Bói Kiều là tham khảo ý kiến cụ Nguyễn Du, ni sư Giác Duyên và đạo cô Tam Hợp về tình trạng hiện tại của mình và để biết cách tu tập, tiếp xử như thế nào cho có hạnh phúc và thành công trong năm tới. ‘Thác là thể phách, còn là tinh anh’, tuy hình hài cụ Tiên Điền không còn, nhưng tinh anh của thi hào vẫn còn mãi mãi trong ta, chung quanh ta và trong sức sống của dân tộc. BBT xin được trích đăng một số câu bói Kiều trong dịp Tết Giáp Ngọ tại Làng Mai.
Người nghệ sĩ ngoài đời sáng tác ra những bài thơ bản nhạc vì họ có những niềm đau nỗi nhớ trong lòng. Khi một bài thơ đẹp hay một bản nhạc hay của người nghệ sĩ được sáng tác ra thì sẽ có nhiều tâm hồn đồng cảm mượn nó để ru những niềm đau nỗi nhớ của mình. Ai mà không có những nỗi nhớ niềm đau? Cho nên người ta tiêu thụ thơ và nhạc nhiều lắm.
Trịnh Công Sơn từng viết nhiều bản tình ca rất hay, khiến cho bao người sử dụng để vỗ về niềm đau của họ. Nếu mình không thích nhạc Trịnh Công Sơn nghĩa là mình không có những nỗi nhớ niềm đau ấy trong lòng. Trịnh Công Sơn đã trải qua nhiều nỗi đau. Những mối tình của ông thường rất ngắn ngủi. Đối với Trịnh Công Sơn thì tình yêu vốn mong manh sương khói và dễ chết yểu, trong khi đó thì tình bạn lại bền vững, đem đến cho mình niềm vui và sức khỏe. Niềm vui của Trịnh Công Sơn là được ngồi hát cùng bạn bè. Cái mà ông được thừa hưởng trong cuộc đời chính là tình bạn. Trịnh Công Sơn cũng từng có cơ hội được gần gũi với các vị xuất gia, từng được nghe kinh nên thỉnh thoảng trong nhạc Trịnh có phảng phất âm hưởng của tiếng kinh.
Thời bấy giờ, người thanh niên Việt Nam có những thao thức mà không nói lên được. Đó là ước muốn chấm dứt cuộc chiến tranh vô nghĩa mà trong đó người Việt phải buộc lòng giết nhau bằng ý thức hệ và vũ khí nước ngoài. Trong số những người thanh niên ấy có Trịnh Công Sơn. Thỉnh thoảng Trịnh Công Sơn cũng nói ra được một vài điều, do đó có khi nhạc của ông được gọi là “nhạc phản chiến”.
Những bài nhạc nổi tiếng thời tiền chiến như bài “Bến xuân” của Văn Cao, cũng là để ru những nỗi nhớ niềm đau của mình. Trong bài “Bến xuân”, Văn Cao tưởng tượng mình có một ngôi nhà bên bờ suối và có người yêu đến thăm mình. Chuyện này chưa từng xảy ra. Ao ước trong đời thực không được thỏa mãn nên nhạc sĩ phải đưa nó vào thi ca. Khi bài hát này ra đời, có rất nhiều người sử dụng để ru những ước vọng của mình. Người thanh niên nào lớn lên mà không khao khát yêu thương và được yêu thương? Nhưng người có hạnh phúc trong tình yêu thì ít mà người gặp khổ đau trong tình yêu thì lại rất nhiều, tại vì cả mình và người kia đều chưa biết cách yêu thương.
Hãy nghe bài thơ sau đây của nhà thơ Đàm Thị Lam Luyến:
Nếu ta gửi tình yêu vào một nơi chân thật
Thì tình yêu của ta sẽ thành hương thành mật
Gửi tình yêu vào đất được hoa trái đầy cành
Gửi lên trời cao rộng sẽ được ngọn gió xanh
Ta trao cả cho anh một tình yêu cháy bỏng
Như một cánh buồm xinh hiến mình cho biển rộng
Ta đã gửi cho anh cả con tim dào dạt
Và anh trả cho ta nỗi buồn đau tan nát
Ta muốn ôm cả đất, ta muốn ôm cả trời
Mà sao không ôm trọn trái tim một con người?
“Nếu ta gửi tình yêu vào một nơi chân thật”: Yêu nghĩa là đầu tư trái tim của mình vào một nơi, nếu mình đầu tư lầm thì mình mất hết vì mình chỉ có một trái tim. Bài thơ này đã được nhà thơ Thuận Yến phổ nhạc.
Đây là một bài thơ khác của nhà thơ Trần Quang Quý. Anh chàng này may mắn hơn, không bị người yêu phụ bạc nhưng vẫn thấy tình yêu đó không đủ cho mình. Là một chàng trai trẻ anh cần có không gian lớn hơn để vẫy vùng và anh thấy tình yêu của mình giống như cái mạng nhện và con nhện chỉ đi quanh quẩn trong mạng nhện đó mà không ra khỏi được, dù cái mạng nhện có trung kiên với mình. Anh là người may mắn trong tình yêu nhưng anh vẫn chưa thỏa mãn với tình yêu ấy:
Lối về nhỏ căn nhà ta bé nhỏ
Một tiếng guốc khua cũng đủ chật rồi
Em nấu bếp nhìn anh trong mắt ướt
Thế là chiều Hà Nội bớt lang thang.
Có lẽ là cô nàng đang nấu bếp và khói làm cho mắt ướt chứ không phải là cô khóc. Mình là một trong số những người may mắn vì mình đang có một tổ ấm, có một nơi để về, có một trái tim chờ đợi mình ở nhà. Nhưng điều ấy đã đủ chưa?
Đâu những tòa nhà cao ánh đèn cao áp
Mái nhà con vừa khép đủ chúng mình
Ta bỗng thấy thương hơn từng con nhện
Đi suốt đời một mảnh tơ riêng
Em vất vả, gầy hơn, đêm ít ngủ
Lo cho anh chi chút lúc lên đường
Một viên thuốc năm ba lần căn dặn
ốm đau tan từ một lời thương
(Người vợ này rất chăm lo cho chồng, cô dặn đi dặn lại anh nhớ phải uống viên thuốc này nhé, dặn tới năm lần. Có lẽ hết bệnh không phải nhờ viên thuốc mà là nhờ cái ân cần của người kia.)
Anh nghèo lắm có gì đâu ngoài sách
Có gì đâu gia tài chẳng ngoài em
Ô cửa hẹp mặt trời thăm thẳm quá.
Một ngôi sao thả lỏng giữa xa mờ
Và đây, hai câu thơ cuối giống như một sự quyết định, không biết cái gì sẽ xảy ra:
Anh bất chợt nhìn em bất chợt
Ô cửa này rộng mở anh đi.
Trong bài thơ của Đàm Thị Lam Luyến, mình cần ghi nhớ rằng mình chỉ có một trái tim, làm sao để mình gửi trái tim ấy vào đúng nơi đúng chỗ, tại vì thương yêu là một sự đầu tư lớn, đầu tư nhầm chỗ là mình sạt nghiệp, thế nên phải cẩn thận lắm. “Nếu ta gửi tình yêu vào một nơi chân thật”, nhưng biết đâu là nơi chân thật? Đôi khi lời nói kia rất đường mật nhưng có sự giả dối. Anh chàng có thể đã nói điều đó với nhiều cô rồi, nhưng mình không biết, lại cứ tưởng mình là người duy nhất được nghe câu nói đó.
Người đi xuất gia cũng muốn tìm nơi gửi gắm trái tim của mình. Bài thơ “Tìm Nhau” cũng nói về tình yêu. Đi tìm ở đây là sự đi tìm chính mình. “Con đã đi tìm Thế Tôn”, nhưng kỳ thực là con đã đi tìm chính con. Mình chưa biết mình là ai. Đây là một quá trình đi tìm kiếm. Khi mình biết được mình là ai thì mình có bình an, hạnh phúc. Trong bài thơ có câu “Con đã tìm ra Thế Tôn. Con đã tìm ra con” có nghĩa là vậy. Khi mình tìm ra được mình là mình tìm ra được Bụt và khi mình tìm ra được Bụt thì mình tìm ra được mình “Thế Tôn với con đã từng là một”, đây không phải là sự tìm kiếm bên ngoài mà là sự tìm kiếm bên trong.
Đất Mẹ nhiệm mầu
Vào năm 1969, lần đầu tiên mọi người thấy được hình ảnh của địa cầu nhìn từ mặt trăng tuyệt đẹp. Phi thuyền Apollo đưa ba phi hành gia lên trên mặt trăng, giữa đường các phi hành gia đã nhìn về địa cầu và chụp ảnh trái đất. Phi hành gia người Mỹ đầu tiên đặt chân lên mặt trăng là Neil Armstrong. Khi ông đặt bước đầu tiên xuống mặt trăng thì ông rất ý thức. Ông đã nói: “Đây là một bước nhỏ của con người nhưng là một bước rất lớn của nhân loại.” Sau khi được nhìn thấy bức ảnh về trái đất này, tôi đã làm một bài thơ:
An tịnh tâm hành
Trên đường lên nguyệt cầu
Quay nhìn lại
Tôi thấy em
Và tôi không ngừng kinh ngạc :
Em xinh đẹp quá chừng
Em là một chiếc bong bóng nước
Nổi trên biển không gian mông mênh
Em là đại địa
Em là hành tinh xanh
Hiển nhiên và mầu nhiệm
Nhưng rất đỗi mong manh.
Tôi thấy tôi trong em
Đang bước đi những bước chân ý thức
Trên con đường đất
Hai bờ cỏ xanh
Chân nói lời nguyện ước với đất
Mắt ôm lấy bình minh
An trú trong giờ phút
Lá thu rơi, ngập cả nẻo thiền hành.
Có con sóc thập thò
Sau gốc cây
Nhìn tôi
Với một chút ngỡ ngàng trong ánh mắt
Rồi leo lên thoăn thoắt
Và ẩn mình sau một cụm lá xanh.
Tôi thấy dòng nước trong
Đang len chảy giữa khe đá trắng
Suối cười reo
Thông vi vút
Cùng ngợi ca một buổi sáng thanh bình.
Tôi cũng thấy những vùng đau nhức
Nơi con người đang kẹt thế giao tranh
Chúng ta đang làm khổ nhau
Và vung vãi tang thương trên đất
Kỳ thị
Hận thù
Tham lam
Tạo thành bao thảm khốc
Gà một nhà đã rủ nhau bôi mặt
Tiếng kêu gào thảm thiết nạn đao binh
Đại địa quê hương ta chính là ta
Này các anh các chị
Quê hương ta xinh đẹp quá chừng
Tôi muốn ôm cả vì sao xanh
Áp vào lồng ngực nhỏ
Chúng ta hãy cùng nhau hòa nhịp thở
An tịnh tâm hành
Loài người chúng ta hãy chung lưng góp sức
Chấp nhận nhau
Thương yêu nhau
Vì ta cùng thương yêu trái đất
Bởi ta biết rằng
Tình ta là tất cả
Tình ta không phải chỉ là một mảnh nhỏ
Ta là những kẻ chịu chung trách nhiệm về hành tinh xanh.
Anh chị em ơi
Sáng nay hãy truyền được cho nhau
Cái Thấy
Làm sao cho
Tình yêu lớn tượng hình.
Chủ nghĩa dân tộc đã trở thành rào cản, sự đấu tranh của các dân tộc với nhau không cho phép chúng ta có thời gian và năng lượng để thay đổi sự sống và bảo vệ hành tinh này. Thế nên bài thơ này có câu: “Tình ta không phải chỉ là một mảnh nhỏ. Ta là những kẻ chịu chung số phận của hành tinh xanh”. Mỗi nước đều coi đất nước của mình là một bà mẹ. Ở Việt Nam ta nói là Mẹ Việt Nam. Ở bên Pháp nói là La Mère Patrie. Nhưng những bà mẹ đó chỉ là một mảnh nhỏ trong khi bà mẹ lớn của chúng ta là trái đất. Hiện bây giờ các bậc thiện tri thức trên thế giới đã thấy rõ rằng sự tranh chấp giữa các nước với nhau là một rào cản lớn khiến cho chúng ta không có cơ hội bảo vệ cho hành tinh của chúng ta. Vì muốn bảo vệ nước mình nên mình cũng muốn nước mình có bom nguyên tử. Vì muốn bảo vệ nước mình nên mình cũng muốn khai thác cho đất nước mình giàu mạnh để chống lại những nước khác, vì vậy cho nên mình đang đi trên một con đường không thuận lợi cho việc cứu hộ hành tinh.
Học hạnh của đất
Có một lần Đức Thế Tôn dạy chú tiểu La Hầu La: “Con hãy học theo những đức tính của đất thì con sẽ có hạnh phúc.” Đất có tính kiên trì, bền vững, luôn trung kiên mà không phản bội. Đất không kỳ thị, đất thương yêu và ôm lấy tất cả mọi loài dù những đứa con mà trái đất sinh ra có thế nào đi nữa thì đất mẹ vẫn luôn luôn đưa hai tay đón lấy khi nó trở về. Đất có năng lực sáng tạo. Đất đã sáng tạo ra sự sống với sự hợp tác của mặt trời. Ta tự hào có biết bao vị anh hùng, nhưng đất là vị anh hùng lớn nhất đã phải chịu đựng hàng tỉ năm để tạo nên sự sống. Ta tự hào là có những nhạc sĩ tài ba, nhưng đất là nhạc sĩ tài ba nhất, những tiếng hải triều là âm nhạc, tiếng gió, tiếng mưa, tiếng lá xào xạc, tiếng chim líu lo đều là âm nhạc tuyệt vời. Chúng ta tự hào rằng có những họa sĩ tài ba, nhưng chính đất đã tạo ra những bức họa đẹp nhất. Đông sang tuyết phủ, xuân tới trăm hoa đua nở, có liễu lục đào hồng; hạ đến cây cối xanh tươi; thu về lá rực rỡ muôn màu. Rõ ràng Bồ Tát Thanh Lương Đại Địa là một họa sĩ lớn.
Vật chất và tinh thần
Trước đây khoa học cho rằng sự sống, trí tuệ và ý thức là do vật chất sinh ra. Vật chất làm ra sự sống và sự sống làm ra trí tuệ nhưng bây giờ khoa học lượng tử (quantum science) không còn thấy đất là vật chất nữa. Có những nhà khoa học nói rằng: “Ý niệm trước đây của chúng ta về vật chất là một sai lầm.” Người ta đã khám phá ra rằng vật chất là năng lượng, nó là những đợt sóng và chính tâm thức của mình cũng là năng lượng, là những đợt sóng. Tâm thức có sức mạnh rất to lớn.
Nhà bác học Albert Einstein không tin vào một đấng thượng đế đứng trên trời điều khiển và kiểm soát những gì xảy ra dưới mặt đất. Ông nói rằng: “Là một nhà khoa học tôi không tin rằng có một Thượng Đế đứng ở trên kia điều khiển nhân sự dưới này. Nói như vậy không có nghĩa là tôi không cảm động khi nhìn vào vũ trụ.” Ông nói rằng mỗi khi nhìn vào vũ trụ thì ông thấy một sự hòa điệu, một vẻ đẹp tuyệt vời khiến cho ông rung động. Ông nói: “Nếu trong tôi có một cái gì có tính cách tôn giáo thì chính là sự kính ngưỡng và rung động đó. Nếu trong tương lai có một tôn giáo mà mọi người có thể theo được thì đó không phải một tôn giáo thờ phụng một vị thần linh, sáng tạo ra vũ trụ mà đó là một tôn giáo có tính cách vũ trụ, trong đó những gì mình tin phải được chứng thực bởi những xét nghiệm của khoa học.”
Tịnh Độ hiện tiền
Tại Làng Mai chúng ta có thực tập pháp môn Tịnh Độ nhưng đối với chúng ta thì Tịnh Độ là Tịnh Độ bây giờ và ở đây. Tịnh Độ là trái đất vì khi ta lấy kính viễn vọng để soi chiếu thì chúng ta chưa tìm thấy được ở đâu một tinh cầu đẹp đẽ như trái đất, thế nên chúng ta không dại gì bỏ trái đất để đi tìm một Tịnh Độ vu vơ nào đó ở nơi khác mà chúng ta không biết có thật hay không. Tịnh Độ của Làng Mai là bây giờ và ở đây. Nếu mình biết thở, biết đi thiền hành, thì mỗi hơi thở và bước chân như vậy đem mình về với giây phút hiện tại để khám phá ra bao điều kỳ diệu. Chánh niệm là ý thức mình đang có mặt để biết những gì đang xảy ra trong ta và xung quanh ta, đó là Tịnh Độ Hiện Tiền. Nói rằng Tịnh Độ Hiện Tiền nằm ngay trên trái đất thì khoa học có thể chấp nhận được. Không ai có thể phủ nhận điều đó.
Chúng ta là một mầu nhiệm và tất cả những gì bao quanh chúng ta đều là mầu nhiệm. Những mầu nhiệm đó là do đất Mẹ sinh ra. Chúng ta đều là con của Mẹ. Các vị Bụt, các vị Bồ Tát cũng là con của trái đất. Chúng ta ai cũng có một bà mẹ đã sinh ra ta thì người mẹ ấy cũng là con của trái đất, chúng ta có một người cha sinh ra ta thì người cha ấy cũng là con của trái đất. Chúng ta có một vị thầy thì vị thầy ấy cũng là con của trái đất. Chúng ta có một vị Bụt thì vị Bụt ấy cũng là con của trái đất. Vì vậy chúng ta phải công nhận trái đất là người mẹ chung của chúng ta. Đó là Bồ Tát Thanh Lương Địa, một vị Bồ Tát rất xinh đẹp và mầu nhiệm.
Mỗi khi lao đao, hốt hoảng, buồn khổ chúng ta có thể trở về tiếp xúc với đất Mẹ, đất Mẹ sẽ ôm lấy và truyền lại năng lượng cho chúng ta. Nếu chúng ta quán chiếu cho giỏi thì chúng ta sẽ vượt thoát được sinh tử, chúng ta sẽ không bao giờ chết. Khi quán chiếu thì chúng ta sẽ thấy đất Mẹ ở trong ta và có ta trong Mẹ. Nếu Mẹ là vô sinh bất diệt thì ta cũng là vô sinh bất diệt. Chúng ta từ Mẹ mà được biểu hiện ra, rồi chúng ta sẽ trở về với Mẹ, sau đó Mẹ lại đưa chúng ta ra đời trở lại nên không có gì phải lo sợ. Quay về nương tựa trái đất là một pháp môn rất thích hợp với Phật giáo. Albert Einstein cũng nói rằng nếu có một tôn giáo có thể đóng vai trò một tôn giáo vũ trụ căn cứ trên những bằng chứng xác thực có thể đi đôi với khoa học thì đó là đạo Bụt.
Ở Làng Mai có một bài kinh mới: “Kinh ca tụng Đất Mẹ”. Bài này không những Phật tử mà cả những người không phải Phật tử cũng có thể tiếp nhận được và thấy đây là một sự thật. Khi quán chiếu ta thấy đất Mẹ có trong ta và ta có trong đất Mẹ. Ta phải thay đổi cách sống thì mới cứu được bà mẹ của chúng ta.
Có một vị vua như thế
Ở Việt Nam có phái thiền Trúc Lâm, nguồn gốc từ núi Yên Tử. Vị Tổ đầu tiên là Trúc Lâm Đại Sĩ, tức là Vua Trần Nhân Tông. Sau khi đánh tan quân xâm lăng phương Bắc, vua Trần Nhân Tông lên núi Yên Tử xuất gia, Ngài từng du hành qua rất nhiều nơi trên đất nước để gặp gỡ dân chúng. Nhà vua đi chân đất viếng thăm các miền quê để khuyên dân bỏ những tục lệ mê tín dị đoan quay về thực tập theo chánh pháp. Dân chúng biết vị xuất gia này trước đây là vua của mình nên rất cung kính và hết lòng nghe lời. Trong lúc vua con làm chính trị thì vua cha làm đạo đức. Hai cha con phụng sự đất nước bằng hai cách khác nhau. Đó là thời kỳ huy hoàng nhất trong lịch sử Việt Nam, nhân dân sống có đạo đức nên đất nước được thái bình hạnh phúc.
Nếu vị nào đã đọc sử Việt Nam hoặc đọc cuốn “Am Mây Ngủ” thì đã biết rằng vua Trần Nhân Tông có một cô công chúa tên là Huyền Trân. Để giải quyết tranh chấp biên giới với nước Chàm, vua đã đi bộ sang làm thượng khách của vua Chàm và đã hứa gả con gái cho vua Chàm. Khi ấy công chúa mới có 14 tuổi.
Hồi đó trong triều có một vị quan rất giỏi về văn học tên là Lý Đạo Tái có tài ngoại giao và ứng đối rất giỏi nhờ văn chương lỗi lạc của mình. Lý Đạo Tái làm quan được hai ba năm thì đi xuất gia làm đệ tử của thầy Bảo Phác với pháp hiệu là Huyền Quang. Thầy Bảo Phác cũng là đệ tử của vua Trần Nhân Tông. Thầy rất yêu quý Huyền Quang, đi đâu cũng cho đi. Một hôm thầy Bảo Phác cho thầy Huyền Quang cùng đi theo mình nghe vua Trần Nhân Tông giảng pháp. Nhà vua nhận ra thầy Huyền Quang trước đây là Lý Đạo Tái nên đã đề nghị thầy Bảo Phác cho Huyền Quang ở lại để vua nhờ biên tập những kinh điển và tác phẩm mà vua muốn để lại cho hậu thế, nhờ vậy thiền sư Huyền Quang được ở lại với vua Trần Nhân Tông, sau này trở thành tổ thứ ba của thiền phái Trúc Lâm.
Thiền sư mê hoa cúc
Về già thầy Huyền Quang lên an dưỡng ở Côn Sơn. Lúc ấy thầy đã 77 tuổi. Thầy không thích đi giảng dạy trong dân chúng mà chỉ thích giảng dạy cho người xuất gia. Có lúc hàng ngàn tu sĩ tới theo học với thầy. Thầy Huyền Quang rất yêu hoa cúc. Ngày xưa thầy Huyền Quang trồng nhiều hoa cúc tại Côn Sơn. Trong lịch sử văn chương có những người thích hoa lan, có người thích hoa mai, có người thích trúc, v.v… nhưng thầy Huyền Quang thì lại thích hoa cúc hơn cả. Thiền sư Huyền Quang có làm một bài thơ về hoa cúc. Ông nói tuổi lớn rồi không thấy có gì hấp dẫn hết. Ngoài thì giờ ngồi thiền, tụng kinh, thổi sáo, đi chơi thì thầy trồng cúc, trồng khắp nơi, sân trước, sân sau, trên lầu, dưới lầu. Sau mỗi buổi ngồi thiền, việc đầu tiên là ra thăm vườn cúc. Mỗi khi nghĩ tới cúc là trong lòng ông rộn ràng như khi nghĩ tới người yêu vậy.
Đường nhà Tưởng Hũ tre reo gió
Vườn cảnh Tây Hồ đẹp nét mai
Nghĩa khí chẳng đồng tình chẳng hợp
Cúc hoa nở sáng khắp vườn ai
Ngàn sông không đủ thấm lòng già
Bách vịnh mai hoa vẫn kém xa
Đầu bạc ngâm hoài vần chưa ổn
Thấy hoa cúc nở rộn lòng ta.
Quên thân, quên thế, thảy đều quên
Thiền tọa giờ lâu, lạnh thấm giường
Trong núi năm tàn, không có lịch
Thấy hoa cúc nở biết Trùng dương.
Năm năm nở đúng tiết thu qua
Gió dịu trăng thanh ý mặn mà
Cười kẻ không hay hoa huyền diệu
Khi về mái tóc giắt đầy hoa.
Người ở trên lầu, hoa dưới sân
Vô ưu ngồi ngắm khói trầm xông
Hồn nhiên người với hoa thành một
Một đóa hoa vàng chợt nở tung.
Phương phi xuân sắc, trắng hay vàng
Thời tiết tùy loại, hợp sắc hương
Khi mọi loài hoa rơi chật đất
Dậu Đông, hoa Cúc vẫn chưa tàn.
I am in love with Mother Earth
Tôi cũng hơi giống thầy Huyền Quang ở điểm là rất yêu hoa cúc. Tuổi của tôi bây giờ lớn hơn tuổi của thầy Huyền Quang, nhưng đọc bài thơ này tôi thấy rất hợp ý. Có những lúc trên Xóm Thượng, hay khi ở Phương Khê, làm việc một hồi chợt nhớ tới ở ngoài kia có trăng, có trúc, có con đường thiền hành thì trong lòng rộn lên, tôi đặt bút xuống, choàng áo và đi ra ngoài. Giây phút ấy đem lại cho tôi rất nhiều hạnh phúc. Mỗi buổi sáng thức dậy, sau khi rửa mặt, mặc áo khoác lên rồi đi bộ từ thất Ngồi Yên lên thiền đường, mỗi bước chân như vậy giúp mình tiếp xúc với thiên nhiên, trăng sao, cây cối, hạnh phúc vô cùng. Tôi có viết một bức thư pháp: “I am in love with Mother Earth” (Tôi yêu Đất Mẹ). Giống như một chàng trai trẻ khi nghĩ tới người yêu thì lòng rộn ràng lên, tôi cũng vậy, tôi đầu tư vào trái đất. Bồ Tát Thanh Lương Đại Địa đã đem đến cho tôi biết bao hạnh phúc. Đầu tư vào vị đại Bồ Tát này là chắc ăn nhất.
Chúc các vị trong tăng thân một năm mới đầy bình an và hạnh phúc.
Chúng ta rất may mắn được ngồi với nhau như một gia đình tâm linh trong giờ phút cuối năm này. Chúng ta ngồi với nhau trong tình huynh đệ. Tết là một dịp để ta kết nối lại với tổ tiên. Cây có cội, sông có nguồn và con người thì có tổ tiên. Trong buổi thiền tọa hôm nay chúng ta đã kết nối được với tổ tiên. Chúng ta biết tổ tiên đang có mặt trong từng tế bào cơ thể. Một người mất gốc, một người bị cắt đứt liên hệ với tổ tiên không thể là một người có hạnh phúc. Cũng như cây không có gốc rễ thì cây không thể sống, nếu chúng ta không tìm tới gốc rễ thì chúng ta không sống được. Tết là một dịp để chúng ta tìm về nguồn và tiếp cận được với gốc rễ của mình.
Thắp hương trên bàn thờ tổ tiên không phải là một hành động mê tín
Ở các nước Á Châu cũng như ở Tây phương, người ta nghĩ có hai cõi: Một cõi gọi là cõi âm, là nơi mà những người đã chết đang sống (the Nether World) và một cõi gọi là cõi dương, là nơi chúng ta đang sống bên này. Hình như đây là một tín ngưỡng có tính cách phổ quát trên thế giới. Hầu hết chúng ta đều nghĩ có một cõi mà trong đó chúng ta đang sống và sau khi chết thì chúng ta đi sang cõi kia gọi là cõi âm. Và chúng ta tìm đủ mọi cách để thiết lập sự liên lạc giữa cõi dương và cõi âm.
Người Á Châu gọi cõi âm là cửu tuyền hay chín suối (the World of Nine Sources). Người ta cũng gọi nơi đó là suối vàng, và chúng ta thao thức muốn thiết lập liên hệ với cõi đó để có thể nói chuyện với tổ tiên, với ông bà cha mẹ đã khuất.
Ở Việt Nam, chúng ta có phong tục thờ cúng tổ tiên. Mỗi nhà, dù có nghèo đế đâu đi nữa thì cũng có một bàn thờ để thờ ông bà. Trên bàn thờ có một bình hương, và có thể cũng có hình ảnh của một người đã khuất bóng như là ông nội, ông ngoại, bà nội, bà ngoại, người đại diện cho cõi âm. Từ mấy ngàn năm nay chúng ta thực tập tiếp xúc với cõi đó bằng cách là mỗi ngày chúng ta tới trước bàn thờ tổ tiên, đốt một cây hương và cắm lên bát nhang. Công việc này mất khoảng một hay hai phút, nhưng ngày nào chúng ta cũng dâng một cây hương lên bàn thờ. Trong giờ phút đó chúng ta có cơ hội tưởng nhớ và thiết lập liên hệ giữa chúng ta với ông bà tổ tiên ở cõi bên kia.
Có một lần tôi thuyết trình ở Học Viện Chính Trị Hồ Chí Minh. Trong số người tham dự có rất nhiều nhà khoa học và lý thuyết gia Marxist. Tôi nói rằng: Hành động tới trước bàn thờ đốt một cây hương, tiếp xúc với tổ tiên không phải là một hành động mê tín mà là một hành động rất khoa học. Trong khi chúng ta lau bụi trên bàn thờ tổ tiên, trong khi chúng ta đốt một cây hương và cắm vào bát hương thì lòng của chúng ta hướng về tổ tiên. Như vậy chúng ta làm cho vững mạnh sự liên hệ của của mình với tổ tiên. Sức khỏe của con người, nhất là sức khỏe tâm thần tùy thuộc ở chỗ ta có gốc rễ hay không. Con người không có gốc rễ là một con người không lành mạnh. Vì vậy mỗi ngày ta để một hay hai phút tiếp xúc với tổ tiên là để củng cố và làm vững chãi lại sự liên hệ giữa ta và tổ tiên. Đó là một hành động rất khoa học giúp ta giữ vững được sức khỏe tâm thần. Vì vậy các ngài đừng cho đó là một hành động mê tín.
Đốt vàng mã không phải là một hành động mê tín
Một nhà khoa học nói: Chuyện đốt vàng mã quả thật là mê tín!
Tôi nói: không phải! Có một tâm tình nào đó nằm dưới hành động đốt vàng mã, tiền bạc, nhà cửa, xe hơi, máy tính để những người bên cõi âm có mà sử dụng. Bề ngoài trông như mê tín nhưng bên trong có chứa một tâm tình rất đẹp. Tại sao người ta làm như vậy? Tại vì người ta tưởng nhớ, thương tiếc những người thương đã qua đời. Đó là phương cách để biểu hiện những tâm tình rất tốt đẹp như sự hiếu thảo, sự thương nhớ. Những đức tánh đó rất là quí mà nếu để mất đi thì con người không còn văn minh nữa và đau khổ rất nhiều. Vì vậy hành động bề ngoài trông như mê tín dị đoan như đốt vàng mã, đốt tiền giấy đó chất chứa một cái gì rất là cao đẹp của truyền thống. Đó là sự tưởng nhớ tổ tiên, cội nguồn.
Vì vậy trong khi chưa tìm ra được phương pháp khác mà quí vị lại bắt người ta bỏ phương pháp đốt vàng mã thì đồng thời quí vị cũng làm cho người ta bỏ đi những cái đẹp trong tâm hồn của họ.
Tìm những phương thức để thay thế
Năm 1962 tôi viết đoản văn “Bông hồng cài áo”. Những sinh viên của các trường đại học Sài Gòn đã tổ chức lễ “Bông hồng cài áo” đầu tiên trong lịch sử Việt Nam. Đó là một hành động rất đẹp! Chúng ta làm một cái lễ rồi mời bố mẹ tới và tỏ bày lòng hiếu thảo của mình. Mỗi người sẽ được cài lên hai bông hoa, nếu bố mẹ còn sống thì mình được cài hai bông hoa màu hồng, nếu một trong hai người đã chết thì mình được cài một bông màu hồng và một bông màu trắng, và nếu hai người đều mất rồi thì mình được cài hai bông màu trắng. “Bông hồng cài áo” cũng là một nghi lễ nhưng không có vẻ mê tín. Từ năm 1962 đến nay cũng đã nửa thế kỷ rồi, lễ “Bông hồng cài áo” đã thay thế được một phần nào cho tục đốt vàng mã, v.v…
Tôi nói với các nhà khoa học và các lý thuyết gia Marxist tại Học Viện Chính trị Hò Chí Minh: “Chừng nào quí vị chưa tìm ra được những phương thức mới để nuôi dưỡng những tình cảm đẹp đẽ đó thì quí vị đừng nên bài bác những cái mà dân chúng đang làm”. Và các vị đã thấy được điều này. Trước đó các quan chức rất sợ đốt nhang, sợ người ta thấy mình đang khấn vái trước bàn thờ. Nhưng sau buổi gặp gỡ đó thì các nhà chính trị ở Việt Nam bắt đầu công khai thờ cúng tổ tiên và thắp hương trước quần chúng. Rất là hay! Khi dự hội đền Hùng, Chủ tịch nước và Thủ tướng Chính phủ đều đứng ra thắp hương một cách thoải mái mà không sợ người ta cho là mê tín dị đoan. Đó là một trong những đóng góp của chuyến về năm 2005 của Thầy và tăng đoàn Làng Mai.
Hai cõi chỉ là một
Tại Làng Mai, chúng ta đi sâu vào trong giáo lý đạo Bụt. Chúng ta đã khám phá ra rằng hai cõi đó, cõi âm và cõi dương, thật ra chỉ là một cõi mà thôi. Có một dòng sông, nhưng không có sự chia cách. Nếu biết cách ta có thể tiếp xúc với người thương, cha mẹ, tổ tiên ngay trong giây phút này mà không cần phải đi qua cõi kia. Khoa học cũng đi trên con đường đó. Khoa học cũng tìm cách để nối lại những hố ngăn cách. Ngày xưa người ta tưởng vật chất và năng lượng là hai cái khác nhau và vật chất không phải là năng lượng, năng lượng không phải là vật chất. Nhưng bây giờ khoa vật lý học đã tìm ra sự thật, đã nối kết được và nói rằng: Vật chất và năng lượng không phải là hai cái tách rời nhau ra mà có. Năng lượng có thể trở thành vật chất và vật chất có thể trở thành năng lượng. Đó là luật bảo tồn năng lượng của nhiệt động học. Như vậy là không còn ranh giới giữa năng lượng và vật chất. Khoa học đã có cái nhìn bất nhị (non-dualistic) giữa vật chất và năng lượng.
Khoa học cũng đã khám phá ra rằng giữa từ (magnétisme) và điện (électricité) cũng không có ranh giới. Từ chính là điện và điện chính là từ. Hai cái là hai mặt của cùng một thực tại. Có một dòng sông, nhưng không có ranh giới giữa bên này và bên kia. Âm thanh và không khí cũng không phải là hai cái khác nhau. Khi những phân tử của không khí rung động thì tạo nên âm thanh, vì vậy âm thanh và không khí là một. Sức nóng và vật chất cũng vậy, những phân tử của vật chất di động mạnh tạo thành sức nóng. Khi chúng ta nấu nước trong microwave thì những phân tử nước di động rất mau, chạy như điên nên tạo ra sức nóng. Vì vậy sức nóng và vật chất là một thứ.
Khoa học đang đi trên con đường thống nhất và lấy ra rất nhiều ranh giới giữa cái này và cái kia. Xưa nay từ mấy ngàn năm chúng ta cứ tưởng trời và đất là hai thực tại khác nhau. Ta tưởng tượng trên trời có một triều đình, triều đình đó lo chuyện trên trời nhưng đồng thời cũng lo chuyện dưới đất. Thiên (trời) và địa (đất) khác nhau. Nhưng khi tìm ra được luật “hấp dẫn phổ biến” (gravitation universelle) thì chúng ta biết rằng cả trời và đất đều bị luật đó cai quản. Chúng ta tìm ra sự thật là trời ở ngay dưới đất và đất ở ngay trong trời. Trời là một phần của đất và đất là một phần của trời. Hãng Air France có câu quảng cáo rất hay, không biết do thi sĩ nào đã làm ra: Faire du ciel le plus bel endroit de la terre. Làm cho trời trở thành một nơi đẹp nhất của đất. Như vậy đất và trời không phải là hai cái, đất và trời là một, không có ranh giới giữa đất và trời.
Nếu học Phật và đi cho sâu thì chúng ta thấy không có ranh giới giữa cõi âm và cõi dương. Nhìn kỹ cõi dương ta thấy cõi âm nằm ngay trong đó, và ta có thể sờ mó, liên hệ hay nói chuyện được với những người ở cõi âm.
Có bao giờ quí vị đã nhìn kỹ một đám mây chưa? Đám mây có màu vàng, màu hồng, màu trắng hay màu đen. Một lúc nào đó đám mây biến thành một cơn mưa, và chúng ta nói rằng đám mây chết. Ta nói đám mây chết tại vì chúng ta không còn thấy đám mây trên trời nữa. Nhưng đám mây thật sự không bao giờ chết. Đám mây chỉ trở thành tuyết hay thành mưa mà thôi. Đám mây đi luân hồi. Nhìn cho kỹ chúng ta có thể nói chuyện với đám mây: " Đám mây ơi, ta biết nhà ngươi sẽ không chết! Nhà người sẽ trở thành tuyết, thành mưa, thành nước đá, nhưng nhà ngươi không bao giờ có thể chết được. Ngày mai nếu nhà ngươi không có mặt trên trời thì ta cũng sẽ không than khóc tại vì ta biết nhà ngươi không bao giờ chết, và ta có thể tìm ngươi trong hình thức mới là tuyết hay là mưa hay là dòng sông". Đó là sự quán chiếu.
Các nhà khoa học cũng biết như vậy. Họ đã tìm ra luật bất sinh bất diệt của vật chất và năng lượng. Luật thứ nhất của nhiệt động học nói rằng chúng ta không thể nào sáng chế ra hay tiêu diệt được năng lượng và vật chất. Vật chất có thể trở thành vật chất khác, vật chất có thể trở thành năng lượng, năng lượng có thể trở thành năng lượng khác và năng lượng có thể trở thành vật chất nhưng bản chất của năng lượng và vật chất là không sinh cũng không diệt. Đó là điều chúng ta đọc trong Tăm Kinh Bát Nhã: Tự tánh của các pháp là không sinh không diệt, không thêm không bớt. Điều này rất là khoa học!
Cầu cơ, lên đồng
Ở Việt nam, tại vì chúng ta rất thương tiếc những người đã khuất nên ta tìm đủ mọi cách để liên lạc và nói chuyện với những người đã khuất. Chúng ta dùng nhiều phương pháp, trong đó có phương pháp cầu cơ và phương pháp lên đồng.
Trong truyền thống lên đồng có nhiều cái hay và có nhiều tính chất nghệ thuật. Lên đồng, tiếng Anh là going into trance, đã có cả ngàn năm ở Việt Nam. Chúng ta muốn liên hệ với bà mẹ núi rừng. Ở Việt nam người ta tin có một Đức Mẹ, Đức Mẹ này không phải là mẹ của chúa Jésus. Đức Mẹ này là mẹ của chúng ta lúc từ trên rừng gọi là Mẹ Thượng Ngàn hay Mẫu Thượng Ngàn (la mere savrée des forêts). Chúng ta cũng có một bà mẹ khác ở dưới nước. Không có rừng thì làm sao chúng ta sống mà không có nước thì chúng ta cũng không sống được. Vì vậy nước là một bà mẹ gọi là bà Mẹ Thoải hay Mẫu Thoải. Thoải là thủy, tức là nước. Bà mẹ rừng khi hiện ra thì luôn mặc áo màu xanh, còn bà mẹ nước thì mặc áo trắng. Ở Việt nam có nhiều đền chùa thờ hai bà mẹ đó: Mẫu Thượng Ngàn và Mẫu Thoải. Nhiều khi chúng ta cầu mẹ về dạy cho ta phải sống như thế nào để có an lạc, hạnh phúc trong gia đình và trong xã hội. Vì vậy chúng ta có những cậu đồng và những cô đồng.
Người lên đồng phải ăn chay nằm đất nhiều ngày, tắm gội sạch sẽ cho thật tinh khiết để Mẫu Thượng Ngàn hay Mẫu Thoải nhập vô. Mẫu có thể ca hát, nhảy múa, ban ra những lời khuyên nhủ cho chúng ta. Chúng ta rất khao khát được nghe những lời khuyên nhủ đó. Những người khuất mặt có thể trở về để dạy cho chúng ta.
Sư cô Chân Không kể chuyện là một hôm trong gia đình tổ chức cầu cơ, cầu bố của sư cô về để nói chuyện với những thành phần trong gia đình. Sư cô hỏi bố:
– Không biết ba cất giấy khai sinh của con ở đâu mà con tìm hoài không thấy?
Bố cô trả lời và cô đi tìm được giấy khai sinh đó.
Dân Việt nam chúng ta có khuynh hướng muốn tiếp xúc với những người thương đã mất để nói chuyện.
Mỗi người tới dự buổi hầu đồng phải tắm gội sạch sẽ, mặc quần áo rất đẹp, ngồi im lặng và bắt đầu nghe nhạc. Những bài chầu văn làm cho mọi người buông bỏ hết những vướng bận của đời sống hàng ngày để tập trung tư tưởng vào thế giới huyền bí. Mọi người đều lâng lâng, và trong khung cảnh đó năng lượng tập thể làm cho thần linh nhập vào con người của cậu đồng hay của cô đồng và người đó sẽ đứng dậy múa, hát hay ban bố những đạo từ để giúp cho ta sống như thế nào để có hài hòa trong gia đình và trong xã hội. Lên đồng, tuy rằng có mê tín nhưng mà cũng có những cái đẹp, những cái hay, có đạo đức trong đó. Vì vậy quí vị đừng vội lên án những phương thức đó!
Bói Kiều ở Làng Mai
Hôm nay chúng ta nói về những kỷ niệm và hạnh phúc. Ở Làng Mai trong ba ngày Tết chúng ta có bói Kiều. Cụ Nguyễn Du, tuy không lên đồng, không nhập vào người nhưng cụ nhập vào những quẻ. Chúng ta sẽ hỏi cụ về tương lai, về hiện tại của chúng ta. Nếu ở lại Làng được ngày mồng một, mồng hai, mồng ba thì quí vị có khả năng được bói một quẻ.
Còn nhiều nợ lắm sao đà thác cho
Hồi đó Thúy Kiều được về ở với Thúc Sinh. Thúc Sinh là con quan và đã có vợ. Nhưng vì mê Kiều quá nên Thúc Sinh đem hết tiền mua Kiều về từ chốn thanh lâu để hai người được sống chung. Họ sống với nhau rất hạnh phúc được nửa năm. Ban đầu ông bố của Thúc Sinh không đồng ý, nhưng sau thấy Kiều nết na dễ thương nên ông cũng đồng ý và cuối cùng thì Kiều đã chinh phục được trái tim của ông. Hai người sống như vậy và biết rằng mình không thể nào giữ được bí mật hoài, một ngày nào đó bà vợ cả sẽ biết nên Thúy Kiều to nhỏ với Thúc Sinh:
– Anh về nói sự thật cho chị biết đi, em bằng lòng làm vợ lẻ. Anh nên về nói hết sự thật với chị cho rồi, nếu không thì sẽ không yên đâu!
Thúc Sinh nghe lời Kiều đi về nhà. Trong khi đó thì bà vợ cả đã biết, bà tìm cách bắt cóc Kiều về để làm tình làm tội. Bà sai hai tên du côn tới chỗ Kiều ở, đi rất mau bằng đường thủy. Tới nơi ban đêm chúng đốt nhà, bắt cóc Kiều bỏ lên thuyền chở về, rồi lấy một tử thi bên sông liệng vào đám cháy để gây sự nghi ngờ là Kiều đã bị chết cháy. Khi người nhà dập tắt lửa và đi tìm thì thấy một thân xác bị cháy đen. Mọi người đều tin rằng Kiều đã chết, trong khi đó thì Kiều đang còn sống. Thúc Sinh đi về thăm vợ cả và không ngờ rằng người yêu của mình đã chết. Thúc Sinh về nhà thấy vợ im lặng không nói gì cả thì nghĩ tại sao mình phải nói sự thật ra làm gì. Và Thúc Sinh cũng không nghe lời Kiều khuyên nên nói sự thật cho vợ biết. Khi Thúc Sinh quay trở lại thì thấy Kiều không còn nữa, người ta đã làm bàn thờ cho Kiều, Kiều đã đi sang thế giới bên kia. Nỗi đau của Thúc Sinh như thế nào, chúng ta có thể tưởng tượng được. Hai người mới ở với nhau được nửa năm. Sau này với Từ Hải, Thúy Kiều cũng chỉ ở được nửa năm mà thôi. Thúy Kiều cũng có những ngày tháng hạnh phúc chứ không phải không có. Thúy Kiều có được nửa năm với Thúc Sinh, người thật sự thương Kiều và Kiều cũng có được nửa năm với Từ Hải là người đàn ông thứ hai đã thương Kiều thật sự.
Thúc sinh về tới nơi nghe Thúy Kiều đã chết thì đau xót quá chừng. Kiều chết đi mà không để lại một lời nên Thúc Sinh rất khao khát muốn hỏi Kiều một câu: “Tại sao em đi mà không để lại một lời nào hết?”
