Làm sao để nhanh đi vào giấc ngủ nếu hôm sau phải thức dậy sớm?

Trích buổi vấn đáp tháng 5 năm 2014 tại xóm Hạ, Làng Mai (được chuyển ngữ từ tiếng Anh)

Câu hỏi từ một em thiếu nhi: Làm thế nào có thể nhanh đi vào giấc ngủ nếu hôm sau phải dậy sớm?

Sư Ông Làng Mai trả lời:

Cố gắng đi vào giấc ngủ cho nhanh chưa hẳn là một điều tốt. Khi cố gắng ta phải nỗ lực, cho nên càng cố gắng ta sẽ càng khó ngủ. Do đó hãy để cơ thể ta được thư giãn. Và, tốt hơn là hãy đừng suy nghĩ, đừng suy nghĩ về ngày mai hay về những việc ta phải làm. Nếu ta cứ nghĩ về những việc ta phải làm vào ngày mai thì ta sẽ thức suốt đêm. 

Không suy nghĩ là một bài thực tập cực kỳ quan trọng trong thiền tập. Vì suy nghĩ nên ta không ngủ được (và vì không ngủ được nên ta lại càng suy nghĩ). Cho nên không suy nghĩ là tốt. Để dừng suy nghĩ, ta có thể tập trung sự chú ý vào hơi thở vào và hơi thở ra. Ta thở vào và chỉ tập trung tâm ý vào hơi thở vào. Thở ra, ta tập trung tâm ý vào hơi thở ra.

Ta có thể sử dụng mẹo nhỏ này: đó là trên bàn ngủ ta có thể để một chiếc đồng hồ nhỏ, không phải đồng hồ điện tử mà là loại đồng hồ cổ điển. Nó tạo ra tiếng tích tắc, tích tắc đều đều. Ta có thể lắng nghe âm thanh của chiếc đồng hồ và đo độ dài hơi thở bằng âm thanh đó. Thường thường, hơi thở vào của ta có thể dài ba hay bốn giây “Tích, tắc, tích, tắc”, và khi thở ra, hơi thở có thể dài năm hay sáu giây. Chỉ cần nằm xuống, lắng nghe âm thanh của chiếc đồng hồ; thở vào, thở ra, và dừng tất cả suy nghĩ. Thở rất là dễ chịu, nếu không khí đủ tốt. 

 

 

 

Nếu không có đồng hồ, ta có thể dùng một bài hát để thở. Tuy nhiên ta không cần phải dùng miệng để hát mà chỉ dùng tâm trí, vì bài hát đã sẵn có trong ta. Thí dụ như bài hát “Đã về, đã tới – Bây giờ, ở đây”. Tất cả mọi người ở Làng Mai đều thở và khắc ghi bài hát đó trong tim. Có rất nhiều bài hát để thực tập nhưng “Đã về, đã tới” là bài hát phổ biến nhất. 

“Đã về, đã tới

Bây giờ, ở đây

Vững chãi, thảnh thơi

Quay về nương tựa.”

Đó không phải là suy nghĩ mà hững từ ngữ là để giúp ta tập trung tâm ý vào hơi thở. Sau khi thở theo bài hát đó vài lần, giấc ngủ có thể tới rất dễ dàng. 

Đó là cách Sư Ông thực tập. Sư Ông dùng những bài Thiền ca. Chúng đã sẵn có ở đó, giống như có một cái CD bên trong vậy. Muốn nghe bài nào, ta không cần phải nhấn nút mà chỉ cần sử dụng một loại tâm hành gọi là Manasikara (tác ý). Khi ta tiếp xúc với nó bằng tâm ý, âm thanh sẽ hiện ra; và ta thở vào thở ra cùng âm thanh đó. 

Cách thực tập này sẽ giúp rất nhiều cho người lớn. Người nào suy nghĩ nhiều quá thì nên thực tập như vậy. Ta có thể học thuộc nhiều bài Thiền ca và chỉ cần buông thư khi thở vào, thở ra theo bài hát lúc không ngủ được.

Trong khi lái xe, thay vì suy nghĩ, ta thở vào thở ra với bài hát “Đây là Tịnh độ, Tịnh độ là đây”. Đây là một bài hát khác. Ngoài ra còn bài “Đã về, đã tới”, “Hạnh phúc trong phút giây”, “Mình là chiếc lá trên đầu cành” và rất nhiều bài khác.

Quý vị có thể dùng tất cả những bài hát đó. Vì ta hát từ bên trong nên chỉ mình ta có thể nghe thấy âm thanh của bài hát mà thôi. Hát một câu ta thở vào, câu tiếp theo ta thở ra. 

 



Hạt mầm năm xưa

(Sư cô Chân Trăng Tâm Đức)

Ba mạ kính thương,

Làng đang vào thu, cây cối chuyển màu đẹp lắm ba mạ ơi! Có hôm, khi mặt trời vừa lên, cỏ còn đọng sương đêm, con đi dạo quanh vườn và thấy đất Mẹ thật mầu nhiệm. Đây là mùa thu đầu tiên của con ở Làng, mới đó mà đã mười tháng rồi kể từ ngày con được xuất gia ở chùa Tổ trong lễ Tâm tang của Thầy.

Lúc con mới sang, trời còn lạnh lắm. Có những ngày cỏ cũng bị đông đá , cây cối thì trơ trụi, vậy mà có cây Mimosa vẫn nở hoa vàng rực. Con tích cực tập thể dục cho ấm người mà vẫn thấy lạnh. Rồi trời ấm dần, cây cối bắt đầu ra hoa, ra lá. Đồi mận xóm Mới như được trải một tấm thảm với hàng ngàn hoa bồ công anh và daisy trắng. Những ngày đầu đi thiền hành, con và quý sư cô mới ở Việt Nam sang không nỡ dẫm lên hoa, nhưng hoa khắp lối nên tránh hoa là hết đường đi.

Có hôm chị em con được chở sang Sơn Cốc, nơi ở của Thầy, cách xóm Mới không xa. Trên đường đi, con thấy một rừng tre, bên cạnh là con suối nhỏ. Con thắc mắc, bên Pháp mà cũng có nhà trồng tre như bên Việt Nam ri, té mô đó là Sơn Cốc. Không ai có thể hình dung được căn nhà của một vị thiền sư nổi tiếng thế giới lại giản dị như thế. Nơi đây đã lưu bao kỉ niệm, bao bước chân bình an của Thầy, có lẽ vì thế mà bước chân con cũng chánh niệm hơn.

Con bắt đầu làm quen với cuộc sống xuất gia của một sa di mới một tháng tuổi. Mọi thứ đều mới mẻ với con. Con vô đội luân phiên để làm các công việc hàng ngày như rửa nồi, quét nhà, nấu ăn,… Có sư cô nói con mới xuất gia nên ra chơi với vườn tược cho vui, rứa là con vào tri hoa. Ở nhà, có ba trồng và chăm cây, con chỉ hưởng thành quả là ngắm hoa. Chừ con học cách tỉa hoa hồng, trồng cây, tỉa cành, nhổ cỏ, tưới nước và bón phân. Ba mạ biết không, bên ni cỏ tùm lum loại nên phân biệt được hoa với cỏ cũng là vấn đề. Vườn rộng nên nhiều khi chỗ này làm xong, sang chỗ khác và đến khi quay lại thì cỏ đã mọc lại rồi. Thời gian làm tri hoa mới được sáu tháng, tuy học được chút chút nhưng con đã có rất nhiều niềm vui.

Con được học lớp Giới với các sư chị Sadi khác. Vì con mới xuất gia và không có thời gian tập sự nên lúc mới sang, sư cô đã dạy thêm cho con ba buổi trong tuần, giống như “luyện thi cấp tốc” rứa. Con được học giới luật và uy nghi trong chùa. Hồi ở ngoài, con chạy theo công việc nên chân lúc mô cũng đi nhanh, đầu lúc mô cũng đầy việc, chừ con đang đầu tư thực tập để bước chân được thảnh thơi hơn và cho mình cơ hội để tập dừng lại.

 

 

Lúc con mới sang, cũng là lúc Làng bắt đầu mở cửa lại sau hơn hai năm dịch Covid, nên con dần thích nghi với số lượng thiền sinh đến xóm Mới. Lần đầu tiên trong đời con tham gia nấu ăn cho mấy trăm người. Không khí làm việc vui và hết lòng lắm. Ở nhà mỗi lần có kị, mạ nấu cho hơn năm mươi người là thấy nhiều rồi, chừ nghe nấu cho cả mấy trăm người, chắc mạ cũng tò mò không biết chị em con xoay xở như răng.

Mùa hè, các gia đình đem con tới Làng tu học. Lều lớn, lều nhỏ được dựng lên khắp nơi quanh xóm. Tụi nhỏ có không gian nên tha hồ chạy nhảy. Con nhìn mà nhớ năm đứa cháu ở nhà, mỗi lần gặp nhau là thành năm anh em siêu quậy, rứa mà cuối tuần mô mình cũng ngóng về chơi ba mạ hì. Hôm đó, con chơi xích đu với một bé gái tám tuổi. Con hỏi em tới Làng lần mô chưa, em nói tới ba lần rồi, từ lúc ba tuổi. Ba mẹ em cũng đã tới Làng lâu rồi, trước cả khi em ra đời.

