Thường, lạc, ngã, tịnh

 

Nếu nhìn kỹ ta sẽ thấy rằng những điều ta học được ở các kinh điển, kể cả trong kinh Duy Ma, có liên hệ rất mật thiết trong việc thực tập tu học của chúng ta. Người tu học luôn luôn nghĩ đến mục đích của mình là giải thoát và an lạc, cũng như người làm cách mạng xã hội luôn luôn nghĩ tới tự do và bình đẳng xã hội. Người tu học có thể nói đến giải thoát, giác ngộ và an lạc rất nhiều mà không chứng nghiệm được giải thoát, giác ngộ và an lạc trong khi mình đang nói. Người làm cách mạng xã hội cũng vậy; họ nói đến tự do, công bình xã hội và ấm no nhưng sự thực về công bình, tự do và no ấm không hề thấy có. Một chủ nghĩa đã hứa hẹn tự do, công bình và no ấm trong suốt bảy mươi lăm năm mà cái tự do, công bình no ấm ấy không hề xuất hiện. Điều này không phải chỉ những nhà chính trị mắc phải, mà ngay những người tu học cũng mắc phải. Phần đông chúng ta rất “hồ hởi phấn khởi” về đạo giải thoát, giác ngộ và an lạc của chúng ta; tuy nhiên chúng ta chỉ nói nhiều chứ không nếm được. Chúng ta nói cuộc đời là vô thường, vô ngã, khổ đau, chúng ta đi tìm chân tâm, an lạc, giải thoát và giác ngộ nhưng chúng ta có trực tiếp nếm được cái giải thoát và an lạc ấy hay không? Thực tập theo con đường Bụt dạy, ta không nên làm như những người chỉ nói về các thức ăn mà không bao giờ được ăn. Không nên như những người làm nhà băng mỗi ngày chỉ đi đếm tiền dùm cho người khác. Chúng ta phải trực tiếp nếm cái vị tịnh lạc và giải thoát mà ta đã từng nói đó.

Theo Bụt dạy thì vị tịnh lạc và giải thoát đó chúng ta có thể nếm được ngay trong hiện tại mà không cần phải tu mười năm hay hai mươi năm. Ngay trong ngày đầu tu học ta cũng có thể đạt được phần nào cái tịnh lạc và giải thoát đó. Chúng ta phải đặt lại cấp bách câu hỏi ấy: “cái an lạc và giải thoát mà ta nói đó chúng ta đã nếm được hay chưa?” Nếu chưa thì ta phải nếm cho được trong ngày hôm nay. Thiền duyệt mà Bụt nếm và dùng làm thức ăn hàng ngày, chúng ta cũng phải được nếm. Hạnh phúc mà chúng ta nói tới làm sao chúng ta nếm được hoặc tiếp xúc được? Bản chất của hạnh phúc ấy là gì? Hôm nay chúng ta sẽ nói sơ lược về cái đó.

 

1.Yếu tố thứ nhất là tự do:

Tự do đó là chủ quyền (sovereignty). Có khi ta dịch là tự tại. Ta là ta. Ta không là nô lệ của quá khứ, của tương lai, của hiện tại; ta không là nô lệ của những phiền não, và như vậy tự do đó được dịch là giải thoát (freedom, liberation). Đó là bản chất của sự an lạc. Đó là nền tảng tất yếu của sự an lạc.

Cố nhiên là muốn thực tập đạo Bụt trước nhất là phải thực tập tự do. Nếu không có tự do thì chúng ta không có hạnh phúc. Đó là điều mà ta không chối cãi được. Đó là nền tảng của thực tập trong đạo Bụt. Cái mà ta gọi là chủ quyền hoặc tự do đó có khi được hình dung bằng một danh từ rất là kỳ đặc: ngã. Ngã đây không phải là một bản chất hoặc một thực tại bất biến. Nó không phải là atma. Ngã đây là sự tự do. Một trong bốn định nghĩa của Niết Bàn là ngã. Niết Bàn có ngã. Ngã đây không là ngã chấp mà là sự tự tại, không bị vướng bận. Ta biết rằng bốn định nghĩa của Niết Bàn là thường, lạc, ngã và tịnh. Toàn bộ của giáo lý Bụt dạy là để nói về sự thực vô ngã và để diệt trừ những khái niệm về ngã. Nhưng khi định nghĩa Niết Bàn là ngã thì ta nên hiểu ngã này chỉ có nghĩa là tự do hoặc là chủ quyền thôi.

Khi đi thiền hành, quý vị bước từng bước chân thảnh thơi, an trú trong hiện tại và không bị vướng bận vào những phiền não về quá khứ, những lo lắng về tương lai thì quý vị có thảnh thơi và tự tại; quý vị tiếp xúc được với bản thân và với vũ trụ chung quanh. Cái thảnh thơi tự tại đó ta có thể gọi là ngã. Chữ ngã này không có nghĩa là một thực thể bất biến, đồng nhất, tách rời với những gì ngoài ngã như được diễn tả trong khái niệm ngã chấp. Chúng ta chỉ có hạnh phúc khi nào chúng ta có cái tự do đó. Vì vậy khi đi thiền hành hay ngồi thiền, chính ta biết là ta có tự tại hay không, hay là ta bị bao vây bởi phiền não, bởi những chuyện đã qua và những chuyện sắp tới. Nếu biết rằng ta đang bị bao vây bởi những bực bội thì ta cũng biết rằng ta đang không có hạnh phúc, vì ta không có tự do. Và tu học là để đạt tới tự do. Đạt tới tự do là cắt đứt những sợi dây ràng buộc của mình để có thể tiếp xúc được với sự sống trong giờ phút hiện tại. Hạnh phúc là tự do, không hạnh phúc là ràng buộc.

Khi ta đặt câu hỏi: “Hạnh phúc của Bụt là gì? Chúng ta có quyền và có khả năng nếm được thứ hạnh phúc đó hay không?” Ta có thể trả lời rằng: “Có”. Vì bản chất của hạnh phúc đó là sự tự do và nếu ta có tự do, có thảnh thơi thì tức là ta đã tham dự vào cái hạnh phúc của Bụt một cách trực tiếp. Ta có thể làm được chuyện đó ngay từ bây giờ. Kinh nói trước khi rời thành phố Tỳ Sa Ly (Vaisali) lần chót để đi về phương Bắc, Bụt đã nhìn thành phố bằng cặp mắt của một con voi chúa, rồi mới ngoảnh mặt lại và tiến về hướng Bắc. Nhìn bằng cặp mắt của một con voi chúa là nhìn bằng cái nhìn thật là sâu sắc. Mình chỉ có thể nhìn sâu sắc sự vật trên đời này nếu mình có được cái tự do lớn, cái thảnh thơi lớn, không bị vướng mắc bởi những sợi dây ràng buộc. Bụt hay khen thành phố Vaisali và núi Thứu là đẹp: trong những giây phút đó Bụt cũng an trú trong hiện tại và đưa cặp mắt của một con tượng chúa để nhìn.

Sáng nay đi thiền hành với đại chúng về, tôi có nói chuyện về đôi mắt của con tượng chúa đó. Tôi nói mỗi người chúng ta trong khi đi thiền hành thỉnh thoảng cũng có thể dừng lại và đưa con mắt tượng vương của mình để nhìn cảnh vật của xóm Thượng. Nếu ta nhìn bằng con mắt tự do thì cái nhìn của ta sẽ bao gồm được cả vũ trụ trong giây phút đó. Khi ta dừng lại và dừng lại với tất cả con người của ta thì ta sẽ có cái năng lượng của giải thoát, và khi ta đưa cặp mắt voi chúa của ta mà nhìn cảnh vật xóm Thượng thì những vùng năng lượng của giải thoát sẽ được dâng lên mắt. Nhờ thế mà cái nhìn của ta trở nên sâu sắc và chọc thủng được bức màn thất niệm và hôn mê. Câu thơ của Thế Lữ trong bài Hổ Nhớ Rừng:

Trong đêm tối mắt thần khi đã quắc
Là khiến cho vạn vật đều im hơi 
Ta biết ta chúa tể của muôn loài 
Giữa chốn thảo hoa không tên không tuổi

Khi cọp đưa mắt của cọp chúa mà nhìn cảnh rừng núi của nó, tất cả muôn loài đều nín im thin thít. Và nó biết nó là chúa tể của rừng núi. Khi một người có định lực lớn đưa cặp mắt nhìn cảnh vật của xóm Thượng thì tự nhiên những lo lắng và những phiền não sẽ lắng im phăng phắc. Nếu chúng ta nhìn cảnh vật xóm Thượng như vậy một lần trong đời thôi, thì sống trên đời cũng đã không uổng. Huống gì chúng ta có thể nhìn nhiều lần trong ngày? Thực tập là làm nhiều lần. Mỗi giây phút là một viên ngọc quý. Nếu Bụt nhìn sự vật với cặp mắt tượng vương thì khi bước đi Bụt cũng bước những bước chân của con sư tử chúa. Từng bước thảnh thơi dẫm lên mặt đất của thực tại, và như vậy bước đi của Người là bước đi của giải thoát an lạc. Ta biết hạnh phúc của Người là hạnh phúc căn cứ trên tự do. Vì vậy nếu bị quá khứ phong tỏa và tương lai lôi kéo thì chúng ta không có tự do, không có hạnh phúc.

Thực tập đạo Bụt là thực tập hạnh phúc. Ta nên biết chánh niệm (mindfulness) là vũ khí giúp chúng ta đoạt lại quyền tự do mà chúng ta đã đánh mất và đang đánh mất. Người tu mà không biết sử dụng chánh niệm thì không có vũ khí nào khác cả để giành lại chủ quyền của mình. Chủ quyền đó đạo Bụt đại thừa gọi là ngã. Đạo Bụt đại thừa không sợ danh từ, trong đó có danh từ “Ngã”. Chánh niệm là một thứ vũ khí giúp ta giành lại chủ quyền, nhưng ta còn một vũ khí khác cũng quan trọng lắm, đó là giới luật. Suốt mùa hè chúng ta đã học và thấy rất rõ là giới luật không phải những gì do người khác bắt buộc ta phải theo mà là hoa trái của chánh niệm. Giới luật căn bản của tất cả các giới luật là chánh niệm. Chánh niệm là mẹ của tất cả các giới luật.

Nhờ chánh niệm tôi biết rằng sát sanh tạo ra đau khổ. Nhờ chánh niệm tôi biết rằng uống rượu và sử dụng các chất ma túy tạo ra khổ đau. Vì chánh niệm tôi biết rằng tà dâm làm tan nát gia đình và tạo ra không biết bao nhiêu là đau khổ. Vì vậy tôi nguyện không uống rượu, không sát hại và không tà dâm. Giới luật, như vậy, là hoa trái của chánh niệm. Giới luật vì thế không phải là một cái gì hạn chế tự do của mình. Những người chưa học Bụt và nhất là chưa thực tập, mỗi khi nghe nói tới giới thì cứ tưởng rằng giới luật hạn chế tự do của mình. Sự thực, giới luật bảo vệ tự do của mình, giúp mình có thêm tự do. Phá giới thì ta lâm vào cái vòng tù tội (không phải là cái vòng tù tội của chánh quyền đặt ra mà là cái nhà tù của khổ đau). Ví dụ khi uống rượu và sử dụng các chất ma túy ta tự giam ta vào cái vòng nghiện ngập. Khăng khăng mình buộc lấy mình vào trong. Mình tự tạo khổ đau cho mình và tạo khổ đau cho những người khác; mình tạo ra những cái nhà tù cho mình và cho những người khác. Ta thử nghĩ cho kỹ lại xem. Ta mà nghiện ngập thì cả gia đình ta ở tù hết. Ta “tà dâm” thì cả gia đình ta cũng “ở tù” hết. Cái nhà tù đó là nhà tù của đau khổ.

Trong một đại chúng tu học cũng vậy, nếu có một người phạm giới thì tất cả đại chúng đều lãnh đủ hết. Cho nên tự do của một người, giới luật của một người có liên hệ tới hạnh phúc và tự do của những người khác trong đại chúng. Trong kinh Sa Môn Quả, Bụt có nói là khi một vị khất sĩ giữ giới thì vị ấy được tự do, vị ấy không còn sợ hãi. Ngủ dưới gốc cây ta cũng cảm thấy rất an lành. Các vị khất sĩ giữ đến hai trăm năm mươi giới thì tự do càng lớn. Khi có tự do ta cũng có hạnh phúc. Mà hạnh phúc là an lạc (peace and joy). Nếu mình nói tuy mình đã có tự do rồi mà mình vẫn chưa có an lạc thì mình hãy thử tự hỏi là cái tự do đó có phải là tự do thực sự chưa? Bởi vì nếu đó là tự do thật sự thì dù không muốn mình vẫn có an lạc. Sự thật là như thế. Nhiều khi không có tự do mà mình cứ tưởng là mình có tự do, cũng như rất nhiều người có vấn đề về ruột mà vẫn nghĩ là mình không hề có vấn đề về ruột. Có người có rất nhiều nội kết mà cứ tưởng là không có nội kết.

Khi tôi nhìn cảnh mặt trời lặn rực rỡ huy hoàng thì tôi có hạnh phúc. Có kẻ nói rằng vì cảnh mặt trời kia là vô thường, nên cái đẹp ấy chỉ là cái hạnh phúc của thế gian chứ không phải là cái hạnh phúc của người giải thoát. Cái đó không đúng. Hạnh phúc của người giải thoát là hạnh phúc mang theo tự do và biểu lộ được tự do. Còn hạnh phúc của người không giải thoát là hạnh phúc mang theo sự ràng buộc. Bụt có thể nhìn bông hoa và khen bông hoa đó là đẹp mà vẫn không bị vướng mắc, không bị ràng buộc bởi cái đẹp ấy. Còn người không có giải thoát nhìn vào một bông hoa có thể bị dính vào bông hoa. Khi nhìn bông hoa, Bụt thấy được tính chất vô thường của bông hoa và ý thức về vô thường đó chứng tỏ rằng Bụt có giải thoát.

Vì vậy khi Bụt nói với thầy A Nan: “Này thầy A Nan, thành phố Vaisali đẹp quá há!” Bụt quả thấy thành phố đẹp. Bụt biết thưởng thức thành phố mà không bị vướng mắc vào thành phố. Chúng ta là những người tu theo Bụt, chúng ta có thể thấy được cuộc sống mầu nhiệm trong giây phút hiện tại, chúng ta thấy được cái đẹp và cái hay của vũ trụ vạn hữu trong giây phút hiện tại, chúng ta có thể hưởng thụ cái hạnh phúc đó với điều kiện là chúng ta thấu được lẽ vô thường, biết rõ là những hiện tượng đó đều là những sự kiện vô thường sẽ tan biến.