Trong chúng ta cũng có người ở trong trường hợp của Thúc Sinh. Ta có một người thương tự nhiên bỏ ta đi mà không nhắn lại một lời nào. Thúc Sinh nghe đồn rằng trong vùng có một ông lên đồng, một đạo nhân có pháp thuật rất lớn. Khi nhập định ông có thể xuất hồn đi vào cõi âm để tìm linh hồn Kiều mà hỏi, và ông sẽ về báo cáo lại câu trả lời của Kiều cho Thúc Sinh. Tốn biết bao nhiêu là công sức Thúc Sinh mới mời được ông đạo nhân. Ông lập một đàn, làm phép, phủ phục, đội một cái khăn rồi xuất hồn đi vào cõi âm. Chưa tàn một cây hương ông đã trở về và báo cáo:
– Tôi đi khắp cõi âm mà vẫn không tìm được mặt mũi của Thúy Kiều. Tôi đã đi khắp nơi ở cõi âm, tôi đã điều tra mà không thấy Thúy Kiều ở đâu cả. Tôi đã tra xét thì người ta nói cho tôi biết là người này chưa chết. Người này còn tai nạn rất nhiều.
Người này nặng kiếp oan gia
Còn nhiều nợ lắm sao đà thác cho
Mệnh cung đang mắc nạn to
Một năm nữa mới thăm dò được tin
Người này dễ dầu gì mà chết, vì còn rất nhiều oan trái. Đương sự đang bị tai nạn rất lớn. Sự thật là đương sự đang bị người ta bắt về đánh đập và buộc làm đầy tớ hầu hạ trong nhà.
Cụ Nguyễn Du viết như thế này:
Gần miền nghe có một thầy
Phi phù trí quỷ cao tay thông huyền
Trên tam đảo dưới cửu tuyền
Tìm đâu thì cũng biết tin rõ ràng
Sắm sanh lễ vật rước sang
Xin tìm cho thấy mặt nàng hỏi han
Đạo nhân phục trước tỉnh đàn
Xuất thần giây phút chưa tàn nén hương
Trở về minh bạch nói tường
Mặt nàng chẳng thấy việc nàng đã tra
Người này nặng kiếp oan gia
Còn nhiều nợ lắm sao đà thác cho
Mệnh cung đang mắc nạn to
Một năm nữa mới thăm dò được tin
Trên tam đảo là ở cõi trời, dưới cửu tuyền là dưới cõi âm. Ông thầy đã nói đúng, người này chưa chết. Nhưng gia đình không tin nên vẫn tiếp tục cúng 49 ngày.
Đoạn tràng cho hết kiếp này mới thôi
Kiều chết lần thứ hai ở sông Tiền Đường. Nhiều người tưởng Kiều đã chết nhưng thật ra Kiều còn sống. Đang còn sống là một phép lạ! Thúy kiều vẫn đang còn sống, đó là một phép lạ rất lớn. Ta đang ngồi đây với thầy, với bạn. Ta đang còn sống tại vì ta đang còn thở.
Khi Thúy Kiều bị ép phải lấy ông thổ quan địa phương thì Kiều chịu không nổi nên nhảy xuống sông Tiền Đường tự tử để giữ tròn khí tiết với Từ Hải. Tuy Kiều biết là mình không có ý giết Từ Hải, mình chỉ muốn cho chiến tranh chấm dứt và trăm họ được yên vui nên mới xui Từ Hải về hàng. Nhưng Hồ Tôn Hiến là người không có đạo đức, người đã ra hàng mà còn tìm cách sát hại. Khi Thúy Kiều gặp lại Kim Trọng thì có làm 10 bài thơ, trong đó có một bài nói rằng khuyên Từ Hải ra hàng là hành trì theo chánh đạo để chấm dứt nạn đao binh chứ không phải có ý muốn giết Từ Hải. Nhưng một người mà giết kẻ đã chịu ra hàng là một người không có đạo đức. Đó là Thúy Kiều lên án Hồ Tôn Hiến. Mục đích của Kiều không phải là giết Từ Hải mà là cứu dân, nhưng vì vậy mà Từ Hải phải chết. Tuy mình không có ý giết nhưng người kia đã chết vì mình. Bài thơ đó như thế này:
Khuyên hàng là việc phải
Trong nguyên văn là chữ chánh đạo. Truyện Kiều được viết dựa trên một bản văn xuôi của Thanh Tâm Tài Nhân mà khi đọc thì ta thấy có những chi tiết không có trong Truyện Kiều. Mười bài thơ Kiều làm để tặng Kim Trọng khi hai người gặp lại nhau là một trong những tư liệu mà ta không tìm thấy trong Truyện Kiều.
Giết hàng là bất nhân
Mình làm việc phải nhưng Hồ Tôn Hiến giết người quy hàng là việc bất nhân.
Em làm theo chánh đạo
Ai ngờ chàng mệnh vong
Mình chỉ làm theo tiếng nói của lương tâm để cho dân bớt khổ, nhưng chính vì vậy mà Từ Hải phải chết. Vì vậy mặt mũi nào mà sống với người chồng khác nên Kiều chết ở sông Tiền Đường để giữ thanh danh và tỏ lòng trung kiên với Từ Hải. Khi Kiều gieo mình uống sông Tiền Đường thì tất cả mọi người đều nghĩ là Kiều đã chết. Chỉ có một người biết là Kiều chưa chết, đó là một vị sư cô tên Giác Duyên.
Lúc Từ Hải thành công Kiều có mời những vị ân nhân của mình tới để tạ ơn. Trong những vị ân nhân đó có sư Giác Duyên. Sau khi từ giã Kiều sư Giác Duyên có gặp một đạo cô tu theo đạo Lão và đạo cô này có khả năng thấy được tương lai. Sư Giác Duyên hỏi đạo cô về tương lai của Thúy Kiều. Ngày xưa Thúy Kiều đã từng xuất gia dưới pháp danh là Trạc Tuyền và được ở chùa cùng sư Giác Duyên một thời gian. Hai người rất thương nhau. Nhưng sau vì tai nạn nên Kiều bị rơi vào thanh lâu một lần thứ hai và cuối cùng thì gặp được Từ Hải. Khi được sư Giác Duyên hỏi về tương lai của Thúy Kiều thì Tam Hợp đạo cô có một bản phân tích về Kiều rất hay:
Thúy Kiều sắc sảo khôn ngoan
Vô duyên là phận hồng nhan đã đành
Vô duyên là không có may mắn. Thúy Kiều đẹp, thông minh nhưng không có những điều kiện may mắn.
Lại mang lấy một chữ tình
Khăng khăng mình buộc lấy mình vào trong
Đó là lời phán quyết của một đạo sư. Vì vướng víu vào chữ tình cho nên không ai trói buộc mình mà chính mình tự lấy dây trói mình mà thôi.
Vậy nên những chốn thong dong
Ở không yên ổn ngồi không vững vàng
Những chỗ thong dong là những chỗ chùa, thiền đường hay Làng Mai. Trong khi mọi người đi đứng thong dong thì mình đi như bị ma đuổi.
Ma đưa lối quỷ dẫn đàng
Lại tìm những chốn đoạn tràng mà đi
Hết nạn ấy đến nạn kia
Thanh lâu hai lượt thanh y hai lần
Kiều phải làm gái giang hồ hai lần và làm đầy tớ hai lần.
Oan kia theo mãi với tình
Một mình mình biết một mình mình hay
Cái khổ đau đó không nói được với ai.
Làm cho sống đọa thác đày
Đoạn tràng cho hết kiếp này mới thôi
Đó là lời phán quyết của số mạng.
Ngày xưa Phạm Duy có viết mấy câu hơi giống như vậy:
Trăng ơi yên lặng suốt đời
Mà sao ta vẫn đứng ngồi không yên
Đứng không yên mà ngồi cũng không yên tại vì mình không có sự bình an trong lòng. Muốn có được sự bình an trong lòng là phải tu. Ta phải biết thực tập hơi thở và bước chân để làm lắng dịu những cảm xúc, những nỗi khổ niềm đau trong lòng để tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống và được nuôi dưỡng bằng những mầu nhiệm của sự sống hầu tìm ra được một hướng đi. Nếu không thì mình đi không yên mà ở cũng không yên. Ma đưa lối quỷ dẫn đàng, ma là những sầu khổ, bực tức trong ta.
Ni sư Giác Duyên nghe vậy hoảng hồn:
Giác Duyên nghe nói rụng rời
Một đời nàng hỡi thương ôi còn gì
Như vậy thì còn gì là một cuộc đời nữa? Còn gì cho mình và còn gì cho người kia, còn gì cho nhau? Nhưng đạo cô Tam Hợp nói không sao, tuy vậy nhưng trong lòng của Kiều cũng còn những hạt giống tốt, còn những thiện căn tức những gốc rễ lành mạnh mà cha ông để lại. Chính những hạt giống tốt mà tổ tiên trao lại cho Thúy Kiều sẽ cứu được Kiều.
Xét trong tội nghiệp Thúy Kiều
Mắc điều tình ái khỏi điều tà dâm
Lấy tình thâm trả nghĩa thâm
Bán mình đã động hiếu tâm tới trời
Tuy vướng vào tình ái nhưng không phạm giới tà dâm, Thúy Kiều có những điểm tích cực. Trong buổi đầu gặp gỡ, Kim Trọng muốn ép duyên nhưng Thúy Kiều nhất định không chịu. Thúy Kiều theo đúng đạo lý cổ truyền, nếu mình không giữ mình thì tình yêu không còn là tình yêu mà chỉ là nhục dục mà thôi. Sexual desire is not love, đó là giới thứ ba trong năm giới tại Làng Mai. Trong giới thứ ba của năm giới của Làng Mai nói rất rõ là tình yêu không phải là tình dục. Đêm hôm đó Thúy Kiều đã giữ được giới này và do đó Kim Trọng đã giữ được một hình ảnh rất đẹp của Thúy Kiều.
Thúy Kiều đã bán mình để lấy 300 lượng vàng chuộc cha ra khỏi vòng tù tội. Đó là chữ hiếu (lấy tình thâm trả nghĩa thâm). Kiều đã hy sinh chuyện tình để làm tròn chữ hiếu, biết rằng mình sẽ phản bội Kim Trọng nhưng Kiều phải cứu cha trước.
Hại một người, cứu muôn người. Tuy Từ Hải chết nhưng cứu được bao nhiêu ngươi khỏi phải chết vì chiến tranh. Do đó nghiệp của Thúy Kiều sẽ nhẹ đi và Kiều sẽ bắt đầu có hạnh phúc trở lại, đó là lời nói của Tam Hợp đạo cô.
Đạo cô biết trước rằng Thúy Kiều sẽ tự tử ở sông Tiền Đường và khuyên sư Giác Duyên nên tới sông Tiền Đường chực sẵn. Chỉ năm năm nửa thôi thì Thúy Kiều sẽ tự tử ở đó và Giác Duyên sẽ có cơ hội cứu được Thúy Kiều. Sư Giác Duyên tới bên sông Tiền Đường lập một cái am và thuê hai người đánh cá (Giác Duyên có một số tiền mà Thúy Kiều đã tặng ngày xưa) giăng lưới, không phải để bắt cá mà để chờ Trạc Tuyền.
Thúy Kiều đi thuyền tới chỗ đó thì sóng nổi lên đùng đùng, hỏi ra mới biết đó là sông Tiền Đường. Kiều nhớ lại trong giấc mơ ngày xưa mình gặp Đạm Tiên và Đạm Tiên đã nói rằng sau này hai người sẽ gặp lại nhau ở sông Tiền Đường. Thúy Kiều nghĩ rằng bây giờ chắc là đến lúc mình phải chết nên làm một bài thơ để lại và nhảy xuống sông tự tử. May thay lúc đó có hai ngư phủ vớt Kiều lên. Sau khi cứu được Trạc Tuyền sư Giác Duyên đưa nàng về chùa, cho xuất gia thọ 10 giới và làm sư cô trở lại. Hai người sống với nhau ở đó, bên sông Tiền Đường.
Một nhà vinh hiển riêng oan một nàng
Chỉ vài tháng sau thì gia đình của Kiều đi ngang qua đó. Họ biết tin chiến tranh đã chấm dứt và muốn tới tận chỗ để tìm hỏi tin tức của Thúy Kiều. Người ta cho biết rất rõ là Thúy Kiều có công lao như vậy mà không được đền trả còn bị ép gả cho một ông quan địa phương vùng núi. Vì vậy Thúy Kiều đã nhảy xuống sông tự tử. Gia đình của Kiều đau đớn vô cùng. Lúc này Kim Trọng đã làm quan và đã cưới Thúy Vân. Vương Quan, em trai Thúy Kiều cũng đã làm quan và cưới vợ.
Hàng Châu tới đó bây giờ
Thật tin hỏi được tóc tơ rành rành
Hàng Châu là chỗ Thúy Kiều đã tự tử. Người ta cho biết sự thật với rất nhiều chi tiết.
Rằng ngày hôm nọ giao binh
Thất cơ Từ đã thu linh trận tiền
Nàng Kiều công quả chẳng đền
Lệnh quan lại bắt ép duyên thổ tù
Nàng đà gieo ngọc trầm châu
Sông Tiền Đường đó ấy mồ hồng nhan
Sông Tiền Đường là mộ của Thúy Kiều.
Than ôi không hợp mà tan
Một nhà vinh hiển riêng oan một nàng
Lúc đó gia đình Kiều lập một đàn tràng, làm một đại trai đàng trên bờ sông để cầu siêu cho Kiều. Trong nguyên lục có một bài văn chiêu hồn rất là thấm thiết. Trong khi thầy đang lập trai đàn cúng tế thì ni sư Giác Duyên đi ngang qua. Ni sư vào xem thì thấy trên linh vị đề tên Vương Thúy Kiều. Ni sư nói:
– Quí vị là ai? Người ta đang còn sống sờ sờ mà sao lại làm trai đàn cúng người ta?
Cơ duyên đâu bỗng lạ sao
Giác Duyên đâu bỗng tìm vào tới nơi
Trông lên linh vị chữ bài
Thất kinh mới hỏi: Những người đâu ta?
Với nàng thân thích gần xa
Người còn sao bỗng làm ma khóc người?
Đây là lần thứ hai người ta cầu siêu cho Kiều trong khi nàng vẫn còn sống. Hôm nay chúng ta ngồi thiền và nói “tôi biết là tôi vẫn còn sống“ là để nhắc cho mình biết biết rằng mình vẫn còn sống và sự kiện này là một phép mầu nhiệm. Ta còn sống và đang ngồi đây với thầy, với bạn là một sự mầu nhiệm. Ta phải ăn mừng mới được!
Ngỡ bây giờ là bao giờ
Lúc đó gia đình Kiều nói với Giác Duyên:
– Ni sư ơi, đây là cha của Kiều , đây là mẹ của Kiều, đây là em gái, đây là em trai của Kiều, đây là em dâu của Kiều và đây là người yêu cũ của Kiều.
Này chồng, này mẹ, này cha
Này là em ruột, này là em dâu
Ni sư Giác Duyên nói:
– Tôi có tình bạn với Thúy Kiều, vì vậy khi Kiều tự tử thì tôi đã rước về. Chùa ở gần đây lắm, chỉ có hai cây số mà thôi. Nếu quí vị muốn tôi có thể dẫn quí vị đi gặp Kiều lập tức.
Đó là một tin quá sức là mừng, không thể nào tưởng tượng được. Bao nhiêu chuông, mõ, xôi, chuối, hương, đèn đều bỏ đi và tất cả mọi người đều theo ni sư về chùa tìm Kiều.
Quanh co theo dải giang tân (giang tân là bờ sông)
Khỏi rừng lau đã tới sân Phật đường
Giác Duyên lên tiếng gọi nàng
Buồng trong đã dạo sen vàng bước ra
Trông xem đủ mặt một nhà
Xuân già còn khỏe huyên già còn tươi
Hai em phương trưởng hòa hai
Đó chàng Kim đó là người ngày xưa
Ngỡ bây giờ là bao giờ
Rõ ràng trước mắt còn ngờ chiêm bao
Câu hay nhất là câu: ngỡ bây giờ là bao giờ. Mình không chờ đợi một giờ phút như ngày hôm nay. Hiện tại đẹp quá chừng, đẹp cho đến nỗi mình tưởng nó không có thật. Mười lăm năm, đêm nào cũng tưởng nhớ, đêm nào cũng tuyệt vọng, bữa nay tự nhiên thấy được tất cả những người mình thương đang có trước mặt.
Câu “ngỡ bây giờ là bao giờ” là một câu siêu tuyệt! Tôi đề nghị quí vị nên viết câu này treo lên tường, tại vì ta không biết trân quí những gì ta có. Ta đang sống mà không biết trân quí sự thật là mình đang còn sống. Ta cứ để phiền não, tham sân, giận hờn, tuyệt vọng chiếm ngự mình. Ta không thật sự sống được giây phút mà cuộc đời ban cho ta. Ta không có khả năng sống cái bây giờ, ta luôn nhớ tiếc cái quá khứ hay lo lắng cho cái tương lai, mà cái bây giờ rất là mầu nhiệm. Ta cứ nghĩ tới một tương lai nào đó. Bao giờ mà tôi có cái đó, bao giờ mà tôi làm được chuyện đó, bao giờ mà tôi có bằng cấp đó, bao giờ mà tôi cưới được người đó, bao giờ mà tôi có được cái nhà như vậy, bao giờ mà tôi có công ăn việc làm đó thì tôi mới có hạnh phúc. Cái “bao giờ” đó có thể không bao giờ tới. Trong khi đó thì ta hy sinh cái “bây giờ” cho cái “bao giờ”.
Cái “bây giờ” là cái rất quí báu. Với một hơi thở ta trở về với hình hài của mình và thấy hình hài này là một tặng phẩm quí giá của tổ tiên. Ta có biết trân quí hình hài này không hay ta đày đọa nó? Nếu đày đọa hình hài thì ta đày đọa cả bố mẹ mình vì bố mẹ mình cũng ở trong đó. Nếu ta đày đọa tấm thân thì ta cũng đày đọa tổ tiên vì tổ tiên cũng nằm trong đó.
Thở vào tôi biết là tôi có một hình hài, chính trong cái “bây giờ” ta biết là mình có một hình hài và ta mang theo cha mẹ, ông bà, tổ tiên trong hình hài của mình. Ta hy sinh cái “bây giờ” để đi tìm cái “bao giờ” trong tương lai, một ảo ảnh của hạnh phúc. Ở Làng Mai, luôn luôn bằng bước chân và bằng hơi thở chúng ta trở về cái “bây giờ” để chăm sóc và trân quí cái “bây giờ”, tại vì sự sống chỉ có mặt trong cái “bây giờ”. Quá khứ đã đi qua và tương lai chưa tới, sự sống chỉ có thể có mặt trong cái “bây giờ”. Vì vậy tại Làng Mai, mỗi hơi thở, mỗi bước chân phải có công dụng đem ta trở lại cái “bây giờ”.
Ngỡ bây giờ là bao giờ
Rõ ràng trước mắt còn ngờ chiêm bao
Ngày hôm nay ta đang còn sống, ta đang ngồi với người thương của mình. Ta đang có thầy, ta đang có bạn. Ta còn đòi gì nữa, tại sao ta không có hạnh phúc ngay trong giây phút này.
Bây giờ rõ mặt đôi ta
Ngay đêm đầu tiên mà Kiều và Kim Trọng gặp nhau thì Nguyễn Du đã có tuệ giác cái “bây giờ” là cái quan trọng nhất. Ngày hôm đó gia đình Kiều đi ăn giỗ bên quê ngoại. Thúy Kiều lấy cớ nhức đầu hay đau bụng gì đó để ở nhà. Khi gia đình đi rồi Thúy Kiều ra rút vài cây ở hàng rào để lẻn qua thăm Kim Trọng. Hai người chơi với nhau một thời gian, thấy đã chiều rồi nên Thúy Kiều tạm biệt Kim Trọng để về xem gia đình đã về nhà chưa. Về nhà thấy gia đình chưa về nên Thúy Kiều tiếc, đi sang trở lại. Lúc đó trăng đã bắt đầu lên. Hai người đã sống với nhau những giờ phút rất căng thẳng. Hai người đã chờ đợi lâu lắm mới có giây phút này nên mỗi giây phút đều rất khẩn trương. Kim Trọng mệt quá tại vì sống với Kiều 7, 8 giờ đồng hồ rất khẩn trương, cho nên khi Kiều trở về nhà thì Kim Trọng mệt quá gục đầu xuống ngủ. Khi Kiều trở qua thì trăng mới lên, tiếng chân Kiều bước lên sỏi làm Kim Trọng thức giấc. Nhưng trong trạng thái nửa thức nửa ngủ đó ngẩn lên nhìn thì Kim Trọng không biết có phải thật là Kiều không hay đây chỉ là một hình ảnh trong giấc mơ?
Sinh vừa tựa gối thiêu thiêu
Giữa chiều như tỉnh giữa chiều như mê
Tiếng sen sẻ động giấc hòe
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần
Bâng khuâng đỉnh giáp non thần
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng
Kim Trọng hỏi:
– Có phải thật là em trở lại đó không hay đây chỉ là hình ảnh trong giấc mơ của anh?
Kiều trả lời rất hay, câu này là tuệ giác của Nguyễn Du. Trong Truyện Kiều cũng có khi thi hào Nguyễn Du thuyết pháp, nhất là trong đoạn đầu và đoạn cuối. Nhưng thi hào mà thuyết pháp thì thuyết rất dỡ. Nhưng đến khi thi hào làm thơ thì rất hay, trong đó có nhiều pháp rất thâm diệu. Nguyễn Du không muốn thuyết pháp mà chỉ muốn làm thơ thôi nhưng trong thơ có những bài pháp rất tuyệt diệu. Thúy Kiều đã trả lời như thế này:
Nàng rằng khoảng vắng đêm trường
Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa
Bây giờ rõ mặt đôi ta
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao
Hai câu sau rất là thần diệu. Bây giờ rõ mặt đôi ta, tức trong giây phút hiện tại này tôi nhìn thấy anh và anh nhìn thấy tôi. Chúng ta có cơ hội để nhìn rõ mặt nhau thì chúng ta phải nhận diện sự có mặt của nhau là một điều rất là quí giá. Nếu không thì những gì xảy ra hôm nay sẽ trở thành chiêm bao mà thôi.
Người thương của ta là bố ta, mẹ ta, người bạn hôn phối của ta hay con của ta. Ta đang được sống với người đó, nhưng hôm nay ta bận rộn quá chừng, ta không có thì giờ để nhìn mặt người đó. Lúc ăn sáng ta không có thì giờ để nhìn người đó, buổi chiều đi làm về cũng không có thì giờ để nhìn người đó. Ta không có thì giờ để nhìn mặt nhau. Sống như vậy đâu có thể gọi là sống văn minh? Ta sống quá bận rộn!
Bí quyết ở chỗ là ngày hôm nay ta có thì giờ để thấy nhau, để nhìn được mặt nhau và thấy được sự có mặt của người kia là rất quí giá. Nếu hôm nay ta không làm được chuyện đó thì ngày mai tất cả đều trở thành một giấc mơ mà thôi. Như vậy thi hào Nguyễn Du khuyên ta nên trở về với giây phút hiện tại để nhận diện những gì quí giá mà hiện giờ ta đang có. Những gì ta đang có là hình hài này chưa đến nỗi dị lắm, hai mắt ta còn sáng để có thể ngắm trăng sao, hai chân ta còn khỏe có thể đi thiền leo núi với thầy. Biết bao nhiêu mầu nhiệm như vậy mà ta không nhận diện. Người thương của ta còn đó, ta có thể điện thoại hỏi thăm, ta có thể thực tập câu linh chú thứ nhất: I am here for you. Je suis là pour toi chéri. Nhưng ta không làm như vậy tại vì ta không biết được sự quí giá của “bây giờ”. Như vậy cái “bây giờ” sẽ đi qua như một giấc mộng và ngày mai chỉ còn lại giấc mơ thôi.
Bây giờ rõ mặt đôi ta
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao
Khi Nguyễn Du không thuyết pháp mà chỉ làm thơ thôi thì ông thuyết pháp rất hay. Nhưng khi thi sĩ thuyết pháp thì lại thuyết pháp rất dỡ.
Nạn xưa trút sạch làu làu
Khi Giác Duyên cứu được Thúy Kiều và hai người tu chung với nhau thì họ có một thời gian rất hạnh phúc. Cụ Nguyễn Du đã viết ra những câu rất thần diệu.
Khi vớt được Thúy Kiều lên thuyền người ta đã làm đủ cách để Thúy Kiều tỉnh dậy. Thúy Kiều tỉnh dậy thấy mình đang ngồi trên thuyền với người bạn tu là ni sư Giác Duyên.
Thấy nhau mừng rỡ trăm bề
Dọn thuyền mới rước nàng về thảo lư
Thảo lư là ngôi chùa bằng lá.
Một nhà chung chạ sớm trưa
Gió trăng mát mặt muối dưa chay lòng
Một nhà chung chạ sớm trưa tức buổi sáng anh cũng có em với anh, buổi sáng con có bố, có mẹ với con. Ta ý thức rằng ta đang được ở chung với nhau. Ta đang còn có nhau, đó là một hạnh phúc rất lớn.
Muối dưa chay lòng là ăn uống một cách đơn giản nhưng rất là hạnh phúc, tại vì sống nếp sống đơn giản thì ta có thì giờ để thương nhau, lo lắng cho nhau. Còn nếu muốn có đồng ra đồng vào thật nhiều thì ta làm gì có thì giờ để nhìn mặt người thương? Muối dưa chay lòng là một bí quyềt: Sống đơn giản lại để đừng mất thì giờ nhiều quá thì tự nhiên ta có “gió trăng mát mặt”. Ban đêm thì có trăng, nếu ta ở thành phố thì làm gì thấy được trăng? Hơn nữa ta bận rộn quá làm gì có thì giờ ngắm trăng? Ta không hưởng được ngọn gió tới mơn trớn mặt của mình. Thiên nhiên là một kho tàng của hạnh phúc, có trăng, có gió, có sao, có trời. Nhưng nếu ta bận rộn quá thì ta đánh mất thiên nhiên và không hưởng được những mầu nhiệm của thiên nhiên. Lòng ta đơn giản, không có lo lắng, sầu khổ tại vì ta không tham lam kiếm cho được nhiều tiền (muối dưa chay lòng).
Bốn bề bát ngát mênh mông
Tức là có rất nhiều không gian và thời gian để sống và để cho nhau.
Triều dâng hôm sớm mây lồng trước sau
Mỗi buổi chiều được nghe tiếng hải triều rất hùng vĩ, mỗi buổi sáng được thấy mây dàn trước ngõ. Như vậy hai người sống rất hạnh phúc.
Chỉ có điều là Kiều nhớ nhà. Tôi nghĩ thế nào Giác Duyên cũng biết tâm trạng của Kiều. Bây giờ Thúy Kiều có tự do, được cứu sống rồi, được tu học với người sư chị một cách hạnh phúc nhưng có một điều là Thúy Kiều nhớ nhà quá. Tôi nghĩ thế nào Giác Duyên cũng giúp cho Kiều thỏa mãn được điều này. Giác Duyên là một ni sư rất giỏi, là một du tăng, vì vậy thế nào Giác Duyên cũng nói với Thúy Kiều:
– Em đừng lo, một ngày nào đó chị sẽ tổ chức để hai chị em đi du hóa và từ từ mình đi về Bắc kinh để tìm ra gia đình của em.
Chắc chắn là Giác Duyên có nói câu đó với Thúy Kiều, nhưng chưa thực hiện được thì Giác Duyên đã khám phá ra sự có mặt của gia đình Kiều bên bờ sông và hai bên đã đoàn tụ.
Nạn xưa trút sạch làu làu
Duyên xưa chưa dễ biết đâu chốn này
Tất cả những tai nạn xưa bây giờ không còn nữa.
Để trước sau như một
Hôm qua tôi có ngồi xuống dịch lại mười bài thơ mà Thúy Kiều đã làm cho Kim Trọng khi hai người gặp lại nhau sau 15 năm xa cách.
1. Nhớ năm xưa gặp chàng
Chưa biết gì về sống
Chỉ biết là nữ tính
Thì cũng có nữ tình
Nhớ lại năm xưa khi mới gặp Kim Trọng thì Thúy Kiều chưa biết gì về bản chất của sự sống, thế nào là sống và thế nào là chết. Thúy Kiều chỉ biết được một chuyện: mình là một người con gái thì tình của mình phải là nữ tình, đó cũng là điều kiện của con người (condition humaine)
2. Chiều chàng đủ mọi cách
Chỉ trừ chuyện gối chăn
Sợ rằng chỉ không thể
Tình chỉ chuyện ăn nằm
Trong buổi gặp gỡ đầu tiên Kim Trọng đòi cái gì Kiều cho cái đó. Trên tường có bức họa một cây thông mà Kim Trọng vừa vẽ xong và Kim Trọng xin Kiều làm một bài thơ đề lên bức họa thì Thúy Kiều cũng chiều ý. Khi Kim Trọng muốn Thúy Kiều đàn cho mình nghe thì Kiều cũng chiều theo Kim Trọng. Nhưng khi Kim Trọng đòi chuyện ăn nằm với nhau thì Kiều nhất định cự tuyệt. Kiếu nói: “Tình yêu không phải là nhục dục. Nếu mình làm chuyện đó thì tình yêu sẽ tan vỡ.”
Cách đây vài tuần có một ông bộ trưởng, có lẽ là bộ trưởng bộ văn hóa Ấn Độ, tuyên bố rằng: “Có liên hệ tình dục trước đám cưới là chuyện phi đạo đức". Ở Á Châu đây là một vấn đề quan trọng! Ngày xưa lễ giáo dạy chúng ta phải làm như vậy, tại vì nếu mình dễ dàng quá thì người kia sẽ khi dễ mình. Kiều đã làm được điều đó, Kiều nhất định không cho Kim Trọng đụng tới, tuy Kiều chiều tất cả mọi điều Kim Trọng yêu cầu. Kiều nói: “Nếu mình làm chuyện đó thì tình yêu tan nát và không còn sự kính nể nhau nữa. Rồi mình sẽ không nuôi dưỡng tình yêu được lâu dài.”
3. Thân này hứa cho chàng
Làm sao phản lời nguyện
Nhưng hoàn cảnh ngang trái
Vì hiếu phải phụ chàng
Một lời mình đã hứa rằng đời mình sẽ dâng cho người yêu của mình thì làm sao mình có thể đi ngược lại lời hứa đó. Nhưng vì hoàn cảnh ngang trái nên phải bán thân để cứu cha, vì vậy nên phải phụ chàng.
4. Bỏ mình để cứu cha
Cha cứu nhưng mình mất
Dù muốn vẹn khí tiết
Thì tiết có nghĩa không
Trong nguyên văn có hai chữ thân, chữ thân đầu là thâm tình, là cha còn chữ thân thứ hai là hình hài của mình. Cứu được thâm tình thì đánh mất hình hài của mình. Một bên là tiết, một bên là nghĩa. Khi bị Mã Giám Sinh làm nhục Kiều đã toan lấy dao tự tử. Nhưng tự tử lúc đó thì giữ được tiết của mình nhưng sẽ gây tai họa cho gia đình, tại vì mình cần một số vàng để chuộc cha ra khỏi tù tội. Nếu mình tự tử ngay lúc đó thì cha sẽ bị liên lụy, có tiết thì không thể có nghĩa . Vì vậy Kiều đã không tự tử lúc đó.
5. Bao năm tháng lênh đênh
Lạc loài trăm xứ lạ
Chết giữ được thanh danh
Nhưng chết nào quí hóa
6. Chốn thanh lâu ẩn nhẫn
Vui gì với bạo cường
Nếu chẳng biết chịu đựng
Thì thù xưa sao báo
7. Khuyên hàng là việc phải
Giết hàng là bất nhân
Mình làm theo chánh đạo
Ai ngờ chàng mệnh vong
Khuyên Từ Hải ra hàng là việc nên làm, là đúng với đạo lý, đúng với tâm từ bi. Nhưng khi người đã ra hàng mà mình vẫn giết người thì đó là việc làm vô đạo. Đó là lỗi của Hồ Tôn Hiến chứ không phải là lỗi của Thúy Kiều. Mình làm theo trái tim của chánh đạo nhưng tại vì người ta vô đạo nên Từ Hải phải chết.
8. Nào có ý giết chàng
Nhưng vì em chàng chết
Vì vậy sông Tiền Đường
Em quyên sinh giữ tiết
Đến sông Tiền Đường thì mình phải chết để giữ khí tiết của mình
9. Tự cam chịu phận mỏng
Trả xong nợ đoạn trường
Nhờ đức Bụt từ bi
Thân này còn giữ được
Cố gắng mà sống để trả xong nợ đoạn trường này. Nhưng nhờ ơn từ bi của đức Phật nên hình hài này chưa mất.
10. Hôm nay gặp lại chàng
Tử sinh em đã biết
Xin chàng hãy định tâm
Để trước sau như một
Em đã có kinh nghiệm, em biết thế nào là sống và thế nào là chết. Đứng về phương diện kinh nghiệm thì Thúy Kiều dày dặn, khôn ngoan hơn Kim Trọng rất nhiều. Thúy Kiều đã trải qua biết bao là khó khăn, khổ đau và đã học biết được thế nào là cái chết và cái sống.
Đêm đó là đêm oanh liệt nhất của Thúy Kiều, tại vì Thúy Kiều đã dạy cho Kim Trọng. Thúy Kiều hành động giống như đêm đầu. Cái gì Thúy Kiều cũng chiều Kim Trọng. Dù không muốn đàn nữa nhưng khi Kim Trọng muốn thì Thúy Kiều cũng đàn. Thúy Kiều làm tất cả những gì mà Kim Trọng yêu cầu trừ chuyện ngủ với Kim Trọng. Thúy Kiều nói:
– Thà chết thì thôi chứ em không thể nào ngủ với anh được. Như vậy thì sẽ giữ được tình yêu, còn nếu không thì anh sẽ trở thành kẻ thù của em. Nếu anh ép em phải ngủ với anh thì anh không phải là người thương của em nữa. Em đã đạt tới sự thanh tịnh. Tuy bây giờ em không tu dưới hình thức của một sư cô nhưng em tu dưới hình thức của một cư sĩ. Em phải giữ giới. Sở dĩ em được trong sáng, thanh tịnh trở lại là nhờ giới luật. Đứng về phương diện hình thức thì mình là vợ chồng cũng không đến nỗi nào, nhưng trong phương diện nội dung thì nếu làm chuyện đó thì mình thành kẻ thù của nhau. Anh phải chọn lựa!
Bài thơ cuối là một tối hậu thư:
– Ngày đầu gặp nhau như vậy thì hôm nay gặp nhau cũng như vậy. Như vậy thì mình có thể sống với nhau lâu dài.
Và khi nghe những lời đó thì Kim Trọng hoảng hồn nói:
– Như vậy thì em đâu phải là một người đàn bà tầm thường? Em là một vị nữ hào kiệt! Lâu nay anh đi tìm em đâu phải vì những chuyện trăng hoa mà là vì tình nghĩa.
Khi Kim Trọng chấp nhận điều đó thì Kiều đứng dậy sửa khăn áo và lạy xuống nói:
Có một bài thơ của Vũ Hoàng Chương có lẽ ít người biết đến. Đây là một trong những bài thất ngôn tứ tuyệt.
“Dấu hỏi vây quanh trọn kiếp người Sên bò nát óc máu thầm rơi Chiều nay một dấu than buông dứt Đinh đóng vào săng tiếng trả lời.”
Người miền Nam và miền Trung có lẽ chưa biết chữ “săng” này. Săng có nghĩa là hòm, là cái quan tài. “Dấu hỏi vây quanh trọn kiếp người” Nếu là con người thì có tư duy. Ở Tây phương, người ta thường ví con người là cây sậy biết suy tư. Cây sậy rất yếu đuối, dễ bị tai nạn, dễ bệnh, dễ chết nhưng nó có khả năng tư duy. Trừ khi ta quá bận rộn lo làm ăn, còn lại ta thường đặt ra những câu hỏi như “ta từ đâu đến?” “Tại sao ta đến đây?” và “Sau này ta sẽ đi về đâu?” Những câu hỏi đó thường ám ảnh ta. Bao nhiêu nhà triết học, bao nhiêu nhà thơ cũng đã từng đặt ra những câu hỏi như thế, nhưng vì họ làm việc bằng trí năng nên đã không tìm ra được câu trả lời thỏa đáng. Với người có suy tư và biết nhìn sâu thì đặt ra không biết bao nhiêu câu hỏi về thân phận con người. “Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi, để một mai tôi về làm cát bụi?” Rất nhiều những câu hỏi như vậy vây quanh chúng ta. Đi cũng bị chúng vây bủa, đứng cũng bị chúng vây bủa, và nằm ngủ cũng bị chúng bủa vây, vì con người là cây sậy biết tư duy. Những câu hỏi đó là những dấu hỏi bám vào óc mình như những con sên. Vì theo thi sĩ hình ảnh dấu hỏi là hình ảnh của những con sên. “Sên bò nát óc”. Trong não bộ của mình có những con sên hình dấu hỏi đang bò đi để tìm hiểu. Đó là hình ảnh của thi ca. Khi làm thơ chúng ta phải mượn hình ảnh chứ không được tuyên bố bằng những danh từ trừu trượng. Ví dụ khi buồn ta nói mây sám giăng trong hồn tôi chứ không được nói tôi buồn, nói tôi buồn thì không phải là thơ.
Mẫu người tư duy thường đưa ra những câu hỏi rất dễ sợ, trong bộ não ta có những con sên đang bò suốt ngày đêm để tìm kiếm. “Sên bò nát óc máu thầm rơi”, nát óc là không tìm ra được câu trả lời. Đó là vấn đề sống chết của con người. Không phải nước mắt mà là máu, tức là chúng ta đã làm việc quá nhiều. “Máu thầm rơi”. Thấy được nỗi khổ niềm đau của con người, chúng ta muốn biết được sự thật, muốn tìm ra câu trả lời cho kiếp người, nhưng không tìm ra được, điều đó đã trở thành nỗi khổ niềm đau. Nỗi khổ niềm đau không phải chỉ của các nhà triết học, mà là của tất cả chúng ta. Và cứ như vậy mà ta sống hết ngày này qua ngày khác vẫn không tìm ra được câu trả lời cho câu hỏi nát óc đó. Cho đến một ngày kia
“Chiều nay một dấu than buông dứt Đinh đóng vào săng tiếng trả lời”
Chết rồi nằm trong quan tài nhưng vẫn chưa có câu trả lời. Và dấu than đối lại với dấu hỏi. Dấu than không phải là hình con sên mà là hình của cây đinh đóng vào quan tài của mình. “Đinh đóng vào săng tiếng trả lời”, xác của mình đã nằm trong quan tài rồi và người ta đã đóng lại. Tiếng “binh, binh” đó là tiếng trả lời. Nói tóm lại là không có tiếng trả lời cho những câu hỏi như vậy. “Tại sao ta có mặt ở đây? Ta từ đâu tới? Ta sẽ đi về đâu?Tại sao ta phải hứng chịu tất cả những hệ lụy của kiếp người? Tại sao có quá nhiều đau khổ trong một kiếp người?” Và dụng cụ đi tìm câu trả lời cho những câu hỏi đó chỉ là não bộ, là trí năng của mình. Siddhattha ngày xưa cũng đã từng đi tìm và ban đầu Siddhattha đi tìm bằng trí năng. Nhưng sau đó Siddhattha biết rằng không thể đi tới và tìm ra được câu trả lời bằng trí năng nên Siddhattha phải sử dụng cả con người của mình. Khi tu thiền chúng ta phải biết rằng ý thức không đủ để giải quyết vấn đề mà phải dùng cả tàng thức, cả thân và tâm của mình. Cho nên đi tìm câu trả lời bằng con đường của trí năng thì không thể đạt tới được, và cuối cùng chỉ có những cây đinh đóng vào săng mà thôi. Có một bài thơ trong thi phẩm Rừng Phong của Vũ Hoàng Chương là “Bài Ca Siêu Thoát”, nhưng không được siêu thoát lắm vì ông chưa tìm ra được câu trả lời mà cứ hy vọng rằng mình sẽ tìm ra và đã tìm ra.
“ Trải mấy hoang mang tìm kiếm Lòng sao khát mái chưa vừa” Đôi lẽ có không mầu nhiệm, Đêm đêm ta hỏi người xưa”
Tức là ta tư duy về vấn đề hữu thế và vô thế. Đây là đề tài để suy nghĩ, ta thực sự có mặt đây hay ta đang không có mặt. Hầu hết nhà triết học nào cũng bắt đầu bằng câu hỏi này
“ Trải mấy hoang mang tìm kiếm Lòng sao khát mái chưa vừa” Đôi lẽ có không mầu nhiệm, Đêm đêm ta hỏi người xưa”
Người xưa là những người đã suy tư về vấn đề có và không. Người xưa đã cống hiến kết quả suy tư của mình trên những trang giấy trắng hoặc bằng chữ Hán, hoặc bằng chữ Hy Lạp, chữ La tinh và ta chong đèn lên mỗi đêm để đọc sách triết học, đọc sách người xưa, hy vọng tìm ra được câu trả lời.
“ Đôi lẽ có không mầu nhiệm, Đêm đêm ta hỏi người xưa”
Ban ngày ta bận rộn, ban đêm chong đèn lên để tìm kiếm.
“ Đuốc kim cổ, đây lòng ta thành kính Hội trầm luân cùng ý thức huyền vi Mà sáu nẻo hôn mê còn chữa định Ta về đâu, kìa ngươi đến làm chi”.
Đuốc kim cổ là bó đuốc ngày xưa và bây giờ dùng để soi sáng cho mình. Ta sử dụng với tất cả sự thành kính của ta. Cùng thuyền, cùng hội cùng trầm luân với nhau, và cùng có ý thức đi tìm lẽ huyền vi của cuộc đời.
“Mà sáu nẻo hôn mê còn chữa định Ta về đâu, kìa ngươi đến làm chi”
Sáu nẻo hôn mê ở đây tác giả muốn nói đến sáu đường: thiên, nhân, Atula, địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh. Sáu nẻo đều hôn mê hết chưa tìm thấy con đường. Địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh không thấy đã đành mà con người cũng không thấy được con đường. Không những Atula mà chư thiên ở trong tam giới cũng chưa thấy được con đuờng. Ta chưa tìm ra được câu trả lời “ta sẽ đi về đâu” thì ngươi đến để làm chi? Ngươi sinh ra làm chi cho khổ? Sinh ra làm chi để cho ta phải đặt câu hỏi
“Tại sao ta phải sinh ra? ta sinh ra để làm gì ? Ta sẽ đi về đâu? Ta về đâu kìa ngươi đến làm chi”
Tức là có đến và đi. Sau khi có vấn đề “hữu và vô” thì có vấn đề khứ và lai, đó là những đề tài của triết học. “Mà sáu nẻo hôn mê còn chữa định”chữa tức là chưa “ta về đâu, kìa ngươi đến làm chi”, câu hỏi đặt ra rất rõ ràng. Anh từ đâu tới và tôi sẽ đi về đâu? Tại sao chúng ta phải có mặt ở đây?
“Phải chăng muôn kiếp nặng nề Từ hư không tới lại về không hư”
Có phải mình từ hư không tới và mình sẽ trở về hư không hay không? Lần trước chúng ta cũng nghe Trịnh Công Sơn nói tương tự như vậy, mình từ hư không tới rồi mình sẽ trở về hư không. Đó là do mình chưa tiếp xúc được với tuệ giác đạo Bụt. Tuệ giác của đạo Bụt thì không có cái gì từ không mà trở thành có và cũng không có cái gì từ có mà trở thành không. Như đám mây, đám mây không phải từ không mà trở thành có và đám mây cũng không bao giờ từ có mà trở thành không. Vì vậy tuệ giác đạo Bụt vượt thoát Hữu và Vô. Nội câu này thôi cũng đã chứng tỏ rằng trong khi viết bài thơ này tác giả chưa tiếp xúc được với nguồn tuệ giác của đạo Bụt,
“Phải chăng muôn kiếp nặng nề Từ hư không tới lại về không hư Lẽ nào mộng cả thôi ư, Người ơi giọt bệ, chứa dư tan điền”
Ruộng dâu biến thành bãi biển. Rồi bãi biển trở thành đất liền. Đất liền trở thành ruộng dâu. Rồi ruộng dâu trở thành bãi biển. Đó là vô thường. Hôm nay thế này, ngày mai thế kia. Hôm nay có, ngày mai không. Hôm nay không, ngày mai có. Có phải là từ không trở thành có? Hôm nay ta có mặt ở đây nghĩa là ta có. Ngày mai ta không có mặt ở đây nữa có phải là từ có trở thành không?