Ở Làng, môi trường Tây phương nên thiền sinh tới từ khắp nơi. Sáng đó con đang rửa dọn, có một cô thiền sinh lớn tuổi từ Đan Mạch tới xin chụp một tấm hình của con. Cô nói nụ cười con làm cô rất hạnh phúc. Con nghe mà xúc động ghê luôn. Con chỉ cười mỗi lần gặp cô trong xóm và thỉnh thoảng ngồi chung bàn ăn cùng cô, chỉ rứa thôi mà làm cô hạnh phúc. Có những thiền sinh sau một hay vài tuần tới Làng, lúc ra về, thấy gương mặt họ giãn ra, nở được nụ cười mà con thấy vui theo.

Ba mạ thương, có lần ngồi yên ở vườn Bụt xóm Mới, con không biết có đang nằm mơ không vì chừ con đã là người tu. Con đã từng mong ước xuất gia cách đây hơn tám năm. Con biết đến Thầy qua sách Đường xưa mây trắng vào cuối năm 2010, hồi đó con nghe Thầy người Huế nhưng ở tận bên Pháp. Mãi đến cuối năm 2013, lúc sang Nhật học, nhờ pháp thoại “Mục đích của đời người” mà con tình cờ được nghe trên Youtube, con mới biết đến Làng.

 

 

Sau vài tháng tìm hiểu, qua Trang nhà Làng Mai, con quyết định viết thư xin Thầy và tăng thân cho con được xuất gia và hồi hộp chờ đợi. Một tuần sau, con nhận được một bức thư dài, cuối thư là “Sen búp tặng con, Sư cô già nhất trong các sư cô – Sư cô Chân Không”. Sư cô nói đã đọc thư của con cho Thầy nghe và Thầy nói Sư cô làm giấy tờ cho con qua Làng để xuất gia vào tháng Bảy năm 2014. Giấy tờ được gửi từ Pháp về Nhật, con đã đến Đại sứ quán Pháp tại Tokyo bốn lần mà hồ sơ vẫn không được chấp nhận vì con đang có học bổng. Đại sứ quán yêu cầu phải có thư của trường ở Nhật đồng ý thì con mới hoàn thành hồ sơ. Lúc đó con giấu hết tất cả mọi người nên không thể có bức thư đó. Sư cô Chân Không tìm mọi cách để con có visa mà không được.

Lúc đó con mới qua Nhật sáu tháng và chương trình học kéo dài bốn năm. Cô giáo sư biết chuyện, câu đầu tiên cô hỏi là ba mạ có biết chuyện này không. Cô tìm mọi cách thuyết phục nhưng con vẫn đòi bỏ học. Cô nói để nhận con, cô phải từ chối mười hồ sơ đến từ các nước khác. Con nghỉ học không có lý do chính đáng sẽ ảnh hưởng đến trường, đến bộ môn, đến cô. Rứa mà con vẫn nhất quyết không nghe, chỉ muốn đi tu. Cô viết email về cho thầy giáo của con ở Huế. Thầy tức tốc lên nhà mình. Thầy nói con mà bỏ học là coi như không còn hợp tác chi giữa hai trường Huế và Tokyo nữa hết, con phải bồi thường rất nhiều tiền. Người ta đi tu để giúp đời, còn con làm kiểu ni là con hại rất nhiều người. Con nghe lúc đó bên nhà hoảng loạn lắm, điện thoại sang liên tục mà con không dám bắt máy. Con biết tình hình ni là không bỏ học được nên con báo tin cho Sư cô Chân Không. Nghe tin, Sư cô buồn nhưng vẫn động viên con tiếp tục học. Nhận thư Sư cô mà con khóc một trận tơi bời.

Con nhớ mãi kỉ niệm lần đầu tiên con được gặp Thầy tại thất Nhìn Xa vào đầu năm 2017. Hành trình bay từ Nhật sang Thái cũng đầy thử thách khi phải thuyết phục cô giáo, rồi đổi vé mấy lần. Cuối cùng con cũng tới được tu viện. Con không biết trong bốn ngày ngắn ngủi với mục đích duy nhất là gặp Thầy có thành sự thật không, vì lúc đó Thầy bệnh sau đêm 30 Tết. Nếu bác sĩ nói Thầy cần nhập viện thì phải đưa Thầy đi ngay. May răng là Thầy không cần đi nữa nên Sư cô Chân Không dẫn con vào gặp Thầy. Vừa thấy Thầy, con khóc như mưa. Thầy gật đầu chào con. Sau khi nghe Sư cô Chân Không giới thiệu về con, Thầy đưa tay lên, Sư cô nói Thầy muốn cầm tay con đó. Rứa là con đến gần bên và ôm lấy tay Thầy. Thầy đã nhìn sâu vào mắt con rồi nhìn bàn tay con thật lâu, chưa bao giờ con tự ngắm bàn tay con lâu như rứa.

Con tiếp tục học, rồi tốt nghiệp, về lại Huế đi làm và vẫn giữ mong ước được làm học trò xuất gia với Thầy. Bốn ngày trước khi Thầy tịch, con được lên kiểm tra răng cho Thầy. Thầy nằm bình an trên giường, dù mệt nhưng vẫn để con kiểm tra. Con ý thức có thể đây là lần cuối được gặp Thầy nên rất trân quý những giây phút ấy. Con ngắm kĩ khuôn mặt Thầy và cùng thở với Thầy. Thầy không mở mắt nhưng dường như mắt Thầy đang nhấp nháy lắng nghe cuộc nói chuyện của con. Cách đây tám năm, Thầy muốn con được qua Làng xuất gia nhưng con chưa đủ duyên. Giờ đây, con được lên thăm Thầy và báo tin con sắp qua Làng tu học như ước nguyện năm xưa.

 

 

Trong nhà, mạ là người ủng hộ con đi tu, mạ nói ở ngoài đời, lấy chồng sinh con khổ quá. Ba không yểm trợ lắm vì muốn con ở ngoài đi làm để giúp đỡ gia đình. Con đã nhiều lần nói chuyện với ba về công việc con làm, xen lẫn những mong ước. Khi thấy các bác Tiếp Hiện làm chương trình Hiểu và Thương, con ao ước ngày mô đó ba cũng sẽ được tham gia cùng các bác. Khi ba nghỉ hưu, mong ước đó đã thành. Ba còn siêng đi sinh hoạt tăng thân, dự ngày Quán niệm. Thỉnh thoảng, mạ đi cùng và luôn ủng hộ ba làm các chương trình. Dần dần, ba yểm trợ cho ước nguyện của con hơn.

Nghe tin Thầy tịch, cả nhà đều thương vì nghĩ rằng con không có cơ hội được làm con của Thầy nữa. Em Ni, bây chừ là sư chị Chân Trăng Hương Bình may mắn hơn khi được Thầy có mặt và nắm tay trong lễ xuất gia ở Thái. Khi nghe con sẽ được xuất gia trong lễ Tâm tang, cả nhà rất mừng. Con chưa bao giờ nghĩ lễ xuất gia của con sẽ có gia đình bên cạnh, rứa mà cuối cùng nhân duyên hội tụ, cả nhà đã có mặt đầy đủ trong ngày con xuống tóc.

Con biết ơn khoa và trường ở Huế đã thương con. Dù con rất thương quý mọi người, nhưng ước nguyện sống cuộc đời xuất sĩ lớn quá nên con không thể tiếp tục con đường kia. Trước khi vô chùa, con cũng đã kịp gửi thư cho cô giáo ở Nhật để báo tin. Con rất vui khi cô nói rằng cô mừng cho con đã được đi con đường mà con mong ước và chúc con tu học có nhiều hạnh phúc. Con biết ơn tăng thân trẻ ở Huế đã cho con nhiều kỉ niệm đẹp, giúp con vun bồi bồ đề tâm. Những đêm trăng tròn đi thuyền cát trên sông Hương cùng các bạn luôn còn mãi trong con. Sau khi xuất gia, con được ở chung với các chị em cây Mimosa hai tuần, tuy ngắn nhưng đầy nuôi dưỡng. Buổi chiều đi chấp tác về, thấy trên bàn học rất nhiều thư và ảnh mà các chị em gửi sang làm con vui cả buổi tối hôm đó. Con mở từng bức thư, xem từng bức hình để nhớ lại những khoảnh khắc ở chùa Tổ. Ngoài sáu chị em con, chừ ba mạ có thêm một đàn con ở chùa nữa.

Ba mạ biết không, hồi ở Nhật, con không nhớ nhà mấy, rứa mà sang Làng, có ai hỏi tới là nước mắt con cứ tuôn ra, chừ thì đỡ hơn rồi. Trong lễ Vu Lan tại Sơn Hạ cho người Việt trong khoá tu mùa hè vừa rồi, mới bắt đầu nghe đoản văn Bông hồng cài áo là nước mắt con đã chảy rồi. Mỗi lần ngồi thiền hay đi thiền có nhiều bình an, con đều gửi đến ba mạ và cả gia đình. Con biết ơn ba mạ đã vất vả nuôi sáu chị em con khôn lớn, cho ăn học đến nơi đến chốn và yểm trợ khi chị em con phát tâm xuất gia. Có thiền sinh hỏi vì răng con đi tu, con nói một trong những lý do chính là con rất thương ba mạ và gia đình mình, chỉ có con đường xuất gia này mới cho con cơ hội báo hiếu ba mạ nhiều nhất.

