sẽ không hiểu được câu đó. Tu học cho đàng hoàng, quán chiếu cho sâu sắc, thì ta sẽ thấy được bản chất của ta là vô sinh và bất diệt. Sinh diệt là cái bề ngoài mà thôi.

Mặt mũi đích thực

Trong truyền thống Thiền, công tác căn bản của người tu là phải tìm cho ra được mặt mũi đích thực của chính mình. Mặt mũi đích thực của chính mình là dịch từ chữ Hán bản lai diện mục. Mục tức là con mắt. Diện tức là khuôn mặt. Diện mục tức là mặt mũi của mình. Bản lai là từ xưa cho tới nay. Trong bài hô canh buổi chiều có câu: Rõ soi diện mục thoát bờ mê. Quán chiếu để thấy được mặt mũi chân thật của mình, và khi thấy được là giải thoát, là không còn sợ hãi và khổ đau nữa. Nếu chưa thấy được mặt mũi đích thực của ta, thì ta chưa thành đạt được chí nguyện của người tu. Mục đích của người tu không phải là để xây một ngôi chùa rất lớn, hay là thành lập một trung tâm tu học phồn thịnh, hay là để làm hòa thượng, làm pháp chủ, hay làm một vị tam tạng pháp sư nổi tiếng. Mục đích của người tu không phải là những cái đó. Mục đích đích thực của người tu là phải tìm ra cho được mặt mũi chân thật của mình. Tôi là ai? Đó là công án. Đó là câu hỏi.

Phần lớn trong chúng ta không biết mình là ai và sống để làm gì. Nếu ta là bác sĩ thì mỗi ngày đi tới phòng mạch, là nhà buôn thì mỗi ngày mở cửa tiệm và ngày nào ta cũng làm công việc đó. Ta không có cơ hội để tự hỏi là chúng ta làm như vậy để làm gì cho đến khi nằm xuống. Có người sẽ trả lời: “Chúng ta phải làm ăn, nếu không làm thì không có ăn”. Nhưng mục đích của sự sống có phải là để làm ăn hay không, hay còn là một cái gì cao siêu hơn và cần thiết hơn. Nếu sống chỉ là để sống sót, đừng bị lạnh, đừng bị đói, đừng bị cô đơn, thì như vậy mục đích của sự sống quá nhỏ hẹp. Chúng ta có cơ hội, có thì giờ để tự đặt cho mình câu hỏi này hay không? Ta có mặt để làm gì? Có phải là để thỏa mãn những đòi hỏi về danh, về lợi, về tài, về sắc hay về thân xác hay không? Câu hỏi đó động tới bồ đề tâm của ta, động tới niềm thao thức sâu sắc nhất của ta. Ta phải có thì giờ để đặt câu hỏi đó: “Mục đích tối hậu của sự có mặt của ta là cái gì?” Nói theo danh từ Phật học là cái mặt mũi đích thực của mình là gì? Ta là ai? Tới đây để làm gì? Rốt cuộc ta sẽ đi về đâu? Những câu hỏi đó, người đời thấy giống như là vô ích, không đem lại tiền bạc gì hết, nhưng đó là những câu hỏi chính của một kiếp người.

Giới triết học và thần học hay dùng chữ Ultimate Concern. Thiền sư Lâm Tế có một lần khai thị như thế này: “Này các vị Phật tử, trong mỗi chúng ta có một con người thật không có vị trí (vô vị chân nhân), thường hay đi ra đi vào trên cái đống thịt đỏ au này. Các vị muốn biết con người thật không có vị trí đó là ai thì hỏi lão tăng đây”. Đó là một công án của thiền sư Lâm Tế. Đống thịt đỏ au là cái xác thân này. Vô vị tức là không có vị trí nhất định. Chân nhân là con người thật. Con người thật không có vị trí, không có hình tướng. Ngôn ngữ thiền hơi đặc biệt. Khai thị về đề tài vô vị chân nhân, rồi lại hỏi nếu ai không biết cái đó là cái gì thì hỏi lão tăng đây! Đó là cái bẫy của thiền sư đang giăng ra! Cái vô vị chân nhân đó, con người thật đó không phải do giải thích mà thấy được. Ta phải tìm kiếm, phải quán chiếu, phải hạ thủ công phu mỗi ngày thì mới tìm ra được. Nếu có kinh nghiệm thì ta biết đây là cái bẫy rồi. Nhưng cũng đã có người mắc bẫy. Vị đó đứng dậy hỏi: “Bạch thầy, con người thật không có vị trí đó là ai vậy?” Lúc đó thiền sư thất vọng vô cùng. Ông nói: “Vô vị chân nhân là gì hả? Là giấy vệ sinh trong nhà cầu chứ là gì!”. Đó là chuyện được ghi lại trong Lâm Tế Ngữ Lục.

Ta không biết ta đích thực là ai. Khi có ai xin ta cái hình, ta cố tìm một cái hình nào hồi ta còn trẻ và đẹp để đưa cho người đó và nói: “Đây là tôi”. Những cái hình xấu hơn hoặc già hơn thì ta cho rằng không phải ta. Như vậy, tôi là cái hình đó hả? Tôi, là khi mình còn là một chàng thanh niên hai mươi hai tuổi, hay một cô thiếu nữ hai mươi tuổi xinh đẹp. Đó có phải là mặt mũi đích thực của chúng ta không? Không phải! Nếu đó là mặt mũi đích thực của chúng ta thì tại sao nó chỉ được như vậy vài năm thôi rồi đổi thành những mặt mũi khác? Chúng ta đã biết rằng hình ảnh chàng trai hay cô thiếu nữ xinh đẹp hồi hai mươi tuổi đó không phải là mặt mũi đích thực của mình. Hình ảnh đích thực của chúng ta khác lắm! Nó vượt thoát tất cả những bóng dáng bên ngoài.

Ngày trước có một bà người Anh, tên là Ethelwin Best, theo đạo Anh quốc giáo, rất ưa thích hoạt động cho hòa bình. Bà tới làm việc tự nguyện trong văn phòng của phái đoàn Phật Giáo Việt Nam tại Paris. Bà làm văn thơ tiếng Anh rất giỏi. Lúc đó, bà đã hơn bảy mươi tuổi nhưng sức khỏe của bà còn rất khá. Mỗi ngày bà leo lên tới tầng lầu thứ năm, nơi văn phòng làm việc để giúp cho chúng tôi. Bà có một niềm tin là hễ bà chết là thế nào bà cũng đi vào thiên đường. Niềm tin rất đơn giản, rất chắc nịch. Bà còn tin là khi vào thiên đường bà sẽ gặp ông trở lại. Ông mất vào lúc ông hai mươi ba tuổi. Như vậy, bà vẫn còn giữ được hình ảnh rất đẹp của ông hồi còn trai trẻ. Bây giờ thì bà trên bảy mươi. Có một hôm, lấy tư cách của một thiền sư tôi hỏi bà: “Này Ethelwin, khi bà chết, đi vào thiên đường và gặp lại ông, thì bà muốn gặp ông lúc ông bao nhiêu tuổi? Hai mươi tám tuổi hả? Bây giờ bà già quá rồi mà gặp một người trẻ như vậy thì đâu có xứng đôi vừa lứa nữa”. Câu hỏi đó làm bà giật mình. Hay là khi chết, đi vào thiên đường thì mình trẻ lại? Mà trẻ lại chừng bao nhiêu? Bà hơi lúng túng là vì niềm tin của bà rất đơn sơ. Bà nghĩ rằng khi lên thiên đường thì sẽ gặp lại người cũ, trong khi đó bà đã là một bà già rồi. Có lẽ đêm hôm đó bà mất ngủ, vì chưa bao giờ bà biết đem niềm tin của mình ra để đặt câu hỏi.

Mặt mũi đích thực của mình là ai? Trong thiền môn đôi khi người ta đưa ra những công án để quán chiếu, như là: “Cái mặt mũi của anh ra sao trước khi bà nội, bà ngoại anh ra đời”. Nó có nghĩa là lúc đó anh đã có mặt chưa? Nếu anh có mặt thì anh đã có mặt dưới hình thức nào? Những câu hỏi như vậy rất điển hình trong thiền môn. Đó là những lời mời gọi để cho chúng ta khởi hành đi tìm chính mình. Tu hành, nhất là trong truyền thống thiền, là lên đường để đi tìm chính mình. Còn tất cả những việc khác như làm chùa, xây dựng tu viện, đi hoằng pháp, viết sách, dạy học…, tất cả đều là phương tiện. Mục đích chính là khám phá ra được cái bản lai diện mục của mình. Nếu ta không thành công trong việc này thì những người ở ngoài đời bận bịu công ăn việc làm, làm sao mà thành công được? Những người sáng đi, tối về, bận bịu nơi công sở, về nhà còn phải lo nấu cơm cho con, chăm sóc cho chồng thì làm sao có thì giờ để làm những chuyện ấy?

Là người tu chúng ta làm gì hàng ngày? Buổi sáng thức dậy đi ngồi thiền lúc năm giờ. Trên gối ngồi thiền, chúng ta làm cái gì? Chúng ta có cơ hội buổi sáng được ngồi thiền, buổi chiều được ngồi thiền, là để làm gì? Nếu không phải là để tìm ra cái mặt mũi đích thực của mình? Chúng ta phải sử dụng thì giờ đó để làm công việc mà đa số trên cõi đời này không có cơ hội để làm. Khi đi xuất gia là ta có nhiều cơ hội hơn những người ở ngoài đời. Tất cả những điều kiện thuận lợi được cung cấp bởi nếp sống trong tu viện là để cho chúng ta có thể làm được công việc đó. Trong tu viện, ta có được cơ hội rửa chén trong im lặng, làm vườn, chấp tác trong im lặng, có cơ hội ngồi thiền và đi thiền hành. Đó là những cơ hội rất lớn để chúng ta có thể làm được công việc quan trọng nhất của mình, là tìm cho ra được cái bản lai diện mục, thấy được cái tự tánh của mình, tức là kiến tánh. Thấy được tự tánh thì tự nhiên ta đạt tới tự do, tự do đối với sống chết, tự do đối với sự sợ hãi. Kiến tức là thấy. Tánh tức là tự tánh. Nếu người tu mà không thành công được thì khi chết cũng trở thành cô hồn như bất cứ ai. Trong thập loại cô hồn có loại cô hồn thầy tu. Cô hồn thầy tu nghĩa là thầy tu không thành công.

Chúng ta được đức Thế Tôn dạy là thọ mạng của một đức Như Lai là vô lượng, tức là Như Lai không chết. Đức Di Đà cũng có thọ mạng vô lượng, và tên của ngài là A Di Đà có thể được dịch là Vô Lượng Thọ. Vô Lượng Thọ tức là sống hoài không chết. Nếu chúng ta đọc kinh Kim Cương một cách sâu sắc thì sẽ thấy rằng không những thọ mạng của các Đức Như Lai là vô lượng, mà thọ mạng của mỗi chúng ta cũng là vô lượng. Vì không biết điều đó cho nên ta cứ nghĩ rằng ta chỉ sanh ra trong năm đó, sẽ chết vào năm kia và thọ mạng của chúng ta chỉ có mấy chục năm, nhiều lắm là 100 năm.

Kinh Kim Cương dạy cho chúng ta là phải vượt thoát bốn ý niệm. Ý niệm thứ nhất là ý niệm về Ngã. Ngã ở đây ngược với phi ngã. Đây là tôi, còn tất cả những cái khác không phải là tôi. Những người khác, những hiện tượng khác như cây cối, đất đai, chim chóc, thú vật, người nước này, người nước khác đều không phải là tôi. Ý niệm thứ hai là ý niệm về người. Người là đối với những hiện tượng khác không phải người như cầm thú, cỏ cây và đất đá. Thứ ba là ý niệm về chúng sanh, ngược với ý niệm phi chúng sanh tức là các loại vô tình. Chúng sanh tức là các loài hữu tình, tức là có thọ, tưởng, hành và thức. Còn ngược lại là những loài vô tình như cỏ cây và đất đá. Và ý niệm thứ tư mà mình phải vượt cho thoát ý niệm thọ mạng, tức là ý niệm ta sanh ra, có mặt trên cuộc đời này một thời gian nào đó thôi, sau đó ta sẽ không còn nữa, sẽ không có mặt nữa. Ngược lại với ý niệm thọ mạng là ý niệm vô lượng thọ, thọ mạng vô lượng. Kinh Kim Cương giúp chúng ta có một dụng cụ để đi tìm chúng ta. Kinh Kim Cương dạy chúng ta nhìn thật kỹ vào cái gọi là ta để thấy được những cái không phải là ta trong đó.

Tại Làng Mai thì chúng ta hay nói là nhìn vào trong chiếc lá thì thấy những cái không phải là lá nằm trong đó. Đạo Bụt không nói triết lý vẩn vơ. Chúng ta có những phương pháp rất cụ thể để đi tìm. Ta nói đây là chiếc lá. Thường thường cái ta gọi là lá thì không phải là hoa, không phải là cây, không phải là đất, không phải là đá. Nhưng kỳ thực nhìn kỹ vào trong chiếc lá thì chúng ta sẽ thấy rằng nó có đủ những yếu tố không phải lá. Ví dụ như đám mây. Trong chiếc lá có đám mây, tại vì nếu không có đám mây thì không có mưa, không có mưa thì không có lá. Vì vậy cho nên lá cũng có nghĩa là mây. Những cái không phải là lá nó nằm ngay trong lá. Những cái không phải là ta nằm ngay trong ta. Mặt trời cũng vậy, mặt trời không phải là lá, nhưng nếu lấy ánh sáng mặt trời ra khỏi lá thì lá không thể nào tồn tại được. Lá được làm bằng ánh sáng mặt trời. Vì vậy nhìn kỹ trong cái ta, ta sẽ thấy cái không phải là ta trong đó. Nếu không biết nhìn theo phương pháp này thì không bao giờ ta tìm thấy được cái bản lai diện mục của mình.

Trong ta, ta thấy có cha mẹ, có ông bà và tổ tiên. Ta thấy văn hóa, ta thấy nền giáo dục, ta thấy tổ tiên huyết thống, tổ tiên tâm linh và con cháu… Nhìn vào ta cho thật kỹ, thì tự nhiên ta biết ta là ai. Cái đó là cái bản lai diện mục của mình. Ví dụ như đợt sóng trên biển cả. Nhìn cạn cợt bên ngoài thì thấy rằng có một lúc nó biểu hiện, vươn lên rồi đổ xuống, có lúc giống như là nó không còn nữa. Nhìn như vậy ta thấy có sanh, có diệt, có cao, có thấp, có có có không. Nhưng nhìn cho kỹ, nhìn cho thật sâu trong đợt sóng thì ta thấy sóng được làm bằng nước. Thời gian biểu hiện cũng như thời gian không biểu hiện, tầm to lớn, chiều cao của con sóng được hoàn toàn điều kiện hóa bởi những đợt sóng khác và bởi nước. Nếu quán chiếu cho kỹ lưỡng thì chúng ta sẽ thấy rằng một đợt sóng đã được làm bằng tất cả những đợt sóng khác. Nhìn vào trong một đợt sóng thì thấy được tất cả các đợt sóng khác, và thấy được nước. Khi đợt sóng thấy được rằng mình là tất cả các đợt sóng khác, là nước thì nó có thể vượt thoát được tất cả các ý niệm sanh, diệt, có, không, cao, thấp, lớn, nhỏ, trước, sau, tới và đi. Lúc đó đợt sóng tìm ra được mặt mũi chân thật của nó và nó không còn sợ hãi nữa. Đợt sóng không còn bị điều kiện hóa, không bị kẹt vào sanh, vào tử, không phải vì sanh mà nó có, không phải vì tử mà nó không. Đó cũng là chuyến đi quan trọng nhất của đời mình. Một chuyến đi để tìm ra con người thật của mình, và kinh Kim Cương là một trong những kinh có thể làm tư lương cho chúng ta để lên đường.

Tư lương tức là lương thực, những điều kiện để mình đi. Kinh Kim Cương là một thứ tư lương mà chúng ta mang theo để có thể thành công trong chuyến đi tìm chính mình; đi tìm chính bản thân ta. Ngày xưa, có những hành giả đi từ núi này sang núi khác, từ tỉnh này sang tỉnh khác tìm đạo. Những hành giả đó mang một đôi giày rất cũ, chiếc áo thì bạc màu. Họ không bằng lòng với sự sống tiện nghi ở trong chùa. Ngày nào cũng được ăn sáng, ăn trưa và ăn chiều, có phòng riêng, có phòng tắm, có cầu tiêu, có đủ thứ, nhưng họ không bằng lòng với những thứ đó. Họ muốn đi tìm cái gì quan trọng cho đời họ, vì vậy họ trở thành một vị du tăng, vân thủy. Vân thủy là danh từ Phật học, danh từ thiền. Vân là mây, thủy là nước. Chỉ vì muốn đi tìm cái quan trọng nhất cho nên mình đã trở thành một người vân thủy. Vân thủy là ông thầy tu đi tìm đạo. Cái áo nâu bạc phếch, cái nón lá tả tơi, đôi dép đã cũ mòn, nhưng trong cái túi mà ông mang theo đôi khi lòi ra một mẩu bìa và người ta đọc được: Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh. Nhiều vị vân thủy ngày xưa thường đem theo cuốn kinh Kim Cương. Kinh Kim Cương là tư lương của họ, đi tới đâu xin ăn chỗ đó và dùng cuốn kinh Kim Cương làm cái cuốc để đào lên giếng nước thơm trong ở trong trái tim của mình mà đạt tới sự giác ngộ. Ngày xưa có những bậc du tăng như thế, họ tự gọi họ là vân thủy, là mây là nước. Mây nước thì không dừng lại ở bất cứ chỗ nào, không bị trói buộc bởi những tiện nghi hàng ngày. Cũng vì lý do đó mà kinh Kim Cương có một địa vị rất quan trọng trong truyền thống thiền. Kinh Kim Cương hay là kinh Bát Nhã đều là những dụng cụ rất bén nhạy giúp cho chúng ta tìm lại chính mình.

Trăng trong mây bạc

“Mê nghe kinh trọn kiếp
Ngộ, chỉ một sát na”.

Mỗi người chúng ta đều có ba thân: thân Bụt, thân Pháp và thân Tăng. Chúng ta phải nhận diện cho được Phật thân, Pháp thân và Tăng thân của chúng ta. Chính nhờ tiếp xúc được với thân Bụt, thân Pháp và thân Tăng của ta trong đời sống hàng ngày mà ta tìm được chính ta. Báo thân còn có nghĩa là Pháp thân, Báo thân và Ứng thân (Hóa thân). Chúng ta phải tiếp xúc cho được pháp thân của mình. Mỗi người trong chúng ta, dù mới đi tu, cũng có pháp thân của mình. Nếu không có pháp thân thì ta đâu phải là người tu nữa. Biết đi thiền hành, biết thở chánh niệm, biết ăn cơm im lặng, biết lắng nghe với chánh niệm thì ta đã bắt đầu có pháp thân. Mà pháp thân thì bất diệt. Nếu biết cách thì ta sẽ làm cho pháp thân đó hiển lộ, càng ngày càng sáng rõ. Pháp thân đó không phải là do thầy mình trao cho mình, không phải do Bụt trao cho mình, pháp thân đó có sẵn trong ta và nhờ hào quang của Bụt mà nó biểu hiện ra được. Ta phải thức dậy để thấy được nó.

Cũng như một đợt sóng, vì đợt sóng nghĩ là nó có sinh có diệt, có cao có thấp, nên nó buồn sợ và đi tìm cái không cao thấp, không sinh diệt, đi tìm nước. Nhưng nó đâu cần phải đi tìm nước, tại vì nó đã chính là nước rồi. Đợt sóng không cần phải chết đi mới thành nước. Trong khi đợt sóng là đợt sóng thì nó cũng đã là nước. Đợt sóng không biết điều đó nên mới lo sợ, mới ganh tỵ Chúng ta cũng vậy. Chúng ta đã là pháp thân rồi, thế nhưng chúng ta không biết. Đức Thế Tôn đã chỉ dạy để chúng ta thấy được chúng ta đã là pháp thân ngay trong giây phút hiện tại. Đức Thế Tôn đã chỉ dạy để chúng ta sống như thế nào, thở như thế nào và đi như thế nào để cho pháp thân biểu hiện. Tiếp xúc được với pháp thân thì ta có vững chãi và thảnh thơi do đó ta không còn sợ hãi. Món quà lớn nhất của người tu là thấy được pháp thân.

Báo thân là hình hài đẹp nhất của chúng ta. Khi có báo thân rồi thì tất cả những biểu hiện của chúng ta đều trở nên đẹp đẽ: sinh cũng đẹp, trú cũng đẹp, dị cũng đẹp mà diệt cũng đẹp… Như chiếc lá, khi sinh ra còn nhỏ xíu, nó đã đẹp, lớn lên nó cũng đẹp và khi trở nên vàng, đỏ, nó cũng đẹp, cho đến khi rụng xuống nó cũng đẹp. Báo thân của ta không phải là cái hình chụp được khi ta còn trẻ và đẹp. Ta đẹp hai mươi bốn giờ một ngày, đẹp từ kiếp này đến kiếp khác: đó gọi là báo thân. Ta phải thấy cho được báo thân của ta. Nếu tiếp xúc được với pháp thân thì ta thấy được báo thân của ta khắp nơi, đẹp đẽ vô cùng, tại vì nó là biểu hiện của pháp thân. Khi thì một đóa hoa vàng hé nở, khi thì một cành trúc tím xuất hiện; lúc này thì mây bạc bay qua, lúc kia thì trăng trong xuất hiện… Tất cả những cái đó đều là biểu hiện của pháp thân.