“Sông ôm bóng nguyệt không mà có Hay có mà không nhỉ gã say? Người vừa ôm ấp trong tay Nhạc dợn đêm nào vạn cổ Sau trước cùng chung niềm tính mộ Đâu lẽ có chiều qua mà không sáng nay”
Người mình ôm trong tay để khiêu vũ theo tiếng nhạc trên sàn gỗ bây giờ không còn nữa. Có phải sự thật người đó đã từng có mà bây giờ thành không hay không? Đó là câu hỏi được đặt ra nhưng chưa có câu trả lời. Hồi còn trẻ tôi thích đọc thơ, những bài thơ của Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận… tôi đã đọc thuộc lòng. Bài thơ “Trước Cảnh Cao Rộng” nói lên tâm trạng của tác giả đứng trên bãi biển nhìn không gian mênh mông, bỗng cảm thấy con người mình quá bé nhỏ và không biết tại sao mình có mặt ở đây. Sự có mặt của một sinh vật nhỏ bé như mình có ý nghĩa gì không?
“ Tôi rộng trong ra bốn phía xa khơi Cảnh mênh mông riêng có một mình tôi Đang thơ thẫn với nỗi lòng bát ngát Như kẻ bộ hành ngơ ngác Lạc vào nơi đồng đất hoang vu Ta mang theo một khối tình u Tìm mà chẳng thấy lẽ uyên thâm trong tạo vật Ngừng bước nản tôi trông mây, trông nước Trông bầu xanh trong nét mặt u trầm. Hỏi có nghe thấy tiếng ta chăng Nghe thấy tiếng một tâm hồn đau khổ Ta muốn biết lẽ nhiệm mầu trong vũ trụ Nhưng than ôi, tạo vật vẫn làm thinh Ngàn muôn năm giữ vẻ mặt vô tình Và lãnh đạm cao siêu huyền bí”.
Trời đất rất vô tình lãnh đạm, cao siêu huyền bí. Đó là Thế Lữ. Còn Chế lan Viên thì sao? Ghê rợn hơn nữa. “Sao ở đâu mọc lên trong đáy giếng” tưởng tượng tâm hồn mình là một đáy giếng rất sâu, sâu thăm thẳm và có một ngôi sao mọc lên từ đó.
“Sao ở đâu mọc lên trong đáy giếng Lạnh như hồn u tối vạn yêu ma. Hồn của ai trú ẩn ở đầu ta Ý của ai trào lên trong đáy óc Để bay đi theo tiếng cười nhịp khóc” Những câu đó rất đau khổ. “Biết làm sao giữ mãi ta đây Thịt cứ chìu theo thú dục chua cay Máu cứ nhảy theo nhịp cuồng kẻ khác Mắt theo dõi tinh hoa bao màu sắc Đau đớn thay cho đến cả linh hồn Cứ đi tìm chán nản với u buồn Để đỉnh sọ trơ vơ tràn ý thịt Mà phải đâu đã đến ngày tiêu diệt Ai bảo dùm ta có có ta không?
Là học trò của Siddhattha chúng ta có cơ hội vì chúng ta biết rằng nếu ta đi tìm bằng con đường năng trí thì chúng ta sẽ thất bại.
“Dấu hỏi vây quanh trọn kiếp người Sên bò nát óc máu thầm rơi Chiều nay một dấu than buông dứt Đinh đóng vào săng tiếng trả lời”
Vì vậy khi đến chùa là ta đã có cơ hội, ta phải tìm cách tiếp xúc cho được phương pháp thực tập, để có thể cung cấp cho mình những câu trả lời, mà đừng đi tìm những tiện nghi nhỏ nhặt. Khi tới chùa nếu được gặp thầy, gặp bạn, thì phải nhớ mục đích mình tới chùa để làm gì. Không phải bỏ thời gian để nói chuyện này, chuyện nọ. Không khí ở chùa là không khí trong đó mình có thể đi tìm những câu trả lời. Còn nếu mình để thì giờ để nói chuyện kinh tế, chính trị, chuyện công ăn việc làm, chuyện chùa này chùa khác thì uổng lắm. Khi được ngồi với các thầy, các sư cô, các đạo hữu đã tu học lâu hơn mình, thì phải biết lợi dụng các cơ hội đó mà học hỏi các phương pháp quán chiếu để trả lời các câu hỏi kia. Làm sao để có niệm, có định để rồi có tuệ? Vì chỉ có tuệ mới đưa đến câu trả lời, mới giải phóng mình ra khỏi vùng vô minh, hắc ám đã bao phủ mọi người.“Dấu hỏi vây quanh trọn kiếp người” tức là màn vô minh. Trong thi phẩm Rừng Phong xuất bản tại Sài Gòn năm 1954, có bài thơ “Nguyện cầu” in ở trangđầu tiên, như một bản tuyên ngôn của tác giả. Tập thơ này do Đinh Hùng trình bày, Đinh Hùng cũng là một thi sĩ. Khi đọc bài này ta có thể thấy được tâm trạng của Vũ Hoàng Chương 50 năm trước vẫn chưa thấy được đạo. “Ta còn để lại gì không?” Câu hỏi đặt ra là sau khi chết mình để lại gì cho cuộc đời. Các nhà tư tưởng, các nhà nghệ sĩ, các nhà chính trị muốn để lại sự nghiệp của mình cho đời. Vì người nào cũng có khuynh hướng, có ước muốn đi tìm cái bất tử. Tu theo đạo Lão, người ta muốn làm thế nào để thành trường sinh bất tử, và tu theo đạo Bụt người ta cũng muốn đạt đến cái vô sanh bất diệt. Và câu hỏi “Ta con để lại gì không?” cũng biểu lộ cái khuynh hướng và ước muốn đó.
“Ta còn để lại gì không Kìa non đá lỡ, này sông cát bồi”
Núi đá thì lỡ ra mà dòng sông thì cát bồi, có những con sông bị cát bồi dần dần thành dòng sông cạn.
“Lang thang từ độ luân hồi U minh nẻo trước xa xôi dặm về”.
Tác giả đã sử dụng từ luân hồi của đạo Bụt nhưng thực chất tác giả chưa hiểu được luân hồi là gì, “U minh nẻo trước” tức là mình không thấy rõ con đường trước mặt. Và con đường trở về quê hương đích thực của mình cũng còn rất xa. Cho nên bài “Nguyện cầu” này cũng là một câu hỏi.“Lang thang từ độ luân hồi” có một giai đoạn nào đó mình bị đi luân hồi, trước đó mình rất an lành nhưng vì mắc phải lầm lỗi nào đó nên bị đày xuống trần gian “ U minh nẻo trước xa xôi dặm về”, phía trước thì u minh đen tối, phía sau con đường trở về thì mịt mờ, không biết đi đâu. Rất tội nghiệp! “Trông ra bến hoặc bờ mê”, nhìn ra thì thấy toàn là bến bờ mê hoặc, toàn là vô minh, không có gì sáng sủa, không có gì là sự thật cả. Trong danh từ Phật học chữ “hoặc” có nghĩa là phiền não, đây là từ chuyên môn của đạo Bụt.
“Trông ra bến hoặc bờ mê Nghìn thu nửa chớp bốn bề một phương”
Nghìn thu là nghìn năm, chỉ ngắn bằng nửa cái chớp, rất vô thường! “Nghìn thu nửa chớp bốn bề một phương” nghĩa là tuy nói bốn phương nhưng kỳ thực không đi xa được, nó cũng chỉ là một phương thôi. Điều mà thi sĩ thấy được là tính vô thường của thực tại. Tuy nhiên thi sĩ không đi xa hơn cái thấy vô thường đó, bởi vì trong sự tu học nếu biết đào sâu vào vô thường thì chúng ta mới tìm thấy vô ngã. Nhưng thi sĩ không được ai trao truyền những dụng cụ để đào sâu vào sự thật vô thường. Vì vậy thi sĩ chưa bao giờ khám phá được sự thật vô ngã. Có rất nhiều người nói đến vô thường. Heraclitus cũng nói đến vô thường, và đức Khổng Tử cũng nói đến vô thường. Heraclitus nói: “không ai có thể tắm hai lần dưới một dòng sông”. Đó là vô thường. Dòng sông phút sau không còn là dòng sông của phút trước nữa. Người tắm cũng vậy, người tắm xuống rồi lên lại là đã trở thành người khác rồi. Vì vậy trong câu nói đó chứa đựng tuệ giác vô thường. Còn đức Khổng Tử đứng trên bờ sông nhìn xuống thì than rằng “Cứ chảy mãi như thế này sao, ngày đêm không ngưng nghỉ”. Tức là ngài nói đến sự vô thường. Bụt cũng nói về vô thường, nhưng vô thường của Bụt khác, vô thường của Bụt không phải là lời than thở, mà là một phép quán. Ta phải sử dụng định vô thường, tam muội vô thường như là một dụng cụ, một cái cuốc để đào bới. Vì vậy vô thường không phải để thở than. Vô thường không phải là một triết thuyết, nó không mang tính chất triết học. Vô thường là một dụng cụ, là một phép quán, nhờ dụng cụ vô thường đó mà mình biết đào xới thực tại và nhờ thế mới phát hiện ra viên ngọc Vô ngã. Vô ngã sẽ trở thành một dụng cụ khác để đào xới và làm phát khởi sự thật tương tức, vô sinh bất diệt. Các thi sĩ, các nhà triết gia sử dụng trí năng của họ để suy tư. Nhưng ở đây không phải là vấn đề suy tư mà là vấn đề thực tập.
Trong thiền Tào Động, Tào Động Tông là một trong năm tông phái thiền, có một thiền ngữ như thế này: “Tư lương cá bất tư lương để, bất tư lương để như hà tư lương, phi tư lương thị thiền chi yếu giả”. Tư lương đọc là tư lượng. Tư lượng tức là suy tư, tư duy. Lượng là đo là cân. Tư lượng tức là cân nhắc, đo lường. “Tư lương cá bất tư lương để” là suy tư cái không thể suy tư. Trong danh từ đạo Bụt có từ “Bất khả tư nghì ”, nghì là bàn luận. Cái gì không suy tư không bàn luận được? Cái gì mà nói ra là trật, không thể tư duy được? Cái gì mà mầu nhiệm vậy? Cái mà không thể suy tư, không thể tìm tới bằng con đường suy tư, không thể diễn tả bằng lời nói gọi là“ bất khả tư, bất khả nghì” Cái không thể suy tư làm sao mình suy tư được? Cái không thể tư lượng làm sao tư lượng được? Đó là hiệu lệnh của thiền Tào Động. Vì vậy con đường tư duy không đưa tới kết quả. Khi học tổ Lâm Tế ta nghe tổ dạy, mình cần phải đoạn cảnh, cần phải cắt đứt đường rày của tư duy, vì tư duy là cứ chạy quanh. “Sên bò nát óc máu thầm rơi”. Tư lượng về cái không thể tư lương là vô nghĩa vì cái không tư lương thì làm sao tư lương được. Vì vậy cái không tư duy là yếu chỉ của thiền Tông. Đó là trực giác, là Bát Nhã. Chỉ có cái đó mới khám phá, khơi mở, diễn bày sự thật mà thôi. Trí tuệ giác Bát Nhã không phải là tư duy. Ví dụ như quý vị đã từng ăn sầu riêng, bây giờ muốn giúp cho một người Tây Phương chưa bao giờ ăn sầu riêng, chưa biết sầu riêng là gì, quý vị giải thích sầu riêng là như thế này, sầu riêng là như thế kia, và dù quý vị có làm cho họ tư duy cách mấy đi nữa họ cũng không thể nào hiểu được về trái sầu riêng là gì. Sầu riêng là cái không thể tư duy được. Chỉ có một cách giúp họ là đút một miếng sầu riêng vào miệng họ. Cái đó gọi là trực giác. Phải chấm dứt tư duy để đi tìm trực giác. Vì vậy ngồi thiền không phải để tư duy, ngồi thiền là để sử dụng tuệ giác trực tiếp của mình.
“Ta còn để lại gì không Kìa non đá lỡ, này sông cát bồi Lang thang từ độ luân hồi U minh nẻo trước xa xôi dặm về Trông ra bến hoặc bờ mê Nghìn thu nữa chớp bốn bề một phương”
Đã thấy được tính vô thường nhưng không biết sử dụng vô thường như là một dụng cụ để đào bới, để tìm kiếm. Do đó tác giả chưa bao giờ khám phá được vô ngã mà vô ngã thực ra nằm sát ngay sau lưng vô thường. Thấy được vô thường là thấy được vô ngã. Các nhà triết học kia kể cả Khổng Tử, Heraclituschưa thực sự thấy được vô thường. Vì thấy được vô thường sâu sắc thì thấy được vô ngã, vì vô thường là mặt khác của vô ngã. Vô thường là đứng về phương diện thời gian mà diễn bày, còn vô ngã là đứng về phương diện không gian mà nhìn nhận. Thực sự, thấy được vô thường thì thấy được vô ngã. Chưa thấy được vô ngã thì chưa thấy được vô thường.
“Trông ra bến hoặc bờ mê Nghìn thu nửa chớp bốn bề một phương Ta vang cát bụi trên đường Dù nhơ dù sạch đừng vương gót này.
Trong tư duy của thi sĩ vẫn còn có dấu tích của truyền thống Á đông. Những con người đặc biệt có tài năng, và hầu hết chúng ta cũng vậy đều có tư tưởng chúng ta là Trích Tiên, tức là vị tiên sống trên thượng giới nhưng vì bị lầm lỡ gì đó nên Ngọc Hoàng đày chúng ta xuống trần gian, và chúng ta phải sống bao nhiêu kiếp đó cho đến khi chuộc được lỗi lầm thì ngài cho trở về thượng giới. Và ta đang sống ở cảnh giới mà Tây Phương gọi là rơi xuống bị đọa đày, Adam và Eva bị rớt xuống trần gian. Thượng đế tạo ra hình ảnh vì không nghe lời thượng đế ăn trái cấm và đã cứu chuộc hơn 2500 năm mà vẫn chưa lên trở lại được. Trong sâu thẳm tâm hồn, chúng ta nghĩ rằng, ngày xưa chúng ta ở một nơi rất nhiệm mầu rất an ổn, không tư lượng, không lo lắng gì cả, tự nhiên bây giờ sinh ra làm một kiếp người, phải lo lắng quá nhiều, phải suy tư quá nhiều. Vì thế bây giờ ta mong ước trở lại chỗ ngày xưa, nơi mà ta hoàn toàn an ổn, không cần phải lo lắng cho tương lai hay hối hận gì về quá khứ. Không phải chỉ có các nhà triết học, các nhà thi sĩ mới có khuynh hướng như vậy mà tất cả chúng ta đều có cảm tưởng như thế. Nghĩa là chúng ta tới từ một chỗ rất yên ổn, rất an lành và chúng ta đang khổ đau vì bị luân hồi, vì bị làm một vị Trích Tiên ở hạ giới. Chúng ta nghĩ rằng khi ta đền hết tội thì ta sẽ được trở về nơi khung trời an lành của ta ngày xưa. Người nào cũng cho mình là một vị Trích tiên, một vị tiên bị đọa xuống trần gian.
“Lang thang từ độ luân hồi U minh nẻo trước xa xôi dặm về”.
Đó là cái thấy của tác giả, cái thấy của chúng ta. Thật ra nếu nhìn sâu một chút chúng ta sẽ thấy rằng chúng ta đã từng sống qua cảm giác yên ổn đó rồi, đó là khoảng thời gian chúng ta ở chín tháng trong bụng mẹ, bụng mẹ là cung điện của người con (gọi là tử cung). Chúng ta ở đó yên lành không phải lo lắng gì cả, cái gì cũng có mẹ lo. Không cần phải lo ăn, lo uống, lo thở, không cần phải đối phó gì hết. Chín tháng trong bụng mẹ là hoàn toàn vô ưu. Siddhattha đã sinh ra dưới cây vô ưu. Nhưng dù sinh ra dưới cây vô ưu, Siddhattha cũng ưu tư rất nhiều. Ưu tư quá nhiều đến nỗi phải bỏ nhà, bỏ cung điện đi tu. Vì không thể trốn thoát được những câu hỏi đó nên phải đi tìm. Và cứ nghĩ rằng mình đi luân hồi mấy kiếp để trả nợ, đền hết tội rồi mới được trở về chỗ an lành đó. Tản Đà cũng có một bài thơ nói chuyện này, ngày xưa mình cũng là Trích Tiên ở trên thượng giới bị đày xuống trần gian làm thi sĩ rất cực. Bán một bài thơ được mấy chục đồng thôi, lại có khi bán không chạy và không có tiền để tiếp tục làm thơ nên phải đình bán. Đó là số kiếp của Tản Đà, Nguyễn Khắc Hiếu. Có một đêm, Tản Đà mơ thấy chư thiên trên trời xuống mời lên đọc thơ cho thượng đế nghe. Sau khi đọc thơ, chư thiên và Ngọc Hoàng rất thích. Ngọc Hoàng nói rằng ngày xưa con cũng ở đây làm chư thiên, nhưng vì con lầm lỡ nên bị đày xuống trần gian. Con ráng truyền bá lý thuyết nhân bản, mai mốt đền được tội thì Ngọc Hoàng sẽ cho con trở về thượng giới. Đó là bài thơ của Tản Đà.
“Ta vang cát bụi trên đường Dù nhơ dù sạch đừng vương gót này Để ta tròn một kiếp say Cao xanh liều một cách tay níu trời Nói chi thua được với đời Quản chi những tiếng ma cười đêm thâu Tâm hương đốt nén linh sầu Nhớ quê dằng dặt ta cầu đó thôi”
Ta không thuộc về thế giới này, ta là vị tiên, vì vậy ta không muốn dính vào những cát bụi, ganh tị, đố kỵ, tham lam. Ta không muốn dính vào hệ lụy đó. Ta muốn mai mốt ta sẽ trở về chỗ của ta trên kia. Đó là tư duy của vị Trích Tiên. Bài thơ “Nguyện cầu” này nhớ về cõi mà mình đã ra đi và mình hoàn toàn không muốn dính líu, không muốn để lại sự nghiệp gì ở đây hết. “Ta còn để lại gì không?” Ta không còn thuộc về thế giới này nữa, ta thuộc về thế giới khác. Trong khi đó đạo Bụt nói rằng Niết Bàn và thế gian là một. Muốn đi tìm Niết Bàn phải đi tìm ngay trong thế gian. Ta Bà chứa đựng Tịnh Độ. Và Bồ Đề được tìm ngay trong phiền não. Điều này tác giả chưa tiếp xúc được, chưa có kiến thức Phật học, chưa có thực tập.
“Nói chi thua được với đời Quản chi những tiếng ma cười đêm thâu Tâm hương đốt nén linh sầu Nhớ quê dằng dặt ta cầu đó thôi Đêm nào ta trở về ngôi Hồn thơ sẽ hết luân hồi thế gian”
Ta đâu muốn có sự nghiệp gì ở cõi đời này. Ta không cần gì hết. Về trên kia ta để lại cái này cho các ngươi, muốn tranh dành bao nhiêu thì tranh dành.
“Đêm nào ta trở về ngôi Hồn thơ sẽ hết luân hồi thế gian Một phen đã nến cung đàn Nghĩ chi còn mất hơi tàn thanh năm”.
Một phen mà tôi không còn làm thơ nữa thì tôi không nghĩ rằng thơ tôi có người đọc hay không có người đọc. Tôi không bận tâm về điều đó. Đây là tuyên cáo của Vũ Hoàng Chương. Nhưng từ năm 1963 Vũ Hoàng Chương đã đổi khác. Vũ Hoàng Chương sinh năm 1916 đậu tú tài Tây, sau đó học luật. Nhưng chán không thích luật nên bỏ học, làm phó giám đốc cho sở hỏa xa. Làm ở sở hỏa xa cũng chán nên ông đi về học toán. Học toán cũng không thích cuối cùng ông làm thơ. Năm 1945 ông tham gia kháng chiến, năm 1950 bỏ kháng chiến. Không tìm thấy hạnh phúc trong ngành luật, toán học, hỏa xa, kháng chiến. Nên năm 1951 ông di cư vào miềm Nam. Năm 1963 khi Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu cho nhân quyền Việt Nam thì Vũ Hoàng Chương xúc động vô cùng và ông đã viết bài thơ Lửa Từ Bi mà nhiều người Phật tử đã thuộc lòng. Hành động tự thiêu của Hòa thượng Quảng Đức đã làm chấn động tâm can Vũ Hoàng Chương, đã biến Vũ Hoàng Chương thành một con người khác và Vũ Hoàng Chương đã thấy rằng mục đích của con người là để xây dựng tình huynh đệ. Trong bài thơ Lửa Từ Bi có chữ tình huynh đệ. Tôi thích nhất là câu“ Ôi đích thực hôm nay trời có mặt” đó là giây phút hòa thượng tự thiêu. “Giờ là giờ hoàng đạo nguy nga” giờ hoàng đạo là 12 giờ trưa.
“ Ôi đích thực hôm nay trời có mặt Giờ là giờ hoàng đạo nguy nga Muôn vạn khối sân si vừa mở mắt, Nhìn nhau tình huynh đệ bao la”.
Chỉ khi nào có tình thương lớn người ta mới có hành động như vậy. Hành động hoàn toàn vị tha, hoàn toàn hy sinh cho sự sống, cho tình huynh đệ.
“Ngọc hay đá tượng chẳng cần ai tạc Lụa hay tre nào hiến bút ai ghi Chỗ người ngồi một thiên thu tuyệt tác Trong vô hình sáng chói nét từ bi”
Hành động tự thiêu đó mục đích không phải để có danh, không phải là để lại cho đời một cái gì mà hoàn toàn là do từ bi, do tình huynh đệ, không cần người ta tạc hình thành ngọc thành đá, không cần ai ghi tên mình vào sử sách. Đó là hành động rất trong sáng, đó là tình huynh đệ. “Chỗ người ngồi một thiên thu tuyệt tác”, chỗ ngồi đó là một tác phẩm lớn, mình không thấy gì cả nhưng nhờ có con mắt tuệ nên ta thấy chỗ đó là cái ngai của Từ Bi.
“Rồi mai sau còn chi Ngọc đá cũng thành tro Lụa tre dần mục nát Với thời gian lê vết máu qua đi”.
Tất cả những cái đó ngọc đá, lụa tre… sẽ qua đi chỉ còn một chữ ở lại mãi mãi đó là chữ Trái tim Bồ Tát .
“Còn trái tim Bồ Tát xuống tận ngục A Tỳ Ôi ngọn lửa huyền vi Thế giới ba ngàn phút giây ngơ ngát” Tất cả địa cầu chấn động vì tình thương đó “Từ cõi vô minh hướng về cõi cực lạc Vần điệu của thi nhân chỉ còn là rơm rác. Và chí nguyện được làm rơm rác Thơ cháy lên với lời kinh tụng Cho nhân loại thanh bình Trước sau bền vững tình huynh đệ này”.
“Tình huynh đệ ” được dùng lại lần thứ hai. Có thể nói bài thơ này thực chất là ca ngợi tình huynh đệ. Hòa thượng Thích Quảng Đức là biểu tượng của tình huynh đệ. Có tình huynh đệ là đời sống của mình có ý nghĩa. Cho nên nếu một ngày nào còn sống, còn xây dựng tình huynh đệ là ngày đó đời còn có ý nghĩa. Và bản chất của đạo Bụt là Từ Bi, Từ bi chính là tình huynh đệ. Vì chữ Maitri (Từ) bắt nguồn từ chữ Mitra mà ra, nghĩa là huynh đệ. Và chữ “Từ” dịch cho đúng là tình huynh đệ, tình anh em, tình chị em.
“Từ cõi vô minh hướng về cõi cực lạc”. Đó là nhờ tình huynh đệ. Vừa mới sân si đó, vừa mới kỳ thị đó mà khi thấy được một hành động không kỳ thị thì tác giả lập tức chọc thủng được vô minh, thấy được cõi cực lạc. Tức là cõi của tình thương. “Vần điệu của thi nhân chỉ còn là rơm rác” Tôi muốn ca ngợi Hòa thượng Quảng Đức, nhưng vần điệu thơ của tôi không đủ sức để ca ngợi hành động đẹp đẽ đó.
“Và chí nguyện được làm rơm rác Thơ cháy lên với lời kinh tụng Cho nhân loại thanh bình Trước sau bền vững tình huynh đệ này”.
Từ đó trở về sau Vũ Hoàng Chương sử dụng thơ của mình để xây dựng tình huynh đệ.
Bài thơ này ra đời sau bài Lửa Từ Bi, tựa đề là Nổi Lửa Từ Bi. Bài này Vũ Hoàng Chương nói đến Đại Hùng Đại Lực của Từ Bi. Từ Bi có sức mạnh rất lớn, sức mạnh này sẽ thắng được lửa của bom, của đạn. Đứng đầu của một chế độ là ông vua, ông chúa có khi gọi là Tổng Thống, ngôi chúa tức là vương vị, là ngai vàng, là ghế của Tổng Thống. Ngôi chúa thì có quyền hành, có quân đội, có cảnh sát, có công an. Nhưng cuối cùng cũng thua một ngôi khác, là ngôi chùa, ngôi chùa tượng trưng cho sức mạnh của tình thương. Tình thương, tình huynh đệ và lòng từ bi sẽ chiến thắng tất cả.
“Lẽ thường ngôi chúa dựng trên súng, Sẽ tiêu tan dưới đạn Chỉ còn lại tinh thần nhân bản Vằng vặt dưới sông chót vót ngôi chùa Cuộc tranh đấu vượt ra ngoài giới hạn tử sinh Lửa tử sinh mầu nhiệm pháp vô biên. Suối Hùng Lực mấy thu chẳng cạn Nước cành dương tẩy xóa mọi oan khiên”.
Chỉ có Từ Bi mới đáp ứng được hận thù của sinh tử. Không phải vì tôi muốn sống mà tôi tranh đấu. Sống tôi cũng tranh đấu. Chết tôi cũng tranh đấu. Chết và sống chỉ là sự tiếp nối nhau. Chết để mà sống, sống để mà chết. Nên cuộc tranh đấu vượt ra ngoài giới hạn của tử sinh, của lo sợ.
“Lẽ thường ngôi chúa dựng trên súng, Sẽ tiêu tan dưới đạn Chỉ còn lại tinh thần nhân bản Vằng vặt dưới sông chót vót ngôi chùa Cuộc tranh đấu vượt ra ngoài giới hạn tử sinh Lửa tử sinh mầu nhiệm pháp vô biên”
Đây là chân lý của Đông phương cũng như Tây phương, nếu dùng gươm mình sẽ chết vì gươm, dùng súng thì sẽ chết vì đạn. Đó là trường hợp của ngôi chúa, của những vị vua, tổng thống đã sử dụng bom đạn và chính mình sau này sẽ chết vì bom đạn.
“Lẽ thường ngôi chúa dựng trên súng, Sẽ tiêu tan dưới đạn Chỉ còn lại tinh thần nhân bản Vằng vặt dưới sông chót vót ngôi chùa”
Trong bài thơ này Vũ Hoàng Chương đã sử dụng ngôi chúa và ngôi chùa. Nghĩa là nếu đất nước còn có ngôi chùa thì còn tình huynh đệ, còn đức Từ bi. Từ bi thế nào cũng vượt thắng, cũng hóa giải được hận thù. Súng đạn sẽ rơi xuống thành cát bụi, chúng ta không cần phải lo lắng gì cả. Hãy tin ở hùng lực của Đại Từ, Đại Bi, của tình huynh đệ. Đó là niềm tin của Vũ Hoàng Chương. Từ năm 1953 cho đến 1967, tức là 15 năm Vũ Hoàng Chương đã làm ra những bài thơ rất anh hùng, rất can trường, rất vững mạnh, không như bài thơ trước. “Lũ chúng ta lạc loài năm bảy đứa Bị quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh Biển vô tận xá gì phương hướng nữa Thuyền ơi thuyền theo gió hãy lênh đênh”. Không còn những bài chán đời như vậy nữa. Vũ Hoàng Chương đã thức dậy tham dự vào cuộc tranh đấu. Tuy bị chế độ chính trị bạc đãi nhưng nhờ có đại hùng nên Vũ Hoàng Chương không còn đau khổ nữa. Khi chị Nhất Chi Mai tự thiêu, Vũ Hoàng Chương cũng có làm một bài thơ để ca ngợi, chị Nhất Chi Mai là một trong những người thọ giới tiếp hiện đầu tiên. Trước khi tự thiêu chị có viết cho thầy một bức thư “ Thầy ơi, thầy đừng lo chắc chắn sẽ có hòa bình”. Vũ Hoàng Chương rất cảm động và làm bài thơ ca ngợi Nhất Chi Mai.
“Vừa mới hôm nào lửa Yến Phi Bay lên nối cảnh lửa từ bi Giờ đây là nỗi lòng dân Việt Đau xé trời nam lửa Nhất Chi Ba dịp cháy lên thông điệp đó Đêm sao đêm cứ đặc như chì Đốt cho bom đạn tan thành lệ Đôi ngã sông sầu hãy nguyện đi”.
Nhất Chi Mai là người thứ ba tự thiêu. Người thứ hai là Đào Thị Yến Phi. Mình tranh đấu cho hòa bình không phải bằng súng đạn mà bằng quyết tâm của lòng từ bi
“Hãy nguyện cho màu tang trở gió Trên đầu thiếu phụ với cô nhi Mẹ ơi tóc hãy làm giông tố Màu tóc màu tang có khác gì.
Vành khăn tang trên đầu thiếu phụ, vành khăn tang trên đầu cô nhi.
“Trắng một vòng bao quanh trái đất. Nối dài thông điệp lửa uy nghi”
Không chỉ có thiếu phụ và cô nhi đeo khăn tang mà cả trái đất đều có vành khăn tang.
“Sáng trưng hóa lạnh Bồ Câu trắng Sẽ đốt thời gian mở lối về”.
Thế nên lửa Nhất Chi Mai giống như hỏa lệnh, một hiệu lệnh bằng lửa để cho chim Bồ Câu trở về. Đó là thông điệp của Vũ Hoàng Chương. Và từ đó về sau Vũ Hoàng Chương tập ngồi thiền, đi thiền hành và ăn chay.
Đầu năm 1976, có một bữa nọ, năm sáu xe công an một lực lượng vũ trang hùng hậu đến vây quanh nhà Vũ Hoàng Chương. Tại sao chỉ có một thi sĩ ốm yếu trói gà cũng không chặt mà phải dùng tới năm sáu xe công an và một lực lượng vũ trang hùng hậu như thế. Vì họ rất sợ sức mạnh của tình thương, của tình huynh đệ, sẵn sàng chết bất cứ lúc nào cho lý tưởng hòa bình và tình huynh đệ. Khi Vũ Hoàng Chương nghe tiếng xe, tiếng công an đập cửa, Vũ Hoàng Chương bảo bà Chương đừng sợ hãi mà cũng đừng nói nói năng gì cả và ông leo lên sạp gỗ ngồi thiền, tập thở. Đó là phương pháp hay nhất để đối trị với công an. Họ đập cửa vào, lục soát quăng hết tất cả những tài liệu trong hộc tủ, trong tủ áo ra ngoài. Giấy tờ văng ra đầy hết nhưng Vũ Hoàng Chương vẫn ngồi thiền không nói một lời nào. Họ lục soát khắp nơi nhưng không tìm ra được một tài liệu nào chống đối cách mạng, hay chính quyền cả. Tuy thế họ vẫn có bản văn tuyên án cho là Vũ Hoàng Chương đã phản cách mạng, đã làm cái này cái kia, vì vậy hôm nay phải bị bắt đi cải tạo. Đọc xong họ hỏi Vũ Hoàng Chương, anh có nghe chưa ? Vũ Hoàng Chương nhúng vai một cái. Đó là những gì Vũ Hoàng Chương tiếp đón và trả lời cho công an và họ bắt Vũ Hoàng Chương đi học tập cải tạo. Khi tình trạng sức khỏe của Vũ Hoàng Chương đến mức nguy ngập họ mới cho về nhưng đã quá trể. Bà Vũ Hoàng Chương nấu một nồi bún bưng lên cho chồng ăn, nhưng không ăn được đành bỏ xuống. Đây là lời Sư cô Chân Không viết lại trong cuốn “Thử tìm dấu chân trên cát”. Chỉ một hôm sau khi được chính quyền phóng thích thì thi sĩ mất, ngày anh ấy về, chị Vũ Hoàng Chương nấu một nồi bún cho chồng nhưng anh chỉ lùa được vài cọng bún. Chị thuật lại rằng “Đầu năm 1976, ngày mà cán bộ, công an đến bắt anh có đến năm sáu xe và một lực lượng vũ trang hùng hậu vây quanh nhà. Biết trước cớ sự anh Vũ Hoàng Chương bảo chị yên lặng, rồi anh ngồi lên trong tư thế kiết già trong khi cán bộ và công an vào nhà, đập cửa lục soát không sót một ngõ ngách nào và quăng bừa bãi tất cả những đồ đạc lấy ra từ các tủ. Suốt thời gian họ lục soát anh vẫn ngồi bất động không nói năng gì. Cuối cùng khi người chỉ huy đọc bản cáo trạng, Vũ Hoàng Chương lắng nghe, nghe xong anh chỉ khẻ nhún vai. Họ bắt anh từ đó, và trong trại giam sức khỏe của anh đã tàn lụi dần. Có lẽ trong trại giam anh Vũ Hoàng Chương đã thiền tọa rất nhiều”. Được tin Vũ Hoàng Chương mất thầy Nhất Hạnh rất thương cảm và đã dùng nhiều từ ngữ từ trong thơ của Vũ Hoàng Chương để làm một bài thơ ca ngợi ông. Nếu quen thuộc với thơ Vũ Hoàng Chương chúng ta sẽ nhận ra được tất cả những từ ngữ đó.
Đây là bài thơ thầy viết sau khi nghe Vũ Hoàng Chương mất.
“Đêm này dù đã về ngôi Hồn thơ vẫn cứ luân hồi thế gian Bút hoa ngàn kiếp không tàn Đuốc thơ còn cháy trên trang sử người Có không mù mịt biển khơi Nẻo về đã rạng chân trời thênh thang Tĩnh say vẫn một cung đàn Lửa anh hào đốt cháy tan đêm sầu Thơ lên bay vút bồ câu Triều âm chấn động phương nào cũng nghe Giấc mơ hồ điệp đi về Biển đông sóng vỗ kình nghê vẫn còn”.
Tuy Vũ Hoàng Chương đã mất nhưng anh vẫn còn đó với tinh thần bất khuất. Mình mời Sư cô Chân Không thắp nhang cho Vũ Hoàng Chương. Người đã tranh đấu không bằng súng bằng đạn, mà bằng những bài thơ từ bi của mình. Từ người say sưa, chán nản nhưng nhờ giọt nước cam lồ của Đức Thế Tôn đã trở thành người có đại hùng đại lực.
Ngày hôm qua có một số người trẻ đi tắm hồ đã chứng kiến cái chết của một em bé 19 tuổi. Em bị chết đuối. Cái chết có thể đến với ta, đến với người ta thương bất cứ lúc nào. Nếu không chuẩn bị chúng ta sẽ không có khả năng đối phó với những biến cố lớn đó. Chúng ta quá bận rộn, không có cơ hội học cách đón nhận và có thể mỉm cười khi cái chết đến với chúng ta. Chúng ta phải học hỏi và sống như thế nào để chấp nhận được cái chết của bản thân mình cũng như cái chết của người ta thương.
Chúng ta nên đặt câu hỏi là khi chết chúng ta để lại gì cho đời? Lúc 19 tuổi chết thì mình để lại gì? 25 tuổi chết thì để lại gì? 35 tuổi chết để lại gì? Và 60, 80 tuổi chết thì để lại gì? Câu hỏi đó rất hay. Ai để lại? Để lại cái gì? Và để lại cho ai? Nếu trả lời được những câu hỏi đó thì chúng ta hiểu được đạo Bụt. Hiểu được đạo Bụt chúng ta sẽ biết cách làm thế nào để sống cũng đẹp, mà chết cũng đẹp, và như thế ta vượt thoát được sự sợ hãi, lo lắng về cái chết và cái sống.
Tuệ giác của đạo Bụt là tuệ giác vô ngã. Vì vậy chúng ta phải đi tìm câu trả lời theo hướng vô ngã. Phần lớn người ta căn cứ trên ý niệm ngã để trả lời những câu hỏi này, cho nên họ không tìm ra được. Chúng ta nghĩ mình là một thực thể bất biến có một cái ngã tồn tại độc lập. Khi chết đi, cái ngã đó không còn nữa. Nhưng kỳ thực, chúng ta để lại sau lưng một cái gì đó, có thể xấu, có thể tốt, hoặc có thể không có nghĩa lý gì cả – không xấu cũng không tốt. Để lại cho ai? Có thể để lại cho con cháu ta, mà cũng có thể để lại cho đời.
Lúc còn trẻ thi sĩ Vũ Hoàng Chương ăn chơi say sưa nhưng khi lớn tuổi thì ông trở về tu học. Trong bài thơ “Nguyện cầu” đăng ở trang đầu của tập thơ Rừng Phong, có câu “Ta còn để lại gì không?”. Một câu hỏi rất trực tiếp. Tập thơ xuất bản vào khoảng năm 1954 – 1956 khi đất nước đang chia đôi, thi sĩ di cư từ miền Bắc vào miền Nam, làm nghề nhà giáo văn chương. Vũ Hoàng Chương lúc trẻ đã đi nhảy đầm, hút thuốc phiện và đã xuất bản tập thơ Say.
“Sàn gỗ trơn chập chờn như biển gió Không thấy nữa màu xanh hay sắc đỏ”.
Nhảy đầm trong khi say thì đâu còn thấy gì nữa. Và Vũ Hoàng Chương nổi tiếng bởi tập thơ Say đó. Nhưng trong cuộc tranh đấu Phật giáo cho nhân quyền năm 1963 thì trong Vũ Hoàng Chương có sự chuyển đổi rất lớn. Hồi đó, Tổng thống của chúng ta là người Cơ Đốc giáo. Anh trai của Tổng thống làm Tổng Giám mục. Ông có ý muốn Thiên Chúa hóa đất nước Việt Nam. Tổng thống Ngô Đình Diệm cũng có một người anh làm cố vấn chính trị cho mình là Ngô Đình Nhu. Trong sự nôn nóng muốn phát triển Thiên chúa giáo Việt Nam nên đã có những chính sách đàn áp Phật giáo. Một trong những điều quá rõ ràng là ngày Phật Đản không được công nhận là ngày nghỉ chính thức của toàn dân như trước nữa. Trong một nước mà đa số là Phật giáo mà không cho nghỉ ngày Phật đản, thì cũng giống như ở Tây Phương, ngày Noel không được coi là ngày nghỉ của toàn dân vậy. Vì thế Phật tử bắt đầu phản đối. Khi Phật tử đứng dậy biểu tình phản đối thì họ dùng quân đội để đàn áp, bắt các thầy, các sư cô, và phật tử bỏ tù. Chính vì lý do đó nên phong trào tranh đấu vùng dậy. Một phong trào tranh đấu dân quyền không vụ lợi.
Tranh đấu không phải vì muốn tranh đoạt quyền hành hay muốn giành lấy chính quyền, mà tranh đấu để chống lại sự độc tài, vi phạm nhân quyền. Đó là cuộc tranh đấu của phật tử Việt Nam năm 1963-1964, là một cuộc tranh đấu rất thẳng thắn với một trái tim trong sáng. Trước tình hình đó, thi sĩ Vũ Hoàng Chương đã có cảm hứng. Vì vậy với tư cách là một thi sĩ, ông đã làm những bài thơ phổ biến rất rộng rãi trong quần chúng và những bài thơ đó đã nung nấu tâm chí chiến đấu của toàn dân. Thi sĩ không tranh đấu bằng súng đạn hay bằng tổ chức chính trị mà bằng những bài thơ của mình. Những bài thơ của Vũ Hoàng Chương đem lại rất nhiều hào khí, cảm hứng cho dân chúng. Trong quá trình đóng góp vào cuộc tranh đấu, Vũ Hoàng Chương đã học hỏi và thực tập thêm nên đã có nhiều chuyển hóa.
Ví dụ như bài “Lửa từ bi” đã được làm ra sau khi Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu. Đó là vào năm 1963 Hòa thượng Thích Quảng Đức ra ngồi ở ngã tư Phan Đình Phùng, đổ lên mình một thùng xăng, rồi châm lửa và nhập định. Ngài ngồi rất yên. Các nhà báo bao quanh rất đông. Hòa thượng Thích Quảng Đức tự đốt mình như vậy để báo động cho thế giới biết là ở Việt Nam đang có một chế độ độc tài và chúng tôi đang đau khổ. Mấy giờ đồng hồ sau, tất cả các báo chí, đài truyền hình trên thế giới đều đăng tin và hình Hòa thượng Thích Quảng Đức đang ngồi yên trong lửa đỏ. Đó là một thông điệp rất hùng hồn. Cuộc tự thiêu của Hòa thượng Thích Quảng Đức đã làm cho phong trào tranh đấu nhân quyền lên cao, và quốc tế cũng bắt đầu yểm trợ ta. Sau đó chính quyền Ngô Đình Diệm bị sụp đổ. Lửa Từ bi là bài thơ đầu tiên của Vũ Hoàng Chương đóng góp vào phong trào rất hay. Trong bài thơ đó Vũ Hoàng Chương không hề có ý niệm tưới tẩm hạt giống của căm thù. Trái lại bài thơ chỉ tưới tẩm hạt giống của tình huynh đệ.
“Ôi ngọn lửa huyền vi Thế giới ba ngàn Phút giây ngơ ngác Từ cõi nhân gian hướng về cực lạc Vần điệu thi nhân chỉ là rơm rác Mà cũng chỉ nguyện được làm rơm rác Thơ cháy lên theo lời kinh tụng Cho đất nước thanh bình Trước sau bền vững tình huynh đệ này”.
Bài “Nguyện cầu” được làm trước đó không lâu, nên bài thơ tuy hay vẫn chưa có tuệ giác của một người giác ngộ. Có dịp mình sẽ đọc thêm thơ của Vũ Hoàng Chương sau khi ông đã giác ngộ, đã hiểu Phật pháp. Hôm nay chúng ta chỉ đọc một bài thơ có liên hệ đến cái chết, đó là bài Nguyện cầu, mở đầu bằng câu“Ta còn để lại gì không”.
Ở Đông Phương ngày xưa, rất nhiều người, đặc biệt là những người có tài năng tin rằng mình là một vị tiên ở trên trời, vì phạm một lầm lỗi gì đó mà bị thượng đế đày xuống trần gian. Sau khi trả nợ dưới trần gian này rồi thì được trở về tiên giới lại. Thi sĩ Tản Đà – tác giả bài thơ “Thề non nước” cũng tin như vậy. Ngày xưa mình là nam tào hoặc bắc đẩu trên trời, vì uống trà không chánh niệm, nên đã làm rớt chén ngọc của Thượng đế và bị đày xuống nhân gian sống một, hai đời rồi mới được trở lên lại thượng giới.
Ta còn để lại gì không? Là câu đầu tiên của bài Nguyện Cầu được mở đầu trong tập thơ Rừng Phong. Đây là suy tư của một người chưa biết nhiều về đạo nhưng có kiến thức về văn hóa Á Đông. Nghĩ rằng mình có một cái ta và cái ta đó từ trên trời đi xuống. Trong thời gian sống ở hạ giới, mình làm chuyện này chuyện nọ, sau khi chết mình lên trên trời và sẽ để lại hạ giới một cái gì đó. Ta là ai? Là vị Trích tiên. Để lại cái gi? Ta để lại tác phẩm thơ văn. Để lại cho ai? Để lại cho cuộc đời này. Để lại rồi ta không để ý tới nữa, ta lên trên trời trở lại. Câu trả lời rất đơn giản. Ta là một vị Trích tiên, ta để lại công trình nghệ thuật cho cuộc đời, cho trần gian dưới này còn ta lên trời.
“ Ta còn để lại gì không Kìa non đá lở này sông cát bồi”.
Trong câu thứ hai, ta thấy tác giả tuy chưa học Phật sâu sắc nhưng đã thấy rõ là vạn vật vô thường. Đời sống của một vị Trích tiên dưới trần gian này tuy là một trăm năm, nhưng cũng vô thường, bay vèo qua như một giấc mộng. Ngày xưa núi rất cao nhưng đá đã lỡ. Sông thì sâu nhưng bị cát bồi nên sông cạn, “sông cạn đá mòn”.