Nói một cách khác hơn là trong khi thưởng thức những cái đó chúng ta vẫn còn là những con người tự do. Thành ra an lạc ở đây phải được làm bằng chất liệu của tự do. Nếu không có chất liệu tự do thì không thể gọi đó là an lạc chân thực. Người kia đang hưởng thụ năm món dục lạc (tài, sắc, danh, thực và thụy: moneỵ, sex, fame, uncontrolled eating, and oversleeping), tham đắm và ràng buộc vào năm món dục lạc như một con thiêu thân nhảy vào trong lửa. Người như vậy không có tự do. Khi chúng ta đi thiền hành hay uống một ly nước mát, ta có quyền có sự an lạc. Chúng ta đừng tưởng rằng có an lạc như vậy là có tội vì đó là hạnh phúc thế gian. Không, hạnh phúc đó cũng là hạnh phúc giải thoát, Bụt cũng hưởng cái hạnh phúc đó mà Người không vướng víu. 
Ta không thể hiểu bản chất của an lạc trong đạo Bụt nếu ta không biết rằng tự do là bản chất của an lạc. Bụt dạy các vị khất sĩ khi ăn nên quán chiếu về thức ăn. Các thầy có thể thấy ngon trong khi ăn nhưng các thầy cũng biết rằng thức ăn cũng bất tịnh và khi nuốt vào trong bụng rồi thì thức ăn sẽ rất khác. Đó là cách quán chiếu về tính cách bất tịnh của thức ăn mà các thầy ngày xưa thường thực tập. Cố nhiên khi tắm gội thân thể sạch sẽ ta cũng biết rằng phải hiểu nghĩa sạch sẽ ấy theo tinh thần vô thường, nghĩa là mình biết trong con người mình đồng thời có những cái không sạch. Vì vậy Bụt dạy quán bất tịnh. Chẳng phải khi mình mẩy mồ hôi dơ dáy mình mới quán bất tịnh được mà khi mới tắm sạch mình cũng quán thấy thân thể mình có tính bất tịnh như thường.

2. Yếu tố thứ hai là an lạc:

An có nghĩa là tâm tư không bị khuấy động. Cái cảnh mặt trời huy hoàng kia, niềm vui trước mắt kia không khuấy động được tâm tư mình. Mình đang thưởng thức nó nhưng tâm mình vẫn bình thản. Mình thưởng thức nó nhưng những huy hoàng kia không tạo sóng gió và không tạo ra những phiền não ràng buộc trong tâm mình. Cái đó gọi là an.

An cũng có nghĩa là không sợ hãi. Biết rằng vạn vật vô thường, chính ngũ uẩn của ta cũng vô thường nên ta không sợ hãi cái sanh và cái diệt. Đó mới là thứ an tịnh vững chải nhất. Ta biết rằng hạnh phúc trong môi trường tu học được làm bằng bản chất của sự an tịnh. Nếu con người không có bản chất của sự an tịnh này thì không có hạnh phúc. Còn cái “an lạc” của người đang say mê trong ngũ dục không gọi là an lạc được. Đó gọi là đam mê, là sự đánh mất mình.

Lạc là khả năng vui sống. Bụt bằng sự sống hằng ngày của Người chứng tỏ là Người có sự vui sống. Tôi rất lấy làm lạ là trong mấy chục năm tu học ở tu viện, được học rất nhiều giáo lý sâu sắc của đạo Bụt nhưng chưa bao giờ tôi được quý thầy dạy cho những câu mà Bụt nói với thầy A Nan như: “Này thầy A Nan, núi Thứu đẹp quá! A Nan, Thầy hãy nhìn xuống cánh đồng lúa kia, đẹp không? Tại sao thầy không tìm cách may áo của các vị khất sĩ theo mẫu mực của các cánh đồng lúa này? Thầy A Nan, thành Vaisali đẹp quá phải không?”

Bụt đã chứng tỏ là Người có rất nhiều hạnh phúc. Người an trú trong hiện tại. Người có tự do. Người đã sống đời sống thanh thản an lạc. Người tu mà không có an và lạc thì tu chưa giỏi. Hạnh phúc đó và sự an lạc đó thuộc về cái an lạc xuất thế gian (lokottara), trong khi những người tham đắm trong ngũ dục thì quanh quẩn trong cái gọi là hạnh phúc thế gian. Cũng là sắc, thanh, hương, vị, xúc nhưng cách thức đón nhận khác nhau. Đón nhận bằng ràng buộc, nặng nề và tham đắm thì ta sống trong cảnh thế gian. Đón nhận bằng trí tuệ giác ngộ, biết chúng là vô thường và vô ngã thì ta vẫn duy trì được an tịnh và tự do của ta và vẫn an trú trong thế giới của tịnh lạc xuất thế gian. Đây là tịnh độ, tịnh độ là đây là như vậy. Niết Bàn nằm chính trong giây phút hiện tại.

Đã biết rằng an và lạc làm bằng bản chất tự do thì ta rõ an lạc ấy không mong manh như sự đắm chìm theo ngũ dục. Vì không có tính cách gây khuấy động và gây tà kiến vô minh nên an lạc này có tính cách tịnh và thường. Có tính cách tịnh, vì an lạc ấy không làm đục ngầu cái tâm của mình và cái tâm của những người khác, không tạo ra khổ đau trong năm uẩn mình và trong năm uẩn của những người khác. Khi thưởng thức một tách trà, ta thưởng thức với chánh niệm, với tự do. Tuy chúng ta biết trà ấy ngon nhưng chúng ta nghĩ là nếu không có trà chúng ta cũng uống được nước lạnh, và nước lạnh cũng có cái ngon của nó. Vì vậy sự thưởng thức hạnh phúc của chúng ta có tính cách tịnh. Nó không khuấy động tâm ta.

Trong khi thưởng thức hạnh phúc ấy, biết rằng hạnh phúc ấy không phải là nguyên do của những đau khổ trong hiện tại và trong tương lai thì ta gọi hạnh phúc ấy là tịnh, bởi vì nó không có tác dụng làm cho thế giới và tâm hồn ta bất tịnh. Còn như khi ta uống rượu và tham đắm, chúng ta không có chánh niệm. Nếu có chánh niệm, ta đã biết rằng rượu làm hại gan. Rượu lại có tác dụng gây đau khổ cho mọi người, cho mình, cho xã hội và cho các loài khác. Ta biết rằng rượu được làm bằng chất ngũ cốc. Hằng triệu người đang chết vì thiếu ăn: uống rượu tức là sát sanh và đồng thời làm hư gan của mình. Nếu nghiện ngập mình sẽ làm đau khổ cho nhiều người: lái xe có thể làm chết người, say sưa sẽ làm nhiều điều xằng bậy. Vì vậy uống rượu mà không có chánh niệm là bất tịnh. Mà nếu uống rượu trong chánh niệm thì không thể nào có an lạc hạnh phúc được và nếu tiếp tục uống trong chánh niệm ta sẽ bỏ rượu không chóng thì chầy.

Hạnh phúc của người tu mang tính cách tịnh ấy. Tuy rằng thân thể ta miêu tả là bất tịnh, các thức ta ăn là bất tịnh, nhưng nếu ta có tự do, nếu ta có chứng nghiệm về vô thường và vô ngã thì tất cả các việc mà ta làm mới xem qua tuy giống hệt như việc người khác làm nhưng bản chất của chúng là tịnh, bởi vì chúng không gây khổ đau cho ta và cho người, bây giờ và trong tương lai.

Về bất tịnh quán, thầy tôi đã dạy: “không phải là thấy được sự dơ bẩn về vật chất của sự vật mới gọi là bất tịnh quán”. Bất tịnh quán là có thể nhìn với con mắt quán chiếu về nhân quả. Một hành động nào có thể gây đau khổ trong tương lai, mình quán chiếu thấy được kết quả đau khổ ấy thì đó có thể gọi là bất tịnh quán rồi. Đang đi ăn cắp mà chợt thấy rằng ăn cắp thì có thể bị ở tù, như vậy đã là bất tịnh quán. Quán như thế cho rõ ràng ta sẽ ngưng ý định ăn cắp. Nhờ tự do, chánh niệm và giới luật người tu có an lạc và có thanh tịnh. Niết Bàn của chúng ta là cái mà ta có thể tiếp xúc được ngay trong ngày hôm nay tới một mức độ nào đó.

Trong khi đi thiền hành, trong khi uống trà, ta thấy được và ta nếm được nó. Cái vui của ngũ dục rất mong manh, có khi chỉ kéo dài một phút, vài phút nhưng vì mê đắm quá có người đã nói “thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt…!” Nhưng hạnh phúc của người giải thoát thì có thể kéo dài bao lâu cũng được. Khi mình ngắm nhìn một cội cây lá vàng rực rỡ trong mùa thu và mình thực tập hơi thở chánh niệm: “Tôi đang thở vào và tiếp xúc lá vàng rực rỡ, tôi đang thở ra và cảm thấy hạnh phúc.” Thực tập như thế trong năm phút ta có hạnh phúc trong năm phút. Nếu thở và ngắm trong mười lăm phút thì hạnh phúc ta kéo dài mười lăm phút.

Dĩ nhiên cội cây ấy không vàng rực suốt đời cho mình ngắm đâu. Lá vàng rồi lá đỏ, và cây từ từ trụi lá. Khi mình không tham đắm màu vàng mình mới biết tận hưởng màu đỏ và cảm thấy hạnh phúc. Rồi khi cây trụi lá mình cũng không tham đắm tiếc thương lá. Biết lá thế nào cũng sẽ trở lại, mình mới thấy được cái đẹp của cội cây với những cành khẳng khiu trụi lá, hùng vĩ can trường trong sương tuyết và mình lại có hạnh phúc. Rồi khi xuân về, mình lại được thấy cái đẹp khi những chồi hoa lá xuất hiện từ từ trên các cành khẳng khiu kia một cách thật mầu nhiệm.

Cái hạnh phúc không tham đắm đó gọi là thường. Khi mà có tuệ giác về vô thường rồi thì cây vàng mùa thu cũng đẹp mà cây trụi lá mùa đông cũng đẹp. Hạnh phúc đó là hạnh phúc trường cửu, hạnh phúc làm bằng chánh niệm và bằng tự do. Những danh từ thường, lạc, ngã và tịnh ấy có người sợ lắm. Họ xem những danh từ đó là kỵ, là không chánh thống, là ngoại đạo. Ta phải hiểu bốn tiếng đó không phải theo nghĩa trái chống với bốn tiếng vô thường, vô ngã, khổ và bất tịnh. Thường (permanence), lạc (joy), ngã (sovereignty), tịnh (non disturbance) ở đây là bốn đức của Niết Bàn, Niết Bàn có thể thực chứng được tại đây và bây giờ.

Bụt chỉ cho mọi người thấy tính cách vô thường, khổ, vô ngã và bất tịnh của mọi sự vật. Chúng ta quán chiếu để thấy được tính cách vô thường, khổ, vô ngã và bất tịnh của vạn vật vì vậy ta có khuynh hướng từ bỏ thế giới năm uẩn để đi tìm cái mà Bụt dạy, đó là Niết Bàn, trong đó có thường, lạc, ngã và tịnh. Rất nhiều người đã đi lạc vào trong cái quan niệm cho rằng niết bàn là một cái gì tách rời ra khỏi cuộc đời vô thường, khổ, vô ngã và bất tịnh này. Đạo Bụt đại thừa tới giúp ta nhìn sâu hơn, rõ hơn về những điều Bụt dạy và nói rằng cái mà ta đang đi tìm đó, cái hạnh phúc và Niết Bàn đó, chúng ta hãy tìm ngay trong thế giới của vô thường, khổ, vô ngã và bất tịnh. 
Vì vậy cho nên nếu khéo léo quý vị sẽ thực tập được tự do, chánh niệm, giới luật, chí và quán và sẽ chứng nhập được Niết Bàn, cảnh giới của thường, lạc, ngã, tịnh tại đây, ngay trong cuộc đời này. Bốn từ này phải được hiểu theo nghĩa của tự do, của giải thoát. Hạnh phúc mà chúng ta đi tìm có tính cách trường cửu, trường cửu vì được căn cứ trên tuệ giác về vô thường, căn cứ trên phong độ và nhận thức tự do của chúng ta. Hạnh phúc ấy đem lại một niềm vui vững bền, nuôi nấng chúng ta bằng nhiều chất liệu lợi lạc. Thực tập là để cởi bỏ những sợi dây ràng buộc, để có tự do. Tự do ấy mà không có thì ta không có gì hết. Khi sống cuộc đời của mình trong tu viện mà được nuôi dưỡng hằng ngày bằng bốn chất thường, lạc, ngã và tịnh ấy thì ta mới nên nói về Phật pháp và mới nên đem Phật pháp chia sẻ với người khác. Anh muốn giảng cho tôi nghe về thường, lạc, ngã và tịnh thì anh phải nếm nó trước. Anh hãy cười, hãy chứng tỏ là anh có hạnh phúc. Nếu không, tôi sẽ không theo học với anh.

 

(Trích “Về Việt Nam”, NXB Lá Bối, 1992 – Thích Nhất Hạnh Làng Hồng – ngày 28-11-199)

Tu phước và tu huệ

Tu Phước là gieo nhiều hạt giống phước đức (punya), như bỏ tiền vào trương mục tiết kiệm, như giúp người và làm những điều lành khác để sau này được hưởng hạnh phúc. Tu huệ là quán chiếu học hỏi luôn để mỗi ngày trí tuệ mỗi lớn thêm và có công năng giải phóng mình ra khỏi những ràng buộc khổ đau.

Ở Việt Nam đôi khi mình nói: "người đó chỉ tu phước thôi chứ không tu huệ" câu nói có vẻ chê bai; nhưng thật ra nếu không có huệ thì cũng khó có phước lắm. Tại sao người ta tu phước? Tại thấy rằng tu phước đem lại hạnh phúc cho mình và cho người: như vậy trong hành động tu phước đã có huệ rồi và những người tu học thông minh thì vừa tu phước vừa tu huệ (gọi là phước huệ song tu). Nếu tu hành cho vững chãi, ta sẽ thấy rằng trong phước có huệ và trong huệ có phước.

Có nhiều cách tu: khi quán niệm hơi thở thì gọi là tu an ban, khi ngồi thiền gọi là tu thiền tọa, khi đi thiền hành là tu thiền hành, khi rửa nồi gọi là tu rửa nồi, khi lau bát lau nhà gọi là tu lau bát lau nhà. Nếu tu đúng cách mình sẽ thấy rằng khi lau bát hoặc chùi cầu tiêu hoặc giúp một người đói…không phải ta chỉ tu phước mà cũng tu huệ. Khi tu tập ở Làng Hồng, giữ gìn chánh niệm, gieo trồng những hạt giống tươi mát an lạc vào tâm thức hàng ngày, không chỉ ta chỉ tu huệ mà cũng đang gieo trồng rất nhiều hạt giống phước đức.

Nói một cách đơn giản hơn, đó không phải chỉ là phước hay là huệ, chỉ là tu thôi. Tu như vậy là để đạt tới sự giải thoát ra khỏi những khổ đau và đem lại thêm an lạc và hạnh phúc. Hành động tu học của mình không phải là một cái gì tách ra khỏi kết quả của sự tu học; trong khi tu học mình phải cảm thấy được cái hạnh phúc của sự tu học; như vậy mới đúng tinh thần tu học ở đây.

Phương tiện và cứu cánh là một. Bước một bước chân trong chánh niệm, hớp một hớp trà, thở một hơi thở… những hành động đó gọi là tu tập. Những hành động đó phải mang tánh chất hạnh phúc trong tự thân chúng thì đó mới đúng pháp môn của chúng mình.

Tu ở đây biểu lộ khả năng có hạnh phúc của mình (the capacity to be happy). Thật ra trong tâm thức người nào cũng có một hạt giống gọi là khả năng có hạnh phúc. Nếu mỗi ngày biết tưới tẩm hạt giống đó thì mình sẽ có hạnh phúc và có liền trong phút giây mình tưới. Điều mà chúng ta phải làm là biết tưới tẩm hạnh phúc của mình ngay bây giờ, để cho khả năng cho hạnh phúc trong con người mình được phát triển, và như thế mình có hạnh phúc ngay trong giờ phút mình đang tu học.