Chữ Pháp thân (dharmakaya) lúc đầu chỉ có nghĩa là thân giáo pháp. Đức Thế Tôn có nói rằng sau khi nhục thân của Ngài tan rã thì pháp thân của Ngài vẫn còn tồn tại với chúng ta. Pháp thân của Ngài tồn tại mãi, không những trong tam tạng kinh điển mà còn ở trong những người đệ tử của Ngài, tại vì các thầy, các sư cô và các Phật tử vẫn tiếp tục sống và thực tập theo pháp. Sau đó pháp thân còn có nghĩa là tự tánh, vì khi tiếp xúc được với pháp thân thì ta tiếp xúc được với tự tánh của mình. Giống như đợt sóng tiếp xúc được với nước là tiếp xúc được với tự tánh của đợt sóng. Tự tánh của nước là không cao không thấp, không sinh không diệt, không có ta cũng không có không ta. Pháp thân là cửa ngõ để cho chúng ta đi vào tự tánh. Nhờ pháp thân mà ta tiếp xúc được với tính bất sinh bất diệt, không đến không đi, không còn không mất, không có không không của mình. Trong cửa thiền, chúng ta thường nghe những câu như: hoa nở, trăng trong, mây bạc và tuyết rơi đều là những biểu hiện của pháp thân. Vì vậy nếu nhìn hoa đào, nhìn tuyết trắng, nhìn trăng trong hay mây bạc cho kỹ, chúng ta sẽ thấy tính bất sinh bất diệt của chúng. Đừng nghĩ rằng hoa đào là mong manh, ánh trăng trong là mong manh.

Tự tánh của chúng là bất sinh bất diệt, vì trăng trong mây bạc hiện toàn chân. Nguồn thi ca trong cửa thiền vốn rất sâu thẳm, rất mầu nhiệm và khởi thủy từ pháp thân. Trong bài thơ Bướm Bay Vườn Cải Hoa Vàng, hay bài Trường Ca Avril ta cũng thấy được pháp thân và những biểu hiện của pháp thân như là bông hoa, trăng trong và mây trắng. Tử trúc hoàng hoa phi ngoại cảnh, bạch vân minh nguyệt hiện toàn chân, nghĩa là trúc tím, hoa vàng không phải là cái gì khác với pháp thân mà chính là biểu hiện của pháp thân. Pháp thân là tự tánh bất sinh bất diệt và mục đích của người tu là làm thế nào để tiếp xúc được với tự tánh ấy.

Hóa thân vô lượng

Chúng ta đi tìm chính mình và đồng thời cũng đi tìm thầy của chúng ta, bởi vì chúng ta ai cũng có thầy và biết thương thầy của mình. Và khi tìm được chính mình thì cũng đồng thời ta tìm được thầy của mình. Thầy của chúng ta là Đức Thế Tôn và là vị bổn sư đã truyền giới cho ta. Khi ta thương một ai thì đó là cơ hội để ta đi tìm người đó, nếu không tìm cho ra thì chỉ là thương cái bóng dáng, cái hình ảnh của tâm thức mà thôi, chứ chúng ta chưa thật sự thương người đó. Con đã đi tìm Thế Tôn, từ hồi còn ấu thơ. Thế Tôn không phải là một cái tượng bằng đồng hay bằng ngọc thạch trên bàn thờ, đó chỉ là một biểu hiệu. Nếu Thế Tôn chỉ là người con trai sinh ra ở thành phố Ca-tỳ-la-vệ, lớn lên lập gia đình, có con nhỏ rồi đi xuất gia, thành đạo, hành đạo trong bốn mươi mấy năm và nhập diệt ở Kusinagara, thì đó chưa hẳn là Đức Thế Tôn. Đó chỉ là hình bóng của Đức Thế Tôn biểu hiện cũng như hình bóng của trăng trong, mây trắng, chưa phải là pháp thân. Nếu bị kẹt vào cái tướng đó, cho rằng đó là Đức Thế Tôn thì ta sẽ đánh mất bản tánh của Đức Thế Tôn, không thấy được Đức Thế Tôn. Trong kinh Kim Cương có câu: “Nếu tìm ta qua hình sắc, kiếm ta qua âm thanh thì ngươi đang đi trên con đường tà, sẽ không bao giờ thấy được ta (nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm thanh cầu ngã, thị nhân hành tà đạo, bất năng kiến Như Lai).

Khi tìm ra được pháp thân của Đức Thế Tôn thì ta sẽ không còn đồng nhất Thế Tôn với con người đó, cái tên đó, xứ sở đó và như vậy ta tìm ra được pháp thân của chính mình. Hình dáng người con trai thành Ca-tỳ-la-vệ chỉ là một hóa thân của Bụt mà thôi. Tiếp xúc được với một hóa thân, đó chính là cơ hội để ta tiếp xúc được với pháp thân. Trong bài Tìm Nhau có câu: Thế Tôn là tình yêu đầu, Thế Tôn là tình yêu tinh khôi. Cuộc đi tìm đó là mục đích chính của đời ta, bởi vì tìm ra được Thế Tôn là ta tìm ra được chính ta. Con đã tìm ra Thế Tôn, con đã tìm ra con. Hai câu đó đi liền với nhau, nếu không có câu thứ hai ta sẽ không hiểu được câu thứ nhất. Nói ngược lại cũng đúng. Con đã tìm ra con, tức là con đã tìm ra Thế Tôn. Khi thương ta có thể bị đánh lừa. Nếu ta bị kẹt vào trong một hình bóng nào đó, thì khi hình bóng không còn biểu hiện nữa ta sẽ than khóc, ta sẽ khổ đau, ta sẽ còn mãi mãi đi tìm cái hình bóng đó. Ta không biết rằng những người thương đang có mặt trong biểu hiện mới mà bởi vì bận đi tìm hình bóng cũ nên ta đi ngang qua mà ta không nhận biết, ta làm lơ. Kỳ thực Đức Thế Tôn đang biểu hiện dưới nhiều hình thức cho ta, chỉ tại ta bị kẹt vào âm thanh, vào hình sắc nên không thấy được.

Trong kinh Pháp Hoa có một chương rất hay, đó là chương Bảo Tháp của Bụt Đa Bảo. Đức Thế Tôn đang thuyết kinh Pháp Hoa thì tự nhiên ở giữa hư không xuất hiện một cái tháp rất lớn, lơ lửng trên trời và trang điểm rất lộng lẫy. Từ trong Bảo Tháp có tiếng rất thanh tao phát ra: “Mầu nhiệm quá! Mầu nhiệm quá! Bụt Thích Ca Mâu Ni đang nói kinh Pháp Hoa, mầu nhiệm quá!”. Tất cả đại chúng trên núi Linh Thứu đều nhìn lên và nói: Lạ quá! Có một bảo tháp hiện ra giữa trời, rất lộng lẫy và lại có tiếng nói rất thanh tao từ trong tháp vọng ra. Tất cả đại chúng đều muốn hỏi Bụt Thích Ca lý do gì mà có bảo tháp này. Tất cả đều quay về Đức Thế Tôn, về Thầy mình (đối tượng của tình thương của mình) mà hỏi. Bụt Thích Ca mới nói: “Này các con, có một vị Bụt tên là Bụt Đa Bảo ngồi trong bảo tháp đó. Đây là một vị Bụt đã có mặt từ lâu lắm rồi. Một trong những lời nguyện của vị Bụt này là mỗi khi trên thế gian xuất hiện một vị Bụt và vị Bụt đó bắt đầu giảng kinh Pháp Hoa thì tôi nguyện sẽ hiện tới với bảo tháp và sẽ mở lời ca ngợi. Cho nên hôm nay, khi Thầy bắt đầu giảng kinh Pháp Hoa thì Bụt Đa Bảo hiện tới. Tiếng nói thanh tao ca ngợi Thầy và ca ngợi kinh Pháp Hoa đó là âm thanh của Bụt Đa Bảo”.

Trong khi đó thì cửa tháp đóng kín, ai nấy đều muốn thấy mặt của Bụt Đa Bảo nhưng họ không biết làm sao, họ chỉ biết trông cậy vào thầy của họ mà thôi. Tất cả đều hướng về Bụt Thích Ca Mâu Ni và nói: “Thầy ơi, bạch Thầy, làm sao cho con thấy được mặt của Bụt Đa Bảo con mới thỏa”. Đức Thế Tôn lắc đầu. Điều này hơi khó. Nhưng nếu ta cố gắng thì cũng có thể tạm giúp các con được. Mở cửa Bảo Tháp ra để mọi người thấy được mặt mũi của Bụt Đa Bảo, đức Bụt ngàn xưa đã lập lời nguyện lớn là mỗi khi có một đức Thế Tôn xuất hiện ở đời và nói kinh Pháp Hoa thì sẽ xuất hiện để mở lời ca ngợi. Tất cả các vị đệ tử thanh văn, duyên giác, bích chi và bồ tát đều chắp tay lại hướng về phía Đức Thế Tôn, chờ đợi và cầu khẩn. Đức Thế Tôn nói: Cửa tháp này chỉ có thể mở ra được khi mà tôi gọi được tất cả các hóa thân của tôi về đây. Lúc đó các đệ tử mới bắt đầu thấy và biết được là Đức Thế Tôn còn nhiều hóa thân lắm. Thân hình ngồi trên tảng đá núi Linh Thứu này chỉ là một hóa thân trong số đó mà thôi. Lúc đó, Đức Thế Tôn dùng ánh sáng trên trán và quét một vòng xung quanh tam thiên đại thiên thế giới. Tức thì tất cả các hóa thân của Bụt Thích Ca đang hành đạo từ các cõi nước đều trở về. Hàng trăm, hàng ngàn, hàng vạn, hàng triệu hóa thân của Bụt Thích Ca đang trở về. Tất cả mọi người đều ngạc nhiên. Lâu nay ai cũng tưởng rằng Thầy của mình chỉ là con người đó, với cặp mắt đó và khuôn mặt đó. Có người bị kẹt vào hình ảnh đó, bị vướng vào hình hài đó của Thầy mình và tưởng rằng Thầy mình chỉ là cái đó thôi, không ngờ Thầy mình có mặt khắp trong hoàn vũ, có bao nhiêu là hóa thân đang làm việc độ sinh trong vũ trụ. Lúc đó các đệ tử Bụt mới buông bỏ được hình ảnh Thầy mình chỉ là hình hài mình quen biết. Nếu chúng ta không đọc kinh Pháp Hoa bằng trí tuệ, bằng định lực của mình thì chúng ta sẽ không thấy được điều này. Đức Thế Tôn đã làm đủ mọi cách để lấy ra khỏi các đệ tử cái quan điểm nhỏ bé của họ về Thầy họ, về Bụt. Thầy của họ vĩ đại hơn cả triệu lần. Mời quý vị đọc lại kinh Pháp Hoa.

Đi tìm thầy

Khi thương một người nào, ta phải nên cẩn thận. Ta có một cơ hội để tìm ra người đó là ai. Khi tìm ra được chân tướng của người đó và pháp thân của người đó thì đồng thời ta cũng tìm ra được ta. Nếu không, ta vẫn quanh quẩn trong khung cảnh nhỏ hẹp của một kiếp người. Trong truyền thống Tây Tạng có một tín ngưỡng rất dễ thương là sau khi thầy mình chết rồi nội trong vài ba năm mình có thể tìm thấy thầy mình trở lại ở dưới hình thức của một chú bé. Vài năm sau các đệ tử đi tìm, đem theo những dụng cụ mà thầy mình đã dùng trong quá khứ và trộn lẫn với những dụng cụ khác, nếu chú bé nhận ra được những cái mà thầy mình đã dùng ngày xưa thì họ cho rằng đây đích thực là hậu thân của thầy mình. Sau đó họ tìm cách đưa chú bé về chùa và tôn lên làm thầy kế tiếp của họ. Cái ý đó cũng rất cảm động, rất nên thơ. Nhưng như vậy là ta chỉ thấy người thương của mình theo một đường thẳng, chỉ thấy thầy mình đi về một hướng trong thời gian thôi, mà không thấy được thầy mình trong cả không gian. Ý niệm dễ thương và nên thơ đó cũng còn bị kẹt vào ý niệm chấp ngã. Sự thật là không có một cái gì chỉ đi đường thẳng. Tất cả đều đi khắp hết không gian và thời gian.

Nhìn vào cây chuối, ta thấy rằng lá chuối chị từ khi sinh ra đời, đã bắt đầu phô bày cái đẹp của nó, nó mở lòng ra hứng nắng, hứng mưa, tiếp nhận chất nước từ dưới lòng đất đưa lên. Nó là một lá chuối rất đẹp. Đừng nghĩ rằng nó chỉ sống cho một mình nó, mà nó đồng thời sống cho cây chuối và cho các lá chuối em, lúc đó chưa biểu hiện. Nó và các em nó là một. Những chất dinh dưỡng nó làm ra được là để nó tự nuôi nó nhưng đồng thời cũng là để nuôi cây chuối và nuôi các lá chuối em đang còn cuộn tròn trong thân chuối. Vào một ngày nào đó, lá chuối đầu (lá chuối chị) sẽ rách tơi tả, héo úa rồi vàng khô. Nhưng bao nhiêu năng lượng của nó đã được dồn hết cho cây chuối, dồn hết cho những đứa em của nó, lá chuối thứ ba, lá chuối thứ tư, lá chuối thứ năm và có thể còn là buồng chuối, trái chuối nữa. Nhìn vào lá chuối chị, ta thấy lá chuối em, và nhìn vào lá chuối em, ta thấy lá chuối chị. Như vậy, bản chất của lá chuối là vô sinh và bất diệt. Nhìn ngoài bề mặt thì dường như có sinh có diệt, nhưng nhìn vào bên trong thì lá chuối này không sinh không diệt. Nhìn vào lá chuối thứ ba, lá chuối thứ tư, v.v.. ta thấy lá chuối đầu. Không những nó chỉ nuôi một lá chuối em mà còn nuôi tất cả những lá chuối sau này. Chính nó đang tiếp tục nuôi những bông chuối và những trái chuối mới.

Bụt là ai, ta là ai?

Trở lại với câu hỏi của nhà báo: “Thầy muốn làm cái gì trước khi chết?”. Câu trả lời là: Tôi không muốn làm một gì khác! Tôi chưa bao giờ từng ngưng làm điều tôi muốn làm cả. Đó là tôi nuôi tôi, nuôi tổ tiên tôi, nuôi cha mẹ tôi, nuôi thầy và nuôi con cháu của tôi. Đó là bổn phận của chúng ta. Chính nhờ có tuệ giác và nếp sống đó mà chúng ta trở thành vô sinh và bất diệt. Có điều khác với ý niệm dễ thương trên kia là với cái thấy này ta không cần phải chết đi rồi mới tái sinh được. Trong giờ phút này tôi đã tái sinh rồi. Nếu nhìn cho kỹ, quý vị sẽ thấy tôi đang ở khắp nơi. Không cần đợi tôi chết rồi, ba năm sau mới đi kiếm một chú bé để nhận ra hậu thân của tôi. Tại vì hậu thân của tôi đã có kia rồi, đã có ngay trong giây phút hiện tại. Những điều này rất rõ. Tìm Thầy phải đi tìm như vậy.

Hậu thân đó tương đương với những hóa thân của Bụt Thích Ca Mâu Ni. Những cuốn sách của tôi đã được in ra. Trong những nhà tù đã có nhiều người đọc và đã bắt đầu thực tập thiền tọa, bắt đầu thở vào tâm tĩnh lặng, thở ra miệng mỉm cười. Đó cũng là pháp thân của tôi đang sống ở trong tù. Sách được in ra rất nhiều thứ tiếng, có những cuốn sách đi vào trong những tu viện kín của các vị tu sĩ Công giáo. Họ không có cơ hội gặp Thầy, nhưng trong tu viện kín họ đã đọc sách, họ đã hiểu thêm được sâu sắc về đạo Bụt, họ đã hiểu thêm được về giáo lý Cơ Đốc. Nụ cười và hóa thân của tôi cũng có mặt trong những tu viện kín ấy. Mắt phàm của chúng ta không thấy được nhưng mắt thánh của chúng ta có thể thấy được. Đó gọi là Phật nhãn. Hóa thân là những cuốn sách, những cuộn băng, những người học trò xuất gia, những người học trò tại gia đang hành đạo và làm tỏa sáng pháp thân của Bụt khắp nơi khắp chốn. Không thể thấy hết được hằng hà sa số hóa thân đó! Nếu nói rằng ba năm nữa hay mười năm nữa tôi chết thì điều đó không đúng. Câu trả lời đúng là tôi chưa bao giờ từng sinh và sẽ không bao giờ từng diệt.

Khi thương Thầy ta phải đi tìm Thầy và phải thấy cho được chân tướng của Thầy như vậy. Và đến khi hóa thân này ẩn đi thì ta không buồn gì cả, tại vì ta có thể thấy Thầy đang có mặt dưới vô số hóa thân khác, đồng thời ta cũng thấy được pháp thân, báo thân và hóa thân của ta. Pháp thân của ta cũng vô sinh bất diệt như pháp thân của Thầy, hóa thân của ta cũng vô lượng vô số như hóa thân của Bụt hay của Thầy vậy. Phải thấy được như thế, thì tình thương của ta mới là tình thương của tự do, mới là thứ tình thương trong chánh pháp. Còn nếu ta bị kẹt vào một hình bóng, còn sợ hãi, còn khóc than thì ta chưa tiếp xúc được với pháp thân, chưa tiếp xúc được với vô số những hóa thân của ta và của Thầy ta. Chúng ta phải quán chiếu để thấy rõ điều này.

Trong cửa thiền có những dụng cụ gọi là công án. Công án dịch ra tiếng Anh là public cases. Đó là những dụng cụ để tiếp xúc được với chân tính của mình. Ví dụ như câu: “Vạn pháp quy nhất, nhất quy hà xứ?” (Cái tất cả quay trở về cái một, vậy thì cái một đó quay về cái gì?). Đó là một lời mời gọi để chúng ta đi tìm cái bản lai diện mục của mình. Hiện bây giờ ở các thiền viện Trung Quốc có một công án khác rất nổi tiếng đó là: “Niệm Phật thị thùy?” (Ai là người đang niệm Phật?). Trong niệm Phật đường ngày nào người ta cũng niệm Bụt A Di Đà. Thiền sư đi vào và hỏi: Ai đang niệm Phật đó? Cái gì là chủ từ của động từ niệm Phật? Đó cũng là một sự mời gọi. Có hàng trăm, hàng ngàn, hàng triệu hành giả đang hành theo phương pháp niệm Bụt. Ta cứ tin rằng ta là người niệm Phật, nhưng ta là ai?

Có hai đối tượng: một là Bụt và hai là người niệm Bụt. Bụt là ai mà ta niệm? Ta là ai mà niệm Bụt? Ta nghĩ rằng ta biết Bụt là ai rồi, ta biết ta là ai rồi, nhưng cái biết chắc mẻm đó là nền tảng sai lầm của sự thực tập. Trong khi đó thì ta chưa biết Bụt là ai, ta cũng chưa biết ta là ai. Cho nên ta phải đi tìm cho ra cái bản lai diện mục của Bụt, để tìm ra bản lai diện mục của mình; hoặc tìm ra bản lai diện mục của mình thì đồng thời ta cũng tìm ra được bản lai diện mục của Bụt. Con đã tìm ra Thế Tôn, con đã tìm ra con. Vì thương Bụt, nhớ Bụt, cần Bụt cho nên ta mới niệm, nhưng nếu đối tượng của cái niệm trong ta chỉ là ý niệm thì đó không phải là tự thân của Bụt. Vì vậy sự thực tập căn cứ trên ý niệm là sự thực tập chưa sâu sắc. Nếu biết được chân tướng, bản chất của Bụt thì lúc đó ta biết được chân tướng, bản chất của mình, và như vậy Tịnh Độ tông sẽ không có khác gì với Thiền tông.

Công án “Niệm Phật thị thùy” (Người niệm Bụt là ai?) là một cái cầu nối liền giữa tịnh và thiền, nó làm cho không có khoảng cách nào nữa giữa thiền và tịnh. Nếu người Tịnh Độ tông mà giải quyết được công án đó thì sẽ trở thành thiền sư. Ta phải tự hỏi mình là ai? Đôi khi ta nghĩ đó là một câu hỏi triết học rất uyên áo. Nhưng không khó khăn lắm đâu, chúng ta hãy thực tập theo lời Bụt dạy, hãy sử dụng vô thường quán và vô ngã quán thì sẽ thấy rõ. Vô thường quán và vô ngã quán là hai chìa khóa rất mầu nhiệm có thể mở cửa thực tại và giúp ta tiếp xúc được với pháp thân. Nhìn sâu vào trong ta thì ta thấy rõ ràng: A! Mình cũng là cha mình, mình cũng là mẹ mình. Sự thật rất khoa học là: ta chính là cha ta, là mẹ ta, là thầy ta, là con, là cháu ta, là Đức Thế Tôn. Quan niệm của ta về chính ta thường là một quan niệm sai lầm. Ta là người thương hay ta là người được thương? Tất cả những ý niệm đó cần phải được quán chiếu. Chừng nào thấy rõ ràng tính bất nhị giữa ta và người ta thương thì lúc đó ta sẽ có tự do rất lớn.