Sau bao tháng ngày bận rộn với công việc bên ngoài, chừ con được làm sư út của Làng. Con gần bước sang tháng cuối của mùa an cư đầu tiên. Đi theo thời khoá tu học của chúng, cho con cơ hội để dừng lại, để trở về với chính con. Ba mạ biết không, lần đầu tiên con được đại chúng soi sáng, tức là chỉ cho con biết những bông hoa đẹp mà con đang có cũng như có những khuyến khích để con tu học tốt hơn. Con xúc động quá nên khi được quý sư cô soi sáng, nước mắt con cứ chực trào ra. Con cảm nhận rất nhiều tình thương mà đại chúng dành cho con. Con đã bắt đầu có những hơi thở và bước chân bình an hơn mỗi ngày. Có những buổi sáng ngắm mặt trời lên huy hoàng từ đồi mận hay những đêm ngắm bầu trời đầy sao mà niềm vui và lòng biết ơn dâng lên trong con. Con biết ơn vì được làm con của ba mạ, được làm con cháu của gia đình huyết thống bao đời làm nông thuần lành, chất phác. Con biết ơn Bụt Tổ, Thầy và tăng thân cũng như mọi nhân duyên đã cho con được làm người tu. Ở bên ni con khỏe, đang tận hưởng vẻ đẹp mùa thu ở Làng và tu học có nhiều niềm vui nên ba mạ và cả nhà yên tâm. Bên nớ, cả nhà mình giữ sức khoẻ và cùng thực tập vui với chị em con hí.

Thương ba mạ và cả nhà nhiều lắm!

Con gái của ba mạ,
Chân Trăng Tâm Đức

Trở về nguồn cội

(Main Hương, Hồng Anh và Janny)

Đây là bài chia sẻ của ba bạn trẻ Main Hương, Hồng Anh và Janny về khóa tu “Tìm về ngôi nhà đích thực” (2-9.6.2023) tại Làng Mai dành cho người trẻ Việt lớn lên ở nước ngoài. Ba bạn trẻ này đã từng cùng cha mẹ về Làng khi còn ở tuổi thiếu nhi.

Một khóa tu thật khác biệt!

Khi đến Làng Mai tu tập, trong niềm vui gặp gỡ các bạn thiền sinh đến từ khắp nơi trên thế giới, chúng tôi thường mong muốn được kết nối với những người bạn có cùng cội nguồn văn hóa. Trong những khóa tu khác mà chúng tôi từng tham gia, rất nhiều người trong chúng tôi thường có cảm giác không gian ở đó giống hệt như môi trường mà chúng tôi đã sinh sống và lớn lên, nơi mà chúng tôi chỉ là những nhóm thiểu số. Ở trường học hay công sở, nhìn quanh may ra tìm được vài ba người bạn có cùng nguồn gốc văn hóa.

Tháng sáu vừa qua, khóa tu Tìm về ngôi nhà đích thực lần đầu tiên được tổ chức tại Làng Mai dành riêng cho những người trẻ Việt Nam và châu Á lớn lên ở nước ngoài. Chúng tôi chưa bao giờ gặp nhiều người trẻ gốc châu Á cùng tham dự một khóa tu ở Làng như vậy. Khi xung quanh đều là những người đã từng lớn lên với những khó khăn và thử thách vì bị mất kết nối với văn hóa Việt Nam và những kinh nghiệm sống của cha mẹ, chúng tôi cảm nhận một năng lượng thật khó tả. Có một niềm cảm thông sâu sắc mà không cần phải nói thành lời.

Trong bài pháp thoại về bốn yếu tố của tình thương đích thực, sư cô Lăng Nghiêm đã nhắc lại lời dạy của Sư Ông, thương yêu nghĩa là hiểu biết. “Tình thương đích thực thì không có giới hạn, hiểu biết cũng như vậy”. Trong suốt khóa tu, chúng tôi cảm nhận được rằng mình luôn được tiếp xúc với tình thương sâu sắc khó diễn tả thành lời: tình thương vô điều kiện từ quý sư cô, tình thương dành cho cha mẹ và tổ tiên, tình thương đối với gốc rễ mà từ lâu chúng tôi cứ tưởng đã bị lấp vùi, tình thương đối với nền văn hóa dân tộc, và tình thương với chính mình.

 

 

Trong suốt một tuần của khóa tu, chúng tôi được sống trong một môi trường rất bình an, và ai cũng thực tập hết lòng. Mọi hoạt động dù nhỏ cũng trở nên đầy ý nghĩa và linh thiêng. Một lần khi tập trung trước giờ chấp tác, một sư cô mời chúng tôi hát bài Hạnh phúc trong phút giây và dâng tặng bài hát đó cho cha mẹ. Sư cô chia sẻ rằng có thể cha mẹ chúng ta đã không có cơ hội được “dứt hết âu lo”, cho nên khi hát bài này, mình hãy dâng tặng cho cha mẹ sự bình an và thảnh thơi. Nhiều bạn đã xúc động rơi nước mắt.

Năng lượng tập thể và phẩm chất của sự thực tập cũng rất đặc biệt. Quý sư cô có chia sẻ rằng đối với người châu Á, chúng ta đã được tổ tiên trao truyền lại những hạt giống Phật pháp từ nhiều thế kỷ. Vì vậy, dù nhiều thế hệ không thực tập, nhưng chỉ cần một chút tưới tẩm, những hạt giống đó sẽ nảy nở lên như nấm mọc sau mưa. Nhờ có “tâm ban đầu” rất mạnh, cùng những hạt giống của tuệ giác đã có sẵn trong tâm thức, và với lòng biết ơn sâu sắc đối với khoảng không gian đặc biệt mà tăng thân đã dành tặng, chúng tôi đã tới được với nhau và có một môi trường tu tập thật tuyệt vời.

Đôi khi, chúng tôi không nhận ra mình đã mất đi điều gì cho đến khi nó hiện ra ngay trước mặt. Cảm giác được trở về nhà và kết nối với mọi người thật mầu nhiệm. Điều đó nhắc nhở chúng tôi rằng mình không đơn độc trên hành trình trị liệu và chuyển hóa, và chúng tôi có thể tìm được nguồn cảm hứng cũng như sức mạnh nơi những người hiểu mình sâu sắc.

Trở về tiếp nhận gia tài

Rất nhiều người trong chúng tôi là thế hệ con cháu của những người Việt Nam tị nạn vì chiến tranh. Gia đình chúng tôi đã cố gắng làm những gì tốt nhất có thể, trong khi họ vẫn phải đối mặt với những khó khăn, mất mát vì xa quê hương, đồng thời phải tìm cách hòa nhập với xã hội và văn hóa khác biệt ở một đất nước mới. Trong chúng tôi, ý thức về gia tài văn hóa Việt chỉ giới hạn trong phạm vi gia đình, và di sản văn hóa này thường trở thành thứ yếu so với văn hóa ở nơi chúng tôi sinh sống.

Khi xa quê hương, gia đình chúng tôi đã cố gắng hết sức trong khả năng có thể để trao truyền cho chúng tôi về ngôn ngữ cũng như về văn hóa. Sinh trưởng trong xã hội phương Tây, chúng tôi thường bị giằng xé giữa ước muốn hòa nhập với văn hóa Tây phương và ước muốn gìn giữ gốc rễ văn hóa của mình. Kết quả là, chúng tôi thường phải từ bỏ gốc rễ để hòa nhập với môi trường mới. Khi trưởng thành, nhiều người trong chúng tôi cảm nhận được sự mất mát về di sản văn hóa và ngôn ngữ. Chúng tôi mong muốn được kết nối và tìm lại những gì mà chúng tôi đã chối bỏ từ lâu. Vì vậy suốt một tuần của khóa tu tại Làng, chúng tôi đã cho phép mình được ôm ấp, nuôi dưỡng và trị liệu vết thương này trong mình bằng cách chế tác những năng lượng tích cực.

Nhờ được tới với nhau và chia sẻ những kinh nghiệm thực tập trong một môi trường đầy sự hiểu biết và cảm thông, chúng tôi không những được trị liệu cho tự thân mà còn có thể nuôi dưỡng tinh thần cộng đồng, cho dù chúng tôi sống ở những nơi khác nhau. Chúng tôi có thể chế tác được chất liệu từ bi sâu sắc hơn cho bản thân và cả cho cha mẹ, bạn bè. Nhờ vậy, chúng tôi có thể tạo được không gian trong lòng, ôm ấp được niềm đau, tăng trưởng niềm vui để chữa lành quá khứ, trân quý nền văn hóa mà cha ông đã để lại, cũng như trở về vun bồi thêm gốc rễ, cội nguồn trong mỗi cá nhân và cộng đồng.

 

 

Khi cùng ngồi ăn trưa dưới gốc cây sồi, sư cô Định Nghiêm chia sẻ với chúng tôi rằng Sư Ông đã từng giảng một vài bài pháp thoại đầu tiên ngay tại nơi đây. Những người cùng thế hệ cha mẹ chúng tôi đến Làng Mai từ những năm 1980, chỉ vài năm sau khi chiến tranh kết thúc, đã ngồi xung quanh Sư Ông để nghe pháp. Hồi đó, rất nhiều người Việt Nam tị nạn và những người sống xa quê hương đều tìm về Làng Mai, nơi mà họ có thể tìm thấy một chỗ nương tựa về tâm linh cũng như văn hóa. Họ cũng đã góp phần giúp Sư Ông, quý thầy và quý sư cô xây dựng Làng Mai trở thành như ngày hôm nay.

