Chương 4: Đạo Phật đi vào cuộc đời

56. Đạo Bụt và vấn đề tranh đấu cho hòa bình

H. Liên hệ của đạo Bụt đối với vấn đề công bằng xã hội, hòa bình, và tranh đấu cho hòa bình là như thế nào?

Tl. Chúng tôi đã khởi xướng một phong trào mà chúng tôi gọi là “Đạo Phật Đi Vào Cuộc Đời” (Đạo Phật Nhập Thế). Chúng tôi muốn đưa đạo Phật vào khắp các sinh hoạt của đời sống – không những chỉ trong các chùa mà cả trong xã hội, trường học, gia đình, nơi làm việc, cho đến cả các sinh hoạt chính trị và quân sự. Hiểu và Thương phải có mặt ở khắp nơi.

Có nhiều người trong chúng ta muốn phục vụ cho hòa bình nhưng lại không có hòa bình trong tự thân. Chúng ta kêu gào trong phẫn nộ cho hòa bình, thậm chí ngay cả những nhóm tranh đấu cho hòa bình cũng xung đột mâu thuẫn lẫn nhau. Nếu tâm chúng ta không có bình an thì không thể nào có hòa điệu giữa những người đang hoạt động cho hòa bình được. Và nếu không có hòa hợp thì không có hi vọng. Nếu chúng ta chia rẽ, nếu chúng ta buồn chán thì chúng ta không thể phụng sự, chúng ta không làm được gì hết. Hòa bình phải bắt đầu từ chính chúng ta, từ sự thực tập ngồi yên, từ những bước chân chánh niệm, từ sự chăm sóc cho bản thân, và buông thư những căng thẳng đang có trong thân tâm. Vì vậy, thực tập để có được tâm bình an, thảnh thơi là nền tảng của thực tập xây dựng hòa bình. Tâm bình an, thảnh thơi phải có trước đã và phục vụ cho hòa bình bắt nguồn từ nền tảng đó.

Giây phút khi ta ngồi xuống và thở vào một hơi để cho thân tâm lắng dịu thì hòa bình đang trở thành sự thực. Thở hơi thở như thế chẳng khác gì là dâng lời cầu nguyện. Khi tâm bình an thì ta có thể thiết lập được liên hệ với người khác và có thể giúp người khác cũng có bình an. Cùng với nhau ta tạo thành một tập thể hòa bình, một tăng thân hòa bình. Sự thực tập có khả năng đem lại cho ta sự bình an ngay lập tức. Và khi tâm ta bình an hơn, ta dễ thương hơn, thì ta sẽ thành công hơn khi liên hệ với những người khác để mời họ cùng tham gia công tác xây dựng hòa bình. Khi tâm ta có bình an thì khi nói, khi nhìn, khi phản ứng ta luôn biểu lộ sự hòa bình, và ta có thể thuyết phục những người khác hợp tác với ta trong việc xây dựng hòa bình, hòa giải.

Không thể có hòa bình bằng cách chỉ ngồi lại với nhau rồi bàn bạc và sắp đặt kế hoạch. Phải học thở, học lắng dịu thân tâm, và có khả năng giúp người khác cùng thực tập. Nếu trong ta và trong người kia không có gì gọi là bình an thì tất cả những hoạt động của ta không thể xem là những hoạt động cho hòa bình một cách đúng nghĩa.

Chúng ta phải thực tập hòa bình ở nơi làm, ở nơi ở và trong trường học. Thầy cô giáo phải thực tập sống cho có hòa hợp, an lạc và dạy cho học trò của mình làm được như thế. Tổng thống của một quốc gia, hoặc vị lãnh đạo của một đảng chính trị phải thực tập sống hòa bình, phải luôn cầu nguyện cho hòa bình trước khi mời những nhà lãnh đạo chính trị khác cùng góp phần xây dựng. Lý tưởng nhất là một hội nghị hòa bình nên bắt đầu bằng thiền hành và thiền tọa. Hoặc là có một người hướng dẫn buông thư toàn thân để cho thân tâm không còn căng thẳng, buồn giận, lo sợ. Đó là đưa phẩm chất tâm linh vào đời sống chính trị, xã hội. Đó chính là đạo Phật đi vào cuộc đời.

57. Hăng say nhưng dễ chán nản

H. Nhiều người hoạt động hăng say cho hòa bình nhưng rồi chán nản vì thấy không có tiến bộ. Làm thế nào để tránh tình trạng kiệt quệ?

Tl. Chúng ta phải biết giới hạn của mình. Phải tổ chức đời sống sao cho chúng ta luôn được nuôi dưỡng và trị liệu. Giải pháp nằm ngay trong cộng đồng của chúng ta. Nếu làm việc cùng với một cộng đồng có tu tập, một tăng thân, thì chúng ta sẽ được năng lượng của tăng thân yểm trợ. Khi cảm thấy mệt mỏi vì phải cố gắng thì nên nhờ những anh chị khác trong nhóm giúp vào một tay để mình có thì giờ nghỉ ngơi, phục hồi sức lực rồi sau đó sẽ tiếp tục. Phải có can đảm từ chối, nếu không ta sẽ nhanh chóng đánh mất mình và điều đó sẽ không làm lợi lạc cho ai cả. Học cách từ chối không phải dễ, nhưng không phải là không làm được. Phải phục vụ như thế nào để không tự hủy hoại mình. Các bác sĩ, y tá, những chuyên gia tâm lý trị liệu, thầy cô giáo đều phải làm như thế, phải bảo tồn sức lực để có thể phục vụ lâu dài và giúp ích cho người khác. Gìn giữ sức lực của mình là gìn giữ cơ hội để phụng sự. Vậy thì câu trả lời là chăm sóc, gìn giữ cho bản thân và gìn giữ tâm từ bi. Điều này có thể thực hiện được một cách dễ dàng trong một tăng thân có tu tập.

58. Cứu nguy Đất Mẹ

H. Khí quyển Trái đất đang bị hâm nóng, các loài động vật đang có nguy cơ bị tiêu diệt, sông, biển bị ô nhiễm. Là Phật tử, chúng ta phải làm gì để cứu nguy Đất Mẹ?

Tl. Lần đầu tiên khi các phi hành gia gửi về hình ảnh của Trái đất được chụp từ trong không gian đã làm cho hàng triệu người xúc động khi nhìn thấy quê hương của nhân loại, một hành tinh xanh sống động trong vũ trụ, phì nhiêu, đẹp đẽ, một cõi tịnh độ đích thực, một thiên đường đích thực. Ấy vậy mà loài người chúng ta đã không biết trân quý và bảo vệ, trái lại còn đang hủy diệt Đất Mẹ. Vì thế mà chúng ta cần đến Bụt.

Bụt không phải là thần thánh, Bụt là một người tỉnh thức, một người thấy rõ những gì đang xảy ra. Bụt cũng chính là chúng ta. Vậy thì thực tập giáo lý đạo Bụt để giúp ta và những người xung quanh ta tỉnh ngộ ra rằng chúng ta đang có một hành tinh rất đẹp cần bảo vệ. Cho nên giác ngộ, tỉnh thức là rất quan trọng. Mỗi người trong chúng ta đều có hạt giống của sự tỉnh thức, và vì vậy chúng ta còn hy vọng. Nhờ sự tỉnh thức của cả tập thể mà mọi việc có thể được giải quyết và tiến hành một cách nhanh chóng. Vì vậy, mọi hoạt động mà chúng ta cần làm là phải nhắm tới việc thể hiện sự tỉnh thức tập thể.

Sự tu tập không còn là vấn đề cá nhân mà phải là sự thực tập tập thể. Thầy cô giáo phải thực tập chung với đồng nghiệp của mình và học trò. Các chuyên gia tâm lý trị liệu phải thực tập với bệnh nhân và đồng nghiệp. Các nhà làm phim phải sản xuất các bộ phim có tác dụng khơi dậy sự tỉnh thức. Các nhà báo phải viết những bài báo giúp cho người khác tỉnh thức. Tất cả mọi người ai cũng phải tham gia cổ vũ quảng bá sự tỉnh thức. Tỉnh thức là nền tảng của tất cả mọi sự thay đổi.

Để cho Phật, Pháp hiển lộ ta phải xây dựng tăng thân, đoàn thể của những người thực tập tỉnh thức. Tăng thân là nơi để ta nương tựa. Nương tựa Tăng thân là nương tựa Phật, nương tựa Pháp, và khi nương tựa tăng thân chúng ta sẽ cảm thấy được an toàn. Khi chúng ta có chánh niệm, có chú tâm, có tỉnh thức thì chúng ta là Phật, và tăng thân chúng ta là Phật. Đó là điều mà chúng ta phải thấy. Nếu thấy rõ sự thật ấy thì chúng ta không bao giờ tuyệt vọng. Tuyệt vọng là thảm họa. Tập thể tỉnh thức là hy vọng của chúng ta, là hy vọng của hành tinh chúng ta. Và tập thể tỉnh thức là một việc hoàn toàn có thể thực hiện.

59. Dùng võ lực để tự bảo vệ?

H. Chúng ta phải làm gì khi có người hành hung? Ta có thể dùng võ lực để tự bảo vệ hay không? Một quốc gia có thể dùng võ lực để tự bảo vệ hay không?

Tl. Có nhiều việc chúng ta có thể làm để tránh không bị xâm hại, về thể xác cũng như về tinh thần. Điều đó tùy thuộc vào cách sống hằng ngày của chúng ta. Chúng ta học sống như thế nào để không ai muốn xâm hại ta. Khi biết sống sao cho có tình huynh đệ, có thương yêu thì chúng ta sẽ được năng lượng hiểu biết và thương yêu che chở. Nếu sống có hiểu biết, có thương yêu thì ta sẽ có nhiều bạn bè bảo vệ cho ta. Đây là sự thực tập căn bản. Vì vậy không nên chờ đến lúc bị xâm hại mới học cách đối phó và tự vệ.

Khi còn là một thanh niên trẻ, Bụt rất giỏi võ nghệ. Với tài năng của mình, Bụt có thể đối phó khi bị tấn công. Chúng ta cũng có thể tập khí công hay các phương pháp bất bạo động để tự bảo vệ. Chúng ta ăn uống, nghỉ ngơi, làm việc như thế nào để giữ gìn sức khỏe và tăng cường sức chịu đựng. Chúng ta nuôi dưỡng chánh niệm, định lực và lòng từ bi. Mỗi khi có nguy cơ bị xâm hại, Bụt dùng chánh niệm, định lực, và lòng từ bi để khuất phục đối phương mà không cần phải sử dụng đến võ nghệ.

Sự thiếu hiểu biết sẽ đưa đến sợ hãi và giận dữ, khiến cho ta nghĩ ngay đến súng ống, vũ khí là giải pháp duy nhất. Thế nhưng có rất nhiều phương cách bất bạo động để bảo vệ quốc gia cũng như bảo vệ chính chúng ta. Võ lực là giải pháp cuối cùng. Khi một quốc gia có đoàn kết, khi có một vị lãnh đạo sáng suốt biết đối thoại và lắng nghe sâu thì quốc gia đó có nhiều đồng minh và không cần phải sử dụng đến quân đội nhiều. Thay vào đó quân đội sẽ có thì giờ để sửa đường, xây cầu và giúp dân.

60. Giúp các nhà lãnh đạo

H. Làm thế nào để giúp cho các nhà lãnh đạo trở nên tốt hơn?

Tl. Các nhà lãnh đạo đều có trong họ những hạt giống tích cực cũng như tiêu cực. Họ có thể có những người phụ tá không biết cách tưới tẩm những hạt giống tích cực mà chỉ tưới tẩm những hạt giống của sự sợ hãi, giận dữ, bạo động, và tham lam. Vì vậy, chúng ta phải tìm cách gần gũi các nhà lãnh đạo để giúp đỡ họ. Phản đối là một cách giúp nhưng cần phải khôn khéo để chứng tỏ việc phản đối đó là do tình thương chứ không phải do thù hận.

Các nhà lãnh đạo chính trị cũng như kinh doanh có rất nhiều năng lượng và muốn hoàn thành ý muốn của mình. Những ý muốn của họ có thể là rất lành mạnh. Ví dụ như ý muốn chấm dứt tình trạng ô nhiễm, chấm dứt bất công xã hội, khôi phục hòa bình, cải tạo thế giới. Nhưng điều đó không có nghĩa là họ không có ý muốn có quyền lực, thành công và danh tiếng. Như vậy trong các nhà lãnh đạo thường nhiều ý muốn trái nghịch nhau. Chúng ta có thể giúp họ ý thức hơn về những sở nguyện của họ và chuyển hướng những sở nguyện của họ sao cho hài hòa. Phương pháp là giúp họ hiểu rõ bản thân họ.

Các nhà lãnh đạo thường tin rằng họ biết chính mình, biết thế giới xung quanh, và tất cả những điều họ phải làm là hành động. Thật ra, không ai trong chúng ta hiểu được mình một cách toàn vẹn. Không ai trong chúng ta có thể hiểu thế giới một cách toàn vẹn. Một hành giả cần phải đủ khiêm tốn để nhận ra rằng mình còn cần tìm hiểu thêm về chính mình, tìm hiểu thêm về những khổ đau cũng như tình trạng chung của thế giới.

Chúng ta có thể giúp các nhà lãnh đạo bằng khả năng lắng nghe và dùng lời ái ngữ để giúp họ hiểu thêm về bản thân họ và hiểu thêm về tình hình thế giới. Khi họ hành động, ta mong rằng họ sẽ hành động trong tinh thần của một tăng thân và có khả năng sử dụng tuệ giác của tập thể.

Khả năng thực tập lắng nghe mình, hiểu mình sâu sắc, lắng nghe thế giới và những khổ đau của nhân loại thì đều như nhau, dầu ta là một cá nhân, hay một nhà lãnh đạo chính trị hay một giám đốc kinh doanh. Có nhiều giám đốc kinh doanh muốn làm những việc tốt, muốn sử dụng công ty của mình để hỗ trợ công bằng xã hội và làm cho đời sống xã hội được lành mạnh, nhưng họ gặp rất nhiều khó khăn. Vài người đã phải thỏa hiệp vì nếu không họ có thể bị mất chức hay mất việc. Những nhà lãnh đạo cũng có những khó khăn của riêng họ. Chúng ta không nên trách cứ họ vì những rắc rối trên thế giới. Chúng ta phải hiểu họ trước khi chúng ta có thể giúp họ. Có nhiều cách để tiếp cận các nhà lãnh đạo chính trị. Tất cả chúng ta – những người thợ mộc, thợ máy, nhà báo, nhà văn, đạo diễn phim ảnh, thầy giáo, các bậc cha mẹ, luật sư, y tá – đều có thể viết thư, gọi điện thoại… Chúng ta có thể trình bày ý kiến của mình như thế nào để đánh động ý thức cảnh giác và giúp chuyển đổi tâm thức cộng đồng. Đây là nền tảng cho sự chuyển đổi cách suy nghĩ của chúng ta, giúp cho tất cả thấy rõ sự việc một cách sâu sắc và rõ ràng hơn. Ai cũng có thể làm được việc đó trong đời sống hằng ngày. Nhờ vậy mà ta có thể đóng góp vào sự thức tỉnh của thế giới. Các nhà lãnh đạo chính trị cũng như doanh nghiệp sẽ được lợi lạc. Chúng ta có thể ảnh hưởng đến họ. Nhưng trước khi ảnh hưởng họ ta phải soi sáng cho chính ta.

61. Mục sư Martin Luther King, Jr.

H. Mục sư Martin Luther King, Jr. là một nhà lãnh đạo có khả năng và hiểu biết để có thể chuyển đổi thế giới, đem lại hòa bình và hợp tác. Liệu chúng ta có thể có một vị lãnh đạo như thế nữa hay không?

Tl. Mục sư Martin Luther King, Jr. vẫn còn đó, vẫn đang có mặt trong mỗi người chúng ta. Nghĩa là luôn luôn có sự tiếp nối. Nhưng chúng ta phải để tâm lắm mới có thể nhận ra và góp phần hỗ trợ, giúp đỡ họ. Nhiều khi chúng ta cứ tưởng rằng chúng ta cần phải có một vị lãnh đạo chỉ đường, dẫn dắt chúng ta, như Đức Phật, Thánh Gandhi, hay Martin Luther King, Jr. Nhưng thật ra trong ta đã có Bụt, trong ta đã có Thánh Gandhi, có Martin Luther King, Jr. Giữa chúng ta có sự liên hệ với nhau. Vì vậy mà chúng ta không cần phải chờ một ai khác thực hiện những điều mà chúng ta rất muốn thay đổi cho thế giới.

Một trong những cách chúng ta có thể làm là giúp cho những người giàu và người nhiều quyền lực có thể có hạnh phúc thực sự. Có nhiều người tuy có quyền lực, có nhiều tiền nhưng họ lại rất đau khổ. Họ tin rằng nếu không có quyền lực, không có tiền bạc thì không thể có hạnh phúc. Cách tư duy như thế chính là nguyên nhân dẫn đến chiến tranh và sự bất công trong xã hội. Nếu chúng ta có khả năng giúp cho những người đó nếm được hương vị của hạnh phúc thực sự thì họ có thể thay đổi cách tư duy của họ. Tuy nhiên, để chuyển đổi đường lối suy tư của họ mà chỉ nói suông thì không được. Ta phải làm một điều gì khác nữa. Ta phải chứng tỏ là ta thực sự có hạnh phúc mặc dù ta không có nhiều tiền bạc và quyền lực. Theo lời Bụt dạy, tất cả mọi người đều có hạt giống giác ngộ. Nếu chúng ta có thể khơi dậy hạt giống giác ngộ trong những người đó thì họ sẽ buông bỏ cách tư duy cũ và hết lòng phụng sự cho lý tưởng hòa bình. Bằng cách đó ta có thể giúp tiếp nối sự nghiệp của mục sư Martin Luther King, Jr. trên khắp thế giới.

62. Dung hòa công lý và từ bi

H. Là một thẩm phán xử án, làm thế nào để tôi có thể dung hòa công lý và từ bi?

Tl. Công lý đích thực thì phải có từ bi. Một người phạm pháp gây nên tai hại không chỉ cho nạn nhân mà cho cả chính anh ta. Ai cũng biết rằng khi nói một điều gì thiếu khôn khéo, một điều mà gây hại cho liên hệ tình cảm giữa hai bên thì chính mình cũng bị đau khổ. Vì ta thiếu khôn khéo, thiếu chánh niệm, và thiếu từ bi cho nên ta đau khổ và làm cho người khác cũng đau khổ. Có thể là ngay lúc đó ta không cảm thấy đau khổ nhưng về sau ta sẽ đau khổ. Nguyên nhân chính của hành động tai hại này là do u mê (vô minh) và thiếu khôn khéo.

Nếu ta biết cách nhìn sâu vào một người mà ta gọi là phạm nhân ta sẽ phát sinh lòng thương. Xã hội đã tạo nên một con người như thế. Anh ta đã sanh ra trong một hoàn cảnh mà những điều kiện xã hội, cha mẹ, và nhiều ảnh hưởng khác đã tạo nên tánh nết của anh ta và khiến anh ta hành xử như thế. Anh ta thực sự là một nạn nhân của hoàn cảnh. Anh ta được sinh ra đời và từ khi sinh ra đã là nạn nhân. Không ai giúp đỡ anh ta – những nhà giáo dục, những nhà lập pháp, những chính trị gia, những doanh nhân, những nhà hoạt động nhân quyền, không ai giúp anh ta vì vậy mà anh ta nên nông nỗi. Người ta xử tử anh ta và cho đó là công bằng. Nhưng tôi thì cho đó là thiếu công bằng vì có ai giúp anh ta bao giờ đâu. Phần lớn chúng ta là sản phẩm của xã hội và môi trường sinh sống. Nếu thấy được như thế, nếu nhận ra được tính tương tức của hành động phạm pháp thì ta sẽ khởi được tâm từ bi, và sẽ nhẹ tay trong việc trừng phạt. Nhìn sâu sẽ giúp cho ta hiểu và thương. Nhờ có hiểu biết và lòng từ bi mà ta có thể hiến tặng một luật pháp chứa đựng sự công bằng, kiên nhẫn, và bao dung. Không những chúng ta phối hợp công bằng và từ bi mà chúng ta còn chứng tỏ được rằng công bằng đích thực thì phải có từ bi và hiểu biết.

63. Đạo Phật và án tử hình

H. Quan điểm của đạo Phật về án tử hình như thế nào? Giả sử có người giết chết mười em bé, tại sao lại để cho anh ta được sống?

Tl. Mười mạng người đã bị giết, tại sao ta lại muốn giết thêm người thứ mười một? Một người giết chết mười đứa trẻ thì đó là một kẻ bệnh hoạn. Nếu giết anh ta thì sẽ không giúp được gì cho anh ta mà cũng chẳng giúp ích gì cho chúng ta. Khi có nhiều người như anh ta trong xã hội, nếu quán chiếu cho sâu sắc ta sẽ thấy có gì sai trái trong xã hội cho nên mới có những kẻ sát nhân như vậy. Bằng cái nhìn tương tức ta có thể thấy những yếu tố đã tạo ra một người như anh ta. Từ đó mà chúng ta có nhiều cảm thông hơn. Ta thấy rằng anh ta cần được giúp đỡ chứ không phải chỉ đáng bị trừng phạt. Cố nhiên anh ta phải bị bắt giam vì sự an toàn cho xã hội, nhưng đó không phải là việc duy nhất mà ta có thể làm.

Nhiều quyển sách dạy thiền tập, những tạp chí Phật giáo, thậm chí các buổi pháp thoại cũng đã được tổ chức trong tù, và nhiều tù nhân đã bắt đầu thực tập đạo Bụt. Một số tù nhân đã học được cách sống bình an, ngay cả ở trong tù. Tôi có nhận được nhiều bức thư của các tù nhân sau khi đã đọc sách của tôi. Một tù nhân đã viết: “Khi nhìn các bạn tù chạy lên chạy xuống cầu thang, tôi có thể thấy họ đang đau khổ không yên. Tôi hy vọng họ có thể làm như tôi là đi lên đi xuống cầu thang trong chánh niệm và theo dõi hơi thở. Khi thực tập như thế tôi cảm thấy bình an và có thể thấy rất rõ nỗi khổ đau của các tù nhân khác.” Người tù đó đã có thể khởi lên tâm từ bi.