Sự thực tập trong đạo Bụt đưa ta tới tự do lớn để ta có hạnh phúc, thứ hạnh phúc vĩ đại nhất mà có thể đạt tới được. Còn nếu không thì ta chỉ tìm sự trú ẩn trong những tình thương nho nhỏ cho đỡ cô đơn, đỡ bơ vơ một cách nhất thời mà thôi. Mục đích của chúng ta không phải là đi tìm một chỗ trú ẩn nho nhỏ để cho bớt bơ vơ, lạc lõng trong một thời gian. Sứ mạng của chúng ta là đi tìm tự do lớn. Đi tìm cái thực chất, cái bản tánh, cái con người thật của mình. Sự thực tập nằm gọn trong hai chữ kiến tánh. Kiến tánh đưa tới sự thỏa mãn tuyệt đối cái khao khát lớn. Khao khát chỉ có thể thỏa mãn được khi ta đạt tới tự tánh vô sinh bất diệt của mình.

Tự tánh không có ta, không có không ta. Như vậy, với một mũi tên ta đạt tới hai cái đích, tức là vừa tìm ra được ta mà vừa tìm ra được Đức Thế Tôn (đối tượng thương yêu của ta). Con đã tìm ra Thế Tôn, con đã tìm ra con. Nếu hai câu đó không đi đôi với nhau thì có thể có sự hiểu lầm, nhưng nhờ chúng đi đôi với nhau cho nên không thể có sự hiểu lầm nữa. Chúng ta đi tu không phải là để đi tìm những tiện nghi nhất thời mà phải có can đảm vượt qua những tiện nghi nhất thời đó để đi tìm tự do lớn. Ngày xưa, Tất-đạt-đa đã thành công. Trong số những người học trò của Ngài qua các thời đại có những người đã thành công và đạt tới tự do lớn. Bây giờ đến thế hệ chúng ta, chúng ta cũng phải thành công. Đó là món quà lớn nhất mà chúng ta có thể hiến tặng cho Bụt, cho chư tổ và cho con cháu chúng ta trong tương lai.

Ước mơ của Thầy là gì?

Rong chơi trong hạnh phúc

Ngày hôm kia, các sư cô xóm Hạ lên đây làm việc và thấy các thầy, các sư chú chơi bóng chuyền trong tình huynh đệ rất vui. Chơi thể thao là một phương pháp để xây dựng tình huynh đệ. Chúng ta chơi không phải để ăn thua nhau như ở ngoài đời. Ở Hy Lạp, trong một cuộc đấu người ta đã nổi giận và đánh lộn với nhau, có 74 người chết và 1000 người bị thương. Chơi như vậy thì đầy sự tranh chấp và hận thù, trong khi đó thì các thầy và các sư chú chơi với nhau rất vui. Không những mình vui trong khi chơi mà đi ngồi thiền với nhau mình cũng rất vui. Ngồi chung với nhau trong thiền đường là một chuyện rất hy hữu và rất đẹp, mình thấy mình có mặt cho nhau. Đi nghe pháp thoại với nhau cũng rất vui, mình tới để nghe thầy trao truyền giáo lý của Bụt. Khi nghe tiếng chuông mình họp nhau lại cũng rất vui, vì vậy sự tu tập đem lại cho mình niềm vui trong từng giây phút của sự thực tập.

Nếu trong khi ngồi thiền, đi thiền, trong khi ăn cơm im lặng hay tham dự pháp đàm mà mình cảm thấy mỏi mệt, không có hạnh phúc là mình không thấy được giá trị của sự thực tập. Sự thực tập luôn luôn đem lại niềm vui và hạnh phúc. Khi đi thiền hành mỗi bước chân phải đem lại cho mình niềm vui, hạnh phúc và sự buông thư. Trong chúng ta có người có thể đi được như vậy. Mỗi bước chân là một niềm vui, là hạnh phúc, là sự buông bỏ. Mỗi bước chân là sự ăn mừng sự sống. Nếu ngồi thiền hay đi thiền mà mình đau khổ, mình bị áp lực hay bị bắt buộc thì mình sẽ không thành công. Đây không phải là chuyện mơ tưởng mà là chuyện mình thực hiện mỗi ngày. Trong khi tu tập mình xây dựng được tình huynh đệ thì tình huynh đệ đó có khả năng nuôi dưỡng mình.

Tới với Làng Mai, với tăng thân không phải là bị đi đày mà là mình được tới một núi châu báu, nếu có túi thì mình sẽ lượm châu báu chất đầy cả túi. Hơn nữa, mình không cần phải lượm làm gì, tại vì châu báu chỗ nào cũng có. Mỗi hơi thở, mỗi bước chân, mỗi nụ cười đều là hạnh phúc. Mình tới ngọn núi đó để rong chơi hạnh phúc chứ không phải để khổ đau. Tới Làng Mai là để được thừa hưởng  điều đó. Mỗi giây phút ở trong đại chúng là một niềm hạnh phúc. Mỗi hơi thở, mỗi bước chân phải trở thành một viên ngọc trong trái tim của mình. Từ cư xá tới thiền đường có tới mấy trăm bước, mỗi bước là một viên ngọc, mình đi làm sao để thấy hạnh phúc trong từng bước chân, đó gọi là công phu.

Hạ thủ công phu: Linh đan đổi cốt mới ra về

Người Tây phương hiểu chữ công phu là martial art (võ thuật), thực ra chữ công phu có nghĩa là sự thực tập hằng ngày. Một ngày hai lần thực tập chung gọi là nhị thời công phu.

Đi học trường dược, trường y hay trường kỹ sư mình cũng phải công phu mới thành công. Tu cũng phải có công phu nhưng mình không bắt buộc phải tới lớp học hay tới phòng thí nghiệm. Giáo lý của đạo Bụt rất mầu nhiệm. Khi mình áp dụng được là mình đỡ khổ và có hạnh phúc liền lập tức. Với mỗi bước chân, mỗi hơi thở, mỗi nụ cười, mỗi giờ ngồi thiền mình đều có thể có hạnh phúc. Nếu chưa có hạnh phúc trong khi ngồi thiền, đi thiền hành hay nghe pháp thoại là  vì mình chưa biết cách ngồi thiền, chưa biết cách đi thiền hành, chưa biết cách nghe pháp thoại, mình chưa biết thế nào là công phu. Những buổi công phu nuôi dưỡng mình rất nhiều.

Ngày xưa, có một thầy là thiền sư Chân Không thuộc phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, ngài tu tập ở núi Từ Sơn. Có một lần một đệ tử hỏi ngài:

–  Tu là gì?

Ngài trả lời bằng hai câu rất dễ thương:

Đến được động tiên sâu thẳm ấy

Linh đan đổi cốt mới ra về

Có nghĩa là khi tới được chỗ của chư tiên tức là tới được xứ của những người bất tử thì mình phải học cho được phép tu tiên để trở thành bất tử như các vị đó. Chư tiên có phép tu chế tạo ra được những viên thuốc tiên, họ sử dụng thuốc tiên đó và từ từ họ thay đổi con người của họ, gọi là hoán cốt. Hoán cốt là đổi xương. Xương của mình là xương người phàm tục cho nên thế nào mình cũng phải chết (mortal), còn tiên là bất tử (immortal). Mình nhất định không ra về, sư anh có đuổi thì đuổi, mình vẫn ở lại như thường. Mình hết lòng tu tập thì làm sao sư anh đuổi, làm sao sư chị không cho mình ở? Chỉ khi nào mình không biết trân quý sự thực tập thì người ta mới không cần mình. Mình tới và đem hết tấm lòng để tu tập thì người ta còn cầu mình ở lại thêm. Mình ở lại để hạ thủ công phu, để đổi xương của mình từ xương của người phàm tục thành xương của các vị bất tử. Đến được động tiên sâu thẳm ấy là chuyện rất khó. Nhờ duyên kiếp từ lâu đời nên hôm nay mình mới tới được đây thì mình dại gì mà bỏ đi. Mình phải quyết ở lại và luyện tập để đổi bộ xương của kẻ phàm phu tục tử thành bộ xương của các vị tiên bất tử. Linh đan đổi cốt mới ra về.

Thiền sư Chân Không sống vào khoảng thế kỷ thứ 11, Ngài tịch năm 1100, tức vào đầu thế kỷ thứ 12. Làng Mai chúng ta nghĩ khác hơn, đổi cốt rồi thì mình ở lại luôn để tổ chức độ đời. Nhiệm vụ của mình là được ở chung với nhau ba tháng, hoặc ba năm, hoặc năm năm, hoặc mười năm, hoặc suốt đời. Mỗi ngày tu tập là chế tác được hạnh phúc, niềm vui. Trong con người của mình có nỗi khổ, niềm đau, nhưng khi mình chế tác được niềm vui thì những nỗi khổ, niềm đau kia sẽ từ từ mòn đi.

Ngủ đi nỗi khổ, niềm đau

Chúng ta có hai cách để trị liệu nỗi khổ, niềm đau:

Cách thế gian thường dùng là lôi nỗi khổ niềm đau đó lên để chữa trị. Nỗi khổ, niềm đau có thể nằm trong chiều sâu tâm thức và nó âm thầm điều khiển mình. Mình nghĩ, nói và làm theo chiều hướng của nó. Vì vậy cho nên phương pháp chữa trị là thò tay sâu xuống, nắm cổ nó lên, nhìn vào mặt nó và nói: “Mi là nỗi khổ niềm đau của ta. Ta phải lấy mi ra khỏi ta. Ta phải mửa mi ra thì ta mới khỏe được”. Nỗi khổ, niềm đau là kẻ thù của mình, là một chai chứa đựng những độc tố, mình phải mửa nó ra ngoài thì mới khỏe được, giống như mình có một ung nhọt và mình phải lấy kéo cắt bỏ nó đi. Phương pháp trị liệu ngoài đời là như vậy, là một loại phẫu thuật.

Ngày xưa tôi đã từng đi qua giai đoạn này. Từ lúc bị lưu đày khi đi kêu gọi hòa bình, tôi có rất nhiều nỗi nhớ, niềm thương: nhớ nhà, nhớ chùa, nhớ tăng thân. Tất cả những người mình thương, tất cả những công việc của mình đều ở bên đó. Sang bên này không có gì quen thuộc, cây cối cũng khác, chim chóc cũng khác, thức ăn cũng khác, tiếng nói cũng khác, không có gì giống như bên nhà. Nỗi xót xa phải xa quê hương, bạn bè, xa những người thương. Nhưng mình phải chấp nhận điều đó, và tôi bắt đầu phương pháp thực tập làm quen với những cái bên này như thực tập chơi với con nít người Pháp, con nít người Đức, con nít người Anh; thực tập chơi với mấy ông mục sư, mấy ông linh mục, thực tập chơi, đọc thơ với các sinh viên và tìm niềm vui ngay trong giây phút hiện tại. Mình không biết là mình bị lưu đày bao nhiêu năm, sự thật là tôi đã bị lưu đày tới 40 năm. Nếu cứ chờ đợi thì 40 năm là quá dài, vì vậy sự thực tập của tôi là làm quen với giây phút hiện tại và ở đây, và tìm niềm vui trong những công việc đó. Tôi từ từ làm việc với giới trẻ, giới tôn giáo, giới nhân bản, chơi với con nít ở đây và thành lập tăng thân bên này.

Trong những năm đầu, nhiều đêm tôi nằm mơ thấy mình trở về quê hương, điển hình nhất là giấc mơ thấy mình trở về một ngọn đồi rất đẹp và bắt đầu leo lên ngọn đồi đó với hy vọng là lên tới đó mình sẽ bắt gặp tất cả những gì mình thương yêu, mình trông chờ, mong ước. Giấc mơ đó cứ lặp đi lặp lại rất nhiều lần, mỗi lần cứ leo được tới nửa chừng đồi thì tôi lại thức dậy. Giấc mơ đó cứ trở đi trở lại tại vì lòng ước mong trở về quê để gặp lại những người mình thương, lòng mong muốn được sống lại trong hoàn cảnh thân thuộc, thương yêu ngày xưa. Tôi nằm mơ thấy trở về chùa Tổ rất nhiều lần, lần nào cũng có Sư Ông ngồi đó để chờ mình. Đã tu, đã xuất gia rồi mà sự nhớ thương còn nhiều như vậy. Nhưng với sự thực tập thì từ từ những giấc mơ đó ít lại và cuối cùng thì nó biến mất, tại vì mình đã chấp nhận hành tinh này là quê hương của mình thì chỗ nào cũng là quê hương của mình. Tôi đã được chữa trị. Điều này chứng tỏ rằng muốn chữa trị không hẳn là phải lôi niềm đau nỗi khổ đó ra để quán chiếu hay cắt nó vứt ra ngoài. Mình có thể ru cho nó ngủ, mỗi khi nó phát hiện thì mình nhận diện và mỉm cười rồi mình trở lại với sự thực tập hiện pháp lạc trú của mình.

Trong các vị, nếu có những chuyên gia tâm lý trị liệu thì hãy suy nghĩ về vấn đề này, chúng ta có thể có nhiều cách trị liệu. Công phu là gì? Công phu là phương pháp thứ hai. Mình ngồi thiền làm sao mà mỗi giây phút ngồi thiền mình đều có được niềm vui. Trên đời này có bao nhiêu người được ngồi yên mỗi ngày ít nhất là hai lần, có bao nhiêu người được đi thiền hành mỗi ngày chung với đại chúng và được khuyến khích nên bước đi trong chánh niệm và dẫm vào Tịnh độ? Đây là một khung cảnh quá lý tưởng. Người ta đã không cấm mà còn khuyến khích mình ngồi cho có hạnh phúc, đi cho có hạnh phúc, ăn cơm cho có hạnh phúc. Sáng nay ăn cơm với hai thầy thị giả tôi thấy rất rõ mỗi miếng là một huyền thoại, dù thức ăn không có gì sang trọng. Tùy theo cách của mình, mỗi giây phút của đời sống là một giây phút mình ăn mừng sự sống, mình thấy nhiệm mầu của sự sống. Đó là công phu. Nếu mình cảm thấy bị áp lực đi ngồi thiền, đi thiền hành, đi nghe pháp thoại thì đó là một bi kịch.

Nếu thầy trò mình được quy tụ 300 người và tu chung trong ba tháng thì đó là một hạnh phúc rất lớn. Nhờ Đức Thế Tôn, nhờ truyền thống và những điều kiện thuận lợi nên mình mới làm được điều này. Có mấy người có được cơ hội này mà mình lại không biết trân quý thì rất uổng. Biết đâu sang năm mình không làm được nữa, vì vậy mình phải lợi dụng hết những điều kiện để sang năm, mình có thể quy tụ về dưới một mái nhà tu tập trong ba tháng, tại vì mình làm hạnh phúc cho mình và làm chỗ nương tựa cho không biết bao nhiêu người khác.

Thầy ơi, Thầy còn mơ ước gì không?

Ngày xưa, cách đây độ 10, 15 năm, có một cô thiền sinh hỏi tôi một câu:

–  Thầy ơi, thầy đã lớn tuổi rồi, thầy đã gần 80 tuổi rồi, thầy còn có mơ ước gì không trước khi thầy tịch?

Tôi trả lời:

–  Tôi nghĩ là tôi không còn ước mơ gì nữa.

Có người nói trong đời của một con người thì mình phải có ước mơ nào đó. Nghe câu hỏi đó tôi tìm xem thì thấy mình không có ước mơ nào cả, hay nói một cách khác là cái mình ước mơ đang xảy ra trong giây phút hiện tại.

Hồi còn là vị xuất gia trẻ, tôi có một ước mơ làm sao xây dựng được một đoàn thể tu học trong đó có tình huynh đệ, những người trong đó biết thương nhau, làm việc với nhau và chế tác niềm vui trong sự tu học. Tôi mang hoài bão đó rất lâu. Đến năm 1954, tức là vào khoảng giữa thế kỷ 20 thì tôi có cơ hội làm chuyện đó.

Hồi đó đất nước bị chia đôi, một nửa là cộng sản, một nửa là quốc gia và có một sự khủng hoảng tâm lý trong nước, nhất là trong giới trẻ. Người trẻ không biết là mình sẽ đi về đâu? Đất nước bị chia làm hai, một bên có khuynh hướng theo chủ nghĩa cộng sản vô thần, không tin vào tôn giáo; một bên có khuynh hướng hữu thần, tư bản, dựa vào Tây phương, nhất là dựa vào nước Mỹ. Việt Nam trở thành hình ảnh của sự đối lập trên thế giới, hai phe chống đối nhau: một phe yểm trợ chủ nghĩa cộng sản trong đó có Nga và Trung Quốc, một phe yểm trợ chế độ tư bản trong đó có Mỹ và các nước Tây phương.

Người trẻ không biết mình nên đi hướng nào, tại vì ít nhất mình phải có một hướng đi. Suốt trong cuộc chiến ở Việt Nam đã xảy ra chuyện khổ đau, dân Việt Nam đã chết vào khoảng 6 triệu người. Đó là một cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn, người trong một nước đã sử dụng ý thức hệ từ bên ngoài đưa vào, ý thức hệ cộng sản và ý thức hệ tư bản, một bên là chủ thuyết Marx-Lenin và một bên là chủ nghĩa nhân vị do những người thiên chúa giáo chủ trương. Không những người Việt bị bắt buộc phải sử dụng những ý thức hệ mà còn phải sử dụng vũ khí của người ngoại quốc để chống đối nhau. Vũ khí miền Bắc sử dụng được nhập từ Trung Quốc và Nga, còn vũ khí miền Nam sử dụng được nhập từ các nước Tây phương, nhất là từ Mỹ. Những người trẻ Việt Nam phải sử dụng những ý thức hệ ngoại quốc và những vũ khí ngoại quốc để giết nhau. Đó là một bi kịch rất lớn. Dân tộc này có một đường hướng nào khác hơn là đường hướng đó hay không? Tại sao lại phải chấp nhận một cuộc chiến huynh đệ tương tàn, lấy ý thức hệ và súng ống của ngoại bang để giết nhau. Có những người trẻ thấy được điều vô lý đó, trong đó có tôi, năm 1950 tôi còn trẻ lắm. Mình nghĩ tới con đường thứ ba, con đường thoát khỏi sự tranh chấp đó, mình phải có một hướng đi và hướng đi đó mình phải tìm trong đạo Bụt tại vì đạo Bụt không chấp nhận chiến tranh.

Tôi nhớ hồi đó tâm tư của người Việt rất hoang mang, giới trẻ cũng rất hoang mang. Gần một triệu người di cư từ miền Bắc vào miền Nam và vài trăm ngàn người tập kết từ miền Nam ra miền Bắc. Lúc đó có một nhà báo tên Vũ Ngọc Cát, ông làm chủ nhiệm tờ nhật báo Dân Chủ, ông tới chùa Ấn Quang, lúc đó chùa chưa được  xây dựng đồ sộ như bây giờ. Tôi là một trong những người đầu tiên lập ra chùa Ấn Quang cùng với thầy Trí Hữu, lúc chùa còn là một am tranh lợp lá dừa. Tôi là người dạy lớp học tăng đầu tiên ở chùa Ấn Quang. Ông Vũ Ngọc Cát nói:

–  Thầy ơi, thầy viết bài nói về đạo Phật như một con đường thoát, tại vì không lý nào mình lại đi theo một trong hai con đường dẫn tới chiến tranh? Mình phải có một con đường khác.

Tôi đã chấp nhận và đã viết cho tờ báo một loạt 10 bài mang tựa đề: “ Đạo Phật qua nhận thức mới“. Ông đã đăng loạt bài đó ở trang đầu, tựa bài được in bằng chữ đỏ, rất lớn. Báo bán rất chạy vì dân chúng đang hoang mang tìm một hướng đi. Trong loạt bài đó mình nói phải sử dụng tư tưởng của Phật giáo, tư tưởng không hận thù và có tình huynh đệ, tư tưởng hòa giải, vượt khỏi sự tranh chấp. Vì vậy trong suốt thời gian kéo dài của cuộc chiến mình có phong trào chống đối chiến tranh và những người trẻ đã tham dự vào rất nhiều. Họ biết con đường của họ không phải là con đường huynh đệ tương tàn mà là con đường hòa giải. Trong số người đó có thi sĩ Trụ Vũ. Trụ Vũ là một thi sĩ trẻ mà tôi đã khám phá ra cùng với thi sĩ Quách Thoại ở chùa Giác Nguyên. Đó là năm 1949, tôi vừa xuất bản tập thơ đầu ở Sài Gòn mang tên “Tiếng địch chiều thu“ với nhà xuất bản Long Giang. Trụ Vũ đọc được tập thơ đó, tập thơ có những bài thơ mới cảm hứng với đạo Bụt, và thi sĩ muốn tìm tác giả. Trụ Vũ tới nhà xuất bản hỏi thăm và cuối cùng tìm ra chùa Ấn Quang. Ở Sơn Hạ, trong thiền đường Thánh Mẫu Maya có bút tích của thi sĩ Trụ Vũ. Anh đã qua Làng Mai, đã có mở một cuộc triển lãm thư pháp và đã để lại cho mình Tâm Kinh Bát Nhã do chính anh viết treo trong thiền đường Thánh Mẫu Maya. Trụ Vũ làm nhiều bài thơ đi về hướng đó, bài thơ đầu tiên Trụ Vũ viết về đạo Bụt là do cảm hứng khi đọc “Tiếng địch chiều thu“. Đọc xong tập thơ anh mang vào vườn Tao Đàn, nằm xuống và làm một bài thơ tên là “Thi Tứ”, có nghĩa là ý thơ, bên dưới có đề: tặng thầy Nhất Hạnh để bắc cầu thông cảm giữa đạo và thơ, (làm như là đạo và thơ là hai cái khác nhau và phải bắc cầu môi giới để đưa đạo vào thơ!!!).  Các thiền sư Việt Nam đã làm thơ từ thời khởi thủy. Bây giờ các thầy, các sư cô cũng phải làm thơ, nếu không thì làm sao làm kệ truyền đăng cho đệ tử?