Trong môi trường thiện lành và nuôi dưỡng này, cha mẹ chúng tôi có cơ hội chuyển hóa những vết thương của họ, cũng như cho thế hệ con cháu như chúng tôi được trở về tiếp xúc với cội nguồn dân tộc. Đám trẻ con chúng tôi được học hát và học nói tiếng Việt, được thưởng thức món ăn Việt, và mọi người đến với nhau để cùng cảm nhận rằng mình thuộc về nơi này, tổ ấm ở ngoài tổ ấm.

Giờ đây, sau bốn mươi năm, chúng tôi được ngồi bên nhau dưới cây sồi đó. Sư Ông vẫn còn hiển hiện quanh chúng tôi – khi làn gió tới khiến cành lá rung rinh vẫy chào, hoặc khi chúng tôi bước những bước chân chánh niệm trong khu rừng ở xóm Hạ. Chúng tôi thật may mắn vì vẫn được thừa hưởng gia tài thật đẹp mà Sư Ông và cha mẹ đã để lại. Làng Mai vẫn luôn là nơi mà chúng tôi, cũng giống cha mẹ mình trước đây, được trở về để tiếp tục trân quý di sản văn hóa và trị liệu những vết thương của cha ông. Thật ý nghĩa biết bao!

Chất liệu thương yêu và chuyển hóa

Tiếng Việt được sử dụng trong tất cả các hoạt động của khóa tu, điều này khiến chúng tôi vô cùng xúc động. Đây là lần đầu tiên nhiều người trong chúng tôi được nghe hướng dẫn tổng quát bằng tiếng Việt trong một khóa tu của Làng Mai. Chúng tôi ngay lập tức có cảm giác được trở về nhà khi sư cô Biện Nghiêm và sư cô Thùy Nghiêm chào đón chúng tôi bằng tiếng mẹ đẻ. Quý sư cô chia sẻ bằng tất cả tấm lòng, và vì vậy, đi thẳng vào trái tim chúng tôi. Chúng tôi chưa bao giờ thấy nhiều người khóc như vậy trong suốt buổi hướng dẫn tổng quát.

Nhờ nghe những lời hướng dẫn bằng tiếng Việt, chúng tôi có thêm chiều sâu trong sự thực tập. Đặc biệt được nghe tụng kinh bằng tiếng Việt là một trải nghiệm rất hùng tráng không thể nào quên. Chúng tôi được kết nối, khám phá và trải nghiệm văn hóa Việt Nam ở mức độ sâu sắc hơn.

Nhiều người trong chúng tôi là một phần của thế hệ sau chiến tranh, chúng tôi chỉ được tiếp xúc với tiếng Việt trong gia đình. Thường thường ngôn ngữ của cha mẹ có chứa đựng chất liệu của khổ đau và bạo động. Nhưng ở Làng Mai, chúng tôi được tiếp nhận ngôn ngữ với rất nhiều chất liệu bình an và thương yêu. Thật khó nói thành lời tấm lòng bao dung, độ lượng, tình thương và sự ân cần mà quý sư cô dành cho chúng tôi. Trong tiếng Việt, chữ “thương” thể hiện một tình thương sâu sắc và vô điều kiện – đó chính là điều chúng tôi cảm nhận được trong suốt tuần lễ của khóa tu.

Chúng tôi mong rằng khóa tu như thế này sẽ được tiếp tục tổ chức và là nơi những người Việt xa xứ như chúng tôi được trở về ngôi nhà đích thực của mình.

 

 

 

Thầy vẫn luôn là Thầy

(Sư cô Chân Định Nghiêm)

Đối với những người không tu tập, thời gian bảy năm sau cơn xuất huyết não nặng như Thầy có thể là một khoảng thời gian dài vô tận sống trong sự bất lực, buồn tủi và tuyệt vọng. Nhưng với sự thực tu và thực chứng của Thầy, Thầy vẫn luôn là Thầy: chủ động trong mọi quyết định và luôn tiếp tục hướng dẫn chúng con tu tập. Thầy nhắc chúng con thực tập an trú trong hiện tại mà không nhớ nghĩ đến Thầy của quá khứ để tiếc thương hay lo sợ cho tương lai. Nhờ vậy mà chúng con đã được tận hưởng không biết bao nhiêu niềm vui và hạnh phúc cùng Thầy trong suốt bảy năm đó.

Thầy từng dạy chúng con không chỉ thực tập chánh niệm với ý thức mà phải thực tập chánh niệm với cả tàng thức. Từ ngày đầu sống ở Làng, con chưa bao giờ bắt gặp Thầy bước một bước chân thiếu chánh niệm. Với sự thực tập miên mật qua nhiều năm tháng, chánh niệm đã đi theo Thầy vào tàng thức. Trước khi ngã bệnh, Thầy từng kể rằng trong những giấc mơ, Thầy thấy Thầy thiền hành, thưởng thức thiên nhiên hay nâng niu từng chiếc lá kè xanh mơn mởn.

Trong lúc hôn mê do xuất huyết não, Thầy vẫn duy trì hơi thở chánh niệm, không một lần gián đoạn. Sáng hôm ấy, bác sĩ nhìn tấm hình X-quang, lắc đầu và tiên đoán rằng Thầy chỉ còn một hay hai ngày nữa thôi. Thế là các con của Thầy từ khắp nơi tức tốc bay về Pháp để lần lượt được đảnh lễ Thầy lần cuối.

Nhưng các bác sĩ rất ngạc nhiên khi thấy mức O₂ của Thầy vẫn cao từ 96% đến 99%. Thầy không cần dùng máy trợ thở mà hơi thở vẫn sâu và đều đặn. Đó là hơi thở nuôi dưỡng. Đó là hơi thở trị liệu. Hai ngày trôi qua, Thầy vẫn nằm yên thở đều và tỏa ra một nguồn năng lượng bình an khó tả, làm cho các bác sĩ và y tá rất thích vào phòng Thầy. Có một cô bác sĩ nội trú thường hay vào phòng Thầy mỗi khi quá mệt mỏi, căng thẳng. Cô cứ đứng nhìn Thầy một hồi lâu, thật yên và buông thư rồi mới đi làm việc tiếp.

Nhiều ngày trôi qua, Thầy vẫn nằm yên thở đều. Các bác sĩ, y tá không làm gì được trong việc chữa trị. Họ chỉ biết theo dõi và chờ đợi. Chờ đợi sự quyết định của Thầy.

Đến đêm thứ tư, bỗng nhiên Thầy mở mắt. Thầy nhìn chăm chú từng thị giả đang bao quanh giường. Động tác Thầy làm tiếp theo là nhấc cánh tay trái lên một cách yếu ớt để xoa đầu thị giả đang đứng gần Thầy nhất. Từ giây phút đó, Thầy chầm chậm ra khỏi cơn hôn mê một cách rõ ràng với ý thức sáng tỏ. Ba ngày sau đó, Thầy nhìn và mỉm cười với các thị giả, vẫn nụ cười quen thuộc tràn đầy thương yêu.

Chỉ hai tuần rưỡi từ khi bị xuất huyết não rồi vào cơn hôn mê, Thầy đã bắt đầu tự tập tay, tập chân một mình trên giường trong đêm. Đúng một tháng sau, hệ thống tiêu hóa của Thầy đã làm việc lại bình thường. Bác sĩ trưởng khoa đã sắp xếp để mỗi ngày, các bác sĩ vật lý trị liệu đến tập với Thầy, tập thể dục với chân và tay, tập ngồi, tập nuốt thức ăn. Sau đó, Thầy được chuyển qua trung tâm phục hồi chức năng của bệnh viện để được tập nhiều hơn: tập phát âm, tập ăn, tập đứng, tập đạp xe đạp, tập điều khiển tay chân một cách khéo léo. Những ngày đầu, y tá đút Thầy ăn. Nhưng vài ngày sau, Thầy không muốn, Thầy đã nắm lấy chiếc muỗng để tự xúc lấy. Mỗi ngày đều đặn, Thầy làm cho các y bác sĩ đi từ hết ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác.

Có những lúc Thầy cười ra tiếng thật to, thật vui. Lần đầu tiên thị giả cùng với bác sĩ, y tá đỡ Thầy ngồi dậy, Thầy đã tìm cách ngồi xếp bằng ngay trên giường bệnh. Thầy tiếp tục tập ngồi xếp bằng như thế thêm nhiều lần nữa. Khi thì Thầy ngồi thiền trên tọa cụ đặt ngay trên giường, khi thì Thầy ngồi thiền trên ghế từ 30 đến 45 phút. Buổi tập luyện nào có vẻ bài bản như dành cho con nít, Thầy lắc đầu từ chối ngay, đôi khi Thầy còn bắt tay chào bác sĩ rồi mời bác sĩ rời phòng. Dần dà, Thầy không đi theo chỉ định của các bác sĩ vật lý trị liệu nữa, ngược lại, các bác sĩ phải đi theo Thầy. Ông Rouanet, bác sĩ trưởng khoa, đã tuyên bố khi chứng kiến từng phép lạ xảy ra mỗi ngày nơi Thầy: “Maintenant, je sais que je ne comprends rien au cerveau humain! (Giờ đây, tôi đã hiểu ra rằng tôi chẳng biết gì về não bộ con người!)”.