Vì thế trừng phạt không phải là giải pháp duy nhất. Chuyển hóa và trị liệu vẫn có thể có được ngay cả trong những trường hợp khó khăn như vậy. Giết một người nào đó chỉ biểu lộ sự yếu đuối của chính chúng ta mà thôi, vì chúng ta không biết làm gì khác hơn. Giết người là một tiếng kêu tuyệt vọng. Nhưng chúng ta có thể cùng nhau thực tập nhìn sâu để tìm ra một phương thức tốt hơn án tử hình.

64. Làm việc tại một hãng sản xuất chất độc

H. Giả sử tôi đang làm việc tại một hãng sản xuất chất độc, một công ty bán những sản phẩm gây hại hay một tổ chức gây xung đột trong quần chúng. Làm thế nào để tôi có thể vừa giúp người khác vừa tiếp tục làm việc tại các nơi đó? Tôi có nên bỏ việc hay không?

Tl. Một ngày kia có một người lái một chiếc xe hơi sang trọng đến gặp tôi. Ông ta nói rằng ông đang phụ trách thiết kế đầu đạn hỏa tiễn mang bom nguyên tử. Tâm trí ông ta rất bất an vì phải làm công việc tàn hoại ấy. Ông ta hỏi tôi rằng ông ta có nên thôi việc đó hay không? Sau khi suy nghĩ, tôi khuyên ông ấy có thể tiếp tục công việc của mình nhưng làm việc với chánh niệm. Mặc dù công việc của ông ấy mang tính chất tàn hoại, nhưng ông ta là một kỹ sư có lương tâm. Ông ta biết mình đang làm gì. Thế giới cần những người có chánh niệm làm những việc như ông ấy đang làm. Nếu ông ấy từ chức thì sẽ có một người khác thay thế ông mà không có chánh niệm và khi đó tình trạng sẽ tồi tệ hơn nhiều.

Những người làm các công việc đòi hỏi nhiều nỗ lực như: xây cất, cảnh sát, bác sĩ phòng cấp cứu, cũng như tất cả chúng ta, đều có thể thực tập chánh niệm, thậm chí trở thành người hướng dẫn thực tập chánh niệm. Vị luật sư có thể thực tập nhìn sâu với hiểu biết, thương yêu, đồng thời giúp cho thân chủ của mình nhìn sâu để có thể chuyển hóa và trị liệu. Lẽ tất nhiên luật sư phải bào chữa cho khách hàng của mình trước tòa, nhưng ông ta cũng có thể nói lên tiếng nói của lòng mình. Ông ta có thể nói cho khách hàng của mình những gì ông biết từ đối phương để giúp khách hàng hiểu được quan điểm của đối phương. Khi một vị luật sư trần tình trước tòa ông ta có thể tưới tẩm hiểu biết và thương yêu trong lòng mọi người kể cả quan tòa. Đây là một điều rất quan trọng. Cách hành xử như thế sẽ được nhiều người biết đến và tán thưởng.

Một chính trị gia có chánh niệm sẽ hành xử theo lương tâm và tuệ giác độc lập của mình. Ông ta có thể bỏ phiếu trong chánh niệm. Lòng chân thành và thiện chí của ông sẽ được những người đồng chí hướng với ông cảm thông và được dân ủng hộ. Vì vậy, áp dụng sự tu tập, thể hiện được phẩm chất tâm linh vào công việc là rất quan trọng. Chúng ta cần những người như thế trong xã hội.

Để thành một người hoàn toàn giác ngộ, một vị Bụt, chúng ta phải tu tập. Vì vậy, Năm sự thực tập chánh niệm (Năm giới) là rất cần thiết, vì chúng ta là những người chưa giác ngộ. Chúng ta không cần phải giữ Năm giới một cách toàn hảo. Tiến từng bước đúng hướng tu tập là tốt rồi. Vấn đề không phải là luôn luôn hành động một cách toàn hảo mà là luôn luôn tinh tấn, tiến bộ trên đường tu tập. Nếu trong trường hợp công việc buộc ta phải sống đời sống ngược với tinh thần của Năm giới thì ta nên nuôi hy vọng là một ngày nào đó ta sẽ thoát ra khỏi hoàn cảnh hiện tại và tìm được một nghề không gây hại cho loài người hay thiên nhiên. Trong khi đó, có nhiều việc mà ta có thể làm như thảo luận với đồng nghiệp của mình hoặc ta có thể giáo dục những người khác. Có được một nghề nghiệp tốt là rất quan trọng. Nhưng sống chân thật, hiền hòa, sống theo con đường tâm linh còn quan trọng hơn. Ta có thể chọn một việc làm khác nhẹ nhàng ít áp lực hơn để giúp ta sống đơn giản mà hạnh phúc. Điều quan trọng là không nên nhân nhượng một khi ta đã quyết tâm thực tập chánh niệm, sống với sự hiểu biết và tình thương yêu.

65. Thử nghiệm y dược trên thú vật

H. Tôi rất thương động vật và tôi ăn chay. Nhưng tôi là chuyên viên dùng thú vật để kiểm soát tác dụng an toàn của thuốc trên con người. Làm sao tôi có thể giải tỏa xung đột trong lòng vì phải làm những việc ấy?

Tl. Nếu thú vật biết tổ chức một cuộc biểu tình thì chắc là chúng sẽ kéo nhau đến phản đối trước phòng thí nghiệm. Chúng ta ở trong thế mạnh nên chúng ta đã dùng chúng để tìm cách cải thiện đời sống con người. Anh đã dùng thú vật vì lợi ích cho loài người. Anh đại diện cho tất cả chúng tôi. Anh nhân danh chúng tôi mà làm. Chúng tôi cùng với anh liên đới chịu trách nhiệm. Chúng tôi cùng đau khổ với anh trong việc anh làm. Và chúng tôi đang tìm cách để giảm bớt khổ đau của các loài vật, cây cỏ và đất đá. Điều mà ta có thể làm là nói cho mọi người cùng biết những gì đang xảy ra, bởi vì nhiều người trong chúng ta không biết gì cả. Chúng ta đã không quan tâm đủ. Chúng ta không biết rằng các thú vật đã bị đau đớn biết dường nào. Anh là ngọn lửa trên đầu ngọn nến. Hãy nói cho mọi người biết đến sự đau đớn của các con vật ấy để chúng tôi cùng với anh chia sẻ trách nhiệm. Như thế anh có thể cảm thấy đang được nâng đỡ trong quyết tâm sống đời sống sâu sắc và chánh niệm. Và cùng với anh, tất cả chúng ta thực tập quán chiếu sâu sắc để có tuệ giác tìm ra được phương pháp làm giảm thiểu tối đa sự đau đớn cho thú vật. Anh hãy tiếp tục công việc anh đang làm, nhưng tiếp tục với chánh niệm. Tôi tin rằng anh sẽ phát huy tuệ giác, và với tuệ giác đó sẽ giúp anh cải thiện công việc như thế nào đó để cho các thú vật cũng được lợi ích. Hãy làm bằng tâm từ bi mà đừng làm việc vô tâm như cái máy. Là một con người, hãy nuôi dưỡng và gìn giữ mãi tâm từ bi. Hãy sống cho có chánh niệm và giúp cho mọi người cùng sống trong chánh niệm. Anh đang vì tất cả chúng tôi mà làm công việc đó, và chúng tôi cùng chịu trách nhiệm với anh về tất cả những việc mà anh đang làm.

66. Nghệ sĩ có thể đóng góp được gì?

H. Trong thời đại chiến tranh và tuyệt vọng này, các nghệ sĩ như chúng tôi có thể đóng góp được gì để giúp đời?

Tl. Bằng nếp sống, bằng những tác phẩm nghệ thuật của mình ta đang đóng góp cho công việc thức tỉnh cộng đồng. Vị Bồ tát là một người tỉnh thức, có chánh niệm, và mang chí nguyện giúp cho những người khác thức tỉnh. Nghệ sĩ, diễn viên, đạo diễn phim ảnh, văn sĩ, tất cả đều có thể có chí nguyện trở thành một vị Bồ tát giúp người khác thức tỉnh, giúp người khác tiếp xúc được với hạt giống của thảnh thơi, bình an, và hạnh phúc, giúp họ cởi bỏ, chuyển hóa những hạt giống của kỳ thị, sân hận và tham đắm. Người nghệ sĩ có thể làm được tất cả những việc đó. Nếu hành động của ta được thúc đẩy bởi chí nguyện giúp đời thì niềm vui và năng lượng của ta sẽ tràn ngập. Khi đó, danh vọng, quyền lực sẽ không lôi cuốn được ta. Không gì có thể so sánh với niềm vui khi biết rằng sự có mặt của ta trên cuộc đời này thật đẹp và hữu ích.

Một hôm tôi gặp một vị học giả Phật giáo ở New York. Tôi nói chuyện với bà ta về việc tôi thực tập chánh niệm khi làm vườn rau. Mỗi ngày tôi dành thời giờ để chăm sóc các loại rau thơm, cà chua, xà lách và các loại rau khác. Tôi làm việc với rất nhiều niềm vui. Bà ta nói: “Thầy không nên phí thời giờ trồng rau. Thầy nên dành thời giờ để làm thơ. Thơ Thầy viết rất hay. Ai cũng có thể trồng rau được, nhưng ít ai làm được thơ hay như Thầy.” Tôi trả lời với bà: “Nếu tôi không trồng rau thì tôi sẽ không làm thơ được.”

Khi đang chăm sóc cho cụm rau cải hoặc tưới vườn, tôi không nghĩ tới làm thơ hay viết lách. Tôi chú tâm hoàn toàn vào việc chăm sóc cây cải hay tưới cây. Tôi vui thích từng giây phút và làm việc đó trong trạng thái tĩnh lặng, không-suy-nghĩ. Ngừng suy nghĩ có lợi ích rất nhiều. Tác phẩm nghệ thuật được hình thành từ trong sâu thẳm của tâm thức khi mà ta không suy nghĩ gì về nó. Lúc thể hiện tác phẩm nghệ thuật chỉ là lúc khai sinh, là lúc ta đưa “em bé” ra đời. Theo tôi phải cần một thời gian để em bé nghệ thuật trong ta lớn lên, để đạt được mức toàn diện, và tác phẩm của ta khi đó sẽ chứa đựng tuệ giác, hiểu biết và thương yêu.

Một tác phẩm nghệ thuật có thể giúp người ta hiểu rõ được bản chất khổ đau của thực tại, chứa đựng tuệ giác giúp chuyển hóa những hạt giống tiêu cực và phát triển những hạt giống tích cực. Viết văn hay làm phim có thể là một hành động yêu thương. Hành động yêu thương ấy nuôi dưỡng ta và nuôi dưỡng nhiều người khác. Nếu ta hạnh phúc, nếu ta biết sống sâu sắc từng giây phút của cuộc đời thì khả năng hiểu sâu, thương yêu, và niềm vui sẽ đến. Tác phẩm nghệ thuật của ta sẽ phản ánh được những điều đó và đi vào lòng người.

67. Vui sống khi có nhiều người đau khổ?

H. Làm sao ta có thể vui hưởng cuộc sống trong khi có quá nhiều người đang đau khổ?

Tl. Khi ta có được một phút bình an, vui vẻ mà ta cảm thấy tội lỗi thì mặc cảm tội lỗi đó sẽ phá tan giây phút bình an vui vẻ của ta. Khi mà ngay cả giây phút bình an vui vẻ đó của ta cũng bị phá hủy thì sẽ không còn gì là hy vọng cho ta và cho thế giới. Vì vậy, ta phải giữ lấy giây phút bình an vui vẻ ấy như là nền tảng cho mọi hành động của ta. Tuyệt vọng là một tai nạn lớn nhất có thể xảy đến cho tất cả chúng ta, nhất là khi sự tuyệt vọng đó trở thành sự tuyệt vọng tập thể. Học cách để xử lý tuyệt vọng là điều rất quan trọng, đừng bao giờ để cho nỗi tuyệt vọng phá hủy tất cả, nhất là phá hủy cả những gì tốt lành đang còn lại trong ta.

Khi ta có khả năng thở những hơi thở chánh niệm và bình an, khi ta có thể bước những bước chân an lạc, thảnh thơi, thì không phải ta đang sống ích kỷ mà kỳ thật ta đang làm điều đó cho tổ tiên, cho con cháu của ta trên khắp thế giới. Tuệ giác không thể nào phát sinh khi ta thực tập thiền đi mà không có niềm vui thú trong khi đi. Nếu ta có khả năng đi thiền hành trong bình an thì nhân loại sẽ còn hy vọng. Ta phải thấy được như thế. Tuệ giác là hoa trái của chánh niệm. Khi ta ý thức rằng ta có thể làm một điều gì đó để cống hiến trong từng giây phút của sự sống hằng ngày thì ta không còn là nạn nhân của tuyệt vọng và ta có thể khích lệ được những người xung quanh nữa. Khi ta cảm thấy bi quan thì đừng để tình trạng đó kéo dài. Cố nhiên là có những khổ đau xảy ra khắp nơi trên thế giới, nơi bản thân, trong gia đình và ngoài xã hội. Nhưng nếu ta đang làm hết khả năng của mình, hành xử một cách tốt đẹp nhất, thì vẫn còn hy vọng là sẽ có những người khác cũng hành xử như ta. Hãy hành xử một cách tốt đẹp nhất và đóng góp hết khả năng của ta. Và điều đó sẽ gây ảnh hưởng lan truyền. Những người khác khi nhìn vào ta họ sẽ phát sinh cảm hứng để làm theo. Có can đảm để sống đời sống hàng ngày với lòng yêu thương và tỉnh thức là một đóng góp tích cực của chúng ta.

68. Để giữ vững niềm tin

H. Thế giới hiện nay đầy rẫy điên cuồng và bạo động. Làm thế nào để không đánh mất niềm tin vào con người và không bỏ cuộc?

Tl. Có một sự thực tập gọi là Quay Về Nương Tựa. Khi ta muốn có được một cảm giác an toàn, bình an, thấy mình được bảo vệ, mà không biết cách thực tập nương tựa thì ta sẽ đánh mất sự an lạc, và sẽ cảm thấy trong lòng đầy bất an. Ta sẽ đau khổ và làm cho những người khác cũng đau khổ. Cho nên trong trường hợp bị xao động, đau khổ tràn ngập, ta phải thực tập trở về nương tựa nơi Bụt – Bụt trong chính tự thân ta. Mỗi chúng ta đều có Phật tánh, có khả năng trầm tĩnh, khả năng hiểu biết và thương yêu. Trở về nương tựa nơi hải đảo bình an trong ta, chúng ta có thể bảo tồn được nhân tính, giữ vững được niềm tin, bình an và hy vọng. Sự thực tập này vô cùng quan trọng. Khi thực tập được như thế, ta sẽ trở thành một hải đảo bình an, từ bi cho chính bản thân ta và sẽ gây cảm hứng cho nhiều người khác cùng làm theo.

Cũng giống như một chiếc thuyền vượt qua đại dương. Nếu gặp bão tố mà tất cả mọi người trên thuyền đều hoảng loạn thì chiếc thuyền sẽ bị lật úp. Nhưng nếu có một người trên thuyền giữ được bình tĩnh thì người ấy sẽ ảnh hưởng đến những người khác và giúp cho họ cũng giữ được bình tĩnh. Khi đó thì mọi người trên thuyền cũng có hy vọng. Ai là người có thể giữ bình tĩnh trong tình huống đó? Trong đạo Bụt câu trả lời là: “chính ta”.

69. Phá thai và Giới Thứ Nhất

H. Quyết định phá thai là một quyết định khó khăn nhưng đôi khi cần thiết. Có phải sự phá thai luôn luôn đi ngược với Giới Thứ Nhất hay không?

Tl. Bảo vệ sự sống là sự thực tập căn bản của đạo Bụt. Phá thai là một hành động tàn hoại, hủy diệt sự sống, không chỉ sự sống của thai nhi mà cả sự sống của chính ta. Bởi vì khi phá thai thì một phần của chúng ta cũng bị hủy diệt, và ảnh hưởng của sự hủy diệt đó kéo dài rất lâu. Vì thế, chúng ta phải cố gắng hết sức để sống và hoạch định đời sống như thế nào đó để không phải đối điện với một quyết định đau lòng như thế. Nguyên tắc là áp dụng phương pháp y khoa phòng ngừa. Nếu chúng ta chờ đến lúc xảy ra cơ sự mới giải quyết thì đã quá trễ. Vì vậy, chúng ta phải ý thức đến nếp sống của chúng ta, chuẩn bị mọi trường hợp, phải ngăn ngừa mọi tình huống xấu có thể xảy ra để chúng ta không phải thực hiện những quyết định đau lòng như vậy.

Khi mà sự việc đã xảy ra thì dù quyết định như thế nào cũng sẽ gây đau thương. Chúng ta phải nhìn sâu vào từng hoàn cảnh mà không nên giáo điều. Phải xem xét từng trường hợp một để thấy một cách uyển chuyển, thông minh và từ bi. Không có một câu trả lời chung cho tất cả mọi trường hợp. Chúng ta cần đến tuệ giác của nhiều người xung quanh ta, nhất là những người thân trong gia đình hay bạn bè. Đây không chỉ là để cho bản thân ta được yên lòng mà là để tránh gây thêm đau khổ. Nếu biết chắc rằng hành động đó sẽ gây thêm đau khổ thì không nên hành động. Trái lại, nếu hành động đó có thể chấm dứt đau khổ thì nên hành động. Phần lớn các trường hợp, phá thai không phải là giải pháp hay. Nhưng trong một vài trường hợp, không phá thai có thể sẽ gây thêm đau khổ cho người mẹ và cho nhiều người khác.

Nếu ta là một hành giả thực tập theo đạo Bụt và đã quy y Phật, Pháp, và Tăng thì mọi quyết định của ta phải dựa trên nền tảng của sự thực tập quy y Tam Bảo. Ta phải hành xử theo tinh thần của Bụt, nghĩa là phải chánh niệm về những gì đang xảy ra ngay bây giờ, những gì đã xảy ra trong quá khứ, những đau khổ có thể xảy đến trong tương lai nếu ta quyết định hành động. Hành động của ta có xuất phát từ tâm từ bi thực sự không hay chỉ gọi đó là từ bi? Ta phải hành xử theo tinh thần của Pháp, có nghĩa là phải thực tập chánh niệm, ý thức rõ những gì đã xảy ra trong quá khứ, đang xảy ra trong hiện tại, và sẽ xảy ra trong tương lai. Chúng ta cũng cần tham khảo tuệ giác tập thể của tăng thân. Tăng thân sẽ xem xét trường hợp của ta với tất cả sự chú tâm và chánh niệm, và có thể tìm ra tuệ giác để hướng dẫn cho ta. Sau khi tham vấn với tăng thân, làm theo lời khuyên của tăng thân thì ta không có gì để lo lắng nữa. Ta đã trải lòng và lắng nghe Bụt, Pháp và Tăng một cách sâu sắc và bây giờ trách nhiệm là trách nhiệm chung. Ta sẽ không còn đơn độc. Ta đã nương tựa vào sự thực tập trong ý nghĩa sâu sắc nhất.

70. Vấn đề đồng tính luyến ái

H. Xin cho biết quan điểm của đạo Phật về vấn đề đồng tính luyến ái.

Tl. Tinh thần của đạo Phật là vô phân biệt. Nhìn đám mây một cách sâu sắc ta thấy cả vũ trụ. Nhìn bông hoa cho sâu sắc ta thấy cả vũ trụ. Mỗi sự vật đều có vị trí riêng nhưng bản thể của tất cả chỉ là một. Nhìn những đợt sóng trên đại dương ta thấy những con sóng có khi lớn có khi nhỏ, muôn hình, muôn vẻ. Nhưng bản thể của con sóng nào cũng là nước. Cho dù bạn sinh ra là một người đồng tính luyến ái nhưng bản thể của bạn cũng giống tôi. Chúng ta tuy khác nhau nhưng đều hiện hữu như nhau. Paul Tillich, nhà thần học theo đạo Tin Lành có nói rằng Thượng đế là bản thể của hiện hữu. Bạn hãy là chính mình. Nếu Thượng đế đã tạo nên tôi là một đóa hồng thì tôi phải chấp nhận tôi là một đóa hồng. Nếu bạn sinh ra là một người đồng tính luyến ái thì bạn nên chấp nhận. Hãy quán chiếu bản chất để thấy rõ con người thật của mình. Khi bạn tiếp xúc được với bản thể của bạn thì bạn sẽ tìm được sự bình an.

Nếu ta là nạn nhân của sự kỳ thị thì cách giải thoát không chỉ đơn giản là oán trách. Bất công không thể chỉ giải tỏa bằng cách chấp nhận mà bằng khả năng tiếp xúc bản thể của chính mình. Sự kỳ thị, áp bức và thiếu bao dung xuất phát từ sự mê muội và thiếu hiểu biết. Nếu ta có khả năng tiếp xúc với bản thể của ta thì ta không còn đau khổ vì kỳ thị và áp bức nữa. Nếu có ai đó kỳ thị ta vì chủng tộc, vì màu da hay vì giới tính là do những người đó còn mê muội, không nhận ra bản thể của chính họ. Họ không biết rằng chúng ta cùng chung một bản thể, vì vậy nên họ đã kỳ thị ta.

Người kỳ thị người khác, gây đau khổ cho người khác là một người đau khổ. Ngay khi ta tiếp xúc được với chiều sâu và tự tánh bản thể của mình thì ta có thêm sự hiểu biết, từ đó ta phát khởi được tâm từ bi và bao dung. Khi đó, ta có thể tha thứ được cho những ai đã kỳ thị ta. Đừng nghĩ rằng giải thoát có được là do xã hội có sự công bằng để giúp ta vơi bớt những khổ đau. Giải thoát đích thực là khi ta có khả năng nhìn sâu.