Nếu xét lại phương pháp tu học ở đây, ta sẽ thấy rằng hằng ngày chúng ta ngồi thiền, đi thiền hành, uống trà, ăn cơm trong chánh niệm… là để tưới tẩm những hạt giống hạnh phúc nơi chúng ta. Nếu trong khi làm những điều đó mà chúng ta an trú được trong hiện tại và chúng ta có hạnh phúc thì chúng ta đã làm đúng và tu đúng. Nếu trong khi làm những thứ đó mà ta vẫn thấy âu sầu, vẫn nghĩ rằng ta chỉ có được hạnh phúc trong tương lai thì ta đã không làm được đúng pháp môn mà thầy đã trao truyền và ta đang thực tập.

Khi thiên hạ hỏi "ở Làng Hồng quý vị tu theo pháp môn nào? Vipassana, thiền đại thừa hay Phật Giáo Việt Nam thống nhất?" Ta có thể nói: "Chúng tôi đang thực tập hạnh phúc." Khi mình có thể cắt đứt được những lo lắng, bực bội và sầu đau đã qua (những gì vừa xảy ra hồi nảy, vài giờ trước, vài ngày trước hay vài tháng, vài năm trước) và có thể cắt đứt được những tính toán và lo lắng về những chuyện sẽ xảy ra trong vài giờ, vài ngày, vài tuần, vài tháng hay vài năm nữa (thuộc về tương lai), thì mình đã có thể bước được những bước chân có an lạc và khỏe khoắn trong giờ phút hiện tại, nở được một nụ cười, và lúc đó mình đã thật sự có tự do để có thể tiếp xúc với sự sống.

Mình có thể thấy rõ là mình còn sức khỏe, còn hai mắt sáng thấy đủ hết các màu sắc, hình dáng, và đường nét; tai mình còn nghe được gió thổi, mưa rơi, chim hót, tiếng nói của người thương và đủ thứ âm thanh khác… Được như vậy, mình có hạnh phúc lập tức, và đồng thời làm cho khả năng có hạnh phúc của mình biểu lộ ra, và người khác nhìn sẽ thấy liền.

Khi được người ta khen ngợi mình, nói rằng cô ấy hay anh đó có sức chịu đựng lớn, làm việc siêng năng, thông minh… mình chưa thực sự cảm thấy hãnh diện. Nhưng nếu được khen là có khả năng có hạnh phúc, có an lạc, nhẹ nhàng, thảnh thơi và tươi mát, thì ta sẽ sung sướng hơn, bởi vì một người hạnh phúc và tươi mát như vậy sẽ biết cách chia xẻ niềm vui cho rất nhiều người.

Cần cù siêng năng mà cau có buồn bã thì chẳng sung sướng gì lắm. Người ta thường nói tu phước là chất chứa công đức để sẽ có hạnh phúc trong tương lai. Đó là một định nghĩa chưa được chính xác trong tinh thần Bụt dạy. Thật ra nếu tu phước đúng pháp thì hạnh phúc đó nằm trong phút giây hiện tại. Và mình biết rằng trong hiện tại mà có hạnh phúc như thế này thì trong tương lai nhất định sẽ có hạnh phúc.

Tương lai được làm bằng hiện tại. Dù mình có cực khổ cách mấy mà trong hiện tại mình không có hạnh phúc thì tương lai mình cũng không có hạnh phúc đâu, lý do là tương lai được làm bằng chất liệu hiện tại. Ngày hôm nay nếu bạn mỉm cười được, thảnh thơi được, an trú được trong hiện tại, vui hưởng được từng bước chân, từng tách trà, và từng nụ cười, thì cái vốn liếng hạnh phúc ngày hôm nay sẽ làm ra cái vốn liếng hạnh phúc cho ngày mai. Chúng ta thường bị ám ảnh bởi ý tưởng là hôm nay phải cực khổ, ngày mai mới có thể sung sướng. Ví như câu ca dao:

Rủ nhau đi cấy đi cày
Bây giờ khó nhọc có ngày phong lưu
Trên đồng cạn dưới đồng sâu
Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa

Hôm nay khó nhọc ngày mai mới có thiên đường của hạnh phúc. Không chắc lắm đâu. Tôi thấy hai câu sau có chân lý nhiều hơn và đẹp hơn hai câu đầu. Hai câu ấy cho thấy rằng làm việc chung, có đủ vợ, chồng và con trâu là vui biết mấy! Cùng đồng tâm làm việc, đó đã là hạnh phúc rồi, đâu có cần ngày mai ngày mốt gì nữa. Nếu đã đồng tâm làm việc trong hạnh phúc hôm nay thì tương lai dĩ nhiên sẽ được làm bằng hạnh phúc.

Khả năng có hạnh phúc của mình được biểu lộ trong hai trường hợp: trường hợp không làm việc và trường hợp làm việc. Đi thiền hành cũng hạnh phúc mà chùi nồi cũng hạnh phúc. Đi thiền hành, cắt đứt hết những tính toán lo âu, sợ sệt, bước những bước thật thanh thản và nhẹ nhàng, miệng nở nụ cười tươi mát, hít thở không khí trong lành buổi sáng, đó hạnh phúc đã đành mà chùi nồi cũng vậy: trong khi chùi nồi ta cắt đứt những lo lắng, lăng xăng, những suy tư tính toán, ta không hấp tấp, ta làm việc thật thanh thản, thì việc chùi nồi không thua kém gì việc đi thiền hành hay ngồi thiền tọa.

Trong những lúc đó mình thật sự có hạnh phúc, mình an trú trong giây phút hiện tại, mình là một con người thật sự tự do. Trong khi chùi nồi, nếu ta không bị kéo đi bởi chuyện đã qua và chuyện sắp tới, nếu ta cắt đứt được những sợi dây phiền lo tính toán bất an, thì ta thực đang chùi nồi một cách thật thanh thản, an lạc, và ta không làm hấp tấp như đang bị ma đuổi. Bị ma đuổi là cố làm cho mau xong để còn đi học kinh.

Nếu nghĩ rằng học kinh mới là hạnh phúc còn chùi nồi không có hạnh phúc, thì khi học kinh ta cũng có thể không an trú được trong việc học kinh, ta sẽ vừa học kinh vừa tính toán tiếp: học kinh cho giỏi thì mới có hạnh phúc trong tương lai, phải học cho cực khổ thì sau này mới hạnh phúc.

Học kinh đâu có quan trọng bằng sống theo lời kinh dạy. Tu là thực tập sống theo lời kinh dạy, tập an trú thảnh thơi trong từng hơi thở, từng giây, từng phút, từng bước chân và từng hành động. Khi an trú thảnh thơi được trong từng phút giây của sự sống, ta tiếp xúc được với tất cả những sâu sắc mầu nhiệm của sự sống.

Ta nhìn sâu vào hiện tại để thấy hiện tại bao gồm hết quá khứ và tương lai, bao gồm cả vũ trụ vạn hữu. Thấy quá khứ và tương lai nhưng ta không trôi lăn vào quá khứ và vào tương lai, bởi vì trong chánh niệm, hiện tại vẫn là nền tảng. Mình phải chứng minh khả năng hạnh phúc thảnh thơi của mình trong từng giây phút.

Những phương pháp thực tập để ta tự biến từng phút giây của sự sống ta thành những phút giây an vui hạnh phúc thảnh thơi đã được trao truyền, và nếu quý vị nghĩ rằng tới Làng Hồng chỉ để học kinh Đại Thừa thôi thì rất là uổng. Quý vị nào mới tới chưa được hướng dẫn xin hỏi quý vị thọ giáo của Làng vì những người đó biết cách làm mà cũng thực sự đang tự làm hạnh phúc cho chính mình.

(Thầy giảng ngày 17-11-1992 – Được in trong sách: Về Việt Nam – Sáu bài giảng tại Làng Hồng về gốc rễ hạnh phúc và tu tập)

 

Mảnh trời xanh

Tâm sáng chói

Tổ Lâm Tế dạy rằng mỗi chúng ta đều có cái tâm sáng chói. Nếu tìm về được tâm sáng chói ấy, vận dụng được tâm sáng chói ấy thì ta cũng làm được như các vị Bụt và các vị Bồ tát. Ta có thể làm được ngay bây giờ. Nhưng cái tâm sáng chói đó của ta bây giờ không được sáng lắm tại vì ta không chịu tu tập. Trong kinh Tăng Nhất A Hàm, đức Thế Tôn có nói rằng tâm của ta vốn sáng chói nhưng vì phiền não làm uế nhiễm cho nên đen tối. Vì vậy muốn sử dụng tâm sáng chói đó ta phải trở về và tu tập. Cũng giống như một mảnh vườn lâu ngày không trồng trọt thì đất sẽ khô cứng, sẽ có gai góc và cỏ dại mọc đầy. Tâm ta cũng vậy. Tâm không tu tập thì cũng giống như một khu vườn đầy gai góc cỏ dại, và vì vậy tu tập là trở về làm việc trên miếng đất tâm của mình. Chữ tu có nghĩa là làm cho tốt trở lại, như trong danh từ "tu bổ", chữ tập có nghĩa là luyện cho quen, làm cho quen. Tâm của ta là đất và trong đất đã có những hạt giống tốt. Đất Xóm Thượng có sẵn hạt rau dền, ta chỉ cần cày lên và tưới nước thì rau dền mọc lên. Sự tu tập cũng vậy. Từ chỗ không có ta làm cho có. Tâm sáng chói có đó nhưng vì ta không tu tập cho nên nó không biểu hiện ra. Nó không biểu hiện ra được thì ta không làm được như Bụt, như các vị bồ tát. Cái diệu dụng đó không phải đi tìm ở ngoài, nó đã có sẵn ở nơi đất tâm của ta.

Đây là một đoạn trong kinh Tăng Chi Bộ "Này các thầy, tôi không thấy một pháp nào khác lại đưa đến bất lợi lớn như là tâm không tu tập". Tâm không tu tập thì đưa đến rất nhiều phiền não, giận hờn, chia rẽ, oán thù, khổ đau, bất lợi rất lớn cũng như một mảnh đất không được chăm sóc gieo trồng thì sẽ đưa tới gai góc bụi rậm. "Này các thầy, tôi không thấy một pháp nào khác lại đưa đến ích lợi lớn như là tâm được tu tập". Tâm mà được tu tập thì sẽ đưa đến lợi ích lớn, sẽ có từ, có bi, có trí, có dũng làm hạnh phúc cho ta và cho đời.

Tâm sáng chói mà Tổ Lâm Tế đề cập tới là tâm đã có sẵn trong mỗi người của chúng ta. Tâm ta mà không sáng chói được tại vì bị phiền não che lấp. Phiền não có nhiều loại như tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến. Tâm của ta giống như một con ngựa hoang. Muốn con ngựa hoang trở thành một con ngựa hữu dụng ta phải có nghệ thuật gọi là điều mã. Tâm ta giống như một con vượn chuyền cành. Nó kéo ta đi, ta không điều phục được nó. Vì vậy cho nên ta không làm được như Bụt và các vị bồ tát đang làm. Tâm ta mà như vậy thì dù ta có học hỏi cách mấy đi nữa, ta có học thuộc lòng tam tạng kinh điển và diễn giảng giáo lý ba thừa trôi chảy đến mấy thì ta vẫn bị kéo đi. Vì vậy cho nên vấn đề là phải trở về nắm lấy tâm và điều phục tâm mình. Nếu không thì sẽ đau khổ nhiều. Còn nếu điều phục được tâm thì sẽ đưa lại lợi ích lớn, hạnh phúc lớn.

Những sợi dây cương để điều phục tâm

Ở Thái Lan và ở một số các nước Á châu khác người ta điều phục được cả những con voi rừng rất hung hăng. Có khi họ dùng những sợi xích bằng sắt để cột chân voi lại, đem về huấn luyện và điều phục. Những con voi rừng hung hăng như vậy mà có thể trở thành những con voi hữu dụng có thể chuyên chở, có thể giúp người. Chính những con cọp trong các gánh xiệc cũng do người ta điều phục được và làm được những điều mà những con cọp thường không làm được. Tâm ta cũng vậy. Nó là một con voi hoang, một con ngựa hoang. Ta phải làm thế nào để cột con voi hoang, cột con ngựa hoang đó lại và luyện tập cho nó. Ban đầu ta phải có những sợi dây để cột nó lại. Những người đi bắt ngựa hoang có một sợi dây thòng lọng dài. Họ cỡi trên lưng một con ngựa đã thuần thục rồi và cầm sợi dây đó chạy theo con ngựa hoang. Khi vừa tầm thì họ liệng sợi dây ra tròng lấy con ngựa. Con ngựa hoang bị cái thòng lọng kéo lại thì vùng vẫy muốn thoát đi mà không được, từ từ con ngựa đó được đưa về và được luyện tập để trở nên hữu dụng. Tâm ta cũng vậy. Tâm ta là con ngựa hoang, và phương pháp thực tập chánh niệm là những sợi dây cương giữ con ngựa hoang lại để con ngựa từ từ thuần đi.

Ở Làng Mai chúng ta có nhiều phương pháp, chúng ta có những sợi dây cương nắm và cột được tâm, cột được ý. Nắm lấy ý gọi là thủ ý, thủ tức là nắm và ý là tâm. Ta có thể nắm được ý bằng nhiều phương pháp. Phương pháp đầu là hơi thở có chánh niệm, gọi là an ban thủ ý. An ban tức là hơi thở vào hơi thở ra.

Tại Làng Mai ta lại có phương pháp đi. Ta nắm lấy hơi thở và nắm lấy bước chân. Nếu quý vị không sử dụng những sợi dây của Làng Mai thì quý vị không nắm lấy được tâm của mình. Vì vậy ai tới Làng Mai cũng phải sử dụng những sợi dây đó. Những sợi dây đó không phải của những người khác đưa ra để cột ta mà chính ta làm ra và sử dụng lấy để tự cột tâm mình lại. Nếu không thì có học cách mấy, có thực tập quán chiếu cách mấy cũng không được. Trước hết là phải nắm lấy tâm, gọi là thủ ý, tức là nắm lấy tâm ý. Nếu quý vị thực tập độ chừng vài tuần lễ thì quý vị sẽ thấy tình trạng thay đổi. Phải thực tập cho miên mật chứ không thể thực tập khơi khơi. Tôi đã đi ngang qua những thời gian thực tập rất miên mật như thế nên tôi đã có sự chuyển hóa. Quý vị không thể làm nửa vời, làm lưng chừng được. Phải cương quyết nắm cho được tâm mình mà trước hết là nắm lấy thân tại vì thân tâm đi đôi với nhau. Hơi thở thuộc về thân, hai chân cũng thuộc về thân nhưng nắm được hơi thở và bước chân thì ta từ từ nắm được tâm.

Trong sinh hoạt hàng ngày, khi ta lái xe đi chợ, nấu bếp hoặc rửa chén, những lúc đó là những lúc ta thực tập nắm lấy tâm. Đừng làm việc suông. Làm việc suông thì ở ngoài đời người ta làm bao nhiêu rồi, không lý ta vô chùa để rồi cũng làm việc giống hệt như ngoài đời? Trong khi rửa chén, nấu cơm, tưới nước, ta làm thế nào để ta có thể nắm được tâm mình. Ta trở về với tâm mình cũng giống như người điều mã luôn luôn ở với con ngựa.