Một hôm, Thầy quyết định xuất viện. Sư cô Chân Không hoảng hốt! Về lại Làng sẽ không có bác sĩ, y tá bên cạnh, sẽ không còn phòng tập phục hồi chức năng cùng các bác sĩ vật lý trị liệu. Làm sao đây? Nhưng các bác sĩ của Thầy lại không lo lắng gì mấy. Bác sĩ Rouanet còn nói: “Thay a son propre programme” (Thầy có chương trình riêng của Thầy).

Đúng vậy! Về tới Sơn Cốc, Thầy đi thăm lại từng căn phòng, dầu cho phải leo cầu thang dài lên đến lầu trên. Mỗi ngày Thầy đi ngắm từng gốc cây, ngọn cỏ, từng bông hoa hồng. Thầy nằm chơi trên xích đu dưới bóng mát của ba cây tùng mà Thầy thường gọi là “ba sư anh lớn” của chúng con. Thầy đi thăm giàn mướp. Thầy tập đi ngoài trời, đi len lỏi qua cả những cây tre thật xanh mọc chen chúc trong rừng tre. Thấy có một cây hoa sơn thù du (dogwood) mà các sư cô biết Thầy thích và đã mua về còn để trong bọc chưa kịp đem trồng, Thầy liền “chỉ huy” thị giả đào lỗ đúng nơi Thầy chọn, đặt cây con xuống, lấp đất lại và tưới nước cho cây. Thầy còn chỉ cho các thầy, các sư cô trùng tu lại ngôi nhà gỗ cũ kỹ và thuê thợ xây thêm thiền đường ở cuối vườn Nội viện. Mỗi sáng, Thầy còn đi khảo sát công trình nữa chứ.

 

 

Thầy dùng thức ăn mỗi ngày mỗi nhiều hơn, bắt đầu với món táo nấu xay nhuyễn và súp củ quả xay nhuyễn khi còn ở bệnh viện. Về đây, đi ngang qua thấy có trái chanh trên bàn nhà bếp, Thầy liền chỉ trái chanh và muốn nếm lại vị chua thật chua. Rồi Thầy muốn thử đến trái bơ, tiếp đến là muốn dùng cơm, sau đó là bánh mì baguette giòn rụm, rồi đủ các món như phở, bún riêu… Mỗi bữa ăn của Thầy đều là những giây phút bình an và hạnh phúc.

Lâu lâu, Thầy đi quanh bếp, mở tủ lạnh xem có gì trong đó. Có khi Thầy lấy bánh, sữa chua để thưởng thức. Các bác sĩ hẹn gặp lại Thầy trong hai tháng nữa để thẩm định mức độ ăn uống tự nhiên của Thầy và khi nào thì Thầy có thể ngưng dùng các chất bổ dưỡng qua đường ống. Còn đến một tháng trước cuộc hẹn với bác sĩ, Thầy đã lẳng lặng bứt ống ra khỏi rồi cười tủm tỉm một mình mà không cho ai biết.

 

 

Thỉnh thoảng, Thầy đi thăm xóm Mới, xóm Hạ, Sơn Hạ, xóm Thượng và đôi khi ở lại đó nhiều ngày. Thầy không quên dẫn chúng con đi lại trên những con đường tùng thẳng tắp, những con đường huyền thoại của Thầy. Trong lúc đi thăm các thầy đang làm việc trong văn phòng xóm Thượng, Thầy bắt gặp trên kệ một tượng Bụt đứng bằng đồng, chân và thân hình hơi cong, rất nghệ thuật. Thầy ôm Bụt trong lòng đi về cốc, hướng dẫn thị giả dọn sạch chiếc bàn gỗ kê sát tường ngay chính giữa phòng. Trên tường là tấm thư pháp Thầy vẽ vòng tròn. Thầy dạy thị giả dẹp hết đồ đạc trên bàn rồi đặt tượng Bụt lên, một bên trước tấm thư pháp. Thầy còn chỉ thị giả xoay tượng một chút để thấy rõ dáng Bụt đứng hơi cong. Sáng hôm sau thức dậy, Thầy đổi ý. Thầy hài lòng hơn khi tượng Bụt được đặt lại vào ngay chính giữa trước vòng tròn thư pháp. Thị giả pha trà mời Thầy, vừa đặt ly trà tạm trên bàn trước khi dâng lên Thầy là Thầy làm dấu dẹp ly trà ngay, không được đặt bất cứ một đồ vật gì trên bàn Bụt ấy. Mỗi lần thị giả quên là mỗi lần Thầy lại nhắc ngay.

Tháng Bảy năm 2015, Thầy quyết định đi Mỹ để theo chương trình của trung tâm phục hồi chức năng của trường đại học California tại San Francisco (UCSF).

Sáu tháng sau, vào tháng Giêng năm 2016, Thầy quyết định về lại Pháp. Tháng 12 cùng năm ấy, Thầy quyết định đi Thái Lan.

Vào tháng Tám năm 2017, Thầy đi Việt Nam để về thăm Tổ đình Từ Hiếu. Chưa đến 24 giờ, Thầy rời Tổ đình về lại Thái Lan trong lúc đại chúng đang làm lễ Tự tứ.

Vào tháng Mười năm 2018, Thầy trở về Tổ đình.

Cuối năm 2019, Thầy về lại Thái Lan để tái khám. Sau khi tái khám và làm những gì cần làm xong, Thầy trở về Tổ đình và sống ở đây cho đến ngày cuối.

Trong vòng bảy năm, Thầy đã bay tám lần. Lần nào Thầy cũng đưa ra quyết định một cách rõ ràng. Một khi đã quyết định, Thầy luôn muốn thực hiện ngay, không chần chừ. Thầy bỏ ăn, bỏ uống, chỉ đi dạo quanh xem thị giả làm hành lý đến đâu. Những đứa con không muốn Thầy đi xa đã tìm đủ cách và đưa ra nhiều lý do để thuyết phục Thầy bỏ ý định. Cho dù có những lý luận sắc bén bao nhiêu đi nữa, trước mặt Thầy chỉ trong chốc lát, các vị cũng đều chào thua. Không ai và không điều gì có thể cản được quyết định của Thầy. Chỉ trong vòng ba đến bốn ngày, các thị giả bằng mọi giá phải hoàn tất mọi thủ tục và sắp xếp mọi thứ cho chuyến đi.

Thầy luôn có thái độ dứt khoát khi thấy cần đi đâu, cần làm gì, kể cả khi Thầy thấy không cần phải đi hay không cần phải làm gì. Vào một ngày xuất sĩ tại Sơn Cốc (Làng Mai gọi ngày sinh hoạt dành cho chúng xuất gia là ngày xuất sĩ), các thị giả năn nỉ Thầy đi thiền với đại chúng bốn xóm. Năn nỉ bao nhiêu Thầy cũng lắc đầu không đi, mặc cho đại chúng chờ đợi. Cuối cùng đại chúng đành phải thiền hành mà không có Thầy. (Có phải vì Thầy muốn đại chúng chuẩn bị cho những ngày xuất sĩ không có mặt Thầy?)

Một lần khác, vào ngày tái khám định kỳ của Thầy, xe cảnh sát (dọn đường cho xe cứu thương), xe cứu thương, các vali chứa đồ nhà bếp, hành lý của Thầy… tất cả đã sẵn sàng và chờ Thầy ra xe để lên đường. Nhưng Thầy lắc đầu không chịu đi, cho dù các thị giả thay phiên nhau năn nỉ. Sau khi đợi suốt hai giờ đồng hồ, xe cứu thương và xe cảnh sát đành phải quay về.

Thầy luôn là người quyết định và chịu trách nhiệm về sức khỏe cũng như sự sống chết của Thầy. Tại San Francisco, Thầy dõng dạc ký giấy đồng ý với đề nghị của bác sĩ trong chương trình điều trị. Tại bệnh viện Thái Lan, Thầy lăn tay trước mặt các y bác sĩ. Bao nhiêu lần Thầy đã làm cho các bác sĩ phải cúi đầu nể phục khi thấy Thầy vẫn là người biết rõ cơ thể và sức khỏe của Thầy hơn ai hết. Thầy vẫn luôn là người quyết định, các bác sĩ chỉ đi theo yểm trợ Thầy thôi.

Không những Thầy dẫn đường cho sự chữa trị và hồi phục sức khỏe của Thầy mà Thầy còn tiếp tục dẫn dắt chúng con trên con đường tu tập mỗi ngày. Vào ngày Rằm đầu tiên ở bệnh viện Bordeaux, nằm trên giường, Thầy đã chỉ cho chúng con thấy vầng trăng tròn vằng vặc bên kia tấm cửa kính. Thầy trò còn thưởng thức pháo bông vào đêm Giao thừa Tết tây tại nơi đây nữa. Thỉnh thoảng, Thầy lại chỉ cho các bác sĩ và y tá thấy trời xanh, mây trắng, hay hai con chim đang chơi đùa bên nhau trên cành cây bên ngoài cửa sổ bệnh viện. Cũng vậy, ở bất cứ nơi đâu, mỗi khi thấy mặt trời lặn hay mặt trời mọc, Thầy đều chỉ cho mọi người cùng ngắm với Thầy. Thầy rất thích những buổi thầy trò ngồi quây quần bên nhau, vừa uống trà vừa thưởng thức hoa quỳnh, khi thì ở Sơn Cốc, khi thì ở thất Nhìn Xa. Mỗi khi Thầy cảm thấy trong thân khó chịu, thị giả sẽ đẩy Thầy đi thiền hành trên xe lăn chầm chậm, khoan thai và Thầy sẽ cảm thấy dễ chịu lại ngay.