Khi đau khổ vì bị kỳ thị, ta luôn cảm thấy như có gì thôi thúc ta phải nói ra. Nhưng dù cho ta có nói lên lời tố cáo thì cả ngàn năm ta vẫn còn đau khổ. Chỉ có sự hiểu biết sâu sắc và cởi bỏ ngu muội mới có thể giải phóng khỏi đau khổ cho ta. Một khi ta đã chọc thủng được bức màn vô minh ấy thì tâm từ bi sẽ dâng tràn. Với tâm từ bi đó ta có thể ôm ấp, chấp nhận ngay cả những người đã từng kết án ta. Chỉ khi nào ta khởi tâm phát nguyện giúp đỡ những người khác cũng là nạn nhân của sự vô minh, thì ta mới thoát khỏi đau khổ cũng như thoát khỏi ý tưởng bị ngược đãi. Đừng chờ đợi xung quanh ta thay đổi. Ta phải thực tập để tự giải phóng mình. Khi đó ta sẽ được trang bị đầy đủ năng lượng của từ bi và hiểu biết. Chỉ có những năng lượng đó mới có thể giúp chuyển đổi một xã hội đầy bất công và kỳ thị. Ta phải trở thành một người hiện thân cho sự bao dung, hiểu biết và thương yêu. Ta tự chuyển hóa mình thành một công cụ để thay đổi xã hội và thay đổi tâm thức cộng đồng của nhân loại.

71. Do Thái và Palestine

H. Làm thế nào để những người Israel và những người Palestine hòa giải?

Tl. Chúng ta chia cách nhau vì những nhãn hiệu, những danh từ như “người Israel”, “người Palestine”, “Phật giáo”, “Do Thái giáo”, “Hồi giáo”. Khi nghe đến một trong những danh từ đó, tâm trí ta khởi lên một hình ảnh và ngay tức khắc chúng ta muốn loại trừ hay xa lánh họ. Chúng ta tự tạo ra những đường lối suy nghĩ gây chia cách và gây đau khổ cho nhau. Vì vậy, khám phá ra nhân tính nơi người kia và giúp người kia khám phá ra nhân tính nơi ta là một điều rất quan trọng. Cùng là con người, chúng ta không khác gì nhau. Nhưng đôi khi vì bao nhiêu lớp nhãn hiệu nên đã không cho phép chúng ta nhìn nhau như những con người. Tự cho mình là một “Phật tử” có thể là một bất lợi, vì cái nhãn hiệu “Phật tử” đó có thể gây trở ngại khiến cho người kia không thể tiếp cận để khám phá được nhân tính nơi ta. Với những người “Thiên Chúa giáo”, “Do Thái giáo”, “Hồi giáo” cũng vậy. Những danh xưng ấy có thể là một phần quan trọng để nhận diện ta nhưng đó không phải là toàn bộ con người ta. Con người bị kẹt vào những ý niệm và hình ảnh tự mình tạo ra và không thể nhận ra nhau như những con người. Lột bỏ đi tất cả mọi nhãn hiệu để cho bản chất con người được hiển lộ đích thực là một sự thực tập cho hòa bình. Bởi vì người ta rất dễ bị kẹt vào danh xưng và nhãn hiệu cho nên chúng ta cần phải sử dụng ngôn ngữ từ ái khi ta đề cập đến vấn đề bất công với họ.

Trong mọi tranh chấp cả hai bên đều đau khổ vì bị đối xử bất công. Đây là một điều tối quan trọng. Phải hiểu như thế mới được. Rồi khi hiểu biết và thương yêu phát sinh trong tim thì những độc tố của sự giận dữ, hung bạo, thù ghét, và tuyệt vọng sẽ được chuyển hóa. Con đường rất là rõ ràng. Giải pháp duy nhất là lấy những độc tố ấy ra và thay vào đó là tuệ giác và thương yêu. Khi đó chúng ta sẽ đến với nhau như những con người mà không để cho những nhãn hiệu bên ngoài như “Phật giáo”, “Do Thái giáo”, “Hồi giáo”… lừa gạt. Đây là một tiến trình giải phóng, giải phóng khỏi những ý niệm, giải phóng khỏi u mê và thói quen kỳ thị. Đất Mẹ của chúng ta rất đẹp và có đủ chỗ cho tất cả chúng ta, vậy mà chúng ta cứ giết hại nhau. Nhưng khi chúng ta có thể xem nhau như những con người, mỗi người mỗi khổ đau, thì chúng ta không có can đảm để bắn giết nhau nữa. Chúng ta sẽ cùng nhau hợp tác để tìm ra cơ hội cho tất cả chúng ta được sống hòa bình và an lạc.

72. Giúp ích gì cho đời

H. Nếu đạt được trạng thái bình an sâu sắc và thương yêu thì giúp ích gì cho đời?

Tl. Có thể giúp đời bằng nhiều cách. Trước hết là giúp bằng phong thái bình an, thương yêu. Đó đã là một sự đóng góp lớn. Hơn nữa khi ta thể hiện phong thái bình an và thương yêu thì tất cả hành động của ta đều là hành động cho hòa bình và thương yêu. Ta sẽ không ngần ngại làm những việc có ích lợi cho nhân loại. Giống như Bụt, ta mang một chí nguyện kiên cường ra giúp đời. Một khi ta đạt được bình an và thương yêu thì ta không thể ngồi yên mà không giúp đời. Ta luôn luôn đi tới. Bụt đã giác ngộ và Ngài đã có một tăng đoàn, vậy mà Bụt vẫn không ngừng làm việc và thực tập. Tăng đoàn của Ngài càng ngày càng lớn mạnh. Trong khi Bụt dạy cho các đệ tử của Ngài có khả năng giáo hóa, Bụt vẫn tiếp tục giảng dạy và thực tập. Nếu anh nghĩ rằng công việc của anh đã xong là anh lầm. Không bao giờ xong. Anh phải tiếp tục. Thương yêu là vô tận, lòng từ bi là vô tận. An lạc cũng là vô tận.

Chương 3: Đời sống tâm linh

37. Tại sao thực tập chánh niệm lại quan trọng?

H. Tại sao thực tập chánh niệm lại quan trọng như vậy?

Tl. Trong chúng ta ai cũng có khả năng sống chánh niệm. Dù ít hay nhiều ai cũng có chánh niệm. Vấn đề là làm sao để có chánh niệm nhiều hơn. Nhiều người đánh mất mình trong tiếc nuối quá khứ hoặc lo lắng về tương lai. Họ mải mê theo đuổi những dự án hay tưởng tượng mông lung, tâm ở một nơi, thân ở một ngả. Nếu thân và tâm ta không hợp nhất với nhau thì ta không thực sự đang sống. Bước chân chánh niệm hay hơi thở chánh niệm đem tâm ta về với thân, để ta thực sự có mặt ngay giây phút bây giờ, ở đây và thực sự sống có tỉnh thức. Thực tập chánh niệm được xem như là một sự tái sinh, bỗng nhiên ta trở nên sống động. Chánh niệm làm tăng cường định lực, giúp cho ta nhìn thấy sự vật một cách sâu sắc hơn và ta không còn là nạn nhân của những tri giác sai lầm nữa. Ta không còn gây đau khổ cho mình và cho người khác. Ta sẽ cảm thấy yêu đời hơn, muốn giúp cho những người khác cùng vui sống. Ta không thể bắt buộc người khác sống chánh niệm nhưng nếu ta thực tập và có hạnh phúc thì ta có thể gây cảm hứng cho những người khác cùng thực tập.

38. Nhìn sâu

H. Một trong những từ ngữ hay được dùng nhất trong khi giảng dạy Phật pháp là “nhìn sâu”. Nhìn sâu có nghĩa như thế nào?

TL. Nhìn sâu có nghĩa là định tâm trên một đối tượng và ý thức sâu sắc về đối tượng đó. Chúng ta sử dụng năng lượng của chánh niệm để ôm lấy đối tượng và chú tâm vào đối tượng ấy. Chúng ta không chỉ dùng mắt để nhìn sâu mà còn dùng cả tai. Nhìn sâu và lắng nghe sâu đều có cùng một bản chất. Ta có thể lắng nghe ta, lắng nghe người khác, nhờ đó mà ta có hiểu biết hơn và phát sinh ra tuệ giác. Tất cả chúng ta đều có mắt, tai nhưng nếu không có năng lượng của chánh niệm thì chúng ta không thể nhìn sâu hay lắng nghe sâu được.

Ta có thể nhìn sâu cho dù ta nhắm mắt hay bịt tai. Ví dụ như khi lắng nghe hơi thở ta không cần dùng mắt hay tai. Khi tâm ta có chánh niệm thì năng lượng chánh niệm sẽ đóng vai trò chủ động trong việc nhìn sâu của ta. Đôi khi chúng ta có thể dừng suy nghĩ. Trong nhiều trường hợp suy nghĩ có thể kéo ta đi lạc hướng. Nhưng nếu chúng ta biết kiểm soát được suy nghĩ thì suy nghĩ đó có thể giúp cho ta thấy sâu hơn.

Tất cả chúng ta ai cũng có kinh nghiệm là khi đọc một trang sách ta cứ tưởng mình đã hiểu rồi, nhưng khi đọc lại hay suy nghiệm lại thì mới khám phá ra là mình chưa thực sự thâm nhập hay hiểu rõ ý nghĩa của nó. Nhìn sâu cũng giống như vậy. Thật dễ để cho ta thấy được một đóa hoa là vô thường và chấp nhận hoa là vô thường. Nhưng không phải nhờ trí năng mà ta có thể tiếp xúc được bản chất của vô thường. Ta phải tiếp xúc với bản chất của vô thường một cách sâu sắc để vượt thoát ý niệm về vô thường và chạm được gốc rễ của ý niệm ấy. Đây là cốt lõi của sự thực tập gọi là thiền minh sát (vipassana) hay nhìn sâu. Để thành công ta phải trau dồi chánh niệm và định lực để những năng lượng ấy giúp ta thấy thật sâu bản chất của mọi sự vật, hiện tượng.

39. Nuôi dưỡng bồ đề tâm

H. Cách tốt nhất để nuôi dưỡng bồ đề tâm?

Tl. Bồ đề tâm là tâm thương yêu, là ý muốn giúp người, độ đời và đem niềm vui đến cho nhiều người khác. Bồ đề tâm là một nguồn năng lượng vĩ đại có thể nâng cao phẩm chất sự sống của chúng ta. Khi học năm phép Thực Tập Chánh Niệm (Năm Giới), chúng ta khám phá ra rằng khi sống theo Năm Giới thì năng lực của ta sẽ được tăng cường. Năm Giới có thể bảo hộ cho bản thân chúng ta, bảo hộ cho gia đình và cả cho xã hội. Năm Giới giúp chúng ta vơi bớt khổ đau, mang lại niềm vui, bình an và hạnh phúc. Nếu hiểu và thực hành sâu sắc năm phép Thực Tập Chánh Niệm thì có thể giúp ta trở thành một người tích cực xây dựng hạnh phúc và hòa bình cho mọi người.

Theo tôi năm phép Thực Tập Chánh Niệm là chất liệu của một vị Bồ tát. Bồ tát là người có chí nguyện giúp cho cuộc đời, làm vơi bớt nỗi khổ đau, mang đến niềm an vui, hạnh phúc. Khi tiếp nhận Năm Giới và quyết tâm hành trì theo Năm Giới, ta có thể trở thành một vị Bồ tát, sống không chỉ cho riêng mình mà còn sống cho mọi người. Cuộc sống của ta sẽ là một nguồn năng lượng đem lại hạnh phúc cho nhiều người khác.

Nếu ta có ước nguyện như vậy, thì điều đó sẽ được thể hiện trong cách ta hành động, cách ta ứng xử và cách ta nhìn nhận. Nó sẽ được hiển lộ trên nụ cười, trong những bước chân của ta bởi vì trong ta tràn đầy năng lượng. Ta không sợ gian khổ, tâm ta đủ rộng lớn để chấp nhận tất cả. Ta không còn có khuynh hướng kỳ thị, loại trừ ai mà chỉ muốn bao bọc cả thế giới. Và sự thực tập hằng ngày của ta như trong khi đi, khi đứng, khi cười, và khi thở sẽ đưa ta về hướng của Bồ đề tâm.

40. Quán chiếu vô thường

H. Khi quán chiếu về vô thường, chúng ta có cùng quán chiếu với thời gian và không gian hay không?

Tl. Khi tiếp xúc với bản chất của vô thường thì ta cũng tiếp xúc được với bản chất của tương tức. Nhờ có vô thường mà có sự sống. Vô thường là sự đổi khác trong từng phút giây. Không có gì có thể giữ nguyên được trạng thái của nó, luôn luôn có cái biểu hiện ra và cái mất đi, có “nhập” và có “xuất”. Mọi thứ đều có sự tương tức lẫn nhau, nghĩa là không thể tự tồn tại riêng biệt mà phải tương quan, tương duyên với những cái khác, vì vậy tiếp xúc với vô thường cũng là tiếp xúc với tương tức.

Khi quán chiếu về không gian, ta biết rằng không gian không thể tự nó một mình mà có. Không gian phải có cùng với thời gian và vật chất, cùng với tất cả mọi cái khác. Khi quán chiếu về bản chất của không gian ta cũng tiếp xúc với vô thường, với tương tức và ta có thể thấy tất cả vạn vật trong không gian. Ta có thể thấy vật chất trong không gian, ta có thể thấy thời gian trong không gian. Ví dụ khi ta nói về mùa Xuân. Sao gọi là mùa Xuân? Mùa Xuân mới nghe qua như là một khoảng thời gian, sau mùa Xuân là mùa Hạ, sau mùa Hạ là mùa Thu rồi mùa Đông. Nhưng mùa Xuân có liên hệ chặt chẽ với không gian, bởi vì trong khi ở Bắc Mỹ đang là mùa Xuân thì ở Úc châu không phải là mùa Xuân. Vậy ta biết rằng trong không gian có thời gian, và trong thời gian có không gian. Ngay cả khi ta nói phút giây hiện tại, phút giây đó không thể tự nó một mình mà có. Hiện tại gắn liền với quá khứ và tương lai.

Khi nhìn mặt trời mọc ta luôn luôn thấy mặt trời mọc lên từ chân trời, ta có thể nghĩ rằng ta đang thấy mặt trời của hiện tại; nhưng các nhà khoa học cho ta biết rằng mặt trời mà ta đang nhìn thấy là hình ảnh của mặt trời tám phút trước đó. Vậy thì hiện tại có liên hệ với không gian chứ không chỉ với thời gian. Tuy nhiên, ta vẫn có thể sống trong giây phút hiện tại mặc dù ta biết đây là mặt trời của tám phút trước. Hiện tại bao hàm cả bây giờ và ở đây, do đó không thể tách rời thời gian và không gian thành hai thực thể riêng biệt, và nhìn vào cái một ta thấy cái tất cả. Tuệ giác tương tức giúp ta hiểu rõ hơn bản chất của vô ngã và vô thường.

Nhiều đạo sư và triết gia như Heraclitus và Khổng Tử cũng nói đến vô thường. Nhưng vô thường mà Bụt nói tới không phải là một triết lý mà là một công cụ để ta thực tập nhìn sâu. Hãy sử dụng chìa khóa vô thường để khai mở cánh cửa của thực tại – thực tại tương tức, vô ngã, vô tướng. Vì vậy, ta không nên nói tới vô thường như một ý niệm, một giả thuyết, hay một triết lý mà như là một công cụ Bụt trao cho ta để ta thực tập nhìn sâu và khám phá ra bản chất của sự vật, hiện tượng.

41. Khó duy trì chánh niệm

H. Tôi thực tập một mình đã nhiều năm nhưng vẫn thấy khó để duy trì được chánh niệm. Tôi có thể định tâm được vài tuần lễ nhưng rồi dễ bị xao động và luôn luôn như có cái gì khiến tôi bị phân tán. Xin Thầy cho ý kiến về việc này?

Tl. Chính vì tâm ta luôn xao động mà ta cần phải tu tập. Khi tu tập thì thế nào cũng có lúc lên lúc xuống. Đó là chuyện bình thường. Nhưng nếu ta có một tập thể để cùng nhau tu tập, một tăng thân để nương tựa, thì những lúc ta yếu kém ta sẽ được nâng đỡ. Tăng thân sẽ khuyến khích và hỗ trợ ta trên con đường tu tập.

Nương tựa tăng thân rất quan trọng. Không có tăng thân ta không thể tu tập lâu dài được. Nếu ta từ bỏ tăng thân thì ta phải trở lại ngay. Còn nếu ta chưa có dịp tiếp xúc với tăng thân thì phải cố hết sức tìm cho ra một tăng thân.

Tất cả chúng ta ai cũng có thể xây dựng tăng thân, bất kể chúng ta ở đâu. Ở đâu người ta cũng cần sự vững chãi, tĩnh lặng và chánh niệm. Sử dụng các danh từ Phật học có thể gây nên những chướng ngại. Có nhiều người chỉ thích ngồi yên mà không làm gì hết, để được bình an, yên tĩnh và ý thức từng giây phút của cuộc sống hàng ngày. Ta nên tránh dùng từ ngữ Phật học, chỉ cần thể hiện giáo lý bằng nếp sống chánh niệm, sự tươi mát và cởi mở của mình. Khi mới thực tập mà sử dụng những từ ngữ Phật giáo thì dễ làm cho người khác không thích và như vậy ta sẽ không thành công. Biết lắng nghe sâu và sử dụng ái ngữ thì ta sẽ có bạn. Ta cũng có thể xem cây cỏ, đất đá, dòng sông như những thành viên của tăng thân. Khí trời mà ta hít thở cũng là một yếu tố của tăng thân. Con đường thiền hành cũng là thành viên của tăng thân. Không ai cần phải quỳ xuống tiếp nhận Năm Giới để trở thành thành viên của tăng thân. Em bé mà ta đang nói chuyện, người láng giềng mà ta vừa kết bạn có thể là thành viên của tăng thân ta. Chỉ cần có một nhóm người cùng trò chuyện, cùng qua lại với nhau là đã có một tăng thân. Ta không cần phải sử dụng từ ngữ tăng thân. Nếu mời bạn bè đến uống trà thì đừng nói: “Hãy tổ chức một buổi thiền trà”, mà nói: “Xin mời cùng uống trà, thưởng thức trà trong tĩnh lặng, cùng gặp gỡ để vui với nhau.” Nếu học cách sử dụng ngôn ngữ như thế thì ta có thể xây dựng được tăng thân.

42. Khó để thư giãn

H. Tôi rất khó thư giãn. Tôi luôn xao động không yên khi ngồi thiền. Làm thế nào để bớt xao động?

Tl. Nhiều người trong chúng ta như có một nguồn năng lượng mạnh thúc đẩy ta đi về phía trước. Vì vậy, ta được hướng dẫn cách thực tập thiền ngồi, thiền đi, thiền ăn và thiền thở. Khi ăn ta thưởng thức từng miếng thức ăn lúc đang nhai. Nếu ta thành công với miếng ăn đầu thì ta có thể thành công với miếng thứ hai, thứ ba. Tập ăn như thế giúp ta thư giãn trong khi ăn. Thực tập thiền đi cũng giúp ta thư giãn. Nếu cảm thấy không thư giãn thì hãy thực tập thiền hành, đi từng bước. Nếu ta đi được một bước vững chãi thảnh thơi thì ta có thể đi được những bước khác vững chãi thảnh thơi. Nếu ta còn loay hoay, xao động mà không biết làm sao để xử lý năng lượng đó thì hãy ghi nhận và gọi tên năng lượng ấy là loay hoay hay xao động. Dùng hơi thở vào và hơi thở ra để ghi nhận và mỉm cười với năng lượng ấy: “Ta biết ngươi rồi, năng lượng xao động.” Hãy tin tưởng vào pháp môn thực tập. Hãy bắt đầu bằng nhai một miếng thức ăn có ý thức, bằng một hơi thở, bằng một bước đi có ý thức. Bất cứ làm gì, lau nhà hay bước một bước, hãy trở về với hơi thở và lấy lại tự do để thực sự là mình. Khi đó thì ta không còn là nạn nhân của năng lượng bồn chồn không yên nữa.

43. Ý thức về ngã

H. Các nhà tâm lý học nói rằng chúng ta phải có một ý thức lành mạnh về ngã. Đạo Bụt có dạy ta tăng cường ý thức về ngã hay không?

Tl. Trong giới tâm lý học người ta thường cho rằng chúng ta có ý thức về ngã. Nhưng khi có ý thức về ngã thì ta có xu hướng so sánh cái ngã này với những cái ngã khác. Từ sự so sánh đó mà phát sinh mặc cảm tự ti, tự tôn, ý nghĩ về hơn, thua, và bằng người. Tự ti được xem như là có hại. Chúng ta được khuyên rằng ta phải cố vươn mức tự trọng lên cao hơn. Nhưng tâm lý tự cao cũng có thể làm hại, cũng có thể gây đau khổ. Khi có ai đó nói “Cái ngã của anh ấy lớn quá” thì đó không phải là một lời khen. Một người tự cao có thể gây đau khổ cho mình và cho người khác. Ý muốn bằng người cũng có thể đem lại đau khổ. Chỉ có những người không có ý thức về ngã, vô ngã, mới hạnh phúc. Người ấy không ghen tức, không thù hận, không sân hận bởi vì họ không có một cái ngã để so sánh.

Theo giáo lý của đạo Bụt, ngã là nền tảng của khổ đau. Trong ta có những tâm hành tiêu cực và những tâm hành tích cực. Khi ta có nhiều tâm hành tiêu cực biểu hiện chúng sẽ làm cho ta đau khổ và nhiều người khác đau khổ. Khi ta có nhiều tâm hành tích cực biểu hiện, điều đó có thể làm tăng phẩm chất con người của ta, tăng cường định lực và tuệ giác. Chúng ta thực tập là để làm lớn mạnh những tâm hành tích cực hơn là để tăng cường ý thức về ngã. Chánh niệm giúp ta làm biểu hiện những tâm hành tích cực, giúp tăng cường phẩm chất của sự sống và ta sẽ vững chãi hơn. Chánh niệm là năng lượng giúp ta thật sự sống trong giây phút hiện tại. Khi ta thực sự có mặt trong hiện tại ta sẽ làm chủ được hoàn cảnh, ta sẽ có nhiều tình thương yêu, lòng kiên nhẫn, nhiều hiểu biết, từ bi. Từ đó mà phẩm chất con người của ta được vững vàng và cải thiện. Tiếp xúc được bản chất của vô ngã có giá trị chữa trị rất lớn. Khoa tâm lý trị liệu có thể học được rất nhiều từ giáo lý vô ngã của Đạo Bụt.