Lang thang từ độ luân hồi
“Lang thang từ độ luân hồi”. Chữ luân hồi ở đây được hiểu theo kiểu là có cái ngã bất biến. Ngày sanh xuống trần gian, gọi là luân hồi. “U minh nẻo trước xa xôi dặm về.” Đây là sự thực, tuy chưa có tuệ giác của đạo Bụt nhưng những yếu tố của tuệ giác đã có sẵn. Chính những yếu tố đó sau này sẽ làm ra tuệ giác. Đi lang thang trong cuộc đời nhưng không có con đường sống, trước mặt chỉ thấy mù mịt không có hướng đi. Trong văn Cảnh sách của Thiền sư Quy Sơn cũng có câu như vậy “Tiền lộ man man bất tri hà vãng” tức là con đường phía trước mờ mờ, ảo ảo không biết mình đang đi về đâu. Người chưa học đạo, chưa có con đường tâm linh thì luôn luôn thấy phía trước mình mờ mịt. Ví dụ như hôm qua có một em bé hỏi: “Con sống trong cuộc đời này để làm gì? Có ích lợi gì cho ai không? Cuộc sống có nghĩa lý gì không?” . Hỏi như thế là vì chưa thấy được con đường của mình.
Không những chỉ có những em bé mười chín, hai mươi tuổi chưa thấy con đường, mà người lớn bốn mươi, năm mươi tuổi vẫn chưa thấy con đường, vẫn không biết mình đang đi đâu, không biết con đường trước mặt mình là con đường nào, nên cứ đi vòng quanh cho đến lúc chết. Vì vậy kiến đạo rất quan trọng, kiến đạo là biết được mình đang đi đâu. Người nào biết mình đang đi đâu thì người đó có hạnh phúc. Không còn phải sợ hãi, không còn hoang mang nữa “đã có đường đi rồi, con không còn lo sợ”. Vì vậy tất cả chúng ta đều phải kiến đạo, phải thấy được con đường mình đang đi. Không biết mình đang đi về đâu là mình vẫn còn đi trong bóng đêm. “Tiền lộ man man bất tri hà vãng.”
Ở đây thi sĩ nói là “ U minh nẻo trước”, u minh là tối tăm, mù mịt, không biết mình đang đi về đâu. Có thể mai mốt bước xuống hố thẳm rồi bị chôn vùi trong đó. U minh nẻo trước là không có đuốc sáng, không có đèn pha, không có đạo sư. “Xa xôi dặm về”, về là về đâu? Về thiên giới, nơi mà mình đã rời bỏ kể từ ngày bị đày xuống trần gian. Biết bao giờ có thể trở về ngôi vị ngày xưa của mình? Vì Ngọc Hoàng đày xuống dưới này, nên phải sống cuộc đời đày đọa của con người. Phải sinh, lão, bệnh, tử, phải đi vòng quanh trong sáu nẻo hôn mê và trong ba giới. Đường trước mịt mờ cũng khổ mà đường về xa xôi càng khó. Cuộc đời một vị Trích tiên cũng chẳng sung sướng gì. Mình không phải là tiên nhưng cũng cảm thấy mỏi mệt như một vị Trích tiên. “U minh nẻo trước xa xôi dặm về”. Đường về xa lắc xa lơ, không biết bao giờ mới trở về nguyên quán? Nếu biết được con đường thì tốt biết mấy. Mình sẽ biết được còn bao lâu nữa thì trở về ngôi nhà của mình.
“Trông ra bến hoặc bờ mê”. Nhìn ra chỉ thấy bến bờ của sự mê hoặc. Mê tức là vô minh, hoặc tức là phiền não. Bến hoặc tức là bến phiền não. Trông ra chỉ thấy bến bờ của phiền não, vô minh mà không thấy bờ giác.
Trong đạo Bụt có câu “ Khổ hải man man hồi đầu thị ngạn”. Nghĩa là biển khổ mênh mông nhưng nếu biết quay lại thì sẽ thấy bờ ngay, bờ đó là bờ giải thoát. Đó là kiến đạo. Biển khổ tuy mênh mông nhưng nếu biết hướng về bờ giác thì sự mênh mông đó sẽ tan biến, sẽ không còn mênh mông nữa, và bờ giác sẽ không cách xa ta. Vũ Hoàng Chương thấy được tất cả điều đó.
“Trông ra bến hoặc bờ mê Nghìn thu nửa chớp bốn bề một phương ”
Hai câu thơ này đã bắt đầu có yếu tố của tuệ giác. Trong một tích tắc, một sát na mà chứa đựng được cả thời gian vô cùng. Nghìn thu là một ngàn năm, ngàn năm đem đặt gọn vào trong một tích tắc gọi là nghìn thu nửa chớp. Nửa chớp chứ không phải một chớp, một chớp là còn dài. Đây là tinh thần của kinh Hoa Nghiêm. Khi xây dựng bản môn thì một tích tắc, một sát na cũng chứa đựng cả thời gian vô cùng. Trong giới thi văn, giới lãng mạn cũng dùng tuệ giác này nhưng không đúng lắm. “Tình trong giây phút mà thành thiên thu”. Nếu anh “fall in love”, nếu anh yêu chỉ một giây phút thôi nhưng anh sẽ khổ suốt đời. Thiên thu được chứa đựng trong một giây phút. Thành ra tuy trăm năm nhưng có nghĩa lý gì đâu, nó chỉ là một giấc mộng thôi. Một nghìn năm cũng vậy, chỉ dài bằng một nửa tia chớp. Ở đây ta thấy được giá trị của thời gian. Và không gian cũng thế “bốn bề một phương”, không gian mênh mông nhưng một phương cũng có thể chứa đựng được cả bốn phương. Tuy trời đất bao la rộng lớn như vậy nhưng nhìn vào hạt bụi ta thấy hạt bụi chứa đựng tất cả đất trời trong đó. “Càn khôn tận thị mao đầu thượng” tức là tất cả trời đất càn khôn có thể đem đặt lên trên đầu một sợi lông. Đó là câu thơ của một thiền sư Việt Nam.
“Càn khôn tận thị mao đầu thượng
Nhật nguyệt bao hàm giới tử trung”.
Ta có thể đem mặt trời, mặt trăng đặt vào trong một hạt cải. Đó là cách nói của thiền sư. Còn ngôn ngữ của thi sĩ thì “Nghìn thu nửa chớp, bốn bề một phương”.
“Ta van cát bụi bên đường
Dù nhơ dù sạch đừng vương gót này”.
Tác giả ý thức được mình là một vị Trích tiên, và không muốn vướng vào bất cứ một thứ gì ở cõi trần, dù những thứ đó đẹp hay không đẹp, sạch hay không sạch. Nghĩ mình trong sạch và không muốn dính tới chuyện đời đó là cái nhìn rất tách biệt giữa mình và đời, đời là một chuyện, mình là một chuyện khác. Đó là do không thấy được mình là cuộc đời, cuộc đời là mình, do không có cái nhìn tương tức của đạo Bụt. Sợ bị vướng mắc dù là vướng mắc vào cái dơ hay cái sạch, đều là quan điểm nhị nguyên, nghĩ mình là một thực thể có thể tồn tại độc lập ngoài những cái dơ sạch của cuộc đời. Ai biết được rằng mình với cuộc đời không phải là hai cái khác nhau. “Ta van cát bụi bên đường”, chữ “van” ở đây là cầu xin, van xin. Trong sự cầu xin có ẩn chứa sự sợ hãi. Sợ bị đày đọa, bị bó buộc bởi những hệ lụy trong cuộc đời. Và vì thế mình muốn tách riêng ra khỏi cuộc đời.
“Ta van cát bụi bên đường
Dù nhơ dù sạch đừng vương gót này
Để ta tròn một kiếp say”
Trong thời gian làm nghệ sĩ ở cõi trần ta chỉ muốn làm nghệ sĩ thôi. Sau đó ta sẽ đi, ta không muốn vướng mắc với các ngươi. Kiếp say là kiếp của thi sĩ, vì thi sĩ đã xuất bản tập thơ Say.
“Cao xanh liều một cánh tay níu trời”
Trời cao và xanh, chỗ đó là quê hương của ta. Chân ta đang dẫm lên cuộc đời ô trược, phiền não và ta không muốn dính vào đó. Ta muốn đưa tay lên cao với lấy trời xanh làm chỗ nương tựa để ta đừng bị hệ lụy và bó buộc vào cuộc đời này. Điều đó nghĩa là tịnh độ là một nơi nào khác, quê hương là một nơi nào khác, còn chỗ này là cõi tạm. Đó là quan điểm lưỡng nguyên của những người chưa thấy đạo.
“Ta van cát bụi bên đường
Dù nhơ dù sạch đừng vương gót này
Để ta tròn một kiếp say
Cao xanh liều một cánh tay níu trời
Kể chi thua được cuộc đời”.
Đời là một cuộc tranh đấu, là một ván bài. Người nào cũng muốn thắng, không ai muốn thua cả. Ban đầu ta không muốn dính tới những chuyện được thua đó, nhưng rốt cuộc vẫn tham dự vào cuộc tranh đấu Phật giáo cho nhân quyền. Mình muốn coi cuộc đời là một cái gì không dính líu tới mình, mình chỉ bị bắt buộc ở đây thôi. Nên không muốn dấn thân vào những cuộc tranh chấp. Mình nghĩ mình khác, đời khác.
“ Nói chi thua được với đời
Ngại chi những tiếng ma cười đêm thâu”
Rất rùng rợn! “Ma cười đêm thâu”. Trong đêm đen có những con ma đang cười nói với mình. Đó là linh hồn của những người trong cuộc được thua đang mang nhiều đau khổ. Ta nghe tiếng cười của các loài ma quái. Tuy nói không muốn dính líu tới cuộc được thua, không muốn dính líu tới đời sống của các loài ma quái, nhưng ta bắt buộc phải sống chung với những người đang tranh đấu trong cuộc được thua đó. Lập trường của tác giả rất rõ là tôi không muốn dính líu tới cuộc đời này, cuộc đời này không phải là quê hương của tôi. Quê hương của tôi là tiên giới.
“Ngại chi những tiếng ma cười đêm thâu
Tâm hương đốt nén linh sầu
Nhớ quê dằng dặt ta cầu đó thôi”.
Ta làm thơ, viết nhạc chẳng qua đó là lời cầu nguyện chứ không phải ta tham dự vào cuộc tranh dành của quý vị. Ta không mua danh bán lợi, không tham dự vào cuộc được thua của quý vị. Ta làm thơ xuất bản, ngâm thơ, phổ nhạc là để cầu nguyện thôi. Mục đích của ta là cầu nguyện với quê hương của ta. Ta nhớ quê hương ngày đêm “ Nhớ quê dằng dặt ta cầu đó thôi”. Đừng tưởng ta làm những bài thơ này để ca tụng cuộc đời, để mua danh bán lợi. Ta làm những bài thơ này để cầu nguyện trong khi nhớ quê hương.
Chúng ta có những người tu theo Tịnh độ, nhưng vì họ mới bắt đầu tu nên họ có quan niệm đây không phải là quê hương của mình. Ta bà là chốn mình phải phát tâm chán ghét và Tịnh độ là chốn mà mình phải phát tâm mong cầu. Tìm cầu một cái và chán ghét một cái. Tâm trạng này cũng giống như thi sĩ. Ta không đầu tư vào cõi Ta bà này mà ta đang đầu tư vào cõi Tịnh độ nên mỗi ngày ta đều niệm Bụt. Thay vì làm thơ ta niệm “Nam mô A Di Đà Phật”. Đó cũng là sự cầu nguyện của ta. Tu Tịnh độ theo kiểu này thì cũng không khác gì mấy với làm thơ.
Trong khi Làng Mai chúng ta tu Tịnh độ một cách khác, chúng ta nói “Tịnh độ là đây, đây là Tịnh độ”. Ta phải biến nơi này thành cõi Tịnh độ. Vì vậy không có thái độ chán ghét một cái và tìm cầu một cái khác. Chư Tổ cũng đã khẳng định với chúng ta rằng “Tịnh độ ở trong tâm con người” ( duy tâm tịnh độ) đó là chiều sâu của đạo Bụt. Các vị thiền sư cũng đã nói muốn tìm giải thoát thì phải tìm ngay trong cõi sinh tử, chứ không phải từ bỏ sinh tử mà có giải thoát. Muốn tìm nước thì phải tìm ngay trong những con sóng, nếu bỏ sóng đi làm sao có nước? Đó là cái thấy bất diệt mà lúc bấy giờ thi sĩ chưa có được.
“ Tâm hương đốt nén linh sầu
Nhớ quê dằng dặt ta cầu đó thôi
Đêm nào ta trở về ngôi
Hồn thơ sẽ hết luân hồi thế gian”
Ta có một ngôi vị ở trên thiên giới, có thể là Nam tào hoặc Bắc đẩu. Nếu ta trở về thì những lời cầu nguyện đâu còn ích lợi gì nữa “Hồn thơ sẽ hết luân hồi thế gian”
Vì vậy “Một khi đã tắt cung đàn
Kể chi còn mất hơi tàn thanh âm”
Chúng ta thấy thi sĩ là một nhạc sĩ. Cung đàn đó là cung đàn muôn điệu. Thơ cũng là cung đàn. Khi đã làm xong phận sự nghệ sĩ rồi thì ta trở về ngôi vị của ta. Ta không để ý những bài thơ ta làm, những cung đàn ta đã hiến tặng cho đời còn hay không. Câu trả lời của thi sĩ là tôi đâu cần để lại gì và đâu cần để lại cho ai đâu. Thơ của tôi còn hay mất, người ta thích hay không thích, chuyện đó tôi không quan tâm. Vì tôi đã sinh ra trong cuộc đời này như một nghệ sĩ thì tôi đóng vai trò người nghệ sĩ. Vậy thôi! Làm xong, tôi đi. Người ta thích hay không thích, thơ tôi còn được truyền tụng hay không, tôi không cần biết. Trả lời cho câu hỏi “để lại cho ai” là không để lại cho ai cả và tôi không để lại gì cả.Vì tôi bị đày xuống dưới trần gian này nên tôi phải sống cuộc đời của một nghệ sĩ, xong xuôi tôi trở về quê hương của tôi. Đó là câu trả lời, đó là cái thấy của thi sĩ.
Hai chữ có không mầu nhiệm
Mình là người tu, đã học giáo lý rồi mình thấy như thế nào? Mình có phải là một cái ngã không? Khi sống với cuộc đời, cái ngã của mình có dính líu gì với cuộc đời không? Khi lìa đời có phải mình mang theo cái ngã của mình đi không? Mình có để lại gì không? Đó là những câu hỏi rất thực tế. Ví dụ cô Tám, anh Tám, cô Thái, cô Bảy, anh Thiều… khi họ đặt những câu hỏi này thì mình trả lời ra sao? Ta là ai? Ta đang làm gì ở đây? Ta muốn để lại gì không? Ta để lại cho ai? Những câu hỏi đó rất cần thiết cho tất cả chúng ta. Ta đã để lại gì? Những gì ta để lại có đẹp không, có giá trị nào không để đóng góp cho cuộc đời? Ta để lại cho con cháu ta, bạn bè ta hay để lại cho muôn đời sau?
Bây giờ chúng ta phải trở lại ba câu hỏi lúc ban đầu. Ta là ai? Ta để lại gì? Ta để lại cho ai? Trả lời được ba câu hỏi đó ta sẽ thấy khỏe nhẹ. Mỗi người phải tự đặt những câu hỏi đó cho mình. Sanh ra là sự biểu hiện. Chết đi là ẩn tàng. Có thể chúng ta nghĩ rằng trước khi sanh ra mình chưa có, và sau khi chết đi mình không còn nữa. Quan điểm đó gọi là đoạn kiến. Trước khi sanh mình chưa có, sau khi sanh mình bắt đầu có, rồi khi chết đi mình trở lại không có. Như vậy là mình bị kẹt vào cái thấy gọi là hữu vô, đoạn kiến.
Ví dụ điểm S là thời gian tôi bắt đầu sinh ra và tôi sẽ chết đi vào điểm T. Trước điểm S tôi không có, bắt đầu từ điểm S trở đi tôi có, sau điểm T tôi lại không có. Từ không trở thành có, từ có trở thành không. Đó là quan điểm của rất nhiều người, trong đó có một số nhà khoa học. Trong bài thơ “Bài ca dị hóa” trong tập thơ Rừng phong, Vũ Hoàng Chương cũng có đặt câu hỏi đó và đã bắt đầu thấy được vấn đề.
“Trải mấy hoang mang tìm kiếm
Lòng sao khát mãi chưa vừa
Hai chữ có không mầu nhiệm
Đêm đêm ta hỏi người xưa”.
Tác giả chưa thỏa mãn được sự khao khát hiểu biết của mình nên thao thức muốn đi tìm kiếm về ý nghĩa của chữ “có” và “không”. “Hai chữ có không mầu nhiệm. Đêm đêm ta hỏi người xưa” Người xưa tức là cổ nhân đã có kinh nghiệm, đã từng sống qua, đã từng có tuệ giác rồi. Tuệ giác đó đã được ghi chép lại trong kho tàng kinh sách của đạo Nho. Đêm đêm thắp đèn lên đọc sách của người xưa, xem kinh nghiệm của họ để giải quyết vấn đề “có – không”. Đó là bốn câu đầu của bài “Bài ca dị hóa”. Chúng ta cũng nên tìm đọc bài thơ đó cho vui. Trong bài đó cũng có mấy câu rất hay.
“Biển đông mờ mịt không mà có
Hay có mà không dị biểu ơi”
Có một câu mà mình phải nhớ là “Đâu lẽ có chiều qua mà không sáng nay”. Thấy em bé 19 tuổi chết đuối vì đi bơi hồ, ta tưởng là ngày hôm qua em có mà hôm nay tự nhiên không có. Đâu thể từ có mà trở thành không một cách dễ dàng như vậy được. Vì vậy đặt câu hỏi: Từ cái “không” có thể trở thành cái“có” được hay không? Hoặc từ cái “có”có thể trở thành cái “không” được hay không? Đó là câu hỏi rất thông minh. Nếu quan sát kỹ ta sẽ thấy được rằng không bao giờ từ “không” mà trở thành “có” và cũng không bao giờ từ “có” mà trở thành “không”.
Ví dụ đám mây bay trên trời có phải từ không trở thành có không? Đứng về phương diện khoa học mà xét thì đám mây không phải từ không mà trở thành có. Vì trước khi là đám mây thì nó đã là những cái khác rồi. Nó là hơi nóng, là nước hồ, nước sông… Vì vậy ta không thể nói rằng đám mây từ “không” mà trở thành “có”. Đám mây chẳng qua là sự tiếp tục mà thôi. Thế nên ý niệm về “không” và “có” cần phải được xét lại. Ngày hôm qua có mưa dông, nhìn lên trời ta không thấy đám mây nữa, như vậy đám mây có thể từ “có” trở thành “không” được không? Không thể nào được, đám mây không thể chết được, không thể nào trở thành không được. Đám mây chỉ có thể trở thành mưa, trở thành sông ngòi, ao hồ. Đám mây không thể trở thành “không” được. Thi sĩ đã đặt câu hỏi rất thông minh “đâu lẽ có chiều qua mà không sáng nay?” Chính nhờ câu hỏi đó mà sau này tác giả có thể thức tỉnh lại được, thấy được đạo lý vô sinh và bất diệt.
Chúng ta là những người có cơ hội tiếp xúc với giáo lý mầu nhiệm của đạo Bụt. Chúng ta có cơ hội ngồi thiền, đi thiền, tại sao ta không dùng thời gian đó để quán chiếu sâu sắc mà cứ tiếp tục làm nạn nhân cho sự sợ hãi, làm nạn nhân cho con người sai lầm về ý niệm“có” và “không”. Em bé hôm qua hỏi sau khi chết thì điều gì sẽ xảy ra. Ta có thể trả lời cho bé không? Vì khi 12 tuổi, có thể mình cũng đã bắt đầu có những thắc mắc như vậy. Khi em bé thấy một con chim chết, không còn bay, không còn hót nữa, bé liên tưởng đến bản thân và đặt hỏi điều gì xảy ra khi mình chết? Có phải mình từ “có” trở thành “không” hay không? Ta phải đặt câu hỏi đó để quán chiếu. Tại sao em bé 12 tuổi có nhu yếu đó mà ta là người lớn lại không có nhu yếu đó? Tại sao ta lại để cho mình bận rộn suốt ngày từ chuyện này sang chuyện khác mà không có thời gian để quán chiếu? Chúng ta để cho những buồn vui nho nhỏ lôi kéo làm mất hết ngày, hết tháng, hết cả cuộc đời ta.
“Đâu lẽ có chiều qua mà không sáng nay”. Một câu hỏi như vậy thôi, cũng đủ cho chúng ta thấy được bản chất vô sinh bất diệt của chúng ta mà vượt thoát sợ hãi. Chúng ta biết rằng hôm nay mình phải làm gì để hiến tặng cái đẹp nhất cho đời. Đức Thế Tôn đã chỉ cho ta một con đường, một phương pháp quán chiếu để đừng bị kẹt vào ý niệm sinh và tử, có và không, ngã và phi ngã. Lúc đó thi sĩ Vũ Hoàng Chương nghĩ rằng mình có một cái ngã. Cái ngã đó có thể không dính líu gì đến cuộc đời. Nhưng khi quán chiếu sâu sắc ta thấy rằng cái gì cũng liên quan mật thiết với tất cả những cái khác mà không có một cái ngã tồn tại biệt lập.
Ta để lại chính ta trong cuộc đời này
Chúng ta thường có ý nghĩ rằng mình để lại cho đời một đứa con. Ví dụ như chú Thư và chị Hạnh Hương để lại Bảo Tích; và rồi mình hỏi anh chị để lại cho ai? Để lại cái gì? Để lại Bảo Tích. Để lại cho Sư Ông. Nhưng sự thực là mình để lại chính mình. Con của mình chính là sự tiếp nối của chính mình. Quý vị không cần phải làm đám cưới mới có con. Chúng ta có con trong từng giây từng phút. Mỗi giây phút ta đều suy nghĩ, tư duy. Những tư tưởng của chúng ta có thể là hận thù, độc hại, oán hờn, đen tối… và như thế mỗi giây phút hằng ngày ta đều để lại những thứ đó. Tuy nhiên ta cũng có thể để lại những tư tưởng đẹp đẽ như những ý tưởng tràn đầy lòng yêu thương và sự hiểu biết đó gọi là chánh tư duy, là tặng phẩm ta hiến tặng cho đời. Nói là hiến tặng cho đời nhưng sự thực là hiến tặng cho ta.
Những tư tưởng mà ta phát ra trong từng giây phút của đời sống hằng ngày là ý nghiệp của ta, là sự tiếp nối của ta, là con của ta. Đó chính là chúng ta. Những câu nói mà mình phát ra cũng là những hiến tặng của chúng ta trong giây phút hiện tại. Nó là con của chúng ta và nó sẽ tiếp nối ta đi về tương lai. Những hành động trong đời sống hằng ngày của mình cũng vậy, nếu là sát, đạo, dâm thì hành động đó là sự tiếp nối xấu xa của chúng ta. Đó cũng là quà tặng của ta cho chính ta và cho cuộc đời. Vì vậy trong mỗi giây phút của đời sống hằng ngày, ta đều hiến tặng những hành động của thân, khẩu, ý. Đó là con, là gia tài của ta, ta không thể nào tránh thoát được.
Trong kinh cũng có dạy là khi chết chúng ta đem theo tất cả những nghiệp thân, khẩu, ý của mình. Đó là sự tiếp nối của mình. Những nghiệp đó nếu đẹp thì ta đem theo cái đẹp, nếu xấu thì ta đem theo cái xấu. Những điều ta suy tư, nói năng và hành động không mất đi đâu cả, chúng tiếp nối ta dài dài. Sau khi chết ta không đem theo gia sản, danh vọng, quyền hành hay địa vị… mà đem theo tất cả nghiệp của ta. Khi chết, tôi sẽ không đem theo được gì hết ngoài những nghiệp của ta. Nghiệp đó có thể là nghiệp tốt hoặc nghiệp xấu. Vì vậy những gì mình đang suy tư, nói năng, hành động là gia tài mà sau này mình sẽ đem theo. Đó là mình. Bảo Tích chẳng qua chỉ là một trong những thứ mình hiến tặng thôi, mình còn hiến tặng những thứ khác nữa trong đời sống hằng ngày. Vì ngày nào mình cũng tư duy, nói năng, hành động. Đó là tác phẩm của mình, là con của mình, là chính mình.
Khi tôi dạy cho một sư cô hay một sư chú, tôi trao truyền cho sư cô, sư chú đó những gì mà tôi nghĩ là đẹp nhất, hay nhất của tôi. Tức là tôi hiến tặng chính tôi, tôi để lại chính tôi cho cuộc đời. Tôi không nói như thi sĩ là không muốn dính líu gì tới cuộc đời. Vì cuộc đời là chính mình. Tất cả những gì mình nói, làm, suy nghĩ đều là để đầu tư vào tương lai. Mình thấy được sư cô, sư chú là sự tiếp nối của mình. Vì vậy trong giây phút hiện tại mình phải làm thế nào để những gì mình để lại là những cái đẹp, lành và tốt. Mình không muốn để lại những cái gì xấu xa, hận thù, nhỏ mọn, đen tối. Nếu lỡ trong quá khứ chúng ta đã để lại những điều tiêu cực xấu xa, đen tối, hận thù và chúng đã lên đường rồi làm sao ta chạy theo kịp để sửa nó, để kéo nó về?
Lời nói một khi đã phát ra thì xe bốn ngựa cũng không chạy theo kịp để đem nó về lại cho mình “tứ mã nan truy”. Vì vậy ta phải cẩn thận. Một tư tưởng đã phóng đi, thì dù máy bay trực thăng cũng không đuổi kịp để kéo nó lại.Vì vậy ta phải cẩn thận trong từng giây, từng phút đối với tư duy, ngôn ngữ, hành động của ta. Làm thế nào để ta có thể cải biến được nghiệp xưa? Chúng ta có một nẻo thoát. Cũng giống như ta fax cho người bạn một tờ fax, trong bản fax đó vì tư duy sai lầm, nên mình đã lên án, la mắng, trách móc người bạn đó, và mình biết rằng tờ fax đó sẽ gây ra những đổ vỡ trong lòng mình và bạn. Vì vậy mình viết một tờ fax thứ hai để xin lỗi, để trung hòa tờ fax ban đầu. Mình nói rằng trong giây phút hấp tấp, giận dỗi, mình đã phát ra những tư tưởng, lời nói như vậy, mình rất xấu hổ, mình xin bạn tha thứ cho mình. Tờ fax thứ hai sẽ trung hòa hóa được trình trạng trong quá khứ của mình, mình có thể chuyển đổi nghiệp bằng cách đó.
Trong chúng ta ai mà không có những lầm lỗi trong quá khứ; ta đã nghĩ, nói, làm những điều không có giá trị, những điều không có chất liệu của hiểu biết và thương yêu. Tuy nhiên chúng ta vẫn đang còn đây, chúng ta có cơ hội và có khả năng làm mới trở lại. Khi làm mới chúng ta có thể chuyển đổi được tất cả. Hay như vậy đó! Đạo Bụt mở ra cho chúng ta những hướng đi rất mầu nhiệm. Chúng ta có thể ôm được quá khứ, có thể thay đổi được quá khứ bằng cách hành xử của chúng ta trong giây phút hiện tại. Bắt đầu quán chiếu là ta đã thấy được vấn đề “ta là ai?” “Ta đã để lại gì?”
Ta có thể nói ta là cuộc đời, ta được làm bằng những yếu tố không phải là ta; ta được làm bằng tổ tiên, cha mẹ, ông bà, đất nước, giáo dục, kinh tế, xã hội. Ta là như vậy. Rất khoa học. Ở đây không mang tính chất siêu hình. Khi nhìn vào bản thân với con mắt quán chiếu ta thấy được rằng ta là sự tiếp nối của cha mẹ, tổ tiên, ông bà, của nền văn hóa dân tộc, văn hóa thế giới, của hệ thống kinh tế, chính trị, xã hội… Ta có thể thay đổi ta, để có thể cống hiến cho tương lai những cái đẹp hơn mà ta đã tiếp nhận. Ta có thể làm hay hơn cha mẹ, tổ tiên. Đó là nhờ Pháp của Bụt. Cha mẹ, tổ tiên trong ta sẽ rất hài lòng về ta. Đó là câu trả lời cho câu hỏi đầu “ta là ai?” Không phải siêu hình gì cả, rất rõ ràng và khoa học. Ta là cha mẹ, tổ tiên, ông bà, xã hội. Ta có thể chuyển hóa ta để làm cho ông bà, cha mẹ, và tổ tiên ta đẹp hơn.
Câu hỏi thứ hai “ta để lại gì ?” Câu trả lời là không nên kẹt vào lưỡng nguyên, có người để lại và vật để lại. Người để lại và vật để lại là một, ta để lại chính ta trong cuộc đời này. Cũng như chúng ta nói cha mẹ trao truyền hình hài này cho mình. Cha mẹ là người trao truyền, hình hài này là vật trao truyền và mình là người tiếp nhận hình hài này. Trong sự trao truyền có ba yếu tố: người trao truyền, vật trao truyền và người tiếp nhận sự trao truyền. Đức Thế Tôn đã dạy rất rõ ràng là ba yếu tố đó không có thực thể riêng biệt. Khi nhìn sâu vào vật trao truyền ta thấy người trao truyền là cha mẹ. Cha mẹ trao tuyền chính con người cha mẹ cho mình, vì trong mỗi tế bào cơ thể mình ta thấy được sự có mặt của cha mẹ với tất cả khổ đau và hạnh phúc của cha mẹ. “Ta còn để lại gì không?". Có. Ta để lại ta một cách toàn vẹn với tất cả thân, khẩu, ý của ta. Ta trao lại cho Bảo Tích nhưng ta cũng trao lại cho cuộc đời. Bảo Tích cũng là ta, cuộc đời cũng là ta. Thành ra người trao truyền và vật trao truyền không phải là hai thực thể cách biệt, người tiếp nhận trao truyền cũng đồng thời là vật trao truyền và người trao truyền. Bảo Tích là chú Thư, là chị Hạnh Hương, là ông nội, ông ngoại… Đó là sự tiếp nối.
Trao truyền cũng cần phải có nghệ thuật. Làm thế nào để ta chỉ trao truyền những cái đẹp mà đừng trao truyền những cái xấu. Như thế chúng ta sẽ có một tương lai tươi sáng. Vì vậy khi thấy được giáo lý Tam luân không tịch này thì ta bắt đầu trả lời đúng câu hỏi mà ta nêu ra lúc đầu: Ta là ai? Ta trao truyền gì? Ai là người tiếp nhận sự trao truyền? Ta thấy ba cái đó không phải là ba cái tách biệt nhau. Thấy được điều đó, ta sẽ vượt thoát ý niệm ta từ “không” mà trở thành “có” và từ “có” trở thành “không”.
Ta thấy bài này là một lời mời mọc. Nếu giảng hết bài này thì không đủ thời gian đi thiền hành, đi picnic nên mình phải chấm dứt tại đây. Đây là sự mời mọc để quý vị đặt lại ba câu hỏi. Nếu đặt được ba câu hỏi này rồi thì con đường trước mặt mình rất xán lạn. Quý vị biết mình phải làm gì ngày hôm nay và không còn có cảm giác là con đường phía trước mờ mờ, ảo ảo và mình không biết đi về đâu. Con mắt mình được mở ra và mình biết sống như thế nào cho có nghệ thuật, có hạnh phúc để mỗi giây phút của đời sống hằng ngày, mình có thể hiến tặng được cho mình, cho tổ tiên, cho con cháu mình những gì đẹp nhất mà mình có thể hiến tặng dưới ba dạng tư duy (chánh tư duy), lời nói (chánh ngữ) và hành động (chánh nghiệp). Đó là ba then chốt của con đường Bát chánh đạo.
Ngắt một cành hoa làm bút yêu thương
Vũ Hoàng Chương bị đi học tập cải tạo, phải can thiệp lắm mới được thả ra. Khi thả ra thì ông rất ốm yếu, sức khỏe không còn nữa. Từ Pháp chúng tôi đã gởi thuốc, quà cho bà Vũ Hoàng Chương để có thể nuôi ông trong trại học tập cải tạo. Tất cả chúng ta – những người Phật tử, từng tham dự trong cuộc tranh đấu chống lại chế độ độc tài để khơi mở, bồi dưỡng tình huynh đệ, đều thấy rằng Vũ Hoàng Chương với tư cách một thi sĩ đã đóng góp rất nhiều cho cuộc tranh đấu đó. Những lời thơ ông nói ra thấm nhuần Phật Pháp và không mang chất liệu của hận thù.
Nếu có cơ hội mình sẽ đọc thêm vài bài nữa của Vũ Hoàng Chương. Khi nghe tin Vũ Hoàng Chương mất, Thầy có làm một bài thơ, Thầy dùng những danh từ trong thơ của Vũ Hoàng Chương để ca ngợi Vũ Hoàng Chương giờ phút chót đã thấy được đạo, biết được con đường trở về, đã để lại cho đời rất nhiều cái đẹp, biết ngắt một cành hoa làm bút yêu thương viết lên những bài thơ tràn đầy tính chất bất bạo động và lòng thương yêu:
“Đêm này dù đã về ngôi Hồn thơ vẫn cứ luân hồi thế gian Bút hoa ngàn kiếp không tàn Đuốc thơ còn cháy trên trang sử người Có không mù mịt biển khơi Nẻo về đã rạng chân trời thênh thang Tĩnh say vẫn một cung đàn Lửa anh hào đốt cháy tan đêm sầu Thơ lên bay vút bồ câu Triều âm chấn động phương nào cũng nghe Giấc mơ hồ điệp đi về Biển đông sóng vỗ kình nghê vẫn còn”.
Phiên tả từ pháp thoại của Thầy Làng Mai ngày 01-02-2004 tại tu viện Lộc Uyển
Hôm nay chúng ta sẽ được nghe quý thầy, quý sư cô hát nhạc Trịnh Công Sơn. Bây giờ mời đại chúng nghe Sư cô Chân Không hát bài Nắng Thủy Tinh.
“Màu nắng hay là màu mắt em, mùa thu mưa bay cho tay mềm, chiều nghiêng nghiêng bóng nắng qua thềm, rồi có hôm nào mây bay lên (…) ngàn cây thắp nến nến hai hàng, để nắng đi vào trong mắt em”.
Trịnh Công Sơn sinh năm Kỷ Mão, 1939. Thân phụ là một người yêu nước, đã tham gia kháng chiến chống Pháp nên đã bị cầm tù nhiều năm ở Lao Thừa Phủ, vì vậy Trịnh Công Sơn được tiếp nhận hạt giống yêu nước và dũng cảm từ ba mình.
Sở dĩ Trịnh Công Sơn dám nói những gì mình nghĩ qua những bài hát ông sáng tác là nhờ Trịnh Công Sơn có sự can đảm, có lòng yêu nước, yêu dân. Có nhiều người cũng có cùng cảm nghĩ như Trịnh Công Sơn nhưng không dám nói ra. Thế nên có những bài hát của ông được gọi là phản chiến, phản chiến nhưng kỳ thực không phải là phản chiến. Những lời nói của ông là những lời nói rất trung thực. Thấy những người anh em của mình, anh em miền Nam cũng như miền Bắc, chết mỗi ngày, Trịnh Công Sơn rất đau khổ nên đã nói ra sự thực đó.
Yêu nước, yêu dân, can đảm, đó là những hạt giống chúng ta có thể nhận thấy trong Trịnh Công Sơn. Trong mỗi con người chúng ta cũng vậy, cũng có hạt giống yêu nước thương dân. Vì vậy nghe Trịnh Công Sơn, chúng ta có cảm nhận như Trịnh Công Sơn đang nói dùm cho ta.
Mẹ của Trịnh Công Sơn là một người mẹ kiểu mẫu, một phật tử rất thuần thành, đi chùa thường xuyên, có lòng từ bi rất lớn, đã chịu đựng bao nhiêu khó khăn, gian khổ để nuôi con. Thân phụ của Trịnh Công Sơn bị tai nạn mất năm Trịnh Công Sơn mới 15 tuổi, bà phải một mình vừa làm cha, vừa làm mẹ nuôi tám đứa con. Đã có rất nhiều người đàn bà đi ngang qua cuộc đời của Trịnh Công Sơn, nhưng không có ai ở lâu với Trịnh Công Sơn cả, chỉ có một người duy nhất ở lâu với Trịnh Công Sơn đó là mẹ ông. Trịnh Công Sơn luôn luôn quay về nương tựa mẹ, một tình mẫu tử rất bền bỉ. Lớn rồi mà vẫn thấy mình là đứa con nít cần có mẹ. “Mẹ bỏ con đi, mẹ bỏ con bơ vơ một mình”. Trịnh Công Sơn có lần than thở, có lần ký thác tâm sự của mình rằng đứng trước một xác chết, một thây người vừa ngã xuống vì súng đạn, Trịnh Công Sơn không nghĩ đó là ta hay địch, cộng sản hay quốc gia. Trịnh Công Sơn chỉ biết đó là một người đồng bào, một người anh em vừa mới chết, là nạn nhân của một cuộc chiến tranh thảm khốc vô nghĩa. Đây là nguyên văn của Trịnh Công Sơn:
“Khi tôi đứng bên một xác người, tôi không nghĩ đó là ta hay là địch, mà đó là một thân phận chịu đựng sự vô nghĩa của chiến tranh”.
Thấy người nào chết cũng thương hết vì người nào cũng là đồng bào của mình. Hát và nói ra như vậy rất nguy hiểm. Chúng tôi cũng đã làm những bài thơ như vậy, những bài thơ nói về kháng chiến, nói về sự vô lý của chiến tranh và nói rằng anh em một nhà không nên bôi mặt đá nhau. Những bài thơ đó được xuất bản trước những bản nhạc của Trịnh Công Sơn vài năm, được đăng trên các tờ báo Hải Triều Âm và Thiện Mỹ nhưng người ta gọi đó là thơ phản chiến. “Anh nhân danh ai, em nhân danh ai, mà giết nhau?” và tôi kêu gọi hai bên đều trở về quỳ dưới chân mẹ sám hối. Những bài thơ đó, nếu quý vị muốn đọc lại thì tìm trong cuốn “ThơTừng Ôm Và Mặt Trời Từng Hạt”.
Mẹ của Trịnh Công Sơn đã trao cho Trịnh Công Sơn những hạt giống rất lành và rất đẹp, đầy tình người, đầy tình thương yêu. Trịnh Công Sơn là người thực tập giới thứ nhất rất tốt, bởi vì nhận thức của Trịnh Công Sơn về sinh mạng con người rất phù hợp với nhận thức của Đức Thế Tôn. Trịnh Công Sơn nói rằng không ai có quyền quyết định sinh mạng của con người, không ai có quyền cho người này chết hay người kia sống. Tôi xin đọc nguyên văn của Trịnh Công Sơn để quý vị có thể thấy rõ điều này:
“Chúng ta là một con người, chúng ta không phải là thượng đế, chúng ta không có quyền định đoạt số phận của người khác. Ta không thể nói người này đáng được sống, người kia đáng giết. Mình không có quyền cho phép ai chết cả, ngay cả giải quyết số phận của một ngọn cỏ cũng phải suy nghĩ, ngắt đi một bông hoa bên vệ đường cũng phải suy tư, huống chi số phận con người quá lớn và chúng ta không có quyền quyết định số phận con người”.
Đó là giới thứ nhất, bảo vệ sinh mạng. Lời nói này là lời nói của Bụt, của Đức Thế Tôn. Trịnh Công Sơn đã đại diện Đức Thế Tôn để nói lên điều này. Vì vậy Trịnh Công Sơn không tham dự vào cuộc chiến, đó cũng là chuyện đương nhiên. Hạt giống của nhân ái, của từ bi mà mẹ nhạc sĩ đã trao cho nhạc sĩ được thấy rất rõ trong những bài hát của Trịnh Công Sơn. Những bài hát chuyên chở lòng nhân ái và tình người đó, chúng ta có thể hát để tưới tẩm hạt giống từ bi và để làm tan rã những chất liệu hận thù trong ta. Những bài hát củaTrịnh Công Sơn nói về tình người giống như những bài kinh mà ta có thể tụng được. Tôi bắt đầu thương Trịnh Công Sơn khi nghe Khánh Ly hát bài Tình ca của người mất trí.
“Tôi có người yêu chết trận Plei-me Tôi có người yêu ở chiến khu "Đ" Chết trận Đồng Xoài, chết ngoài Hà Nội Chết vội vàng dọc theo biên giới Tôi có người yêu chết trận Chu Prong Tôi có người yêu bỏ xác trôi sông Chết ngoài ruộng đồng Chết rừng mịt mùng mình cháy như than…”
Người yêu, người thiếu nữ đó là ai? Là bất cứ người nào. Họ là người Nam. Họ là người Trung, tất cả đều là người yêu của tôi và họ chết thì tôi điên. Tôi muốn yêu anh, yêu Việt Nam và tình yêu này là tình yêu đối với một người, mà cũng là tình yêu chung cho cả dân tộc. Nghe bài này chúng ta thấy rất rõ, rằng người yêu trong bài hát đó là tất cả những người con trai Việt Nam, những người con trai sinh ra ở miền Bắc, những người con trai sinh ra ở miền Nam, và những người con trai sinh ra ở miền Trung. Vì cuộc chiến tương tàn mà những người này phải chết, thế nên ta thương hết tất cả những người này, vì tất cả là người yêu của mình.
Thiền là chánh niệm, chánh niệm là khả năng nhận biết những gì đang xảy ra trong giây phút hiện tại. Có những người muốn làm lợi trên chiến tranh, có những người muốn bưng bít sự thật đang xảy ra, sự thật đang xảy ra là anh em một nhà đang giết nhau, thảm kịch đang xảy ra cho đất nước, mà chúng ta không được phép nói lên. Khi Trịnh Công Sơn hát lên và nói lên niềm đau đó của dân tộc, của người trẻ tức là Trịnh Công Sơn đang thực tập thiền, “anh có biết, chị có biết những gì đang thực sự xảy ra không?” Đó là những chuyện ta đang giết nhau. Chúng ta đang chết vì một cuộc chiến tranh, chiến tranh vì ý thức hệ với vũ khí của ngoại ban. Lời hát đó một mặt nói lên được lòng yêu nước, yêu dân, một mặt nói lên được sự can trường của nhạc sĩ, nói lên được lòng từ bi và ý nguyện bảo vệ sự sống, bảo vệ giống nòi. Đó là hạt giống tốt mà Trịnh Công Sơn đã tiếp nhận từ ba và từ mẹ.
Nếu biết ơn Trịnh Công Sơn đã viết cho mình những bài ca rất đẹp đó thì mình phải biết ơn ba mẹ Trịnh Công Sơn. Bởi vì chúng ta, người nào cũng có cội nguồn, gốc rễ và cội nguồn, gốc rễ của chúng ta là ba mẹ, ông bà chúng ta. Chúng ta thấy rằng tình yêu trong bản tình ca đó, không phải là một cá nhân, mà cả một thế hệ thanh niên Việt Nam đã ngã gục trong chiến tranh ý thức hệ, rất tàn ác. Năm 15 tuổi, thân phụ Trịnh Công Sơn bị tai nạn chết, tất cả mọi người đều lên chùa Phổ Quang để làm lễ cầu siêu, thầy trụ trì chùa Phổ Quang hồi đó là hòa thượng Chánh Pháp. Hòa thượng là một vị kinh sư nổi tiếng ở Huế, tụng kinh rất hay, âm nhạc Phật Giáo rất giỏi. Có nhiều ngày, vì nỗi đau mất cha, Trịnh Công Sơn đã ở luôn trong chùa từ sáng đến tối. Ở lại chùa nghe kinh, kệ và gần gũi quý thầy cho niềm đau lắng xuống. Chùa Phổ Quang ở gần Bến Ngự và nhà của Trịnh Công Sơn cũng ở gần đó, nên Trịnh Công Sơn thường thích qua chùa.
Trịnh Công Sơn cũng đã quy y với Hòa thượng chùa Phổ Quang với pháp danh là Nguyên Thọ. Nguyên là suối nguồn, Thọ là trao truyền, được trao truyền từ suối nguồn. Trao truyền cái gì? Trao truyền lòng nhân ái, từ bi và dũng cảm. Nếu không thấy được gốc rễ của Trịnh Công Sơn thì chúng ta chưa thấy Trịnh Công Sơn một cách sâu sắc. Bổn sư của Trịnh Công Sơn là Hòa thượng Chánh Pháp. Hòa thượng là người quen của thầy Nhất Hạnh. Làng Mai chúng ta cũng có một cuốn băng tụng kinh của Hòa thượng tụng với sư anh của thầy Nhất Hạnh là Thượng tọa Chí Niệm ở chùa Linh Mụ và trong cuốn băng ấy có cả công phu sáng mà hầu hết quý thầy, quý sư cô Làng Mai đều đã được nghe. Tiếng của hai thầy rất hay. Chắc chắn Trịnh Công Sơn đã nghe quý thầy tụng rất nhiều lần, và âm nhạc của kinh kệ đã đi vào trong máu huyết củaTrịnh Công Sơn, cho nên sau này âm nhạc của Trịnh Công Sơn có âm hưởng của kinh kệ.