 

 

Các sư con hay đến thăm Thầy ở Sơn Cốc, nơi Thầy có trồng một cây hoa ngọc lan mang từ Việt Nam sang. Thầy hay dẫn các con đi hái hoa rồi Thầy đưa hoa lên tận mũi cho từng đứa ngửi. Vào mùa hè, Thầy đi ngắm đồi hoa hướng dương trải vàng rực rỡ ngay phía sau Nội viện Phương Khê. Đến mùa cúc ở Pháp, thầy trò đi xem chợ hoa cúc. Đến mùa Tết ở cố đô Huế, thầy trò lại đi thăm chợ hoa mai. Đi theo Thầy, chúng con không bỏ lỡ bất cứ một cơ hội nào để thưởng thức bốn mùa. Vừa qua đến Làng Mai Thái Lan, sau vài ngày nghỉ ngơi, Thầy đã chỉ các thị giả đẩy Thầy lên thăm hết các ngọn núi của tu viện. Đại chúng lũ lượt trèo núi theo Thầy. Những sinh hoạt bình thường nhất trong thời khóa mà có Thầy xuất hiện thì đều trở nên những giây phút huyền thoại: các buổi thiền hành, thiền tọa, buổi ăn sáng, ăn trưa, v.v.

Chúng con còn nhớ lần đầu tiên, đang ngồi trên ghế sofa ở Sơn Cốc, bỗng nhiên Thầy cất giọng niệm Bồ tát Quan Thế Âm cùng với chúng con. Những ngày sau đó, Thầy hát hết bài này đến bài nọ, từ tiếng Việt, tiếng Anh cho đến tiếng Pháp. Miệng Thầy thật tròn. Mỗi ngày, thầy trò vừa thiền hành, vừa hát, có khi còn hát những bài hát dài như Tìm nhau. Rồi Thầy vào thư viện tìm đọc lại các tài liệu. Thầy tập đọc những bài thơ Thầy đã viết trên những tấm thư pháp trước kia. Thầy tập vẽ vòng tròn, tập viết chữ “thở”, tập viết chữ Hán với rất nhiều niềm vui.

Có lần ở San Francisco, vừa nghe CD những bài thơ do chính Thầy đọc, Thầy vừa đưa tay diễn tả ý thơ cùng với nét mặt. Những giây phút hào hứng nhất là những lúc Thầy đạp xe đạp, vừa đạp xe vừa nghe nhạc và thưởng thức cảnh trí hiện ra trên màn ảnh trước mặt, tạo cho Thầy có cảm giác như đang đạp xe ngoài bãi biển, hoặc có khi như đang đạp xe trên những con đường quê giữa thiên nhiên hữu tình. Có lúc Thầy thấm mệt nhưng Thầy vẫn kiên trì đạp mãi không ngừng.

Còn những giây phút ngoạn mục nhất nữa: đó là những lúc Thầy đứng một mình mà không cần thị giả đỡ một bên. Hôm đó đến giờ cơm trưa, Thầy muốn dùng cơm luôn trong tư thế đứng! Nét mặt Thầy trò ai cũng rạng rỡ và phấn khởi vô cùng. Lại có những lúc Thầy đứng thật thẳng trên xe đẩy, các thị giả cho xe đi vòng vòng, chầm chậm trong thất Nhìn Xa. Sao lạ quá, Thầy không nói gì nhưng Thầy ở đâu là nơi đó ấm cúng, đông vui và tràn đầy năng lượng thương yêu.

Trong thời gian chùa Tổ được trùng tu, Thầy đã đồng ý đi biển Thuận An, biển Đà Nẵng nhiều lần để tránh bụi và tiếng ồn. Thầy cũng xuống tắm biển cùng với các thầy thị giả. Có lẽ lâu lắm rồi, từ bao giờ, 60 năm, hay 70 năm, Thầy mới được ngâm cả người vào lòng nước biển ấm áp. Thầy muốn đi ra khơi, xa hơn nữa, xa hơn nữa, và xa hơn nữa. Đó là hôm Thầy chịu chơi nhất và cũng là lần tắm biển vui nhất trong đời của cả thầy lẫn trò. Có phải vậy không thưa Thầy?

Đến năm 2020, Thầy yếu đi nhiều. Thầy không còn dạo quanh chùa và không còn đi thăm liêu Sư Cố nữa. Nhưng thở vào, chúng con ý thức rằng Thầy đang còn sống; thở ra, chúng con trân quý và mỉm cười với sự sống. Chúng con vẫn tiếp tục tận hưởng từng giây phút bên Thầy mà không để thương tiếc hay lo lắng chiếm ngự. Thầy đã cho chúng con thấy rằng với một thân thể già yếu và tật bệnh, với những cơn đau nhức, Thầy trò vẫn có thể sống an vui trong mọi hoàn cảnh với sự thực tập hiện pháp lạc trú mà đức Thế Tôn đã dạy.

 

 

Trong suốt bảy năm, chúng con nhận ra được mọi hành vi cho đến nhận thức của Thầy đều là sự biểu hiện của một tàng thức đã được chuyển hóa, một tàng thức chứa đựng đầy hoa trái của một bậc chân tu. Những hoa trái đó có thể thay đổi hoàn toàn hoàn cảnh xung quanh. Những gì cần làm, Thầy đã làm với tất cả tình thương. Rồi với ý thức sáng tỏ, Thầy đã quyết định trở thành mây một cách lặng lẽ, dứt khoát, như bao nhiêu lần Thầy đã từng làm những quyết định. Đám mây của Thầy đã bao trùm và ôm lấy các con của Thầy trong một bầu không khí ấm cúng và tĩnh lặng, bây giờ và mãi mãi.

Những chồi non chào nắng mai – phần 3

(Phỏng vấn các vị xuất gia trẻ)

“Sự thực tập chắp tay cảm ơn khi được nhắc nhở, tuy là một uy nghi rất nhỏ nhưng cho con rất nhiều tự do. Con biết người kia phải có can đảm và lòng từ bi mới chia sẻ cho con. Mặc dù có thể lúc đầu con hoàn toàn không đồng ý nhưng con vẫn đợi một vài ngày để hỏi lại chính mình: Nó có đúng không? Nhờ việc không phản ứng lại ngay theo cảm xúc, giữ sự khiêm cung, nên nhiều lần con nhận ra lời nhắc nhở đó là đúng. Con thấy nếu không có uy nghi này, con có thể sẽ không bao giờ nhìn rõ được bản thân mình như thế”.Thầy Trời Thiện Ý

“Sự thực tập sống chung phòng với huynh đệ giúp con có nhiều sự để tâm hơn về nhu cầu của những người xung quanh và những nhu cầu ấy thường rất khác với con. Càng ngày con càng học được thêm về cách tiếp xử với huynh đệ, kiểm tra lại với người kia về tri giác của mình và lắng nghe những gì được nói hay chưa được nói ra. Đó là những điều con thấy rất thú vị”.Sư chú Trời Định Túc

“Con thật sự thích tất cả các uy nghi. Thực tập uy nghi tạo nên sự hòa hợp trong đại chúng và giúp cho con cảm thấy thoải mái hơn. Con cũng cảm thấy an tâm, biết rằng quý thầy quý sư cô cũng đang thực tập uy nghi và giới luật. Cảm nhận được sự an toàn và rộng rãi trong lòng thì đó cũng là một hình thức của tự do”.Sư chú Trời Niệm Xả

“Nấu ăn trong chánh niệm. Trong khi con làm việc, con có thể ý thức về hơi thở, về việc con đang làm cũng như những suy nghĩ và lời nói mà con tạo ra. Ý thức được rõ ràng về những gì đang làm, con cảm thấy rất vui và tự do”.Sư chú Trời Ruộng Đức

“Được làm việc như một tăng thân, như một cơ thể khiến con cảm thấy tự do khỏi những mối bận tâm cá nhân. Nhờ vậy, con có thể dễ dàng tận hưởng công việc hơn”.Sư cô Trăng Lâm Hỷ

Quý sư cô, sư chú thấy uy nghi nào giúp mình có nhiều tự do nhất?

“Là thực tập xá chào những vị lớn. Khi con có khó khăn trong liên hệ với huynh đệ, con vẫn thực tập xá chào những vị đó và đọc thầm bài thi kệ Sen búp xin tặng người, một vị Bụt tương lai. Làm được như thế không dễ, nhưng con vẫn chọn thực tập cho trọn vẹn. Dần dần, con cảm nhận mình tự do và có nhiều tuệ giác hơn, thấy được tổ tiên đang thực tập chung với con và trong con. Cuối cùng, chúng con cũng có thể hòa giải và làm mới với nhau. Con nhận ra sự thực tập nuôi lớn sự mở lòng và đã cho con thật nhiều tự do”.Sư cô Trăng Hiền Tâm

“Với con là không uống rượu. Khi còn là cư sĩ, thỉnh thoảng con có uống rượu. Bây giờ, sau một thời gian dài không uống, con so sánh được hai trạng thái. Con thấy mình tự do thế nào khi không còn ở trong trạng thái mà con không làm chủ được những gì xảy ra với thân và tâm mình.