Ở Làng Mai chúng ta có một số bài kệ để thực tập. Chúng ta đã thuộc lòng những bài kệ đó nhưng chúng ta phải đem áp dụng thực tập cho đàng hoàng. Nắm lấy hơi thở, nắm lấy bước chân thì một vài tuần sau chúng ta bắt đầu nắm lấy được tâm của chúng ta. Tâm chứa đựng thân và thân cũng chứa đựng tâm. Những bài này là những thiền phổ rất hay, rất đơn giản. Bài Quay về nương tựa hải đảo tự thân là một bài rất mầu nhiệm. Những lúc tâm ta hoang mang, ta không biết nên làm gì cho đúng; những lúc tình trạng trở nên nguy hiểm mà ta trở về được với hơi thở để thở theo bài đó thì tâm ta an lại liền lập tức. Ví dụ như khi đang ở trên máy bay, ta nghe tin rằng không tặc đã chiếm lấy máy bay rồi và có thể làm nổ máy bay bất cứ lúc nào. Chính lúc đó là lúc ta phải thực tập những bài này. Ta sẽ sống hay sẽ chết, nhưng ta sẽ sống hoặc sẽ chết trong sự vững chãi của tâm. Nếu mỗi người trên máy bay đều có thực tập thì ta có cơ hội sống nhiều hơn, tại vì người nào cũng vững chãi, người nào cũng không náo loạn; không náo loạn thì có thể thấy được rõ ràng là mình nên làm gì và không nên làm gì để tình trạng nguy hiểm có thể được chấm dứt.

Quay về nương tựa
Hải đảo tự thân
Chánh niệm là Bụt
Soi sáng xa gần
Hơi thở là pháp
Bảo hộ thân tâm
Năm uẩn là tăng
Phối hợp tinh cần
Thở vào, thở ra
Là hoa tươi mát
Là núi vững vàng
Nước tĩnh lặng chiếu
Không gian thênh thang.

Quay về nương tựa hải đảo tự thân, đây là lời dạy của đức Thế Tôn khi ngài 80 tuổi. Ngài biết rằng sau khi ngài tịch đi thì sẽ có vô số các vị đệ tử xuất gia và tại gia cảm thấy bơ vơ không nơi nương tựa, cho nên Ngài dạy rằng có một hải đảo tự thân và mỗi khi ta thấy bơ vơ, lạc lõng, buồn chán, do dự không biết làm gì cho đúng thì ta hãy trở về cái hải đảo đó để có sự an toàn. Đó là cái tâm vững chãi của ta. Một hơi thở đưa ta về hải đảo đó ngay, hải đảo có sự vững chãi. Hải đảo đó không phải tìm ở ngoài. Trong tâm có hạt giống của sự vững chãi, của sự thảnh thơi, có hạt giống của Bụt, và ta quay về nương tựa nơi ấy. Ở bên Cơ Đốc giáo, những lúc hoang mang sợ hãi người tín đồ cũng quay về nương tựa nơi Chúa, nhưng sự thực tập không duy lý bằng, không rõ ràng bằng. Ta biết trong mỗi người đều có hạt giống của sự vững chãi, sự thảnh thơi, sự không sợ hãi, ta trở về nương tựa nơi những hạt giống đó, thì những hạt giống đó có tính cách cụ thể hơn ý niệm về Chúa, ý niệm về Bụt. Trong ta có những hạt giống tốt và những hạt giống xấu, trong số các hạt giống tốt có hạt giống của sự vững chãi, của tự do, của hiểu biết và của trí tuệ. Chính cái đó làm chỗ nương tựa che chở cho ta, về nương tựa vào những cái có thật chứ không phải vào những cái gì mơ hồ trong tương lai.

Trong tư thế ngồi ta thở vào và trong khi thở vào ta có thể đọc bốn chữ "quay về nương tựa". Khi thở ra ta đọc bốn chữ "hải đảo tự thân". Trong tư thế đi cũng vậy, khi thở vào thì ta đọc "quay về nương tựa", khi thở ra ta đọc "hải đảo tự thân". Phải có sự quay về thật sự chứ không phải chỉ có lời tụng niệm. Trong các tư thế ngồi, nằm, đứng, đi, ta đều có thể thực tập được quay về nương tựa, hoặc ta có thể "quay về" trong hơi thở vào, "nương tựa" trong hơi thở ra, "hải đảo" thở vào, "tự thân" thở ra.

Khi quay về ta sẽ gặp gì? Chánh niệm là Bụt, soi sáng xa gần. Quay về ta sẽ gặp Bụt mà Bụt không phải là một cái gì trừu tượng. Bụt đây là chánh niệm. Ngoài chánh niệm ra không thể nào có Bụt được. Chánh niệm là khả năng trở về với giây phút hiện tại, biết được những gì đang xảy ra. Những gì đang xảy ra là hơi thở vào và hơi thở ra. Đó gọi là an ban thủ ý tức là chánh niệm về hơi thở. Khi một người thở vào có ý thức, thở ra có ý thức thì trong người ấy phát khởi ra năng lượng chánh niệm, chánh niệm đó là Bụt. Nếu không có chất liệu của chánh niệm người đó không thể được gọi là Bụt. Vì vậy chánh niệm là Bụt. Khi niệm "Nam mô A Di Đà Phật" chưa chắc ta đã có thể chế tác chánh niệm tại vì ta có thể đang niệm như một con vẹt. Niệm Bụt mà niệm Bụt đúng là trong khi niệm ta chế tác được chánh niệm. Nếu không niệm Bụt mà ta niệm hơi thở, niệm bước chân, niệm đám mây, niệm hòn sỏi với chánh niệm thì đó cũng là Bụt. Vì vậy cho nên chánh niệm là Bụt chứ không phải danh từ "Bụt" là Bụt.

Khi trở về với hải đảo tự thân ta gặp Bụt liền, Bụt dưới hình thức chánh niệm và chánh niệm là ánh sáng soi cho ta thấy những gì ở gần, những gì ở xa nên gọi là "soi sáng xa gần". Chánh niệm là ánh sáng. Khi uống nước mà ta biết rằng ta đang uống nước thì đó là có ánh sáng rồi, còn khi uống nước mà không biết mình đang uống nước thì đó là bóng tối; bước đi một bước biết là bước đi một bước thì đó là ánh sáng. Chánh niệm có nghĩa là nhận diện được cái gì đang xảy ra và sự nhận diện đó là ánh sáng soi chiếu. Khi có ánh sáng soi chiếu thì ta không sợ hãi nữa. Có chánh niệm tức là có năng lượng để soi sáng và biết cái gì đang xảy ra. Định nghĩa căn bản của chánh niệm là biết những gì đang xảy ra.

"Hơi thở là pháp, bảo hộ thân tâm", hơi thở ở đây là hơi thở chánh niệm chứ không phải hơi thở thường. Mỗi ngày ta đều thở ra, thở vào không ngừng, nhưng cái đó không phải là Pháp. Khi ta thở vào mà biết ta đang thở vào, khi ta thở ra mà ý thức được có hơi thở ra thì đó mới là Pháp. Pháp này không phải là Pháp nói hay Pháp viết mà là Pháp linh hoạt đích thực (the living dharma) cũng như chánh niệm là "the living Buddha". Phật sống có mặt khi ta có chánh niệm, Pháp sống có mặt khi ta có hơi thở chánh niệm và khi có hơi thở chánh niệm rồi thì pháp này bảo hộ cho cả thân và tâm. Khi ta thất thần, sợ hãi, hoảng hốt, sắp điên loạn thì ta trở về với hơi thở. Ta thở vào, thở ra có chánh niệm thì hơi thở vào, thở ra đó sẽ đưa ta vào trong trạng thái của sự an ổn. Ví dụ có người báo cho ta hay là ta có bệnh ung thư hay người thân của ta vừa bị thương không biết có sống sót được qua tai nạn hay không v.v…

Trong tất cả những trường hợp đó ta đều phải trở về với hải đảo tự thân và thực tập bài này. Bài này rất hay. Tôi đã sử dụng rất hiệu nghiệm trong những lúc khó khăn của tôi và lúc nào cũng thành công. Khi thân ta lâm vào tình trạng nguy biến và khi tâm ta rơi vào tình trạng khủng hoảng, thực tập bài này ta sẽ lấy lại được thăng bằng. Bài này đích thực là bài tập Quy y Tam bảo. Tuy nó không nói Quy y Tam bảo nhưng kỳ thực nó là quy y Tam bảo đích thực. Tam bảo không phải ở những đối tượng thờ cúng mà Tam bảo là thực tại có thật trong tâm ta. Nếu quý vị thực tập mà không thành công thì tôi hứa là tôi sẽ không đi dạy nữa. Khi ta thực tập hơi thở chánh niệm thì hơi thở chánh niệm trở thành ra một năng lượng bảo vệ cho thân và tâm. Năng lượng đó là Pháp linh động. Có Pháp sống cùng với Phật sống trong ta thì không có lý gì ta phải lo sợ nữa. Trong những trường hợp khi ta không biết nên làm gì cho đúng thì ta biết rằng cái mà ta có thể làm được trong giờ phút này là trở về để nương tựa nơi Tam bảo, nhờ sức Tam bảo để che chở cho mình. Tam bảo đây không phải đối tượng của sự kính ngưỡng hay thờ cúng mà Tam bảo đây là những năng lượng có thật.

Năm uẩn là tăng phối hợp tinh cần. Khi ta thực tập hơi thở chánh niệm thì hơi thở chánh niệm đó gọi là Pháp sống, Pháp linh hoạt. Hơi thở này bắt đầu điều hòa năm uẩn của ta, đưa tâm trở về với thân, nhận diện và ôm ấp những cảm thọ, cảm xúc và tạo ra sự hòa hợp ở trong cơ thể ta cho nên gọi năm uẩn là tăng. Năm uẩn là thành phần của tăng thân ở trong con người ta và năm uẩn đó có thể rời rạc, có thể chống đối nhau, có thể hỗn loạn nhưng khi có hơi thở chánh niệm tức là Pháp linh hoạt tới rồi thì năm uẩn đó bắt đầu tới với nhau trong một trạng thái có hòa điệu. Chỉ cần thực tập năm, mười phút là ta thấy được sự hòa điệu đó của năm uẩn và sự hòa điệu đó đưa lại sự bình an, sự vững chãi của thân tâm. Thiền phổ này rất mầu nhiệm.

Trong một kiếp trước, khi đức Thế Tôn còn đi tìm đạo thì ngài có gặp một dạ xoa. Con dạ xoa nói: "Ta biết một câu kệ về chánh pháp nhưng mà ta chỉ có thể đọc cho ngươi nghe nếu ngươi bằng lòng để ta ăn thịt ngươi sau đó". Tiền thân của đức Thế Tôn nói: "Được, bây giờ anh nói cho tôi nghe bài kệ chánh pháp đó đi rồi tôi sẽ để cho anh ăn thịt tôi". Bài kệ này cũng có giá trị thực tập rất lớn. Bài này có giá trị trong mọi hoàn cảnh. Dù cho khó khăn, điên đảo, nguy biến cách mấy mà nếu quý vị trở về hơi thở và thực tập bài này thì quý vị sẽ có an ninh, sẽ có Tam bảo hộ trì. Tam bảo hộ trì không phải như một quyền phép mê tín mà Tam bảo là chánh niệm, có khả năng soi sáng cho ta và cho ta biết nên làm gì và không nên làm gì trong lúc này. Hơi thở chánh niệm là Pháp sống, có khả năng điều hợp thân tâm và đưa lại sự thăng bằng của thân tâm.

Riêng tôi, tôi đã thừa hưởng được rất nhiều từ bài thực tập này và tôi không đợi đến khi có khó khăn mới sử dụng. Đó là sự thực tập hàng ngày, mà sự thực tập có thể xảy ra bất cứ lúc nào trong ngày. Lái xe cũng có thể thực tập bài này mà ăn cơm cũng có thể thực tập bài này. Khi nhai ta có thể nhai theo nhịp của bài này và khi nhai hết bài này thì cơm trong miệng rất nhuyễn, nuốt vô sẽ rất dễ tiêu. Thay vì nói chuyện này, chuyện kia, nghĩ chuyện người này, chuyện người kia, nghĩ chuyện bên này, nghĩ chuyện bên kia thì ta an trú trong bài kệ này để ăn cơm. Tôi đã ăn cơm vô số lần với bài kệ này. Ngồi đó và trong khi ăn cơm tôi thực tập quy y Tam bảo. Quy y Tam bảo một cách rất khoa học chứ không phải quy y như một người theo tôn giáo. Từ Bụt ở đây được định nghĩa là chánh niệm, Pháp là hơi thở chánh niệm và Tăng là năm uẩn điều hợp với nhau dưới ánh sáng của chánh niệm. Trong khi đi ta có thể thực tập được bài này. Nếu ta đi hai bước với hơi thở vào thì ta niệm "quay về, quay về" rồi khi thở ra ta niệm "nương tựa, nương tựa". Khi đi mau hơn, ví dụ hơi thở vào ba bước, hơi thở ra ba bước, thì ta đọc thêm "tôi quay về, và nương tựa, nơi hải đảo, của tự thân, chánh niệm ấy, tức là Bụt, đang soi sáng, khắp xa gần, hơi thở ấy, là chánh pháp, đang bảo hộ, cả thân tâm, năm uẩn kia, là tăng thân, đang phối hợp, rất tinh cần." Ta chỉ cần một chút thông minh thì hai chữ trở thành ba chữ. Trong khi chạy bộ quý vị cũng có thể thực tập được theo bài này. Khi chạy tôi thường thực tập bài này hoặc một bài khác chứ không bao giờ tôi chạy mà không thực tập theo một bài kệ.

Thành ra những vị nào chưa thuộc lòng như cháo những bài này thì phải học và đem ra thực tập liền. Ta nên biết rằng những lúc ta bơ vơ, bối rối không biết làm gì cho đúng để bảo hộ thân và tâm thì bài này là bài cần thực tập để trở về được trong những lúc đó. Điều hay nhất ta có thể làm để đối phó với những trường hợp như thế là trở về hơi thở và thực tập những bài này. Phải biết rằng ta đang làm cái mà ta đang cần làm, ta có thể làm; đã làm được rồi thì tự nhiên ta không còn lo lắng nữa. Ta chỉ lo lắng sầu khổ, sợ hãi khi ta không biết rằng mình phải làm gì cho đúng. Còn khi biết rằng ta đang làm cái ta có thể làm hay nhất trong lúc này, trong những cơn bối rối đó là thực tập trở về thì trạng thái đánh mất tự thân được chấm dứt liền lập tức. Mầu nhiệm vô cùng. Bài này rất đáng để cho ta đổi thân mạng của mình để nghe, nghe rồi thì để cho dạ xoa ăn thịt cũng được.