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một người bạn rất thân của Trịnh Công Sơn kể lại rằng Trịnh Công Sơn cũng hay tới Chùa Hiếu Quang. Quý vị có biết chùa Hiếu Quang là chùa nào không? Chùa Hiếu Quang là chùa có vị kinh sư rất giỏi mà tiếng tụng kinh của ngài có thể nói là hay bậc nhất ở Huế, đó là một trong ba vị kinh sư nổi tiếng nhất ở Huế, có giọng tụng cao nhất. Bây giờ ta cũng đang có cuộn băng những bài xướng, tán, tụng và hô canh của hòa thượng Hiếu Quang. Trịnh Công Sơn cũng đã được nghe hòa Thượng Hiếu Quang tán tụng.
Hôm qua Ni sư Như Minh có điện thoại về Huế, thượng tọa Phước Toàn và thượng tọa Hải Ấn cho biết vào khoảng năm 1955 đến 1958 Trịnh Công Sơn đi chùa rất nhiều. Nhiều khi ở luôn trong chùa và ngủ lại qua đêm. Thường là lên chùa Hiếu Quang và chùa Phổ Quang. Lúc đó hòa thượng Hiếu Quang có mở một lớp dạy tán tụng tại chùa Phổ Quang và Trịnh Công Sơn đã tham dự vào lớp học đó, đã học tụng kinh và học tán với hòa thượng Hiếu Quang và Bổn sư của mình. Theo thượng tọa Huệ Ấn, đương kim trụ trì chùa Phổ Quang, là đệ tử thầy Chánh Pháp, cho biết tuy thầy Huệ Ấn là người xuất gia nhưng là em của Trịnh Công Sơn, Trịnh Công Sơn tuy là cư sĩ nhưng là anh đồng sư của thầy Huệ Ấn vì Trịnh Công Sơn quy y trước.
Trịnh Công Sơn thông minh và có năng khiếu tán tụng. Trong khi cùng học chung với các sư chú khác, các sư chú tán chưa được thì Trịnh Công Sơn đã tán được rồi, Trịnh Công Sơn học rất mau. Vì thế ta biết rằng Trịnh Công Sơn nắm được kỹ thuật tán tụng từ trong nhà chùa. Thượng tọa Chân Thức (ngày xưa là thị giả của đức Tăng Thống Thích Tịnh Khiết) Thượng tọa Phước Toàn, Thượng tọa Huệ Ấn cũng đã từng chơi với Trịnh Công Sơn. Điều này chứng tỏ Trịnh Công Sơn đã được nuôi dưỡng nhiều ngày, nhiều năm trong không khí thiền môn và cũng đã nghe âm nhạc Phật giáo rất nhiều.
Có rất nhiều bản nhạc của Trịnh Công Sơn vừa có thể hát được vừa có thể tụng được. Giữa âm nhạc của nhà chùa và âm nhạc Trịnh Công Sơn có một sự tiếp nối rất lạ kỳ. Chúng ta sẽ nghe tụng bài “Quy y Phật” bằng chữ Hán, rồi nghe tụng bài “quay về nương tựa” bằng tiếng Việt và sau đó nghe tụng bài “Đại bác ru đêm”, ta sẽ thấy được đều đó. Hôm nay Trịnh Công Sơn đang có mặt với chúng ta, đang tu với chúng ta, đang nghe pháp thoại với chúng ta.
“Đại bác đêm đêm dội về thành phố Người phu quét đường dừng chổi đứng nghe, Đại bác qua đây đánh thức mẹ dậy Đại bác qua đây con thơ buồn tủi Nửa đêm sáng chói, hỏa châu trên núi Đại bác đêm đêm dội về thành phố Người phu quét đường dừng chổi đứng nghe Từng chuyến bay đêm, con thơ giật mình Hầm trú tang hoang ôi da thịt vàng Từng đêm trông sáng, làm mát quê hương Đại bác đêm đêm dội về thành phố Người phu quét đường dừng chổi đứng nghe Đại bác đêm đêm tương lai rụng vàng Đại bác như kinh không mang lời nguyền Trẻ thơ quên sống từng đêm nghe ngóng Đại bác đêm đêm dội về thành phố Người phu quét đường dừng chổi đứng nghe . Đại bác đêm đêm ru da thịt vàng Đại bác nghe quen như câu dạo buồn Trẻ thơ chưa lớn để thấy quê hương . Hàng vạn tấn bom trút xuống đầu làng Hàng vạn tấn bom trút xuống ruộng đồng Cửa nhà Việt nam cháy đỏ cuối thôn. Hàng vạn chuyến xe claymore, lựu đạn , Hàng vạn chuyến xe mang vô thị thành Từng vùng thịt xương có mẹ có em”.
Trong truyền thống đạo Bụt, chúng ta được học rằng, trong tâm thức có nhiều hạt giống. Chúng ta có hạt giống của thương yêu, của tha thứ, của hy vọng, nhưng chúng ta cũng có những hạt giống của giận hờn, của tuyệt vọng, của khổ đau. Những bài kinh có tác dụng tưới tẩm những hạt giống tốt đẹp, hạt giống hiểu biết, hạt giống thương yêu. Một số bài hát của Trịnh Công Sơn cũng có tác dụng tưới tẩm những hạt giống hiểu biết và thương yêu trong ta và những bài hát đó người tu có thể hát được.
Trịnh Công Sơn có rất nhiều tuệ giác của đạo Bụt. Nghe cho kỹ, chúng ta có thể nhận diện được tuệ giác đó trong nhạc Trịnh Công Sơn. Ở Làng Mai chúng ta thực tập an trú trong giây phút hiện tại, không để tâm buồn khổ về những chuyện quá khứ, không để tâm lo lắng về những sợ hãi trong tương lai. Bụt dạy chúng ta trở về giây phút hiện tại để sống với giây phút đó cho sâu sắc. Giáo lý đó gọi là hiện pháp lạc trú. Trong giây phút hiện tại có đủ những mầu nhiệm của sự sống, nếu chúng ta biết trở về với sự sống hiện tại thì chúng ta có thể tiếp xúc được với sự sống và chúng ta được nuôi dưỡng bằng sự sống đó. Nhờ vậy chúng ta có đủ bình an và vững chãi để chuyển hóa được những nỗi khổ, niềm đau trong ta. Trịnh Công Sơn cũng có được tuệ giác này. Tuệ giác của hiện pháp lạc trú. Đức thế Tôn luôn luôn khuyên chúng ta trở về sống với giây phút hiện tại mà đừng đi tìm hạnh phúc ở tương lai. Hạnh phúc đã có mặt sẵn trong giây phút hiện tại rồi.
Trong cuộc phỏng vấn với nhà báo, phóng viên hỏi Trịnh Công Sơn thế nào về chủ nghĩa hiện sinh, Trịnh Công Sơn nói: “hiện sinh chân chính không phải là xấu”. Hiện sinh có nghĩa là phải để ý tới giây phút hiện tại. Hiện là bây giờ, sinh là sự sống, sự sống trong giây phút hiện tại. Trịnh Công Sơn nói rằng“ Bụt là nhà hiện sinh” vì Ngài khuyên chúng ta trở về sống với giây phút hiện tại, và Bụt Thích Ca là bậc thượng thừa, bậc thượng thừa của chủ nghĩa hiện sinh. Đây là nguyên văn của Trịnh Công Sơn:
“Hiện sinh chân chính đâu phải là xấu, mình cho rằng bậc thượng thừa của hiện sinh chính là ông Phật. Tại vì Phật dạy ta phải thức tỉnh trong từng sát na của cuộc sống”.
Trịnh Công Sơn đã đưa ra ví dụ là khi tôi và anh uống một ly bia , thì chúng ta hãy hưởng trọn vẹn sự sung sướng của ly bia, hoặc khi ăn cơm mình hãy tập trung vào chén cơm và thức ăn đưa vào miệng. Tức là ăn cơm có chánh niệm, có ý thức; nghĩa là khi ăn chỉ nghĩ đến chuyện ăn thôi mà đừng nghĩ đến chuyện khác. Thực tình, khi con người tỉnh thức trong từng sát na một thì chủ nghĩa hiện sinh không còn là gì cả. Sống nếp sống tỉnh thức trong từng giây phút là điều Trịnh Công Sơn hướng tới. Người này sống bình tĩnh trong từng sát na chứ không sống vội vàng. Chúng ta thấy rằng Trịnh Công Sơn đã nắm được giáo lý hiện pháp lạc trú.
Có điều, Trịnh Công Sơn không có tăng thân cho nên Trịnh Công Sơn không được bảo hộ và sống đúng theo tuệ giác này. Mặc dù có tuệ giác nhưng bạn bè cứ mời đi uống rượu, mời đi chơi hằng ngày thì làm sao sống được với tuệ giác ấy. Chúng ta thật may mắn là chúng ta làm được những gì mà Trịnh Công Sơn muốn làm. Ông đã đưa được tuệ giác này vào trong bài hát “ Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui”.
“Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui Chọn những bông hoa và những nụ cười Tôi nhặt gió trời, mời em giữ lấy Để mắt em cười tựa lá bay. Và như thế tôi sống vui từng ngày Và như thế tôi đến trong cuộc đời, Đã yêu cuộc đời này bằng trái tim của tôi. Mỗi ngày tôi chọn đường mình đi Đường đến anh em, đường đến bạn bè Tôi đợi em về, bàn chân quen quá Thảm lá me vàng lại bước qua. Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui Cùng với anh em tìm đến mọi người Tôi chọn nơi này cùng nhau ca hát Để thấy tiếng cười rộn rã bay. Mỗi ngày tôi chọn một lần thôi Chọn tiếng ru con nhẹ bước vào đời, Tôi chọn nắng đầy, chọn cơn mưa tới Để lá reo mừng tựa vẫy tay. Mỗi ngày tôi chọn ngồi thật yên, Nhìn rõ quê hương và nghĩ lại mình Tôi chợt biết rằng vì sao tôi sống Vì đất nước cần một trái tim.”
Nếu sống được như tuệ giác của bài hát này thì chúng ta có khả năng mang lại hạnh phúc cho rất nhiều người. Cho nên có thể nói Trịnh Công Sơn đã kiến đạo, kiến đạo tức là thấy đạo, thấy con đường để trở về sống sâu sắc từng giây từng phút của cuộc sống hằng ngày. Kiến đạo rồi ta phải tu đạo nữa thì mới chứng đạo được. Muốn tu đạo, phải có tăng thân, có bạn đồng hành cùng có chung tuệ giác với mình. Ba bốn người, năm sáu người bạn quyết tâm sống theo cái thấy này thì chúng ta có hạnh phúc rất rộng lớn và có thể làm chỗ nương tựa cho nhiều người. Cho nên nếu có khả năng, có điều kiện may mắn, chúng ta nên thành lập một nhóm gồm những người bạn cùng chung tuệ giác, để cùng nâng đỡ nhau, cùng nhau sống theo tuệ giác ấy. Nhóm người đó gọi là tăng thân.
Tăng thân là yếu tố căn bản che chở, bảo hộ, giúp mình có thể sống được với tuệ giác của mình. Mình phải nương vào tăng thân, vào nhóm người đó để có thể sống vui vẻ, hạnh phúc và khi nương vào nhóm người đó thì gọi là quy y Tăng, hay nương tựa Tăng. Trong chúng ta, người nào có tăng thân để nương tựa thì người đó có cơ hội rất lớn để sống với cái thấy của mình. Vì kiến đạo là mới thấy đạo thôi, còn muốn chứng được đạo thì phải tu đạo. Chúng ta rất tiếc là Trịnh Công Sơn không có tăng thân. Có lần Vĩnh Trinh than phiền với bạn: “Anh ơi, anh khuyên anh của em dùm một chút, ảnh uống rượu nhiều quá, sáng giờ là ba chai rồi đó”. Những người kia không khuyên được vì họ cũng là những người uống rượu. Do đó mình cần phải có tăng thân để dìu dắt, nâng đỡ và bảo hộ cho mình. Cho nên quý vị nào có tuệ giác, muốn sống đúng theo tuệ giác của mình, sống vững chãi, thảnh thơi và làm chỗ nương tựa cho người khác thì phải có tăng thân để quay về nương tựa. Người nào chưa có tăng thân thì người đó vẫn mồ côi như thường.
Trịnh Công Sơn có nhiều bạn bè rất nổi tiếng, và tài ba của Trịnh Công Sơn rất được nhiều người thán phục, nhưng Trịnh Công Sơn vẫn cô đơn. Trịnh Công Sơn cũng than thở là có những giờ phút Trịnh Công Sơn rất đau khổ. Dù dưới sân khấu có hàng ngàn thính chúng vỗ tay tán dương, nhưng trên này Trịnh Công Sơn vẫn đau khổ như thường. Thỉnh thoảng Trịnh Công Sơn cũng thấy rằng mình cần rút lui để có sự tĩnh lặng, nhưng Trịnh Công Sơn chưa được học phương pháp thiền tọa, thiền hành, cho nên nhiều khi ông cảm thấy rất cô đơn. Trong tuyển tập những bài ca “không năm tháng” do nhà xuất bản Âm Nhạc ấn hành năm 1998, có một bài của Trịnh Công Sơn mà tôi đọc thấy rất thương. Bài đó nói lên những giây phút đau khổ nhất của Trịnh Công Sơn, những giây phút ấy thường rơi vào trước giấc ngủ.
“Tôi thường rơi vào một cơn hôn mê trước giấc ngủ. Ở biên giới đó tôi hốt hoảng thấy mình lơ lững giữa sự sống và cái chết. Những giây phút như thế vồ chụp lấy tôi mỗi đêm khi quanh tôi mọi người đã ngủ yên và tôi đau đớn nhận ra rằng có lẽ cuộc đời đã cho ta lắm ngày bất hạnh”.
Có nhà phê bình nói rằng người tình đầu tiên và cuối cùng của Trịnh Công Sơn là cô đơn, dù Trịnh Công Sơn có nhiều người bạn biết thưởng thức và công nhận tài ba của ông. Chúng ta phải tìm hiểu tại sao Trịnh Công Sơn không giải tỏa được niềm cô đơn đó. Có lần Trịnh Công Sơn nói rằng tình yêu không bằng tình bạn, trong tình yêu không có cái vĩnh cữu. Nói cái tuyệt đối trong tình yêu chẳng qua là phóng đại cho lãng mạn lên thôi, thực sự không có sự tuyệt đối trong tình yêu. Tình yêu sinh ra rồi chết đi, tình yêu đôi khi tạo cho mình những nỗi thất vọng, có khi dẫn đến tuyệt vọng. Trịnh Công Sơn có viết một câu rất ngộ nghĩnh:
“Với tôi trong tình yêu không có sự bất tử, người ta chỉ muốn lãng mạn hóa nó mà thôi. Nhưng tuy như vậy trong sự bất tử có thể có tình yêu.”
“Trong tình yêu không có sự bất tử, nhưng trong sự bất tử lại có tình yêu”. Đọc tới đây tôi hiểu liền lập tức. Người yêu đích thực của mình là người có khả năng tháo gỡ được cho mình ra khỏi trình trạng tuyệt vọng, khó khăn. Khi thấy được tính chất đó trong người yêu thì mình biết là trong tình yêu có sự bất tử.
Trịnh Công Sơn nói rằng: “may thay trong đời người ngoài tình yêu còn có tình bạn”. Nói đến Trịnh Công Sơn, chúng ta không thể không nói đến tình yêu. Nhưng Trịnh Công Sơn được nuôi dưỡng bằng tình bạn nhiều hơn và Trịnh Công Sơn có nói rằng sở dĩ Trịnh Công Sơn có viết những bài tình ca hay là nhờ mình bị phụ tình. Đây là lời của Trịnh Công Sơn chứ không phải do tôi đặt ra. “ Cái may ở đời là bị phụ tình”.
Nếu Trịnh Công Sơn không bị cô Diễm cho leo cây thì Trịnh Công Sơn đâu viết được bài “Diễm xưa”, cho nên mình phải cám ơn cô Diễm và những cô khác nữa. Trong chúng ta ai cũng có hạt giống của tình thương yêu, ai cũng khao khát muốn yêu và muốn được yêu. Trong chúng ta lại có những người đã từng bị phụ bạc cho nên bài hát của Trịnh Công Sơn đã ru nỗi niềm đó trong lòng chúng ta, “ Ru ta ngậm ngùi”. Trịnh Công Sơn nói gì về tình bạn? “Tình bạn thường có khuôn mặt thật hơn tình yêu”. Có một chỗ nào đó Trịnh Công Sơn nói: “Tôi với Khanh Ly giống như hai người bạn trai, chia cho nhau những dĩa cơm, những miếng bánh”. Trịnh Công Sơn được nuôi bằng tình bạn chứ không phải tình yêu. Tình yêu chỉ giúp cho Trịnh Công Sơn viết thành những ca khúc mà thôi. “Tình bạn thường có khuôn mặt thật hơn tình yêu”.
Trong đạo Bụt chữ Từ Bi là thương yêu bắt nguồn từ chữ Maitri và Karuna (tiếng Phạn). Maitri là Từ, Karuna là Bi. Mà Maitri có nguồn gốc từ Mitra, có nghĩa là bạn. Người yêu của mình phải là bạn mình, phải hiểu mình và mình phải hiểu người đó. Hai người đi như một đôi bạn thì mình mới có hạnh phúc. Nếu hai người không hiểu nhau, không có sự thông cảm nhau, nếu tôi không thể hiểu em, em không thể hiểu tôi thì cái đó có thể tạm gọi là tình yêu, nhưng trong đó không có tình bạn, mà không có tình bạn thì không phải là tình yêu đích thực. Vì vậy ai đang yêu thì nên đặt câu hỏi: “Trong tình yêu này có tình bạn không?” Nếu không có tình bạn thì tình yêu này chưa phải là tình yêu đích thực.
“Tình bạn có bộ mặt thật hơn tình yêu, trong tình bạn sự bội bạc có, nhưng không nhiều. Tôi thấy tình bạn quý hơn tình yêu, vì tình bạn có khả năng làm hồi sinh một cơn hôn mê và phục sinh lại một cuộc đời tưởng rằng không còn tái tạo được nữa.”
Tình bạn có công năng cứu chữa. Đúng vậy! Một người bạn có thể cứu chữa cho ta mặc dù đã có lúc ta có rất nhiều lầm lỡ. Dù ta đã sa vào hầm hố của khổ đau, người bạn của ta cũng có thể kéo ta ra khỏi hầm hố đó. Có khi mình nằm trong vực sâu đen tối và người bạn đó tới thả một chiếc thang dài xuống cho ta leo lên vùng chan hòa ánh sáng để tìm lại được màu trời xanh và tiếng suối, tiếng chim. Khả năng cứu chữa đó là tình bạn. Và Đức Bụt Thích Ca cũng có tình bạn, tình bạn rất lớn, tình bạn đó có khả năng cứu chúng ta ra khỏi những trạng huống khó khăn tuyệt vọng. Nếu học theo được tình bạn này thì chúng ta là sự nối tiếp của Đức Thế Tôn, và chúng ta có khả năng đưa cách tay của tình bạn ra để cứu giúp những người khác. Những giờ phút có thể nói là hạnh phúc nhất của Trịnh Công Sơn là giờ phút ngồi với bạn, vì ngồi như vậy thì không cần phải đối phó, không cần phải nói gì, không cần phải làm gì hết. Sự có mặt của bạn bên mình đem đến cho ta sự an ủi, không cần phải giữ gìn, không cần phải đối phó. Nếu anh có một người bạn như vậy thì quá quý. Trịnh Công Sơn có một số người bạn như vậy nhưng sao anh lại cô đơn? Vì giây phút đó ít quá, Trịnh Công Sơn đã nói như thế này:
“Trong âm nhạc có những dấu lặng, tức dấu nghỉ không có âm thanh, nếu không có những dấu lặng đó thì là một tai họa. Âm nhạc mà không có khoảng cách im lặng thì chẳng qua đó là sự rối loạn mà thôi”.
Trịnh Công Sơn nói, khi ngồi bên cạnh một người bạn yên lặng không nói gì hết cũng giống như một dấu lặng trong âm nhạc. Không nói gì mà hay hơn nói. Đoạn đó rất hay, tôi muốn đọc lại cho quý vị nghe:
“Có những sự có mặt của bạn bè tương đương với một dấu lặng trong âm nhạc, nên sự có mặt đó thường có khả năng mang đến cho ta sự thoải mái, thảnh thơi tựa hồ như là niềm hoan lạc. Đó là những trường hợp ta không cần phải đối phó, không cần phải lấp đầy khoảng trống bằng câu chuyện gắng gượng và nhạt nhẽo”.
Trịnh Công Sơn đã có những giây phút đó, giây phút ngồi với bạn mà không cần làm gì cả, chỉ để được nuôi dưỡng bằng tình bạn. Tất cả chúng ta đều rất cần tình bạn như vậy. Sự ồn ào làm cho Trịnh Công Sơn mệt mỏi dù sự ồn ào đó là để tán thưởng hay ca ngợi mình, cho nên Trịnh Công Sơn rất cần những giờ phút yên lặng. Tuy nhiên Trịnh Công Sơn chưa học được cách ngồi một mình để hưởng sự yên lặng, nên Trịnh Công Sơn cần một người bạn ở bên cạnh, để cảm thấy mình hưởng được sự yên lặng. Chúng ta cũng vậy, chúng ta đã học ngồi thiền, nhưng ngồi thiền một mình chưa thấy vui lắm. Ngồi thiền thì đâu được nói chuyện thế mà ngồi ba bốn người vẫn vui hơn. Có phải như vậy không?
Trong khi ta ngồi yên như thế, sự có mặt của nhau nuôi dưỡng được tất cả mọi người trong đó. Có một lần ở tu viện Cấp Cô Độc, trong khi các thầy đang chuẩn bị khóa an cư mùa mưa, thì có khoảng ba bốn trăm thầy từ Kosambi tới. Gặp lại các huynh đệ mừng quá, nên các thầy nói chuyện rất ồn ào. Ngồi trong phòng nghe ồn, Bụt hỏi thầy Xá Lợi Phất: “Có chuyện gì mà ồn như cái chợ vậy? Thầy xá Lợi Phất trả lời: “Có một số huynh đệ từ Kosambi tới; gặp nhau, mừng quá nên họ cười nói ồn ào, mất hết uy nghi, xin Đức Thế Tôn tha lỗi cho họ.” Đức Thế Tôn bảo: “Không được, làm ồn như thế thì phải đi chỗ khác tu học, không thể ở đây,tôi không thể ở chung với những người ồn ào như vậy.” Ta thấy trong lòng đức Thế Tôn chủ yếu muốn dạy cho những người đó nên Đức Thế Tôn nói không thể ở đây, phải đi chổ khác tu học. Sau đó thầy Xá Lợi Phất ra báo tin cho các huynh đệ là “Đức Thế Tôn không muốn cho quý vị ở đây, vì từ đầu giờ vào đây quý vị ồn quá làm mất không khí thanh tịnh của nhà thiền.” Nghe thế quý thầy yên lặng, quyết định đi tới một địa phương khác gần đó để an cư.
Trong suốt mùa an cư đó, các thầy nhớ lời Bụt dạy không nói chuyện, không cười giỡn, người nào cũng hạ thủ công phu, cho nên cuối mùa an cư họ chuyển hóa rất nhiều, mặt người nào cũng sáng rực ra, nụ cười nào cũng rất tươi tắn. Sau mùa an cư họ muốn đến cám ơn Đức Thế Tôn đã quở trách họ và nhờ lời quở trách đó mà họ tinh tấn hơn, nên đã thành công trong tu tập. Thầy Xá Lợi Phất vào thưa với Bụt: “Bạch Đức Thế Tôn, các thầy đã an cư xong rồi và họ muốn vào chào Đức Thế Tôn”. Đức Thế Tôn cho quý thầy vào. Lúc đó khoảng 7 giờ chiều. Đức Thế Tôn chắp tay chào các thầy. Ba trăm thầy đó với hai trăm thầy ở địa phương cùng ngồi với Đức Thế Tôn trong thiền đường rất lớn. Thầy trò ngồi với nhau như vậy từ 7 giờ tối cho tới 12 giờ khuya. Ngồi yên lặng không nói gì hết.
Thầy Anan, thị giả của Bụt, tới gần Bụt và bạch: “Bạch Đức Thế Tôn, gần tới nửa đêm rồi, Đức Thế Tôn có dạy gì cho các thầy không?” Đức Thế Tôn vẫn ngồi yên và thầy trò ngồi yên như thế cho tới 3 giờ sáng. Ngồi yên bên nhau, không nói gì hết, thầy Anan lại nóng ruột nên đến bạch với Đức Thế Tôn một lần nữa:“ Ba giờ sáng rồi, Ngài có muốn khai thị cho các thầy điều gì không?” Đức Thế Tôn vẫn ngồi yên với các thầy cho đến 5 giờ sáng. Lúc này thầy Anan tới “Bạch Đức Thế Tôn, trời rạng đông rồi, Ngài có muốn nói gì với các thầy không?” Đức Thế Tôn nói: “Thầy muốn tôi nói gì nữa. Thầy trò ngồi với nhau như vậy chưa đủ hay sao.”
Thầy trò huynh đệ ngồi với nhau, thấy được và trân quý sự có mặt của nhau là một hạnh phúc rất lớn, rất được nuôi dưỡng. Tuy không có âm thanh nhưng giá trị bằng 10 lần âm thanh. Trong tác phẩm “Tỳ Bà Hành” cũng có một câu nói tương tự “Thử thời vô thanh thắng hữu thanh.” Người nữ đó đàn tỳ bà, có lúc nàng im bặt và trong thời gian im lặng đó, giữa hai nốt nhạc rất hùng hồn, rất thấm thía. Còn hay hơn có âm thanh nữa.“Thử thời vô thanh thắng hữu thanh.” Thử thời là bây giờ, vô thanh là không có âm thanh. Không có âm thanh mà hay hơn là có âm thanh. Trịnh Công Sơn đã thấy được điều đó. Ngồi với bạn bè không cần nói năng gì, chỉ cần có sự thông cảm và hưởng sự có mặt của nhau là đủ rồi. Tôi nghĩ sự an ủi lớn nhất của Trịnh Công Sơn là những giờ phút ngồi với bạn bè. Nhưng nếu bạn không biết ngồi chỉ biết uống rượu thôi thì những giây phút đó không còn quý nữa.
Chúng ta nghe lại bài “Tình ca của người mất trí”
Tôi có người yêu, chết trận Pleime Tôi có người yêu ở chiến khu Đ Chết trận Đồng Xoài, chết ngoài Hà Nội Chết vội vàng dọc theo biên giới Tôi có người yêu chết trận Chu Prong Tôi có người yêu bỏ xác trôi sông Chết ngoài ruộng đồng chết rừng mịt mù Chết lạnh lùng mình cháy như than Tôi muốn yêu anh yêu Việt Nam Ngày gió lớn tôi đi môi gọi thầm Gọi tên anh tên Việt Nam Gần nhau trong tiếng nói da vàng. Tôi muốn yêu anh yêu Việt Nam Ngày mới lớn tai nghe quen đạn mìn Thừa đôi tay dư làn môi Từ nay tôi quên hết tiếng người Tôi có người yêu, chết trận A Sao Tôi có người yêu nằm chết cong queo Chết vào lòng đèo, chết cạnh gầm cầu Chết nghẹn ngào mình không manh áo Tôi có người yêu, chết trận Ba Gia Tôi có người yêu vừa chết đêm qua Chết thật tình cờ chết chẳng hẹn hò Không hận thù nằm chết như mơ.
Trịnh Công Sơn bị ám ảnh bởi cái chết. Chúng ta và nhiều người khác cũng thế. Vì sống trong hoàn cảnh đó, chúng ta đã chứng kiến không biết bao nhiêu bạn bè, bao nhiêu người trẻ, bao nhiêu đồng bào của mình chết. Trịnh Công Sơn là người rất yêu đời và không muốn chết, nhưng ông biết rất rõ rằng một ngày nào đó mình sẽ chết. Có lần một ký giả phỏng vấn ông: “Nhạc sĩ có dự án nào cho tương lai không? Những ngày sắp tới, nhạc sĩ sẽ làm gì?” Trịnh Công Sơn trả lời: “ Sắp tới tôi phải làm việc nhiều hơn để lẫn trốn sự ám ảnh về cái chết”. Cái chết ám ảnh nhạc sĩ và ông nghĩ rằng để đừng bị cái chết làm ám ảnh mãi thì phải làm việc thật nhiều. Và Trịnh Công Sơn nghĩ rằng mình có sứ mạng là phải chuyển tới những người thương, những người hâm mộ mình một thông điệp, thông điệp của tình thương, của lòng nhân ái. Đó là lời nguyện của Trịnh Công Sơn.
Nếu lời nguyện của Đức Bồ Tát Địa Tạng là đi vào địa ngục để cứu độ chúng sanh, lời nguyện của Đức Bồ Tát Quan Thế Âm là lắng nghe tiếng kêu đau thương của muôn loài để tìm tới cứu khổ, thì lời nguyện của Trịnh Công Sơn là gởi tới những thính giả của mình thông điệp của tình yêu thương, tức là tưới tẩm hạt giống thương yêu và tha thứ nơi mọi người. Trong cuộc đời mà ai cũng được dẫn đạo bằng hướng đi như vậy thì thật là quý hóa. Tuy Trịnh Công Sơn đã được tiếp nhận hạt giống thương yêu từ mẹ, từ chùa nhưng chưa có cơ hội học hỏi và thực tập về phương pháp thiền quán để có thể tiếp xúc được với tự tính vô sinh bất diệt của mình. Vì vậy cho nên Trịnh Công Sơn chưa vượt thoát được nỗi ám ảnh của cái chết.
Tôi không bị ám ảnh bởi cái chết vì tôi có tuệ giác về sống chết, tôi đã thiền quán và tôi đã tiếp xúc được với tính vô sinh bất diệt của mình. Quý vị hãy nhìn lên đám mây trên bầu trời. Đám mây đó chiều nay hoặc ngày mai sẽ biến thành mưa. Đám mây đó từ đâu mà có? Có phải từ không mà trở thành có hay không? – Không. Đám mây đó từ nước ao hồ, sông biển do sức nóng mặt trời bốc hơi lên ngưng tụ mà thành. Đám mây không phải từ không mà trở thành có. Có lần Trịnh Công Sơn nói rằng, chúng ta từ hư vô tới và chúng ta sẽ trở về hư vô. Nói như vậy tức là chưa có tuệ giác của người tu thiền. Chúng ta không phải từ hư vô tới và chúng ta cũng không đi về hư vô.
Trong Thánh Kinh có nói chúng ta từ hạt bụi tới và chúng ta sẽ trở về cát bụi. Trịnh Công Sơn cũng có cùng quan điểm đó “Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi, để một mai tôi về làm cát bụi.” Hạt bụi không phải hư vô, hạt bụi cũng không đủ để hóa kiếp thân tôi. Nhiều nhân, nhiều duyên kết hợp lại tôi mới biểu hiện, chứ một nhân, một duyên thì tôi không thể nào biểu hiện được. Theo đạo Cơ Đốc thì Thượng Đế là nhân và là nhân duy nhất để có hiện hữu, nhưng trong đạo Bụt ý niệm về nguyên nhân duy nhất là vô lý. Không có cái gì có thể phát sinh ra từ một nhân duy nhất. Ví dụ như bông hoa này, phải có hạt giống của hoa, phải có đất, có phân, có ánh sáng mặt trời, phải có đám mây biến thành nước mưa… tức là nhiều nhân, nhiều duyên mới có thể làm cho bông hoa biểu hiện được. Thành ra ý niệm một nguyên nhân duy nhất không phù hợp với sự thật. Sự thật là đa nhân đa duyên “trùng trùng duyên khởi”.
Rất tiếc là Trịnh Công Sơn trong những năm tháng đó đã không có cơ hội lên chùa để học hỏi thêm về thiền quán. Trịnh Công Sơn có gởi cho tôi một tập nhạc đề là “Tặng thầy Nhất Hạnh”. Bây giờ tôi vẫn còn giữ. Tôi cũng có viết thư cho Trịnh Công Sơn yêu cầu Trịnh Công Sơn phổ nhạc dùm một số bài kinh. Vì tôi biết rằng nếu Trịnh Công Sơn phổ nhạc những bài kinh này thì Phật tử đọc, tụng, hát sẽ hay lắm, sẽ được nhiều lợi lạc. Thế nhưng thư của tôi bi thất lạc, đến khi Trịnh Công Sơn nhận được thư đó thì ông đã bị bệnh nặng nên không làm được. Thật đáng buồn! Nhưng Trịnh Công Sơn vẫn đang còn đó. Trịnh Công Sơn đang nghe lời tôi nói, mai mốt Trịnh Công Sơn sẽ sáng tác những bài thơ, bài nhạc, bài kinh theo tinh thần của Trịnh Công Sơn. Trịnh Công Sơn đang ở đây, đang ở trong quý vị. Trong số các thượng tọa, ni sư từ Việt Nam sang có Trịnh Công Sơn trong đó. Đừng tưởng Trịnh Công Sơn chết rồi. Trịnh Công Sơn đang sống hùng mạnh hơn bao giờ hết. Đám mây kia không phải từ hư vô tới và nó cũng không phải trở thành hư vô. Mai mốt nó sẽ biến thành mưa. Nó chỉ biến đổi hình thức thôi.
Bây giờ xin quý vị quán chiếu với tôi: giả dụ 2/3 đám mây kia gặp khí lạnh trở thành mưa, rơi xuống, một phần biến thành dòng, thành khe, một phần đi vào trong ruộng lúa xanh tươi. Đứng trên cao, đám mây kia nhìn xuống và nhận ra mình đang ở dưới đó. Một phần của mình biến thành ruộng lúa xanh tươi, một phần biến thành dòng suối. Rồi đám mây nói:“Chào em, tôi biết em là tôi, em là sự tiếp nối của tôi”. Như vậy đám mây kia đâu chết, khi không còn hình thức của đám mây nữa thì nó biến thành một hình thức khác, hình thức của dòng suối hay hình thức của đám mạ xanh tươi. Thế nên trong đạo Bụt nói bản tánh của chúng ta là “vô sinh bất diệt”, chúng ta chỉ thay đổi hình thức thôi. Tự tánh của đám mây cũng vô sinh bất diệt. Trịnh Công Sơn cũng vô sinh bất diệt.
Nếu ta có con mắt của Bụt, nếu ta có con mắt của thầy thì ta có thể thấy Trịnh Công Sơn có mặt một cách rất đích thực ngay trong thính chúng này. Quý vị có thấy được Trịnh Công Sơn trong trái tim mình hay không? Ngày hôm qua thầy nghe thầy Thông Hội hát nhạc Trịnh Công Sơn. Người ta thường hỏi: “Sau khi chết ta sẽ đi về đâu?” Câu hỏi đó làm tốn rất nhiều bút mực và nước bọt để giải thích. Thông thường muốn trả lời câu hỏi đó phải trả lời một câu hỏi khác là “Trong giây phút hiện tại chúng ta đang đi về đâu?” Chúng ta tưởng rằng sau khi thân xác này tàn hoại chúng ta mới đi, nhưng kỳ thực bây giờ chúng ta đang đi, chúng ta đang trở thành một cái khác.
Hãy tưởng tượng Trịnh Công Sơn lúc 5 tuổi và Trịnh Công Sơn lúc 25 tuổi, hai người rất khác nhau, và khi Trịnh Công Sơn 45 tuổi thì lại khác nữa. Chúng ta chuyển biến, sinh diệt trong mỗi giây phút của đời sống hằng ngày. Đứng về phương diện năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) ta so sánh ta trước khi vào đây và ta bây giờ là đã có sự khác nhau rồi. Bao nhiêu sinh diệt, bao nhiêu biến chuyển đã đi qua trong chúng ta và chúng ta luôn luôn được tiếp nối. Nước mưa tiếp nối đám mây, sương mù cũng tiếp nối đám mây. Khi chúng ta nâng một tách trà lên để uống, nếu có chánh niệm, có tuệ giác của Bụt, thì chúng ta thấy rằng mây đang nằm đây trong ly trà này. Thay vì đang uống nước chúng ta đang uống mây. Đây là một sự thật rất khoa học. Nó không phải chỉ là thi ca mà thôi.
Tôi đang uống mây và đám mây chiều nay có thể trở thành một bài thơ, hay ngày mai mây trở thành bài pháp thoại. Mây biến hóa vô cùng. Cho nên ta phải có khả năng nhận diện sự có mặt của Trịnh Công Sơn dưới những hình thái biểu hiện khác của Trịnh Công Sơn. Thế nên ta không thể nói Trịnh Công Sơn chết được. Vì sự thực không có cái gì chết đi cũng không có cái gì sanh ra. Chết nghĩa là từ có trở thành không, Trịnh Công Sơn không phải từ có trở thành không. Đã không có từ không mà trở thành có thì cũng không thể nào từ có mà trở thành không được. Nếu quý vị vừa mới mất một người thân mà quý vị tưởng người thân đó không còn nữa là quý vị lầm. Người thân đó bây giờ đang biểu hiện dưới một hình thức khác. Nhìn cho kỹ ta sẽ thấy được người thân của mình và ta nói: “Chào em, chị rất hạnh phúc nhận ra em dưới một hình thức mới”. Đó là diệu dụng của thiền quán.
Trong những năm 80, 90 nếu Trịnh Công Sơn có được tuệ giác đó thì Trịnh Công Sơn sẽ không bị ám ảnh bởi cái chết, vì Trịnh Công Sơn biết rõ mình không bao giờ chết cả. Trong mỗi giây phút của đời sống hằng ngày, mình đã hiến tặng những lời nói, những lời ca, những tư duy và những hành động của mình cho đời và đó là sự tiếp nối của mình. Đó gọi là ba nghiệp. Ba nghiệp là thân, khẩu, ý. Cũng như cây đèn cầy, khi được thắp sáng lên thì trong mỗi giây phút nó đều hiến tặng ánh sáng, sức nóng và hương thơm. Con người cũng vậy, trong mỗi giây phút của đời sống hằng ngày, chúng ta đã hiến tặng tư duy, lời nói và hành động của ta. Nếu tư duy của ta đầy tham, sân, si thì những hiến tặng của ta sẽ không có giá trị, chúng sẽ làm hư xấu cuộc đời, như thế chúng ta sẽ không có sự tiếp nối đẹp đẽ. Còn nếu tư duy của ta có lòng thương yêu, có lòng nhân ái, có tha thứ, bao dung thì sự tiếp nối của ta sẽ đẹp đẽ.
Trịnh Công Sơn đã hiến tặng tư duy của mình qua nhiều hình thái khác nhau. Hình thái mà ta dễ thấy nhất là những ca khúc của ông. Trịnh Công Sơn đã cống hiến những ngôn từ, hành động, cử chỉ biết thương yêu, chăm sóc, biết tha thứ, bao dung. Có lần ngồi chơi với Hoàng Phủ Ngọc Tường trong một quán cà phê ở Huế, cô bé bán quán bưng tới cho Trịnh Công Sơn một ly cà phê, nhưng vô tình, bé làm đổ hết ly cà phê vào chiếc áo vest của Trịnh Công Sơn, bé sợ xanh mặt, bà chủ tới la bé rất dữ dội. Cô bé sợ quá co rúm người lại. Rất tội nghiệp! Trịnh Công Sơn thấy vậy thương quá, liền nói: “Không phải nó làm đổ đâu, chính tôi làm đổ đó”. Và Trịnh Công Sơn móc túi lấy tiền ra trả cho ly cà phê ấy để cho bà chủ đừng la bé. Sau khi trả tiền Trịnh Công Sơn đứng dậy, nháy mắt cô bé đó rồi ra đi. Đó là một hành động biểu dương lòng tốt của tình thương trong Trịnh Công Sơn. Những cái đó không bao giờ mất đi cả. Đó là nghiệp. Chúng ta đừng hiểu nghiệp là xấu. Nghiệp có thể xấu mà cũng có thể là tốt. Nghiệp xấu gọi là ác nghiệp, nghiệp tốt gọi là thiện nghiệp.
Trịnh Công Sơn đã làm ra những thiện nghiệp và những thiện nghiệp ấy đang tiếp tục đi về tương lai. Chúng ta có thể nhận diện sự có mặt của Trịnh Công Sơn qua những thiện nghiệp mà Trịnh Công Sơn đã tạo tác ra qua những tư duy, lời nói và hành động của ông. Trịnh Công Sơn chưa bao giờ giết người. Trịnh Công Sơn không kỳ thị, Trịnh Công Sơn có can đảm dám nói ra sự thật, yêu nước, yêu dân. Ba mẹ Trịnh Công Sơn phải hãnh diện về điều đó.
Quý vị đã nghe và đã thấy Trịnh Công Sơn có mặt trong mình và bây giờ tôi muốn chia sẻ để quý vị thấy mình cũng có mặt trong Trịnh Công Sơn. Có một lần Trịnh Công Sơn được nhà báo hỏi: “Anh có bao giờ hình dung ra thân xác và tâm hồn mình lúc ở bờ bên kia chưa?”– “Chưa! Đó là tại do lười biếng mà ra.” Do không chịu quán chiếu. Mình có tự do, có thiền đường mà không chịu tham khảo đề tài sống chết, để rồi mai mốt khi nằm trên giường không biết mình đi về đâu. Trịnh Công Sơn công nhận mình làm biếng, không chịu giành thời gian để quán chiếu sâu sắc về vấn đề sinh tử. Các cô, các chú có thấy mình có trong Trịnh Công Sơn không?
Trịnh Công Sơn nói: “… Vì do lười biếng mà ra cả, mình không bao giờ chuẩn bị trước cho mình cái gì hết cho những ngày sắp tới, như thể là khi muốn về Huế là cứ bỏ đồ đạc vào vali mà đi thôi”. Ra Huế thiếu gì thì tính sau. Điều đó rất con người. Và ta thấy sự lười biếng đó nằm trong tất cả chúng ta. Chúng ta giãi đãi, làm biếng, như thể là mình sẽ sống cả ngàn năm và mình có cả ngàn năm để thiền quán, nhưng kỳ thực chúng ta không biết mình sống được bao lâu. Vì vậy chúng ta phải tinh tiến và phải làm thay cho Trịnh Công Sơn. Trịnh Công Sơn chưa làm được thì mình phải làm cho Trịnh Công Sơn. Thầy cũng đang làm cho Trịnh Công Sơn, các thầy, các sư cô cũng đang làm cho Trịnh Công Sơn. Quý vị cũng phải làm cho Trịnh Công Sơn. Chúng ta phải đưa Trịnh Công Sơn đi tới. Bởi vì Trịnh Công Sơn không phải là Trịnh Công Sơn. Trịnh Công Sơn là quý vị. Khi người ta hỏi Trịnh Công Sơn: “Không biết có cõi nào mà sau khi chết mình đi về hay không?” Thì Trịnh Công Sơn trả lời:
“Nếu có một sự tiếp nối ở một cõi khác, một thế giới khác thì chắc là vui lắm. Và tôi nghĩ nếu thực sự có một cõi khác với cõi đời này thì tôi hy vọng chúng ta sẽ được rong chơi mãi mãi”.
Rong chơi là từ của Trịnh Công Sơn. Mình ở trên cuộc đời này là để rong chơi, và nếu hết cuộc đời này có một cõi khác, mình cũng sẽ tiếp tục rong chơi. Đó là hy vọng. Cõi đó gọi là thiên quốc hay thiên đường. Nhưng nếu Trịnh Công Sơn nhưng nếu biết quán chiếu sâu hơn thì sẽ thấy được rằng thân xác này chẳng qua là sự chấm dứt của một giai đoạn biểu hiện và mình sẽ được biểu hiện lại dưới một hình thức khác trong giai đoạn kế tiếp. Đám mây khi không còn là hình thức của đám mây nữa thì nó tiếp tục làm con suối hay làm tảng băng. Làm mây bay trên trời cũng vui mà làm mưa rơi xuống ruộng đồng cũng vui. Tại sao phải sợ?