Cũng vậy, giới về đời sống phạm hạnh cho con sự tự do và sáng suốt hơn khi tiếp xử với người khác. Con biết vị trí của mình ở đâu trong bất kỳ mối liên hệ nào. Điều này giúp con dễ dàng hướng năng lượng của mình vào con đường tâm linh”.Sư chú Trời Niệm Thuần

Với con, con thích thực tập uy nghi khi làm việc thì không nói chuyện. Con cảm nhận được trong lòng mình có sự dừng lại, lắng dịu, quán thân sâu sắc hơn và thấy rõ được những suy nghĩ mà mình đang có”.Sư cô Trăng An Niệm

“Con thích thực tập uy nghi gõ cửa bởi vì con thấy ba tiếng gõ cửa đó như nhắc nhở mình dừng lại. Trước đây, con gõ mà như muốn rớt cửa nhà người ta. Thời gian đầu vào chùa, con thực tập như rô-bốt, được dạy sao thì làm vậy nên chỉ mang tính hình thức. Sau này, con thấy gõ cửa thực sự là sự nhắc nhở cho mình trở về. Sau cái gõ cửa đó, con sẽ chắp tay để xin phép vào và càng ngày, sự thực tập này trở thành một thói quen rất đẹp. Đó là những gì con muốn thể hiện ra một cách tự nhiên chứ không phải là sự ép buộc phải làm. Thêm nữa, trong đại chúng luôn luôn có sự luân chuyển, nên sự thực tập này cũng là cách để nhận diện sự có mặt của người con đang xá chào và trân quý những mối liên hệ trong đại chúng”.Sư cô Trăng Tường Niệm

Những chồi non chào nắng mai – phần 2

(Phỏng vấn các vị xuất gia trẻ)

“Nhiều lúc, con cảm thấy mình ‘nhỏ bé’ khi tiếp chuyện với một thầy hay một sư cô lớn. Con thấy thật hay khi ai đó nói chuyện với con một cách tôn trọng và mở lòng, giúp đẩy con ra khỏi vị trí của một người nhỏ. Con cảm được có gì đó trong năng lượng của vị ấy, giúp con cảm thấy mình được lắng nghe và ý kiến của con được được ghi nhận.

Một điểm khác mà con thực sự biết ơn là thấy một thầy lớn tham gia thời khóa đầy đủ. Điều đó giúp con ý thức mình cũng có thể làm được như thế mà không cần phải hy sinh giây phút hạnh phúc của sự thực tập khi trở thành người lớn. Con thấy thật vui khi hướng về tương lai”.Thầy Trời Thiện Ý

“Tấm lòng phụng sự đầy nhiệt huyết và hết lòng nơi quý thầy, quý sư cô đã đánh động và gây nhiều cảm hứng để cho con thực tập theo”.Sư cô Trăng An Niệm

“Là khi vị đó cho con được lớn lên, được phép lầm lỗi và không hoàn hảo. Dù sao thì một ngày nào đó, chúng ta sẽ có thể làm những gì mà người ta nói là hoàn hảo nhưng con nghĩ là không có gì phải vội. Với con, được tu học một cách chậm rãi, từ hòa và với lòng từ bi rất quan trọng. Và Y chỉ sư đã có đó bên cạnh con với tinh thần ấy”.Sư cô Chân Xuân Hạnh

“Đối với con, đó là sự chấp nhận. Khi vào chùa, con mang theo cả những khó khăn, có những thứ con chưa thực tập được. Quý sư cô đã cho con rất nhiều không gian và kiên nhẫn đợi chờ con thực tập, cũng như luôn sẵn sàng có mặt và hướng dẫn con. Con có cảm giác mình đang được về nhà”.Sư cô Trăng Tường Niệm

Phẩm chất nào ở quý thầy, quý sư cô lớn hoặc vị y chỉ sư mà quý sư cô, sư chú thấy trân quý nhất?

“Với con đó là sự từ ái và mở lòng. Có lần, con phải thỉnh chuông thời khóa, nhưng con không biết là phải mặc áo dài mới được thỉnh. Có một sư cô tới và nói với con là để sư chị thỉnh chuông cho em mà không hề có một sự phán xét. Đó thực sự là một cách rất hay để chỉ dạy, mà không cần phải nói Em cần làm thế này, thế kia”.Sư cô Trăng Lâm Hỷ

“Con biết là mỗi người đến từ tầng lớp xã hội khác nhau, trong môi trường văn hóa và với những ước nguyện khác nhau. Con rất trân quý những quý thầy, quý sư cô lớn, người có khả năng ôm lấy tất cả những sự khác biệt ấy. Dù vị đó có thể có sự tự giác kỷ luật rất cao nhưng đồng thời cũng có khả năng uyển chuyển và linh hoạt với người khác. Người hiểu được cốt tủy sự thực tập của Làng Mai và cách để áp dụng sự thực tập vào xã hội hiện đại. Con nghĩ những điểm này phải đi chung với nhau: Hiểu được người trẻ và hiểu được thế giới”.Sư cô Trăng Hiếu Đức

“Con ấn tượng khi thấy được cách quý thầy duy trì sự thực tập suốt cả ngày. Con cũng được thực sự gây cảm hứng bởi cách nuôi lớn sự có mặt hơn là bằng kiến thức”.Sư chú Trời Niệm Xả

“Con rất biết ơn khi thấy quý thầy lớn có sự vững chãi và hành trì lời dạy của Thầy. Nhờ thế, con có cảm giác là mình có thể học được rất nhiều từ lời dạy cũng như kinh nghiệm của các vị. Đặc biệt khi con được biết quý thầy đã đi qua khó khăn như thế nào, mặc dù ngay lúc đó kinh nghiệm ấy không giúp ích gì cho con. Nhưng trong tương lai nếu con có khó khăn tương tự, con có thể nương tựa vào kinh nghiệm ấy”.Sư chú Trời Niệm Thuần

“Với con, khi được sống cùng và có cơ hội gần gũi với quý sư cô, con cảm nhận được rất nhiều  tình thương, đặc biệt là ở những vị được tiếp nhận sự dạy dỗ, tình thương trực tiếp từ Sư Ông. Tình thương của quý sư cô dành cho đại chúng rất lớn. Quý sư cô luôn mong muốn trao truyền những pháp môn hành trì, những lời căn dặn của Thầy đến những sư em không có cơ hội được gần gũi Thầy. Đó thực sự là cái đẹp của tình chị em trong một gia đình, người lớn dành cho người nhỏ tất cả tình thương, sự quan tâm, động viên. Vì vậy, con thấy mình cũng cần có trách nhiệm, thực tập cho đàng hoàng để không phụ lòng quý sư cô lớn”.Sư cô Trăng Tâm Đức

Những chồi non chào nắng mai – phần 1

(Phỏng vấn các vị xuất gia trẻ)

“Tập khí của con khi còn ở ngoài là không tự tin khi cười. Khi tiếp xúc và cười với người khác, trong con có cái gì đó làm cho con không tự tin về chính bản thân mình. Khi đi tu, con thấy mình được sống tự nhiên hơn. Khi cười, nụ cười đó đi ra từ sự bình an và niềm vui đang có trong lòng con nên nó rất tự nhiên. Đó là một sự chuyển hóa của con và khi nhận ra được điều đó, con rất hạnh phúc.

Con cũng huân tập được cho mình một thói quen mới là tập nhìn những cái tích cực. Trong tăng thân, mọi người đến từ nhiều vùng miền, nhiều quốc gia và văn hóa khác nhau nên đôi khi xảy ra những va chạm. Cách con thực tập là nhìn sâu vào tự thân mình trước để không bị cuốn theo những va chạm đó. Hoặc con tìm cách để làm đơn giản hóa vấn đề lại, nhờ vậy con thấy mình nhẹ nhàng hơn”.Sư cô Trăng An Niệm

“Khi còn là cư sĩ, con ít nói chuyện mặc dù công việc của con là quản lý. Sự truyền thông rất ngắn ngủi và có khi cũng không thoải mái để chia sẻ. Nhưng khi vào chùa, con thực tập ái ngữ thêm. Để làm sao có không gian và thời gian hơn khi nói ra điều gì đó và để những lời mình nói có nhiều thương yêu, hiểu biết”.Sư chú Trời Ruộng Hiếu

“Khi có cảm xúc đi lên, con thường nhận diện và dành thời gian để ngồi chơi với nó. Con không còn muốn đổi sang làm một việc gì khác như trước. Ý thức sự có mặt và ôm lấy cảm xúc đó trong vài phút. Vì biết rằng nếu không làm vậy, nó sẽ bám theo con hàng giờ. Con ưu tiên quay về chăm sóc cảm xúc ngay lập tức và thiết lập lại bình an trong nội tâm sớm nhất con có thể”.Thầy Trời Thiện Ý

Quý sư cô, sư chú nhận thấy mình đã học được những thói quen mới nào từ khi xuất gia?