Ta gối đầu ta lên mộng ảo
Ta gói hồn thơ thiên địa ảo
Ta nằm giữa lá thu rơi
Mặt đất dâng cao thấu tận trời
Ai để mùa thu lên viễn vọng
Trong tiếng ca nào đang lên khơi
Ai đem mây xám vẽ lên không
Một lá vàng rơi xao xuyến lòng
Ta nắm trong tay mùa tạo vật
Đi vào kết bạn cùng trời đất
Cuộc đời say ngủ dưới chân ta
Chôn chặt thân ngươi mảnh đất già
Đây gió ngàn phương trời với biển
Thổi cánh chim trần về cao viễn
Ta về hòa hợp giữa hư không

Thi tứ ngàn năm thường hiển hiện.

(Thi Tứ -Trụ Vũ)

Trụ Vũ đã đem bài thơ lên chùa Ấn Quang tặng cho tôi. Nhờ mối duyên gặp gỡ đó mà thi sĩ đã viết nhiều bài thơ yểm trợ cho con đường Phật giáo xóa bỏ hận thù trong đó có bài thơ ”Bà mẹ Việt Nam”:

Thương bà mẹ già như đời dân tộc
Hình hài gầy đét Việt Nam
Đôi mắt nhỏ màu nâu long lanh hạt ngọc
Trán ai cày luống đất khai hoang
Thương bà mẹ già mảnh lòng xẻ nửa
Nửa gửi thằng hai nửa gửi thằng ba
Bà đâu biết đứa con nào cộng sản
Bà đâu biết đứa con nào quốc gia
Lệ tình yêu giăng màn che kín
Bà không nhìn thấy màu đỏ màu xanh
Bà chỉ thấy buổi chiều rất tím

Máu thằng em cũng đỏ như máu thằng anh

Bài thơ rất đơn sơ và nói rất đúng. Bà mẹ có hai đứa con, một đứa là cộng sản, một đứa là quốc gia và hai đứa đang giết nhau, trong khi đó đứa nào máu cũng đỏ, cũng là con của bà. Đó là tâm trạng của người trẻ thời đó. Trụ Vũ cũng có làm một bài thơ về giấc mơ:

Giấc mơ bé nhỏ vô cùng
Một căn nhà lá ba vồng khoai lang
Thế thôi mà lạy mười phương

Ba mươi năm lẻ chưa tròn giấc mơ

Vì chiến tranh nên giấc mơ đó không thành tựu được. Chỉ có một căn nhà lá và ba vồng khoai lang thôi, mà lạy mười phương ba mươi năm vẫn chưa thành tựu được.

Năm đó tôi được các thầy giao cho một trách nhiệm, tại vì tư tưởng của những người tu trẻ lung lay cực độ, họ không biết hướng đi. Làm sao họ có thể đi theo chủ nghĩa cộng sản hay theo chủ nghĩa tư bản được? Phải có một con đường đi và con đường đó phải được tìm trong gốc rễ của dân tộc. Tôi bắt buộc phải đứng ở chỗ vạch ra một con đường đi cho tuổi trẻ. Phong trào hòa bình chống chiến tranh hình thành từ sự kiện đó, trong phong trào có những người như Nguyễn Đắc Xuân, v.v… và chính sư cô Chân Không cũng đã tham dự vào. Hồi đó cuốn “Hoa sen trong biển lửa” được in chui ở Việt Nam. Đó là một áng văn chương nói về con đường hòa bình của Phật giáo, nó phải thoát ra khỏi quỹ đạo của cộng sản và tư bản. Sư cô Chân Không đem sách ra Huế bị công an bắt giải về khám Chí Hòa. Sự thật là thế hệ của tôi đã như vậy và thế hệ sau này cũng muốn đi vào con đường đó. Sư anh Nhất Trí đi về nông thôn làm công tác xã hội đã bị mất tích. Biết bao nhiêu người trẻ, xuất gia hay không xuất gia, chỉ vì muốn làm công việc thương yêu, hòa giải mà bị bên này hoặc bên kia ám sát. Hồi đó tôi thành lập Trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội để đào tạo những cán bộ xuất gia và tại gia đi vào nông thôn, đem thông điệp của thương yêu tới giúp nông thôn tổ chức lại đời sống và hàn gắn lại vết thương chiến tranh. Trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội không phải là lý thuyết mà là một cánh tay. Chị Nhất Chi Mai là một trong 6 người Tiếp Hiện đầu tiên, chị đã tự thiêu cho hòa bình và là một trong những cánh tay đắc lực của phong trào. Mình có những người anh, người chị rất xứng đáng, họ đã mở cho mình con đường đi về hướng tình huynh đệ, về hướng thương yêu và hòa giải.

Trong tình trạng hoang mang đó tôi được các thầy lớn trong ban giám đốc Phật học đường Ấn Quang mời tới, tại vì họ biết chỉ có tôi mới ủy lạo được giới tăng ni trẻ tuổi. Tôi đã về chùa Ấn Quang và bắt đầu xây dựng tăng thân theo cái thấy của tôi. Sư bà Phước Hải, một vị tôn túc sắp sang đây dự Đại Giới Đàn, là học trò của tôi hồi đó, hòa thượng Minh Cảnh cũng là một vị học trò của tôi hồi đó. Lần đầu tiên tôi có cơ hội tạo dựng được một tăng thân có tình huynh đệ, có hạnh phúc. Năm nay chúng ta đã cố mời càng nhiều vị càng tốt sang tham dự Đại Giới Đàn, nhưng chỉ có một số đi được mà thôi. Câu hỏi là:

–  Thầy ơi, thầy có ước mơ gì chưa thành hay không? Thầy muốn thấy nó trước khi chết hay không?

Tôi trả lời rằng:

–  Tôi không còn một ước mơ nào nữa. Ước mơ xây dựng được một tăng thân đã thành công rồi.

Uớc mơ đó thành công hay không và nó có được tiếp tục hay không là do sự tu tập của mình. Mỗi khi thấy một sư chú đi một bước chân an lạc, thảnh thơi, hạnh phúc thì tôi thấy ước mơ của mình đang trở thành sự thật. Khi thấy một số anh em ngồi uống trà với nhau để bàn chuyện giúp đời thì đó là hạnh phúc rồi. Những chuyện đó xảy ra hằng ngày. Ngày nào cũng được đi những bước chân như vậy, ngày nào cũng được ngồi với tăng thân như vậy, ngày nào cũng hướng tâm mình về phía đó, như vậy là đẹp lắm rồi, không cần phải đi tìm gì nữa, giấc mơ đã trở thành hiện thực. Đó là công phu của mình. Nếu mình không có hạnh phúc là mình rất dại, tại vì mình có đủ điều kiện để có hạnh phúc. Mình có tăng thân, có pháp môn, không ai có thể làm cho niềm tin của mình nơi pháp môn bị lung lay tại vì mình đã chứng thực được mỗi khi thở, mỗi khi đi, mỗi khi ngồi là có hạnh phúc liền. Ai lấy được niềm tin đó ra khỏi mình, tại vì niềm tin đó tới từ những kinh nghiệm trực tiếp của mình mà không phải do một người khác nhờ họ nói năng có tính cách thuyết phục. Niềm tin của mình không phải do người khác đưa tới mà do chính mình, vì vậy cho nên mình phải nhớ hai câu này:

Đến được động tiên sâu thẳm ấy

Linh đan đổi cốt mới ra về

Làm sao mà đổi xương? Mình đổi xương bằng từng bước chân, từng hơi thở. Mình đã học rất kỹ lưỡng là phải thở như thế nào để có hạnh phúc liền trong giây phút hiện tại, phải đi như thế nào để có hạnh phúc liền trong giây phút hiện tại. Mình không cần phải lôi nỗi khổ niềm đau ra đối diện mới có thể chữa trị được.

Để Bụt thở, để Bụt đi

Phương pháp niệm Bụt và phương pháp quán tưởng

Trong các phương pháp thực tập của chúng ta có phương pháp Niệm Bụt (the collection of the Buddha). Chúng ta có bài tụng “Tam Quy“:

Đoạn thứ nhất:

Con về nương tựa Bụt

Người đưa đường chỉ lối cho con trong cuộc đời

Đoạn thứ hai:

Đã về nương tựa Bụt

Đoạn thứ ba:

Về nương Bụt trong con

Trong truyền thống Nam Tông thì chỉ đọc: Con về nương tựa Bụt, và vì thấy quá ngắn nên các thầy đọc ba lần”con về nương tựa Bụt. Nhưng ở Làng Mai thì có ba đoạn khác nhau và nhất là có câu: Về nương Bụt trong con. Bụt không phải là một thực thể ngoài mình, Bụt có ở trong mình. Có nhiều phương pháp niệm Bụt, trong đó có phương pháp gọi là ”trì danh”nghĩa là gọi tên, ví dụ như: Nam mô Bụt Thích Ca Mâu Ni, Nam mô Quan Thế Âm bồ tát. Nhưng nếu không khéo thì miệng của mình đọc tên nhưng tâm của mình lại nghĩ tới chuyện khác.

Không những trong đạo Bụt mà trong các tôn giáo khác cũng có phương pháp trì danh như gọi tên Chúa, tên mẹ Maria, tên prophet Mohammed, v.v…Đó là trì niệm (anusmrti). Chúng ta gọi danh hiệu như thế nào mà trong khi gọi hạt giống của giác ngộ, giải thoát, hạnh phúc được tưới tẩm trong ta thì phương pháp trì danh mới có hiệu nghiệm. Nói “Nam mô A Di Đà phật” mà tâm của ta nghĩ tới chuyện khác thì chẳng khác nào như đọc 1, 2, 3, 4, không có ích lợi gì.

Trong đạo Bụt cũng như trong đạo Chúa chúng ta có tràng hạt, mỗi khi niệm một câu như “nam mô A Di Đà Phật” thì mình lần một hạt để đừng quên. Nhưng nếu không khéo thì tay mình sẽ lần hạt như cái máy và miệng của mình cũng phát âm như cái máy. Như vậy thì mình chỉ làm hình thức mà không có nội dung. Phương pháp trì danh có tất cả trong các truyền thống. Mình gọi tên như thế nào mà Bụt có thể biểu hiện ra trong mình,  còn nếu gọi tên hay lần tràng hạt như cái máy thì không có hiệu quả gì cả.

Phương pháp thứ hai là Quán Tưởng (visualize). Mình hình dung ra được Bụt là một người thánh thoát, nhẹ nhàng, tươi cười, mát mẻ và từ bi. Hoặc ngồi, hoặc đứng hoặc đi, mình hình dung ra một người đi, đứng, nói năng, hành xử rất chánh niệm và đầy từ bi. Đó là phương pháp quán tưởng.

Bụt và chúng sanh tương tức

Chúng ta đã học rằng Bụt và người dính với nhau, không có người thì không có Bụt, không có Bụt thì không có người. Đó là nhận thức bất nhị. Trong kinh Kim Cương có nói: Phải lấy đi ý niệm chúng sanh là ngược lại với Bụt, tại vì chúng ta thường hay so sánh đã là Bụt thì không thể là chúng sanh, mà là đã chúng sanh thì không thể là Bụt. Chúng sanh   (living being) có khi còn được gọi là hữu tình 有 情, tiếng Phạn là sattva, phiên âm là tát đỏa. Theo định nghĩa thì Bụt là một loài hữu tình có giác ngộ, giải thoát gọi là boddhisattva (bồ tát). Bồ tát là tên gọi tắt của chữ bồ đề tát đỏa, có nghĩa là giác hữu tình, là một con người đã giác ngộ.

Khi đã giác ngộ thì một chúng sanh trở nên có giá trị, trở thành một bậc đại nhân (great being). Boddhisattva is a great being. Trong một vị bồ tát có sự vĩ đại của một bậc giác ngộ nên chúng ta có chữ mahasattva. Maha là lớn, sattva là hữu tình, mahasattva là đại hữu tình. Bồ tát ma ha tát là boddhisattva mahasattva, khi một chúng sanh giác ngộ thì trở thành một con người lớn gọi là mahasattva, và con người lớn đó có thể gọi là boddhisattva nên chúng ta dùng chữ boddhisattva mahasattva.

Nhưng nếu không có người thì làm sao có bậc giác ngộ? Bậc giác ngộ từ người mà ra, vì vậy giữa người và bậc giác ngộ có sự liên hệ. Bụt không thể có mặt ngoài chúng sanh và chúng sanh không thể có mặt ngoài Bụt; cũng như bên trái và bên phải, nếu không có trái thì không có bên phải và không có bên phải thì không có bên trái. Đó gọi là tương tức, là tương đãi. Theo giáo lý của đạo Bụt thì trong chúng sanh có Phật tánh (Buddha nature), có hạt giống của Bụt. Hễ là chúng sanh là có Phật tánh tức là có khả năng giác ngộ, khả năng có niệm, định và tuệ. Chúng sanh nào cũng có khả năng có niệm-định-tuệ, cũng có khả năng giác ngộ.

Trong các tôn giáo khác sự liên hệ giữa Thượng đế và con người có như vậy hay không? Có những nhà mystic nói rằng Thượng đế cũng có ở trong ta, nhưng không phải tất cả mọi người đều nghĩ như vậy. Trong đạo Bụt nói rất rõ muốn tìm Bụt thì phải đi tìm trong chúng sanh, ngoài chúng anh thì không có Bụt. Không biết bên Cơ Đốc giáo có nói như vậy không: Muốn đi tìm Chúa thì phải nhìn vào con người, không có con người thì không thể tìm ra Thượng đế. Trong đạo Bụt thì Bụt và chúng sanh tương tức (inter-are), cũng như mặt trời và mình, mặt trời và mình tuy là hai nhưng là một. Mình có mặt trời trong con người của mình, tại vì những gì mình ăn là do mặt trời làm ra. Vì vậy mặt trời không chỉ có ngoài mình mà còn có trong mình.

Có tuệ giác bất nhị khi niệm Bụt, khi quán tưởng hay khi lạy Bụt

Phương pháp niệm Bụt là một phương pháp rất sâu.Mỗi khi lạy xuống, mình đọc bài:

Năng lễ sở lễ tánh không tịch

Người lạy và người được lạy không phải là hai thực thể riệng biệt nhau. The one who bows and the one who is bowed to are both empty of separate self. Trong Bụt có mình và trong mình có Bụt. Trước khi lạy xuống mình phải quán chiếu: Bụt ơi, con biết Ngài không ở ngoài con, Ngài đang ở trong con và con đang ở trong Ngài. Phải thấy được điều đó thì khi lạy xuống mình mới tiếp xúc được với Phật tánh trong mình. Nếu nghĩ Bụt là một cái gì hoàn toàn khác với mình và mình là một cái gì hoàn toàn khác với Bụt thì mình sẽ không có sự liên hệ (connnection) đó. Có được tuệ giác bất nhị “Bụt và chúng sanh không phải là hai thực thể riêng biệt, Bụt có trong chúng anh và chúng sanh có trong Bụt“ thì khi niệm Bụt hay lạy Bụt mới có kết quả. Nếu nghĩ Bụt là một vị thần linh hoàn toàn không phải là mình, mình chỉ toàn là xấu xa, yếu đuối, hèn kém còn Bụt là tất cả những cái gì tốt đẹp, giống như đêm với ngày không thể đi đôi với nhau thì đó là có sự kỳ thị, mình có cái thấy nhị nguyên giữa mình và Bụt. Trong kinh Kim Cương có nói: Phải lấy đi ý niệm chúng sanh là một cái gì ngược lại với Bụt. Đó là nguyên tắc đầu để phương pháp niệm Bụt được thành công. Khi gọi tên Bụt, quán tưởng Bụt, hay lạy Bụt thì mình phải có tuệ giác,phải có cái thấy là giữa Bụt và chúng sanh có sự liên hệ rất mật thiết. Ngoài chúng sanh không có Bụt và ngoài Bụt không có chúng sanh.

Là người thực tập mình phải thấy được trong mình có hạt giống của bồ đề, trong mình có hạt giống của niệm, định và tuệ. Đó là Bụt, vì vậy khi niệm Bụt hay khi lạy Bụt là mình phải làm thế nào cho hạt giống đó biểu hiện trong mình, hạt giống đó được tưới tẩm thì mình mới thành công. Chúng ta không gọi tên một vị thần linh để thần linh đó tới bảo vệ cho mình. Đọc cuốn“ Đường xưa mây trắng“, mình phải đọc mấy ngày mới xong. Theo hình thức thì đó không phải là niệm Bụt. Nhưng thật ra khi đọc“Đường xưa mây trắng“ thì mình tưới tấm hạt giống của trí tuệ, thương yêu và hạnh phúc. Như vậy đọc mình“ Đường xưa mây trắng“ là mình đang niệm Bụt mà mình không biết. Trong quá trình đọc thì niệm-định-tuệ và Bụt đã hiện ra rõ ràng trong mình, vì vậy đọc“Đường xưa mây trắng“ là một hình thái niệm Bụt. Nghe một bài pháp thoại, tuy mình không niệm“Nam mô A Di Đà Phật hay nam mô Bụt Thích Ca Mâu Ni“, nhưng những hạt giống của niệm, của định và của tuệ trong người mình được tưới tẩm thì đó là niệm Bụt. Mình phải hiểu niệm Bụt theo tinh thần đó chứ không phải niệm Bụt là gọi tên Bụt.

 

Để Bụt làm, để bồ tát làm

Nếu thực tập khá thì Bụt ở bên mình suốt cả ngày không rời, tại vì Bụt không phải là một thần linh ở ngoài mà Bụt là một năng lượng có trong mình.Quí vị hãy thử phương pháp này, tôi thấy nó rất hay, rất dễ. Khi đánh răng mình nói: Bụt đang chải răng, mình để Bụt chải răng cho mình. Khi Bụt chải răng thì Bụt không hấp tấp, Bụt làm rất thảnh thơi. Mình chải răng như thế nào để Bụt có cơ hội dùng bàn tay của mình, dùng bàn chải của mình để chải răng. Mỗi khi chải răng mình đừng làm với tư cách một sattva, mà mình chải răng với tư cách một boddhisattva, tức là chải răng có chánh niệm. Khi anh chải răng có chánh niệm tức là anh chải răng mà biết là mình đang chải răng, trong khi chải răng anh có thảnh thơi, không hấp tấp thì đó chính là Bụt đang chải răng và lúc đó anh đang niệm Bụt. Mình có hai cách chải răng: hoặc là mình để cho chúng sanh chải, hoặc là mình để cho Bụt chải. Chúng sanh có trong mình và Bụt cũng có trong mình. Tùy theo cách mình chọn, để cho Bụt hay bồ tát chải răng thì mình có hạnh phúc hơn.

Khi nâng ly trà lên, mình mời Bụt uống giùm cho mình, tại vì Bụt uống trà rất hay. Bụt nâng ly trà nhẹ nhàng, có chánh niệm và Bụt uống trà rất hạnh phúc. Vì vậy trong khi uống trà là mình niệm Bụt. Bụt đang có mặt trong giây phút đó, Bụt hiện ra với niệm, định và tuệ.

Hồi nãy đi từ Thất Ngồi Yên ra đây, tôi đã để cho Bụt đi trên tuyết. Bên Ấn Độ có ít tuyết, cho nên bây giờ Bụt đi trên tuyết rất vui. Chúng sanh không đi, chúng sanh nhường chỗ cho Bụt đi. Trong con người mình có sattva và boddhisattva, một là mình để cho sattva đi, hay là mình để cho boddhisattva đi, mà để cho boddhisattva đi thì thế nào mình cũng có hạnh phúc hơn. Tại sao mình không để cho hữu tình đi, để cho Bồ Tát đi thì phải có hạnh phúc hơn hay không?

Khi nấu cơm cho đại chúng mình đừng nên làm một cách hấp tấp. Làm với niềm vui và tình thương thì lúc đó là boddhisattva đang nấu cơm. Vì vậy niệm Bụt có thể xảy ra trong mỗi giây phút của đời sống hằng ngày.