Trịnh Công Sơn có thể rong chơi mãi mãi trên thế gian nầy mà không cần phải giả định có một thế giới khác hay có một cõi nào khác nữa. Không có cái gì tự nhiên mà có, cũng không có cái gì từ có trở thành không. Trịnh Công Sơn là một thực tại. Trịnh Công Sơn là mãi mãi. Trịnh Công Sơn tha hồ rong chơi, nếu không dưới hình thức của một người Huế, thì dưới hình thức của người Thụy Sĩ. Làm người Huế cũng vui mà làm người Thụy Sĩ cũng vui. Làm một bông hoa thủy tiên cũng hay, làm một bông sen cũng hay. Hình thức nào của sự sống cũng đẹp cả.
Khi Trịnh Công Sơn thấy được điều đó thì Trịnh Công Sơn sẽ thấy được tự tánh của mình là vô sinh bất diệt, mình có thể rong chơi mãi mãi hoài hoài. Mong rằng các thầy, các sư cô, các sư chú, các đạo hữu nắm được chân lý này và thấy được tự tánh vô sinh bất diệt của mình. Cho nên đối với tôi, Trịnh Công Sơn chưa bao giờ chết. Nếu thắp một nén hương cho Trịnh Công Sơn thì chúng ta không nên thắp bằng sự tiếc thương mà thắp bằng ý thức là Trịnh Công Sơn đang còn đó với mình và mình có thể mang Trịnh Công Sơn đi về tương lai, để Trịnh Công Sơn có thể tiếp tục sứ mạng của mình, sứ mạng chuyên chở thông điệp thương yêu. Chúng ta hãy cùng hát với nhau bài “Nối vòng tay lớn” để tưới tẩm hạt giống của tình huynh đệ, của hy vọng và của tình thương yêu trong ta.
Bụt là người. Và vì vậy cho nên một người có thể trở thành Bụt. Đây là điều rất là quan trọng. Bài Tìm Nhau này nói về việc chúng ta đi tìm chúng ta. Và nếu chúng ta tìm được chúng ta, chúng ta biết chúng ta là ai rồi thì chúng ta cũng tìm ra được Bụt. Đây là một bài thiền quán.
Con đã tìm ra Thế Tôn Con đã tìm ra con
Khi mình tìm ra được mình thì đồng thời mình tìm ra được Thế Tôn. Trong cuộc sống bận rộn có thể mình không có thì giờ để đi tìm, để biết mình là ai. Nếu mình chưa tìm được mình thì làm sao mình tìm được Bụt? Đây là một sự thực tập thiền quán.
II. BẾP LỬA HỒNG
Kính thưa đại chúng hôm nay là ngày ba mươi Tết (thật ra là hăm chín Tết do năm nay không có ba mươi). Bây giờ là 15h30’ chiều (giờ nước Pháp). Chỉ 2h30’ nữa Việt Nam đón giao thừa. Buổi bình thơ này là một buổi thực tập cho chúng ta có cơ hội nhìn trở lại. Có thể là trong năm chúng ta bận rộn. Và chúng ta không có thì giờ để nhìn lại chính chúng ta và cách sống của chúng ta. Giờ cuối năm là giờ linh thiêng. Chúng ta cần phải buông bỏ hết. Ngồi yên để nhìn lại, để chúng ta có một cơ hội sẽ làm hay hơn trong năm tới. Đề tài của chiều hôm nay là Bếp Lửa Hồng.
Bếp Lửa Hồng tượng trưng cho sự đoàn tụ, cho sự ấm áp, cho tình thương, cho hạnh phúc. Bếp lửa đó nằm ở đâu? Nó nằm ở đây (Pháp) hay ở bên nhà (Việt Nam)? Có những người trong chúng ta thật sự không có một bếp lửa. Nghĩ tới nhà thì chúng ta không có hạnh phúc. Tại vì chúng ta không có một bếp lửa hồng. Chúng ta chưa thật sự có một bếp lửa. Có thể trong gia đình còn có đủ mẹ cha và anh chị. Nhưng mà liệu tối hôm nay mọi người có nhìn mặt nhau được hay không, có nói chuyện với nhau được hay không? Có đủ tình thương không? Có đủ hạnh phúc không?
Bếp lửa là một hình ảnh rất là thân quen. Chúng ta ai nấy đều mong muốn có một bếp lửa hồng, có một cái tổ ấm. Chính người xuất gia cũng vậy. Chúng ta cũng mong muốn có một chỗ ấm áp, ngồi chung với nhau trong tình huynh đệ. Huống hồ những người ở ngoài đời cuộc sống bận rộn, đi ngang qua bao khổ đau thì họ rất mong ước có một chỗ quay về để có thể cảm thấy ấm áp và hạnh phúc. Chúng ta đã hiểu rằng, chúng ta đã biết rằng nếu không có hiểu nhau thì chúng ta không thể thương nhau, chấp nhận nhau được. Mà trong đạo Bụt, Đức Thế Tôn dạy rất rõ. Nếu mình không hiểu được mình và thương được mình thì mình không thể hiểu được và thương được người khác, dù người đó là bố của mình, mẹ của mình hay là anh chị em của mình hay là người đồng bào của mình. Vì vậy cho nên từ Hiểu và từ Thương rất quan trọng.
Chất lửa phải từ trong trái tim đi ra. Đạo Bụt dạy chúng ta làm ra lửa, làm ra tình thương, làm ra sự hiểu biết. Và khi chúng ta học giáo lý đạo Bụt thì chúng ta có thể chế tác được lửa, ngọn lửa ở trong trái tim của chúng ta. Đó là ngọn lửa của thương yêu, của hạnh phúc. Và nếu chúng ta có ngọn lửa đó rồi thì chúng ta mới châm cho trái tim của những người khác.
Gánh nước đêm ba mươi
Đối với văn hoá Việt Nam, hình ảnh ngọn lửa đi đôi với hình ảnh của gánh nước. Gánh nước đêm ba mươi. Có nhiều địa phương ở Việt Nam, đêm ba mươi gánh nước là một nghi lễ. Dù cho mấy cái chum, cái lu trong nhà đầy rồi thì mình vẫn phải đi gánh nước ở giếng như thường. Và đêm ba mươi người ta gặp nhau ngoài giếng, gánh một gánh cuối cùng và người ta kể chuyện cho nhau nghe. Người ta nói hy vọng của nhau đối với năm mới sắp tới. Do đó gánh nước đêm ba mươi trở thành một đề tài thi ca.
Nếu chúng ta sinh ra trong thời đại mới này thì chúng ta nên biết là ở trong nhà ngày xưa có người em gái, người mẹ đi ra giếng gánh cho đầy chum, đầy lu, đầy vại. Đó là chuyện phải làm trong ngày Tết. Cũng như Tây Phương người ta đổ xăng, đổ dầu cho đầy. Lu nước, chum nước tượng trưng cho những tiện nghi về vật chất. Nếu trong nhà đầy nước thì có nghĩa là chúng ta có nhà ở, có cơm ăn, có áo mặc, chúng ta có lương bổng đàng hoàng. Chúng ta có ruộng vườn, trâu bò, ao cá. Vì vậy tối ba mươi thế nào cũng phải có những chum nước đầy, vại nước đầy. Điều này người nào làm cũng được. Không cần phải là người giàu. Bất cứ người nào dù nghèo cách mấy cũng có thể lấy thùng đi gánh một đôi nước về. Đó là điều bình đẳng. Và giếng trong làng đóng vai một vị Đại Bồ Tát cung cấp nước cho tất cả dân ở trong làng mà không hề kỳ thị. Người giàu cũng nước đó. Người nghèo cũng nước đó. Người già cũng nước đó. Người trẻ cũng nước đó. Người sang cũng nước đó và người hèn cũng nước đó. Vậy nên nhìn vào cái giếng chúng ta có thể thấy đó là một vị Bồ Tát không kỳ thị, không phân biệt, là một nguồn sống, nguồn hạnh phúc cho cả làng.
Thi sĩ Nguyễn Nhã Tiên có viết bài thơ Khúc Quê nói về chuyện đi gánh nước đêm 30. Có thể là chúng ta chưa từng thấy, chưa từng nghe, chưa từng làm. Nhưng chúng ta phải biết được chuyện ngày xưa cha ông của chúng ta ăn Tết như thế nào. Và lệ đi gánh nước đêm ba mươi là một nghi lễ. Dầu cho nước trong nhà đã đầy rồi thì vẫn phải đi gánh như thường. Nó có nghĩa là mối quan tâm hàng đầu của mình là làm thế nào để có được điều kiện vật chất đầy đủ để mà sống. Đó là mối quan tâm đầu tiên của con người.
Khúc quê
Em va gàu vào giếng khuya gọi ngàn đêm thức giấc
Bếp lửa thức xa xôi rực đỏ một góc trời
Ngọn gió thức ngoài đường chập chùng cung bậc
Trừ tịch thức gọi người đủ mặt lứa đôi
Đập vỡ thời gian hoa lửa rơi rơi
Mọi ẩn nấp xô bật tường rêu nhú lời cỏ biếc
Bấc se se ngập ngừng ngoài sân đợi tết
Nước tràn mái tràn thùng em gánh tiếp niềm tin
Giếng ngời ngời gương mặt của đêm đêm cháy sáng
Đêm giũ mình bóng tối
Những cát bụi không còn nơi ẩn trốn
Hạnh phúc từ ngực người nhuộm thắm cỏ hoa
Cả ngàn nhà nước từ giếng chia ra
Cười nói dội vang vang hồi âm của đất
Có một thiên đường đêm ba mươi rất thật
Trừ tịch chia đều mọi ngõ trầm hương
Khói bay trong nhà khói bay hàng hiên về em nhé
Giao thừa đang điểm
Có một tiếng gàu bỏ quên ngoài giếng
Chạm vào tôi ngân mãi khúc quê mùa !
Mối quan tâm thứ hai là làm sao để có một Bếp lửa hồng. Nghĩa là phải có tình thương, phải có niềm tin, phải có hạnh phúc. Và cái bếp lửa hồng này từ đâu mà có? Ai cung cấp cho mình sức nóng đó? Ai cung cấp cho mình ngọn lửa đó? Làm thế nào để thắp lên ngọn lửa trong trái tim? Làm thế nào để thắp trái tim của mình lên?
“Thắp tim lên” là cách dùng từ của nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ.
Ai là người sẽ thắp trái tim của mình lên?
Ai là người giúp cho mình hiểu, mình thương để mình có thể hiểu và thương người khác?
Đó là ngôi chùa ở trong làng.
Ngôi nhà, trung tâm thực tập là nơi người ta tinh luyện, tu tập để người ta chế tác ra cái hiểu và cái thương. Những khoá tu của chúng ta ở Làng Mai đã được tổ chức ở khắp Âu châu, Mỹ châu và các châu khác. Những khoá tu đó đem lại rất nhiều niềm tin cho người ta về tương lai. Có nhiều người khi mới tới với khoá tu họ rất là đau khổ. Họ có nhiều tuyệt vọng, chia rẽ, hận thù, kỳ thị. Họ không có đủ chất liệu thương yêu và tin cậy. Nhưng mà sau một khoá tu năm ngày, bảy ngày thì tự nhiên họ thấy có sự chuyển hoá. Và họ mỉm cười được. Mắt họ sáng lên. Như vậy chúng ta – những người tổ chức khoá tu, hướng dẫn tu học – chúng ta đã châm (mồi) lửa vào trong trái tim của họ để cho họ đem về nhà. Vì vậy cho nên trung tâm tu tập là một vị Bồ Tát.
Nếu mình được tham dự vào chuyện giữ bếp lửa hồng đó thì mình là người có hạnh phúc. Mình giữ bếp lửa hồng đó không phải cho chính mình mà thôi. Mình giữ cho dân cả xóm, cả tỉnh, cả nước. Do đó việc có cơ duyên tới với nhau, sống chung trong tình huynh đệ làm nên một bếp lửa hồng để mình có dư lửa cho chính mình, để có dư lửa phân phát cho người chung quanh là hạnh phúc của những người tu.
Trước khi Thầy nói tiếp thì chắc có lẽ mình nên hát chung với nhau bài Vui Bếp Lửa Hồng. Tại vì đó là chủ đề của buổi sinh hoạt tối nay. Bài này lời và nhạc của Xuân Tiên. Và quý thầy Xóm Thượng thêm một vài lời.
III. VIỆT NAM! VIỆT NAM!
Chúng ta vừa nói tới những quan tâm thường nhật. Làm sao để có được những điều kiện vật chất như là công ăn việc làm, lương bổng, nhà cửa và những tiện nghi tình cảm. Làm sao để có một cuộc sống lứa đôi, một cuộc sống gia đình có hạnh phúc. Nhưng nếu chúng ta có thì giờ để quán chiếu thì chúng ta sẽ thấy rằng ngoài những mối quan tâm thường nhật, cái “daily concerns”. Mỗi người trong chúng ta còn có một mối quan tâm khác, mối quan tâm tối hậu, cái “ultimate concern”. Chúng ta muốn vươn lên một cái gì cao hơn cuộc sống thường ngày. Chúng ta biết rằng ở Việt Nam bây giờ ước mơ của dân chúng là có được một nền dân chủ. Chúng ta đã có độc lập, chúng ta đã có tự do với ngoại bang. Nhưng có một điều mà chúng ta chưa có là tự do dân chủ. Hầu hết nhà tri thức và những người trẻ đều nghĩ rằng nếu mà có dân chủ thì chúng ta đạt tới hạnh phúc hoàn toàn rồi. Và vì vậy mục tiêu mà người Việt Nam đang hướng tới là Dân Chủ và Tự Do.
Nhưng mà nghĩ cho cùng thì chúng ta thấy rằng có những nước ở Tây phương họ có dân chủ, họ có tự do nhưng mà họ cũng còn nhiều đau khổ lắm. Trong nước họ có nhiều đảng phái và các đảng phái được tự do hoạt động. Họ có tự do thật, họ có dân chủ thật nhưng khổ đau trong xứ họ cũng rất là nhiều. Vậy nên ngoài cái Độc Lập – Tự Do – Dân Chủ thì chúng ta muốn cái gì nữa? Đó là hạnh phúc chân thật, là tình thương. Mà tình thương là cái mà chúng ta phải chế tác.
Hôm nhạc sĩ Phạm Duy qua đời… Nhạc sĩ Phạm Duy là một nhạc sĩ lớn của nền Tân Nhạc Việt Nam. Giữa ông và Thầy có một mối giao tình khá mật thiết. Hôm đó Thầy nhờ nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân, một người chuyên môn nghiên cứu về Huế gọi là Huế học. Những ngày chót của nhạc sĩ Phạm Duy thì Nguyễn Đắc Xuân đã ở bên giường bệnh và tiễn Phạm Duy vào những phút giây cuối cùng. Khi Phạm Duy tịch rồi thì Nguyễn Đắc Xuân có gửi thư cho thầy và nói rằng “Phạm Duy đã rời cõi tạm để đi tới cõi vĩnh hằng”. Ý nói là cõi mình đang sống đây chỉ là cõi tạm. Và trong cuộc sống này có 100 năm thì mình phải biết đầu tư cho cái cõi vĩnh hằng. Chia ra hai cõi. Một cõi gọi là cõi Tạm. Và một cõi gọi là Vĩnh Hằng. Trong dân gian người ta cũng nói “sống gửi thác về”. Nó có một nghĩa tương đương như vậy. Sống là gửi tạm ở đây thôi. Còn thác là về chỗ đó, chỗ vĩnh hằng. Thầy có gửi cho Nguyễn Đắc Xuân một câu thư pháp để đưa vào cho gia đình Phạm Duy. Câu của Thầy viết là “lời mai đây cao ngút Trường Sơn”. Đó là chữ của Phạm Duy.
Vào năm 1964, khi Thầy gặp Phạm Duy nói chuyện thì anh có tiết lộ cho Thầy biết là anh đang có mơ ước làm một trường ca gọi là Trường Ca Trường Sơn. Phạm Duy rất là nổi tiếng về Trường Ca Con Đường Cái Quan và Trường Ca Mẹ Việt Nam. Hai Trường Ca đó chưa được phép hát tại Việt Nam. Trường Ca Con Đường Cái Quan nói về con đường xuyên Việt từ Bắc vào Nam, con đường lập quốc, nối liền 3 miền với nhau. Trong đó có biểu lộ niềm mong ước đất nước được thống nhất. Rồi khi Phạm Duy sáng tác Trường Ca Mẹ Việt Nam thì có Đất Mẹ, Núi Mẹ, Sông Mẹ và Biển Mẹ. Trong thời gian sáng tác thì đất nước còn chia đôi. Con sông Bến Hải chia đôi đất nước làm 2 miền. Trong Trường Ca Mẹ Việt Nam, khúc nói về những con sông chia rẽ buồn lắm. Cùng một mẹ mà chia rẽ ra làm hai. Phạm Duy còn tiết lộ sau Trường Ca Con Đường Cái Quan, Mẹ Việt Nam thì anh sẽ sáng tác một trường ca thứ ba gọi là Trường Ca Trường Sơn.
Con Đường Cái Quan thì anh nói nhạc đó là nhạc hiện thực, tả chân, tả thực. Nốt nhạc có nhiều dấu thăng. Đến Mẹ Việt Nam thì nhạc có tính cách biểu tượng, tượng trưng. Và trong đó có nhiều nốt giáng. Và khi anh sáng tác Trường Sơn thì nhạc ngụ ngôn, ví dụ. Và nó sẽ có những dấu không có theo tiết tấu thông thường, nó tự do. Phạm Duy có chia sẻ là Trường Ca Trường Sơn sẽ nói về chiều cao tâm linh của đất nước. Tại vì chúng ta đã có những người cha, người anh vươn lên rất cao trên đỉnh tâm linh. Chúng ta không phải chỉ khám phá và thực hiện được những gì ta ước mơ trong đời sống hằng ngày là những tiện nghi vật chất, tiện nghi tình cảm mà chúng ta đã khám phá được chiều sâu, chiều cao tâm linh. Vào đời Lê, đời Lý, đời Trần, chúng ta đã vươn lên rất cao. Nhờ có đạo Bụt mà chúng ta đã đi tới một đời sống tâm linh rất là cao. Cho đến nỗi một ông vua đã đi xuất gia trở thành một vị xuất sĩ. Chúng ta đã có những người cha, người anh vươn tới được như vậy. Tuệ Trung Thượng Sĩ là một người cư sĩ nhưng đã trở thành thiền sư. Và các vua Trần Thái Tông, Trần Anh Tông, Trần Nhân Tông đều là những người có ngồi thiền, có tu học và sáng tác. Mẹ Việt Nam là nói về những người mẹ. Và Trường Sơn là nói về những người cha. Phạm Duy nói rất rõ là “có lẽ tôi sẽ bắt đầu bằng hình ảnh của một người đang đi từng bước. Đang đi thì tự dưng dừng lại vì thấy dưới chân có một con giun, con trùng. Và nếu mình bước lên thì sẽ dẫm chết con giun, con trùng đó.”
Nếu bắt đầu ngay đoạn đó thì chúng ta biết là từ bi, từ bi không những với loài người mà còn đối với những loài cỏ cây, đất đá và cầm thú. Tâm linh là như vậy. Chúng ta biết đạo Bụt là một đạo chuyên về tình thương, bất bạo động. Chiều hôm nay chúng ta nói về chuyện tâm linh, chuyện đạo đức của nhạc Phạm Duy. Vào những năm 1960, chính xác là 64-65, những hạt giống đạo đức, những hạt giống tâm linh của Phạm Duy được tưới tẩm rất nhiều. Cho nên Phạm Duy đã sáng tác được những bài nhạc thấm nhuần tinh thần tâm linh, đạo đức. Trong đó có 10 bài Tâm Ca. Cuộc vận động của đạo Bụt đã khôi phục lại quyền làm người trong những năm 1963-1964 và đã gây cảm hứng rất lớn cho nhiều văn nghệ sĩ. Ngọn lửa tự thiêu của Hoà thượng Quảng Đức đã đi vào trong Trường Ca Mẹ Việt Nam. Trong bài Chung Khúc của Trường Ca Mẹ Việt Nam. Chúng ta hát như thế này:
Việt Nam, Việt Nam, nghe tự vào đời Việt Nam hai câu nói bên vành nôi Việt Nam nước tôi. Việt Nam, Việt Nam, tên gọi là người Việt Nam, hai câu nói sau cùng khi lìa đời
Đây là những câu chứng tỏ là Phạm Duy muốn đi, Phạm Duy muốn đất nước đi trên con đường của tình thương hơn là con đường của gươm giáo và hận thù.
Việt Nam không đòi xương máu Việt Nam kêu gọi thương nhau Việt Nam đi xây đắp yên vui dài lâu Tức là hoà giải với nhau. Bỏ gươm xuống để tới với nhau. Việt Nam trên đường tương lai Lửa thiêng soi toàn thế giới
Phạm Duy có nói rất rõ. Lửa thiêng đây là ngọn lửa của Hoà thượng Quảng Đức đem từ bi xoá bỏ hận thù. Trên con đường xây dựng tương lai thì Việt Nam đóng góp cho thế giới bằng ngọn lửa thiêng đó. Không có làm khổ người. Lấy thân làm đuốc. Lấy từ bi để làm khí giới.
Lửa thiêng soi toàn thế giới
Ngọn lửa của Hoà thượng Quảng Đức không chỉ soi sáng cho đất nước Việt Nam, cho con người Việt Nam mà là cho tất cả thế giới.
Việt Nam ta nguyện tranh đấu cho đời
Tức là không chỉ tranh đấu cho đất nước riêng của mình mà là tranh đấu cho cả nhân loại. Và con đường tranh đấu là con đường bất bạo động, con đường tình thương. Chứ không phải là con đường gươm giáo.
Tình yêu đây là khí giới. Tình thương đem về muôn nơi
Rất là rõ ràng. Khí giới của mình là tình thương và mình muốn khắp nơi trên thế giới đều được thừa hưởng tình thương đó.
Việt Nam đây tiếng nói đi xây tình người.
Tức là tình người, tình anh chị em là mục đích, là chí hướng của Việt Nam. Việt Nam không phải chỉ để cho Việt Nam mà thôi. Việt Nam phải phụng sự thế giới, phụng sự theo con đường bất bạo động, tâm linh và tình thương. Có rất nhiều người ở Việt Nam muốn dùng bài này để làm Quốc Ca nhưng mà chuyện đó chắc phải chờ đợi. Bài Quốc Ca cũ thì có xương, có máu quá nhiều. Bài này thì không đòi xương máu mà chỉ kêu gọi thương yêu mà thôi. Nếu mà tuổi trẻ muốn thì nội trong vòng ba mươi năm thì có thể có được bài này.
Các thầy, các sư cô có thể hát bài này được không? Mấy anh chị sinh viên có nhớ, có biết bài này hay không?
IV. TÂM CA
Năm 1964, Thầy thành lập trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội (TNPSXH). Và từ đó các thầy trẻ, các sư cô trẻ, những người thanh niên Phật tử đã đi vào nông thôn để giúp cải thiện đời sống miền quê. Đó là những chiến sĩ hoà bình. Thầy cũng thành lập Viện Đại Học Vạn Hạnh và mời thầy Minh Châu về làm Viện Trưởng. Trường TNPSXH thường tổ chức những buổi nói chuyện của văn nghệ sĩ. Và Phạm Duy được mời tới rất là thường. Phạm Duy đã sáng tác Mười bài Tâm Ca trong thời điểm này. Bài Tâm Ca đầu là Tôi Ước Mơ. Đó là một bài thơ của Thầy Nhất Hạnh và Phạm Duy phổ nhạc. Bài đó rất đơn sơ. Khi đó chiến tranh đang tiếp diễn khốc liệt và trong nước không ai dám mở miệng ra nói hoà bình hết. Thì bài này là bài thơ đầu tiên dám nói về hoà bình.
Sáng nay vừa thức dậy Nghe tin em gục ngã Nơi chiến trường Nhưng trong khu vườn tôi, vô tình Khóm tường vi vẫn nở thêm một đóa
Em mình chết ngoài chiến trường nhưng mà cây tường vi vẫn nở thêm một đoá.
Tôi vẫn sống, vẫn ăn và vẫn thở Nhưng đến bao giờ mới được nói thẳng điều tôi ước mơ ?
Đầu đề bài thơ là Hoà Bình. Phạm Duy có can đảm đặt nhạc bài đó. Tiếp theo là 9 bài khác. Và trong 9 bài, bài nào cũng có ước vọng về hoà bình, có ước vọng nuôi lớn tình thương, đem từ bi để xoá bỏ hận thù.
Bài Tiếng Hát To thì Phạm Duy có nói là tôi muốn tiếng hát của tôi nó át được tiếng súng. Tiếng hát này là tiếng hát của tình thương. Đây là tâm ca thứ hai sau bài Tôi Ước Mơ – Hoà Bình.
Tôi sẽ hát to hơn súng nổ bên bờ ruộng già Lời tôi ca, lời tôi ca xin lúa đừng lo
Đây không phải là tiếng kêu gọi chiến tranh giết nhau. Đó là tiếng kêu gọi thương nhau.
Lời tôi thay cho tiếng đạn bay Lời tôi xây cho vững tay cày Rồi đêm đêm xua ác mộng đầy Lời ca êm ru giấc ngủ say Trẻ em đi ngủ trong tiếng súng nổ bên bờ ruộng. Tôi sẽ hát cho vơi thống khổ vơi dòng lệ nhòa Một miền quê, một miền quê tim héo và khô Lời tôi ca khâu vá tình thương
Mình nhớ lại bài Kim Chỉ của Xuân Diệu.
Chúng ta là cây kim, Chúng ta là sợi chỉ, Để may lại cuộc đời Cho liền trong vạn kỷ
…
Mình thế gian rách nát, Ôi cái áo ăn mày Chúng ta là kim chỉ Thương khó những đêm ngày
Đó là công việc của tình thương. Lời tôi ca khâu vá tình thương nghĩa là làm cho êm dịu lại những nỗi khổ niềm đau và đem mọi người lại với nhau.
Lời hôm qua chắp nối Con Ðường Lời hôm nay vương tiếng Mẹ buồn
Lời hôm qua chấp nối Con Đường tức là Con Đường Cái Quan. Lời hôm nay vương tiếng Mẹ buồn tức là Mẹ Việt Nam. Và lời mai đây cao ngút Trường Sơn là muốn nói đến Trường Ca Trường Sơn mà Phạm Duy chưa có cơ hội viết trước khi lìa đời. Hứa với Thầy rồi. Sẽ làm ra một Trường Ca lớn nói về chiều cao tâm linh của dân tộc, nói về người cha lớn của Việt Nam. Nhưng mà tại vì cuộc đời nó kéo đi. Lỗi một phần cũng tại Thầy. Tại vì Thầy bỏ nước đi kêu cứu hoà bình. Thành ra ở nhà không có ai tưới tẩm hạt giống cho Phạm Duy. Không có ai mời Phạm Duy tới ăn cơm chay… Cho nên trong đám tang của Phạm Duy, thầy gửi về cho Phạm Duy câu chót của bài Tiếng Hát To này.
Lời mai đây cao ngút Trường Sơn.
Phạm Duy anh chết rồi nhưng anh chưa chết đâu. Anh phải tái sinh trở lại. Anh phải bảo con cháu anh làm cho được chuyện anh đã hứa với tôi. Phải sáng tác cho được Trường Ca Trường Sơn. Chúng ta đã có Độc Lập, chúng ta đã có Thống Nhất. Chúng Ta đã có Mẹ Việt Nam, Con Đường Cái Quan thì giờ đây chúng ta phải vươn lên đến Trường Sơn. Chúng ta phải có một nếp sống tâm linh có hạnh phúc để có thể đóng góp cho hoà bình của thế giới.
Tôi sẽ hát to hơn những kẻ Tôi sẽ hát to hơn những kẻ khơi ngọn lửa thù Lời tôi ca, lời tôi ca như suối rừng thu
Lời rất là đạo vị.
Lửa âm u ai đốt từ lâu Miền quê tôi khan tiếng kêu gào Lời tôi ca như nước nhiệm mầu Thành mưa rơi cho dứt niềm đau
Đúng là Cam Lộ. Đó là chiều hướng tâm linh trong nhạc Phạm Duy. Lời tôi ca như nước nhiệm mầu. Đó là Cam Lộ Thủy. Thành mưa rơi cho dứt niềm đau. Thấy rất là rõ. Khi mà một nhà nhạc sĩ được tưới tẩm những hạt giống tốt, tâm linh, thương yêu thì có thể sáng tác như vậy. Cả triệu người hát theo. Rất tiếc là Thầy bỏ nước đi kêu gọi hoà bình nên ở nhà không có ai chăm sóc và tưới tẩm tiếp tục. Đây là những bài ca có thể gọi là chống chiến tranh:
Tôi sẽ khóc to hơn đứa nhỏ đang ngồi vỉa hè Trẻ bơ vơ, trẻ bơ vơ đi giữa vườn hoa Hỏi thăm em, em có mẹ cha Hỏi thăm em, em có ông bà Hỏi thăm em, em có cửa nhà Một ngày qua em mất cả ba Tôi sẽ khóc to hơn đứa nhỏ đang tìm nụ cười Trẻ thơ ơi, trẻ thơ ơi, xin đến gần tôi Cùng em côi tôi có bàn tay Và đôi môi tôi hát ăn mày Chia hạt cơm rơi hay bát gạo đầy Cùng ngủ ven sông hay gối bụi câỵ
Có rất nhiều trẻ em đói, chỉ còn đôi môi để hát những câu “lạy ông đi qua, lạy bà đi lại, cho con xin một bát cháo, chén cơm”. Chúng ta thấy những lời thơ này có đạo vị, bắt đầu có chất liệu tình thương. Tâm ca số 3 là Ngồi Gần Nhau. Mình không phải làm gì nhiều. Mình chỉ cần tới ngồi gần nhau.
Ngồi gần ngồi gần nhau, vai sát vai nhau tựa đầu Ngồi gần ngồi gần nhau, tay nắm tay cho thật lâu Ngồi gần ngồi gần nhau, xin nói cho nhau một điều Ngồi gần ngồi gần nhau cho nhiều Phải tới ngồi gần nhau thì mới có cơ hội hiểu nhau. Ngồi gần tình thương yêu, nghe rõ tiếng Bụt kêu.
Phạm Duy trong thời gian được tưới tẩm những hạt giống tốt đã sáng tác như vậy. Còn đây là Giọt mưa trên lá – Tâm ca số 4
Giọt mưa trên lá nước mắt mẹ già Lã chã đầm đìa trên xác con lạnh giá. Đứa con trai vừa mới chết trên chiến trường. Giọt mưa trên lá nước mắt mặn mà Thiếu nữ mừng vì tan chiến tranh chồng về
Đây là nói về ước mơ.
Giọt mưa trên lá tiếng khóc oa oa Đứa bé chào đời cho chúng ta nụ cười Giọt mưa trên lá tiếng nói bao la Tóc trắng đậm đà êm ái ru tình già. Giọt mưa trên lá tiếng nói thầm thì Bóng dáng Phật về xoa vết thương trần thế
Như vậy rất là đẹp.
Tâm ca số 5 – Để lại cho em (thơ Nguyễn Đắc Xuân) là lời thú thật với thế hệ trẻ: các anh đã làm ăn bê bối, để lại cho các em một đất nước chia lìa, chiến tranh.
Để lại cho em này nước non mình Để lại cho em một nước đẹp xinh Một miền oai linh hiển hách Chỉ còn dư vang thần thánh Để lại cho em hèn kém của anh Để lại cho em cuộc sống mệt nhoài Để lại cho em hồn nước tả tơi Đường đời quanh co kẹt lối Để lại cho em một nước phân lìa Để lại cho em một giống nòi chia Hận thù nhân danh chủ nghĩa Bạo tàn vênh vang bề thế Để lại cho em giọt máu dân lành Để lại cho em từng nấm mồ xanh Chập chờn bay trong bại thắng Ngọn cờ khăn sô mầu trắng Để lại cho em một bãi sa trường.
Đó là lời thú tội của một người anh bất lực. Không để lại cho đất nước một điều gì tốt đẹp mà lẽ ra thế hệ trẻ đáng được hưởng. Bài Tâm Ca số 7 phổ nhạc từ một ý thơ của Thầy: “kẻ thù ta không phải là người, giết người đi thì ta ở với ai”
Bài này là một bài hát phản chiến. Hồi đó thanh niên đã hát trên đường phố Sài Gòn. Năm 1966 Thầy đã gặp Mục sư Martin Luther King, Jr. Thầy đã đọc cho Mục sư nghe trong một cuộc biểu tình ở Memphis thì mục sư đã giăng câu này ra để đi biểu tình.
My ennemy is not people. If I kill people who shall I live with?
Có lẽ trong khoá tu xuất sĩ, mình có thì giờ mình sẽ hát bài Tâm Ca này.
Khi Thầy đi qua Tây Phương để kêu gọi thế giới giúp một tay để chấm dứt cuộc chiến khốc liệt ở Việt Nam thì Phạm Duy cũng được nghe dư âm đó và Phạm Duy cũng viết vài bài nói về tình trạng đó. Những bài đó không phải là Tâm Ca mà là Tâm Phẫn Ca. Tức là sự phẫn nộ của tâm. Trong đó có bài Tôi không phải là gỗ đá. Đại ý là tôi thấy người dân chết mỗi ngày mỗi đêm. Đâu phải là tôi không biết. Tôi không phải là gỗ đá. Thành ra tôi phải nói thôi. Phạm Duy đã phổ nhạc bài thơ phản chiến của Thái Luân là Bi Hài Kịch và bài Đi Vào Quê Hương (thơ Hoa Đất Nắng). Thái Luân là một sĩ quan trong Quân đội Việt Nam Cộng Hoà khi chứng kiến sự chết chóc của đồng bào đã viết nên những bài thơ phản chiến rất là bi đát. Và Phạm Duy có can đảm phổ nhạc một số các bài như vậy.
IV. RONG CA
Năm 1988 thì thầy gặp Phạm Duy ở California. Hồi đó ông mới sáng tác 10 bài mới. Gọi là Rong Ca. Rong là rong chơi. Lúc đó ông đã 71 tuổi. Và ông tập hợp tất cả những bài nhạc của ông để in thành một tập gọi là Ngàn Lời Ca. Ở trên này đề là kính tặng Thầy Nhất Hạnh, Phạm Duy – 1989. Trong tập nhạc này có một băng cassette trong đó có Mười bài Rong Ca. Trên con đường lái xe từ Los Angeles đi lên San Francisco thì Thầy đã bỏ vào trong máy và Thầy nghe 10 bài. Thầy đã chiêm nghiệm và thấy trong đó Phạm Duy đã bắt đầu có những cái mà Thầy gọi là “ultimate concern”. Tức là những mối quan tâm về siêu hình, về sống chết, về tâm linh.
Dầu cho không làm được Trường Ca Trường Sơn nhưng mà vẫn khắc khoải. Tại vì Phạm Duy có kể rằng năm 1988 có dịp đi San Francisco thì tự nhiên nhớ là chỉ còn có 12 năm nữa là tới năm 2000 và lúc đó có thể là mình đã chết rồi cho nên mới đặt vấn đề là sau khi chết mình sẽ đi đâu, thành cái gì và thấy rằng cuộc sống 100 năm quá ngắn. Phạm Duy tự nhận mình là một người tình, một người tình già. Vậy nên Rong Ca Đầu Tiên mang tên là Người Tình Già Trên Đầu Non.
Người tình già trên đầu non Tuyết đã tan trên vai mỏi mòn Giữa đám mây xanh xao chập chờn Nhìn mặt trời thoi thóp hoàng hôn Người tình già trên đỉnh khơi Muốn lãng quên trăm năm một đời
Trong bài này Phạm Duy tìm cách để hiểu thế nào là thời gian, tìm cách vượt thoát thời gian. Tại vì thấy 100 năm sống ở cõi đời này quá ít, nó không có nghĩa gì hết. Cái đó thuộc về những ưu tư tối hậu.
Người từng là nắng mùa Xuân Ðã dắt em đi trên đường trần Ðã vuốt ve em trong Hạ mềm Rồi lạnh lùng Thu đến… lìa em
Tức là mình sẽ phải chết. Người trở thành cây mùa Ðông Lá úa rơi vun cao cội nguồn Nhưng cuối bước đi trăm năm một lần Ðầu cành khô bỗng hoa nở tràn
Đó là hình ảnh của một cây mai. Tới mùa Đông thì tất cả những lá mai rụng xuống và tự nhiên những bông mai nở tràn ra đầy. Hình ảnh đó cho Phạm Duy ý tưởng là có thể mình sẽ đầu thai thành những người trẻ. Mình chết đi đây tức là không phải mình hết mà mình sẽ đầu thai. Và Phạm Duy có nhắc tới lời nói trong dân gian là “lá rụng về cội”. Trở về cội thì mình phải có thì giờ để hoá thành đất. Hoá thành đất rồi thì mới luân hồi ra thành những bông hoa mai của năm mới. Chứ đâu thể rớt xuống rồi thành hoa liền được. Nhưng mà Phạm Duy nóng lắm, muốn mình thành mai lập tức cho nên trong bài đó những câu như vậy.
“Người ta thường có ý nghĩa lá rụng về cội khi nói tới tuổi già. Trong cái băng nhạc tình của tuổi Bảy mươ này, tôi lại muốn nói rằng cái quan trọng không phải là sự về cội nguồn của những chiếc lá chết. Cái quan trọng là làm sao để hoa vẫn nở rộ trên những cành khô. Chúng ta là những người tình của bách niên 1900, là những lá vàng khô đang chết, nhắn nhủ người tình của thế kỷ thứ 21 là những nụ hoa đang hé…”
Ở đây có một khoảng cách giữa mình và thế hệ của những người trẻ. Phạm Duy không thấy rõ là những người trẻ bây giờ đang là sự tiếp nối của mình và mình sẽ không bao giờ chết. Bài Người tình già trên đầu non là một cái suy nghiệm về thời gian. Mộ Phần Thế Kỷ – bài thứ hai có đưa ra hình ảnh hoa và rác. Những rác của thế kỷ 20 nếu mình biết cách thì mình có thể biến rác thành hoa được. Thành ra Phạm Duy cũng có những cách tư duy, chiêm nghiệm, thiền quán của Phạm Duy. Chỉ có cái là không có người hướng dẫn. Nhưng trong sự sống, thực sự đã có những giây phút Phạm Duy có cái nhu yếu làm thoả mãn niềm quan tâm về tối hậu.
Người đi trong mùa Đông Lòng bâng khuâng như làn sương Theo người phu đi dọn xác chiến trường Người phu sau thời gian Một trăm năm đã gần xong Anh bình tâm đi lượm xác trên đường Những xác úa một thời Có bóng dáng triệu người Phiêu diêu nơi Thế Chiến Một, Thế Chiến Hai Hết Thế Chiến, lại là Anh em trong một nhà Lấy chém giết để giải hoà trong quốc gia
Người đi trong mùa Đông Đội khăn tang, mang tình thương Theo người phu đi đào lỗ bên tường Vùi sâu trong mộ chung Hoặc vùi nông trong mộ hoang Anh hùng rơm hay chủ nghĩa phi thường Vùi chôn bao lầm than Một trăm năm, bao trẻ em Mang bộ xương, theo Thần Đói lên đường Những ác chúa từng miền Những xác ướp bạo quyền Chôn ngay đi, vứt chúng vào hố lãng quên Vứt Phát Xít vào mồ Ném Mác Xít vào mộ Hãy lấp kỹ cả tội hèn trong chúng ta
Biết lấp kỹ thì chúng sẽ trở thành hoa màu cho thế kỷ 21.
Đó là tư duy của Phạm Duy, là thiền quán của Phạm Duy. Và có thể trên rác bạo động, hận thù đó mình sẽ có đoá hoa của tình thương nở lên cho những người trẻ của thế kỷ 21. Cái đó là thiền quán chứ gì nữa.
Trong bài Trăng Già – Rong Ca số 8 – thì hơi tội nghiệp. Có câu là “Trăng ơi, im lặng suốt đời. Mà sao ta cứ đứng ngồi không yên.” Rất là là tội nghiệp. Đây là sự bất an. Rất tiếc là không có (thầy trò) mình đó để mình chỉ cho nhạc sĩ thở theo An Ban Thủ Ý, an tịnh tâm hành, an tịnh thân hành, an tịnh những cái cảm thọ. Đứng ngồi không yên là tại vì không biết an trú trong hiện tại. Không biết điều phục chăm sóc cái thân hành và tâm hành. Trong bài Rong ca số 9 – Ngựa Hồng – thì có một câu rất là hay. Ngựa Hồng ngày xưa đã từng ra trận, đã có những thời oanh liệt. Nhưng mà sau trở thành ra kéo xe cho những người giàu có, cho vua chúa và trở thành nô lệ. Hai con mắt bị che thành ra không thấy được gì nữa. Người ta bắt chạy đâu thì chạy đó thôi. Ngày xưa đã vinh quang trong chiến trường bây giờ trở thành kiếp nô lệ, nạn nhân của tham nhũng, nạn nhân của bạo quyền. Một bữa nọ, có một con ngựa rừng nó đi ngang qua. Nó nói “Tại sao mày dại như vậy? Cuộc sống của một con ngựa tự do trên rừng sướng biết bao nhiêu mà lại đem thân mạng làm một nô lệ như vậy?” Nó khuyên một câu thì con Ngựa Hồng này tỉnh ngộ. Nó đưa chân đá vỡ yên cương, tìm đường thoát thân.
Ngựa Hồng vươn lên phi qua lỗ bé trôn kim Thong dong đi vào cõi không !
Phạm Duy thấy cuộc sống này chật hẹp, thấy thế giới của tích môn này chật hẹp. Trăm năm không đủ và có nhu yếu muốn vươn tới một cõi, gọi là cõi lớn, cõi không. Phạm Duy có cái đó chứ không phải không. Phạm Duy là con nhà Phật tử. Rất tiếc là không có thầy, có bạn, có tăng thân ở bên. Thành ra không có làm tròn ước mơ của mình là Trường Ca Trường Sơn. Vì vậy mình phải nói với Phạm Duy là anh không có đi đâu hết. Anh phải ở đây cùng với con cháu anh làm cho tôi được Trường Ca thứ ba là Trường Ca Trường Sơn.
Bài Rong Ca số 10 – Rong Khúc cũng là một sự chiêm nghiệm. Bài này mình sẽ nghe con trai của Phạm Duy là Duy Quang hát. Cả hai cha con đều mất tháng trước. Đây là bài chót của Rong Ca. Có thể là tiếng chào tạm biệt của Phạm Duy trước khi ra đi:
Từ cõi xa xôi, muôn ngàn thế giới Anh đã đi theo nắng từ trời vui Anh xuống nơi chơi lúc Người mới tới Anh đã hân hoan ghé qua cuộc đời
Đây là một tư duy rất truyền thống. Tại vì những người tài ba, những thi sĩ, những văn sĩ luôn luôn nghĩ mình là một ông tiên sống ở trên thiên đình. Vì có cái lỗi gì đó mà bị đày xuống cõi này, cõi hạ giới. Hoặc là uống rượu, uống trà làm rơi cái ly bể rồi Thượng Đế nói “mày không có chánh niệm cho xuống dưới ở”. Ở Việt Nam hay các nước Á Châu hay có tín ngưỡng đó. Chúng ta cứ nghĩ rằng mình là một vị tiên trên thượng giới tại vì một cái lầm lỡ nào nên bị đày xuống cõi cõi ta bà này.
Cuộc đời trần gian Chỉ có 100 năm Anh đã rong chơi khắp miền hoang dã Anh đã đi qua bốn bể gần xa, Êm ái rơi theo tuyết miền băng giá Hay cuốn bay theo gió sa mạc già Ở nơi dương thế… mặn mà. Dương thế này cũng được tại vì mặn mà. Anh đã rong chơi khắp nẻo đường trần Anh đã quên đi những nẻo đường tiên
Tức là không biết kiếp trước mình ở trên thượng giới, không biết con đường tiên đẹp như thế nào. Giờ đây chỉ biết rong chơi những nẻo đường trần thôi. Đường trần thì gặp bụi bặm, gặp những điều không như ý. Có một sự phân biệt rất rõ ràng. Đường tiên trên kia thì nhẹ hơn, không có bụi. Đường trần dưới này thì có bao nhiêu trắc trở. Trong khi đó tại Làng Mai thì chúng ta biết rằng cũng con đường đó tùy theo cách đi của chúng ta. Nếu đi theo cách này thì đó là con đường tiên. Nếu đi theo cách kia, nó là con đường trần. Rất tiếc là Phạm Duy chưa thấy được cái điều đó.
Chân đã tung tăng khắp nẻo đường đời Anh đã cho Anh sống thật đầy vơi.
Tức là sống cũng không có uy nghi, không có giới luật lắm. Anh đã cho Anh sống thật đầy vơi. Câu này nói rất là nhiều.