44. Tu tập sâu sắc

H. Làm thế nào để thực tập cho sâu sắc?

Tl. Tu tập sâu sắc là tu tập thực sự, là không tu tập hình thức. Tu tập sâu sắc giúp ta và những người xung quanh ta có nhiều niềm vui, bình an, vững chãi. Tôi thích từ ‘tu thiệt’ hơn. Theo tôi tu thì phải vui. Tu thiệt có thể đem sự sống đến cho ta ngay lập tức. Khi thở một hơi thở chánh niệm ta trở nên sống động, trở nên có thật, không những khi ta ngồi hay đi mà cả khi nấu ăn hay làm bất cứ việc gì. Nếu biết cách thở vào, thở ra trong chánh niệm trong khi đang nấu ăn sáng với nụ cười trên môi, ta sẽ chế tác được tự do, tự do vì không nhớ tưởng về quá khứ hay lo lắng cho tương lai. Ta sẽ trở nên sống động, vui tươi và tràn đầy tình thương yêu. Như thế gọi là ‘tu thiệt’, và kết quả có thể thấy được ngay tức khắc.

45. Ngồi yên

H. Tôi bận việc từ sáng tới tối không một phút ngồi yên một mình. Làm sao mà tôi có thể có cơ hội thực tập ngồi trong im lặng?

Tl. Im lặng phát xuất từ bên trong chứ không phải từ bên ngoài. Im lặng không có nghĩa là không nói chuyện hay không làm gì cả. Im lặng là khi ta không bị xao động, không tán loạn hay không có những tiếng nói thì thầm trong nội tâm. Nếu ta thật sự im lặng được thì bất cứ ở hoàn cảnh nào ta cũng có thể vui trong im lặng. Có những lúc ta nghĩ là ta đang im lặng và xung quanh cũng im lặng, nhưng thật sự ở trong đầu ta đang nói. Đó không phải là im lặng. Sự thực tập là làm sao để ta có được sự tĩnh lặng trong tất cả mọi hoạt động mà ta đang làm.

Hãy thay đổi cách ta suy nghĩ, cách ta nhìn. Phải nhận ra rằng sự im lặng phải phát xuất từ trong tâm mà không phải vì không nói. Ngồi ăn sáng có thể là một cơ hội để ta thưởng thức sự im lặng; mặc dù xung quanh ta mọi người đang nói chuyện nhưng bên trong ta vẫn có thể hoàn toàn im lặng. Bụt có cả ngàn đệ tử vây quanh. Mặc dù Bụt cùng đi, cùng ăn uống sinh hoạt với các đệ tử nhưng Ngài luôn luôn an trú trong im lặng. Bụt có dạy rất rõ rằng, người biết sống một mình, biết sống tĩnh lặng, người đó không có nghĩa là phải vào trong rừng sâu. Ta có thể sống trong tăng thân hay ở giữa chợ mà vẫn tận hưởng sự yên tĩnh. Người biết sống một mình không có nghĩa là không sống chung với ai cả.

Người biết sống một mình có nghĩa là người đó biết an trú vững chãi ngay trong giây phút bây giờ và ở đây, ý thức rõ những gì đang xảy ra. Dùng chánh niệm để nhận biết mỗi cảm thọ, mỗi ý tưởng phát khởi trong tâm. Ý thức những gì đang xảy ra trong tăng thân nhưng an nhiên tự tại, không đánh mất mình. Đó là định nghĩa của sự thực tập lý tưởng để sống một mình của Bụt: không bận về quá khứ, không rong ruổi tương lai, an trú bây giờ và ở đây, thân và tâm hợp nhất, ý thức được những gì đang xảy ra trong giờ phút hiện tại. Đó là đích thực sống một mình.

46. Tâm lý sợ chết

H. Làm thế nào để nhìn sâu vào tâm lý sợ chết?

Tl. Khi quán chiếu sâu sắc tâm lý sợ chết ta thấy có ý muốn được thường hằng. Chúng ta sợ sự thay đổi. Sân hận, sợ hãi, tuyệt vọng bắt nguồn từ tri kiến sai lầm, từ những khái niệm về có, về không, về đến, về đi, về lên, về xuống. Nếu quán chiếu sâu sắc, chúng ta khám phá ra rằng những khái niệm ấy không phản ánh được thực tại. Chúng ta có thể tiếp xúc với tự tánh của bản thân, tiếp xúc được với bản môn và nhờ đó mà không còn sợ hãi. Khi đặt niềm tin vào tuệ giác không sanh không diệt ta có thể vui sống từng giây phút của cuộc đời.

Hãy nhìn một đám mây trên trời. Đám mây không muốn thay đổi. Đám mây sợ chết, sợ trở thành hư vô, vì thế mà đám mây đau khổ. Nhưng nếu đám mây quán chiếu cho sâu sắc, đám mây sẽ khám phá ra rằng nó không thể nào chết được. Đám mây có thể trở thành mưa hay tuyết nhưng không thể trở thành hư không; điều đó không thể có. Khi đám mây khám phá ra được tự tánh bất diệt thì nó sẽ không còn sợ hãi. Đám mây đã hiểu rằng làm một đám mây lơ lửng trên trời là tuyệt vời, mà thành mưa, thành tuyết cũng tuyệt vời. Đám mây không còn là nạn nhân của sự sợ hãi nhờ vào quán chiếu sâu sắc và tiếp xúc được với tự tánh bất diệt. Không có gì có thể mất đi được. Ta không thể trở thành hư vô. Sự sống luôn luôn biến đổi. Nếu không có sự biến đổi thì không thể có sự sống. Khi ta đã vui vẻ chấp nhận điều đó thì ta không còn sợ hãi. Đó là sự thực tập nhìn sâu.

47. Người thương sẽ vĩnh viễn ra đi

H. Tôi vẫn lo một ngày kia mẹ tôi hay người thương của tôi sẽ vĩnh viễn rời tôi. Làm thế nào để chuyển hóa sự lo sợ đó?

Tl. Phải nhìn sâu để thấy rằng mẹ ta không phải chỉ có ở bên ngoài ta mà cũng có ở trong ta. Cha mẹ thực sự có mặt trong mỗi tế bào của ta. Ta mang các tế bào ấy đi về tương lai. Ta có thể nói chuyện với cha, mẹ ta trong ta. Tôi vẫn thường nói chuyện với mẹ, với cha tôi, với tổ tiên trong tôi. Tôi biết rằng tôi chỉ là sự tiếp nối của các vị. Với tuệ giác đó ta ý thức rằng, mặc dầu thân xác đã tan rã nhưng mẹ ta vẫn tiếp tục có mặt trong ta dưới hình thức năng lượng mà mẹ ta đã tạo ra qua hành động và lời nói. Trong đạo Bụt chúng ta gọi năng lượng đó là “nghiệp”. Nghiệp (karma) có nghĩa là hành động, là ba loại hành động của thân, khẩu và ý.

Nếu nhìn cho sâu ta sẽ thấy sự tiếp nối của mẹ ta trong ta và ngoài ta. Mỗi ý nghĩ, mỗi lời nói, mỗi hành động của mẹ giờ đây vẫn đang được tiếp nối mặc dù hình hài của mẹ ta có đó hay đã mất đi. Phải quán chiếu để thấy mẹ sâu hơn. Mẹ ta không phải chỉ giới hạn trong hình hài của mẹ và ta không chỉ giới hạn trong hình hài của ta. Phải thấy cho được như vậy. Đó là sự mầu nhiệm của thiền tập đạo Bụt. Bằng cách thực tập nhìn sâu ta có thể tiếp xúc với tự tánh bất sinh bất diệt của chính ta. Ta có thể tiếp xúc tự tánh bất sinh bất diệt của cha ta, của mẹ ta, của con ta, và tất cả mọi thứ ở trong ta và xung quanh ta. Chỉ có tuệ giác đó mới giúp ta giảm bớt và thoát khỏi sự sợ hãi.

48. Mục đích của khóa tu

H. Mục đích của một khóa tu là để làm gì? Chỉ đọc sách Phật giáo là chưa đủ hay sao?

Tl. Mục đích của một khóa tu không phải là để giảng dạy môn tâm lý học Phật giáo hay để giảng một bài kinh nào đó. Vì nếu như vậy thì ta chỉ cần mua sách về tự đọc.

Mục đích của khóa tu là để giúp ta cởi bỏ những nội kết ở trong ta. Có hai loại nội kết. Nội kết thứ nhất là ý niệm và những tri giác của ta. Ai cũng có những ý niệm và tri giác, chúng ta chấp giữ những ý niệm và tri giác đó của mình nên chúng ta không có tự do. Nội kết thứ hai là các tâm hành phiền não như: sợ hãi, sân hận, kỳ thị, tuyệt vọng, kiêu căng… Tất cả những phiền não đó cần phải được cởi bỏ để ta có tự do. Các hoạt động trong khóa tu như thiền hành, thiền tọa, thở, mỉm cười và nghe pháp thoại có công năng giúp ta cởi bỏ hai thứ nội kết đó.

Những nội kết ấy chôn sâu trong tâm thức. Chúng khống chế, thôi thúc ta làm những việc mà ta không muốn làm, nói những điều mà ta không muốn nói. Trong khóa tu, bài pháp thoại không nhằm mục đích cung cấp thêm nhiều ý niệm và tri giác mà mục đích là để giúp ta cởi bỏ những ý niệm và tri giác đang ràng buộc chúng ta. Bài pháp thoại phải giống như một cơn mưa tưới tẩm những hạt giống tuệ giác và tự do ở trong ta. Vì vậy, ta phải học cách nghe pháp thoại. Chúng ta nghe pháp thoại là để cởi bỏ những ý niệm và tri giác. Nếu nghe xong pháp thoại mà khi về nhà quên hết là một dấu hiệu tốt. Ta không cần nhớ gì hết. Ta phải ra về trong tự do. Khi học ở trường, chúng ta thường có những bài tập làm ở nhà sau giờ học và điều này đòi hỏi ta phải nhớ nhiều chữ nghĩa, ý tưởng, khái niệm và ta nghĩ rằng đó là những hành trang hữu ích cho cuộc đời ta. Nhưng đối với việc tu tập thì hành trang này là một gánh nặng. Vì vậy, mục đích của một khóa tu là để giúp ta cởi bỏ gánh nặng của kiến thức, ý niệm, khái niệm, cũng như cởi bỏ những gánh nặng của phiền não, sân hận và tuyệt vọng.

49. Thiền tập và cầu nguyện

H. Xin cho biết sự liên hệ giữa thiền tập và cầu nguyện?

Tl. Trong tinh thần của đạo Bụt, bất cứ làm gì mà có chánh niệm, có định và có tuệ đều có thể xem như là cầu nguyện. Trong khi uống trà mà tâm ta suy nghĩ mông lung thì giây phút đó ta không thật sự sống, bởi vì đang không có mặt, không có chánh niệm, không có sự chú tâm, không có sự thực tập. Khi ta nâng một tách trà, uống trà trong chánh niệm và chú tâm giống như khi ta đang dâng lên một nén hương thì đó là một sự cầu nguyện. Khi đi, nếu ta vui trong từng bước chân, nếu mỗi bước chân có sự nuôi dưỡng, có sự chuyển hóa thì đó cũng là một sự cầu nguyện. Khi ta ngồi vững chãi, khi ta thở hơi thở có chánh niệm, khi ta tiếp xúc được với những mầu nhiệm của sự sống, đó là thiền tập mà cũng là cầu nguyện. Vì vậy, theo truyền thống của đạo Bụt không có sự phân biệt giữa thiền tập và cầu nguyện. Khi có chánh niệm, có định lực, có tuệ giác là ta tiếp xúc được với Bụt, với tăng thân. Khi ta thật sự cầu nguyện thì ta tiếp xúc được với Chúa Jesu, với Nước Chúa. Tiếp xúc như thế phải đem lại cho ta sự chuyển hóa và trị liệu. Khi có niệm, định và tuệ thì sự ngăn cách giữa người cầu nguyện và người hướng về để cầu nguyện không còn nữa. Các bạn Kitô giáo và Do Thái giáo thường nói, “Sống trong từng giây phút với Chúa.” Nếu ta sống trong niệm, định, và tuệ, ta luôn luôn có mặt với Chúa thì mỗi ngày của ta là một sự cầu nguyện. Sống được như thế sẽ đem lại cho ta rất nhiều hạnh phúc và bình an.

50. Tụng kinh hay nghe kinh theo lệ

H. Khi tụng kinh làm thế nào để tránh thói quen tụng theo lệ, chỉ tụng chữ mà không có sự chú tâm?

Tl. Khi tụng kinh hay nghe kinh ta phải tụng hay nghe với tất cả thân và tâm. Tụng như thế là ta đang có định lực, đang có chánh niệm và hòa nhập cùng với tăng thân. Ta không còn là một giọt nước đơn lẻ mà trở thành dòng sông của tăng thân. Tâm ta phải luôn luôn có mặt cùng với thân. Vì vậy, thiền hành có thể được coi như là một sự cầu nguyện, cầu nguyện bằng đôi chân. Khi đó ta có thể tiếp xúc được với nước Chúa hay tiếp xúc với cõi Tịnh Độ của Bụt A Di Đà, và ta có thể cảm nhận hiệu lực của sự cầu nguyện ngay lập tức.

Khi ta thở vào, thở ra trong chánh niệm, hơi thở đó là hơi thở có thật. Thân và tâm hợp nhất. Nếu miệng tụng kinh mà trí óc đi lang thang về quá khứ hay nghĩ đến tương lai thì đó không phải là tụng kinh. Bởi vì khi không có chánh niệm, không có định, không có mặt như thế ta không thể nào có tuệ giác. Phải hợp nhất thân tâm trong khi tụng kinh chứ không chỉ là chắp hai tay và tụng một bài kinh nào đó. Chúng ta nên tránh rơi vào cái bẫy của sự thực tập hình thức mà bất cứ tôn giáo nào như Phật giáo, Thiên Chúa giáo, hoặc các tôn giáo khác có thể xảy ra. Thực tập như thế thì sẽ không có hiệu quả.

Thỉnh thoảng tôi hay nhắc nhở đại chúng trước bữa ăn chung, “Hãy thở như một tăng thân.” Khi đó tất cả mọi người trong tăng thân cùng thực tập thực sự chứ không phải thực tập theo hình thức. Trong một buổi lễ, khi lạy xuống trước bàn thờ chúng ta xướng bài kệ: “Năng lễ sở lễ tánh không tịch, cảm ứng đạo giao nan tư nghì”. Người lạy và người được lạy không phải là hai thực thể riêng biệt, do đó sự truyền thông giữa hai bên đạt mức không thể nghĩ bàn. Tất cả chúng ta đều cần được nhắc nhở để tránh không sa vào thói quen thực tập theo hình thức. Chúng ta phải tìm ra những phương tiện khéo léo để giữ cho sự thực tập của chúng ta được sống động.

51. Tín hữu Kitô có nên quy y Phật?

H. Những tín hữu Kitô giáo ham chuộng giáo lý đạo Bụt có nên quy y để trở thành Phật tử hay không?

Tl. Tinh hoa của đạo Bụt là chánh niệm, thiền định, và tuệ giác. Có nhiều tín hữu Kitô giáo cũng có khả năng có chánh niệm, thiền định và tuệ giác thì họ đã là Phật tử rồi, họ không cần mang nhãn hiệu “Phật tử”. Khi họ có ý muốn tiếp nhận Tam Quy và Ngũ Giới thì họ biết rằng sự thực tập này của đạo Bụt sẽ giúp cho đức tin Kitô giáo của họ thêm vững mạnh. Một tín hữu Kitô giáo khi đến một trung tâm Phật giáo sẽ học được các phương pháp chế tác chánh niệm, thiền định, và tuệ giác. Một tín hữu Kitô giáo nếu tiếp nhận đạo Bụt một cách đúng đắn sẽ không bao giờ từ bỏ gốc rễ Kitô giáo của mình. Thực tập đạo Bụt như thế không những giúp họ trở thành một tín hữu Kitô giáo tốt hơn mà còn giúp họ làm mới Kitô giáo để cho các thế hệ trẻ Kitô giáo cảm thấy thoải mái và dễ dàng thích nghi hơn. Tất cả các truyền thống tôn giáo, kể cả Phật giáo, cần phải được đổi mới để phù hợp với thời đại và phù hợp với sự phát triển trên toàn thế giới.

Chúng ta không nên kẹt vào hình thức. Có nhiều người tự nhận mình là Phật tử nhưng sự thực họ không xứng đáng là Phật tử, bởi vì họ kỳ thị và giáo điều. Họ không có đức tính của một Phật tử như nhiều tín hữu Kitô giáo khác. Có nhiều tín hữu Kitô giáo không tự nhận mình là Phật tử nhưng họ có đức tính của một người Phật tử hơn những Phật tử kia. Chúng ta phải học nhìn theo cách như thế. Đã có đủ Phật tử rồi, ta không cần phải cải đạo thêm nhiều người thành Phật tử. Thái độ đúng đắn là không nên khuyên người khác từ bỏ truyền thống của họ mà khuyên họ trở về với truyền thống của họ một cách sâu sắc hơn. Đó là việc mà họ có thể làm được nhờ sự thực tập chánh niệm, thiền định và tuệ giác của đạo Bụt.

Có người đã hỏi tôi: “Giả sử Bụt và Chúa Jesu gặp nhau ngày hôm nay thì hai Ngài sẽ nói với nhau điều gì?” Câu trả lời của tôi là: “Bụt và Chúa Jesu đang gặp nhau mỗi ngày, và gặp ở khắp mọi nơi.” Bởi vì những người Phật tử là sự tiếp nối của Bụt và những tín hữu Kitô giáo là sự tiếp nối của Chúa Jesu, họ đang gặp nhau mỗi ngày ở khắp nơi. Chúng ta phải giúp đỡ để làm cho cuộc gặp gỡ của các Ngài được thành công.

52. Trở về truyền thống tâm linh

H. Xin Thầy nói rõ hơn về lời khuyên nên trở về truyền thống tâm linh của mình. Làm thế nào để trở về truyền thống tâm linh của mình mà vẫn thực tập đạo Bụt?

Tl. Nếu ta là một người Phật tử thì Bụt là gốc rễ của ta, nhưng ta cũng biết rằng Bụt cũng có gốc rễ. Cho nên gốc rễ của ta không chỉ bắt đầu từ Bụt. Cho nên tìm hiểu Bụt và cả tổ tiên của Bụt là một điều quan trọng. Khi ta là một tín hữu Kitô thì Chúa Jesu là gốc rễ tâm linh của ta, nhưng trước Chúa Jesu còn có nhiều truyền thống tâm linh khác. Vì vậy, tìm hiểu các gốc rễ của mình là một việc nên làm và thậm chí có thể là rất thích thú. Gốc rễ của chúng ta có thể là từ rất xa xưa mà cũng có thể là rất mới. Ta đang thừa hưởng những thứ như tự do, dân chủ, và những người đã tạo dựng ra dân chủ và tự do đó cũng là gốc rễ của ta. Cố nhiên ta có thể gặp những trường hợp hay những yếu tố tiêu cực, nhưng không vì thế mà ta không thể tìm về gốc rễ của ta. Gốc rễ của ta cũng là gốc rễ của nhiều người xung quanh ta. Một người không có gốc rễ thì không thể có hạnh phúc. Nếu trở về với gốc rễ truyền thống của mình để khám phá ra những giá trị đích thực, những châu báu của truyền thống ấy thì ta có khả năng làm lợi lạc cho rất nhiều người có cùng gốc rễ. Khi tôi nói rằng anh nên trở về gốc rễ của anh, điều đó không có nghĩa là anh phải từ bỏ thực tập đạo Bụt mà anh đang thích.

Nhưng thực tập đạo Bụt có thể sẽ giúp anh hiểu rõ hơn, từ đó thay đổi và làm mới truyền thống tâm linh của mình. Nó sẽ giúp anh mở rộng lòng hơn, chấp nhận được những người chưa đủ cởi mở và hiểu biết khi họ muốn trao truyền những truyền thống, giá trị cho các thế hệ tương lai. Chúng ta có thể có nhiều gốc rễ tâm linh. Theo tôi, Phật giáo, Kitô giáo, hay Do Thái giáo cùng thuộc về một gia tài tâm linh của nhân loại. Chúng ta có thể thừa hưởng từ tất cả các truyền thống tâm linh ấy. Không nên tự hạn chế mình trong một truyền thống tâm linh duy nhất. Nếu ta thích ăn xoài thì cứ tự do ăn xoài nhưng không ai cấm ta không được ăn dứa, ăn cam. Ta không phản bội xoài trong khi có biết bao nhiêu loại trái cây trên quả đất này. Những truyền thống tâm linh cũng như những loại trái cây, ta có quyền thưởng thức. Ta có thể có hai truyền thống và chọn ra những gì tốt đẹp nhất của cả hai truyền thống đó để sống với chúng. Tôi tiên đoán là trong tương lai chúng ta sẽ phải lấy đi những rào cản giữa các truyền thống tâm linh khác nhau.

53. Làm mới truyền thống tâm linh

H. Xin Thầy giải thích thêm khi Thầy khuyên nên làm mới truyền thống tâm linh.

Tl. Truyền thống tâm linh của chúng ta phải là một truyền thống sống động cũng giống như một cái cây vậy. Cây phải đâm thêm nhánh, đơm hoa và trổ trái. Nó phải là một thực tại sống động chứ không phải là một vật để chúng ta trưng bày trong viện bảo tàng. Sự lớn mạnh của một truyền thống tâm linh là do sự thực tập của chúng ta, của chư Tổ, và cả tăng thân. Nếu không có sự tu tập thì truyền thống tâm linh đó sẽ không có sinh khí, chỉ có hình thức bên ngoài mà không có sự sống đích thực.

Khi trồng một cây mận ta phải tỉa cành hàng năm, phải cắt bỏ những cành nào không sinh hoa, sinh trái mà lại hút nhựa sống của cây. Phải tỉa một số cành để các cành khác có điều kiện tiếp nhận ánh sáng mặt trời. Một truyền thống tâm linh cũng như một cái cây ăn trái. Phải chăm sóc và cắt tỉa khi cần. Những gì không còn hợp thời thì phải cắt bỏ. Mục đích là chỉ giữ lại phần tinh túy của truyền thống và diễn giải thế nào để cho thế hệ trẻ có thể nhận ra những phẩm chất, những giá trị tốt đẹp của truyền thống và thấy rõ truyền thống của mình quý báu như thế nào. Chúng ta phải can đảm, phải chấp nhận cắt tỉa ít nhiều để cho truyền thống được lành mạnh, bởi vì xu hướng cổ hủ hóa luôn có trong tất cả các tôn giáo, kể cả Phật giáo. Nếu biết cách chăm sóc và cắt tỉa với tất cả sự thương yêu thì chúng ta sẽ giúp cho cái cây truyền thống tâm linh ấy được xanh tươi, và cây sẽ hiến tặng thêm nhiều hoa trái.