Đi tiểu, đi cầu là một việc rất dễ chịu. Mình để cho boddhisattva đi tiểu, đi cầu một cách nhẹ nhàng. Tại sao mình lại hấp tấp. Mình phải chọn để sattva đi tiểu hay để cho Bụt đi tiểu; để cho Bụt đi tiểu thì mình sẽ khỏe, sẽ nhẹ nhành và hạnh phúc hơn nhiều.

Trong đời sống hằng ngày hay trong thời gian ở Làng mình nên mời boddhisattva làm tất cả. Để boddhisattva làm, tại vì sattva và boddhisattva cộng trú trong con người của mình. Cũng lá phổi đó, cũng lổ mũi đó mà khi boddhisattva thở thì rất hạnh phúc, mà khi chúng anh thở thì không hạnh phúc bằng. Khi thở, chúng sanh không để ý tới hơi thở, không thưởng thức được hơi thở

Theo đạo Bụt, Phật và chúng sanh không phải là hai thực thể riêng biệt, Phật và chúng sanh cộng trú trong con người của mình. Mình phải chọn lựa, mình nên sống như một người tỉnh thức hay như một người mê ngủ, mình nên đi như một người tỉnh thức hay đi như một người mộng du, và hạnh phúc có liền lập tức mà mình không cần phải đi tìm ở chỗ khác.

Chỉ cần chải răng, uống trà, bước những bước trên tuyết, trên cỏ hay nấu ăn sáng cho đại chúng là mình có hạnh phúc. Phương pháp đó không khó, vấn đề là mình có muốn hay không muốn làm mà thôi. Chúng ta không coi Bụt là một thần linh mà ta gọi tên để tới giúp đỡ, cứu độ chúng ta mà Bụt có mặt trong ta dưới dạng năng lượng (năng lượng niệm, năng lượng định và năng lượng tuệ). Nếu biết sử dụng ba dạng năng lượng đó để chải răng, để đi cầu, v.v… thì tự nhiên ta có hạnh phúc. Chúng ta đừng sử dụng thì giờ một cách vô ích, đừng đi tìm giác ngộ, giải thoát, đừng đi tìm Bụt ở một chỗ khác trong một thời gian khác.

Quí vị thử niệm Bụt theo phương pháp này, để cho Bụt có mặt trong mỗi giây phút của đời sống hằng ngày, để Bụt thở, để Bụt đi, để Bụt ngồi, để Bụt chải răng là chuyện chúng ta có thể làm được tại vì tất cả chúng ta đều có khả năng có chánh niệm. Chúng ta có thể chải răng có chánh niệm, đi cầu có chánh niệm, giặt áo có chánh niệm và mỗi giây phút đem lại sự thảnh thơi, đem lại niềm vui . Như vậy mỗi giây phút có mặt trên trên trái đất này là một giây phút hết sức mầu nhiệm: Mặt trời lặn cũng đẹp, mặt trời lên cũng đẹp, mưa cũng đẹp mà tuyết cũng đẹp. Giây phút nào cũng mầu nhiệm và ta nên có mặt thật sự để sống mỗi giây phút cho đàng hoàng. Nếu mình làm được một ngày thì đã có sự khác biệt rất lớn.

Cái sợ nguyên thủy

Sự sợ hãi và ước muốn nguyên thủy

Hôm trước chúng ta có nói tới sự trống trải trong lòng và chúng ta thường đi tìm một đối tượng nào đó để khỏa lấp sự trống trải đó. Chúng ta giống như một cái nồi chưa có vung. Mỗi cái nồi đều đi tìm một cái vung để đậy lên, ta nghĩ rằng khi có vung đậy rồi thì ta sẽ có bình an. Nhưng sự thật thì không như vậy, khi đậy vung lên rồi thì nước trong nồi của ta trào ra và làm tắt lửa. Chúng ta có sự trống trải trong lòng, chúng ta cũng có sự mong ước và sự sợ hãi trong lòng.

Chúng ta sợ hãi tại vì ta nghĩ trên đời này sẽ không có một người nào có thể chăm sóc ta, có thể làm chỗ nương tựa cho ta. Đó là những tình cảm nẩy sinh từ khi chúng ta còn thơ ấu. Khi mới sinh ta, tuy có mắt nhưng ta chưa dùng được mắt, có tai nhưng ta chưa dùng được tai, ta có hai tay hai chân mà chưa dùng được hai tay hai chân. Chúng ta không có khả năng tự lo cho mình. Làm sao một em bé ba tháng hay sáu tháng hay một năm có thể tự lo cho mình? Em bé cảm thấy rất trống trải, rất sợ hãi. Nếu không có một bà mẹ hay một vú nuôi chăm sóc những khi đói lạnh thì em bé không biết làm thế nào để vượt qua những khó khăn đó.

Ngay lúc mới sinh ra đã là một giây phút hiểm nguy, nhất là ngày xưa, có thể cả mẹ con đều chết trong quá trình sinh con. Vì vậy cho nên mẹ sợ mà con cũng sợ, cái sợ của mẹ truyền sang con. Trong thời gian chín tháng đứa bé nằm trong bào thai rất êm ấm, không quá nóng không quá lạnh và nó có tất cả những tiện nghi. Em bé khỏi phải làm gì cả, mẹ ăn cho mình, mẹ thở cho mình, cho nên ra khỏi bụng mẹ là đứa bé đi vào một thế giới mới. Sau khi cắt rốn thì sợi dây liên lạc giữa mẹ và em bé không còn nữa. Nó phải tự thở lấy, tự ăn lấy, điều này rất khó cho em bé. Và em bé chỉ có một vũ khí thôi, đó là khóc; ngoài ra nó không có phương tiện nào khác để tự vệ. Khi đói nó cũng khóc, khi lạnh nó cũng khóc, khi cô đơn nó cũng khóc. Nhờ khóc mà mẹ tới ẵm nó vào trong hai tay, nhờ khóc mà nó có sữa bú khi đói, có áo mặc khi lạnh. Vì vậy rõ ràng vũ khí của em bé chỉ là tiếng khóc mà thôi. Trong em bé phát sinh ra một loại tình cảm là sự sợ hãi

Em bé sợ rằng có khi mình khóc mà người kia không tới được. Trước hết nó sợ chết, và nó sợ không có người chăm sóc cho mình, sợ bơ vơ. Tình cảm từ hồi còn bé thơ còn sống cho tới bây giờ. Cái sợ của chúng ta bắt nguồn từ đó, sự tìm kiếm của chúng ta cũng bắt nguồn từ đó, và sự yêu thương của chúng ta cũng bắt nguồn từ đó. Trong kho tàng âm nhạc của đạo Bụt có một bài tán dâng hương, trong đó có câu:

Da Du tử mẫu lưỡng vô ương

tức là mẹ con Da Du Đà La không bị tai nạn, tại vì ngày sinh ra Rahula là một ngày rất khó cho Siddharta. Da Du Đà La sinh con rất khó, tưởng là cả hai mẹ con đều chết rồi. Siddharta đi bộ ở ngoài, trong lòng rất lo lắng, sợ hãi, nghĩ rằng vợ con của mình có thể chết bất cứ lúc nào. Chính Siddharta cũng rất khó sinh, nên khi sinh ra Siddharta thì hoàng hậu Maya qua đời. Cái sợ đó có trong Siddharta mà cũng có trong Rahula.

Hỏa nội đắc thanh lương

có nghĩa là là trong cơn lửa cháy bừng bừng đó, có Cam Lộ tức tin mừng sinh con được rồi, và mẹ tròn con vuông. Đó là một giây phút rất là khó khăn cho cả mẹ lẫn con.

Khi đứa bé được sinh ra thì công việc đầu tiên nó phải tự làm là phải thở. Nó phải thở vào hơi thở đầu tiên và phải thở ra hơi thở đầu tiên, nhưng nó chưa được học kinh An Ban Thủ Ý. Lúc đó trong phổi của em bé có một ít chất loãng làm nó thở vào và thở ra đều khó, nó phải làm cách nào đó để đẩy chất loãng đó đi thì nó mới thở được. Vì vậy khi ra đời đứa bé bắt đầu bằng tiếng khóc, khóc để đẩy chất loãng trong phổi ra và thở vào một hơi. Thở vào và thở ra được một hơi thì biết là mình sống.

Sự sợ hãi phát sinh ngay từ khi mình mới sinh ra, mình sợ chết và sợ không có người chăm sóc mình. Cái sợ đó  là cái sợ nguyên thủy, cái ao ước đó là ao ước nguyên thủy. Cái sợ nguyên thủy là sợ chết, sợ cô đơn một mình. Sự ao ước nguyên thủy là ao ước có người chăm sóc mình. Khi chúng ta lớn lên thì cái sợ và sự ao ước đó vẫn còn. Là con trai hay con gái cũng vậy, chúng ta có cảm tưởng chúng ta là một cái nồi chưa có nắp. Chúng ta đi tìm cái nắp, mà không biết nguồn gốc của ước muốn đó là từ thời thơ ấu. Khi tìm được một người rồi thì ta mừng quá, cái nồi đã có vung rồi và ta thấy an tâm. Cái người mà ta tìm ra đó là đối tượng tìm kiếm của ta từ hồi còn nhỏ, tức là một bà mẹ, một người vú em hay một người cha. Ngồi bên cạnh người yêu ta nghĩ: “Như vậy là được rồi. Mình yên tâm rồi, đã có người lo cho mình rồi. Mình đã có một người cha, một người mẹ, một người vú em rồi.“ Người yêu của mình là sự tiếp nối của người cha, người mẹ hay người vú em đó. Nhưng mình có thể an tâm vài tháng hay vài năm rồi mình thấy người kia không phải là người cha, người mẹ hay người vú em. Người đó, thay vì chăm sóc mình, lại còn gây ra bao nhiêu khó khăn cho mình. Lúc đó mình đi tìm cái vung khác.

Có mặt cho chính mình, trở thành một người lớn thật sự

Em bé trong ta vẫn còn sống, nỗi sợ hãi và sự ước mong đó vẫn còn. Vì vậy khi chúng ta cảm thấy lẽ loi, đơn độc, thiếu thốn, đó là sự tiếp nối của cái ước mơ, của sự sợ hãi từ hồi còn ấu thơ. Chúng ta phải quán chiếu; chúng ta phải dùng niệm, định và tuệ để nhắc cho mình rằng mình không còn là một em bé nữa. Mình đã lớn rồi, mình đã trở thành người lớn; mình có thể tự đi, tự thở, tự nấu cơm, tự chăm sóc bản thân; mình không cần một vú nuôi , một người mẹ, một người cha nữa; mình có thể tự túc được. Mình phải tự nhắc mình như vậy, nếu không thì mình vẫn còn tiếp tục đi tìm cái vung. Thực tập được thì mình đạt tới cái gọi là plénitude, fulfilment: tôi có đủ hết rồi, tôi không cần đi tìm nữa.

Trong câu linh chú thứ nhất “I am here for you“ (Tôi đang có mặt đây cho em), chữ you trước hết có nghĩa là chính mình. Nếu ta có mặt cho mình thì ta đã có cái nắp nồi. Trong chúng ta rất ít người có thể có mặt cho chính mình, mình không có khả năng có mặt cho chính mình, mình muốn một người nào đó có mặt cho mình để khỏa lấp sự trống trải của mình. Mình không làm được công việc đó nên mình đi tìm một người khác làm cho mình. Mình đi tìm một người cha, một người mẹ, một bà vú em. Đó là sự thật.

Vì vậy tuệ giác đầu tiên chúng ta phải đạt được là: Chúng ta không cần một cái vung. Chúng ta không cần một bà mẹ, một vú em nữa tại vì chúng ta đã lớn, ta có thể có mặt cho mình được. Sự thật là mình có hai chân rất khỏe, mình có thể đi lấy cơm, đi lấy nước uống. Sự thật là mình có thể làm việc để có thực phẩm, có chỗ ăn ở, mình có thể tự lo cho mình, mình không cần có một bà mẹ, một vú già hay một người nào khác làm cho mình. Đó là sự thực tập niệm, tức là ý thức được rằng mình không còn là một em bé bất lực nữa, mình đã trở thành một người lớn và mình có thể lo cho chính mình. Sự thực tập là mình phải có mặt cho chính mình, mình không thể đi tìm một người để có mặt giùm cho mình, để chăm sóc mình. Mình phải trở thành một người lớn thật sự.

Mình có mặt cho mình để làm gì? Mình có mặt để chăm sóc mình. Trước hết là mình có mặt, thân và tâm về lại với nhau để nhận diện những mầu nhiệm của sự sống đang có trong mình và chung quanh mình để được nuôi dưỡng. Mình có khả năng tiếp xúc và sử dụng những yếu tố mầu nhiệm đó để nuôi dưỡng mình, mình không cần người khác lo cho mình. Đó là vai trò của chánh niệm. Thở hay đi trong chánh niệm thì mình đem tâm trở về với thân, và khi thân tâm nhất như thì mình có mặt trong giây phút hiện tại, mình có mặt cho mình. Mình có mặt cho mình để:

– Có khả năng tự sử dụng những yếu tố mầu nhiệm của cuộc sống để nuôi mình và chữ trị cho mình, mình không cần một người khác. Đó là có mặt để nuôi dưỡng và chăm sóc mình.

– Nếu có những tâm hành buồn khổ, lo lắng, sợ hãi đi lên thì mình có thể ôm ấp, nhìn sâu và chuyển hóa nó.

Mình không đi tìm một người khác làm chuyện đó cho mình. Sự thực tập ở đây là mình phải có mặt cho mình. Mình phải là cái vung nồi của mình, mình phải biết chăm lo cho chính mình. Trước hết là tiếp xúc và sử dụng các yếu tố tích cực để nuôi dưỡng thân tâm. Thứ hai là có mặt để nhận diện những khổ đau, thiếu thốn, buồn tủi; nhìn sâu vào nó để thấy được gốc rễ của nó và thoát ra được. Trong những buồn khổ đó có sự sợ hãi nguyên thủy, có cái ước muốn nguyên thủy là luôn có một người để chăm sóc cho mình tại vì mình là người bất lực. Khi nhận diện ra được mình đã là người lớn rồi, mình không còn là một em bé bất lực nữa thì tự nhiên mình hiểu được bản chất sâu xa của tâm hành lo lắng, sợ hãi.

Nếu mình không có mặt cho mình, mình không làm tan biến sự trống trải trong mình nhờ sự có mặt đó, mà mình đi tìm một người khác làm đối tượng để nhét vào lỗ hổng của mình là mình tìm một đối tượng ở ngoài để làm giùm mình công việc mà mình không làm được. Nếu người kia làm không được công việc đó thì mình giận hờn và mình trừng phạt người đó. Có thể người đó cũng không có khả năng lo cho chính người đó thì làm sao người đó có khả năng lo cho mình. Bắt người đó nhét vào khoảng trống của mình thì mình không giúp gì được cho người đó mà mình còn làm cho người đó mất tự do và mình cũng không có tự do. Sự thật là như vậy, cho nên chúng ta phải nhìn cho thật sâu để thấy được bản chất của tình yêu là gì.

Về nương tựa tăng thân để được chuyển hóa và trị liệu

Trong chúng ta có người rất nhạy cảm, tôi cũng là một trong những người nhạy cảm. Có một lần tôi than với một ông bác sĩ:

–  Bác sĩ ơi, sao tôi nhạy cảm quá vậy? Tôi rất dễ bị cảm.

Ông bác sĩ nói:

–  Thầy ơi, thầy đừng nghĩ nhạy cảm là chuyện xấu, nhạy cảm có thể là một chuyện tốt.

Tôi cứ suy nghĩ về câu trả lời của ông bác sĩ, tôi thấy nó đúng thật.Tôi thấy những nghệ sĩ, những thi sĩ, những họa sĩ lớn trong thế gian đều là những người nhạy cảm. Vì nhạy cảm nên họ tiếp xúc dễ dàng với cái hay, cái đẹp, cái lành và họ cũng tiếp xúc được với những đau thương của thế giới. Do đó họ nói ra được những đau thương, những niềm vui, những ước ao của dân tộc. Họ trở thành thi sĩ, họa sĩ, nhạc sĩ của cả một dân tộc. Nhạy cảm chưa hẳn là một cái gì tiêu cực, nó có thể là một điều tốt.

Nhưng mình phải biết sử dụng chánh niệm, tại vì những người nhạy cảm có thể bị thương tích rất dễ dàng. Đôi khi người ta không trách cứ mình, nhưng mình lại nghĩ rằng người ta đang trách cứ mình. Ví dụ khi cho một bài pháp thoại thì thầy dạy cho tất cả đại chúng mà mình nghĩ là thầy đang nói cho riêng mình. Đó là nhạy cảm đặt sai chỗ. Khi nói một bài pháp thoại cho 2, 3 trăm người là tôi nói cho tất cả chứ không phải cho riêng một người thôi, và người nào cũng có thể thừa hưởng bài pháp thoại đó. Vì vậy mình phải có chánh niệm, có ý thức rằng mình phải sử dụng sự nhạy cảm của mình để tiếp xúc với cái hay, cái đẹp, cái lành đang có trong giây phút hiện tại để tự nuôi mình và chữa trị cho mình.

Trong tăng thân có những thầy, những sư cô, những vị cư sĩ tu tập rất giỏi, có nhiều tươi mát, nhiều niềm tin, nhiều hạnh phúc. Mình phải có khả năng tiếp xúc với những yếu tố đó để nuôi dưỡng mình. Mình phải mở lòng ra để những yếu tố đó chảy vào dòng chảy của mình. Sự nhạy cảm đó rất tốt, tạo sao mình phải đóng cửa lại để ôm ấp nỗi khổ niềm đau của mình. Mình phải mở lòng ra để những cái hay, cái đẹp, cái lành từ thiên nhiên và từ tăng thân tràn vào.

Khi những tâm hành như buồn chán, khổ đau, lo lắng đi lên thì với sự thực tập chánh niệm trong hơi thở và bước chân, mình có thể tạo ra được năng lượng để nhận diện: Đây là cái lo lắng, cái sợ hãi nguyên thủy. Mình đã lớn rồi, mình không phải là một em bé bất lực nữa. Mình phải có khả năng chiến thắng những tâm hành này để thấy rõ rằng mình có khả năng ôm ấp, chuyển hóa nó.

Mình biết trong tăng thân có những người đã từng đi qua những trạng thái như mình. Nhờ sự thực tập nên những người đó đã vượt thắng được, mình phải nương tựa vào những người đó để có thể sử dụng được năng lượng của tăng thân mà ôm ấp và chuyển hóa những nỗi khổ niềm đau của mình. Vì vậy vần đề không phải là nhạy cảm nhiều hay ít, mà vấn đề là mình có biết sử dụng chánh niệm để làm cho sự nhạy cảm của mình có ích lợi cho mình và cho tăng thân hay không?

Nếu có những nỗi khổ niềm đau mà mình không mở lòng ra cho niềm vui của tăng thân đi vào thì dòng chảy của mình vẫn là một dòng chảy biệt lập. Những cái hay, những cái tốt của tăng thân không đi vào trong mình được. Mình cứ ôm nỗi khổ niềm đau trong mình, mình không để dòng chảy của tăng thân đi vào để giúp mình ôm ấp và chuyển hóa thì mình không có sự thay đổi. Sống trong tăng thân là phải nương tựa tăng thân, phải trở thành một dòng sông mà không tiếp tục là một giọt nước. Là một giọt nước thì không bao giờ có thể chuyển hóa và sẽ không bao giờ đi ra biển. Nếu mình phó thác thân mạng cho tăng thân thì tăng thân sẽ chuyên chở mình. Tăng thân làm gì thì mình làm cái đó, tăng thân đi đâu thì mình đi đó. Tăng thân có sứ mạng chuyên chở Bụt và Pháp như một dòng sông có sứ mạng chuyên chở nước để tưới những cánh đồng. Tăng thân là một dòng sông chuyên chở Bụt, chuyên chở Pháp và có sứ mạng hiến tặng Bụt và Pháp cho thế gian. Tăng thân có một sự nghiệp, đó là sự nghiệp giúp đời bớt khổ của Đức thế Tôn và tăng đoàn nguyên thủy. Vì vậy cho nên trong suốt cuộc đời của Bụt; Ngài đã không ngừng giảng dạy và giúp cho người khác thực tập vượt thoát khổ đau.

Mình tổ chức những khóa tu hay những ngày quán niệm, những buổi thiền tọa, thiền hành là mình tiếp nối sự nghiệp của Bụt. Nếu là một thành phần của tăng thân thì mình phải tham dự vào những công việc đó. Mình phải tham dự vào thiền ngồi, thiền đi, thiền chấp tác, mình tham dự vào công việc tổ chức, việc giúp đỡ những thiền sinh tới với mình. Mình phải làm hết lòng, như vậy mình sẽ chảy với tăng thân như một dòng sông và những khổ đau của mình sẽ được chuyển hóa. Mình phải vui cái vui của tăng thân, lo cái lo của tăng thân, buồn cái buồn của tăng thân, ao ước cái ao ước của tăng thân thì lúc đó những nỗi khổ niềm đau của mình mới tan biến được. Nếu mình ngồi một mình ôm ấp nỗi khổ niềm đau mà không hòa mình vào tăng thân thì mình sẽ không thành công.