Đã chót đưa Em tới nguồn yêu dấu Anh cũng theo Em bước vào khổ đau
Cố nhiên là chưa học Tứ Vô Lượng Tâm thì làm sao biết yêu được. Cho nên yêu là tạo ra đau khổ cho người và tạo đau khổ cho mình. Chưa biết yêu, chưa biết thương cho nên khổ là chuyện bình thường. Vì vậy người nào mà chưa học cách thương của Bụt là phải học gấp. Phải có Từ-Bi-Hỷ-Xả để thương mới không có khổ.
Khi thấy ai trong cõi trần khô héo Anh đã dâng cho trái tim nhiệm mầu Đời mà chìm sâu Cũng muốn leo cao
Chìm thì rất là sâu mà leo thì muốn leo cho thật là cao. Và cố nhiên leo cao thì ngã đau.
Anh bước khoan thai lối rừng hun hút Đưa đón chân Anh có lửa hoàng hôn Anh dẫn Em vươn tới miền an tĩnh Cho bớt mông mênh cõi sinh mệnh buồn Ở nhịp trần gian… quay cuồng.
Thế giới này có những phiền não, có những hệ lụy. Cho nên lâu lâu thấy mình cần phải đi tới một chỗ nào yên tĩnh. Miền yên đó chính là thượng phương. Thượng phương tức là chùa. Thành ra mình giữ một ngôi chùa cho thanh tịnh để cho người đời tìm tới khi mà họ đau khổ, họ hệ lụy. Họ tới họ thở không khí đó họ đỡ khổ.
Anh đã rong chơi khắp nẻo đường tình
Yêu nhều lắm. Mà càng yêu thì càng rắc rối
Anh đã theo Em đi gặp bình minh. Như đã rong chơi khắp nẻo đường chiều Như đã đưa Em tới đỉnh tình yêu Thôi nhé, cho anh giã từ trái đất Anh đã nghe vang tiếng gọi càn khôn
Biết là mình sắp chết. Càn khôn là đất trời lớn. Tức là tiếng giả biệt. Em ở lại nhé. Anh phải đi…
Nhưng nếu Em yêu muốn vào cõi lớn Anh sẽ cho Em dắt tay lên đường
Trong đây phân biệt hai cõi. Một là cõi lớn. Và cõi này là cõi tạm. Cõi tạm chỉ có 100 năm thôi rồi mình phải tới cõi lớn. Điều đó là điều Phạm Duy cần phải được nhắc nhở. Chúng ta ở Làng Mai là chúng ta biết rất rõ Ta Ba là Tịnh Độ. Sinh Tử là Niết Bàn tùy theo cách chúng ta nhìn ta sống. Nhìn như thế này, sống như thế này thì cõi này là cõi Sinh Tử, khổ đau nhưng mà nếu có Trí Tuệ, có Chánh Niệm thì nhìn như thế này, sống như thế này thì đây là Tịnh Độ, đây là Niết Bàn. Cõi lớn cũng ở đây mà cõi tạm cũng ở đây. Điều đó là điều Phạm Duy chưa có học được.
Nhưng nếu Em yêu muốn vào cõi lớn Anh sẽ cho Em dắt tay lên đường
Không biết mình có vào cõi lớn được không mà dắt người khác. Mình phải vào cõi lớn được đã. Mà ngay trong giây phút này chưa vào cõi lớn được thì khi chết đi làm sao mình vào được, dắt ai được. Cho nên ngay trong hiện tại mình phải có khả năng tiếp xúc với cái cõi lớn. Rồi mình mới có thể giúp người khác cùng đi vào cõi lớn. Còn trong 100 năm đó, mình không có khả năng tiếp xúc thì làm sao mình giúp người khác. Cho nên tư duy này vẫn là lưỡng nguyên. Cõi lớn, cõi tạm nó cũng ở đây. Tùy theo cách nhìn của mình mà nó là cõi tạm hay cõi lớn.
Một đường hành tinh Đi thăm những Thái Dương Anh dắt tay Em đi vào Ngàn Mai Anh khoác vai Em bước về Ngàn Xưa
Đi về quá khứ, đi tới tương lai, mình có khả năng chưa mà dám nói mình sẽ đưa người yêu đi vào quá khứ, đi tới tương lai. Ngay đi vào hiện tại cũng chưa được. Hiện tại nắm chưa được mà sao đi vào quá khứ hay tương lai.
Ta sẽ quên như có mình nơi đó
Ta sẽ quên như có Ta nơi này
Nơi đó, nơi này tức là cõi Địa Cầu trong 100 năm. Khi mà bước vào cõi lớn thì không có quay lại đây nữa tại vì có nhiều hệ lụy, có nhiều đau khổ quá. Không muốn nhớ là đã có thời gian trong 100 năm mình đã ở chỗ đó. Muốn quên. Không cần nhớ nữa. Thành ra nó đi lại bài Rong Ca đầu Người tình già trên đầu non “Muốn lãng quên trăm năm một đời”.
Ta vứt sau ta những nẻo đường trần Ta vút bay theo những nẻo đường tiên
Đường trần mình không đi nữa. Mình đi chỗ khác để có thể đi theo những nẻo đường tiên.
Ta vứt sau ta những nẻo đường trần Ta vút bay theo những nẻo đường tiên Nhưng nếu mai sau, ai gọi Người Tình Anh sẽ quay lưng bước về nẻo xanh.
Nẻo xanh với Phạm Duy tức là nẻo đó. Nhưng với chúng ta thì nẻo xanh đó là ngay chỗ này.
Giờ mời đại chúng nghe anh Duy Quang – hát bài này. Đây cũng là lời tạm biệt của Thầy đối với Phạm Duy. Anh không có đi đâu hết. Anh ở lại đây với chúng tôi. Anh phải tiếp tục cùng với con cháu. Anh phải làm cho được điều đã hứa với Thầy là viết cho được Trường Ca Trường Sơn.
Thầy có viết 1 lá thư cho Phạm Duy nhờ phổ nhạc Bài kinh ca ngợi Bụt Amitabha và Lời nguyện cầu hướng về đất mẹ. Lá thư đó phải chuyển vào nhà thương. Lúc đó Phạm Duy yếu rồi không có cơ hội để đặt nhạc cho hai bài kia. Rất là uổng.
Đại chúng nghe Duy Quang hát bài Rong Khúc
Từ cõi xa xôi, muôn ngàn thế giới Anh đã đi theo nắng từ trời vui Anh xuống nơi chơi lúc Người mới tới Anh đã hân hoan ghé qua cuộc đời Cuộc đời trần gian Chỉ có 100 năm Anh đã rong chơi khắp miền hoang dã Anh đã đi qua bốn bể gần xa, Êm ái rơi theo tuyết miền băng giá Hay cuốn bay theo gió sa mạc già Ở nơi dương thế… mặn mà. Anh đã rong chơi khắp nẻo đường trần Anh đã quên đi những nẻo đường tiên Chân đã tung tăng khắp nẻo đường đời Anh đã cho Anh sống thật đầy vơi. Đã chót đưa Em tới nguồn yêu dấu Anh cũng theo Em bước vào khổ đau Khi thấy ai trong cõi trần khô héo Anh đã dâng cho trái tim nhiệm mầu Đời mà chìm sâu Cũng muốn leo cao Anh bước khoan thai lối rừng hun hút Đưa đón chân Anh có lửa hoàng hôn Anh dẫn Em vươn tới miền an tĩnh Cho bớt mông mênh cõi sinh mệnh buồn Ở nhịp trần gian…quay cuồng. Anh đã rong chơi khắp nẻo đường tình Anh đã theo Em đi gặp bình minh. Như đã rong chơi khắp nẻo đường chiều Như đã đưa Em tới đỉnh tình yêu Thôi nhé, cho anh giã từ trái đất Anh đã nghe vang tiếng gọi càn khôn Nhưng nếu Em yêu muốn vào cõi lớn Anh sẽ cho Em dắt tay lên đường Một đường hành tinh Đi thăm những Thái Dương Anh dắt tay Em đi vào Ngàn Mai Anh khoác vai Em bước về Ngàn Xưa Ta sẽ quên như có mình nơi đó Ta sẽ quên như có Ta nơi này Và lộ trình Ta… miệt mài. Ta vứt sau ta những nẻo đường trần Ta vút bay theo những nẻo đường tiên Nhưng nếu mai sau, ai gọi Người Tình Anh sẽ quay lưng bước về nẻo xanh.
Nắng vắng trong hư không, nhưng nắng chất đầy một lò sưởi đỏ
Nắng lên thành mầu Khói, thơ đọng thành mầu Sương
Nắng cất giữ trong từng hạt mưa Xuân
Giọt nước cúi xuống hôn Đất, cho hạt cây nẩy Mầm
Thơ đi theo mưa, về trên từng đọt Lá
Nắng thành mầu Xanh, thơ mầu Hồng
Nắng chở trên cánh Ong tới trút Ấm lên đài hoa
Thơ theo nắng về rừng xa uống Mật
Tưng bừng, xôn xao, bướm ong về chật đất
Nắng làm nên khúc Múa, thơ làm nên lời Ca
Mồ hôi giọt xuống đất khô, thơ bay trên luống cày
Cán cuốc trên vai, thơ vào ra theo nhịp thở
Nắng rụng bên Sông, bóng Chiều ngập ngừng bỡ ngỡ
Thơ đi về chân trời, nơi vầng Sáng đang đắp chân mây
Mặt trời xanh rờn một rổ rau tươi
Mặt trời dẻo thơm trong bát cơm gạo Tám
Thơ trong ánh mắt em thơ, thơ trong mầu da nắng sạm
Thơ nơi từng cái Nhìn chăm chú
Thơ nơi từng bàn tay vun xới miền đồng chua nước mặn xa xăm
Mặt trời cười tươi trên bông hướng dương
Mặt trời trĩu nặng nơi trái đào Tiên tháng tám
Thơ nơi từng bước chân thiền quán
Thơ nơi từng dòng chữ
Thơ nơi từng nắp hộp kín đáo nuôi tình Thương.
Thơ đối với tôi là một cái gì rất đẹp, không phải chỉ để tiêu khiển mà còn là chất liệu nuôi dưỡng. Thơ là không khí cho mình thở, thơ là nắng cho hoa nở, thơ là trái đào tiên tháng tám, thơ là những bước chân mình đang đi. Thơ rất cụ thể và liên đới tương quan với mọi sự, mọi vật.
Trong bài Thơ từng ôm và mặt trời từng hạt có hình ảnh của một mái tranh nghèo đang đứng đợi ở ven sông. Đất nước Việt Nam ngày xưa nghèo lắm, những hình ảnh như là: quê hương tôi nước mặn đồng chua, những mái tranh nghèo đang đứng đợi bên sông. Những hình ảnh đó có thể mai này không còn nữa, nhưng trong thế hệ của tôi nó là một hình ảnh rất bền bỉ. Hình ảnh của một người nông dân cầm liềm, hay vác cuốc trên vai, cày cuốc mồ hôi nhỏ xuống mảnh đất khô cằn, v.v… Những hình ảnh đó còn mãi trong thế hệ chúng tôi. Bây giờ chúng ta có hình ảnh những chiếc máy cày, những nông trại rộng lớn. Nông dân bây giờ có nhiều người sử dụng máy vi tính, làm ra rất nhiều tiền. Những hình ảnh trong bài thơ này là những hình ảnh thi ca, thi vị nhưng có thể không còn thích hợp nữa.
Nắng trên không gian và thơ trên nắng Thơ làm ra nắng, nắng ra thơ
Ở Làng Mai vào tháng tư, mình thấy nắng ấm, trời xanh. Nếu mình đi tìm thơ, thì thơ đó nằm trong nắng và trong trời xanh. Thơ đó, nắng đó và trời xanh đó nuôi mình sau những tháng Đông lạnh lẽo buốt giá. Mình đi thiền hành ở Xóm Thượng, Xóm Mới, hoặc Xóm Hạ, mình tiếp xúc với nắng, với trời xanh, và mình được nuôi dưỡng bởi những thứ ấy. Đó chính là thơ.
Thơ đây tức là sự sống, thơ đây tức là chánh niệm. Nếu có nắng mà không có thơ, nghĩa là: ta không biết rằng nắng có đó, thì nắng có cũng như không. Vì vậy cho nên thơ ở đây tức là ý thức sáng tỏ, là những chất liệu nuôi dưỡng thân tâm. Và nếu không có chánh niệm thì cũng không có gì hết: không có nắng, không có thơ mà cũng không có không gian. Cho nên tuy trong bài này không có danh từ chánh niệm, nhưng kỳ thực chánh niệm là gốc của tất cả mọi hạt nắng trên không gian. Nhờ cái gì mà mình biết rằng có nắng trên không gian? Nhờ cái tâm của mình, nhờ chánh niệm của mình cho nên mình biết rằng có không gian. Và nắng đang bay ở trên không gian – “nắng trên không gian”. Tại sao anh biết là có nắng trong không gian? Tại vì anh có cái biết.
“Thơ trên nắng”. Tôi không phải chỉ có ở đây, tôi ở cả trên kia. Ở bên Mỹ có một trường phái triết học phát sinh ra từ Princeton, họ nói “There is thinking in the blue sky” – có tâm của mình ở trong trời xanh. Không gian ở trên cao có ý thức của tôi ở đó. Nắng ở trên không gian, tâm tôi cũng ở đó. Tâm tôi không phải chỉ có trong ngực, trong cái thân này mà thôi. “Nắng trên không gian và thơ trên nắng”, ba cái chuyên chở nhau. “Thơ làm ra nắng, nắng ra thơ”. Nếu không có nắng thì làm sao có thơ? Nếu không có thơ thì làm sao có nắng? Đó là tương tức.
Mặt trời chất chứa trong lòng trái khổ qua.
Trái khổ qua là một gói quà tết và nếu mở ra, anh sẽ thấy gì? Thấy có mặt trời trong đó. Ngộ không? Nếu không có mặt trời chiếu hồi tháng sáu, tháng bảy, tháng tám, thì làm sao mình có trái khổ qua cất ở trong tủ đá của mình! Ở tại Làng Mai có khi trồng khổ qua ăn không hết, những trái khổ qua được bỏ vào tủ đá. Đến tháng mười hai, khi lạnh buốt, mình có thể đem ra một trái làm khổ qua hầm. Đây là chuyện đời sống hàng ngày chứ không phải là chuyện thơ thẩn gì hết. Mùa Đông ở bên này mặt trời không biết đi đâu? Nhìn lên là không thấy mặt trời, nhìn ngang nhìn ngửa cũng không thấy mặt trời, ta chỉ thấy một màu xám xịt từ ngày này tới ngày khác. Vậy mà xẻ trái khổ qua ra thấy mặt trời nằm trong đó!
Mặt trời chất chứa trong lòng trái khổ qua Thơ bốc thành hơi trên bát canh mùa Đông, Trong khi bên ngoài gió hú.
Mùa Đông có canh khổ qua do mình nấu lấy. Khi nấu canh, khổ qua bốc mùi thơm lên, và trái khổ qua đó biến thành thơ, rồi hơi nóng của bát canh bốc lên cũng là thơ.
“Thơ bốc thành hơi trên bát canh mùa đông, trong khi bên ngoài gió hú”. Mùa đông ở Pháp là như vậy. Gió hú từng cơn. Hồi tôi làm bài thơ này, Làng Mai chưa có hệ thống sưởi trung ương, phòng nào may mắn thì có một cái lò sưởi củi.
Thơ theo gió đi về cồn xưa bãi cũ
Mái tranh nghèo còn đứng đợi ven sông.
Quê hương không phải nằm ở phía bên kia, quê hương nằm ngay trong trái khổ qua. Khi ăn trái khổ qua thì nhớ ngay những hình ảnh quê hương ấy: Quê hương có chiến tranh, quê hương có nghèo đói, quê hương không có chủ quyền, quê hương bị áp bức. Trong bát canh, không phải chỉ có mặt trời, chỉ có không gian, chỉ có thơ… mà có luôn những điều như vậy. Mình chưa bao giờ lìa bỏ quê hương, dù là một năm, dù là bốn mươi năm.
Thơ nơi từng giọt mưa xuân Thơ trong từng đốm lửa hồng
Nếu sống có chánh niệm, mình sẽ thấy tất cả đều mầu nhiệm. Một giọt mưa rơi xuống, chứa đựng cả thế giới tam thiên đại thiên, chứa đựng được tất cả quê hương.
Nắng cất chứa trong lòng gỗ thơm Khói ấm đưa thơ về trên trang ngoại sử
Khúc gỗ thơm mà mình bỏ vào lò sưởi là nắng; nó chứa nắng trong lòng nó. Mặt trời mình nhìn lên không thấy, mặt trời không cho mình đủ sức ấm nhưng khúc củi bây giờ đây đại diện cho mặt trời, bỏ củi vào trong lò thì nó cho mình đủ sức ấm trong căn phòng nhỏ của mình. Tôi nhớ hồi viết quyển Đường Xưa Mây Trắng, trong phòng tôi chỉ có một cái lò sưởi củi và tôi hơ tay trái ở trên lò sưởi cho ấm còn tay phải thì tôi viết. Hạnh phúc chán. Ngồi viết được chừng ba bốn trang thì ngưng lại, đi nấu một bình trà. Ấm nước đặt trên lò sưởi đã sẵn ấm rồi, thành ra nấu trà rất mau. Mình phải thấy mặt trời ở trong khúc gỗ. Nếu không thấy thì làm sao mà có thơ được, làm sao mà có Đường Xưa Mây Trắng được! Một cái mình tưởng là không có mặt lại đang có mặt: Mặt trời mùa hè đang có mặt trong khúc gỗ thơm mà mình bỏ vào lò sưởi.
“Nắng cất chứa trong lòng gỗ thơm. Khói ấm đưa thơ về trên trang ngoại sử”. Khi đọc câu này tôi nhớ rằng bài thơ này được làm trong thời gian tôi viết cuốn Am mây ngủ. Am mây ngủ là một tác phẩm ngoại sử viết về đời của Trúc Lâm Thượng Sĩ và Công Chúa Huyền Trân. Vì là ngoại sử cho nên những chi tiết trong truyện được nghiên cứu rất kỹ, không phải do tưởng tượng mà viết ra. Nếu bây giờ chúng ta có cơ hội lấy Am mây ngủ ra đọc thì chúng ta sẽ thấy bát canh khổ qua, chúng ta sẽ thấy mặt trời cất chứa trong lòng gỗ thơm. Hồi đó, tôi xin nhắc lại, ở tại Làng Mai chưa có lò sưởi trung ương, chỉ có những cái lò sưởi củi mà thôi.
Nắng vắng trong hư không, nhưng nắng chứa đầy một lò sưởi đỏ
Gọi nó là hơi ấm, hay là nắng cũng được. Không những Khói phải viết hoa, Sương phải viết hoa mà cái gì cũng phải viết hoa hết mới được. Sự thực là như vậy. Tại vì tất cả đều là những cái hết sức mầu nhiệm, mầu nhiệm như Bụt, như đức Quan Âm. Bụt cũng có trong đó, đức Quan Âm cũng có trong đó. Cái gì đánh động, làm cho người ta phải quán chiếu: “Khói là cái gì? Sương là gì?” thì cái ấy là chánh niệm, là Bụt, là Tổ, là hạnh phúc, là sự nuôi dưỡng. Đã biết bao nhiêu lần quý vị nấu cơm bằng củi, đã biết bao nhiêu lần quý vị chất củi vào trong lò sưởi, quý vị có ý thức không? Có thấy rằng những khúc củi đó chứa đựng mặt trời tháng tám không? Có khi nào quý vị vo gạo xong, đổ gạo, đổ nước vào trong nồi nấu cơm mà thấy được những gáo nước mình đổ vào nồi là do những đám mây ở trên trời cống hiến hay không? Sự khác nhau của người tu với người không tu ở chỗ đó. Khi mình đổ nước vào trong nồi nấu cơm mình phải biết rằng nước này là những đám mây. Mình dồn đám mây đó vào trong nồi cơm và khi cơm chín thì mình được nuôi nấng bởi những đám mây trên trời, bởi sức nóng của mặt trời nung nấu trên các cánh đồng đầy những bông lúa vàng rực. Và khi nấu cơm như vậy là mình tu. Khi mình nấu cơm như vậy thì mình là thi sĩ. Khi mình nấu cơm như vậy, là mình đang thiền. Quý vị đâu có cần tới chùa mới làm được chuyện đó. Ở nhà mình cũng có nấu cơm phải không? Sống cho thảnh thơi, sống cho vững chãi, sống dừng lại trong từng giây phút để nhìn cho kỹ. Có tâm của mình trong đó, có chánh niệm trong đó thì giây phút nào cũng mầu nhiệm. Sương cũng mầu nhiệm, khói cũng mầu nhiệm, trái khổ qua cũng mầu nhiệm, những hạt gạo bỏ vào nồi cũng mầu nhiệm, mà nước chế vào trong nồi để nấu cơm cũng mầu nhiệm. Hạnh phúc là ở chỗ đó, quý vị còn đi tìm hạnh phúc ở đâu nữa? Cứ đợi đến khi làm giám đốc hoặc làm pháp chủ rồi mới có hạnh phúc hay sao?
Nắng cất giữ trong từng hạt mưa xuân Giọt mưa cúi xuống hôn Đất, cho hạt cây nẩy Mầm
Nếu không có nắng thì sức mấy mà có mưa. Nếu không có mưa thì sức mấy mà hạt cây nẩy mầm.
Chữ Đất cũng viết hoa, chữ Mầm cũng viết hoa. Mình phải vinh danh Đất, mình phải vinh danh cái Mầm hạt cây. Cái gì cũng quý giá vô cùng. Đây là tình yêu.
Thơ đi theo mưa về trên từng đọt lá
Mưa. Mưa xuân. Mỗi hạt mưa xuân là một bài thơ. Bài thơ này không phải là chuyện tình cảm vẩn vơ, đây là sự nuôi dưỡng. Không có những trận mưa xuân đó thì làm sao mình có hoa có trái, có cơm có gạo!
Thơ đi theo mưa về trên từng đọt lá Nắng thành màu xanh, thơ màu hồng
Một nắm rau mồng tơi màu xanh hay một nắm rau tía tô màu tím, tất cả những cái đó đều là thơ. Khỏi phải ra nhà sách mua một tập thơ, cứ ra vườn đi: nhìn vào cái nào cũng thấy đó là thơ hết. “Lá tía tô gọi hạt mồng tơi”[2]. Hạt mồng tơi là thơ, lá tía tô cũng là thơ. Và bây giờ quý vị có thể hình dung thấy Thầy Nhất Hạnh đang đi thiền hành một mình từ Xóm Thượng xuống Sơn Hạ.
Nắng chở trên cánh ong tới trút ấm lên đài hoa Thơ theo nắng về rừng xa uống mật Tưng bừng xôn xao, bướm ong về chật đất Nắng làm nên khúc múa, thơ làm nên lời ca
Một con ong có thể chở đầy nắng trên cánh. Phải để ý mới được. Trong khi mình đi, mình đừng để cái tâm của mình đưa mình bay bổng lên hư không. Mình phải tiếp xúc với tất cả những mầu nhiệm của sự sống. “Nắng chở trên cánh Ong (chữ Ong viết hoa) tới trút ấm lên đài hoa”(Nó chở, nó giao hàng mà!). Ong chở nắng trên cánh nó và khi tới bông hoa thì nó giao hàng, nó trút nắng vào đài hoa.
Chữ Múa viết hoa, lời Ca cũng viết hoa. Đâu phải lát nữa mình mới làm văn nghệ hay là mồng Một Tết mình mới làm văn nghệ. Mình đi thiền hành, mình thấy ong, bướm, hoa làm văn nghệ. Xin đọc lại mấy câu này, mấy câu văn nghệ:
Nắng chở trên cánh ong tới trút ấm lên đài hoa Thơ theo nắng về rừng xa uống mật Tưng bừng xôn xao, bướm ong về chật đất Nắng làm nên khúc múa, thơ làm nên lời ca. Mồ hôi giọt xuống đất khô, thơ bay trên luống cày
Nghèo thì nghèo thật đó, nhưng khi mình có thơ, có sự sống thì mình còn phong lưu, nhàn nhã, không bận rộn quá. Đi cũng đi thong thả thôi, đi cuốc ruộng mà. Ngày xưa ở chùa Từ Hiếu, tôi cũng có đi cuốc đất trồng khoai, trồng sắn, gánh nước, chặt củi. Tôi làm việc như vậy nhưng thanh thản lắm, đâu có bận rộn như các thầy bây giờ.
Cán cuốc trên vai, thơ vào ra theo nhịp thở.
Đi từng bước có chánh niệm và thực tập hơi thở. Ngày xưa Tổ Bách Trượng cũng chấp tác ở ngoài vườn. Cố nhiên, trong khi vác cuốc Ngài cũng thở cũng mỉm cười và cũng đi từng bước chân thảnh thơi như vậy.
Cán cuốc trên vai, thơ vào ra theo nhịp thở.
Nắng rụng bên sông, bóng chiều ngập ngừng bỡ ngỡ
Thơ đi về chân trời, nơi vầng sáng đang đắp chăn mây
Chữ chăn này có nghĩa là mền. “Vầng sáng đang đắp chăn mây” tức là mặt trời đắp mền ngủ rồi. Trong tập thơ Thơ Từng Ôm và Mặt Trời Từng Hạt, nhà in đã in sai chữ “chăn mây” (cái mền mây) thành chữ “chân mây”. “Đắp chân mây” là đắp cái gì mình không hiểu được. “Thơ đi về chân trời, nơi vầng sáng đang đắp chăn mây”. Mặt trời mà còn biết đi ngủ, còn mình thì cứ làm việc “non stop”, không chịu đi ngủ. Có sẵn cái máy tính đó, mình cứ làm việc hoài.
Mặt trời xanh rờn một rổ rau tươi Mặt trời dẻo thơm, trong bát cơm gạo tám
Sư cô mới vừa đi hái rau về, sư chú vừa mới đi hái rau về. Đặt rổ rau xuống, cho tôi được nhìn coi! Đây là rau cải nè, đây là rau mồng tơi nè, đây là rau tía tô. Rau xanh rờn như vậy đó, nhưng rau cũng chính là mặt trời. Mặt trời không phải chỉ là màu đỏ mà thôi. Nếu anh nghĩ rằng mặt trời là màu đỏ thì anh lầm. Cái rổ rau này là mặt trời, và mình thấy một mặt trời rất xanh. Người nào thấy được mặt trời màu xanh thì người đó mới là người tu, còn thấy mặt trời chỉ là màu đỏ thôi thì chưa phải là người tu. “Mặt trời xanh rờn một rổ rau tươi. Mặt trời dẻo thơm trong bát cơm gạo Tám”. Có ai nói mặt trời “dẻo” và “thơm” không? Khi mình nhai cho có chánh niệm bát cơm gạo tám thì mình thấy cơm dẻo và thơm giống như mặt trời dẻo, mặt trời thơm vậy đó. Nếu như không có mặt trời thì sức mấy mà có cái bát cơm này cho mình ăn. Đây là cái tương tức, đây là cái duyên sinh. Và mặt trời là cái mình đang tiêu thụ.
Thơ trong ánh mắt em thơ, thơ trong màu da nắng sạm Thơ nơi từng cái nhìn chăm chú Thơ nơi từng bàn tay vun xới miền đồng chua nước mặn xa xăm.
Nhìn mà thấy được thì mới gọi là nhìn, còn nhìn mà không thấy được thì đó chưa phải là nhìn. Danh từ thiền gọi là khán đáo, tức là nhìn cho kỹ, nhìn cho rõ. Nếu là công án, nếu là thoại đầu thì mình phải nhìn bằng tất cả niệm và định của mình mới thấy được. Nhưng mình đâu cần công án, đâu cần thoại đầu, mình chỉ cần nhìn cái nắm rau mồng tơi thôi, mình chỉ cần nhìn vào gáo nước mình đang đổ vào nồi nấu cơm thôi, thì đã là khán công án rồi. Quý vị nên nhớ cái nhìn đó đem lại rất nhiều hạnh phúc. Mình nhìn con thấy cha, mình nhìn đệ tử thấy thầy, mình nhìn thầy thấy Bụt. Nhìn như vậy đáng để cho mình nhớ. Thương nhau là ở chỗ mình có nhìn được bằng cái tâm của mình hay không.
Tất cả đều nằm trong giây phút hiện tại
Mặt trời cười tươi trên bông hướng dương.
Bông hướng dương ở bên này còn gọi là bông mặt trời (sun flower).
Mặt trời trĩu nặng nơi trái đào tiên tháng tám
Hồi nãy mình nói mặt trời màu xanh, rồi mình nói mặt trời dẻo, rồi mình nói mặt trời thơm, bây giờ mình nói mặt trời trĩu nặng. Tại vì mặt trời đang có mặt ở trong trái đào tiên tháng tám, mặt trời trĩu nặng trong trái đào tiên tháng tám.
Thơ nơi từng bước chân thiền quán
Nếu trong bước chân của sư chú có thơ, thì sư chú hạnh phúc quá đi. Nếu không có thơ trong bước chân, thì sư cô đâu có hạnh phúc. Vì vậy cho nên phải để thơ vào trong chân mà đi sang Làng Mai. Tôi cũng đã có cơ hội ngồi đọc bài thơ này cho quý vị.
Thơ nơi từng dòng chữ Thơ nơi từng nắp hộp kín đáo nuôi tình Thương.
Hồi đó, có biết bao nhiêu người bị kẹt lại, trong đó có văn nghệ sĩ, những người đi học tập cải tạo. Bên này có một chương trình gởi quà về cho gia đình những người đó. Những hộp quà toàn là thuốc Tây. Và khi gia đình những người đi học tập cải tạo nhận được gói quà và đem ra bán thì họ có đủ tiền để đi thăm nuôi, để sống trong vòng ba tháng. Lúc đó có rất nhiều những người trẻ xuất gia cũng như tại gia ở đây tham dự vào công việc gói quà để cứu trợ cho những người ở bên nhà. Công việc phải làm trong bí mật, nếu không thì sẽ liên lụy tới những người nhận quà ở Việt Nam. Công việc đầy tràn tình thương. Mình nuôi ai bằng công tác đó? Trước hết là nuôi tình thương trong mình. Trong khi bao nhiêu người chịu bó tay không làm được một chút xíu gì cho dân cho nước cả, mà mình tìm ra được những phương pháp để có thể giúp cho một số người ở trong nước đang lâm vào tình trạng khó khăn, thì đó trước hết là một hạnh phúc cho chính mình. Mình nuôi dưỡng được tình thương cho chính mình. Cho nên mới có câu:
“Thơ nơi từng dòng chữ. Thơ nơi từng nắp hộp kín đáo nuôi tình Thương”. Dòng chữ trên nắp hộp nói là thuốc này nếu đem bán thì có thể có được số tiền nào đó để mà chữa bệnh, để mà nuôi dưỡng. Nuôi tình thương, nhưng nuôi kín đáo, không ồn ào, không khoe khoang, không kể công.
Ngày xưa có cơ hội, một số anh em cựu tác viên của trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội đã được bảo lãnh. Bây giờ bên nhà đã sắp tới giờ Giao Thừa chưa? Tôi xin thỉnh một tiếng chuông để chấm dứt buổi Pháp thoại hôm nay, để các vị ở bên Pháp Vân, Bát Nhã và Từ Hiếu chuẩn bị, vì các vị còn đúng một giờ đồng hồ nữa để chuẩn bị đón Giao Thừa. Bên này thì còn tới bảy giờ đồng hồ nữa mới tới Giao Thừa. Bên này sẽ đi thiền hành trước, và lúc năm giờ rưỡi thì đại chúng ở bên này sẽ đắp y ngồi thiền và lúc sáu giờ tức mười hai giờ khuya bên nhà thì sẽ khai chuông trống Bát Nhã và lạy tổ tiên tâm linh và huyết thống. Quý vị bên nhà có tưởng tượng được không: Bảy giờ chiều nay – tức là khoảng một giờ khuya bên đó – thì bên này ăn chiều. Vào hai giờ khuya bên kia thì bên này bắt đầu trình diễn văn nghệ. Bên này còn thức dài dài.
Kính chúc tất cả các thầy, các sư cô, các sư chú, các Phật tử ở bên nhà có một năm mới Bính Tuất nhiều hạnh phúc, nhiều vững chãi, nhiều thảnh thơi. Có thật nhiều cơ hội để thực tập hạnh phúc.
[1]Nhất Hạnh, “Thơ Từng Ôm và Mặt Trời Từng Hạt” trong Thơ Từng Ôm và Mặt Trời Từng Hạt, Tuyển Tập Thơ, Walnut Creek, California, Lá Bối, 1996, trang 7-8.
[2]Một câu thơ trong bài Cúc Cu Đúng Hẹn của Thầy Nhất Hạnh.
Kính mời quý vị, chúng ta cùng thở. Thở vào tôi biết là tôi đang còn sống, thở ra tôi trân quý sự sống nhiệm màu. Sở dĩ tôi mời quý vị cùng thở và trân quý sự sống vì hôm nay tôi muốn mời quý vị “gặp gỡ” với cố nhạc sĩ Lê Thương và tác phẩm “Biển sau giông tố” của ông. “Biển Sau Giông Tố” là một sáng tác của Lê Thương mà ở Việt Nam chưa có ai biết đến. Đây là lần đầu tiên chúng ta được biết tới bài hát này. Bài hát nói về những cảm xúc của nhạc sĩ Lê Thương đối với đồng bào đã tử nạn dưới biển khơi. Con số các thuyền nhân chết chìm dưới đáy biển có thể lên tới bảy mươi lăm ngàn người (75.000 người). Nếu chúng ta nghĩ tới cái World Trade Center làm thiệt mạng ba, bốn ngàn người thì con số đó chẳng thấm thía vào đâu so với thảm kịch thuyền nhân Việt Nam sau năm 1975. Cái thảm kịch của thuyền nhân, chưa có một tác phẩm nào có thể nói lên được. Hôm nay cũng là ngày chúng ta tưởng niệm những thuyền nhân chết dưới biển, các vị ấy cũng đang có mặt với chúng ta tại tu viện Lộc Uyển. Lát nữa, chúng ta sẽ thắp một nén nhang để tưởng niệm đồng bào của ta đã không may mắn vượt qua được bờ bên này như chúng ta và đã chết tăm tối, khổ đau, tuyệt vọng dưới lòng đại dương.
Hôm nay cũng là ngày của cố nhạc sĩ Lê Thương nên mình phải để cho Lê Thương “nói trước”. Riêng tôi thì tôi thấy Lê Thương đang có mặt với chúng ta một cách rất thiết thực. Mấy ngày hôm nay, các thầy, các sư cô đã tập bài hát “Biển sau giông tố”. Và chúng ta cũng may mắn có chị Ngô Thị Liễu Thu – con gái của cố nhạc sĩ Lê Thương hiện cũng đang có mặt ở đây.
Chúng tôi nhận được bài nhạc “Biển sau giông tố” của nhạc sĩ Lê Thương vào đầu năm 1980. Lê Thương sợ bị kiểm duyệt nên phải gửi riêng từng tờ một, nhạc riêng, lời riêng. Nhưng chúng tôi đã nhận được đầy đủ cả.
Niềm tuyệt vọng là kẻ thù lớn nhất của con người. Khi chúng ta lâm vào tình thế tuyệt vọng rồi thì không còn sự sống nữa. Trịnh Công Sơn có một bài hát có câu: “có điều gì gần như niềm tuyệt vọng”. Gần như niềm tuyệt vọng thôi, nghĩa là Trịnh Công Sơn cũng đang mấp mé tới cái hố của sự tuyệt vọng rồi. Chúng ta cũng vậy, chúng ta cũng đã từng bước tới cái bờ mé của niềm tuyệt vọng, nhưng nhờ phúc đức của tổ tiên nên chúng ta đã vượt thoát được.
Trong hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ biết bao nhiêu người cảm thấy mình đang ở trong niềm tuyệt vọng cho nên cố mở một con đường để thoát thân. Và rất nhiều người đã nghĩ con đường đó là đại dương. Tại vì đại dương hứa hẹn tự do, hứa hẹn tương lai. Cho nên Lê Thương có nói: “Xa xôi muôn hướng nước xanh thái bình dương. Mở nghìn muôn lối đường dẫn ra tới ngàn phương” đó là niềm hy vọng mới. Niềm hy vọng đó do biển cống hiến vì vậy mà nhiều người đã bỏ nhà, bỏ quê hương, bỏ đất nước, bỏ mồ mả của tổ tiên để mà ra đi. Nhưng khi ra đi chúng ta gặp cái gì? Chúng ta gặp bão tố. Có những gia đình chết trọn dưới đáy biển.
Lê Thương đã được nghe nói rất nhiều về những thảm trạng xảy ra ở ngoài biển. Lê Thương có một trái tim đầy xúc cảm và ông đã nói được thay cho đồng bào, nói được thay cho tất cả những nạn nhân của biển trong bài hát “Biển sau giông tố”. Theo tôi, đây là một tác phẩm lớn. Một tác phẩm có thể nói lên được niềm đau của cả một dân tộc. Biến cố thuyền nhân chết trên biển là một biến cố rất lớn trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Bảy mươi lăm ngàn người chết dưới đáy biển là một niềm đau rất lớn, nó là một vết thương còn mãi mãi với dân tộc. Chúng ta phải làm thế nào để có thể học được những bài học từ những đau thương ấy. Các thầy, các sư cô Làng Mai đã hát bài hát này không phải như những ca sĩ chuyên nghiệp nhưng bằng trái tim biết cảm thông. Lê Thương là một người có trái tim rất lớn nên đã cảm được, nói lên được những niềm đau, nỗi khổ đó thay cho tất cả chúng ta. Tôi nghĩ đây là một tác phẩm lớn, so với Hồn Vọng Phu có thể nó quan trọng hơn nhiều.
Xa xôi muôn hướng Nước xanh Thái Bình Dương Mở nghìn muôn lối đường Dẫn ra tới ngàn phương.
Đó là niềm hy vọng. Niềm hy vọng để cứu mình ra khỏi niềm tuyệt vọng. Tại vì trong tình trạng đó, hàng triệu người không thấy được con đường tương lai cho mình và con cháu mình. Nhưng khi mình nghe theo tiếng gọi hấp dẫn của trùng dương thì mình sẽ gặp những khó khăn nào?
Mênh mông biển cả, gió cắn xé ngàn.
Gió nó cắn, gió nó xé mình.
Xa xôi nghìn ngả đang trôi phũ phàng. Mênh mông chìm nổi xa xôi mòn mỏi Mây sâu giông tố đang biến tan Thương ba quoằn quại Như con vật dại Chưa nguôi cơn giận giữ xa ngàn.
Thương ba tức là sóng màu xanh. Những đợt sóng xanh quoằn quại như là con quái vật hoang dại bị người ta lấy ra khỏi núi rừng của nó.
Biển là quán gió Chiêu hồn tha hương.
Đây là một chiêu hồn ca, đây là một bài kinh cầu nguyện gọi hồn. Bài này phải thấy nó như vậy mới được.
Biển còn chứa chan Ước vọng kinh hoàng Lạnh lùng thấu đáy.
Biển rất lạnh lùng. Lạnh lùng tới tận đáy biển.
Biển cười chua cay Theo bao duyên ba đào duyên ba đào Biển còn sóng gió Biển còn xa xôi Nơi thăm thẳm vừa mênh mông Vừa sóng gió, vừa bão tố Tâm can biển vừa thâm u, Vừa tối ám nghìn thu Mỗi lớp cồn đợt sóng Đem theo một hoài mong Của mỗi một sinh kiếp đã bị vực sâu chôn vùi. Nơi nham hiểm mà uy nghi Mà du dương mà quyến luyến.
Biển rất nham hiểm, biển rất độc ác, nhưng biển rất khêu gợi và quyến rũ vì vậy cho nên ta đã nghe lời của biển để rồi chết ở dưới dáy biển.
Ai nuôi mộng biệt ly Đứng bến chờ làm chi
Ai quyết định bỏ quê hương, đất nước, bỏ mồ mả ông bà mà đi? (ai nuôi mộng biệt ly). Còn những người kia, đứng bến chờ làm chi? Biết người ta có tới được hay không, hay là người ta chết ở giữa đường, ở dưới biển.
Xa xăm vời vợi xa xăm Tàu vượt đi không về. Lênh đênh bào ảnh Xé xác cuối ngàn
Thân mình bị xé ra thành từng mảnh, chiếc thuyền của mình bị đập tan thành từng mảnh.
Văng trôi mỏng mảnh Tràn lan đuối tàn Lênh đênh bọt nổi Văng trôi mệt mỏi Lạc loài vô cố Trên sóng nâu. Thương ba mệt lả Thân xanh mềm ngả Như không gian thần nữ khẩn cầu Sóng xanh mệt lả Lựa từng tiếng sóng Cho người mê ly Biển còn dõi theo Số phận ly kỳ
Mình không biết số phận mình rồi sẽ về đâu, mình không biết cái trụ điểm của mình.
Giận hờn chán ngán Đem lời kêu van Trong dã tâm ba đào Còn nhiều sóng gió Còn nhiều gian nguy. Nơi thăm thẳm Vừa mênh mông Vừa sóng gió Vừa bão tố Thâm can biển vừa thâm u Vừa tối ám ngàn thu Mỗi lớp cồn đợt sóng Đem theo một hoài mong Của mỗi một sinh kiếp Đã bị vực sâu chôn vùi. Nơi nham hiểm Mà uy nghi Mà du dương Mà quyến luyến Ai nuôi mộng biệt ly Đứng bến chờ làm chi Xa xăm vời vợi xa xăm Tàu vượt đi không về.
Năm 1968 tôi được đức tăng thống của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất là Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết, ủy nhiệm cho thành lập một phái đoàn Phật Giáo Việt Nam để có mặt tại Hội Nghị Hòa Bình ở Paris. Tại vì trong Hội Nghị Hòa Bình Paris có các phe lâm chiến tham dự, nhưng không có tiếng nói của người dân. Giáo Hội muốn nói được tiếng nói của người dân vì vậy Phái Đoàn Hòa Bình của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất được thành lập tại Paris năm 1968, ban đầu đặt trụ sở ở Maisons Alfort, sau chuyển về Paris số 11 Rue de la gotte d’or.Chúng tôi cung cấp cho các giới nhân bản, các giới tôn giáo, các giới báo chí, các giới chính trị những tin tức mà hai phe lâm chiến không cung cấp. Đó là những đau khổ, những áp bức, tuyệt vọng của người dân. Đường lối của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất là không muốn đất nước bị tan tành bởi một cuộc tranh chấp giữa hai phía. Không muốn có chuyện anh em một nhà bôi mặt đá nhau. Không muốn người Việt sử dụng ý thức hệ ngoại lai và vũ khí ngoại lai để giết nhau. Đó là đường hướng mà đức Tăng Thống Thích Tịnh Khiết ban bố. Chúng tôi làm việc từ năm 1968 cho đến năm 1974 – 1975. Trong quá trình hoạt động đó, chúng tôi đã kết thân được với rất nhiều người bạn ở Tây Phương, Châu Mỹ, Châu Âu, Châu Úc. Họ đã yểm trợ cho chúng tôi trong công tác vận động để làm vơi bớt những đau khổ ở bên nhà.
Chúng tôi nhớ là trong thời gian đó, chúng tôi đã tìm được người bảo trợ cho trên tám ngàn (8000) em bé mồ côi ở Việt Nam. Chúng tôi không thiết lập những cô nhi viện. Chúng tôi có tác viên xã hội khắp nơi trong đất nước. Chúng tôi tìm nhà một người thân của em bé mồ côi như ông chú, bà cô và gửi em bé vào đó để em bé được sống trong một không khí gia đình. Mỗi em mồ côi như vậy được cung cấp khoảng 5 đô la mỗi tháng để có đủ tiền ăn học. Những tác viên của chúng tôi tới thăm những gia đình ấy mỗi ba tháng một lần để xem em bé mồ côi kia có được ăn học đàng hoàng hay không. Nếu em bé không được đối xử tốt thì chúng tôi sẽ tìm cho em bé một gia đình khác khá hơn.
Phái đoàn của chúng tôi ở Paris có rất nhiều người trẻ tới từ nhiều nước khác nhau: Hà Lan, Anh, Mỹ, người Úc, Thụy Sĩ v.v… Họ ở và làm việc với chúng tôi không nhận lương. Chúng tôi đã làm việc với nhau trong tinh thần thân ái như vậy. Chúng tôi dịch những hồ sơ cô nhi từ các tỉnh, các quận, rồi chúng tôi đi tìm những nhà bảo trợ. Cuối cùng, chúng tôi đã bảo trợ được gần 10.000 em bé mồ côi. Có rất nhiều trường hợp trong đó 5 đô la không phải chỉ dành riêng cho các cô nhi được bảo trợ. Tại vì gia đình đó nghèo khổ, những đứa trẻ con ruột của họ cũng gặp khó khăn, cho nên 5 đô la ấy được chia ra cho cả những đứa trẻ khác trong gia đình. Như vậy là 5 đô la đó không chỉ giúp cho em bé mồ côi mà còn giúp cho cả gia đình nhận nuôi em bé ấy.