54. Đọa địa ngục vì không chấp nhận Thượng Đế

H. Cha mẹ tôi theo Kitô giáo Chính thống, không hiểu gì về đạo Bụt và có nói rằng vợ con tôi và tôi sẽ bị đọa địa ngục vì chúng tôi không chấp nhận Chúa. Làm sao để tôi có thể truyền thông với cha mẹ tôi?

Tl. Nếu ta nhìn Chúa như là một người có khả năng áp bức hay trừng phạt, không có khả năng tha thứ và bao dung thì ta có quan niệm sai lầm về Chúa, ta đã bóp méo hình ảnh của Chúa. Những người Kitô Chính thống tin rằng có những kẻ thù của Chúa cần phải tiêu diệt. Họ không biết rằng ý nghĩ ấy dính liền với sự kỳ thị và ý muốn trừng phạt. Đối với Chúa thì không có kẻ thù. Có vài tín hữu Kitô thuộc phái Chính thống có thể thay đổi cách suy nghĩ nếu ta biết sử dụng ái ngữ và kiên nhẫn. Cảm thông nhau là nền tảng của hòa bình thực sự. Ta phải giúp họ thấy được nội dung chứ không phải chỉ thấy nhãn hiệu. Ta có thể nói với cha mẹ rằng: Là một Phật tử chúng ta thực tập để bảo vệ sự sống, chia sẻ thời giờ, năng lượng và vật chất với những người thiếu thốn, bảo vệ sự an toàn của người lớn cũng như trẻ em, chống lại sự quan hệ tình dục không đúng đắn, thực tập lắng nghe sâu, nói lời ái ngữ, không sử dụng và tiêu thụ các sản phẩm có chứa độc tố. Chúng ta có thể mô tả người Phật tử như thế. Trong tinh thần không kỳ thị, ta có thể giúp cha mẹ cởi bỏ quan niệm hẹp hòi. Không nên lên án hay đả kích. Ta phải sử dụng ái ngữ để nói cho cha mẹ biết rằng nên hiểu Chúa một cách rộng sâu hơn. Có năm vị nữ tu Công giáo đến tham dự một khóa tu chánh niệm do tôi hướng dẫn. Vào ngày chót của khóa tu, Mẹ Bề Trên đã nói rằng: “Những gì Thầy chia sẻ đều tuyệt vời. Nhưng tại sao Thầy không nói gì về Chúa?” Tôi nhìn bà mỉm cười và nói: “Xin thưa, những gì tôi đã chia sẻ trong sáu ngày qua có điều gì tôi nói mà không liên hệ đến Chúa đâu?” Và bà ta cười – Bà đã nhận ra được thông điệp.

55. Mộng và điềm báo mộng

H. Giấc mộng có ý nghĩa gì? Liệu chúng ta có nên hành động theo điềm báo mộng hay không?

Tl. Theo tinh thần của đạo Bụt, phần đông chúng ta sống như trong mộng. Chúng ta không thực sự tiếp xúc với thực tại. Chúng ta chỉ có ý tưởng và khái niệm về thực tại, về ta, về người khác, về tất cả những gì mà chúng ta cảm nhận được ở trong ta và xung quanh ta. Tất cả thực sự là một giấc mộng. Thực tập chánh niệm và thiền định giúp ta nhìn sâu để có được một cảm nhận đúng về hiện hữu, những gì đang xảy ra, về những cảm thọ, ý tưởng trong ta, và đối tượng tâm thức của ta. Sống chánh niệm và nhìn sâu là cách duy nhất để sống thực với giấc mơ của ta.

Chúng ta phải để tâm đến những gì mà những người xung quanh đang nói với ta, trước tiên là những gì mà ta tin chắc đó không phải là mộng. Rồi kế đến là những gì mà những người trong mộng nói với ta. Không phải chỉ những người trong mộng là sáng tạo phẩm của tâm thức ta, mà cả những người đang ngồi trước mặt ta, đang ở xung quanh ta khi ta đang thức, cũng là sáng tạo phẩm do tâm thức tạo nên. Trong trường hợp đó chúng ta không thể có một nhận thức đúng về những gì đang thực sự có mặt.

Giấc mộng còn là một sáng tạo phẩm chung của tâm thức, được tạo nên từ những dữ kiện có sẵn trong tàng thức của ta và trong tâm thức của cộng đồng. Những gì mà ta thấy trong mộng là biểu hiện từ chiều sâu của tâm thức chứ không phải từ bên ngoài. Nhưng đây không phải là tâm thức của riêng ta, bởi vì ta được làm bằng những yếu tố không phải là ta. Tâm thức ta được làm bằng tâm thức của xã hội. Vậy thì hãy mỉm cười với những gì ta thấy trong giấc mộng. Và hãy quán chiếu, có thể giấc mộng là một thông điệp cho ta. Có thể đó là một ước mơ thầm kín, có thể là một sự lo sợ, có thể là một chút giận hờn nằm trong sâu thẳm của giấc mộng.

Mỉm cười, nhớ lại giấc mộng, quán chiếu giấc mộng là một điều rất thú vị. Nhưng những giấc mộng của ban đêm đâu phải là quan trọng hơn những giấc mộng của ban ngày. Bởi vì những gì ta nghe, ta thấy khi ta đang thức hầu hết đều là sáng tạo phẩm của tâm thức. Những gì mà ta cho là thực tại thì hầu hết chỉ là sáng tạo phẩm từ tâm thức của chính ta. Vì thế cho nên sự thực tập chánh niệm để nhận diện những đối tượng của tâm thức, cũng như thực tập quán chiếu để biết những cảm nhận (tưởng) của ta có sai lầm hay không là rất quan trọng. Nhiều người trong chúng ta đang sống như sống trong giấc mộng. Vì vậy, chúng ta cần phải tỉnh mộng. Giáo lý của đạo Bụt là giáo lý của sự thức tỉnh. Những lời Bụt dạy là để thức tỉnh chúng ta. Bụt là một người đã tỉnh thức. Và đạo Bụt là đạo dạy phép tu để tỉnh thức.

Chương 2: Gia đình – Con cái – Tình cảm

18. Để cho gia đình được bình an

H. Làm sao để bảo đảm cho gia đình được bình an trong khi thế giới bên ngoài đang có nhiều biến động và thiếu bình an?

Tl. Mỗi gia đình nên thiết lập một căn phòng mà ta có thể gọi là phòng thở hay phòng thiền, hay là ốc đảo bình an. Nếu nhà không có nhiều không gian hoặc không có phòng riêng thì chỉ cần một góc nhỏ cũng có thể biến thành một ốc đảo bình an. Khi một ai trong gia đình cảm thấy bất an hay thiếu vững chãi thì có thể tìm đến ẩn náu nơi ốc đảo bình an ấy. Không cần phải là một nơi thật rộng rãi, bày biện bàn ghế rườm rà, chỉ cần vài tọa cụ, một cái chuông nhỏ và một bình hoa tượng trưng cho sự tươi mát, vẻ đẹp và hy vọng.

Bất cứ ai, kể cả các em nhỏ, khi nào cảm thấy tức giận hay bức xúc cũng có quyền tìm đến ẩn náu ở nơi đó. Bất cứ nhà nào, nếu gọi là văn minh, thì phải có một căn phòng như thế. Đó là lãnh địa của bình an, một nơi để trở về nương tựa “hải đảo tự thân”. Ngay khi “ốc đảo” đó được thiết trí thì bản thân ta và những người khác trong nhà bắt đầu được thừa hưởng lợi lạc. Bước vào căn phòng ấy ta sẽ có cảm giác bình an trong tâm. Khi cha mẹ cãi nhau, con cái sẽ đau khổ. Nếu mình là con thì mình có thể tránh mặt, đi vào phòng thở, thỉnh lên một tiếng chuông và thực tập thở trong chánh niệm.

Ta tìm về nương tựa nơi không gian bình an của căn phòng. Nếu ta thực tập được như thế thì sẽ giúp cha mẹ dừng lại khi nghe tiếng chuông và nhận ra rằng mình không nên làm cho con mình đau khổ. Cho nên một người có thực tập cũng có thể giúp được cho những người khác trong nhà.

Khi giận nhau thì một trong hai người có thể vào phòng thở, thực tập hơi thở chánh niệm và nghe chuông để được lắng dịu. Thực tập như thế thì bố mẹ, vợ chồng, con cái sẽ tạo được cảm hứng cho nhau. Mỗi buổi sáng cả nhà nên cùng nhau vào phòng thở, ngồi với nhau vài phút, nhận diện sự có mặt của nhau trong chánh niệm, chúc nhau một ngày mới an lành và hạnh phúc. Bắt đầu một ngày mới với vài phút thư giãn, nhìn nhau, trân quý nhau, làm được như thế là rất quý. Trước khi đi ngủ, cả nhà nên vào phòng cùng ngồi nghe chuông và cùng thở với nhau. Mỗi khi cần lắng nghe nhau thì phòng thiền là nơi để cùng ngồi lại với nhau trong chánh niệm, lắng nghe sâu sắc niềm đau, nỗi khổ của nhau. Khi một đứa con đã vào trú ẩn trong phòng thiền thì cha mẹ không nên tiếp tục la mắng nó nữa. Vào phòng thiền là coi như có đặc quyền bất khả xâm phạm, không ai có thể quấy rối gì mình nữa.

19. Dạy con chánh niệm, từ bi

H. Dạy con như thế nào để chúng sống chánh niệm hơn, từ bi hơn?

TL. Nếu cha mẹ thực tập chánh niệm và từ bi trong đời sống hàng ngày thì các con đương nhiên sẽ sống theo gương cha mẹ. Không thể bắt con cái làm một điều gì mà chính mình không làm được. Khi tôi đi trong chánh niệm, thở trong chánh niệm thì các đệ tử của tôi sẽ theo gương tôi mà đi trong chánh niệm, thở trong chánh niệm. Đôi khi cũng cần nhắc nhở con cái một cách nhẹ nhàng, nhưng trẻ em theo gương người lớn là chuyện tự nhiên. Thỉnh thoảng cha mẹ cũng nên bàn luận với con cái về chánh niệm và từ bi, khuyến khích con cái thực tập chánh niệm và từ bi.

Bằng ái ngữ, ta có thể tưới tẩm những hạt giống chánh niệm và từ bi trong con cái và ta phải làm gương cho chúng. Ta không cần la mắng hay trừng phạt. Chỉ cần sử dụng ái ngữ và tự mình thực tập thì con cái sẽ thấy và làm theo.

20. Hay lo âu và dễ tức giận

H. Con gái vừa mới lớn của tôi hay lo âu và dễ tức giận. Tôi phải làm gì để giúp con lắng dịu cảm xúc?

Tl. Nhiều người trẻ không có khả năng xử lý cảm xúc của mình mà lại hay đau khổ. Nếu cha mẹ muốn giúp thì nên dạy cho con biết rằng cảm xúc cũng giống như một cơn lốc. Cơn lốc thổi đến, cơn lốc ở lại một lúc rồi cơn lốc sẽ qua đi. Nếu chúng ta biết xử lý một cách tốt đẹp nhất trong những lúc đó thì chúng ta có thể vượt qua cơn lốc của cảm xúc một cách dễ dàng.

Sự thực tập thở sâu bằng bụng có thể giúp xử lý được cảm xúc mạnh. Dạy cho con thực tập như thế không khó. Khi thấy con đang trong lúc khủng hoảng ta hãy cùng ngồi xuống với con và nói:
“Con hãy nắm lấy tay ba, thực tập thở với ba, con thở vào đi, phình bụng lên.”
“Con có thấy bụng của con phồng lên không? Bây giờ con thở ra, con có thấy bụng của con xẹp xuống không? Nào hãy làm lại: Vào, ra, phồng, xẹp.”
Chỉ trong vòng vài phút cháu sẽ cảm thấy thư thái hơn, nhẹ nhàng hơn nhờ sự bao bọc của năng lượng chánh niệm và sự vững chãi của ta. Sau đó thì con có thể tự làm một mình. Sự thực tập này không có gì khó. Những em bé hay những thiếu niên đều có thể làm được.

Tuy nhiên, không nên đợi đến khi bão tố ập tới ta mới bắt đầu thực tập. Phải bắt đầu thực tập ngay. Nếu ta cùng con thực tập trong hai hay ba tuần lễ, mỗi ngày năm hay mười phút thì việc thở sâu bằng bụng sẽ trở thành thói quen tự nhiên. Và sau đó mỗi khi có cảm xúc mạnh sắp trỗi dậy thì cháu tự biết phải làm gì. Cháu sẽ thấy rằng cháu cũng có thể tự vượt qua được những cảm xúc mạnh.

21. Bất hòa giữa cha mẹ và con cái

H. Tôi và con trai gần hai mươi tuổi cãi nhau hoài. Làm thế nào để chấm dứt tình trạng đó?

Tl. Việc trước tiên ta có thể làm là phải nhìn lại mình để xem ta có đủ bình tĩnh để giúp con mỗi khi ta đối diện với nó hay không? Rắc rối có thể không chỉ đến từ đứa con mà còn từ cha mẹ. Nếu cha mẹ sống không hòa thuận thì có thể gây nên cảm xúc tiêu cực nơi đứa con, nhất là khi người con đã có những hạt giống tiêu cực được gieo trồng từ trước. Trong quá khứ có thể đã có lúc ta cau có, bực mình la mắng và đã gieo những hạt giống tiêu cực đó vào tâm thức con ta. Vì vậy, ta phải học cách giải tỏa tình trạng đó ngay bây giờ. Yêu thương, bình tĩnh và lắng nghe có thể xoa dịu được khổ đau trong lòng con trẻ đi rất nhiều. Nếu ta có thể khuyến khích con nói ra những khó khăn của mình và lắng nghe một cách sâu sắc với tình thương yêu thì những năng lượng đã làm con đau khổ trong quá khứ sẽ được tiêu trừ. Nếu có tình thương yêu, có năng lượng bình an thì mặc dầu không nói gì cả ta cũng có ảnh hưởng tốt đến con và con ta sẽ cảm thấy dễ chịu khi ngồi cạnh ta.

22. Đi làm vẫn nuôi dạy con tốt

H. Có nhiều người cho rằng những người mẹ vì phải đi làm nên không thể săn sóc con cái một cách chu đáo. Nhưng cũng có những người mẹ tuy ở nhà mà vẫn không để ý gì đến con cái thì sao? Làm sao để chúng tôi vừa có thể nuôi dạy con tốt vừa làm những việc đòi hỏi sự chú tâm?

Tl. Chúng ta có thể vừa đi làm vừa nuôi dạy con. Nếu biết cách sắp xếp để chăm sóc thương yêu con cái đủ thì ta vẫn có thể đi làm được chứ. Chăm sóc là yếu tố rất quan trọng cho sự truyền thông và hiểu biết. Chăm sóc đưa đến thương yêu, thương yêu đưa đến hiểu biết và càng hiểu biết thì càng thương yêu.

Nhiều bậc cha mẹ cần phải đi làm vì sinh kế. Nhiều người khác đi làm vì có niềm vui trong công việc. Nhưng ở nhà để chăm sóc con cái, nhà cửa, tạo không gian tươi mát và lành mạnh cho những người khác trong gia đình cũng là một việc làm rất quan trọng. Không nên căn cứ vào mức lương hay công việc để đánh giá giá trị của bản thân. Phải học cách hành xử như thế nào để luôn thể hiện được sự vững chãi, tự tin, tin tưởng, và vui tươi. Nếu cha mẹ ở nhà, không đi làm mà không tạo được không khí bình an, tươi mát trong gia đình thì ở nhà đâu phải là một điều hay. Trong khi đó cha mẹ đi làm mà khi về nhà vẫn dễ thương và vui vẻ đó là nhờ biết cách tu dưỡng mình. Phẩm chất hành động của ta tùy thuộc rất nhiều vào phẩm chất của cái thấy “không hành động”, phẩm chất của tự thân.

23. Tuổi thơ bị bạo hành

H. Tôi từng bị cha mẹ tôi đánh đập, hành hạ. Cho tới bây giờ tôi vẫn còn giận họ. Làm sao để tránh trao truyền tâm sân hận đó cho các con tôi?

Tl. Nếu ta là nạn nhân của một tuổi thơ bị bạo hành thì hãy nên quán chiếu để thấy rằng cha mẹ ta đã không có cơ may gặp đạo, gặp Thầy hay gặp thiện tri thức. Cha mẹ ta có thể đã lớn lên trong một môi trường mà những hạt giống của bạo hành trong họ bị tưới tẩm. Nếu cha mẹ được lớn lên trong một môi trường lành mạnh hơn thì họ đã không đối xử với ta như thế. Điều này đúng đối với tất cả mọi người. Khi cha mẹ ta đã trao truyền những hạt giống tiêu cực sang cho ta thì ta phải quyết tâm tu tập để không lặp lại những lỗi lầm đó của họ, không những ta không bạo hành với con cái mình mà còn giúp bảo vệ trẻ em nữa. Và với quyết tâm như thế ta có thể chữa trị và chuyển hóa đau khổ của ta, kể cả những đau khổ do bị cha mẹ bạo hành từ quá khứ.

Học nhìn bằng con mắt từ bi là một thực tập rất quý, rất mầu nhiệm. Nếu ta biết cách nhìn người khác bằng con mắt từ bi thì ta sẽ không còn đau khổ và sẽ làm cho những người khác cảm thấy thoải mái hơn. Đó là một lý do tuyệt vời để thực tập. Bài thi kệ đầu tiên trong cuốn sách Bước tới thảnh thơi, sách thực tập của Sa di là: “Thức dậy miệng mỉm cười, hai mươi bốn giờ tinh khôi, xin nguyện sống trọn vẹn, mắt thương nhìn cuộc đời.” Bắt đầu một ngày mới với phát nguyện nhìn mọi người bằng con mắt từ bi là một lối sống rất đẹp.

Tâm từ bi phát xuất từ sự hiểu biết. Khi đã biết hoàn cảnh của ai rồi thì ta sẽ nhận ra rằng người ấy chỉ là nạn nhân của hoàn cảnh. Biết như thế ta không còn chê trách, phê phán hay buộc tội nữa. Người ấy không đáng bị trừng phạt. Người ấy cần được giúp đỡ. Ngay khi nhận ra được điều này ta sẽ không còn đau khổ nữa. Ta không đối xử với con ta như cha ta đã đối xử với ta. Đây là một sự chuyển hóa tuyệt vời.

24. Tuổi thơ đau buồn

H. Làm thế nào để những ai từng có tuổi thơ đau buồn quên được khổ đau và tìm lại niềm tin nơi người khác?

Tl. Nhiều người trong chúng ta có một em bé bị tổn thương ở trong lòng. Lúc nhỏ ta đã bị thương tích cho nên ta khó có thể tin tưởng và thương yêu, cũng như khó tiếp nhận được tình thương yêu. Vì quá bận rộn nên ta không có thời giờ để trở về với em bé thương tích trong ta và để chữa trị. Ta e ngại trở về để đối diện với em bé thương tích trong ta. Niềm đau nỗi khổ trong ta quá lớn nên ta có khuynh hướng trốn chạy. Nhưng thực tập chánh niệm là trở về để chăm sóc em bé thương tích trong ta, mặc dù biết là khó. Chúng ta cần được hướng dẫn để không bị niềm đau làm tê liệt. Chúng ta thực tập nuôi dưỡng năng lượng chánh niệm cho đủ vững mạnh, và với năng lượng chánh niệm đó ta có thể trở về để ôm ấp em bé bị thương tích trong ta. Thực tập đi trong chánh niệm, ngồi trong chánh niệm, thở trong chánh niệm là những thực tập cơ bản và chính yếu. Ngoài ra năng lượng chánh niệm của bạn bè cũng có thể giúp cho ta. Mới đầu ta có thể cần đến một hai người bạn ngồi với ta, nhất là những người bạn biết ngồi thiền vững chãi, để năng lượng chánh niệm của họ hỗ trợ ta. Khi có được một người bạn ngồi cạnh và nắm tay ta, phối hợp năng lượng với ta thì ta có thể trở về ôm ấp em bé thương tích trong ta.

Ta phải nói chuyện với em bé thương tích đó nhiều lần trong ngày, dịu dàng ôm ấp em và nói với em rằng ta sẽ không bỏ em hay quên chăm sóc em nữa. Nếu có tăng thân thì sự thực tập sẽ dễ dàng hơn, nhất là khi mới bắt đầu. Thực tập một mình không có sự hỗ trợ của các anh chị trong tăng thân có thể là rất khó cho những người mới bắt đầu. Em bé thương tích đó có thể là hệ quả của nhiều thế hệ. Có thể là cha ông ta cũng có em bé thương tích trong mình nhưng không biết cách chữa trị cho nên đã trao truyền em bé thương tích ấy cho ta. Sự thực tập của ta là chấm dứt cái vòng luẩn quẩn đó.

Chúng ta đau khổ vì không được thương yêu và hiểu biết. Nếu chúng ta chế tác ra năng lượng chánh niệm, năng lượng hiểu biết và thương yêu cho em bé thương tích trong ta thì ta sẽ bớt đau khổ nhiều lắm. Thay vì trước đây chúng ta nghi ngờ tất cả thì giờ đây chúng ta sẽ dễ dàng tiếp nhận tình thương từ người khác. Thương yêu giúp chúng ta mở rộng liên hệ với mọi người và tái lập lại truyền thông.

25. Săn sóc cha mẹ già là một gánh nặng

H. Tôi săn sóc cha mẹ già trong nhiều năm nay. Tuy tôi rất thương cha mẹ tôi nhưng việc đó quả thật là một gánh nặng về tài chính cũng như về sức lực và càng ngày tôi càng cảm thấy khó nhọc. Tôi phải làm sao?