Thở vào, thở ra
Là hoa tươi mát

Làm sao ta trở thành một bông hoa trong khi ta thở vào, và làm sao ta cảm thấy sự tươi mát trong khi ta thở ra? Đây là thiền sỏi của các bé. Nếu các bé làm được thì ta cũng phải làm được. Khi đi một mình, ta có thể đi thiền rất chậm. Chậm nhiều hay ít tùy theo ta nhưng khi ta làm được rồi thì tại sao ta phải đi chậm quá, tuy mỗi bước chân phải có đủ thì giờ để ta sống cho thấu đáo cái thấy đó. Cái thấy là ta đã quay về, ta đang nương tựa, ta đang thật sự ở trong hải đảo của tự thân và ta đang tiếp xúc với thực tại một cách sâu sắc. Nếu chưa tiếp xúc được thì ta chưa nhấc chân lên, giống như khi ta đóng một dấu ấn có son, ta muốn dấu ấn đầy đủ thì ta phải đè mạnh con dấu các phía để cho son in lên đủ rồi ta mới nhấc con dấu lên. Bước chân của ta cũng vậy. Khi ta chưa hoàn toàn tới được với giây phút hiện tại thì bước chân ta vẫn còn một chút tính cách của sự đi như bị ma đuổi. Thành ra khi đi thiền một mình, ta có cơ hội đi chậm bao nhiêu cũng được, còn khi đi chung với đại chúng ta phải đi với một tốc độ trung bình của đại chúng. Ví dụ bước đi và nói "bây giờ", ta phải nếm, phải tiếp xúc cho được cái bây giờ rồi lúc đó ta mới bước khác và nói "ở đây", giống như dấu ấn in sát vào văn bản. Thỏa mãn rồi thì ta mới bước bước khác và nếu chưa tiếp xúc được thì ta có thể để vậy cho đến khi nào ta tiếp xúc được với cái bây giờ thật sâu thật vững rồi ta mới đi bước tiếp. Trong những bước ấy tâm ta hoàn toàn nằm trong sự kiểm soát của ta. Sợi dây của tâm ý được cột lại rất đàng hoàng, rất dễ chịu. Con ngựa hoang, con voi hoang đau khổ khi bị buộc bằng những sợi dây xích sắt, bị đánh ở trên đầu, nhưng khi thực tập ta không đau khổ như vậy, trái lại sự thực tập có thể đưa tới niềm an lạc và hạnh phúc rất lớn. Vì vậy nên thay vì dùng thì giờ của ta để nói chuyện này, chuyện kia, để cười giỡn thì ta để giờ ra để làm chuyện này. Ta trở về chăm sóc vườn tâm của ta tại vì ta đi tu là để làm chuyện đó. Ta đi một mình trong vườn sồi, ta đi một mình trong vườn tre, ta tha hồ mà thực tập. Với mỗi bước chân như vậy ta dẫm vào sự thật, dẫm vào thực tại gọi là "bộ bộ đạp trước thật địa", đó là một câu kệ của vua Trần Thái Tông. Mỗi bước đều dẫm vào thực tại cả chứ không phải là ta đi trong giấc mơ, ta không đi như bị ma đuổi. Khi làm được như vậy bằng cách thực tập một mình thì đến khi đi với tăng thân ta thực tập rất dễ. Làm chậm được rồi thì nhanh ta đi cũng được, chứ không hẳn là phải đi chậm ta mới tiếp xúc được hiện tại với tất cả mầu nhiệm. Cũng như khi nhìn một bông hoa, ta nhìn làm sao để có thể thực sự thấy được nó và ta mỉm cười, thấy được nó như một thực tại chứ không phải như một bóng ma.

Mỉm cười với trời xanh

Trong tiểu thuyết L'étranger của Albert Camus, có một người tử tù bốn mươi mấy tuổi rồi mà chưa bao giờ thật sự thấy trời xanh. Ông ấy bị ở tù tại vì trong một cơn bực bội ông đã giết chết một người, ông tên là Meursault. Hôm đó ông biết rằng là ngày mai ông sẽ bị đem xử tử. Nằm trong phòng giam, ngửa đầu lên ông thấy một cái khung cửa tò vò, qua khung cửa tò vò đó ông thấy được trời xanh. Ông rất ý thức chỉ còn hai mươi bốn giờ đồng hồ nữa ông sẽ bị xử tử, và kỳ này không biết tại sao ông thật sự thấy được trời xanh. Chưa bao giờ ông thấy được trời xanh như vậy mà trời xanh đó chỉ được thấy qua một khung cửa nhỏ. Sống tới bốn mươi mấy tuổi rồi mà ông ta chưa bao giờ nhìn và thấy được trời xanh một cách sâu sắc như vậy.

Khi ta nhìn một cái gì, ta phải nhìn sao để cho thấy được sâu sắc và sau này khi người ta có hỏi: "Sao, anh sống ở trên thế gian mấy chục năm anh đã thấy trời xanh lần nào chưa?" Ta phải nói là có thấy. Khi thấy được trời xanh như thế thì trời xanh không còn ở trong một giấc mơ nữa mà đó là thực tại, đó gọi là thật địa. "Bộ bộ đạp trước thật địa", mỗi bước ta đi đều dẫm vào đất đai của thực tại.

Có một lần tôi tiếp một ký giả của nhật báo San Francisco Chronicle, sau khi phỏng vấn xong tôi đưa ông ra xe và chỉ cho ông bước những bước chân chánh niệm như thế từ chỗ ngồi phỏng vấn dưới ba cây tùng cho đến bãi đậu xe. Nửa đường tôi mời ông dừng lại, ngửng lên nhìn trời xanh và đề nghị ông thực tập: "thở vào tôi thấy trời xanh, thở ra tôi mỉm cười với trời xanh". Trước khi từ biệt ông nói với tôi: "Tôi chưa bao giờ nhìn trời xanh như vậy cả!" Có chút năng lượng chánh niệm thì trời xanh thật sự là trời xanh. Mỗi giây phút trong đời sống hàng ngày của ta, ta phải sống như vậy.

Có chánh niệm thì tất cả đều trở thành thật. Trong khi sống như vậy thì tâm của ta ở trong vòng tay của ta, nó không còn đi như con ngựa hoang nữa. Vì vậy cho nên có sự khác biệt giữa việc điều phục con ngựa hoang với việc điều phục tâm. Nếu ta biết phương pháp điều phục tâm thì điều phục tâm không làm ta đau khổ như khi con ngựa bị điều phục, tại vì phương pháp chánh niệm thực tập ở Làng Mai rất dễ chịu, mỗi giây phút đều có thể đưa tới sự an lạc và hạnh phúc. Hơi thở cũng vậy mà bước chân cũng vậy. Thực tập đưa lại sự hoan lạc và nuôi dưỡng chứ không làm cho ta phải trầy da tróc vẩy như sợi xích cột chân voi lại hay sợi thòng lọng cột cổ con ngựa lại. Tâm ta hung hăng nhưng ta có những phương pháp bất bạo động để ôm lấy tâm của ta như nắm lấy bước chân và nắm lấy hơi thở. Ta có thể thực tập bài kệ này trong khi ngồi thiền. Nếu trong khi ngồi thiền mà không biết làm gì thì quý vị hãy thực tập bài này đi. Ta có thể bắt đầu buổi ngồi thiền của mình bằng bài này. Trước khi thỉnh chuông cũng vậy, trước khi ăn cơm và trong khi ăn cơm cũng vậy, khi rửa chén, nấu nước, chạy bộ, bất cứ giờ phút nào ta cũng thể thực tập quy y Tam Bảo cả. Bản chất của bài này là quy y Tam bảo và như đã nói, Tam bảo đây không phải đối tượng của sự thờ cúng, tín ngưỡng. Tam bảo đây là những năng lượng có thật ở trong ta, ta chạm tới là nó phát khởi. Đó là năng lượng của chánh niệm, của pháp, của năm uẩn.

Nếu ta chỉ có một bài kệ để thực tập thì sau một thời gian bài kệ có thể bị soi mòn và bài đó sẽ không còn hiệu nghiệm nữa. Dù bài đó có hay mấy đi nữa mà ta sử dụng nhiều quá nó sẽ lờn. Cũng như một bài hát mà ta ưa thích, ta cứ nghe hoài nhưng nghe tới tuần thứ hai thì ta sẽ ngán. Ngán như thế thì rất uổng. Ta phải giữ cho bài đó luôn luôn được tươi mát. Cũng vì vậy cho nên ta phải xen kẽ và sử dụng những bài khác nữa.

Hiện tại tuyệt vời

Bài thứ hai cũng là một thiền phổ rất quý, đó là bài "Vào ra sâu chậm". Bài này tiếng Anh và tiếng Pháp có khác thành ra khi dịch, quý vị phải linh động.

Vào ra
Sâu chậm
Khỏe nhẹ
Lặng cười
Hiện tại tuyệt vời.

Đây là một thiền phổ rất đơn giản có thể thực tập trong bất cứ lúc nào trong ngày. Thiền ngồi cũng như thiền đi: "Vào ra" tức là thở vào biết thở vào, thở ra biết thở ra, nói tắt lại. Khi thở vào ta biết là hơi thở vào đang xảy ra. Tâm của ta không nghĩ đến chuyện gì khác. Tâm ta nắm lấy hơi thở. Nắm lấy hơi thở tức là nắm được tâm, tâm không chạy nữa. Hơi thở có chánh niệm là sợi cương nắm lấy tâm. Nội thực tập được câu đầu này là ta nắm được tâm rồi. Thở vào, đây là hơi thở vào của tôi, nhận diện hơi thở vào là hơi thở vào. Khi thở vào tôi biết rằng tôi đang thở vào và khi thở ra tôi biết tôi đang thở ra, đó là bài tập đầu do chính đức Thế Tôn dạy trong kinh An Ban Thủ Ý.

Sâu chậm có nghĩa là hơi thở vào đã sâu, hơi thở ra đã chậm. Nếu ta thực tập thở vào biết thở vào, thực tập thở ra biết thở ra trong một hai phút mà thành công rồi thì tự nhiên hơi thở vào sâu hơn và hơi thở ra sẽ chậm hơn, cả hai hơi thở vào ra đều sâu đều chậm. Đây là sự nhận diện tôi thở vào và tôi biết rằng hơi thở vào của tôi đã sâu hơn trước, chứ không phải tôi đang thở vào và cố gắng làm cho hơi thở vào sâu thêm. Sâu hơn chậm hơn có nghĩa là phẩm chất của hơi thở đã cao hơn trước. Trước khi ta thực tập thì hơi thở vào và hơi thở ra của ta ngắn và hổn hển, nhưng khi ta thực tập được nửa phút hoặc một phút rồi thì hơi thở vào của ta nhẹ lại, sâu lại, lắng lại, chậm lại và bắt đầu có sự thư thái ở trong thân tâm. Sở dĩ như vậy là vì nếu có sự thư thái nhẹ nhàng trong hơi thở thì cũng có sự nhẹ nhàng thư thái trong thân và tâm của mình. Hơi thở là môi giới giữa thân và tâm. Thở vào tôi nhận thức rằng hơi thở vào của tôi đã bắt đầu sâu, thở ra tôi nhận thấy rằng hơi thở ra của tôi bắt đầu chậm lại. Phẩm chất của hơi thở đã lên cao.

Thở vào tôi thấy khỏe. Thấy khỏe đây không phải tự kỷ ám thị. Tại sao đó không phải là tự kỷ ám thị? Tại vì nếu ta thành công trong hai bài tập đầu rồi, thì tự nhiên trong người ta thấy khỏe. Khi ta khỏe mà ta biết ta đang khỏe thì ta sẽ thấy khỏe thêm. Thở vào tôi cảm thấy khỏe, thở ra tôi cảm thấy nhẹ, chữ nhẹ ở đây là "khinh an", ta có thể dịch là "I feel light" hay "I feel at ease", chữ khỏe ở đây ta có thể dịch là "I feel good". Thở vào tâm tĩnh lặng, thở ra miệng mỉm cười, an trú trong hiện tại, giây phút đẹp tuyệt vời. Ta chỉ có một giây phút để sống thôi, đó là giây phút hiện tại. Nếu trở về giây phút hiện tại, ta sẽ tiếp xúc được với bao nhiêu mầu nhiệm ở trong ta và xung quanh ta.

Bài kệ này ta có thể hát được bằng tiếng Pháp hoặc tiếng Anh hoặc tiếng Việt. Có một cái lợi cho những người thực tập bằng tiếng Việt, tại vì ngôn ngữ Việt Nam là đơn âm nên phối hợp với bước chân rất dễ, mỗi bước đều nhau; nhưng những người nói tiếng Pháp và tiếng Anh, nếu khôn một chút, cũng có thể tạo ra được những nhịp như khi ta tụng Tâm Kinh theo đơn âm, theo tiếng mõ và ta có thể tụng chung được cả chúng một lần rất dễ. Tôi xin cam đoan với quý vị chỉ sau vài tuần thực tập, quý vị sẽ thấy có sự thay đổi. Thở vào tôi thấy tâm tôi đã tĩnh lặng và thở ra tôi mỉm cười để công nhận rằng trong tôi có sự tĩnh lặng. Thở vào tâm tĩnh lặng cũng là bài tập của đức Thế Tôn. Khi ta có một cảm thọ hoặc cảm xúc nào đó và ta thực tập bài này thì cảm xúc hoặc cảm thọ đó sẽ êm dịu trở lại, đó gọi là thở vào tâm tĩnh lặng. Khi thực tập bài này ta đưa tới sự buông thư của thân và của tâm. Sự buông thư của tâm không thể có được khi không có sự buông thư của thân, cho nên bài này cũng có thể thực tập trong tư thế nằm. Trong bốn tư thế đi, đứng, nằm, ngồi ta đều có thể thực tập được bài này. Bài trước cũng vậy.

Bài này cũng có thể thực tập trong khi ăn vì trong khi ăn ta không nói chuyện, ta vẫn tiếp tục thở có chánh niệm như thường và ta có thể nhai cơm theo bài này được. Bài này là một thiền phổ rất hay, quan trọng không kém một bài thoại đầu và đáng giá ngàn vàng. Tôi thực tập rất nhiều với bài này: khi bước ba bước thì ta đếm vào, vào, vào, ra, ra, ra, sâu, sâu, sâu, chậm, chậm, chậm. Phải vào, ra một thời gian, đi cho vững rồi ta mới đi tới sâu chậm. Ta thở bằng hai chân của ta và ta đừng tụng kinh "vào, vào, ra, ra" mà ta phải thực sự vào ra, thực sự sâu chậm.

Cố nhiên ta có thể không dùng bài kệ nào hết mà vẫn có thể dẫm vào thực tại, an trú chánh niệm trong từng bước chân. Nhưng khi tâm ta còn là con ngựa hoang thì ta phải cần dùng một vài dây cương, một vài sợi dây để kéo lại. Còn khi ta đã đi giỏi rồi thì đâu cần bài gì nữa, mỗi bước chân của ta thành ra một dấu ấn in xuống đất sự an lạc, sự thảnh thơi của ta. Đi như vậy một hồi thì mảnh đất ta đi trở thành thánh địa. Ta đi và để lại dấu ấn của sự an lạc, sự hạnh phúc của ta trên đó, người khác bước lên sẽ cảm thấy. Khi con ngựa thuần rồi, ta không cần những sợi dây cột nữa nhưng khi ta chưa nắm được nó thì ta phải sử dụng những sợi dây cho thật vững. Những sợi dây này dễ chịu lắm, không làm cho ta trầy da như những sợi xích sắt cột chân voi hay sợi thòng lọng xiết cổ ngựa.

Đây là Tịnh độ
Đây là Tịnh độ
Tịnh độ là đây
Mỉm cười chánh niệm
An trú hôm nay
Bụt là lá chín
Pháp là mây bay
Tăng thân khắp chốn
Quê hương nơi này
Thở vào hoa nở
Thở ra trúc lay
Tâm không ràng buộc
Tiêu dao tháng ngày.