Trong quá trình vận động đó, chúng tôi đã tiếp thân với rất nhiều người trong giới tôn giáo, trong giới nhân bản, trong giới trí thức. Nhưng sau năm 1975, tất cả những công tác của chúng tôi để giúp đỡ cho quê nhà bị chấm dứt hết. Chính quyền mới tuyên bố rằng: “Chúng tôi không cần quý vị. Chúng tôi tự lo được.” Lúc bấy giờ ở Việt Nam, tất cả các cơ sở của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất như: trường đại học, trường trung học, tiểu học, bệnh xá, các cô nhi viện bị đóng cửa 100%. Bên này chúng tôi đành bó tay, không có cách nào giúp được cho bên nhà. Bên nhà bị lâm vào tình trạng tuyệt vọng nhưng bên này chúng tôi cũng tuyệt vọng. Mình có hai tay mà mình không làm được gì để giúp đồng bào mình ở bên nhà. Trong hoàn cảnh đó chúng tôi không biết phải làm sao. Sau đó, chúng tôi ngồi thiền, đi thiền hành và cuối cùng chúng tôi tìm ra được một vài công tác để có thể tiếp tục giúp đỡ đồng bào trong nước và những công việc ấy cũng giúp chúng tôi trấn áp được niềm tuyệt vọng cứ muốn kéo chúng tôi đi.
Lúc ấy ở bên nhà, các văn nghệ sĩ, các nhà trí thức, các nhà nhân bản và doanh thương cũng lâm vào tình trạng bế tắc. Không tìm được lối thoát nên nhiều người đã đi tìm niềm hi vọng bằng cách vượt biên. Trong giai đoạn đó, tại một buổi sinh hoạt giữa các anh chị em, chúng tôi nhận thấy rằng, trong lúc tuyệt vọng, chúng tôi phải trở về tu tập để tìm ra một con đường mới. Vì vậy chúng tôi đã từ giã Paris để trở về trung tâm tu học của chúng tôi tại một miền quê cách Paris chừng 150 km. Trung tâm đó có tên là Phương Vân Am. Chúng tôi trở về quyết tâm tu tập, để chữa lành vết thương trong mình và để tìm ra một con đường mới.
Trong khi tu tập, quán chiếu, chúng tôi quyết định là tuy chúng tôi không giúp đỡ được cho hàng chục ngàn trẻ mồ côi, cho người già, cho các trường học, và hàng trăm dự án giúp cho đồng bào tỵ nạn chiến tranh, nhưng chúng tôi nghĩ rằng chúng tôi có khẳ năng giúp cho giới học giả và văn nghệ sĩ ở quê nhà. Tại vì giới văn nghệ sĩ và học giả có thể nói lên được tiếng nói của trái tim, của dân tộc. Và chúng tôi đã tìm ra một phương pháp. Cách của chúng tôi là gửi quà cho mỗi văn nghệ sĩ một năm ba hoặc bốn lần. Những gói quà đó có thể giúp họ vượt qua khó khăn để tiếp tục đi tới. Hồi đó bưu điện Pháp chỉ cho phép một gói quà gửi về Việt Nam là 1kg thôi. Chúng tôi biết rằng cái quý nhất ở Việt Nam lúc đó là thuốc tây. Vì vậy chúng tôi đã mua những loại thuốc tây đắt tiền để gửi về.
Thứ nhất, thuốc này có thể chữa bệnh cho những người trong gia đình của những văn nghệ sĩ đó. Thứ hai, thuốc ấy cũng có thể bán đi lấy tiền mua gạo, mua thức ăn. Đây không phải là công việc xã hội. Đây là một công việc có nhiều mặt, tại vì nhân cách của giới văn nghệ sĩ rất cao. Họ không muốn nhận bố thí từ người khác. Vì vậy, chúng tôi đã đóng vai là những độc giả ngưỡng mộ họ. Khi chúng tôi gửi một món quà như vậy thì chúng tôi phải gửi thêm một lá thư, lá thư đó chứng tỏ là người viết rất trân quý, rất thán phục những tác phẩm của họ và nói rằng nhờ họ mà người viết lớn lên được. Rằng, họ là những tinh hoa của đất nước; họ đã nói ra được bằng trái tim của họ những cái hay, cái đẹp, nói lên được những nỗi niềm của dân tộc của tổ tiên. Chúng tôi cũng nói rằng, món quà này chẳng qua chỉ là sự chứng tỏ lòng biết ơn của chúng tôi với nhà văn, nhà nghệ sĩ đó mà thôi. Chúng tôi muốn viết những bức thư ấy như thế nào để nhà nghệ sĩ kia cảm thấy là họ có người hiểu, họ có người thương, điều ấy khiến cho họ có ý chí muốn sáng tác trở lại. Tại vì hầu hết, có thể nói tới 99% văn nghệ sĩ trong môi trường đó, trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ hoàn toàn tê liệt, không thể sáng tác được một cái gì hết. Họ hoàn toàn bị niềm tuyệt vọng trấn ngự. Họ không thấy tương lai đâu hết cho nên họ không thể sáng tác được.
Hồi đó tôi làm cố vấn cho các cô, các chú trẻ viết thư. Trung tâm tu tập của chúng tôi tại Phương Vân Am có rất nhiều người trẻ, trong đó có cả sư cô Chân Không. Hồi ấy sư cô Chân Không mới chỉ khoảng hai bẩy, hai tám tuổi thôi. Chúng tôi cùng ngồi thiền, cùng làm việc với nhau trong chánh niệm. Tôi cố vấn cho các bạn trẻ cách viết thư vì tôi biết được những tác phẩm của những nhà văn nghệ sĩ kia. Tôi hướng dẫn cho họ cách viết làm sao để cho người nhân sĩ đó thấy được rằng, chà, cái bọn trẻ này nó hiểu mình khá sâu sắc. Mình có người hiểu ở ngoại quốc thì tại sao mình phải tuyệt vọng. Rốt cuộc, những người trẻ trong cộng đồng của tôi đã gây được cảm hứng cho một số đáng kể trong những văn nghệ sĩ ấy. Nhiều người trong số họ đã bắt đầu sáng tác trở lại.
Hồ Dzếnh là một thi sĩ đã sáng tác lại sau khi nhận được thư và quà của chúng tôi. Lê Thương cũng là một người như vậy. Lê Thương cũng là nạn nhân của sự tuyệt vọng. Trong những lá thư Lê Thương gửi cho chúng tôi, Lê Thương đã tả rõ hoàn cảnh xã hội thời đó và tình trạng của các anh chị em văn nghệ sĩ khó khăn như thế nào. Lê Thương viết cho chúng tôi nhiều lắm, có thể in thành một tập sách dày một trăm năm mươi trang là ít. Đó là những tư liệu về văn học rất quý giá, khi điều kiện thuận lợi, chúng tôi sẽ công bố.
Giống như các thi sĩ, văn sĩ, họa sĩ, nhạc sĩ khác, Lê Thương cũng phải phấn đấu để vượt thoát niềm tuyệt vọng của mình. Đây là một lá thư của Lê Thương mà chúng tôi đã đánh máy ra. Và đây là một đoạn mà Lê Thương viết cho Phương Hương, Phương Hương là một em gái hậu phương nâng đỡ tinh thần cho người chiến sĩ tiền tuyến trong mặt trận văn nghệ.
“Tôi không muốn nói tới những lúc khóc thầm trong đêm tối một mình, cả đến những u buồn diệu vợi khi chợt nghĩ đến tương lai còn mờ mịt, vì tôi vẫn còn giữ vững được niềm tin và sức sống bền bỉ trong đêm, hằng không muốn tự tiêu diệt bằng nản chí. Khi thấy lòng càng ngày càng cô đơn giữa đám đông nhộn nhịp thì chỉ cần lá thơ nhỏ như lá thơ của em là đủ làm sống dậy bao nhiêu hy vọng đẹp ngổn ngang và thấy ngày mai vẫn còn đáng sống”.
Đó là ông viết sau khi đã đọc một lá thơ của Phương Hương. Phương Hương là một người trẻ trong cộng đồng của chúng tôi và tôi là cố vấn cho Phương Hương. Thành ra Lê Thương đâu có biết rằng trong Phương Hương có thầy Nhất Hạnh.
Nhà văn Duyên Anh đang sống tuyệt vọng trong một trại học tập cải tạo thì một ngày nọ, bà Duyên Anh tới cùng với đứa con và kể chuyện rằng tự nhiên trong đời mình xuất hiện một bà tiên gửi quà, gửi thư an ủi, khuyến khích. Trong trại học tập cải tạo, vào lúc tâm hồn đang trĩu nặng, xâm chiếm bởi niềm tuyệt vọng thì nhà văn Duyên Anh nghe được tin đó. Nhà văn Duyên Anh biết được rằng, trong lúc mình bị tù đầy thì có một người phụ nữ tên là Angelina đã xuất hiện và chăm sóc cho gia đình mình. Đó là một phân thân khác của tăng thân, Phương Hương là một cái tên, Angelina là một cái tên khác. Vì đây là hạnh nguyện của đức Bồ Tát Quan Thế Âm hiển hiện ra muôn ngàn thân để với tới muôn ngàn tình thương.
Đối với Doãn Quốc Sĩ thì người đi tới với Doãn Quốc Sĩ là cô Chín và dì Năm. Và quý vị có biết dì Năm là ai không? Là Thầy Nhất Hạnh. Sau này, khi Doãn Quốc Sĩ biết dì Năm là thầy Nhất Hạnh thì Doãn Quốc Sĩ đề nghị dì Năm đổi tên thành cô Năm.
Nhà học giả Đào Duy Anh rất cô đơn. Trong tình trạng đó có một người tự xưng là cháu, tên là Đào Thị Mây gửi quà qua cùng với những bức thư nói nên niềm khát vọng và tín ngưỡng của mình đối với bậc học giả đó. Đào Thị Mây lại là một hóa thân khác của đức Quan Thế Âm. Thành ra Đào Thị Mây, cũng như cô Chín, dì Năm, Angelina, hay Phương Hương đều là những hóa thân của đức bồ tát Quan Âm. Chúng tôi cũng đã nhận được rất nhiều thư của các văn nghệ sĩ bên nhà. Có nhiều người cho chúng tôi biết rằng họ đã có thể bắt đấu sáng tác trở lại. Niềm vui đó không phải chỉ để cho họ mà còn cho tất cả chúng tôi. Tại vì khi mình gây được cả hứng cho một nhà văn sĩ, nhà thi sĩ, nhà học giả … làm việc trở lại thì việc đó đem lại cho mình quá nhiều hạnh phúc.
Có một lần, nhà xuất bản Lá Bối của chúng tôi ở hải ngoại xuất bản một tập sách trong đó có những sáng tác của các văn nghệ sĩ quốc nội gửi “chui” ra. Đó là tập “Tắm mát ngọn sông đào” gồm những bài văn của các nhà văn như Doãn Quốc Sĩ, Hoàng Hải Thủy .v.v… Hôm qua tôi ngồi nhớ lại xem là những người nào đã được Phương Hương, Đào Thị Mây, … tiếp xúc thì tôi tìm ra được một cái danh sách, danh sách này không đủ, nó mới chỉ có:
Duyên Anh Đào Duy Anh Hoàng Cầm Hồ Dzếnh Lê Thương Thanh Tâm Tuyền Vũ Hoàng Chương Nguyễn Sĩ Tế Hoàng Hải Thủy Nhã Ca Lê Trọng Nguyễn Nguyễn Cường Thế Uyên Nguyễn Đình Toàn Phan Ngô Nhật Thanh Hề Khả Năng Nguyễn Đình Nghĩa Vũ Đức Duy …
Ở tại Phương Vân Am chúng tôi làm việc như một tăng thân, chúng tôi yểm trợ các văn nghệ sĩ đó không phải bằng vật chất mà bằng trái tim của chúng tôi. Cố nhiên là chúng tôi có phương tiện, có bạn bè để giúp chúng tôi gửi thuốc men cho các vị đó. Nhưng chúng tôi biết cái đó nó không đủ nên chúng tôi đã đem trái tim của chúng tôi ra để nuôi những trái tim của các văn nghệ sĩ bên nhà. Dù sao thì họ cũng đại diện cho tiếng nói của dân tộc. Đây là một đoạn thư của Phương Hương viết cho Lê Thương:
“Anh Lê Thương, trong thư anh có một câu làm cho em mừng hết lớn đó là câu nói anh bắt đầu sáng tác trở lại vì anh đang có những nguồn cảm hứng mới. Anh Lê Thương, em biết rằng thiên tài của anh, tâm tư của anh, cái nhìn của anh về cuộc đời và con người, tất cả những thứ ấy đã vững chắc và chín muồi nơi anh. Em nghĩ những sáng tác mới của anh chắc chắn sẽ vượt thoát được những buồn vui, mừng giận tầm thường và sẽ thanh thoát như mây bay, hùng vĩ như những cây đại thụ.
Ngay từ trong Hòn Vọng Phu em đã cảm thấy chất liệu thời gian của anh khác thường rồi. Anh đã từng sống qua nhiều giai đoạn của lịch sử cận đại, anh đã chứng kiến bao nhiêu biến thiên, chắc chắn anh sẽ không chịu để cho cái ngục tù thời gian giam hãm anh đâu. Tác phẩm của anh sẽ như một con chim lớn vỗ cánh bay cao tại vì vùng trời tâm linh của anh không có bờ bến, không bị thời gian và không gian giam hãm.
Có một lần em thấy một cây tùng hùng vĩ xanh tươi mọc cheo leo trên một sườn núi đá khô cằn. Em thấy cây tùng đó rút sinh lực không phải chỉ ở phần đất cát và đá khô cằn ở sườn núi, mà còn ở những dòng nước đi sâu hàng trăm thước trong lòng đất và nhất là ở mặt trời và các ngôi sao lớn khác trong vũ trụ bao la. Anh Lê Thương, anh là một nghệ sĩ có kích thước lớn như vậy đó. Anh không cần những chất liệu bổ dưỡng tầm thường của những loài cây cỏ tầm thường. Em đã đọc phiên khúc bốn của bài “Lòng mẹ Việt Nam”, “Tâm sự cá nhân” em cũng đã đọc. Em nghe những bài nhạc đó mà cảm thấy ấm cả lòng. Em cũng từng trải qua sự nghèo khổ, và em cũng biết rằng đói uống nước lạnh mà ôm nhau để mà ngủ để quên còn sung sướng hơn là giàu thịnh mà chia cắt nhau như những hòn đảo lạnh. Đối với anh, em chỉ như một ngôi sao xa mờ nhạt cách anh có tới ba trăm triệu năm ánh sáng. Em không có đủ ánh sáng bằng một con đom đóm để cho anh đọc sách nhưng em hi vọng em có thể nhắc anh nhớ rằng vũ trụ và thời gian thật bao la và anh thuộc về vũ trụ ấy chứ không phải chỉ thuộc về một mảnh thời gian và không gian bé nhỏ.
Đó là những lời viết cho Lê Thương, và những lời viết cho các văn nghệ sĩ khác cũng tương tự như thế để cho những người nghệ sĩ có niềm tin nơi tài năng của họ, để họ có niềm hi vọng mà vượt thoát niềm tuyệt vọng kia. Đoạn văn này chứng tỏ là Phương Hương hiểu được Lê Thương và mong Lê Thương sống và sáng tác mạnh để cho thế hệ trẻ được nhờ. Những lời ấy làm cho người nghệ sĩ vươn tới một chân trời cao rộng hơn, mà không bị tù túng trong cái chế độ kinh tế chính trị của xã hội thời đó.
Đây lại là một đoạn thư của nhà văn Duyên Anh viết cho Angelina:
“Tôi được hân hạnh biết cô từ dạo giáng sinh năm 1977, (chương trình của chúng tôi bắt đầu từ năm 1976). Hồi đó tôi ở T20, nhà tôi và các cháu đến thăm hoan hỉ báo tin mừng là được cô tận tình giúp đỡ. Rồi tôi được chuyển qua T30, lưu đầy khá nhiều nơi và nơi nào tôi cũng nghĩ tới cô. Nghĩ đến cô cơ hồ đứa trẻ côi cút nghĩ tới những người đã dành phần cơm chờ mình ngang qua cửa. Cuộc đời không bao giờ có cảnh tượng cảm động đó nhưng mà ruốt cuộc nó vẫn có. Thưa cô Angelina, cô là ông Bụt trong chuyện cổ tích Tấm Cám, cô là Phật Bà Quan Âm. Nước mắt của người vợ thương chồng, của những đứa con nhớ cha đã làm sống dậy cổ tích, đã đắp lên gia đình đơn lạnh của tôi một tấm chăn ấm áp tình người. Tôi chẳng thể nào quên tấm lòng tốt của cô, xin cô ghi nhớ.”
Duyên Anh đã nói rằng: trong cuộc đời của Duyên Anh thì Angelina hiện ra như Bụt trong chuyện Tấm Cám. Đó không phải là chuyện cổ tích. Đó là chuyện có thật. Duyên Anh không phải là Phật tử nhưng trong trại học tập cải tạo Duyên Anh đã lấy một cái dùi sắt và một tấm ván để khắc một tượng Phật nhỏ xíu chờ dịp gửi qua cho Angelina.
Họa sĩ Hề Khả Năng cũng vậy, Khả Năng đã lấy một mảnh bom trong rừng và khắc thành một chiếc lược để gửi cho Phương Hương. Họa sĩ Nguyễn Đăng Khánh cũng gửi cho chúng tôi những tác phẩm của mình. Tài liệu của những văn nghệ sĩ, những tác phẩm của họ chúng tôi còn cất giữ nhiều lắm, có dịp chúng tôi sẽ công bố những tài liệu ấy để đồng bào biết được sự sống, tài năng và quyết tâm vượt thoát niềm tuyệt vọng của họ.
Mở hộp ra là một chiếc lược làm từ mảnh bom
chiếc lược để trên chiếc hộp gỗ xinh xắn
Tại Phương Vân Am chúng tôi ham lo cho rất nhiều văn nghệ sĩ ở quê nhà, nhưng những văn nghệ sĩ kia thì cứ nghĩ rằng chúng tôi chỉ lo cho một mình họ. Vì vậy họ chờ đợi những lá thư như lá thư chúng tôi đã viết. Theo Lê Thương thì mỗi lần Phương Hương gửi cho Lê Thương một lá thư thì đó là một liều thuốc bổ. Những người nghệ sĩ cần nguồn thuốc bổ đó. Cố nhiên là gói quà cũng cần thiết, nhưng lá thư cũng rất cần thiết. Và lỗi của chúng tôi là đã không viết được nhiều những bức thư như vậy, tại vì số văn nghệ sĩ mà chúng tôi liên lạc đông quá. Vì vậy mà có lần anh Lê Thương đã giận tại vì lâu ngày chúng tôi chỉ gửi quà mà không gửi thư. Đã hơn ba lần trong lá thư của mình Lê Thương đã chứng tỏ rằng mình giận. Tại vì mỗi lần gửi quà thì chúng tôi có viết những lời chỉ dẫn rất cặn kẽ về cách sử dụng những gói quà này và giá trị của từng món trong gói quà để khi đem bán đừng bị người ta lừa, nhưng lại không có những lá thư khích lệ như trước. Trong khi ấy người nghệ sĩ thì lại rất cần những lá thư kia và họ đòi ít nhất ba tháng một lần phải có một lá thư như thế. Nhưng mà chúng tôi không có đủ sức để làm chuyện ấy cho nên có người đã giận và một số văn nghệ sĩ khác đã hờn. Chúng tôi cũng đành chịu thôi. Gửi quà thì gửi rất đều, chuyện đó không khó nhưng viết những lá thư như vậy thì phải có thời gian và nhất là phải có “cố vấn” mới làm được.
Nhạc sĩ Lê Thương có một nhân cách rất cao, một người có kiến thức rất vững chãi về âm nhạc Đông phương. Trong những năm đó Lê Thương đã bắt đầu biên tập một tác phẩm vĩ đại gọi là Âm Nhạc Sử Điển. Lê Thương đã nghiên cứu về âm nhạc Châu Á trong vòng ba mươi năm và đã muốn làm tác phẩm đó để nói về tinh thần và kĩ thuật âm nhạc Châu Á. Tác phẩm đó gồm khoảng ba ngàn mục. Mỗi mục như vậy có thể dài khoảng từ bảy tới mười lăm hàng. Lê Thương đã làm việc mỗi ngày, có khi thức tới hai giờ rưỡi sáng để đánh máy. Lê Thương đã ngỏ ý là sẽ gửi công trình đó qua cho chúng tôi cất giữ và xuất bản. Hy vọng một ngày nào đó chúng tôi sẽ làm được điều mà Lê Thương muốn chúng tôi làm.
Lê Thương sinh ngày 18.2.1914, tại Nam Định và vào Nam năm 1941, sáng tác Hòn Vọng Phu 1 năm 1945, Hòn Vọng Phu 2 và Hòn Vọng Phu 3 cũng sáng tác từ năm 1945 đến 1947. Nhạc sĩ Lê Thương suýt chết ở gần quận Bình Đại – Bến Tre vì bị Tây ruồng. Hồi đó Lê Thương đã sáng tác Hòn Vọng Phu 1 rồi. Đi theo Lê Thương có rất nhiều học sinh của trường Petrus, đi đâu mấy anh chị em họ cũng hát ca để làm sống dậy tinh thần yêu nước của đồng bào. Họ đi từ làng này sang làng khác, từ quận này sang quận khác. Có lần Lê Thương bị một anh chàng tây lai tên là Leroy đuổi bắt và suýt chết vào tay của anh chàng tây đó. Sau nhờ một người giúp đỡ, Lê Thương trở về Mỹ Tho được và ngồi tù một thời gian thì được tại ngoại và tiếp tục sáng tác.
Lê Thương hoàn toàn không biết rằng trong khi Lê Thương sáng tác bài “Biển sau giông tố” thì ở bên này chúng tôi đã tổ chức chiến dịch cứu trợ cho những người vượt biển có tên là chương trình “Máu chảy ruột mềm”. Hồi đó tôi đi Bangladesh để hoằng đạo. Sau Bangladesh tôi về lại Singapore để dự hội nghị “Tôn Giáo Và Hòa Bình Á Châu”. Trong hội nghị đó vào cuối tháng 11 năm 1976, tôi phát kiến ra được các thuyền nhân (trên thế giới lúc ấy chưa ai biết đến những người boat pepole) . Trong Đại Hội Tôn Giáo Và Hòa Bình tôi đã đề nghị đại hội yểm trợ cho tôi trong công việc tổ chức một chiến dịch cứu người trên biển và hội nghị đã đồng ý, vì vậy tôi đã đặt trụ sở tại Singapore, mời một số các bạn từ các nước Châu Âu qua để yểm trợ. Chúng tôi đã thuê bốn chiếc tàu để đi vớt người trên biển, chiếc đầu tiên tên là Roland, chiếc thứ hai là Leapdal, chiếc thứ ba là Saigon 200 và chiếc thứ tư lớn nhất có tên là Kujara. Hai chiếc Roland và Leapdal có nhiệm vụ đi vớt người trên biển, khi được nhiều rồi thì chuyển lên chiếc Kujara vì chiếc này lớn nhất có thể chứa tới 600 người. Còn chiếc Saigon 200 thì cứ đi tới đi lui để cung cấp nước và thực phẩm.
Cái khó của chúng tôi là phải cứu người một cách âm thầm, làm thế nào để chính quyền Singapore không biết, nghĩa là phải làm “chui”. Lúc ấy Singapore có một chính sách rất là lạnh lùng đối với thuyền nhân. Khi có thuyền nhân ghé bến thì quốc gia đó không cho đi vào, họ ra lệnh phải đẩy những người thuyền nhân ra biển cho chết. Nếu người cư dân nào dám cả gan vớt một thuyền nhân sẽ bị phạt rất nặng nên không ai dám vớt thuyền nhân. Có một chiếc tàu hàng Nhật Bản lỡ vớt chín mươi tám (98) thuyền nhân ghé vào Singapore, Singapore không cho cập bến. Tòa đại sứ Nhật Bản can thiệp để cho chiếc tàu đó cập bến thì Singapore nói rằng phải đặt tiền thế chân một triệu USD, nếu chín mươi tám người ấy không bước chân xuống đất liền thì khi thuyền nhổ neo họ sẽ trả một triệu USD trở lại tại vì Singapore không muốn một thuyền nhân nào được lên bờ hết. Chính sách của Singapore đối với thuyền nhân là như thế mà các nước lân cận cũng gần như thế..
Thường thường, khi có một chiếc thuyền chở thuyền nhân cập bến thì cảnh sát được lệnh phải đẩy ra ngoài. Nếu mình nói thuyền mình đã hỏng rồi thì tối đa cảnh sát cho một ít ván, một ít gỗ để đóng lại sau đó họ đẩy ra khơi. Có lần ở bờ biển Mã Lai có hai chiếc thuyền chở đầy thuyền nhân bị đẩy ra ngoài biển, trong đó có một chiếc bị chìm, những người trên thuyền bị chết hết. Mọi người trên chiếc thuyền còn lại hoảng sợ quá, họ vừa chứng kiến đồng bào của mình chết ngay trước mắt mình thì họ nhất định không đi ra nữa, họ cứ đi vào thôi. Trước khi cảnh sát tới can thiệp thì họ tự đập vỡ chiếc tàu của mình để đừng bị đẩy ra trở lại. Người của chúng tôi đã tới, đã lắng nghe và đã quay phim những người đó. Nếu những người còn lại bị bắt vào ở tù thì họ sẽ có cơ hội nhiều hơn, nếu không thì họ sẽ bị cho lên một chiếc tàu và bị đẩy trở về biển cả và họ sẽ chết như những người đồng bào của họ.
Chúng tôi đã tổ chức chương trình cứu trợ “Máu chảy ruột mềm” trong hoàn cảnh như vậy và chúng tôi phải làm chui, mà làm chui thì rất khó. Trong Hội Nghị Tôn Giáo Và Hòa Bình, tôi đã đề nghị Đại Hội yểm trợ cho tôi trong công việc tổ chức một chiến dịch để cứu người trên biển và Hội nghị đã đồng ý. Do đó nên tôi mới đặt trụ sở tại Singapore, đồng thời mời một số các bạn từ bên Pháp, Hà Lan, và các nước Châu Âu qua để yểm trợ. Với chiếc Roland chúng tôi vớt được 281 người và chúng tôi thuê một viên thuyền thuyền trưởng người Mỹ phụ trách đó là ông Mac Mahon. Ngày hôm ấy, ngay trên chiếc thuyền cứu nạn có một người phụ nữ trở dạ và sinh ra một bé gái. Để kỷ niệm, những người trên thuyền muốn đặt tên cho bé là Nguyễn Thị Roland. Tôi nói Roland là tên con trai mà, thành ra chúng tôi quyết định sửa lại thành Nguyễn Thị Rolanda. Tôi có làm một bài thơ tặng cho Nguyễn Thị Rolanda. Em bé này nếu còn ở đâu đó thì năm nay đã 28 tuổi rồi.
Một bông sen nở trên đại dương Bé sinh ra giữa muôn trùng sóng nước Giữa khuya này, đêm ba mươi tháng giêng Hai trăm tám mươi mốt người trên thuyền lặng im Nghe sóng đêm cầu nguyện Tám người thủy thủ Yên lặng cho thuyền hướng về phương Nam Nước uống đã cạn rồi Tàu chạy về gần cù lao Tiamen Cầu cứu Biển đêm Sóng vỗ mạn thuyền Trăng lặn lâu rồi Ánh sao soi đường cho bé vào đời Dưới kia nhấp nhô đầu sóng bạc Một bà mẹ nằm trên boong tàu Chuẩn bị cho bé vào đời Cả thuyền không có một phòng riêng Người bác sĩ Cũng là giới lênh đênh bèo nước Tiếng khóc chào đời của bé Bị át đi trong tiếng gió Người mẹ mỉm nụ cười yếu ớt Bác sĩ đứng lên loan báo tin mừng Hai trăm tám mươi mốt người vỗ tay Vị thuyền trưởng hô to: Chúng ta đi về phương Nam Dân số chúng ta trở thành hai trăm tám hai Xin mọi người cám ơn Trời Phật. Chiếc máy điện thoại nối liền Chuyền niềm vui lên lục địa Khuya nay trên đất liền có người hay tin bé đã chào đời Bé Rolanda Nguyễn Thị Bé từ đâu tới nhỉ? Và bé đang đi về đâu? Tại sao lại chọn nơi ra đời giữa đại dương trên chiếc thuyền lưu lạc? Bé không hỏi Nhưng chúng ta hãy trả lời Ai nỡ để bông sen nở nửa đêm Chìm sâu lòng đại dương Bạn ơi hãy trả lời cho chúng tôi Chúng ta phải đem bé đi về hướng nào? Tôi cần bàn tay bạn.
Đó là bài thơ tôi viết cho bé Rolanda. Tôi dùng một chiếc điện thoại để liên lạc với chiếc tàu Roland nên tôi biết giờ sinh của bé và đã làm bài thơ này cho bé. Chúng tôi âm thầm chở số đồng bào thuyền nhân đó tới Perth hay tới đảo Guam. Khi tàu sắp tới chúng tôi sẽ đánh điện cho báo chí ra đón, để cho người ta đừng đẩy những chiếc thuyền đó ra ngoài biển.
Có một lần gặp khó khăn, chúng tôi nghĩ rằng không có thể nào chờ được chiếc Kujara, vì vậy chúng tôi quyết định cho chiếc Leapdal đi trước. Hôm đó chỉ trước Tết Nguyên Đán có một ngày. Chiếc Leapdal do Vương Hồ làm thuyền trưởng, trên đó chúng tôi đã vớt được trên 300 thuyền nhânrồi và đã chuẩn bị cho chiếc đó đi về Úc. Chúng tôi đem tiền tới lì xì cho mỗi người một bao giấy đỏ trong đó có một đô-la Úc mới tinh. Hôm ấy tôi đã đích thân ra biển để nói chuyện với đồng bào trước khi đồng bao lên đường. Tối ấy là tối ba mươi, tôi leo lên chiếc Sài Gòn 200 để đi ra biển. Tôi đã dùng điện thoại để nói chuyện với đồng bào ở trên thuyền bên kia. Tôi chúc đồng bào thượng lộ bình an, (nhất phàm phong thuận). Và tôi đã đưa họ mỗi người một bài thơ dịch ra tiếng Anh để khi họ tới bến, họ trao cho các nhà báo:
Lênh đênh ngoài sóng gió Thuyền nhỏ giữa đại dương Quyết tâm tìm đất sống Đói lạnh bao ngày đường. Chúng tôi là bọt biển Trôi giạt giữa mênh mông Chúng tôi là hạt bụi Trong không gian vô cùng Tiếng chúng tôi lạc mất Trong gió rít từng không Trên thuyền không nước uống Trên thuyền hết thức ăn Con chúng tôi kiệt sức Khóc rã và lịm dần Chúng tôi khao khát Đất Nhưng chẳng được tới gần Mặc sức mà kêu cứu Tàu bè vẫn dửng dưng Bao nhiêu thuyền đã lật Vì sóng gió bất thần Bao nhiêu là mạng sống Đã chìm lòng đại dương Chúa Ki Tô có nghe Lời nguyện cầu rướm máu? Phật Quan Âm có nghe Lời kêu cứu không ngừng? Loài người ơi có nghe Tiếng gọi từ hố thẳm Đất liền ơi có biết Tâm sự này hay không Xin loài người có mặt! Xin đất liền dang tay! Cho chúng tôi tìm thấy Hy vọng trên đất này!
(Lời nguyện cầu tìm đất sống trong tập Thơ Từng Ôm và Mặt Trời Từng Hạt)
Tôi nhớ là sau khi dặn dò đồng bào, tôi trở về thì tự nhiên trời nổi gió và có một đợt sóng đen ngòm, chồm lên và vồ lấy tôi. Người tôi ướt hết và giống như là đợt sóng muốn kéo tôi xuống biển. Giống như một năng lực ma quái nào đó, đang nói rằng: “Ông là ai mà dám can thiệp vào chuyện của chúng tôi? Số của những người này là phải chết trên biển cả, tại sao ông có quyền can thiệp?” Như là một sự trả thù của định mệnh.
Chương trình Máu Chảy Ruột Mềm để cứu độ thuyền nhân trên biển là một chương trình rất thánh thiện. Sáng nào chúng tôi cũng thức sớm để ngồi thiền, chúng tôi đi thiền hành, chúng tôi thực tập hết lòng bởi vì chúng tôi biết rằng cần phải hướng dẫn cho chương trình này với năng lượng của tâm linh thì mới có thể thành công được. Đáng tiếc là chiếc Leapdal đã không đi qua Úc được vì chỉ sau đó mấy giờ đồng hồ thì có bão. Chính quyền Singapore khám phá ra được là chúng tôi đang hoạt động bí mật ở tại Singapore. Vì vậy cho nên họ bắt giữ chiếc Sài Gòn 200 lại, không cho đi ra biển để tiếp tế và họ cũng không cho chiếc Leapdal đi vào đất liền. Rất có thể 300 người trên thuyền sẽ chết trên biển nếu không được vào trong vùng vịnh để tránh gió. Chúng tôi ở trên đất liền mà tâm trạng chúng tôi cũng bấp bênh như là thuyền nhân vậy. Đồng bào trên hai chiếc thuyền không có thức ăn, không có nước uống, không được tới gần bờ biển để tránh bão thì họ rất có thể họ sẽ chết trên biển. Nếu 600 người trên hai chiếc thuyền ấy chết trên biển thì chúng tôi cũng chết theo thôi. Làm sao mà sống nổi! Mình chịu chung số phận của nhau. Lúc ấy chúng tôi chỉ biết đi thiền hành, ngồi thiền và cầu nguyện. Chương trình của chúng tôi bị bại lộ là vì những người trong Đại Hội Tôn Giáo Và Hòa Bình đã không giữ kín được. Từ Tokyo, New York,… họ đã nói với báo chí, và phóng viên của họ đã tới tìm chúng tôi ở tại Singapore. Do đó chúng tôi bị phát hiện.
Đêm hôm ấy, vào lúc nửa đêm cảnh sát Singapore đã tới bao vây văn phòng của chúng tôi. Họ chặn cửa trước, chặn cửa sau và các cửa hông nên chúng tôi không ai thoát được. Họ tịch thu passport và ra lệnh cho chúng tôi phải rời khỏi lãnh thổ Singpore trong vòng 48 tiếng đồng hồ, ra tới sân bay họ sẽ trả lại passport. Rời Singapore trong vòng 48 tiếng đồng hồ trong khi mình còn trên 600 đồng bào lênh đênh ngoài biển không có thuốc men, không có nước uống, không có thức ăn thì làm sao mình chịu nổi?
Trong hoàn cảnh nguy kịch, hoang mang đó, chúng tôi thực tập thở. Tôi nói rằng trong hoàn cảnh này nếu mà mình giữ được tâm an thì mình mới thật là người tu và chúng tôi đã ngồi thiền, đi thiền hành. Trong khi ngồi thiền chúng tôi tìm ra được một giải pháp: Nếu chúng tôi tìm tới cầu cứu với vị Đại Sứ Pháp tại Singapore nhờ ông can thiệp thì biết đâu chúng tôi có thể được ở thêm mười ngày nữa để mà thu vén chương trình lại. Chúng tôi tiếp tục ngồi thiền, đi thiền hành chờ tới sáng rồi thuê taxi tới Tòa Đại Sứ Pháp. Thật may là ông Jacques Ganeau – Đại Sứ Pháp đã yểm trợ cho chúng tôi và can thiệp chính quyền Singapore nên chính quyền Singapore đã gia hạn cho chúng tôi thêm mười ngày. Tôi giao quyền lại cho Sư Cô Chân Không và các bạn khác. Sư Cô Chân Không hồi đó có passport Pháp, còn tôi là passport không có nơi về. Nhưng chỉ 24 giờ đồng hồ sau khi tôi đi thì Sư Cô Chân Không cũng bị buộc phải rời Singapore. Tình thế rất cam go. Rốt cuộc, sáu trăm thuyền nhân đó được trao lại cho Liên Hiệp Quốc. Trước đó, trên cù lao Tiamen cũng có mười mấy người thuyền nhân do Cao Ủy Liên Hiệp Quốc bảo trợ. Khi mười mấy người thuyền nhân này cũng muốn leo lên chiếc Leapdal để được đi Úc thì vị đại diện cho Cao ủy tị nạn phản đối, ông nói: “đó là những người tị nạn của chúng tôi, tại sao quý vị lại rước đi?” Tôi mới hỏi: “ “Quý vị đã tới thăm những người đó chưa? Quý vị có biết mặt những người ấy không? Quý vị đã từng tới giúp đỡ những người ấy chưa?” Ông Samatap Kuma – đại diện cho Cao Ủy tị nạn nói rằng: “Chúng tôi chưa tới, chúng tôi chưa biết, chúng tôi chưa giúp gì nhưng mà chúng tôi có tên những người đó”. Tôi mới nói đùa: “ Nếu ông có tên tất cả những ngôi sao trên trời thì tất cả những ngôi sao trên trời đều thuộc về ông hết sao?”.
Sau đó, nhờ báo chí nói tới rất nhiều cho nên số mạng của thuyền nhân đã được bảo đảm. Ông Đại Sứ Pháp Jacques Ganeau rất từ bi đã âm thầm yểm trợ cho chúng tôi, cho phép những thuyền nhân lọt vào tòa Đại Sứ vào ban đêm được ở lại trong khuôn vienj tòa đại sứ cho đến khi cảnh sát tới làm biên bản. Chúng tôi cũng bí mật giao kết với ngư dân là khi nào mà họ cứu được một, hai, ba thuyền nhân thì lập tức báo cho chúng tôi dù đó là hai giờ khuya hay ba giờ sáng. Chúng tôi lấy taxi chở những người đó tới Tòa Đại Sứ quán Pháp rồi cho họ leo rào vào trong khuôn viên Tòa Đại sứ. Chúng tôi biết rằng buổi sáng mai khi nhân viên Tòa Đại Sứ mở cửa đi vào và phát hiện ra những người thuyền nhân vừa chui rào tối qua, họ sẽ báo cáo cho cảnh sát. Lập tức chính quyền Singapore sẽ tới bắt và bỏ tù những thuyền nhân ấy, nhờ đó mà họ được an ninh. Còn nếu họ không được vào tù, không có tên trong sổ sách thì họ sẽ bị đẩy ra biển và chết trên biển. Hồi ấy tôi đã làm một bài thơ ca ngợi tấm lòng nhân hậu của ông Đại Sứ Pháp
“ Có cây ngô đồng cho chim phượng đậu Có người đứng đó cho tình thương sâu Luật lệ nhiều khi như màn lưới sắt Giam người trong kiếp trầm luân thương đau Nhưng lòng nhân ái như bàn tay Phật Phá tan địa ngục, đập nát u sầu Thành phố sáng nay nắng lên bát ngát Có chim bồ câu bay liệng trời cao Tôi nhớ tới người tấm lòng cương trực Nụ cười mát dịu như nước nhiệm mầu Trẻ thơ nhớ người như hoa nhớ nắng Như nước nhớ nguồn, như trăng nhớ sao Tâm đã quyết rồi hiềm gì bạo lực Thân đi vào đời cỡi trên ba đào Bắc một cây cầu từ hang địa ngục Lên tới cõi trời, mở hội ngàn sao”.
Lê Thương không biết rằng chúng tôi đã làm những công việc đó, nhưng Lê Thương cũng đi cùng chiều hướng tâm linh với chúng tôi. Lê Thương đã để cho trái tim mình mở ra, đã khóc, đã nói lên được nỗi khổ niềm đau của đồng bào vượt biển.
Tôi rời bỏ đất nước năm 1966 cho đến nay là 38 năm, chưa có cơ hội để trở về nước. Tôi nghĩ rằng tất cả chúng ta qua tới bên này chắc là phải có một sứ mạng nào đó. Tổ tiên chúng ta gửi chúng ta qua đây, chắc là tổ tiên chúng ta muốn trao cho chúng ta một sứ mạng. Nói một cách rõ ràng hơn là chúng ta sang bên này có thể có hai mục đích. Mục đích thứ nhất là học hỏi những cái hay cái đẹp của thế giới bên ngoài để đem về làm đẹp thêm cho quê hương, cho Tổ quốc. Mục đích thứ hai là đem chia sẻ với bạn bè ngoại quốc những cái hay, cái đẹp của nền văn hóa Việt Nam. Đó là lý do chúng ta đang có mặt tại Tây Phương. Nếu chúng ta nhớ được điều đó thì chúng ta sẽ biết thương yêu nhau, chúng ta chấp nhận nhau để chúng ta – những người lớn, những người trẻ – có thể thâu thập được những cái hay, cái đẹp nhất của các nền văn hóa Tây Phương mà truyền về nhà. Và chúng ta cũng có thể chia sẻ với người Tây phương những cái gì hay, đẹp của nền văn hóa dân tộc. Ở trong đại chúng này thế nào cũng có người đang làm chuyện đó và đã làm được chuyện đó. Nếu chúng ta không thương yêu nhau, nếu cha không chấp nhận con, con không chấp nhận cha, vợ không chấp nhận chồng thì chúng ta không tài nào làm được chuyện đó. Chúng ta đã được tổ tiên chúng ta giao phó một sứ mạng, chúng phải nhìn lại, chúng ta phải biết rằng gần 75 ngàn đồng bào ta đã phải chết dưới đáy biển. Chúng ta phải để cho niềm cảm thương đó được sống mãi trong lòng. Chúng ta phải nghe bài Biển Sau Giông Tố của Lê Thương để thấy được sứ mạng của chúng ta. Trong sự sống hàng ngày chúng ta phải ý thức rằng chúng ta có một sứ mạng. Chúng ta phải làm thế nào để cho vợ hiểu được chồng, cha hiểu được con, chúng ta không thể nào sống ơ thờ, vô trách nhiệm được.
Hôm nay, nhân dịp đầu năm, chúng ta đã tập họp ở đây có mặt của nhạc sĩ lớn Lê Thương và có mặt của anh linh các đồng bào đã tử nạn trong các chuyến vượt biên. Chúng ta phải hứa với lòng mình, phải hứa với đất nước, phải hứa với tổ tiên, hứa với người đã khuất là chúng ta sẽ sống như thế nào cho xứng đáng, sống như thế nào để niềm tin và tình thương mỗi ngày được sáng thêm, để chúng ta có thể làm trọn được phận sự mà tổ tiên của chúng ta đã giao phó khi gửi chúng ta sang bên này. Tôi đã làm hết sức của tôi, quý vị đã làm hết sức của quý vị, nhưng mà chúng ta còn có thể làm hay hơn nữa, chúng ta phải nắm tay nhau. Nắm tay nhau thì có thể làm được nhiều hơn, làm được lớn hơn.
Bây giờ tôi xin chị Lệ Thu thắp hương và dâng lên trên bàn thờ. Chúng ta sẽ thắp hương cho nhạc sĩ Lê Thương, chúng ta sẽ thắp hương cho đồng bào tử nạn trong chuyến vượt biên. Và chúng ta sẽ nghe lại một lần nữa bài “Biển sau giông tố”. Khi nghe bài này, quý vị phải nghe trong tinh thần của sự cầu nguyện, để cho trái tim của chúng ta mở ra, để cho chúng ta có thể cảm thông, chúng ta có thể thấu hiểu được nỗi khổ đau, niềm tuyệt vọng, phải tiếp xúc được với thảm kịch của dân tộc và thấy được sứ mạng của mình. Theo tôi thấy, bài hát này là một bài cầu nguyện, một bài kinh.
Theo Lê Thương, trong một lá thư gửi cho chúng tôi thì nhân sinh quan của Người Việt rất sâu đậm nghĩa tình. Nhân sinh quan đó nó đầy tình và đầy nghĩa, nó được biểu hiện qua một hình ảnh rất cảm động, là hình ảnh của một bà mẹ ôm con đợi chồng cho đến khi hóa đá. Theo Lê Thương, đó là một hình ảnh tuyệt đẹp và vì vậy cho nên chàng trai 31 tuổi đó muốn diễn tả cái đẹp ấy của nền văn hóa dân tộc qua bài Hòn Vọng phu.
_________________________________________ (Đây là bài pháp thoại Sư Ông giảng vào ngày 25.1.2004 tại thiền đường Thái Bình Dương, Lộc Uyển)