Tl. Chúng ta săn sóc cho cha mẹ không phải vì ý thức trách nhiệm và bổn phận mà vì tình thương yêu đích thực. Một khi sự thương yêu và lòng biết ơn là nền tảng của hành động thì ta không còn thấy mệt mỏi và chán nản. Vì vậy, sự thực tập cốt yếu là nhìn sâu để hiểu rõ, đem thương yêu làm nền tảng cho hành động săn sóc, nhờ đó mà ta không mệt mỏi, không chán nản. Săn sóc cha mẹ là săn sóc cho chính mình.

Đôi lúc ta cũng nên ngồi xuống nói chuyện với cha mẹ để có được sự cảm thông và cùng thấy rõ mức giới hạn của mỗi người. Nhờ có hiểu biết và thương yêu mà tình trạng sẽ thay đổi, ta sẽ thấy dễ chịu hơn nhiều. Khi ta săn sóc cho con của ta cũng vậy, ta không nên nghĩ rằng con ta là một ai khác mà là ta, là chính ta. Vì vậy, nếu phải thức khuya hay thức dậy nhiều lần trong đêm ta cũng không than phiền gì cả. Đó là vì ta có tình thương, ta có tuệ giác, con ta và ta là một. Thấy được như thế ta sẽ có rất nhiều nghị lực để tiếp tục hành động.

26. Liên hệ trong tình yêu

H. Trong liên hệ tình yêu cả hai bên phải bình đẳng. Làm thế nào để bảo đảm người mạnh không ức hiếp người yếu?

Tl. Ngay khi khởi lên ý niệm về “một” thì ý niệm về “hai” đồng thời cùng khởi lên. Cũng giống như ý niệm về phải và trái. Bản chất của thực tại vượt thoát khỏi ý niệm về “một” và “hai”. Nếu thực tập được theo tuệ giác đó thì ta sẽ tự tìm ra câu trả lời cho chính mình. Nguyên tắc của sự thực tập là giữ tâm bình đẳng và không phân biệt, sử dụng tuệ giác “vô phân biệt trí’’, nghĩa là tuệ giác của sự không phân biệt.

Bàn tay phải không bao giờ kỳ thị với bàn tay trái, không bao giờ bàn tay phải tự hào cho là nó giỏi hơn bàn tay trái. Vì bàn tay phải biết rất rõ rằng nó với bàn tay trái là một, hay là “bất nhị” hoặc “không hai”. Mỗi khi bàn tay trái cần thì bàn tay phải sẵn sàng giúp mà không cho rằng nó là bàn tay giỏi hơn hay mạnh hơn. Trong liên hệ tình cảm cũng vậy. Chúng ta cũng nên phát khởi tuệ giác không phân biệt. Khi chúng ta có khả năng sống với nhau theo tuệ giác ấy thì không có ai mạnh hơn ai hay yếu hơn ai, không ai lợi dụng ai. Nếu còn có ý muốn lấn át là chưa có được tuệ giác vô phân biệt.

27. Lắng nghe với tâm từ bi

H. Tôi đang thực tập lắng nghe với tâm từ bi nhưng thật là khó mà lắng nghe những người cứ mãi trách móc, nguyền rủa. Muốn thực tập lắng nghe với tâm từ bi thì tôi phải cần thực tập bao lâu?

Tl. Nhiều người có nhu cầu phải nói nhiều, mãi rồi cũng thành tập khí. Đôi khi họ cứ kể đi kể lại cùng một câu chuyện. Thực tập lắng nghe một cách đích thực là giúp cho người khác nói ra được những gì mà lâu nay họ không thể nói. Có được một người có khả năng lắng nghe mình nói một cách sâu sắc là một cơ hội quý giá vô cùng. Điều đó có thể làm vơi bớt rất nhiều khổ đau rồi. Nhưng mà trong trường hợp người kia cứ tiếp tục lặp đi lặp lại cùng một chuyện cũ thì lắng nghe sâu cũng không giúp ích được gì cho người đó. Những chuyện cũ đó tưới tẩm những hạt giống tiêu cực trong họ và trong ta. Cứ ngồi đó mà lắng nghe không giúp ích gì cho cả hai bên.

Ta phải nói như thế này, “Này anh, tôi đã nghe những gì anh nói rồi, anh không cần phải lặp lại mãi. Tôi biết rằng trong anh đang có những khối khổ đau, nhưng anh không có cơ hội nhận diện và quán chiếu để tìm ra được nguồn thức ăn đã nuôi lớn khổ đau đó, vì vậy mà anh không thể chuyển hóa nó. Cho nên khổ đau của anh cứ trỗi dậy mãi làm cho anh đau khổ và làm cho người xung quanh anh cũng đau khổ. Vì vậy, giải pháp là không nên nói mãi về nỗi khổ của mình mà phải nhận diện những nỗi khổ ấy cũng như những nguyên nhân đã tạo nên khổ đau, hay những gì đã nuôi dưỡng và khơi dậy niềm đau, nỗi khổ. Sự thực tập của chúng ta là nhận diện đau khổ và chấm dứt gốc rễ của đau khổ. Và này anh bạn ơi, tôi xin giúp bạn. Bởi vì tôi đã thực tập như vậy cho tôi. Tôi đã có thể tự giải thoát. Tôi không còn than phiền gì nữa bởi vì tôi đã biết nhận diện khổ đau trong tôi. Tôi ôm ấp và quán chiếu sâu sắc khổ đau. Tôi đã khám phá ra gốc rễ của khổ đau trong tôi và tôi đã thực tập để ngừng nuôi lớn chúng, để rồi có thể chuyển hóa chúng. Tôi mong rằng tôi có thể giúp anh thực tập như tôi. Tôi sẽ làm tất cả những gì tôi có thể làm được để giúp anh.” Bằng cách dùng lời ái ngữ, chúng ta có thể khuyến khích bạn bè thực tập để ôm ấp khổ đau, quán chiếu bản chất của khổ đau để rồi chuyển hóa và trị liệu khổ đau.

28. Mẹ vợ tôi rất khó chịu

H. Mẹ vợ tôi rất khó chịu. Tôi đã cố gắng chịu đựng, nhưng nhiều lúc tôi chịu hết nổi. Phải làm sao để thay đổi tình trạng này?

Tl. Mẹ vợ là mẹ của người bạn đời của ta. Cô là một phần của bà và dòng họ bà. Ta đã từng cam kết là sẽ cùng nhau chia ngọt sẻ bùi với người bạn đời của mình, và trong đó mẹ vợ cũng là một phần của sự cam kết ấy. Mẹ vợ ta có thể là nguồn hạnh phúc hay khổ đau cho ta và người bạn đời của ta. Cho nên sự thực tập là chấp nhận bà ấy. Hạnh phúc của người bạn đời ta tùy thuộc rất nhiều vào hạnh phúc của mẹ. Nếu mẹ cô ấy không hạnh phúc thì ta khó có được hạnh phúc. Chăm sóc cho mẹ vợ, tức là ta đang tự chăm sóc cho ta và chăm sóc cho người thương của ta.

Ta phải học cách chăm sóc bất cứ điều gì có liên hệ tới sự bình an và hạnh phúc của cô ấy, bởi vì ta lo cho cô ấy. Cho nên phải nhìn xa, trông rộng và nhận rõ tất cả những gì có liên hệ với cô ấy để có thể làm cho cô ấy thực sự hạnh phúc.

Khi đến nhà bố mẹ vợ phải nên giữ lễ độ, chào hỏi cho lễ phép vì đó là cha, là mẹ của vợ ta. Cho dù mẹ vợ có dễ thương hay không dễ thương thì cách hành xử của ta, khả năng kính trọng, chấp nhận và chăm sóc của ta có liên hệ mật thiết đến hạnh phúc của chính ta và người bạn đời của ta. Vì vậy, nếu nhìn cho sâu ta có thể xóa bỏ được những ngăn cách và có thể chấp nhận mẹ vợ như là một bậc trưởng thượng quan trọng của người thương của ta.

29. Hòa giải với người cha đã qua đời

H. Cha tôi và tôi rất xung khắc. Chúng tôi không thể nói chuyện với nhau hay lắng nghe nhau. Cha tôi nay đã qua đời. Có quá muộn để bây giờ hòa giải với cha không?

Tl. Cha ta vẫn còn đó, sống động trong từng tế bào của cơ thể ta. Ta là sự tiếp nối của cha ta. Cha ta không có may mắn gặp được chánh Pháp để chế tác bình an cho thân tâm mình, nhưng cha có được may mắn là có ta để tiếp nối. Vì vậy, khi ta thực tập thì sự chuyển hóa không chỉ cho ta mà cả cho cha. Cha ta sẽ hưởng được nhiều lợi lạc nhờ vào sự tu tập của ta.

Cha ta luôn có mặt trong ta bất cứ giây phút nào. Khi ta thực tập hơi thở chánh niệm và cảm thấy an lạc, ta hãy hỏi: “Ba ơi, ba có cảm thấy an lạc không? Chúng ta cùng thực tập với nhau ba nhé.” Khi đi thiền hành ta cũng đi cho cha. Đây là một cách thực tập thương yêu. Cha ta cũng có tính Bụt bên trong, nghĩa là có khả năng thương yêu ngọt ngào nhưng cha ta không có cơ may để phát triển những đức tính đó. Cho nên giờ đây ta có thể giúp cho cha bằng cách thực tập lắng nghe sâu bởi vì cha trong ta đang cần được lắng nghe. Và đứa bé trong ta cũng đang sống động trong ta và cũng đang cần được lắng nghe. Ta không cần thực tập lắng nghe sâu với ai cả. Chỉ cần ngồi dưới một gốc cây hay một thảm cỏ và lắng nghe cha trong ta, lắng nghe đứa bé trong ta. Lắng nghe em bé ấy là đang lắng nghe chính mình. Lắng nghe cha ta cũng là nghe chính ta. Phẩm chất của sự lắng nghe có thể rất cao, rất sâu nếu ta biết thực sự an trú trong giây phút hiện tại, đem thân về với tâm, hoàn toàn có mặt cho bây giờ và ở đây. Sự lắng nghe sâu sẽ mang đến cho chúng ta nhiều tuệ giác, chuyển hóa và trị liệu rộng lớn. Ta cũng có thể viết cho cha ta một bức thư với lời lẽ cụ thể, sâu đậm và chân thành. Bức thư ấy sẽ đem lại sự hòa giải thật sự bởi vì bức thư ấy không phải chỉ viết cho cha ta mà ta đang viết cho chính mình.

30. Nỗi lo sợ bị cô đơn

H. Cuộc sống độc thân đã đem lại cho tôi nhiều đau khổ. Tôi biết tôi đã may mắn có gia đình và bạn bè thương yêu, nhưng tôi cũng mong muốn có một người bạn đời để được chia sẻ. Làm thế nào để có thể ôm ấp nỗi khổ đau này mỗi khi nó xảy đến?

Tl. Tất cả chúng ta đều có cùng một nỗi lo sợ khi nhu cầu thương yêu và được thương yêu của ta không được đáp ứng. Nỗi lo sợ bị cô đơn luôn có trong tất cả chúng ta. Chúng ta phải nhận diện nỗi lo sợ và nhu cầu đó ở trong ta. Sự thực tập của ta là nhìn sâu vào nỗi lo sợ đó. Thương yêu là hiến tặng cho người mình thương sự hiểu biết và niềm an vui. Hiểu là cội nguồn của yêu thương. Chúng ta sẽ vô cùng đau khổ nếu không có ai hiểu được mình. Và khi một người không hiểu ta thì người ấy không thể thương ta được. Có hiểu mới có thương. Sự thật là chúng ta cần được hiểu, cần được thương. Vì vậy, chúng ta có khuynh hướng đi tìm một ai đó để có thể hiểu ta và thương ta.

Giả sử ai đó có khả năng đem lại cho ta sự hiểu biết và thương yêu. Ví như một anh chàng hay một cô nàng nào đó. Nhưng ta phải đặt câu hỏi: Liệu ta có khả năng đem hiểu biết và thương yêu đến cho người đó hay không? Liệu ta có khả năng chế tác ra được sự hiểu biết và thương yêu, thứ mà ta đang rất cần hay không? Bởi vì nếu chúng ta không có khả năng hiểu được người khác thì tình thương yêu sẽ không thể xảy ra. Giáo pháp của Bụt giúp chúng ta chế tác ra hiểu biết và thương yêu. Nếu chúng ta có khả năng hiểu và thương thì trước tiên nó sẽ giúp thỏa mãn nhu cầu được thương trong ta. Sau đó với khả năng hiểu biết và thương yêu, ta có thể đến với những người quanh ta. Chúng ta có thể đem hạnh phúc đến cho họ vì chính ta đang hạnh phúc. Hạnh phúc có công năng nuôi dưỡng, trị liệu và tạo thêm hạnh phúc.

Vì vậy, vấn đề không phải là làm sao để có hạnh phúc mà là làm sao để chính ta có khả năng chế tác ra hiểu biết và thương yêu. Nếu sự thật ta có khả năng đó thì năng lượng hiểu biết và thương yêu sẽ cho ta sự thỏa mãn và những người xung quanh ta thỏa mãn. Đó chính là tình thương của Bụt. Tình yêu chân thật cũng như vậy. Thương yêu một người là một cơ hội cho ta học thương yêu tất cả mọi người. Nếu ta có khả năng hiểu và thương thì ta có thể thể hiện sự hiểu và thương đó ngay bây giờ mà không cần phải chờ đợi gì nữa. Làm được như thế thì bao nhiêu lo lắng sợ hãi sẽ tan biến, và ta sẽ cảm thấy an lạc ngay lập tức.

31. Khi tình yêu tan vỡ

H. Khi một liên hệ tình cảm chấm dứt, tôi buồn khổ cả tuần, có khi cả tháng. Làm thế nào để buông bỏ niềm đau đó?

Tl. Một mối tình tan vỡ là trách nhiệm của cả hai bên. Khi hai người không biết trân quý nhau, không biết cách đối trị cảm xúc giận hờn, bực tức của mình, không biết lắng nghe và nói lời ái ngữ thì họ sẽ làm cho liên hệ tình cảm rối tung và trở nên tồi tệ. Hậu quả là sợ hãi, buồn bực, tiếc nuối, và tuyệt vọng sẽ xảy ra. Chúng ta thường có xu hướng trốn tránh vì mỗi khi nghĩ tới mối tình tan vỡ đó thì cảm xúc ta tràn ngập. Đó không phải là chánh niệm. Chánh niệm là sự thực tập hơi thở có ý thức để có thể nhận diện, ôm ấp cảm xúc, là một với cảm xúc mà không để cho cảm xúc tràn ngập và nhấn chìm ta. Ta có nhiều hơn chứ không phải chỉ có những cảm xúc đau buồn, giận dữ và tuyệt vọng. Trong ta có một vị Bụt. Ta có khả năng học hỏi, có khả năng hiểu biết, thương yêu. Sự thực tập của ta là ngồi cho yên và mời những năng lượng lành đó lên để ôm ấp nỗi khổ, niềm đau. Niềm đau, nỗi khổ mà ta đang trải nghiệm trong giây phút hiện tại là cơ hội để ta học cách xây dựng cho tương lai. Niềm đau, nỗi khổ của ta sẽ đem lại cho ta rất nhiều tuệ giác. Hãy can đảm nhìn sâu, can đảm chấp nhận và nói: “Đau buồn của ta ơi, ta biết em có mặt, ta muốn chăm sóc, cảm thông cho em và cùng em học hỏi.” Chỉ cần mười lăm phút là có thể chữa trị. Không nên sợ hãi. Ta đã tạo niềm đau cho ta thì ta cũng có thể chế tác ra niềm vui, hạnh phúc cho ta.

32. Gặp rắc rối khi đối xử với người thân

H. Tại sao ta hay gặp rắc rối khi đối xử với những người thân gần gũi nhất?

Tl. Tại vì chúng ta sống với nhau hai mươi bốn giờ mỗi ngày. Điều rõ ràng là nếu chúng ta không có liên hệ hạnh phúc, hòa hợp với gia đình mình hay với tăng thân thì ta khó mà giúp đỡ được ai. Sự thực tập mà Bụt đã chỉ dạy rất cụ thể và rõ ràng về cách sống như thế nào để có được vui vẻ, thoải mái, dễ chịu và giúp cho người khác vui vẻ, thoải mái, dễ chịu. Đó là sự thực tập căn bản. Tại các đạo tràng của chúng tôi, các vị xuất sĩ đã thực tập như thế. Chúng tôi biết rằng nếu không có một tăng chúng hạnh phúc, không có tình huynh đệ nuôi dưỡng mà đi tổ chức những khóa tu thì những buổi thiền tập đó chỉ là giả tạo. Cho nên, thực tập để chuyển hóa tự thân, thực tập để chuyển hóa cho gia đình của mình, cho cộng đồng là nền tảng cho tất cả.

33. Tha thứ người đã làm cho mình đau khổ

H. Làm thế nào để tha thứ cho những người đã làm mình đau khổ dù họ vẫn không thừa nhận hành động sai lầm?

Tl. Khi ta có khả năng chế tác ra năng lượng hiểu và thương thì niềm đau trong ta có thể được chữa trị. Trong đạo Bụt còn có một năng lượng khác có khả năng trị liệu đó là chí nguyện, là ước muốn, quyết tâm giúp đỡ người khác. Khi chúng ta là nạn nhân của sự bạo hành, khi nhìn xung quanh ta thấy có rất nhiều người cũng bị áp bức đau khổ như ta thì tự nhiên ta phát sinh lòng thương, và chúng ta phát nguyện làm sao để bảo vệ, giúp đỡ cho những ai chưa tìm ra lối thoát. Nếu chúng ta phát nguyện như thế và sẵn sàng cứu giúp thì chúng ta sẽ trở thành một vị Bồ tát mang trong lòng chí nguyện mãnh liệt để đi ra độ đời.

Còn nếu chúng ta không làm gì cả thì sẽ có nhiều người khác cũng sẽ là nạn nhân. Nếu ta có năng lượng của một vị Bồ tát, nếu ta tha thiết muốn làm một điều gì đó, nếu ta muốn đi ra cứu giúp các em nhỏ hay ai đó thì năng lượng ấy sẽ chữa lành vết thương trong ta. Với năng lượng của từ bi, của đại nguyện, chúng ta đi theo hạnh nguyện của Bồ tát Phổ hiền, một vị Bồ tát phát đại nguyện lớn. Tâm từ bi của chúng ta có thể ôm lấy gia đình, xã hội và sự chữa trị đó có thể đạt đến tuyệt đối.

34. Phạm lỗi lầm to lớn trong quá khứ

H. Vài người trong chúng ta đã phạm lỗi lầm to lớn trong quá khứ và vẫn còn đau khổ mãi. Có thể nào quên đi niềm đau này?

Tl. Ta cần tìm cho ra một tuệ giác cho vấn đề này. Tuệ giác là nền tảng của bất cứ sự thực tập nào. Tuệ giác ở đây là: Nhờ tu tập mà chúng ta có thể chăm sóc và thay đổi không chỉ hiện tại mà cả quá khứ và tương lai.

Giả sử ngày hôm qua ta có một ý nghĩ bất thiện, một ý nghĩ thiếu hiểu biết, thiếu thương yêu và hôm nay ta hối hận là đã có một ý nghĩ như thế. Ta biết rằng ý nghĩ ấy sẽ tạo ảnh hưởng xấu cho thân tâm ta và ảnh hưởng lên cả nhân loại. Bây giờ an trú trong giây phút hiện tại, ta phát khởi một ý nghĩ khác, một ý nghĩ theo chiều hướng của hiểu biết và thương yêu. Nếu ta biết phát khởi một ý nghĩ như vậy thì ý nghĩ đó sẽ chuyển hóa, triệt tiêu ảnh hưởng của ý nghĩ ngày hôm qua. Đó là quy luật của nghiệp. Ta có thể chuyển đổi nghiệp của quá khứ bằng cách tạo thêm nghiệp tốt lành ngày hôm nay.

Tôi có gặp một cựu chiến binh người Mỹ trong cuộc chiến Việt Nam. Ông ta đã thú nhận rằng ông đã tham dự vào việc sát hại năm em bé tại Việt Nam. Sau khi chiến tranh kết thúc, ông không có được một chút bình an và không thể bộc lộ cho ai biết về hành động của mình. Ông không thể đến gần trẻ em. Ông đã sống ân hận và đau khổ trong suốt nhiều năm như thế. Cuối cùng ông đến tham dự một khóa tu. Cảm nhận được tình thương và niềm tin từ tăng thân, ông cảm thấy đủ an toàn để kể lại câu chuyện đã xảy ra.

Tôi có nói với ông như sau: “Anh đã giết năm em bé nhưng anh còn sống đó. Tại sao anh tự giam mình vào tù ngục của ân hận? Ngay giờ này có nhiều em bé đang chết nhưng không có ai tìm cách cứu. Anh có thể cứu một hay hai em ngay bây giờ. Nếu anh làm được như thế thì anh có thể hóa giải được quá khứ. Anh trở thành một con người khác. Có thể là anh đã giết năm em nhưng anh có thể cứu năm mươi em khác. Cuộc đời của anh sẽ trở thành cuộc đời của một vị Bồ tát.”

Với tuệ giác đó, ông đã chuyển hóa ngay lập tức. Cuộc sống của ông ta bây giờ khác hoàn toàn. Ông phát nguyện quyết tâm cống hiến cuộc đời và năng lực của mình vào việc cứu giúp các trẻ em trên thế giới. Giây phút mà tâm thức ta thay đổi là giây phút quyết định. Sau đó thì tất cả mọi việc khác đều sẽ thay đổi. Vì thế, ta không nên tiếc nuối quá khứ. Có nhiều việc mà anh có thể làm ngay trong ngày hôm nay để hóa giải quá khứ và xây dựng một tương lai tốt đẹp.

35. Giúp thành viên trong gia đình tu tập

H. Làm sao để có thể gây ảnh hưởng đến những người trong gia đình khi họ không để ý tới việc tu tập nếp sống tâm linh mà chỉ xem ti vi suốt ngày hay ăn những thức ăn không lành mạnh?