Những người tới với đạo Bụt phải thực tập quy y Tam bảo. Quy y tam bảo là quy y Bụt, quy y Pháp, quy y Tăng. Nhưng Bụt, Pháp và Tăng không phải là ba thực tại tách rời ra. Mình phải thấy được Bụt trong Tăng và Tăng trong Bụt. Mình phải thấy được Pháp trong Tăng và Tăng trong Pháp.

Một đoàn thể tu học, trong đó có tình huynh đệ, có lý tưởng phụng sự, có sự hòa hợp; một đoàn thể có khả năng chế tác được niệm, định thì đó là một chân Tăng. Chân Tăng là một đoàn thể tu học có khả năng chuyên chở Bụt và Pháp. Vì vậy quy y Bụt cũng có nghĩa là quy y Tăng, không quy y Tăng là không quy y Bụt. Nếu mình bỏ Tăng mà đi, mình không chấp nhận Tăng thì mình cũng không chấp nhận Bụt. Gia nhập vào tăng đoàn là tham gia vào sự nghiệp của tăng đoàn. Tăng đoàn làm việc gì thì mình làm việc đó như tăng đoàn ngồi thiền thì mình ngồi thiền, đi thiền thì mình đi thiền, nghe pháp thoại thì mình nghe pháp thoại, nấu cơm thì mình nấu cơm, quét nhà thì mình quét nhà, tổ chức khóa tu thì mình tổ chức khóa tu, và mình phải làm hết lòng.

Trong khi đi thiền, tăng đoàn chế tác ra niệm và định tập thể rất hùng tráng. Nó làm cảm động lòng người, nó chuyển hóa được nỗi khổ niềm đau của người. Đó là Bụt, là Pháp. Khi quy y Tăng mà mình hòa với tăng thì đó là một phương pháp trị liệu rất hay. Mình là một dòng chảy, dòng chảy của mình hơi đen tối, hơi tiêu cực thì mình đi vào tăng đoàn, mình mở lòng ra để những dòng chảy trong sáng đi vào trong mình và mình trở thành một dòng lớn, tự nhiên sự chữa trị sẽ thành công, mình không có cố ý được chữa trị mà vẫn được chữa trị. Đi  tìm một nhà tâm lý trị liệu và ngồi hàng giờ để nói ra nói ra nói vào, mình tưởng là mình được chữa trị nhưng có thể là mình chỉ ôn lại, chỉ tưới tẩm thêm những hạt giống khổ đau của mình mà thôi. Sống với tăng thân, mình phải sống hết lòng, phải sống 100%, mình phải đem thân mạng mình giao cho tăng thân thì mới có thể chữa trị được những tập khí và những khổ đau từ nhiều đời nhiều kiếp. Đứng một chân trong một chân ngoài thì chắc chắn mình sẽ không làm được chuyện này.

Trong đại chúng, chúng ta thấy có những thầy, những sư cô và những vị cư sĩ hết lòng nương tựa vào tăng thân, tin tưởng vào con đường của tăng thân; có những vị sống trong chúng rất hạnh phúc, đóng góp rất nhiều vào trong sự nghiệp của Bụt, của Pháp và của Tăng. Muốn được như vậy chúng ta phải hoàn toàn quy y tăng, nghĩa là đem hết thân mạng giao phó cho tăng thân. Có thể là tăng thân chưa được toàn hảo bởi không có gì là toàn hảo cả. Nhưng mình có thể giúp cho nó toàn hảo hơn, vì tăng thân được làm bằng những thành phần của tăng thân. Nếu những thành phần đó có ý chí tu học thì tăng thân sẽ có phẩm chất cao hơn.  Mình đừng nên trông chờ ở người khác, mình phải tự đóng góp mà sự đóng góp đầu tiên là hoàn toàn nương tựa vào tăng thân, đem thân mạng của mình mà phó thác cho tăng thân. Như vậy sự chuyển hóa, trị liệu sẽ xảy ra, và mình không cần đi tìm sự chuyển hóa, trị liệu ở một nơi khác.

Xem Pháp thoại >>Xem<<

Pháp thân tỏa sáng buổi ban mai

Pháp thân tỏa sáng buổi ban mai

Sáng hôm nay thầy Pháp Tuyển hô canh bằng tiếng Anh: The Dharma Body is bringing morning light, nguyên văn bằng tiếng Việt là: Pháp thân tỏa sáng buổi ban mai. Câu này có nghĩa là: vào buổi ban mai thì pháp thân của ta tỏa sáng, dịch cho sát nghĩa: The Dharma Body shines realmly in the morning.

Trước hết chúng ta phải hiểu pháp thân là gì mà lại tỏa sáng trong buổi ban mai? Pháp thân, tiếng Hán là , tiếng Phạn là dharmakāya. Chữ pháp thân đã có nguồn gốc ngay từ hồi Đức Thế Tôn còn tại thế. Một hôm Đức Thế Tôn tới thăm một vị đệ tử đang bị bệnh nặng sắp chết. Đó là thầy Vakkali. Đức Thế Tôn hỏi thầy Vakkali:

– Thầy có tiếc nuối gì không?

Thầy Vakkali nói:

– Con không có tiếc nuối gì, nhưng có một chuyện là vì con bệnh quá nên không lên được núi Thứu mỗi ngày để ngắm nhìn Đức Thế Tôn.

Bụt nói:

–  Thầy ơi, nhục thân của tôi không có quan hệ gì. Thầy đã có pháp thân của tôi rồi thì thầy cần gì nhục thân của tôi nữa.

Ngay vào thời của Bụt đã có hai danh từ nhục thânpháp thân. Nhục thân của Đức Thế Tôn có thể tiêu hoại nhưng pháp thân của Ngài sẽ còn hoài. Khi đã có pháp thân thì ta đâu cần phải dính vào nhục thân nữa.

Pháp thân, trước hết có nghĩa là: Thân của giáo pháp (the teaching Dharma)

Thân của giáo pháp đó, Bụt đã trao lại cho các đệ tử. Mỗi người đã mang pháp thân theo mình. Chúng ta biết có hai loại pháp:

  • Pháp linh động (the living Dharma)
  • Pháp nói, pháp nghe hay pháp được chép xuống (the spoken Dharma)

Nhưng pháp nói không hay bằng pháp linh động. Mỗi khi ta thở mà có an lạc mới là pháp linh động. Mỗi khi đi thiền hành mà mỗi bước chân có an lạc thì đó là pháp linh động.

Pháp thân còn có nghĩa thứ hai là: Sự thực tập của chúng ta (the practice Dharma)

Mỗi người chúng ta đều có nhục thân (physical body). Nhưng nếu là đệ tử của Bụt thì ta có một thân thứ hai gọi là pháp thân. Pháp thân là sự thực tập của ta. Sự thực tập được vững chãi thì ta có nhiều hạnh phúc, ta có khả năng xử lý được những khổ đau của mình, ta có khả năng chế tác niềm vui và hạnh phúc. Đó là tùy theo ta có pháp thân vững chãi hay không.

Buổi sáng, khi ngồi thiền ta phải làm cho pháp thân tỏa sáng. Khi mới thức dậy ta khỏe khoắn và tỉnh táo nên pháp thân của ta có thể tỏa sáng. Những học trò cũng biết buổi sáng mới thức dậy là học hay nhất vì học sẽ thấm nhiều. Cuối ngày mệt mỏi ta học sẽ không vô. Buổi sáng thức dậy ta thực tập liền thì rất hay nên gọi là: "Pháp thân tỏa sáng buổi ban mai” (My practice is shining in the morning). Mỗi người chúng ta có hình hài (physical body) và pháp thân (Dharma body), và mỗi ngày ta phải nuôi lớn pháp thân của mình.

Pháp thân của anh lớn mạnh hay èo uột? Nếu pháp thân của anh còn yếu kém thì nó không làm cho anh vững chãi, không giúp anh tạo được niềm vui và hạnh phúc cho mình. Pháp thân của anh yếu thì anh không có khả năng xử lý được nỗi khổ niềm đau của mình và giúp cho người khác xử lý được nỗi khổ niềm đau của họ. Là người tu, mỗi ngày ta phải nuôi lớn pháp thân của mình.

Mùa Đông cây cối lớn rất chậm, nhưng tới mùa xuân thì chúng lớn lên rất mau. Những loại cây như cây tre, có đêm nó mọc  cao lên tới hai phân. Vì vậy ở Tây phương người ta gọi mùa xuân là springing up, tức là mùa tuôn dậy. Chúng ta phải làm sao để pháp thân của mình cũng lớn mau như vậy. Các thầy, các sư cô, các đạo hữu cư sĩ hãy tự hỏi xem pháp thân của mình có lớn lên mỗi ngày hay không; hay vẫn đứng nguyên tại chỗ? Tôi thấy pháp thân của mình đều lớn lên mỗi ngày, có sự tiến bộ trong khi đi, ngồi, thở, làm việc và tiếp xử. Pháp thân phải lớn lên mỗi ngày và buổi sáng là cơ hội để pháp thân có thể lớn mau. Khi ngồi thiền nửa giờ hay 45 phút ta phải ngồi như thế nào để pháp thân của mình lớn mạnh lên. Pháp thân có thể chế tác hỷ và lạc trong khi ngồi, trong khi thở.

Pháp thân cũng được nuôi bằng những sự thực tập khác như sự thực tập trong khi đi, ăn cơm, rửa bát hay làm việc. Nếu không được nuôi dưỡng và củng cố (consolidate, reinforce) thì pháp thân sẽ yếu đi. Pháp thân cũng cần phải có điều kiện để lớn. Khoa sinh học hiện nay thường dùng chữ điều kiện hóa (conditioning). Học và thực tập đều được hiểu theo nghĩa điều kiện hóa (operant conditioning), tức là ta phải chủ động làm cho nó lớn. Ví dụ như ta nghe tiếng chuông. Tiếng chuông là một cái gì xảy ra. Tiếng chuông không có nghĩa gì đối với những người không thực tập. Nó chỉ là một thứ tiếng động như những tiếng động khác. Nhưng đối với những người thực tập ở Làng Mai thì khi nghe tiếng chuông ta có phản xạ (reflex) ngay lập tức. Ta tự động ngưng suy nghĩ ngay mà không cần phải cố gắng im lặng ngay lập tức.

Lúc mới thực tập ta chưa làm được như vậy, có người nhắc thì ta mới im lặng, ngưng suy nghĩ và thở. Nhưng vì ở Làng Mai được hai, ba tuần nên ta có cơ hội để điều kiện hóa. Mọi người trong đại chúng đều làm như vậy. Đang ăn cơm mà nghe tiếng chuông đồng hồ thì mọi người đều ngưng lại và trở về với giây phút hiện tại để thấy mình đang có mặt, đang sống và thở nhẹ nhàng. Ban đầu ta cảm thấy hơi ngỡ ngàng, nhất là khi mới tới Làng Mai lần đầu. Nhưng rồi ta quen từ từ và sau bốn, năm ngày thì trở thành thói quen. Nghe tiếng chuông đồng hồ thì tự nhiên ta dừng lại mà không cần người nhắc nhở. Đó là điều kiện hóa.

Tiếng chuông hay hình ảnh của những người đang đi thiền hành là những điều kiện giúp ta trở với chính mình để thực tập. Khi đã trở thành thói quen thì ta chỉ tiếp tục thực tập mà không cần người nhắc nhở. Nếu ta không tiếp tục thực tập thì từ từ thói quen đó sẽ yếu đi và tới một lúc nào đó, khi nghe tiếng chuông ta không ngừng suy tư và vẫn còn nói chuyện. Thực tập đều đặn là một điều kiện, gọi là reinforcement, consolidation. Pháp thân muốn lớn lên thì phải cần được củng cố. Nếu xa tăng thân, ta ít có điều kiện để củng cố pháp thân của mình. Ba, bốn năm sau ta sẽ buông bỏ sự thực tập và pháp thân của ta càng ngày càng yếu.

Đến khi không có những điều kiện như tiếng chuông, tăng thân hay thời khóa, ta vẫn tiếp tục đi tới trong sự thực tập tại vì ta cần có hỷ, lạc và khả năng xử lý những niềm đau, nỗi khổ của mình. Ta vẫn quyết tâm thực tập dù không có ai khuyến khích hay nhắc nhở. Đó gọi là điều kiện hóa (operant conditioning). Ta tự làm lấy, tự củng cố sự thực tập của mình. Đó là nghĩa thứ hai của chữ pháp thân.

Những mầu nhiệm của hiện hữu

Sau này đạo Bụt đại thừa dùng chữ pháp thân trong ý nghĩa khác hơn. Pháp thân có nghĩa là những mầu nhiệm của hiện hữu, của vũ trụ, như: trúc tím, hoa vàng, trăng trong, mây bạc, chim hót, thông reo. Tất cả đều là những mầu nhiệm của pháp thân. Pháp thân biểu hiện ra thành những mầu nhiệm. Nhìn vào một chiếc lá, một đóa hoa, một đám mây, một dòng suối, nhìn vào con mắt hay não bộ thần kinh ta thấy tất cả đều là mầu nhiệm và tất cả đều đang thuyết pháp về vô thường, vô ngã, Tứ diệu đế và Bát chánh đạo. Nhìn bông hồng và lắng nghe ta thấy bông hồng đang thuyết pháp, vì vậy bông hồng là pháp thân. Nhìn và nghe một con chim đang hót, ta thấy con chim cũng đang thuyết pháp. Pháp thân của Bụt còn sống mãi, và Bụt chưa bao giờ ngưng thuyết pháp. Ý nghĩa cuối cùng của chữ pháp thân trong Đại thừa Phật giáo rất đẹp! Vì vậy cho nên các thiền sư đều trở thành thi sĩ, họa sĩ tại vì pháp thân là một nguồn cảm hứng cho thi ca. Trong Thiền chúng ta thấy những người tu đều trở thành nghệ sĩ, tại vì pháp thân biểu hiện cái đẹp của vạn hữu.

Pháp thân, trước hết là những lời dạy của Đức Thế Tôn (the teaching Dharma). Sau đó pháp thân có nghĩa là sự thực tập của chúng ta (the practice Dharma). Và cuối cùng, chữ pháp thân có nghĩa là những mầu nhiệm của vũ trụ đang thuyết pháp cho ta nghe. Nếu có lỗ tai ta có thể tiếp tục nghe Đức Thế Tôn thuyết pháp qua một bông hồng, một dòng suối.

Tóm lại, sự thực tập của ta là làm thế nào để ít nhất có thể chế tác được hỷ, lạc và an. Ta chế tác hỷ, lạc và an cho mình rồi mới có thể giúp cho người kia cũng làm được như vậy. Làm chưa được thì ta không thể giúp cho người khác. Một tăng thân gồm những người có khả năng chế tác hỷ, lạc và an thì có thể giúp được rất nhiều người. Đó là vốn liếng của một tăng thân, vốn liếng đó là lượng hỷ, lạc và an trong tăng thân. Ta đánh giá một gia đình bằng phẩm chất an, lạc và hỷ trong gia đình đó. Một gia đình có hạnh phúc thì những đứa con lớn lên trong gia đình sẽ có hạnh phúc. Trong một lớp học hay trong một đoàn thể như quốc hội, hội đồng tỉnh hay trong một nhà thương, một xí nghiệp cũng vậy. Nếu có hỷ, lạc và an thì gia đình đó, tổ chức đó, cộng đồng đó có thể giúp được cho đời. Trước hết chúng ta phải học như thế nào để pháp thân của ta có thể chế tác được hỷ, lạc và an cho mình. Rồi ta mới bắt đầu giúp cho những người trong gia đình và những người thân cận trước khi ta có thể giúp được cho xã hội.

 

Nghệ thuật xây dựng hạnh phúc

Pháp thân phải có khả năng xử lý những khổ đau, trước hết là những cảm thọ đau buồn (khổ thọ). Ta tới Làng Mai để học làm chuyện đó. Nếu giỏi ta có thể học được rất nhiều trong một ngày, không phải chỉ học trong bài pháp thoại mà còn phải học trong sự thực tập. Mỗi bước chân, mỗi hơi thở đều có thể chế tác hỷ, lạc và an. Không chỉ trong mùa xuân pháp thân của ta lớn nhanh mà trong mùa đông, nếu có chí thì pháp thân của ta cũng lớn rất mau. Mỗi ngày pháp thân ta đều lớn lên. Người Pháp có câu: “Silence, ça pousse!" (Im lặng đi, nó đang lớn lên).

Trong kinh dạy cho chúng ta phương pháp chế tác hỷ, lạc và an. Là người tu chúng ta phải chế tác được hỷ , lạc và an . Không chế tác được thì ta chưa phải là người tu, ta chưa có pháp thân mạnh. Kỹ thuật, cách luyện tập để chế tác hỷ, lạc trong kinh đã dạy rất rõ. Trước hết là:

Ly sinh hỷ lạc

Buông bỏ, chữ Hán là ly . Buông bỏ có khả năng đem lại hỷ, lạc và an.

Ly sinh hỷ lạc . Hỷ là niềm vui (joy), lạc là hạnh phúc (happiness). Hỷ và lạc có thể được sinh ra bởi sự buông bỏ (By the practice of letting go you can create joy and happiness). Ly sinh hỷ lạc, câu này xuất hiện rất nhiều trong các kinh Phật giáo. Ta không có hỷ, lạc tại vì ta chưa có khả năng buông bỏ. Ta đang ghì chặt, ta nghĩ không có cái đó thì ta sẽ chết. Ví dụ ta đang ở thành phố Los Angeles, ta quá bận rộn. Thành phố vừa ồn vừa bụi, ta muốn có hai ngày cuối tuần ra khỏi thành phố đi về miền quê. Ta đang ở Frankfurt, ta muốn về Làng Mai nhưng nói hoài mà ta không đi được vì ta không có khả năng buông bỏ. Cũng như nhiều người không bỏ được Paris, dù họ biết rằng ở Paris rất ồn ào, bụi bặm và ít khi thấy được ánh trăng hay các ngôi sao. Hôm đó một người bạn tới nói:

– Thôi, ngày mai chiều thứ sáu mình đi về Làng Mai đi. Tôi có xe hơi, tôi sẽ chở anh đi.

Người đó thuyết phục rất hay và ta chịu đi. Xe chạy độ 45 phút là ra khỏi Paris. Ta bắt đầu thấy miền quê, cảnh vật rất xanh và tươi mát. Ta có niềm vui lâng lâng, niềm vui đó có được là nhờ ta bỏ lại Paris phía sau lưng. Đó gọi là ly sinh hỷ. Ta tới Làng Mai và ngồi được ở đây là nhờ ta buông bỏ được cuộc sống của ta ở Paris. Có nhiều người vùng vẫy năm này sang năm khác cũng không tới được Làng Mai. Ta tới được Làng Mai có nghĩa là ta có khả năng buông bỏ. Nhưng ta phải buông bỏ cái gì? Đó là vấn đề. Ta phải lấy một tờ giấy và ngồi viết xuống những gì ta có thể buông bỏ được. Ta bị kẹt vào rất nhiều thứ và sở dĩ ta không có niềm vui và hạnh phúc là vì ta chưa buông bỏ được những thứ đó.

Trước hết là ý niệm của ta về hạnh phúc. Mỗi người chúng ta đều có một ý niệm về hạnh phúc. Chúng ta nghĩ phải có cái đó hoặc phải loại trừ cái kia thì mới có hạnh phúc. Ta nghĩ phải có cái nhà đó, cái xe đó, phải có người đó sống với mình thì mới có hạnh phúc. Ta đặt ra những điều kiện, những quan niệm về hạnh phúc của mình. Những người theo đảng cộng sản nghĩ chỉ có chủ nghĩa Mác-xít mới đem lại hạnh phúc cho mình và cho dân. Những người theo tư bản chủ nghĩa thì nghĩ chỉ có kinh tế thị trường mới đem lại hạnh phúc. Chúng ta có một ý niệm về hạnh phúc mà ta không buông bỏ được. Vì vậy ta phải ngồi xuống để xét lại ý niệm về hạnh phúc của mình. Có thể lâu này ta chưa có hạnh phục là vì ta chưa buông bỏ được ý niệm về hạnh phúc đó. Letting go ist the source of happiness. Trong Kinh có ví dụ thả bò: Hôm đó Đức Thế Tôn ngồi với các thầy trong một khu rừng. Sau khi đi khất thực về, thầy trò sắp sửa ăn cơm trong chánh niệm thì một bác nông dân đi ngang qua. Bác hớt hơ hớt hải hỏi:

–  Các thầy ơi, các thầy có thấy mấy con bò của tôi đi qua đây không? Không biết tại sao sáng nay mấy con bò của tôi chạy đi đâu mất hết! Không có mấy con bò thì làm sao tôi sống được? Chắc là tôi phải chết quá!

Thấy Bụt lắng nghe, bác than phiền thêm:

–  Tôi có mấy sào đất trồng hột mè, nhưng không biết tại sao năm nay lại bị sâu ăn hết, không gặt hái được gì. Như vậy thì làm sao tôi sống được? Chắc là tôi tự tử quá!

Đức Thế Tôn nói:

–  Bác ơi, tôi ngồi đây đã hơn nửa giờ mà chưa thấy con bò nào đi ngang qua. Chắc bác phải đi tìm phía bên kia.