“Trong quá khứ con luôn luôn vội vã, trong công việc hay trong bất cứ việc gì con làm, con luôn chạy theo thời gian. Sau khi xuất gia, con thấy mình không còn cần phải vội vàng nữa. Bây giờ, điều đầu tiên con làm vào buổi sáng là thưởng thức một ly trà với huynh đệ. Con không cần vội vàng mà chỉ uống trà, có mặt cho nhau và thật thư giãn. Ngồi yên được như thế, con nhận ra đó thực sự là thời gian trị liệu cho con”.Sư chú Trời Ruộng Đức

“Ở ngoài đời, con có khuynh hướng đi nhanh vì muốn tiết kiệm thời gian. Bên cạnh đó, với tính chất công việc là một điều dưỡng, con càng phải nhanh hơn để có thể chuẩn bị các dụng cụ cần thiết trước khi bác sĩ tới. Cũng như để kịp chăm sóc bệnh nhân và trao đổi hay giải thích với người nhà của họ. Chính vì vậy, khi mới vào chùa, ai cũng nói con đi như bay. Và bài học đầu tiên của con là tập đi.

Ban đầu sự thực tập đó rất khó với con. Một phần vì đã quen đi nhanh nên con không quán thân được và không nghe được tiếng bước chân của mình, ngay cả khi con giẫm xuống đất rất mạnh. Thứ nữa, con thực tập với tâm trạng là mình đang được quý sư cô để ý tới, mỗi khi mình bước chân ra khỏi phòng là sẽ được nhắc nhở. Nên thấy sư cô đi đằng trước là con đi đằng sau, sư cô đi đường này là mình đi đường khác, cứ vậy mà con trốn tránh. Khiến con có cảm giác mình như một chuyến tàu siêu tốc đang bị dừng lại đột ngột.

Sau đó, con phải tự thực tập bằng cách xem mình như là một em bé đang tập đi và chưa biết giữ thăng bằng. Với ý thức đó, con biết cách dừng lại hơn. Nhưng khi có nhiều công việc hay có chuyện gấp cần làm, con thấy những tập khí cũ vẫn trở về. Theo năm tháng thực tập, con nhận diện được để giảm dần tốc độ của mình, cũng như biết sự vận hành của tập khí đó như thế nào”.

Sư cô Trăng Tường Niệm

“Bồi đắp gốc rễ” – khoá tu cho người trẻ châu Á tại xóm Hạ, Làng Mai – Pháp 2024

“Khi chúng ta tự hỏi: ‘Chúng ta là ai?’ – Nếu bạn có đủ thời gian để nhìn sâu vào chính mình, bạn có thể tìm thấy những câu trả lời. Bạn chính là sự tiếp nối của tổ tiên huyết thống.” 

(Thiền sư Thích Nhất Hạnh)

 

 

Xin mời các bạn trẻ châu Á sinh ra hoặc lớn lên ở phương Tây, cùng trở về khám phá chính mình trong một tuần khoá tu “Bồi đắp gốc rễ” từ 03/05 đến 10/05/2024 tại chùa Cam Lộ, xóm Hạ Làng Mai.

Hòa mình vào dòng chảy của Tăng thân, chúng ta sẽ cùng thực tập từng bước chân ý thức, ăn cơm chánh niệm, chia sẻ pháp đàm,… với sự có mặt trọn vẹn và tình thương đích thực. Để nhận diện và tiếp xúc với gốc rễ huyết thống trong mình, những nét đẹp văn hoá của tổ tiên trao truyền là cả một kho tàng quý giá. Kính mời các bạn trẻ cùng trở về hành trình “Bồi đắp gốc rễ” mà thế hệ tổ tiên đã gửi gắm trong mỗi chúng ta. 

Đăng ký tham dự khoá tu, xin vui lòng truy cập vào đây.

Mọi thắc mắc xin gởi về email: Lh-office@plumvillage.org.

 

Thương yêu chính mình là nền tảng của từ bi

(Trích từ sách Nghệ thuật thiết lập truyền thông của Thiền sư Thích Nhất Hạnh)

Ta thường nghĩ rằng ta biết rất rõ, hiểu rất rõ người ta thương, nhưng không hẳn là như thế. Nếu ta không biết rõ khổ đau của ta thì làm sao ta có thể hiểu rõ khổ đau của một người khác? Không nên tin chắc là ta đã hiểu hết những gì liên quan đến người kia. Ta phải tự hỏi, “Tôi đã hiểu rõ tôi chưa? Tôi đã hiểu rõ khổ đau và nguồn gốc khổ đau của tôi chưa?”

Một khi ta đã có ít nhiều hiểu biết và tuệ giác về khổ đau của chính ta thì ta mới có thể hiểu biết và truyền thông với người khác. Nếu anh không chấp nhận được anh – nếu anh ghét bỏ anh, oán giận anh – thì làm sao anh có thể thương yêu một người khác và truyền đạt thương yêu đến người ấy?

 

 

Hiểu mình là tối thiết để hiểu người khác. Thương mình là tối thiết để thương người khác. Khi đã hiểu rõ khổ đau của mình thì ta sẽ bớt khổ và có thể hiểu rõ hơn khổ đau của người khác. Khi đã biết một người đang đau khổ và thấy rõ nguồn gốc của đau khổ nơi người ấy thì ta khởi tâm từ bi. Ta không còn ý muốn trừng phạt hay trách móc. Ta có thể lắng nghe và nói lời ái ngữ với tâm hiểu và thương. Và người nghe ta sẽ cảm thấy thoải mái vì những lời đầy hiểu và thương của ta.

Trở về quán chiếu tự thân để hiểu rõ khổ đau và gốc rễ của khổ đau là bước khởi đầu. Chỉ khi ta đã hiểu rõ khổ đau và gốc rễ khổ đau của ta thì ta mới có thể truyền thông với người khác và giúp họ bớt khổ. Liên hệ giữa ta và những người khác tùy thuộc khả năng hiểu rõ khổ đau và ước vọng nơi ta và nơi những người ấy. Khi ta thực sự trở về nhà, với chính ta và lắng nghe mình là ta có thể vui sống từng giây phút còn lại của cuộc đời. Ta có thể vui sống từng giây phút. Ta có thể truyền thông một cách tốt đẹp nhờ hơi thở chánh niệm, ta bắt đầu hiểu rõ mình, hiểu rõ khổ đau của ta, và hiểu rõ hạnh phúc của ta. Ta biết cách xử lý khổ đau và từ đó biết cách chế tác hạnh phúc. Và nếu bạn thực sự hạnh phúc thì ai ai cũng được lợi lạc từ hạnh phúc của bạn. Thế giới này đang cần những người hạnh phúc.

Chùm thơ Đất Tổ

(Quý sư cô Diệu Trạm)

Chiều buông xuống, có khoảnh khắc tiếng kinh, nhịp mõ từ xa xăm vọng lại. Lòng người chợt lắng những lao xao. Dừng chân, nghe tình thương khẽ dâng trong tâm hồn, lan tỏa vào vầng dương, vào chồi non xanh biếc, vào vành nôi êm của sự sống…
 
Thương mời bạn thưởng thức những vần thơ mộc mạc được trích từ Chùm thơ Đất Tổ của Quý sư cô Diệu Trạm. Mong rằng giữa muôn vàn náo động của nhịp sống, bạn vẫn có được những phút giây trở về, dừng lại trò chơi đuổi bắt hạnh phúc để tình thương có cơ hội ươm mầm nơi trái tim mình…

 

 

 

Dừng chân

“Quê hương tôi là đây
sớm hôm hương trầm nhẹ bay
vấn vương lời kinh chiều nay vơi đầy…”

Tiếng mõ câu kinh
nhịp nhàng qua khe suối
lời từ bi
gội hết những trần ai.

Chiều nay
có bàn chân ai người lữ khách
qua đây
chợt dừng lại
nghe buông xuống hạt bụi phiêu trần.

Khói trầm nhẹ bay
hương phảng phất
gọi hồn tâm linh trong một chốc
tiếng vũ trụ gọi kẻ lang thang về
dừng chân.

 

Thương

Thương
dòng áo nâu
ban mai chảy dài
trên con đường huyền thoại.

Thương
những bước chân yên
những nụ cười hiền
thương lắm
những tâm hồn trinh nguyên!

Vầng dương lên
chồi non xanh
đất lành
“sự sống níu
trên vành nôi ươm biếc”.

 

Thông

Rừng uy nghiêm
xôn xao nắng gội
ngày mới trong lành.

Cây thở khí thiêng
vươn mình thẳng tắp
rễ ôm sâu lòng đất
bàn tay lá chạm trời xanh.

Dấu xưa
một mái tranh
bàn tay cần mẫn
vùi cho đất những hạt lành
tin ngày mai
hạt trổ mầm xanh.

Sớm nay dấu chân con in dưới những hàng thông
nghe hơi thở hòa vào hồn núi sông thiêng khí
đất trời muôn thuở
dặm con đi tổ tiên che chở, đưa lối dẫn đường.

Vành nôi êm

Em sinh ra tay ai bế ai bồng
Vành nôi êm chào đời những nụ hôn
Dòng sữa hiền nuôi bao ngày khôn lớn
Tình thương — tràn chảy như nắng ấm mùa xuân.

Mẹ dắt tay, chân bước những bước đầu tiên
Chị dạy Em học tiếng nói ngoan hiền
Thở bình an, Em lớn trên đất Bụt
Bài học đầu là tình thương,
hành trang Em mang.

Vành nôi êm tay đưa tiếng à ơi
Lời ru ấm êm Thầy mơ ngày mai lớn lên con làm Thánh Gióng
Vó ngựa cánh bằng
Trượng phu xây chí
Góp kì vĩ núi sông.