Tl. Chúng ta có thể làm gương bằng tuệ giác và sự tu tập của mình. Nếu chúng ta có ý muốn áp đặt ý kiến của mình lên người khác thì chúng ta sẽ gặp những phản ứng mạnh. Không nên giảng đạo hay chỉ trích mà nên tìm phương tiện khéo léo để giúp họ nhận ra hậu quả của khổ đau do việc tiêu thụ những độc tố vào thân tâm. Sự tu tập của ta và khả năng biết cách chăm sóc cho thân tâm ta lành mạnh, vui tươi, đó là một bài Pháp sống cho họ. Chính sự chuyển hóa của ta, chính phong thái bình an, vui vẻ của ta sẽ gây cảm hứng cho người khác làm theo. Đừng nói rằng: “Tôi đang tu còn anh không tu cho nên anh đau khổ.” Nói như vậy chỉ làm cho họ bực bội thêm. Ta thay đổi, ta không còn đau khổ là một cách chứng minh hùng hồn nhất. Nụ cười và sự tươi mát của ta sẽ trực tiếp cho họ thấy ý nghĩa sự thực tập của ta và sự thiệt thòi của họ.

36. Cách tốt nhất để chấm dứt đau khổ

H. Cách tốt nhất để chấm dứt đau khổ của tôi cũng như của bạn bè hay những người thân trong gia đình?

Tl. Tất cả chúng ta đều biết rằng hiểu biết và thương yêu có khả năng chấm dứt khổ đau. Đây không chỉ là lời nói suông, ở đâu có hiểu biết và thương yêu thì ở đó không có khổ đau cho ta và cho người khác. Sự thực tập của chúng ta là luôn luôn nuôi lớn hiểu biết và thương yêu. Dù bận rộn thế nào đi nữa nhưng khi chúng ta dành vài phút để nhìn sâu thì chúng ta có thể thấy mình có sự hiểu biết và thương yêu nhiều hơn để hiến tặng. Thời giờ rất quý báu. Chúng ta đừng lãng phí mà nên tận dụng từng giờ, từng phút còn lại của đời mình. Khi hướng sự chú tâm của mình vào giây phút hiện tại, sống đời sống đơn giản, chúng ta sẽ có nhiều thời gian hơn để làm những việc quan trọng. Chúng ta không nên đánh mất mình trong suy tư, lo lắng, hay chạy theo danh lợi, quyền lực và tiền bạc.

Khi ta có khả năng làm những việc mà ta muốn làm, sống như ta muốn sống thì ta sẽ có nhiều hạnh phúc. Khi ta đi chỉ để đi, ngồi chỉ để ngồi, uống trà chỉ để uống trà, ta không làm điều đó vì mục đích gì hay không vì ai hết, làm được như thế ta sẽ có rất nhiều tự do và niềm vui. Đó là sự thực tập vô nguyện. Khi làm được như vậy, ta chữa trị được cho ta và giúp chữa trị cho cả thế giới. Giác ngộ là khi ta nhận ra được cách để ta có thể sống rất sâu sắc, sống thật đơn giản mà hạnh phúc. Ta không còn muốn lãng phí thời giờ nữa, mà hết sức trân quý sự sống, trân quý thời giờ còn lại.

Chương 1: Đời sống hằng ngày

1. Tôi không biết làm gì với cuộc đời tôi

H. Tôi không biết làm gì với cuộc đời tôi. Tôi như bị cuốn đi về nhiều hướng, chẳng chú tâm lâu vào một việc gì. Tôi luôn thấy bất an, buồn bực và bối rối. Tôi phải thực tập như thế nào?

Tl. Đôi khi chúng ta trồng hoa hồng bằng cách cắt cành hồng rồi cắm vào đất ướt có phân bón. Sau ít lâu cành hồng sẽ đâm rễ. Ta cũng có khả năng trở thành một khóm hồng xinh đẹp, nhưng ta cần có đất và được cắm trong lòng đất đủ lâu để những chiếc rễ của ta mọc đủ mạnh.

Chúng ta thường nghĩ rằng khổ đau là tiêu cực. Hãy nên tập nhìn khổ đau dưới nhận thức mới, tích cực hơn. Theo giáo lý của Bụt, khổ đau là một Sự Thật Mầu Nhiệm (Chân đế) và chúng ta có thể học hỏi được rất nhiều từ khổ đau. Chúng ta phải có khả năng ứng phó với khổ đau cũng như hạnh phúc. Khổ đau luôn đi cùng với hạnh phúc. Nếu không có khổ đau thì chúng ta cũng sẽ không có hạnh phúc. Xu hướng thông thường của chúng ta là tránh né khổ đau, và như vậy là không tốt. Nếu không có khổ đau thì chúng ta không thể khôn lớn, không thể nuôi lớn hiểu biết và thương yêu. Vì vậy chúng ta phải học nhận diện và ôm ấp khổ đau. Nếu ta còn tìm cách trốn chạy khổ đau thì ta còn khổ đau. Nhiều người cảm thấy mình như ở trong một tình trạng gọi là mất gốc. Những người đó cần một môi trường thích ứng, một vùng đất màu mỡ để cắm rễ, nghĩa là một Tăng thân, một cộng đồng có tu tập, có tình huynh đệ, có yêu thương, tăng thân đó sẽ hỗ trợ cho ta rất nhiều và không bao lâu sau ta có thể tự mình đứng vững. Để một cành hồng trở thành một khóm hồng không lâu lắm đâu.

2. Ngồi đó mà không làm gì cả

H. Khi rảnh rỗi, không bận việc này hay việc kia tôi thường cảm thấy tội lỗi. Tôi có nên không làm gì cả?

Tl. Xã hội ngày nay, người ta có xu hướng coi việc ngồi không là không tốt, thậm chí còn cho là tội lỗi. Nhưng khi có nhiều việc để làm thì chúng ta lại đánh mất mình trong công việc và phẩm chất đời sống của chúng ta bị suy giảm. Ta phụ bạc chính ta. Cho nên biết tự bảo hộ, giữ gìn sự tươi mát, lạc quan, vui vẻ, thương yêu, rất là quan trọng. Trong đạo Bụt có sự thực tập gọi là “vô tác”. Quả vậy trong truyền thống đạo Bụt, hình ảnh của một con người lý tưởng, một vị A la hán hay một vị Bồ tát, là một người vô sự, không bận rộn, không phải đi đâu và cũng không phải làm chi. Chúng ta phải học cách an nhiên tự tại, không làm gì cả. Hãy thử sống một ngày mà không làm chi cả, chúng tôi gọi đó là “ngày làm biếng”. Mặc dầu đối với nhiều người quen chạy quanh hết việc này tới việc nọ, thì ngày làm biếng là một ngày thật sự không dễ. Không dễ để sống thảnh thơi, an nhiên, tự tại. Nếu ta vẫn hạnh phúc, thoải mái và mỉm cười khi không làm gì hết là ta đã khá giỏi. Khi ta biết sống thảnh thơi, không bận rộn thì phẩm chất của sự sống sẽ tỏa sáng. Đây là một điều rất quan trọng. Vậy thì không làm gì hết tức là đang làm. Hãy về viết câu này và treo lên: “Không làm gì hết là đang làm”.

3. Làm bất cứ thứ gì, không bao giờ cho là đủ

H. Vì muốn đạt thành quả mà nhiều khi tôi rất đau khổ. Làm bất cứ thứ gì, tôi không bao giờ cho là đủ. Làm thế nào để tôi không còn tự trách mình?

Tl. Phẩm chất hành động của ta phụ thuộc vào phẩm chất sống của ta. Giả sử ta muốn cống hiến, muốn hiến tặng, hoặc muốn làm cho ai đó được hạnh phúc, đó là một điều đáng làm. Nhưng nếu chính ta không hạnh phúc thì ta không thể làm điều đó được. Muốn làm cho người khác có hạnh phúc thì trước hết ta phải có hạnh phúc. Vậy thì có một sự liên hệ mật thiết giữa làm và sống. Nếu ta sống không thành công thì hành động của ta cũng không thành công. Nếu ta không cảm thấy là mình đang sống đúng thì ta không thể có hạnh phúc. Điều này đúng cho tất cả mọi người. Nếu không biết rõ hướng đi của đời mình thì ta sẽ đau khổ. Tìm ra pháp môn và thấy rõ con đường tu chân chính là rất quan trọng.

Hạnh phúc là khi ta cảm thấy mình đang đi đúng hướng, sống đúng chánh pháp trong từng giây phút. Ta không cần đi cho tới đích mới có hạnh phúc. Chánh pháp đưa ra những phương pháp rất cụ thể giúp chúng ta sống trọn vẹn trong từng phút giây. Đạo Bụt đã cống hiến cho chúng ta Tám Con Đường Hành Trì Chân Chánh gọi là Bát chánh đạo: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh hành, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm và Chánh định. Sống theo Bát chánh đạo trong từng giây phút của cuộc sống hằng ngày là một việc mà ai cũng có thể làm được. Sống theo Bát chánh đạo không những mang lại hạnh phúc cho chính mình mà còn cho rất nhiều người. Nếu ta thực tập theo tám con đường hành trì chân chánh này thì ta sẽ trở nên tươi mát, vui vẻ và đầy thương yêu.

Hãy nhìn hàng cây trước sân. Cây dường như chẳng làm gì cả. Cây chỉ đứng đó, tràn đầy sức sống, xanh tươi, xinh đẹp. Bất kỳ ai cũng được hưởng lợi lạc từ cây. Đó chính là mầu nhiệm của sự sống hiện hữu. Nếu cây không trọn vẹn là cây thì tất cả chúng ta sẽ nguy khốn. Nếu cây chỉ cần là một cái cây đích thực thì chúng ta sẽ còn niềm vui và hy vọng. Vì vậy nếu ta chỉ là chính ta thôi tức là ta đang hành động rồi. Hành đặt trên nền tảng của vô hành. Hành động là sống với sự sống hiện hữu.

Có những người làm rất nhiều nhưng gây rắc rối cũng lắm. Mặc dầu họ có rất nhiều thiện chí nhưng càng cố gắng giúp thì họ càng gây rắc rối. Tâm họ không được bình an, họ không hạnh phúc. Vậy thì ta không nên cố gắng quá mức, chỉ cần sống an nhiên. Nhờ đó mà ta luôn luôn có được bình an và thương yêu. Trên nền tảng đó tất cả những gì ta nói hay làm cũng đều có thể giúp ích. Nếu ta có thể làm cho ai đó bớt khổ hoặc làm cho họ mỉm cười, thì ta sẽ cảm thấy hãnh diện và có rất nhiều hạnh phúc. Hạnh phúc là khi biết rằng mình có thể giúp người khác, và có ích cho xã hội. Khi ta có pháp môn tu tập và luôn luôn hạnh phúc trong từng giây phút tu tập thì ta đã là một người đặc biệt rồi. Ta không cần trở thành một người nào khác.

Trong đạo Bụt có sự thực tập gọi là vô nguyện (apranihita). Nếu ta cứ đặt mục tiêu phía trước thì ta sẽ rong ruổi suốt đời và không bao giờ có được hạnh phúc. Ta chỉ có hạnh phúc khi ta biết dừng lại sự rong ruổi, biết trân quý phút giây hiện tại và trân quý tự thân. Ta không cần phải là một ai khác vì bản thân ta đã là sự sống mầu nhiệm rồi.

4. Luôn bận tâm tới những việc chưa cần

H. Khi đang làm một việc gì thì trí óc tôi cứ bận tâm về những việc sẽ làm hay đã làm. Tôi phải làm gì để chấm dứt tình trạng luôn nghĩ tới những việc chưa
cần thiết?

Tl. Khi nhận được nhiều lá thư cùng một lúc, ta sẽ chọn một bức thư để đọc trước. Có thể là có hai bức thư quan trọng như nhau. Nhưng ta phải chọn lựa và quyết định chọn một bức thư trước. Khi đã chọn rồi thì đừng đổi ý. Khi đang đi trên cầu này thì đừng nghĩ tới cái cầu khác mà mình chưa đi. Mình sẽ đi qua cái cầu ấy vào một dịp nào đó sau này, nhưng mà chỉ sau khi đi qua cầu này đã. Đó là sự thực tập. Vị luật sư chỉ nghĩ đến khách hàng mà mình đang lo chứ không nghĩ tới khách hàng nào đó trong tương lai. Vị bác sĩ chỉ nghĩ tới bệnh nhân đang ở trước mặt. Đó gọi là định, là chánh niệm, là chú tâm. Nếu ta không thực tập được khả năng chỉ chú tâm vào một đối tượng thì hậu quả là ta sẽ bị phân tán và bối rối. Ta phải có mặt một trăm phần trăm với cái bây giờ và ở đây.

5. Chánh niệm và hoạch định tương lai

H. Làm sao để phối hợp việc thực tập chánh niệm và sống trong giây phút hiện tại với việc hoạch định kế hoạch cho cuộc đời?

Tl. Thực tập chánh niệm không có nghĩa là không được hoạch định cho tương lai. Điều hay nhất là đừng đánh mất mình trong sự hoang mang và lo sợ cho tương lai. Nếu thực sự an trú trong giây phút hiện tại thì ta có thể mang tương lai về ngay bây giờ và ở đây để hoạch định cho tương lai. Khi nghĩ đến tương lai ta không đánh mất hiện tại. Thật ra, trong hiện tại chứa đựng cả quá khứ lẫn tương lai. Tương lai chỉ được làm bằng chất liệu của hiện tại. Xử lý hiện tại một cách tuyệt hảo là cách duy nhất để lo cho tương lai. Sống trong hiện tại với tất cả sự chú tâm, với tất cả sự thông minh của mình đó là ta đang xây dựng cho tương lai rồi.

6. Nhận diện và chuyển đổi thói quen

H. Làm sao để nhận diện và chuyển đổi những tập khí (thói quen xấu)?

Tl. Những tập khí tiêu cực luôn tìm cách trỗi dậy, nhưng nếu có chánh niệm thì ta có thể nhận diện được. Chánh niệm giúp ta nhận diện những tập khí do tổ tiên, cha mẹ trao truyền hay những tập khí do thói quen từ thời thơ ấu cho đến khi ta lớn. Nhiều khi, chỉ cần nhận diện thôi là tập khí không còn khống chế được ta nữa. Ví dụ như trong trường hợp ta có tập khí
hấp tấp trong khi nấu ăn hay khi đi mua sắm, nhờ có chánh niệm mà ta nhận ra ngay là ta đang lăng xăng hấp tấp, đang cố làm nhanh cho xong việc. Khi nhận ra năng lượng của tánh hấp tấp đang biểu hiện, ta thở vào, thở ra trong chánh niệm, và tự nhủ rằng: “Năng lượng tập khí của ta ơi, ngươi lại đến rồi ư?”. Ngay khi nhận diện được tập khí thì tập khí sẽ yếu đi. Nếu lần sau tập khí đó trở lại thì ta lại làm như thế và tập khí sẽ tiếp tục yếu đi. Ta không cần phải vật lộn với nó mà chỉ cần nhận diện và mỉm cười với nó. Mỗi khi nhận diện được một tập khí thì tập khí ấy sẽ yếu đi một chút cho đến khi nó không còn khống chế và điều khiển được ta nữa.

7. Tánh hay chỉ trích

H. Làm sao tôi có thể khắc phục được tánh hay phê bình, chỉ trích và phán xét?

Tl. Khi nhìn một ai ta phải nhìn sâu để thấy rằng một cá nhân được tạo thành bởi nhiều yếu tố: xã hội, giáo dục, cha mẹ, tổ tiên, văn hóa, v. v. Nếu không thấy được tất cả những yếu tố đó nơi một người thì ta sẽ không thấy rõ được người ấy một cách toàn vẹn. Người ấy có hành xử tiêu cực thì đó không phải là do ý người ấy muốn mà có thể người ấy là nạn nhân của sự trao truyền. Những hạt giống tiêu cực trong người ấy là do xã hội, cha mẹ, tổ tiên, hay văn hóa đã trao truyền lại.

Khi ý thức như thế thì ta dễ phát sanh lòng từ bi. Ta không còn ý muốn chỉ trích, trái lại ta sẽ tìm cách thay đổi môi trường, văn hóa để cho các thế hệ tương lai không phải tiếp nhận hạt giống tiêu cực như thế nữa. Thay vì bực bội, khó chịu thì ta phát tâm hành động với tâm từ bi.

Khi nhìn sâu vào tự thân, ta cũng nhận ra rằng những gì là tài năng hay hạnh phúc của ta đều do tổ tiên, cha mẹ, văn hóa, v.v… trao truyền lại. Ta là sự tiếp nối của tổ tiên, của dòng họ ta. Cũng vậy, những yếu tố tiêu cực trong ta như sợ hãi, sân hận, hay kỳ thị có thể là do cha mẹ, tổ tiên ta trao truyền lại. Trong cả hai trường hợp ta không phải là người đáng bị phán xét. Cha mẹ, tổ tiên ta đã không thể chuyển hóa những yếu tố tiêu cực trong họ và vì vậy họ đã truyền lại những yếu tố tiêu cực ấy cho ta. Tuy nhiên, ta có cơ hội để thay đổi, để không trao truyền những hạt giống tiêu cực ấy cho con cháu ta. Khi đã biết cách nhìn vào bản thân hay nhìn người khác như thế, ta sẽ có sự cảm thông, thương yêu và phát sinh ý muốn hành động để chuyển hóa.

8. Chia sẻ niềm vui với người khác

H. Cách nào là cách tốt nhất để chia sẻ niềm vui với người khác?

Tl. Khi ta thực sự có niềm vui thì không những chính ta được hưởng lợi lạc mà nhiều người khác cũng được hưởng. Niềm vui đích thực có thể giúp ích cho thân và tâm. Niềm vui nuôi dưỡng chúng ta. Trong Đạo Bụt, thiền tập được mô tả như nguồn thức ăn hằng ngày (thiền duyệt vi thực). Trong thiền tập, niềm vui và chánh niệm là những yếu tố quan trọng. Nếu trong suốt buổi ngồi thiền (thiền tọa) hay đi thiền (thiền hành) mà ta cảm thấy không có niềm vui thì sự thực tập của ta đã có điều gì đó không đúng.

Niềm vui của ta được lan tỏa một cách tự nhiên. Khi ta vui, ta hạnh phúc thì nguồn năng lượng ấy ảnh hưởng đến những người xung quanh. Ta sẽ tạo nên một bầu không khí nhẹ nhàng, dễ thở, và cùng với bạn bè ta tạo ra một niềm vui chung, có lợi lạc cho rất nhiều người. Hằng ngày chúng ta tụng câu: “Nguyện sáng cho (một) người thêm niềm vui, chiều giúp (một) người bớt khổ.” Nhưng đó là nói tối thiểu. Đem niềm vui cho một người tức là đem niềm vui tới cho rất nhiều người.

Khi sự hiểu biết của ta càng lớn thì tình thương yêu và lòng từ bi nhân ái của ta càng mở rộng. Khi lòng rộng mở thì ta dễ chấp nhận, dễ ôm ấp để chuyển hóa những cảm thọ tiêu cực trong ta. Giả sử ta bỏ một nắm muối vào trong một ly nước thì ta không thể uống ly nước đó vì nước rất mặn. Nhưng khi bỏ một nắm muối vào dòng sông thì nước sông không bị ảnh hưởng gì mấy và ta có thể uống nước sông dễ dàng. Sông rộng bao la cho nên có khả năng tiếp nhận, ôm ấp và chuyển hóa. Tâm ta cũng như dòng sông. Tâm ta cũng đủ rộng rãi để có thể chuyển hóa khổ đau, không những cho riêng mình mà còn cho tất cả mọi người xung quanh ta.

9. Thần tượng hóa nhưng rồi thất vọng

H. Tôi có xu hướng thần tượng hóa người này người kia, nhưng rồi thất vọng vì họ không như tôi mong đợi. Tôi phải làm sao?

Tl. Một hôm khi đang thực tập Mười động tác chánh niệm trước một cái cây, tôi bỗng nghiệm ra rằng cái cây đang hiến tặng cho tôi rất nhiều và tôi cũng hiến tặng cho cây rất nhiều. Cây cho tôi vẻ đẹp, bóng mát và dưỡng khí. Tôi cho cây hơi thở, lòng biết ơn và niềm vui. Cây và tôi tương tức. Khi nhìn một người khác ta cũng nên nhìn như thế, không tô đậm những gì mình đang thấy, hay tưởng tượng ra những gì không thực sự có mặt. Đôi khi ta trông đợi quá nhiều, ta muốn thần tượng hóa những gì ta thấy. Nếu khi nhìn một ai hay một vật gì mà ta chỉ nhìn như một thực tại đơn thuần, không tô đậm cũng không tưởng tượng, thì chúng ta sẽ ít đau khổ. Có nhiều người thương Bụt nhưng lại bóp méo hình ảnh của Bụt. Họ biến Bụt thành một vị thần linh hay một đấng sáng tạo. Làm như thế là tự hại mình và hại Bụt. Vì vậy, thực tập chánh niệm, nghĩa là nhận diện thực tại một cách đơn thuần như chúng đang là – là sự thực tập căn bản của đạo Bụt. “Thở vào tôi biết đây là hơi thở vào, thở ra tôi biết đây là hơi thở thở ra.” “Thở vào, tôi thấy trời xanh. Thở ra, tôi mỉm cười với bầu trời xanh.” Ghi nhận sự vật đơn thuần như thế sẽ giúp ta tránh được thói quen tô đậm hay tưởng tượng.

10. Buông xả hệ lụy

H. Tôi thường có nhiều vướng bận với những mối liên hệ, việc làm, cảm xúc, v.v… Làm sao để có thể buông xả bớt đi những hệ lụy ấy?