Sau khi bác nông dân đi rồi, Bụt quay lại nhìn các thầy mỉm cười và nói:

–  Mấy thầy ơi, mấy thầy hên quá, mấy thầy đâu có bò đâu mà sợ mất.

Mục đích của câu chuyện là: Nếu có bò thì phải thả đi. Ý niệm về hạnh phúc là một con bò. Chính vì ý niệm đó mà ta chưa bao giờ có hạnh phúc (Your idea about happiness may be the main obstacle to your happiness). Liên bang Xô viết (the Soviet Union) cứ tin rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đem lại sự cường thịnh của đất nước, và ngoài chủ nghĩa Marx-Lenin ra thì không có con đường nào đưa tới hạnh phúc cho nước Nga. Họ đã bị kẹt vào vào ý niệm đó trong 70 năm. Nếu người công dân nào chống đối lại ý niệm đó thì bị bỏ  tù. Họ đã gây ra khổ đau rất nhiều. Chủ thuyết đó là một trong những con bò mà họ chưa thả được.

Tu là phải có thì giờ ngồi xuống, lấy giấy viết ra tất cả tên của những con bò mà ta chưa thả được, trong đó có ý niệm về hạnh phúc của mình. Ta cứ vướng víu, khổ đau, chật vật, bức xúc với chúng. Ta không có khả năng buông bỏ chúng ra. Ta ngồi xuống, hồi tưởng và viết ra trên một tờ giấy tên của những con bò. Có khi một trang giấy cũng chưa đủ vì ta có quá nhiều bò. Sự thật là thả được một con bò thì ta nhẹ đi rất nhiều, thả được hai con thì ta nhẹ đi thêm nữa. Thả hết những con bò thì ta sẽ có rất nhiều hạnh phúc.

Trong thời của Đức Thế Tôn, ông thống đốc của một tiểu bang đi xuất gia. Một đêm ngồi thiền ông cảm thấy hạnh phúc quá tại vì ông đã thả hết những con bò của mình. Ông hứng chí nói lên: “Ôi hạnh phúc! Ôi hạnh phúc!" (Oh, my happiness!) Một thầy khác ngồi cách đó vài thước có tri giác sai lầm, nghĩ rằng ông thầy này chắc tiếc thời kỳ làm thống đốc, tại vì làm thống đốc thì có quân đội, có tiền nhiều, có kẻ hầu người hạ. Thầy ra mách lại với Đức Thế Tôn:

– Bạch Đức Thế Tôn, hồi hôm ngồi thiền con nghe sư anh đó la lên hai lần trong khi ngồi thiền: Ôi, hạnh phúc của ta! Ôi, hạnh phúc của ta! Con không biết tâm lý sư anh ra sao? Chắc là sư anh hối tiếc.

Bụt biết thầy này có tri giác sai lầm nhưng Ngài cứ gọi thầy Badya và một số các thầy tới. Bụt hỏi:

– Này thầy Badya, có phải tối hôm qua trong giờ ngồi thiền thầy đã thốt ra hai câu: “Ôi, hạnh phúc của ta"  không?

– Dạ! Bạch Đức Thế Tôn, có. Đêm qua trong khi ngồi thiền con có thốt hai lần câu đó.

– Tại sao thầy làm như vậy, thầy nói cho chúng tôi nghe đi!

Thầy Badya nói:

– Bạch Đức Thế Tôn, hồi còn làm thống đốc con có đủ hết, có lính gác, có chức tước, có người hầu hạ, có châu báu, tiền bạc rất nhiều, nhưng con luôn luôn sống trong sợ hãi. Con sợ người ta lén vào giết con để lấy những thứ đó. Con thật sự không có hạnh phúc. Bây giờ đi xuất gia con buông bỏ hết. Ngồi thiền con thấy rất rõ là mình có tự do rất lớn, mình có sự vô úy, mình không còn sợ ai tới giết mình. Trong trạng thái hạnh phúc, có nhiều tự do đó con chịu không nổi nên đã thốt ra hai lần câu: “Ôi, hạnh phúc của ta".

Bây giờ các thầy khác mới hiểu hạnh phúc của thầy Badya không phải là gom góp, tích lũy thêm tiền bạc, của cải, danh vọng, mà là buông bỏ. Trong kinh có nói: Buông bỏ là phương pháp đầu tiên để tạo dựng hỷ, lạc và an.

Quý vị có thể hỏi: “Tôi cũng muốn buông bỏ, nhưng bây giờ tôi phải buông bỏ cái gì đây?" Chúng ta phải nhận diện những con bò của mình rồi mới thả chúng được. Vì vậy chúng ta phải viết xuống tên của những con bò mà lâu nay ta không có can đảm để buông bỏ. Buông được một con thì hạnh phúc tăng lên mấy mươi phần trăm. Đó là phương pháp đầu tiên: Ly sinh hỷ, ly sinh lạc, ly sinh an. Thầy Badya có rất nhiều an nên thầy có nhiều hỷ và lạc.

Khi sư chú hay sư cô đi xuất gia thì có người bảo là sư chú hay sư cô dại dột. Nhưng thật ra thì sư chú hay sư cô rất khôn, tại vì mình buông bỏ hết để được cái quý nhất là an, lạc và hỷ. Mình nhẹ lâng lâng, không còn sị hãi hay lo lắng gì nữa.

Định sinh hỷ lạc

Trong Kinh cũng nói tới những phương pháp khác như: Định sinh hỷ lạc . Khi có thiền định (meditation) thì ta có rất nhiều an, hỷ và lạc. Trong thiền định có niệm, định tuệ. Với ba loại năng lượng đó ta có thể chế tác ra an, hỷ và lạc. Với niệm, định và tuệ ta chế tác ra an, nghĩa là buông bỏ những căng thẳng, làm giảm thiểu những đau nhức trong hình hài của mình. Nếu biết cách thở trong chánh niệm, đi trong chánh niệm, ngồi trong chánh niệm, làm việc trong chánh niệm thì ta buông bỏ được nhiều sự căng thẳng trong thân và trong tâm, ta buông bỏ được sự căng thẳng trong cảm thọ hay trong cảm xúc. Ta chế tác được hỷ và lạc là nhờ định. Thiền định cũng làm phát sinh ra an, hỷ và lạc. Đây là một nghệ thuật (art of meditation).

Trong thiền môn, người ta nói: Niềm vui của thiền định là thức ăn (The joy of meditation as daily food). Thiền duyệt vi thực . Chữ duyệt giống như chữ hỷ, niềm vui của thiền định là thức ăn hàng ngày của người tu. Ta nuôi ta bằng hỷ, lạc và an mà không phải bằng danh vọng, quyền hành và sắc dục. Nếu có pháp thân (the practice) vững thì ta có thể nuôi được mình. Nuôi được mình rồi thì ta có thể nuôi được những người thương của mình.

Niệm sinh hỷ lạc

Trong định có niệm , và tại Làng Mai chúng ta học rất rõ niệm là một yếu tố để làm phát sinh ra an, hỷ và lạc (Mindfulness is the source of joy, happiness and peace). Đó không phải là lời nói suông. Biết chế tác ra năng lượng chánh niệm thì ta chế tác hỷ, lạc rất dễ. Ví dụ như tôi đứng trên bục giảng và làm những động tác chánh niệm. Tôi làm không phải để có sức khỏe mà là để có hỷ và lạc trong khi làm. Những động tác chánh niệm không phải là những phương tiện để đi tới cứu cánh là có thêm sức khỏe mà nó chính là cứu cánh. Tôi thấy có hỷ, lạc và an ngay trong khi làm. Ở Làng Mai, chúng ta phải học làm như vậy. Ngồi thiền, đi thiền, tụng kinh không phải là để có an lạc mà ngồi thiền, đi thiền, tụng kinh chính là an lạc. Đó là do niệm mà ra.

Khi tôi đứng và đưa tay lên, tôi không phải chỉ đưa tay lên thôi mà tôi còn đưa niệm của tôi lên. Tôi thấy rất rõ là nhiều thầy cùng một thế hệ với tôi đã chết rồi và vài vị đang còn sống nhưng ngồi xe lăn. Tôi thì còn làm được những động tác này nên trong khi làm tôi hạnh phúc vô cùng. Đó là niệm, niệm là nhớ, là so sánh. Niệm sinh hỷ lạc . Thầy Minh Châu, thầy đã phiên dịch tạng Pali ra tiếng Việt, bây giờ thầy không còn nữa. Hòa thượng Thanh Từ, bạn thân của tôi, bây giờ đi phải có hai người đỡ hai bên. Tôi thì vẫn còn đi được một mình nên mỗi bước chân của tôi đều có hạnh phúc. Muốn thở có hạnh phúc thì tôi chỉ cần niệm rằng: Có một năm nào đó tôi bị bệnh phổi, con vi khuẩn Pseudomonas aerogina làm phổi ra máu. Tôi thở không có hạnh phúc. Nhưng sau khi điều trị và phổi lành rồi thì tôi thở hay hơn. Mỗi khi muốn thở ngon tôi chỉ cần nhớ lại thời gian bị nhiễm trùng phổi thì tự nhiên tôi thấy hơi thở vào cũng ngon mà hơi thở ra cũng ngon. Chỉ cần có niệm thì muốn có hỷ, lạc là ta có hỷ, lạc ngay. Những người trẻ có hai chân rất khỏe, có thể đi, nhảy hay trèo được mà không có hạnh phúc thì rất uổng. Đợi tới khi già không nhảy, không trèo được nữa thì mới tiếc. Đó là do niệm. Niệm là nhớ rằng ta đang có tuổi trẻ, ta đang có hai mắt sáng, ta đang có buồng phổi tốt, có hai chân khỏe và ta có thể sử dụng được hai chân, hai mắt, hai buồng phổi của mình. Nếu ta không có hạnh phúc thì đó là tại vì ta không có niệm. Có niệm thì với hai mắt còn sáng đó, hai buồng phổi còn tốt đó, hai chân còn khỏe đó ta có thể có hỷ, lạc và an suốt ngày. Tùy ở chúng ta mà thôi. Ta phải tự nhắc mình và những người cùng tu có thể nhắc cho ta để ta có thể phát khởi niệm. Có niệm là có an, có lạc, có hỷ.

Ly đưa tới an, hỷ và lạc. Thiền định đưa tới an, hỷ và lạc và chánh niệm cũng đưa tới an, hỷ và lạc.

Tuệ sinh hỷ lạc

Tuệ cũng đưa tới an, lạc và hỷ. Tuệ sinh hỷ lạc . Người nào trong chúng ta cũng đã có những cái thấy (insight). Ta biết chuyện đó không đáng để cho ta đeo đuổi, quan tâm và bị cuốn vào đó. Ta thông minh và có đủ tuệ giác, ta biết cái đó không quan trọng, không đáng để ta quan tâm và làm cho ta mất thì giờ tranh đấu. Cho dù như vậy  nhưng ta vẫn quan tâm, vẫn tranh đấu, vẫn làm mất thì giờ vì ta không sử dụng cái tuệ mà ta có. Chúng ta, không ai là không có tuệ nhưng ta không biết sử dụng tuệ. Có tuệ thì ta buông bỏ rất dễ. Ta biết đa mang là khổ nhưng ta vẫn vướng vào như thường. Khi con cá biết được trong con mồi kia có sẵn một lưỡi câu thì nó có tuệ. Có tuệ thì con cá sẽ không cắn vào miếng mồi, tại vì nó biết nếu cắn vào thì nó sẽ bị lưỡi câu móc vào cổ họng và nó sẽ chết. Chúng ta có tuệ nhưng không chịu sử dụng tuệ, ta cứ để lưỡi câu móc vào cổ họng. Ta hành xử một cách dại dột, ta để mình vướng mắc vào một hoàn cảnh không đáng tại vì ta không biết sử dụng tuệ của mình. Chúng ta, ai cũng có tuệ, có nhiều hay có ít. Càng tu, càng có niệm và định thì tuệ càng lớn. Có định và tuệ mà không biết dùng thì ta bị kẹt vào những tình huống khó khăn, lầy lội. Vì vậy chúng ta phải biết sử dụng những yếu tố chúng ta có tức bốn yếu tố buông bỏ, thiền định, chánh niệm và trí tuệ để chế tác an, lạc và hỷ.

Nghệ thuật xử lý khổ đau

Trong Kinh dạy rất rõ, mỗi ngày chúng ta phải học theo lối điều kiện hóa (conditioning). Được nhắc nhở hay không được nhắc nhở chúng ta cũng phải làm cho được. Chế tác được hỷ, lạc và an bằng bốn yếu tố buông bỏ, thiền định, chánh niệm và trí tuệ thì ta cũng có khả năng xử lý được những nỗi khổ, niềm đau. Những nỗi khổ, niềm đau đó không quá lớn, nhưng vì ta không biết xử lý nên chúng trở thành lớn. Phương pháp ta học được trong Kinh là khi có nỗi khổ, niềm đau thì ta phải xử lý ngay. Nhưng đa số chúng ta trong xã hội lại tìm cách chạy trốn khi có nỗi khổ, niềm đau. Ta đi tiêu thụ để tìm quên lãng, ta mở ti vi ra xem, mở sách ra đọc, mở tủ lạnh tìm cái gì để ăn hoặc lên internet hay điện thoại cho một người bạn. Ta tìm đủ cách để đừng nhớ tới nỗi khổ niềm đau trong lòng. Đó là thái độ trốn chạy mà phần lớn những người trong xã hội đều làm theo. Vì vậy nỗi khổ, niềm đau đó chỉ bị khỏa lấp và nó tiếp tục ngày càng lớn lên cho đến khi nó bùng ra.

Trong Kinh Bụt đã dạy rất rõ là ta có thể xử lý được nỗi khổ, niềm đau nhờ bốn yếu tố buông bỏ, thiền định, chánh niệm và trí tuệ.

Nhận diện và ôm ấp khổ đau

Khổ đau là một sự thật và chánh niệm, chánh định, trí tuệ là một năng lượng khác. Ta dùng năng lượng niệm-định-tuệ để nhận diện và ôm ấp nỗi khổ niềm đau thì ta có thể làm cho nó dịu xuống. Cũng giống như một bà mẹ ôm lấy em bé một cách rất trìu mến, thân thương thì em bé sẽ bớt khổ. Nhận diện và ôm lấy nỗi khổ, niềm đau của mình bằng chánh niệm và chánh định thì khổ đau sẽ giảm xuống. Đó là bước đầu.

Quán chiếu để chuyển hóa khổ đau

Bước thứ hai là quán chiếu để chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau đó thành một cái gì tích cực hơn, giống như sử dụng bùn để nuôi sen. Nỗi khổ, niềm đau cũng có ích lợi, nó cũng giống như bùn có khả năng nuôi sen.

Người thực tập biết xử lý nỗi khổ niềm đau thì khổ đau rất ít. Người không biết cách xử lý thì khổ đau sẽ rất lớn. Hai người ở trong cùng một tình trạng mà một người khổ rất nhiều còn một người thì ít đau khổ hơn tại vì người này biết cách khổ đau. Biết cách khổ đau là gì?

  • Đừng khuếch đại khổ đau (exagerer)

Ta đừng để mũi tên thứ hai tới xâm nhập. Bụt dạy khi một người bị trúng một mũi tên thì người đó rất đau nhức. Nhưng nếu có một mũi tên thứ hai cắm đúng vào vết thương thì sự đau nhức sẽ lớn hơn gấp 10 lần hay nhiều hơn nữa. Mũi tên thứ hai đó là sự bực bội, giận dữ, phản kháng hay sự tưởng tượng của mình. Khi có một sự đau nhức trong cơ thể hay trong tâm hồn, ta đừng nên làm cho nó lớn ra thêm bằng sự tưởng tượng, lo sợ. Nó chỉ là một đau nhức nho nhỏ thôi nhưng ta nghĩ là mình bị ung thư (cancer) và mình sắp chết tới nơi. Ta sợ và chính cái sợ đó làm cho sự đau nhức tăng lên gấp mười. Đó là mũi tên thứ hai. Ta phải bình tĩnh và nhận diện nó là nó mà đừng tưởng tượng nó là một cái gì lớn hơn. Nếu cần thì ta đi gặp bác sĩ hay một vị thầy chứ đừng giận dữ, lo sợ, phản kháng. Sự giận dữ, lo sợ, phản kháng đó làm cho niềm đau lớn hơn gấp 10 lần.

Đó là bước thứ nhất: Tránh mũi tên thứ hai.

  • Đừng chạy trốn khổ đau

Ta phải có mặt đó để nhận diện, xử lý và ôm ấp nỗi khổ, niềm đau. Nếu biết dùng ly, niệm, định và tuệ để nhận diện, ôm ấp nỗi khổ niềm đau thì ta khổ rất ít. Người khác khổ 95% còn ta chỉ khổ 5%, hoặc ít hơn nữa.

Đó gọi là nghệ thuật khổ đau. Nếu có pháp thân khá vững thì ta có thể xử lý khổ đau một cách dễ dàng. Ta còn có thể đi xa hơn nữa là sử dụng những khổ đau một cách có ích lợi. Với khổ đau ta có thể chế tác ra hiểu, thương và hạnh phúc; cũng như với bùn ta có thể chế tác ra hoa sen.

Miễn được lòng rồi, chẳng cần phép khác

Ăn cơm với nhau như một gia đình

Ở Làng Mai, trong thời khóa mỗi ngày chúng ta có cơ hội ngồi với nhau, như ngồi nghe pháp thoại, ngồi thiền, ngồi ăn cơm chung, v.v… Đó là văn hóa. Trong xã hội mới, một tiểu gia đình gồm có hai vợ chồng và một, hai hay ba đứa con. Nhưng bây giờ chúng ta bận rộn đến nỗi không có thì giờ để ngồi chung với nhau như một gia đình. Chúng ta không có cơ hội ăn cơm với nhau như một gia đình. Người ăn trước, người ăn sau cho tiện với thời khóa của từng người. Chúng ta đã đánh mất rất nhiều. Ngày xưa trong bữa cơm gia đình, không người nào được phép vắng mặt. Người không đói cũng phải ngồi chung, tại vì giờ ăn cơm là giờ linh thiêng. Bây giờ ta cho là mình văn minh hơn nhưng thật ra ta không văn minh hơn ngày xưa. Chúng ta không có thì giờ ngồi với nhau, ăn cơm với nhau. Ngày xưa gia đình ngồi với nhau rất nhiều. Những buổi tối trăng lên cả gia đình ra sân ngồi ngắm trăng bên bụi tre và nói chuyện với nhau. Có những hôm trăng sáng quá thì cả nhà ăn cơm dưới ánh trăng. Đó là văn minh.

Bây giờ ta có quá nhiều công việc nên ta không có thì giờ ngồi với nhau. Ta làm việc quá nhiều để có nhiều tiền lương hơn, nhưng thật ra chúng ta không hạnh phúc bằng ngày xưa. Trong tương lai, nếu muốn hướng tới hạnh phúc thì ta phải tổ chức lại nếp sống gia đình để trong một ngày gia đình có cơ hội ngồi chơi với nhau. Và bữa cơm là một cơ hội rất quan trọng. Mọi người đều có mặt trong bữa cơm. Trước khi ăn chúng ta nhìn nhau và thở để thấy người thương của mình đang còn sống. Điều này không khó, nhưng nó đã trở nên rất khó tại vì tổ chức xã hội đã thay đổi. Vì vậy trong một trung tâm tu tập như Làng Mai, chúng ta đã cố giữ lại những giá trị đó, giá trị của một gia đình. Mỗi ngày chúng ta có giờ để ngồi với nhau mà không cần nói. Chúng ta ngồi yên lặng với nhau, ít nhất là trong giờ ngồi thiền. Mỗi ngày chúng ta có cơ hội đi với nhau. Mấy trăm người đi với nhau mà không cần nói, đi từng bước thảnh thơi lên đồi. Đó gọi là văn minh. Chúng ta thấy và trân quí sự có mặt của nhau. Tất cả mọi người đều có mặt trong bữa ăn. Dù không đói nhưng ta vẫn có mặt, đó là cơ hội để chúng ta thấy mặt nhau, ta có mặt cho nhau.

Ở Làng Mai, trước khi ăn cơm ta đọc lời quán nguyện: Chúng ta hãy ăn cơm như thế nào để có sự thảnh thơi, có tình huynh đệ và có hạnh phúc. Ăn cơm là một cơ hội để chế tác ra thảnh thơi, hạnh phúc và tình huynh đệ.

 

Chế tác sự thảnh thơi trong khi ăn cơm

Trong tiếng Việt có những danh từ tương đương với sự thảnh thơi như sự rỗi rảnh, sự rảnh rang. Rảnh rang có nghĩa là không bị bận rộn quá. Trong xã hội ngày nay hình như mọi người đều quá bận rộn, không có được sự thảnh thơi.