Đây là một bài khác, bài "Đây là Tịnh Độ". Với bài này quý vị có thể thực tập mỗi hơi thở vào bốn bước, mỗi hơi thở ra bốn bước. Bài này đem lại cho ta nhiều hạnh phúc. Pháp môn của Làng Mai là không đi tìm Tịnh Độ trong tương lai. Tương lai có thể là một ảo tưởng, nếu trong giây phút hiện tại ta không tiếp xúc được với Tịnh Độ thì đừng mong gì trong tương lai ta có Tịnh Độ. Nếu trong giây phút hiện tại mà ta tiếp xúc với Tịnh Độ rồi thì chắc chắn Tịnh Độ sẽ có ở tương lai thật sự. Những mầu nhiệm mà ta trở về tiếp xúc được trong giây phút hiện tại đều thuộc về Tịnh Độ. Chính thân của ta cũng thuộc về Tịnh Độ, cũng mầu nhiệm như Tịnh Độ. Không phải Tịnh Độ là một cái gì có ngoài thân và tâm ta. Thân của ta cũng mầu nhiệm như Tịnh Độ. Tịnh độ không phải là một khung cảnh, một xứ sở có ngoài ta. Thân tâm ta mà không thuộc về Tịnh Độ thì không bao giờ ta vào được Tịnh Độ. Chỉ khi nào thân và tâm của ta thuộc về Tịnh Độ thì ta mới đi vào Tịnh Độ. Cho nên sự thực tập của ta là mỗi bước chân đi vào Tịnh Độ. Và nếu anh không bước vào Tịnh Độ trong khi anh đang còn có mặt ở đây thì sức mấy mà anh bước vào được Tịnh Độ trong tương lai. Mà bước vào Tịnh Độ nhờ cái gì? Nhờ chánh niệm, tại vì chánh niệm đánh tan thất niệm, đánh tan tán loạn và đưa tới tuệ giác. Tuệ giác cho ta biết rằng trong giây phút hiện tại ta đang sống những giây phút mầu nhiệm của Tịnh Độ ở trong ta và chung quanh ta.

Đây là Tịnh Độ
Tịnh độ là đây
Mỉm cười chánh niệm
An trú hôm nay

Nụ cười này không phải nụ cười ngoại giao, nụ cười làm duyên mà là nụ cười của chánh niệm. Tại sao phải cười? Tại vì sự sống mầu nhiệm quá chừng. Ta đã sống bao nhiêu năm rồi: ba chục, bốn, năm chục năm rồi. Thời gian vừa qua ta từng chạy theo những bóng dáng, những ảo tưởng. Bây giờ tỉnh rồi, ta biết quý những giây phút, những ngày giờ còn lại của ta và nguyện không xài phí một cách oan uổng ngày giờ của ta nữa. "Mỗi phút một viên ngọc quý, tóm thâu đất nước trời mây, chỉ cần một hơi thở nhẹ là bao phép lạ hiển bày: chim hót thông reo hoa nở, trời xanh mây trắng là đây". Sống như vậy mới là nghệ thuật sống và điều này ta có thể làm được bây giờ. Với tâm sáng chói đó, với chánh niệm đó ta có thể làm được như Bụt. Mỗi bước chân đi vào Tịnh Độ ở đây không phải chuyện mơ tưởng.

Thực tập của Làng Mai không phải là chuyện mơ tưởng. Ta không đầu tư vào tương lai vì những gì ta muốn đều có thể có trong giây phút hiện tại. Mỉm cười chánh niệm là như vậy, an trú hôm nay tức là trở về giây phút hiện tai. Bụt ở đâu? Bụt là lá chín. Bài này được viết trong mùa thu khi lá đang vàng tươi hay đỏ au. Người ta nói tới trái cây chín nhưng lá cũng chín và rất đẹp. Nhìn vào một tờ lá đỏ hay vàng au mà thấy Bụt, thấy Tịnh Độ trong đó tức là ta đã thành công rồi. Ta còn muốn đi tìm Bụt, tìm Pháp và Tịnh Độ ở đâu nữa? Nếu ta thấy được một tờ lá đỏ đẹp và mầu nhiệm như vậy thì Bụt, Tịnh Độ ở ngay trong tờ lá đó. Bụt là lá chín, Pháp là mây bay, những người theo Cơ Đốc giáo cũng phải thực tập như vậy. Đừng tìm Thượng để ở trên mây, trên trời mà phải tìm Thượng đế ngay trong giây phút hiện tại. Phải tìm Thượng đế ngay trong tờ lá đỏ, trong đám mây bay và phải có hạnh phúc ngay trong lúc đó thì mới tiếp xúc được với Thượng đế, còn nếu không thì Thượng đế chỉ là một ý niệm mơ hồ viễn vông. Đó là sự hy vọng vào tương lai. Thấy lá mình thấy Bụt, thấy mây mình thấy Pháp. Tăng thân khắp chốn, tăng thân ở đây không hẳn chỉ là người mà có thể là cây, là rừng, là lá, chỗ nào cũng có tăng thân. Quê hương nơi này, cũng như tổ Lâm Tế nói, giây phút nào cũng là giây phút trở về nhà mình. Trở về quê hương đích thật của ta là giây phút hiện tại thì ta không đi tìm hạnh phúc ở đâu nữa cả. Quê hương là giây phút hiện tại, ngay chỗ này, ngay giây phút này và như vậy là ta tiếp xúc được với Bụt, Pháp và Tăng.

Quý vị thực tập bài này cũng là quy y Tăng, cũng là thực tập nương tựa Tam bảo. Thở vào thì anh thấy gì? Hoa nở nghĩa là những mầu nhiệm của sự sống. Thở ra anh thấy gì? Thấy trúc lay. Tâm không ràng buộc, không ràng buộc đây tức là không ràng buộc bởi những dự án, những mong ước tương lai của mình bởi vì ngay bây giờ, ở tại đây là đã có hạnh phúc tràn trề rồi. Ta không cần thiết kế một tương lai hay ao ước những gì mà ta chưa có. Ta cũng không tiếc thương quá khứ vì tất cả những cái đó đều là những ràng buộc. Tiếc thương về quá khứ hay ngóng trông những gì trong tương lai đều là ràng buộc. Tâm không ràng buộc, tiêu dao tháng ngày. Tiêu dao tức là tự do và có hạnh phúc trong mỗi giây phút. Khi ăn cơm, quý vị có thể ăn cơm theo bài này. "Đây là Tịnh Độ, Tịnh Độ là đây", thì ta còn đi tìm Tịnh Độ ở đâu nữa, đi tìm hạnh phúc ở đâu nữa. Được ngồi ăn cơm với tăng thân trong chánh niệm cũng là đang ngồi ăn với Bụt và giáo đoàn nguyên thủy. Bụt và giáo đoàn nguyên thủy không phải thuộc về quá khứ đâu, nếu ta an trú trong hiện tại thì Bụt và giáo đoàn nguyên thủy đang có mặt ngay trong hiện tại. Và vì Bụt là chánh niệm nên không giây phút nào, không bữa cơm nào mà ta không được ăn chung với Bụt. Bài này cũng có bằng tiếng Pháp bằng tiếng Anh.

Đã về đã tới

Bài thứ tư là bài "Đã về đã tới."

Đã về, đã tới
bây giờ ở đây
Vững chãi, thảnh thơi,
Quay về nương tựa …

Nhờ Bụt và chư Tổ gia hộ lắm tôi mới nói ra được hai chữ "đã về, đã tới". Đã về, đã tới là pháp ấn của Làng Mai. Bất cứ sự thực tập nào, giáo lý nào mà không mang dấu ấn đã về đã tới thì không phải giáo lý và sự thực tập của Làng Mai – "I have arrived, I am home". Khi thực chứng được điều đó, thực tập được điều đó thì hạnh phúc có liền lập tức. Nếu anh chưa có hạnh phúc là tại vì anh chưa thành công ở chỗ đã về, đã tới; còn khi anh đã về, đã tới rồi thì anh thành công, anh có hạnh phúc liền. Vì vậy các cô, các chú nào mà chưa hạnh phúc là biết rằng mình chưa về, mình chưa tới.

Vững chãi, thảnh thơi. Vững chãi là không bị quá khứ và tương lai lôi kéo, thảnh thơi là tự to. Vững chãi thảnh thơi là hai đặc tính của hạnh phúc, của Niết bàn. Khi không có vững chãi, không có thảnh thơi thì anh không thể nói có Niết bàn được.

Quay về nương tựa. Quay về tức là quay về giây phút hiện tại, và nương tựa là nương tựa nơi hải đảo của tự thân, tức là nơi chánh niệm, hơi thở và bước chân. Chánh niệm về bước chân và hơi thở là những điều rất cụ thể, không phải là những gì trừu tượng. Tổ Lâm Tế dạy chúng ta phải quay về hiện tại và sử dụng tâm sáng chói của mình để đi vào thế giới Hoa tạng, đi vào cõi Bụt, vào thế giới Tịnh độ, nắm tay Bụt cùng đi chơi. Chuyện đó ta có thể làm được hôm nay. Tổ dạy một cách tổng quát như vậy và chỉ có những bậc đại căn đại trí mới làm được nhưng ở Làng Mai chúng ta có thể đi xa hơn, chúng ta đưa ra những phương pháp cụ thể, những pháp môn mà ai cũng có thể làm được. Ta không cần phải là bậc đại căn đại trí cũng có thể làm được và sống hạnh phúc như Bụt được.

Đã về, đã tới
Bây giờ, ở đây
Vững chãi, thảnh thơi
Quay về nương tựa
Nay tôi đã về
Nay tôi đã tới
An trú bây giờ
An trú ở đây
Vững chãi như núi xanh,
Thảnh thơi dường mây trắng,
Cửa vô sanh mở rồi,
Trạm nhiên và bất động.

Bốn bài này giúp ta thực tập để nắm lấy tâm mình. Đừng chỉ thực tập một bài mà nên thực tập luôn cả bốn bài để cho bài nào cũng còn mới. Thực tập bài này một thời gian rồi thực tập bài kia, đến khi ta trở lại thì bài này vẫn còn mới. Ta đừng để cho bài nào bị soi mòn. Trong khi mở khóa tu ta có thể sử dụng các bài này để giúp cho thiền sinh tại vì ai cũng có một cái tâm hoang sơ, một cái tâm chưa tu tập và do đó đã làm nên những lẫm lỗi khổ đau. Cho nên ta giúp họ nắm lấy tâm họ và đưa cho họ những sợi dây xích để buộc tâm của họ lại. Tâm mà không tu tập dễ bị thất niệm kéo đi.

Thất niệm là không có chánh niệm: ăn không biết mình ăn, uống không biết mình uống, đi không biết mình đi, nói những điều ác độc mà không biết là mình đang nói những điều ác độc, đang vướng mắc mà không biết mình vướng mắc, đang sống trong mầu nhiệm mà không biết mình đang sống trong mầu nhiệm … Thất niệm đi đôi với tán loạn. Thất niệm và tán loạn đưa tới bất chánh tri. Tri là biết, chánh là đúng, bất chánh tri là không có kiến giải chân chính. Khi tâm ta tán loạn thì ta nhìn sự vật một cách hời hợt, ta không thấy được sự thật và ta có những tri giác sai lầm. Trong khi đó Bụt là người có chánh biến tri. Bụt có chánh tri mà chánh tri này được áp dụng vào trong mọi trường hợp thời gian và không gian nên gọi là chánh biến tri, biến là cùng khắp. Vì muốn có được chánh biến tri ta phải thoát ra khỏi tình trạng thất niệm, tình trạng tán loạn và tình trạng bất chánh tri; đó là ba tâm sở bất thiện đem tới phiền não.

Khi ta không có chánh niệm, khi tâm ta tán loạn, ta hiểu lầm nhiều lắm. Ta không nhận diện được gì cả và ta gây ra những đổ vỡ, những xáo trộn hiểu lầm ở giữa anh em, chị em. Tâm không tu tập là như vậy. Do đó cho nên khi ta trở về nắm được tâm ta thì từ từ ta có chánh niệm, có chánh định. Chánh niệm để đối trị với thất niệm, chánh định để đối trị với tán loạn và khi ta có niệm, có định rồi thì bắt đầu ta có chánh tri. Ta có được cái thấy sâu hơn và ta sẽ không tạo ra những lầm lỗi, những khổ đau. Đó gọi là tâm có tu tập. Dù ta học giỏi cách mấy đi nữa mà ta không trở về nắm được tâm và tu tập cày cấy miếng đất của tâm, tưới tẩm hạt giống tốt trong tâm thì ta cũng không thành công.

"Này các thầy, tôi không thấy một pháp nào khác lại đem đến đau khổ như tâm không được tu tập, tâm không được tu tập đem lại rất nhiều đau khổ. Này các thầy, tôi không thấy một pháp nào có thể lại đem lại an lạc như là tâm được tu tập, tâm được tu tập thì đem lại an lạc rất nhiều", đó là lời Bụt dạy. Tôi mong rằng tất cả mọi người trong đại chúng xuất gia cũng như tại gia đem hết tâm thành của mình ra mà thực tập những bài này. Nếu quý vị thực tập hết lòng trong một vài tuần thì quý vị sẽ thay đổi và khi quý vị biết thực tập tháng này sang tháng khác, năm này sang năm khác thì cố nhiên cái tuệ của quý vị sẽ được khơi mở ra. Ta sẽ có tuệ khi ta thực tập chánh niệm và chánh định. Mà chánh niệm, chánh định trước hết là cột tâm mình lại. Ở Làng Mai, muốn cột tâm mình lại thì trước hết ta cột hơi thở, cột bước chân vào trong chánh niệm. Ta có những bài tập rất hay để làm chuyện đó. Xin quý vị sử dụng cho hết lòng tại vì mục tiêu của người tu là giải thoát an lạc chứ không phải là để trở thành một học giả về Phật học.

 

Hạnh phúc là con đường (II)

Kính thưa đại chúng hôm nay là ngày 28 tháng 09 năm 2003 chúng ta đang ở tại Xóm thượng trong khóa mùa Thu.

Thế nào là hạnh phúc?

Hôm thứ năm, chúng ta đã đặt ra câu hỏi: Nếu chúng ta không biết cái gì có thể làm cho chúng ta hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại, thì làm sao chúng ta biết được cái gì làm cho chúng ta hạnh phúc trong tương lai? Câu hỏi đó rất là quan trọng. Câu hỏi đó có liên hệ đến câu hỏi: Hạnh phúc trong hiện tại có thể có được hay không? Chúng ta có đủ những điều kiện để có hạnh phúc trong hiện tại hay không? Trước hết, chúng ta hãy thử định nghĩa thế nào là hạnh phúc.

Hạnh phúc trước hết là một cảm thọ

Hạnh phúc trước hết là một cảm thọ, gọi là lạc thọ, pleasant feeling. Nhưng lạc thọ chưa hẳn là hạnh phúc. Khi nhìn các em bé đang nô đùa một cách rất vô tư, không luyến tiếc quá khứ, không lo lắng tương lai, chúng ta thấy các em như là đang ở trong thiên đường. Đó là hạnh phúc. Nhưng không biết các em có biết là các em đang có hạnh phúc hay không? Đang nô đùa, đang rong chơi, không lo lắng, chưa hẳn đó là hạnh phúc. Mình không biết là mình đang có hạnh phúc, thì cái hạnh phúc đó chưa hẳn là hạnh phúc chân thật. Có nhiều người đang sống trong những điều kiện rất thuận lợi, không có vấn đề, không có lo lắng, không có sầu khổ, đáng lý ra là những người đó có hạnh phúc. Cho nên sống trong những điều kiện thuận lợi coi như chưa phải là hạnh phúc. Không thể định nghĩa rằng hạnh phúc là một cảm thọ dễ chịu, một cái lạc thọ. Chúng ta có thể định nghĩa hạnh phúc là ý thức mình đang có về lạc thọ. Lạc thọ chưa phải là hạnh phúc, mà ý thức rằng mình đang có lạc thọ thì mới thật là hạnh phúc. Những em bé đang nô đùa trong thiên đường, các em không biết là các em đang có hạnh phúc. Chỉ khi nào các em lớn lên và mất cái thiên đường đó rồi, các em mới biết rằng mình đã từng có hạnh phúc.