Tl. Buông xả có nghĩa là buông xả một cái gì đó. Có thể là buông xả một đối tượng của tâm ý hay một sáng tạo của tâm thức, ví dụ như ý tưởng, cảm thọ, ham muốn hay niềm tin. Kẹt vào một ý tưởng (kiến chấp) nào đó thì rất có thể điều đó mang lại cho ta nhiều đau khổ và lo lắng. Ta muốn buông xả nhưng làm thế nào để buông xả? Nếu chỉ muốn buông bỏ thôi thì không đủ. Trước hết ta cần phải công nhận rằng kiến chấp của ta là có thật. Ta phải nhìn sâu vào bản chất cũng như nguồn gốc của kiến chấp ấy, bởi vì mọi kiến chấp đều phát sinh từ cảm thọ và kinh nghiệm quá khứ, từ những gì mà ta đã nghe và đã thấy. Nhờ năng lượng của chánh niệm, của định lực mà ta có thể nhìn sâu và khám phá ra được gốc rễ của ý tưởng, cảm thọ, ham muốn trong ta. Niệm và định sẽ mang đến tuệ giác và tuệ giác có thể giúp ta buông xả được đối tượng của tâm thức. Giả sử ta có một ý niệm về hạnh phúc, ý niệm về những gì sẽ làm cho ta hạnh phúc. Ý niệm ấy có gốc rễ trong ta và trong môi trường ta sống. Ý niệm ấy cho ta biết những điều kiện ta cần có để được hạnh phúc. Ta ôm giữ ý niệm ấy trong mười năm, hai mươi năm và giờ đây ta nhận ra rằng ý niệm về hạnh phúc ấy đã làm cho ta đau khổ. Có thể trong ý niệm về hạnh phúc ấy có mang một chút ảo tưởng, sân hận hay thèm khát. Những yếu tố ấy là chất liệu của khổ đau. Mặt khác ta biết là ta có những kinh nghiệm khác như niềm vui, sự thanh thoát hay thương yêu. Ta nhận ra đó là những giờ phút hạnh phúc chân thật. Khi ta có được những giây phút hạnh phúc chân thật thì ta có thể buông bỏ đối tượng của tham đắm dễ dàng hơn vì ta đã có tuệ giác rằng những đối tượng kia sẽ không làm cho ta hạnh phúc. 

Rất nhiều người có ý muốn buông xả nhưng không thể buông xả được là vì họ không có đủ tuệ giác, họ không thấy được những cơ hội, những cửa ngõ khác, những cơ hội và cửa ngõ đưa ta về chốn bình an, hạnh phúc. Sợ hãi là một yếu tố cản trở cho sự buông xả. Chúng ta sợ rằng nếu buông bỏ đi thì ta không còn gì để bám giữ. Buông xả là một sự thực tập, là một nghệ thuật. Khi ta có đủ sức mạnh và quyết tâm thì ta có thể buông xả được những gì làm cho ta đau khổ.

11. Chánh niệm và năng lượng tình dục

H. Sự thực tập chánh niệm có thể giúp ta kiểm soát năng lượng tình dục?

Tl. Năng lượng tình dục là một hiện tượng sinh lý bình thường mà ta không nên cho là xấu xa, tội lỗi. Tất cả chúng ta đều có năng lượng tình dục. Trong truyền thống đạo Bụt, năng lượng phụng sự hay từ bi, không trái với bản năng thú tính. Phật tính trong ta có thể ôm ấp thú tính trong ta. Không cần tạo nên một tình trạng xung đột giữa hai bên. Làm như vậy rất có hại và sẽ gây nên rất nhiều tổn thương. Thực tập của đạo Bụt căn cứ trên tuệ giác bất nhị. Chúng ta có chánh niệm nhưng cũng có cả thất niệm. Chúng ta có từ bi nhưng cũng có khi nóng giận hay thù ghét. Tất cả đều cùng có trong ta. Không nên loại trừ hay gạt bỏ bất cứ thứ gì kể cả năng lượng tình dục. Chánh niệm là khả năng nhận diện những gì đang xảy ra mà không tham đắm, không đấu tranh hay đè nén. Ta gọi đó là nhận diện đơn thuần. Bước đầu tiên của chánh niệm là nhận diện và tiếp nhận những gì đang xảy ra dầu là tích cực hay tiêu cực, dầu là dễ chịu hay khó chịu. Sau đó, khi mà chánh niệm của ta đủ mạnh thì ta có thể biết được bản chất của những gì đang xảy ra và có thể chuyển đổi năng lượng của chúng hoặc là hướng năng lượng ấy về hướng khác. Nếu ta để tâm vào một mục tiêu gì khác và muốn thành tựu mục tiêu ấy thì năng lượng tình dục có thể được chuyển theo hướng mục tiêu đó và ta không còn thì giờ để nghĩ về tình dục.

Các vị xuất sĩ ý thức sự có mặt của năng lượng tình dục trong mình, nhưng nhờ sự yểm trợ của tăng thân, họ hướng tất cả năng lượng đó về hướng khác, hướng của những mục đích cao cả nhất. Họ dành thì giờ học hỏi giáo lý và pháp đàm về các phương pháp hành trì. Mỗi vị xuất sĩ có một người bạn đồng tu làm “đệ nhị thân”, nghĩa là làm thân thứ hai, vị này có trách nhiệm chăm sóc sự an lạc, sự tu tập cho “đệ nhị thân” của mình. Ngoài ra cũng còn phải dành thì giờ chăm sóc các thiền sinh đến tu học. Hướng năng lượng vào những việc ấy mang lại rất nhiều hạnh phúc. Nếu chúng ta tổ chức đời sống của mình một cách thông minh, khéo léo và sử dụng năng lượng của mình để giúp người khác bớt khổ thì năng lượng tình dục
không còn là một vấn đề lớn trong đời sống của ta nữa.

Giáo lý về thương yêu trong đạo Bụt rất quan trọng. Từ Bi, Hỷ, Xả là những yếu tố của một tình yêu thương chân thật mà chúng ta thực tập mỗi ngày. Thương yêu khác với khoái cảm tình dục. Trong liên hệ tình dục nếu không có tình yêu chân thật, nếu không có những cam kết vững bền hay hiểu biết lẫn nhau thì sẽ gây nên đau khổ và đổ vỡ. Để có được hạnh phúc, chúng ta phải có hiểu biết sâu sắc và cách ứng xử phù hợp. Như vậy, với chánh niệm và hiểu biết thương yêu thì đời sống tình dục có thể trở nên đẹp đẽ và thánh thiện.

12. Hình ảnh, phim ảnh lõa thể trong nghệ thuật

H. Có nên tránh những hình ảnh lõa thể hay tranh vẽ, phim ảnh có liên hệ tới tình dục hay không? Có thể áp dụng chánh niệm trong tình dục hay không?

Tl. Thân thể con người rất đẹp và tình dục cũng  rất thiêng liêng. Nếu không có tình dục thì Bụt đã không ra đời. Chúng ta không thể tách rời thân và tâm: Thân thể chúng ta cũng linh thiêng như tâm hồn. Bởi thế cho nên nếu coi thân thể như là một trò tiêu khiển hay một đối tượng của tình dục thì chưa thực sự thấy được thân thể. Thân thể chúng ta cần phải được đối xử một cách tôn trọng. Khi chúng ta xúc chạm vào thân thể của một ai đó tức là chúng ta đã chạm vào tâm hồn của người đó rồi.

Bụt dạy rằng thân người được làm bằng năm yếu tố: sắc thân, cảm thọ, tri giác, tâm hành và nhận thức, gọi là ngũ uẩn. Ngũ uẩn nương nhau mà biểu hiện. Tâm thức không thể biểu hiện nếu không có sắc thân. Vì vậy, tuệ giác thân và tâm là một, thân tâm nhất như rất quan trọng. Khi ta tôn trọng ai tức là ta tôn trọng thân thể của người ấy chứ không phải chỉ tôn trọng cảm xúc, ý tưởng và tâm thức của người ấy.

Tác phẩm nghệ thuật có thể mang nội dung tình dục. Tuy nhiên nếu ta phô diễn thân thể con người chỉ để tưới tẩm các hạt giống tham dục thì ta đang gieo trồng những hạt giống khổ đau trong tương lai cho ta và cho người khác. Có nhiều thi sĩ, họa sĩ, hay đạo diễn điện ảnh có khả năng diễn bày thân thể con người như là một đối tượng để quán chiếu và kính ngưỡng. Khi mà thân thể con người được mô tả như thế thì những hạt giống thẩm mỹ, vui tươi, kính ngưỡng của người thưởng thức được tưới tẩm. Đó là những gì mà chúng ta phải làm. Chúng ta phải mô tả thân thể con người như thế nào để mang lại sự tín cẩn, hạnh phúc và niềm an vui.

13. Vướng mắc vào máy ảnh, điện thoại di động

H. Tôi không thể tưởng tượng được là tôi có thể sống mà không có cái máy ảnh hay điện thoại di động. Gắn bó với những tiện nghi này có gì là sai không?

Tl. Có máy ảnh là tuyệt vời mà không có máy ảnh cũng tuyệt vời. Chánh niệm giúp ta cảm nhận được niềm vui khi có máy ảnh mà không quá say mê trong niềm vui đó. Chánh niệm giúp ta vẫn có được bình an cho dù ta không có máy ảnh. Chúng ta có xu hướng muốn lưu giữ những hình ảnh lâu dài và cũng muốn chia sẻ với bạn bè những hình ảnh và kinh nghiệm của mình. Đó là lý do chính đáng để có máy ảnh, nhưng khi thấy một chiếc máy ảnh đời mới hơn, đắt tiền hơn rồi muốn vứt bỏ cái máy cũ để sắm máy mới, như thế là không tốt. Chính vì biết điểm yếu của ta là ham tiêu thụ cho nên những nhà sản xuất càng ngày càng sản xuất nhiều, và chúng ta đang gây nên tình trạng ô nhiễm môi trường vì các đồ phế thải. Cũng vì muốn tiêu thụ nên chúng ta dành rất nhiều thì giờ vào đó, nên không còn thời gian để làm việc, để yêu thương, để xây dựng tình huynh đệ nữa. Chúng ta nên tập sống nếp sống giản dị mà không cần tiêu thụ quá mức. Một cuộc sống giản dị có thể mang lại cho ta rất nhiều
hạnh phúc.

14. Đạo Bụt và vấn đề đa văn hóa

H. Xin cho biết quan điểm của đạo Phật về vấn đề đa văn hóa. Có thể nào tự nhận mình là người da màu và đồng thời không bị ám ảnh bởi ý nghĩ ấy hay không?

Tl. Mỗi người trong chúng ta đều mang trong mình những yếu tố của đa văn hóa và đa sắc tộc. Chúng ta không hoàn toàn “thuần chủng”. Vì vậy, tự nhận mình thuộc về một sắc tộc nào đó thì cũng tốt, tuy nhiên tôi nghĩ rằng nếu chú trọng về những giá trị văn hóa và tâm linh thì có ích hơn. Đó là những giá trị chung mà ai cũng có thể tán thành và trân trọng. Nếu chúng ta tin rằng con cái ở đâu ông bà ở đấy thì nên thiết lập một bàn thờ ở trong nhà để luôn luôn cảm thấy gần gũi với tổ tiên và giữ vững niềm tin nơi truyền thống văn hóa của mình. Khi có niềm tin nơi nét đẹp văn hóa của mình thì chúng ta sẽ có khả năng bảo tồn nét đẹp văn hóa ấy mặc dù những người khác có thể không hiểu. Nếu không dành thì giờ để dạy cho con cháu về văn hóa của mình thì chúng sẽ đánh mất đi truyền thống văn hóa của tổ tiên. Nhưng cũng nên nhớ rằng nền văn hóa nào cũng có hoa và rác. Không nên coi trọng văn hóa của mình và coi khinh văn hóa của người khác. Nếu chúng ta cố chấp vào những tập tục truyền thống văn hóa và bám giữ lấy, kể cả những tập tục không còn ích lợi, thì chúng ta chỉ bị thiệt thòi mà thôi. Thiết lập liên hệ với tổ tiên và tưởng nhớ tới tổ tiên là một cách tôn trọng và thừa nhận truyền thống văn hóa của mình mà không mù quáng chấp kẹt vào đó.

15. Bận rộn trong chánh niệm

H. Làm sao để luôn chánh niệm khi sống trong một xã hội mà làm gì và lúc nào cũng phải vội vã. Có thể bận rộn hay vội vã trong chánh niệm không? 

Tl. Khi mới thực tập, nếu ta hoạt động chậm lại thì sẽ dễ dàng có chánh niệm hơn. Khi thực tập chánh niệm đã giỏi rồi thì có thể hoạt động nhanh hơn, miễn là ta luôn giữ chánh niệm. Ta có thể đi trong chánh niệm nhưng ta cũng có thể tùy lúc chạy trong chánh niệm. Nên sắp đặt lịch trình sao cho mình có dư thời giờ để khỏi phải vội vàng. Ví dụ nếu phải có mặt tại sân bay lúc 10 giờ thì nên đi sớm hơn một giờ để có được thú vui đi thiền hành trong phòng chờ ở sân bay. Khi lái xe, thay vì chạy cho mau tới nơi thì nên vui hưởng từng giây phút của việc lái xe. Khi nấu bữa ăn sáng thì nên biến việc nấu ăn sáng thành một buổi thiền tập, một cơ hội thực tập chánh niệm. Đừng nghĩ tới những gì mình cần phải làm sau đó. Hãy thưởng thức từng giây phút khi sửa soạn bữa ăn, ta sẽ đem niềm vui tới cho cả nhà. Bí quyết là an trú trong hiện tại, bây giờ và ở đây, hạnh phúc trong từng giây phút ấy.         

Lẽ tất nhiên là ta có nhiều việc phải làm. Ngay cả các vị xuất sĩ cũng có nhiều việc phải làm. Nhưng chúng tôi học cách làm việc trong niềm vui mà không phải là một lao tác cực nhọc. Đây là một nghệ thuật mà bất cứ ai trong chúng ta cũng có thể làm được. Nếu biết giảm tiêu thụ thì ta không cần phải làm việc cực nhọc. Không cần có lương cao, không cần có xe đắt tiền ta mới có hạnh phúc. Nghệ thuật sống đơn giản sẽ cho ta có nhiều thời gian hơn để sống hạnh phúc và để giúp đỡ cho người khác.

16. Phản ứng giễu cợt

H. Tôi đang cố gắng thực tập ái ngữ và lắng nghe ở nơi làm việc, nhưng nhiều đồng nghiệp đáp lại bằng sự giễu cợt. Tôi phải thực tập như thế nào? 

Tl. Trong từ bi có sự kiên nhẫn. Khi thực sự thương yêu thì chúng ta có khả năng chờ đợi và kiên nhẫn. Những người đáp lại bằng sự nghi ngờ và giễu cợt là vì trong quá khứ họ đã có những kinh nghiệm khổ đau. Họ mất lòng tin. Họ ít khi được hiểu và được thương. Họ không tin rằng sự hiểu biết và tình thương yêu mà ta dành cho họ là chân thật, nên mặc dù ta hết lòng yêu thương nhưng họ vẫn nghi ngờ.

Có nhiều người trẻ ít nhận được tình thương và sự cảm thông từ trong gia đình, ngoài học đường, hay ngoài xã hội. Họ không thấy bất cứ thứ gì là tốt đẹp, là chân thật. Họ đi lang thang để tìm kiếm một niềm tin. Họ giống như là những con ma đói. Trong truyền thống đạo Bụt, ma đói được mô tả có cái bụng rất to nhưng cuống họng rất nhỏ, hẹp như cây kim. Họ rất đói nhưng không nuốt được thức ăn. Họ đang khao khát được hiểu và được thương yêu nhưng lại không có khả năng tiếp nhận được tình thương. Ta phải giúp khai thông cuống họng của họ trước khi ban tặng thức ăn. Điều đó cần sự thực tập kiên nhẫn, cần tiếp tục hiểu biết và thương yêu. Cần có thời gian để họ có thêm niềm tin, chỉ đến khi đó ta mới có thể giúp được họ. Nên mặc dù đối diện với sự hững hờ và nghi ngờ, ta cần phải tiếp tục thực tập và kiên nhẫn.

17. Để được hạnh phúc mỗi ngày

H. Xin cho biết những gì mà một người bình thường có thể làm để được hạnh phúc hơn mỗi ngày?

Tl. Thiền hành là một việc mà ai cũng làm được. Có nhiều người thấy khó khăn trong khi ngồi thiền nhưng phần lớn thì ai cũng đi thiền được. Nếu ta ngồi trên xe lăn thì ta cũng có thể thực tập thiền lăn xe được. Bất cứ ở đâu, Berkeley, New York, Amsterdam, Paris hay Bangkok và bất cứ ai cũng đều có thể thưởng thức niềm vui khi đi thiền. Mỗi bước chân giúp ta dừng lại sự thất niệm, trở về tiếp xúc với sự sống mầu nhiệm để được nuôi dưỡng và chuyển hóa. Thiền hành là một sự thực tập rất dễ chịu, có công năng chuyển hóa và trị liệu. Khi thực tập thiền hành ta đem tâm về hợp nhất với thân và trở về với hơi thở. Theo dõi hơi thở, giúp cho thân và tâm ta hợp nhất. Khi đó ta sẽ thực sự có mặt, thực sự sống và tìm thấy hạnh phúc trong giờ phút hiện tại.

Sư ông Làng Mai kể chuyện cho thiếu nhi vị Bụt của các con

(Trích từ sách “Bồ Tát Ngàn Tay Ngàn Mắt” của Thiền sư Thích Nhất Hạnh)

Bảo Lang và Bảo Đăng đang giận nhau, giành đồ chơi không ai chịu thua ai. Mẹ thấy thế, liền hỏi: “Ơ kìa, Bụt của hai con đi đâu mất rồi? Các con cãi nhau xấu quá! Ngoan nào, đến trước bàn thờ Bụt và thở cho tâm các con bình yên. Có như thế thì Bụt Bảo Lang và Bụt Bảo Đăng mới chịu trở về lại trong các con chứ”.

Bà ngoại đi chợ về thấy hai bé đang đứng trước bàn thờ Bụt thở hổn hển, và đang từ từ nín khóc. Bà thương và mến phục hai bé quá, tuy mới 9 tuổi và 11 tuổi nhưng đã biết làm theo thật tốt những lời Sư Ông dạy. 

 

 

Khi các con vào chùa mà thấy tượng hay hình vẽ một người có rất nhiều tay, đó là Bồ Tát Ngàn Tay Ngàn Mắt. Nếu nhìn cho kỹ, các con sẽ thấy trong mỗi bàn tay lại có thêm một con mắt. Bàn tay tượng trưng cho tình thương và hành động, còn con mắt thì tượng trưng cho sự hiểu biết. Tình thương phải đi đôi với sự hiểu biết. Bồ Tát là người luôn tìm cách giúp đỡ cho những người xung quanh, nhưng hành động phải có sự hiểu biết. Có cánh tay và không có con mắt trong lòng bàn tay, cũng giống như thương mà không hiểu thì chưa chắc giúp được người khác có hạnh phúc thật sự. Tượng Bồ Tát có những cánh tay ngắn nhưng cũng có những cánh tay thật dài. Cánh tay ngắn là để giúp cho những người ở gần, còn những cánh tay dài là để giúp cho những người ở xa. Một vị Bồ Tát có thể làm nhiều việc cùng một lúc. Khi trái tim mình có nhiều tình thương và hiểu biết, thì tự nhiên mình làm được rất nhiều việc. Hạnh phúc của một vị Bồ Tát rất lớn khi giúp đỡ được cho nhiều người.  Mẹ các con là một vị Bồ Tát và ba các con cũng vậy. Mẹ có một cánh tay lo cho em, một cánh tay giúp con học bài, một cánh tay nấu cơm cho cả nhà. Còn ba các con thì đi làm việc ở sở về, ba giúp mẹ bồng em, ba giúp con giải bài toán khó, sửa điện, lau nhà… Ba mẹ còn giúp hàng xóm, họ hàng gần xa mỗi khi họ cần đến. Ba mẹ có nhiều cánh tay lắm. Tình thương và sự hiểu biết của mình càng lớn thì số cánh tay càng nhiều. 

 

 

Khi nhìn kỹ, Sư Ông khám phá ra rằng xung quanh chúng ta có rất nhiều vị Bụt và Bồ Tát. Sư Ông biết các con cũng là những vị Bồ Tát nhỏ. Khi các con biết hiểu, biết thương, biết lắng nghe và giúp đỡ những người xung quanh, thì các con cũng giống như Bồ Tát Ngàn Tay Ngàn Mắt đó. Bàn tay nào của các con cũng có một con mắt. Bàn tay của các con đã trở thành bàn tay của những vị Bồ Tát chứa đầy hiểu biết và thương yêu, rất đẹp. Vì vậy, các con đừng nghĩ Bụt và Bồ Tát chỉ là tượng, hay hình vẽ có ở trong những ngôi chùa nhé.

 

Lễ xuất gia cây Nhãn 18.05.2023

Tin vui vừa đến!

Vào ngày 18.05.2023, đại chúng đã chào đón thêm 2 thành viên mới thuộc gia đình xuất gia cây Nhãn. Buổi lễ xuất gia đã được diễn ra tại Tu viện Vườn Ươm, Thái Lan. Đây là một niềm vui rất lớn của tăng thân Làng Mai. 

Không khí của tu viện trong tuần qua rất ấm áp và hân hoan, đại chúng đã cùng nhau thực tập  nuôi dưỡng Tâm Bồ Đề của mình, năng lượng chánh niệm và bình an của mỗi thành viên góp vào năng lượng chung để yểm trợ cho hai giới tử chuẩn bị được xuất gia. Thiền đường Voi Trắng sáng nay đã được trang hoàng thật trang nghiêm, chu đáo, hoà thêm vào đó là sự có mặt của quý thầy, quý sư cô và các vị cư sĩ đã làm cho buổi lễ được hùng tráng hơn.

 

 

Những lời tụng kinh, niệm Bụt vang toả khắp nơi nơi, không một nơi nào là không nghe thấy. Dường như những âm thanh ấy ngưng đọng trên khắp các vòm cây, những bông hoa phượng đỏ rực để rồi kết tụ lại trong lòng hai vị giới tử và đại chúng. Các vị giới tử quỳ xuống nguyện một lòng buông bỏ tất cả để tiếp nhận giới pháp, học hỏi và cùng tăng thân thực hiện chí nguyện độ đời với hình tướng như một người con trai của Bụt.

Thầy Pháp Niệm đã đại diện tăng thân Làng Mai thực hiện nghi thức xuống tóc và truyền giới cho các sư em. Tuy Sư Ông không có mặt trong hình thức này, nhưng tăng thân vẫn tiếp tục mang Sư Ông đi về tương lai. Và thực tập tiếp nối Sư Ông trong mỗi giây, mỗi phút và qua những hình thức khác nhau. Kể từ hôm nay, hai sư chú chính thức trở thành những thành viên thuộc tăng thân Làng Mai với những cái tên mới là Chân Nhất Giác và Chân Nhất Ngữ thuộc thế hệ 44 tông Lâm Tế và thế hệ thứ 10 phái Liễu Quán.

 

Chiều cùng ngày, đại chúng đã có dịp quây quần bên nhau để ăn mừng niềm vui lớn này và đây cũng là cơ hội để các sư chú ra mắt đại chúng.