Chúng ta cũng có chữ nhàn , nhàn tức là không quá bận rộn. Chữ nhàn được làm bằng chữ môn tức là cái cửa (door) và chữ nguyệt tức là trăng. Nhìn ra cửa thì thấy có ánh trăng, chỉ những người người thảnh thơi không bận rộn mới thấy được ánh trăng ngoài cửa (Nguyệt lai môn hạ nhàn). Trong đạo Bụt có chữ vimukti tức là giải thoát, không bị ràng buộc. Mục đích chính của người tu là làm thế nào để không bị ràng buộc. Chúng ta tự ràng buộc lấy mình bằng những sợi dây hay là ta bị người khác ràng buộc. Bị ràng buộc thì ta không có tự do, không có sự thảnh thơi. Những sợi dây ràng buộc lớn là sự bận rộn, lo lắng (worry), giận hờn, ganh tị, sợ hãi, thèm khát, mặc cảm. Ta mặc cảm là mình hơn người, mình thua người, hay là mình bằng người. Nặng nhất là sợi dây si mê, tức không hiểu được, không thấy được. Ta có những cái thấy sai lầm về bản thân mình, về người kia và về thế giới. Những cái thấy sai lầm đó làm ta khổ rất nhiều. Vì vậy ta cần phải cắt đứt (đoạn) những sợi dây đó. Cắt đứt được những sợi dây ràng buộc thì ta có sự thảnh thơi tức sự giải thoát.

Trong tiếng Việt cổ có chữ rồi, sau này chữ rồi trở thành chữ rỗi. Ngày xưa vua Trần Nhân Tông đã nhường ngôi lại cho con để trở thành một ông thầy tu. Vua đi tìm sự thảnh thơi tại vì làm chính trị thì lo lắng rất nhiều. Đi tìm sự thảnh thơi không có nghĩa là không làm gì gì cả, mà là đi tìm một phương pháp tu học để cởi dần những sợi dây trói buộc mình. Tu không phải là để trốn đời. Vua Trần Nhân Tông sau khi đi tu vẫn còn làm hết sức mình để giúp nước. Vua con ngồi trên ngôi làm chính trị, còn vua cha thì đi xuất gia làm đạo đức. Vua đã để rất nhiều thì giờ đi chu du trong nước để gặp gỡ dân chúng, khuyên họ nên bỏ ác làm lành, giữ giới và ăn ở hòa thuận với nhau. Đó là sự dấn thân, là công việc lo về mặt đạo đức, luân lý cho dân. Vua Trần Nhân Tông, tuy ở trên núi Yên Tử nhưng không xa lánh cuộc đời. Vua làm thầy tu để có cơ hội cởi bỏ những sợi dây ràng buộc và giúp đời nhiều hơn. Trong một bài phú bằng chữ nôm “Cư trần lạc đạo“ (hồi đó đã có chữ nôm, phần lớn những sáng tác được viết bằng chữ Hán nhưng cũng có người từ đời Trần đã sử dụng chữ nôm), vua viết:

Miễn được lòng rồi, chẳng cần phép khác

"Lòng rồi" là "lòng rỗi", là sự thảnh thơi. Quan trọng nhất là sự thảnh thơi. Không có phép tu nào quan trọng hơn là phép tu để có được sự thảnh thơi. Mỗi người chúng ta, khi có cơ hội ngồi xuống thì nên nhìn xem mình bị sợi dây nào trói buộc. Ta phải nhận diện sợi dây đang trói buộc mình rồi ta mới bắt đầu cởi nó ra được. Ta không có hạnh phúc là tại vì ta đang bị ràng buộc. Giải thoát là cởi trói. Có khi ta đang bị sự giận hờn theo đuổi và không có giây phút nào mà ta có hạnh phúc. Sự giận hờn là một sợi dây. Học Phật pháp, ta có thể thấy được phương pháp tháo sợi dây giận hờn đó ra khỏi mình. Sợi dây giận hờn có thể trói ta suốt đời và suốt đời ta sẽ không có hạnh phúc nên ta phải tìm cách cắt tung sợi dây đó. Có người mang một mối thù suốt đời, những người đó không bao giờ có được tự do. Có người mang sợi dây thèm khát như thèm một chức vụ, một danh vọng hay một địa vị nào đó. Khi còn chạy theo một đối tượng của sự thèm khát thì ta còn bị sợi dây ràng buộc, ta không có khả năng có hạnh phúc. Cái đức lớn nhất của con người là có khả năng có hạnh phúc (the capacity to be happy). Chúng ta hãy tự hỏi là mình có khả năng có hạnh phúc hay không? Do I have the capacity to be happy? Nếu câu trả lời là không thì chúng ta phải hỏi:

– Tại sao tôi không có khả năng đó?

Câu trả lời sẽ là:

– Tại vì anh đang bị những sợi dây trói buộc.

Ví dụ mọi người đang đi thiền với nhau. Đi thiền là một cơ hội để chúng ta buông bỏ tất cả những lo lắng, những dự án của mình. Ta bước từng bước như thế nào để những bước chân đem lại hỷ và lạc. Trên phương diện lý trí, chúng ta biết mỗi bước chân thảnh thơi có chánh niệm có thể giúp cho ta tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống trong giây phút hiện tại. Những mầu nhiệm của sự sống có khả năng nuôi dưỡng và trị liệu cho ta.

Mỗi bước chân là nuôi dưỡng

Mỗi bước chân là phép lạ

Mỗi bước chân là trị liệu

Mỗi bước chân là niềm vui

Có thân người, có được hai chân để đi dạo trên hành tinh này là một cơ hội rất lớn. Nếu có niệm và định thì mỗi bước chân đem lại cho ta nhiều hỷ và lạc.

Nhưng trong khi đi chung với nhau thì tại sao những người khác chế tác được hỷ và lạc trong từng bước chân còn ta thì không thể. Câu trả lời là tại vì ta đang bị một sợi dây nào đó trói buộc, ta không có thảnh thơi, ta không có giải thoát. Trong khi những người khác thưởng thức được những bước chân của họ thì ta đi như một cái máy. Ta chỉ đi hình thức, thiền đi của ta không có nội dung, không nuôi dưỡng được ta, không tạo được cho ta hạnh phúc. Chúng ta phải ngồi xuống và tự hỏi là ta đang bị sợi dây nào trói buộc và ta phải tìm cách gỡ sợi dây đó ra. Với ý chí thôi chưa đủ, ta phải cần có thông minh mới có thể cởi trói được. Ta phải có sự thức tỉnh, không có lẽ ta cứ bị sợi dây giận hờn, hận thù, thèm khát này trói mãi sao? Đời sống có bao lâu mà mỗi ngày ta không có khả năng tạo dựng hạnh phúc? Đi không có hạnh phúc, ngồi không có hạnh phúc, ăn cơm ta cũng không có hạnh phúc. Cái đó có đáng để ta theo đuổi hay không? Khi có cái thấy (tuệ giác) thì ta có thể buông bỏ và cởi trói được. Ta thấy mình đang dại dột làm uổng phí cuộc đời của mình. Khi có cái thấy sáng thì ta có thể buông ra được. Quan trọng nhất là sự thảnh thơi của mình, không có sự thảnh thơi thì không có gì hết.

Trong nền văn mình hiện đại rất ít người có được sự thảnh thơi, người nào cũng bận rộn. Có những người rất giàu, họ có hàng chục, hàng trăm triệu dollars trong trương mục nhưng họ không có thảnh thơi hạnh phúc. Có những người có danh thật lớn, có thật nhiều quyền lực nhưng họ không hạnh phúc tại vì họ không có sự thảnh thơi. Vua Trần Nhân Tông nói rất đúng: Miễn được lòng rỗi, chẳng cần phép khác.

Trước khi ăn cơm chúng ta đọc: Xin đại chúng ăn cơm như thế nào để có sự thảnh thơi. Đó là sự thực tập. Ngồi ăn cơm mà ta cứ để những sợi dây ràng buộc thì ngồi với huynh đệ, với chúng cũng bằng như là không ngồi. Ta bị bắt buộc phải vô ngồi nhưng ta ngồi không có hạnh phúc. Trong khi đó thì có người ăn mà trong mỗi hơi thở, mỗi miếng cơm họ đều có hạnh phúc. Ta không có hạnh phúc tại vì ta không có sự thảnh thơi, vì vậy sự thảnh thơi là quan trọng nhất. Ta phải tranh đấu để có được sự thảnh thơi.

Chế tác tình huynh đệ trong khi ăn cơm

Tình huynh đệ nuôi dưỡng chúng ta. Giữa hai vợ chồng phải có tình huynh đệ. Trong văn hóa Việt Nam người vợ gọi chồng mình là anh (my brother) và người chồng gọi vợ mình là em (my sister). Vợ chồng là một cặp huynh đệ (une fraternité amoureuse). Giữa cha con với nhau cũng phải có tình huynh đệ. Người kia là con trai mình nhưng cũng là người anh em, là đồng chí của mình. Có những cặp cha con chơi với nhau như hai anh em và những cặp mẹ con chơi với nhau như hai chị em. Thầy trò cũng là một cặp huynh đệ. Đệ tử tiếp nối thầy, chia sẻ, muốn thực hiện những giấc mơ của thầy thì giữa thầy và đệ tử có tình huynh đệ. Chữ đệ tử có nghĩa là vừa là con, vừa là em (đệ là em, tử là con). Ta là một sư anh thì sư em cũng là đệ tử của mình. Chăm sóc cho em tức là chăm sóc cho con mình. Không có tình huynh đệ thì không có gì hết. Có tình huynh đệ thì ta được nuôi dưỡng, ta có hạnh phúc. Với hạnh phúc đó ta có thể tổ chức và hướng dẫn cho những người khác tu tập để họ cũng được hạnh phúc. Mục đích chính của một trung tâm tu học là sống với nhau như thế nào để chế tác được sự thảnh thơi và tình huynh đệ.

Tình huynh đệ là vốn liếng của chúng ta. Không có tình huynh đệ thì ta không có đủ vốn để đầu tư vào sự nghiệp. Chúng ta ở với nhau như anh chị em. Mỗi ngày ta phải chế tác tình huynh đệ, vốn của ta càng lớn thì ta làm ăn càng lời tức là giúp được rất nhiều người trong thế gian. Trong khi chúng ta tổ chức một khóa tu 1300 người mà có tình huynh đệ thì tình huynh đệ đó sẽ chuyển hóa được tâm thức của người đến tu. Họ tiếp xúc với chúng ta và có chuyển hóa, không phải vì ta nói pháp thoại thao thao bất tuyệt mà chính vì trong khi đi, đứng, nằm, ngồi và tiếp xử chúng ta tỏa chiếu sự thảnh thơi và tình huynh đệ.

Tại Làng Mai, các thầy, các sư cô và các vị cư sĩ thường trú không có lương tiền nhưng họ có tình huynh đệ. Và họ được nuôi dưỡng bằng tình huynh đệ đó. Tình huynh đệ càng lớn thì sự nghiệp độ đời càng lớn. Vì vậy để đầu tư cho tương lai chúng ta phải có sự thảnh thơi và tình huynh đệ thì mới thành công.

Chế tác hạnh phúc trong khi ăn cơm

Trong mỗi bữa cơm chúng ta mở đầu trước khi đọc năm quán: Xin đại chúng ăn cơm như thế nào để có được sự thảnh thơi, có tình huynh đệ và có được niềm vui trong khi ăn. Như vậy trong bữa cơm chúng ta được nuôi dưỡng. Ta được nuôi dưỡng không chỉ bằng thức ăn (đoạn thực) mà còn bằng ba loại năng lượng đó. Ta ngồi ăn cơm như thế nào để có sự thảnh thơi. Ở ngoài đời bây giờ người ăn cơm không thảnh thơi, người ta ăn mau cho xong để đi làm chuyện khác. Trong khi đó chúng ta ăn càng chậm càng tốt, tại vì ăn chậm thì chúng ta có nhiều thì giờ ngồi với nhau hơn. Ở Pháp người ta quảng cáo một loại yogourt như thế này: Mange doucement pour que ça dure longtemps. Ăn chậm để cho lâu hết, ăn từng muỗng và ngậm mà nghe.

Tình huynh đệ trong khi ngồi ăn cũng vậy. Ta ý thức được có anh chị em, những người cùng một tâm chí đang ngồi với ta. Chúng ta đã chọn làm anh chị em với nhau và cùng đi trên một con đường. Ta được nuôi dưỡng không những bởi thức ăn mà ta còn được nuôi dưỡng bằng tình huynh đệ. Ta ăn thong thả và thấy rằng: Tu là ăn cơm, ăn cơm là tu. Ăn cơm như thế nào để có thảnh thơi, đó là một bí quyết. Anh cũng lấy cơm và vào ngồi với chúng tôi, nhưng không biết anh có thảnh thơi hay không? Hay là anh đang suy nghĩ chuyện này chuyện nọ, anh đang giận hờn? Anh không ăn cơm, anh chỉ ăn những đau buồn, giận hờn của anh mà thôi. Ăn như vậy không có ích lợi gì cho sức khỏe của anh. Thay vì ăn cơm, ăn sự thảnh thơi, tình huynh đệ và hạnh phúc thì anh ăn sự giận hờn, lo lắng. Anh chỉ thực tập hình thức.

Bữa cơm là một sự thách thức, ăn cơm như thế nào để trong 40 phút đó ta có sự thảnh thơi, có tình huynh đệ và có hạnh phúc. Trưa hôm nay chúng ta sẽ ăn cơm ở đây và chúng ta hãy thách thức xem mình có ăn cơm được như vậy hay không? Đó là sự thực tập. Nếu trong khi ăn cơm mà ta có được sự thảnh thơi, có tình huynh đệ và có hạnh phúc thì chúng ta cũng đi thiền được như vậy, và đến khi rửa bát hay chấp tác thì ta cũng làm được như vậy. Có hạnh phúc rồi thì ta mới giúp được cho người khác có hạnh phúc. Nếu không thì ta có gì để cho người kia?

Thực tập như một cơ thể

Nếu chú ý thì quí vị thấy trước khi quí thầy, quí sư cô tụng kinh chúng ta đọc bài quán niệm: Xin đại chúng hãy cùng nhau thở như một cơ thể. Trong khi thở chúng ta thấy sự có mặt của huynh đệ. Ta thở vào thì những người khác cũng đang thở vào, ta thở ra thì những người khác cũng đang thở ra. Thở vào, ta làm cho thân và tâm ta êm dịu xuống. Trong khi đó các huynh đệ cũng làm như ta:

Thở vào tâm tĩnh lặng

Thở ra miệng mỉm cười

Khi thực tập với tính cách của một cộng đồng thì chúng ta sẽ thấy tình huynh đệ thật rõ ràng. Nghe một tiếng chuông, tất cả đều ngưng sự suy nghĩ, sự nói năng và bắt đầu để ý tới hơi thở vào, làm cho tâm và thân lắng dịu xuống. Nếu có mấy trăm người cùng thở như vậy thì năng lượng tập thể của niệm và định trở nên rất hùng hậu. Đó gọi là đồng bộ (synchroniser). Đó là thức ăn, và ngồi trong đó chúng ta sẽ được chuyển hóa. Trong khi thở như vậy chúng ta tạo ra năng lượng tập thể của sự bình an. Chúng ta nuôi nhau bằng năng lượng tập thể đó. Trong khi thở ta nuôi anh, nuôi chị, nuôi em của mình. Tới đây để thực tập thì chúng ta trở thành anh chị em của nhau. Thở được một hơi có an, có lạc, có hỷ thì không những ta nuôi ta mà ta còn nuôi tất cả mọi người. Và nếu người kia đi được một bước chân có an lạc thì họ tự nuôi họ và họ cũng nuôi được ta. Thực tập như một đoàn thể là chúng ta nuôi nhau bằng năng lượng của niệm, định và tuệ, năng lượng đưa tới sự thảnh thơi, tình huynh đệ và hạnh phúc.

Xin đại chúng hãy thở như một cơ thể, xướng tụng như một cơ thể. Không còn cái ta nữa, chúng ta đi như một dòng sông mà không đi như những giọt nước. Khi hòa vào đại chúng và đi như một dòng sông thì những đau buồn của ta sẽ được năng lượng tập thể ôm ấp. Ta sẽ được nhẹ đi rất nhiều. Nếu ta hành xử như một giọt nước thì những đau buồn của ta vẫn còn y nguyên. Ngồi trong đại chúng, đi trong đại chúng, thở với đại chúng thì ta phải buông bỏ cái ngã của mình. Ta cùng thở với chúng như một cơ thể, ta phải xướng tụng với chúng như một cơ thể và ta phải nghe như một cơ thể. Khẩu hiệu của Làng Mai là: Đi như một dòng sông mà không đi như một giọt nước. Đi như một giọt nước thì ta giữ lấy cho riêng mình những khổ đau, những bức xúc. Nương vào tăng thân, để tăng thân ôm ấp, hướng dẫn thì ta có cơ hội được chuyển hóa nhờ năng lượng tập thể của niệm, định, tuệ, của sự thảnh thơi và sự bình an. Vì vậy trong truyền thống đạo Bụt, quy y Phật và quy y Pháp thôi chưa đủ mà chúng ta còn phải quy y Tăng. Tăng có năng lượng tập thể giúp cho ta chuyển hóa dễ dàng hơn. Muốn sự thực tập được lâu bền thì ta phải nương tựa vào một đoàn thể tu học. Nếu chưa có thì ta phải tìm cách tạo dựng ra một đoàn thể tu học ở địa phương của mình.

Quán chiếu trong khi nghe hô canh hay khi trong khi hát thiền ca

Trước khi ngồi thiền chúng ta có bài hô canh. Bài hô canh buổi chiều là:

Vững thân ngồi dưới cội bồ đề

Ba nghiệp lắng rồi hết thị phi

Vững thân ngồi dưới cội bồ đề có nghĩa là ta ngồi xuống đây giống như Đức Thích ca ngồi dưới cội bồ đề. Đây là một cơ hội, ta phải ngồi cho vững.

Ba nghiệp lắng rồi hết thị phi: Trong khi thở vào, thở ra, việc đầu tiên là ta phải làm lắng dịu ba nghiệp thân, khẩu và ý. Thân là hình hài này, ta làm nó lắng dịu lại. Ta im lặng, không nói năng và không suy nghĩ nữa. Ta không còn suy nghĩ “anh đúng tôi sai hay tôi đúng anh sai“ nữa. There is no longer any thought of right and wrong. Trong đời sống hàng ngày chúng ta bị cột bởi sợi dây “anh sai tôi đúng“, “anh đã gây ra cho tôi bao đau khổ, anh phải chịu trách nhiệm cho bao đau khổ đó còn tôi chỉ là nạn nhân mà thôi“. Khi ngồi thiền ta phải buông bỏ tư tưởng “đúng và sai, ai đúng ai sai, ai thị ai phi“. Khi ngồi thiền ta phải làm được chuyện này trong những hơi thở đầu tiên. Ta ngồi cho vững, làm thoải mái thân-khẩu-ý và chấm dứt tư tưởng “ai đúng ai sai“.

Thu nhiếp thân tâm vào chánh niệm

Rõ soi diện mục thoát bờ mê

Thân và tâm được đặt vào trong chánh niệm và ta có ánh sáng soi để biết mình từ đâu tới và sẽ đi về đâu, mình là ai. Do đó ta có thể rời bỏ bờ bên này, bờ của giận hờn, buồn tủi, lo lắng, sầu khổ để đi sang bờ bên kia, bờ của thảnh thơi, giác ngộ.

Bài hô canh buổi chiều cũng như bài hô canh buổi sáng là sự nhắc nhở. Khi nghe bài hô canh ta phải quán chiếu. Ta phải đem áp dụng ngay vào thân của mình. Ta phải để bài hô canh đi vào thân, đi vào hệ thần kinh của mình. Ta phải đưa những tuệ giác, những ước muốn đó đi vào trong cơ thể của mình.

Trước khi đi thiền chúng ta cũng đứng thành vòng và hát một vài bài. Những bài hát đó là để hướng dẫn ta đi thiền hành chứ ta không hát để mà chơi. Ví dụ như ta hát“Ta hạnh phúc liền giây phút này“ là để nhắc nhở ta bước như thế nào, ta thở như thế nào để mỗi bước chân là một huyền thoại, mỗi hơi thở là một truyền kỳ. Chúng ta làm được chuyện này và khi làm đã quen thì ta sẽ tạo ra những đường thần kinh mới (new neural pathway) dẫn ta đi tới hạnh phúc. Thay vì những con đường mòn suy tư cũ đưa tới giận hờn buồn tủi, ta vạch ra những con đường mòn mới đưa tới hạnh phúc. Đó là thói quen rất tốt. Cũng như thói quen nghe chuông, nghe tiếng chuông nhấp thì không cần phải cố gắng ta tự động ngưng suy nghĩ, ngưng nói năng và bắt đầu để ý tới hơi thở vào. Tại Làng Mai mọi người đều làm như vậy mà không cần phải cố gắng gì cả, nó đã trở thành ra con đường mòn của chánh niệm. Nghe một tiếng chuông thì tự nhiên ta ngưng suy nghĩ, ngưng nói năng và bắt đầu để ý tới hơi thở vào, ta thở vào và làm cho thân lắng dịu xuống. Đó là sự học hỏi của tàng thức. Tu là học cách nuôi mình, nuôi bằng sự thảnh thơi, bằng tình huynh đệ, bằng hạnh phúc trong khi đi, đứng, nằm, ngồi, rửa bát, ăn cơm. Nuôi được mình rồi thì ta có thể nuôi được người khác như huynh đệ mình, con mình, chồng mình, vợ mình, bằng hữu của mình.