Yếu tố chánh niệm là yếu tố căn bản

Nếu mình hạnh phúc mà không biết rằng mình đang hạnh phúc thì cái đó chưa phải là hạnh phúc. Mình có thể tạm đưa ra một định nghĩa về hạnh phúc, tức là ý thức được rằng mình đang có một lạc thọ. Nhưng định nghĩa đó chưa có tuyệt đối, tại vì có thể mình đang không có lạc thọ, nhưng mình vẫn có hạnh phúc như thường. Ví dụ mình đang khuân vác một cái gì đó nặng, nhưng nghĩ rằng khuân vác như vậy đem lại hạnh phúc cho tăng thân, cho người thương của mình, thì trong khi đang khuân vác nặng nề như vậy mình cũng có thể có hạnh phúc. Cảm thọ lúc đó không hẳn là lạc thọ, nhưng vì ý thức được mình đang làm một việc có ý nghĩa, do tình thương xúc tác, thì lúc đó trong tâm phát sinh một lạc thọ, lạc thọ đó có thể đi đôi với khổ thọ (là mình đang chịu đựng về thân xác, mình đang khuân vác cực nhọc, không được nghỉ ngơi), thì đó cũng là hạnh phúc. Các vị Bồ Tát đang lăn mình vào trong những hoàn cảnh khổ đau để cứu vớt chúng sanh, thì tuy là họ đang bị sức nóng của chiến tranh, của áp bức, của nghèo khổ đè nặng, nhưng vì họ có tâm trí của đại bi, đại từ cho nên họ không có khổ đau, và họ có hạnh phúc. Vì vậy hạnh phúc không thể định nghĩa đơn thuần là lạc thọ mà thôi. Trong tâm vị bồ tát có bình an và có tình thương, thì dù có những khổ thọ vị bồ tát vẫn chịu đựng được rất dễ dàng, tại vì vị bồ tát có hạnh phúc trong khi làm công việc nặng nhọc như vậy. ở trong hoàn cảnh khó khăn như vậy, ý thức rằng mình đang làm cái đáng làm, mình đang làm những việc cao quý có ý nghĩa, có lợi ích cho cuộc đời, thì với cái ý thức đó nó sẽ đem tới hạnh phúc. Định nghĩa ‘hạnh phúc là một lạc thọ’ là một định nghĩa quá hẹp hòi, đơn giản. Tâm mình đóng một vai trò rất quan trọng. Tâm mình không phải chỉ là lạc thọ hay chỉ là cảm thọ thôi.

Lạc đi đôi với an

Trong văn học Phật giáo, chữ lạc thường đi đôi với chữ an, an lạc. An có nghĩa là bình an, peace. Lạc có nghĩa là hạnh phúc. Hạnh phúc thường đi đôi với cái an, không có an thì chưa hẳn là có lạc. Dù mình đang uống rượu, dù mình đang ăn thức ăn rất là ngon, dù mình mới trúng số độc đắc, nhưng nếu tâm không có an thì cái đó chưa hẳn là lạc. Có những người nghe tin mình trúng số độc đắc thì ngất xỉu, tại vì họ chịu đựng không nỗi cái tin mừng đó, tại vì trong tâm họ không có an. Cái tin đó chỉ là một chất xúc tác, một cái exiting, một sự kích động. Nếu đó là sự kích động thì trong đó không có cái an, nếu không có an thì trong đó không thực sự là có lạc. Trong khi mình theo đuổi và hưởng thụ ngũ dục, ví dụ khi mình đang ăn một cái gì đó, đang uống một cái gì đó, đang có những liên hệ xác thịt với một người nào đó, thì có thể trong khi ăn cái đó, uống cái đó, có liên hệ xác thịt đó, thì mình cho cái cảm giác lúc đó nó là lạc thọ. Nhưng trong cái lạc thọ đó, mình hãy tự hỏi nó có cái an hay không? Nếu không có an thì cái đó không phải là lạc, mà là mình đang bị một ngọn lửa đốt cháy. Ngọn lửa đó là ngọn lửa của dục. Tham ăn, bị chìm đắm trong biển Vị mênh mông, đó là một cái dục. Thèm nghe hát nhạc Rock, nhạc tình sầu đứt ruột, thì đắm chìm trong biển Thanh mênh mông, đó là một cái dục. Trong khi mình hưởng thụ những hương vị đó, những âm thanh đó, thì trong người mình bị thiêu đốt, cái thiêu đốt bởi dục. Nếu có ngọn lửa của sự đam mê đốt cháy thì tuy mình có thể diễn tả cái đó là một lạc thọ, nhưng lạc thọ đó không phải là hạnh phúc. Tại vì nó không có yếu tố an ở trong đó, không có an thì không có lạc. Trong ngôn từ đạo Bụt, luôn luôn là an đi đôi với lạc, an lạc – yên vui. Không có yên thì không có vui. Cho nên mình có thể nhận diện ra được cái chân hạnh phúc và cái không phải là chân hạnh phúc. Người đời chỉ muốn có những cảm giác lạc thọ mà ít khi để ý hay phán xét cái đó có thật là lạc thọ, là hạnh phúc hay không. Cho dù trong cái lạc thọ đó nó có ít yếu tố của sự bất an, của sự đốt cháy, thì cái lạc thọ đó cũng không phải là hạnh phúc chân thật. Giây phút của khoái lạc đó có thể kéo theo giây phút của sự khổ đau. Ví dụ như khi mình buồn quá, mình đi uống rượu. Trong khi uống rượu mình thấy bớt buồn và mình nghĩ là có hạnh phúc. Nhưng kỳ thực, sau khi uống rượu nhiều rồi thì lại chồng chất thêm những cái khổ thọ khác lên, mà cơn buồn sẽ trở lại khi mình tỉnh rượu. Sử dụng ma túy cũng vậy hay là đắm mình trong sắc dục cũng vậy, để quên bớt những khổ đau, để quên bớt những cô đơn. Nhưng sau những hưởng thụ dục lạc đó thì những khổ đau ban đầu hiện hình ra rõ ràng hơn trước. Vì vậy những giây phút đó không thể được định nghĩa là những giây phút thực sự là hạnh phúc, tại vì nó là nền tảng, là nguyên nhân của những giây phút khổ đau sau này, những cái khổ thọ sau này.

Liên hệ giữa khổ và lạc

Sau khi đã xét liên hệ giữa lạc (không có an) và Lạc (có an), bây giờ chúng ta xét tới liên hệ giữa khổ và lạc, tức là khổ đau và hạnh phúc. Khổ đóng một vai trò rất là quan trọng để tạo ra lạc. Nếu không có khổ thì không có lạc. Ví dụ khi chúng ta không có đói, không biết đói là gì, thì chúng ta không được cái hạnh phúc của sự ăn ngon. Khi chúng ta không biết lạnh là gì, thì chúng ta không biết được hạnh phúc của sự ấm áp. Hạnh phúc là cái gì chỉ có thể nhận diện được trên bối cảnh của khổ đau mà thôi. Bối cảnh, tiếng Anh là background. Cũng như khi chúng ta đang ở ngoài trời lạnh buốt mà chúng ta mở cửa đi vào trong nhà, chúng ta cảm thấy ấm quá, dễ chịu quá, hạnh phúc quá, thì cái hạnh phúc khi bước vào nhà là do cái đau khổ bị chịu lạnh ở ngoài trời. Nếu chúng ta ở trong nhà độ chừng mười phút hoặc mười lăm phút, thì chúng ta quên đi cảm giác đó, chúng ta không thấy hạnh phúc nữa. Chúng ta phải ra ngoài để thấy lạnh rồi đi vô mới thấy hạnh phúc lại, đó là điều kiện của con người, condition du man, là như vậy. Chúng ta phải nhờ có khổ đau thì chúng ta mới nhận diện được hạnh phúc. Đó là cái contrast, cái tương đãi, cũng như là ánh sáng và bóng tối. Nếu không có đêm thì ta không thấy được ngày là sáng. Có đêm, có ngày thì mình mới biết đêm là quý, và ngày là quý. Tưởng tượng mình chỉ có ngày thôi mà không có đêm thì buồn biết mấy, và mình sẽ không biết được cái quý giá của ngày. Nếu chỉ có đêm thôi mà không có ngày thì làm sao thấy được cái êm đềm của đêm, mình sẽ thấy đêm dài đặc. Mình đã thấy ngày rồi cho nên thấy đêm là hạnh phúc, mình đã sống cả đêm rồi cho nên thấy ngày là hạnh phúc. Hạnh phúc tùy thuộc ở khổ đau. Muốn loại trừ khổ đau ra để chỉ có hạnh phúc thôi là một ý niệm rất là ngây thơ, khờ dại. Khi có chiến tranh thì chúng ta mới biết hòa bình là quý. Nói như vậy không có nghĩa là chúng ta nên duy trì chiến tranh, chiến tranh luôn luôn có, tại vì loài người có quá nhiều tham, sân, si, cho nên chiến tranh cứ tiếp tục hết nơi này đến nơi khác. Thành ra chúng ta đâu cần phải tạo thêm chiến tranh để có điều kiện nhận diện ra hòa bình. Chiến tranh luôn luôn có mặt: nó có ở trong nội thân của chúng ta, nó có ở trong sự liên hệ giữa ta và người ta thương. Chiến tranh là thường xuyên, và nhờ chiến tranh cho nên chúng ta mới nhận diện được hòa bình là quý. Hòa bình ở trong bản thân, hòa bình giữa ta với người ta thương, hòa bình giữa ta với đoàn thể chúng ta đang sống.

Ý niệm về Thiên Đường hay Tịnh Độ, là một nơi không có khổ đau là một ý niệm rất ngây thơ. ‘Xá Lợi Phất ! Tại sao cõi đó gọi là Cực Lạc? Tại vì nhân dân ở cõi đó không biết khổ là gì, vì vậy cho nên cõi đó gọi là Cực Lạc.’ Câu kinh này ở trong kinh A Di Đà, là một câu kinh không có liễu nghĩa. Câu này chỉ biểu lộ lòng từ bi của Bụt mà thôi. Bụt thấy chúng sinh khổ quá, ao ước trốn tránh khổ đau, cho nên Bụt mới nói như vậy để cho hấp dẫn. Thật ra, nếu không có khổ đau thì không thể nào có hạnh phúc được. Câu kinh trong kinh A Di Đà là chứng tỏ cái hiểu của Bụt về tâm trạng của chúng sanh là chỉ muốn trốn tránh đau khổ để đi tìm hạnh phúc. Ngài đưa ra một cái bánh để chúng sanh chạy theo. ‘Xá Lợi Phất ! Tại sao cõi đó gọi là Cực Lạc? Tại vì nhân dân ở cõi đó không biết khổ là gì, vì vậy cho nên cõi đó gọi là Cực Lạc.’ Sự thật nếu ta không biết khổ đau là gì thì ta cũng không biết hạnh phúc là gì. Thiên Đường cũng vậy. Chúng ta không nên gởi con cháu của chúng ta tới những nơi không có khổ đau, nếu con cháu chúng ta tới những nơi không có khổ đau thì chúng nó sẽ không biết gì là hạnh phúc. Không có khổ đau thì làm sao mình tập hiểu và tập thương được ! Nếu không có chất liệu hiểu và thương thì đố mà anh có hạnh phúc được. Chỉ khi nào trong trái tim anh có chất liệu hiểu và thương thì anh mới có hạnh phúc. Nếu không có khổ đau, thì làm sao anh biết hiểu và làm sao anh biết thương. Hiểu cái gì? Thương cái gì? Do đó định nghĩa về Thiên Đường hay Cực Lạc là chỗ không có khổ đau là một định nghĩa rất ngây thơ. Thế hệ của quý vị phải thấy cho rõ. Chúng ta không phải là một bầy con nít mà bất cứ ai nói cái gì thì chúng ta tin cái đó. Chúng ta phải quán chiếu bằng trí tuệ của chúng ta. Hạnh phúc là một cái gì chỉ nhận diện được khi có đau khổ. Hạnh phúc chỉ nhận diện được trên cái bối cảnh khổ đau mà thôi. Cũng như cái ấm được nhận diện trên bối cảnh của cái lạnh; cái no được nhận diện trên bối cảnh của cái đói. Chạy trốn khổ đau là một thái độ không phù hợp với tinh thần của giáo lý đạo Bụt. Chúng ta phải đối diện khổ đau, phải nhìn vào khổ đau, hành động đó giúp chúng ta nhận diện được thế nào là hạnh phúc.

Sự thật thứ nhất là Khổ Đế, rất cần thiết để chúng ta nhận diện được sự thật thứ ba. Sự thật thứ ba là sự chấm dứt của khổ, có nghĩa là hạnh phúc. Sự thật thứ nhất và sự thật thứ ba có liên hệ với nhau, nếu không có sự thật thứ nhất làm gì có sự thật thứ ba, nếu không có sự thật thứ ba làm gì có sự thật thứ nhất. Sự thật thứ nhất là khổ đau, sự thật thứ ba là hạnh phúc. Sự thật thứ hai là con đường đưa tới khổ đau. Sự thật thứ tư là con đường đưa tới hạnh phúc. Có hai cặp chân lý. Cặp đầu là đau khổ và con đường đưa đến đau khổ. Cặp thứ hai là hạnh phúc và con đường đưa tới hạnh phúc. Đó là giáo lý Tứ Diệu Đế. Hai cặp đó đi đôi với nhau, nếu không có cặp này thì không có cặp kia.

Khi cầm cây bút thẳng đứng, thì chúng ta thấy rất rõ là có trên có dưới. Hễ có trên thì thế nào cũng phải có dưới, hễ có dưới thì thế nào cũng có trên. Làm sao chỉ có trên mà không có dưới được, đó là chuyện vô lý. Nếu chúng ta để cây bút nằm ngang, chúng ta thấy có trái và có mặt. Nếu có trái thì phải có mặt, nếu có mặt thì phải có trái. Nếu mình thuộc về phe tả thì đừng mong ước phe hữu không có mặt, tại vì nếu phe hữu không có mặt thì phe tả cũng không có mặt, cái này gọi là tương đãi. Mình phải hiểu hạnh phúc trong văn mạch đó thì mới biết hạnh phúc là gì. Hạnh phúc không thể nào được nhận diện nếu không có bối cảnh của khổ đau. Mà khổ đau thì luôn luôn có đó, tham, sân, si luôn luôn có đó, nhận diện được khổ đau thì ta có thể nhận diện được hạnh phúc.

Hạnh phúc tùy thuộc vào tâm

Chúng ta đã tìm ra liên hệ giữa lạc và lạc, giữa khổ và lạc: Có khi ta đi trong mưa lạnh nhưng ta có hạnh phúc; có khi ta ngồi trong ấm áp mà ta không có hạnh phúc. Ví dụ chúng ta nghe một người thân đang bị tai nạn, chúng ta không có cơ hội đi ra ngoài để tìm cách cứu trợ người thân của chúng ta, thì chúng ta đau khổ vô cùng, dù chúng ta đang ở trong chỗ ấm áp. Hạnh phúc lúc đó là được cứu giúp người thân dù phải đi ra chỗ mưa lạnh, hạnh phúc lúc đó không phải được ngồi yên trong nhà ấm nữa, người đó sẽ đau khổ. Liên hệ giữa lạc và khổ tương đối. Hạnh phúc nằm ở trong tâm mà không phải ở hoàn cảnh. Thường thường mình hay nghĩ tới hạnh phúc trong cái văn mạch của sự mua sắm. Có cái xe hơi đó, có cái nhà đó, có cái bằng cấp đó, thì có hạnh phúc; có được tiền để đi du lịch là có hạnh phúc. Tất cả những cái mình nghĩ tới hạnh phúc như là một điều kiện ngoại tài, điều kiện đi tìm ở ngoài, trong khi hạnh phúc tùy thuộc vào tâm của mình rất nhiều.

Trở về trong giây phút hiện tại để nhận diện những điều kiện hạnh phúc

Trong sự thực tập của Làng Mai, chúng ta thường nghe và được nhắc nhở rằng chúng ta có nhiều điều kiện hạnh phúc rồi, nhiều hơn là chúng ta tưởng. Chúng ta chỉ cần trở về trong giây phút hiện tại để nhận diện những điều kiện hạnh phúc thì ta có hạnh phúc liền. Người đời nghĩ rằng hạnh phúc không thể có được trong giây phút hiện tại, cho nên họ mới đi tìm thêm một số điều kiện chưa có, vì vậy họ phóng tâm về tương lai. Còn chúng ta là người tu, chúng ta không nên làm như họ, không được làm như họ. Giáo lý Hiện Pháp Lạc Trú nói rất rõ ràng là hạnh phúc có thể có được trong giây phút hiện tại, đó là một sự xác quyết của đức Như Lai. Đức Như Lai nói rằng mình có thể sống hạnh phúc được trong giây phút hiện tại. Chúng ta cần những gì, những điều kiện nào để có thể hạnh phúc ngay trong giây phúc hiện tại? Trở về với giây phút hiện tại, tiếp xúc với những điều kiện hạnh phúc đã có và đang có. Câu hỏi được trả lời liền, và những điều kiện đó ta có thể nêu ra rất rõ ràng. Và những điều kiện đó có mặt, nếu những điều kiện đó có mặt mà ta không có hạnh phúc là tại vì ta mà thôi. Khi ngồi ăn cơm thì mình ăn như thế nào để có hạnh phúc trong khi ăn. Khi từ liêu xá của mình đi ra thiền đường, thì đi như thế nào để có hạnh phúc trong khi đi. Buổi sáng thức dậy có được một giờ để ngồi thiền, thì ngồi như thế nào để có hạnh phúc trong khi ngồi. Buổi chiều có một giờ chấp tác, thì chấp tác thế nào để trong giờ chấp tác đó mình có hạnh phúc. Buổi sáng mình có hai phút để chải răng, trong hai phút để chải răng thì chải như thế nào để có hạnh phúc, để có an và có lạc. Mỗi ngày được đi cầu một lần hay hai lần, đi cầu làm sao để trong khi đi mình có an, có lạc. Sự thực tập rất rõ ràng. Làm được hay không làm được, cái đó là do mình thôi. Tại vì những điều kiện hạnh phúc mình có rồi. Nếu trong khi đi cầu mình không có an thì làm sao lạc được, trong khi chải răng mình không có an thì làm sao có lạc được. Quý vị có thể tự biết rằng trong khi chải răng mình có an hay là không. Cái tập khí đi như bị ma đuổi, làm như bị ma đuổi, mình có thể nhận diện và đối phó với nó được hay không? Có thể an trú trong giây phút hiện tại không? Đó là công phu hàng ngày của mình. Nếu mình giảng một bài giảng về hạnh phúc, hay viết một cuốn sách về hạnh phúc, thì mình phải nói những điều đó. Nếu đức Thế Tôn nói hạnh phúc có thể có được trong giây phút hiện tại, và sự thực tập của anh là phải có hạnh phúc, thì là suốt ngày mình chỉ lo hạnh phúc mà thôi, đâu có lo cái gì đâu mà than thở. Mình chỉ lo hạnh phúc của mình thôi. Khi mình hạnh phúc là mình đóng góp cho Tăng Thân, đóng góp cho cuộc đời. Nếu không có cái đó thì mình có gì cống hiến cho đời đâu. Cho nên phải chải răng làm sao để trong khi chải răng mình có hạnh phúc, phải đi cầu làm sao để trong khi đi mình có hạnh phúc, phải ngồi ăn cơm làm sao để trong khi ăn mình có hạnh phúc, chứ vừa ăn vừa khóc thì đâu tốt.

Mười năm gối hận bên giường
Mười năm nước mắt bữa thường thay canh

Đó là thơ của Nguyễn Bính.

Bữa ăn nào cũng khóc, cũng lấy nước mắt chan vô cơm. Ôm những mối sầu đau của mình để ăn cơm thì tội quá đi, tội cho cơm quá đi. Ăn cơm sao cho có hạnh phúc, là mình tiếp nhận những lời chỉ bảo của đức Thế Tôn. Đức Thế tôn dạy trong khi ăn phải duy trì năm quán, phải ý thức về thức ăn, phải ý thức về Tăng Thân, ngồi ăn như thế nào để có thảnh thơi, hạnh phúc. Nếu trong khi ăn cơm mà không có hạnh phúc là tại vì mình, chứ không phải tại vì đức Thế Tôn.

Ly sanh hỷ lạc

Hỷ là niềm vui và Lạc là hạnh phúc. Đức Thế Tôn muốn chúng ta có Hỷ và có Lạc trong đời sống hàng ngày. Nếu không có Hỷ và có Lạc thì sự thực tập của ta không được nuôi dưỡng và ta không có đi xa được. Đức Thế Tôn nói là có những phương pháp thực tập để giúp ta có Hỷ và có Lạc trong đời sống hàng ngày.

Trước hết là ly. Ly tức là buông bỏ. Mình phải biết buông bỏ thì mới có Hỷ và Lạc được. Buông bỏ cái gì đây? Có những cái trong tâm cần phải buông bỏ: những giận hờn, những tiếc nuối, những cố chấp, những thành kiến. Đó là những hành trang làm chiếc thuyền của mình nặng và đi không được. Buông bỏ rất là quan trọng. Thử hỏi mình có hành trang nào cần phải buông bỏ? Trước hết mình có ý niệm về hạnh phúc. Mình nghĩ rằng trong giây phút hiện tại mình không có hạnh phúc, mình chỉ có thể có hạnh phúc khi mình được như thế này, được như thế kia, được có cái này, được có cái kia, thì đó là trở lực đầu tiên. Ví dụ bây giờ tôi nghĩ rằng nếu được về Việt Nam thì tôi mới có hạnh phúc, và nếu chánh quyền vẫn không cho tôi về thì tôi không có hạnh phúc. Nếu tôi kẹt với ý nghĩ đó thì ôi thôi hết rồi, sống đâu có vui vẻ gì nữa, thành ra phải buông cái ý đó ra, không cần phải về Việt Nam mới có hạnh phúc, ở đây cũng có hạnh phúc chán. Quý vị đang muốn đi đâu? Quý vị nghĩ rằng phải tới chỗ nào đó mới có hạnh phúc, quý vị phải buông cái suy nghĩ đó đi, thì cái đó là ly.

Ly sanh hỷ lạc, tức là sự buông bỏ đưa tới Hỷ và Lạc. Quý vị nghĩ rằng nếu mình không được người đó thương thì mình không có hạnh phúc, người đó phải thương mình thì mình mới có hạnh phúc được. Điều kiện đó chưa có, thành ra mình phải đợi người đó thương mình, rồi mình mới có hạnh phúc được, thì cái đó là một cái kẹt, cái đó cần phải buông bỏ. Tại sao phải có người đó thương mình mới có hạnh phúc? Tại sao phải cột hạnh phúc của mình vào một điều kiện mà mình chưa có? Tại sao hạnh phúc đang tới từ muôn phương thì mình đóng cửa lại hết, mà mình chỉ ngồi đó trông cầu một cái mình chưa có? Đó là phóng tâm về tương lai, đòi hỏi những cái khác, trong khi điều kiện hạnh phúc mình có sẵn mà không biết thừa hưởng. Đó là những cái phải buông bỏ. Có những cái ta nghĩ rằng rất cần thiết cho hạnh phúc của ta, và ta cứ tiếp tục nắm giữ. Có thể chính vì những cái ta đang nắm giữ mà ta không có hạnh phúc. Có những người thích đi ‘chợ rệp’. Họ thấy người ta bày hàng rẽ quá đi, một đô hay là hai đô một món thôi, tuy không cần xài những thứ đó nhưng không mua thì uổng, cho nên họ lấy tiền ra mua. Họ nghĩ rằng những cái đó sẽ làm cho họ có hạnh phúc. Rốt cuộc, cái nhà của họ là một cái kho, đi ra đi vô không có chỗ đi, không có chỗ thở, mà buông ra thì tiếc. Trong khi đó, con đường mà họ phải làm là gọi bạn tới ‘nếu anh cần cái gì thì anh lấy đi, tôi không cần món đồ nào hết, tôi cần một cái nhà thật là trống, có không gian cho tôi thở, có khoảng trống để tôi có thể đi ra đi vô cho thảnh thơi’, và họ phải buông hết. Khi người ta tới lấy những cái gì người ta thích rồi, thì tự nhiên mình có một cái nhà rất là trống, đi ra đi vô rất là sướng. Những cái đó thật sự không cần thiết nhưng vì mình nghĩ là cần thiết.

Ví dụ trên chỉ là sự buông bỏ đồ đạc. Ở đây, không phải là đồ đạc mà là những ý niệm, những tình cảm, những vướng mắc của mình. Mình nghĩ không có cái đó mình sống không được, không có hạnh phúc, ai dè chính cái đó lại là những trở lực của mình, ngăn cản mình hạnh phúc. Thành ra mỗi người phải tự quán chiếu để coi mình vướng vào những cái gì, mình muốn nắm chặc những cái gì, khi buông ra thì mình sẽ có hạnh phúc liền. Chữ ly có nghĩa là buông. Càng buông càng có hạnh phúc, càng chất chứa thì càng đau khổ. Đức Thế Tôn dạy phương pháp buông bỏ rất là hay, phương pháp này ngược lại với cái lề thói thâu góp, chứa chất, chiếm đoạt. Phương pháp này rất là mầu nhiệm. Hạnh phúc chỉ có thể có được khi mình biết buông bỏ. Buông bỏ những tiếc nuối của mình, nhất là buông bỏ những ý niệm của mình, những ý niệm về mình và về người kia. Những ý niệm đó làm cho mình khổ mà cũng làm cho người kia khổ. Mình có sự phán xét về mình, mình có sự phán xét về người kia; mình cho mình là cao, hoặc mình cho mình là thấp, mình cho mình là đẹp, hoặc mình cho mình là xấu, mình cho người kia là đẹp, người kia là xấu, người kia là tốt, người kia là khó chịu, người kia là dễ chịu, tất cả những ý niệm đó đều có thể làm cho mình khổ đau. Thành ra buông bỏ những ý niệm đó rất là quan trọng, không có tốn một đồng nào hết. Buông bỏ là một phương pháp rất là mầu nhiệm, nó đem tới hạnh phúc liền lập tức. Chúng ta phải học và thực tập phương pháp đó. ‘Nếu không có cái đó chắc là tôi chết quá !’ Mình cứ nghĩ như vậy. ‘Tôi làm sao sống được nếu không có cái đó, hay người đó’, khi kẹt vào ý niệm đó, thì mình không còn tự do nữa. Ví dụ mà Làng Mai thường đưa ra là những người sống ở thành phố lớn như là Paris, hay là Los Angeles. Cuối tuần, vì muốn thoát khỏi thành phố với những bụi bậm cũng như tiếng ồn, họ lái xe ra khỏi thành phố. Chỉ cần một giờ đồng hồ thôi thì ra khỏi thành phố, ra khỏi thành phố, thì tiếp xúc được với núi đồi, biển cả, gió mát, bắt đầu thấy trăng sao, thấy trời xanh mây trắng, thấy trong lòng lâng lâng. Hạnh phúc đó là do bỏ cái thành phố lại sau lưng, cái đó gọi là ly, là buông bỏ, là để lại sau lưng. Mình phải bỏ lại sau lưng những cái làm cho mình kẹt thì mình mới có hạnh phúc. Cái đó gọi là ly sinh hỷ lạc, nghĩa là Hỷ và Lạc được phát sinh ra từ cái khả năng buông bỏ. Bây giờ nhiều người nghĩ rằng có nhiều tiền thì có hạnh phúc, mua sắm nhiều mới có hạnh phúc. Còn phương pháp của đức Thế Tôn thì không cần một đồng nào hết.

Niệm sinh hỷ lạc

Niệm sinh hỷ lạc là một phương pháp khác. Niệm tức là ý thức. Ví dụ khi mình uống một ly trà hay một ly sữa đậu nành, nếu mình biết rằng mình đang có ly trà hay một ly sữa đậu nành để uống trong giờ phút này thì mình có hạnh phúc lớn, đó là niệm. Niệm là có mặt, có mặt đích thực. Niệm tức là ý thức được cái gì đang xảy ra. Trong khi có niệm thì mình nhận diện được những điều kiện của hạnh phúc, cái đó gọi là niệm sinh hỷ lạc. Ý thức rằng mình đang có tuổi trẻ, mình đang có cơ hội để tu học, mình đang ở trong tăng thân, mình có những điều kiện để tu tập, thì cái ý thức đó là niệm. Khi mà không biết, không có ý thức tức là quên, là thất niệm. Niệm đưa lại hạnh phúc liền lập tức.

Mình đang ở ngoài trời lạnh mà đi vào trong nhà ấm thì có hạnh phúc, nhưng chỉ mười phút sau thì mình quên là mình đang có hạnh phúc. Cơ thể và tâm mình luôn luôn có khuynh hướng bình thường hóa, làm cho soi mòn những cảm thọ. Niệm cho mình biết rằng: ‘Trời ơi! Đang ở trong nhà ấm hạnh phúc quá!’, thì niệm giúp mình phục hồi cái hạnh phúc trở lại. Nếu bây giờ mình phải đi ra ngoài trời lạnh, thì ý thức rằng mình đang được ở trong nhà ấm sẽ đưa lại hạnh phúc liền lập tức, mau như là một tia chớp. Ý thức đó là niệm. Ý thức rằng người thương của mình đang còn đó, ngồi trước mặt mình, thì tự nhiên mình có hạnh phúc. Ý thức rằng mình còn hai mắt sáng, mở mắt ra thì thấy trời xanh mây trắng, đó là niệm. Ý thức rằng mỗi ngày có cơ hội thực tập thiền đi là hạnh phúc. Có vô số những điều kiện hạnh phúc đang có mặt mà mình chỉ cần thực tập chánh niệm là trở về được giây phút hiện tại và tiếp xúc với những điều kiện hạnh phúc. Niệm là một nguồn suối của hạnh phúc, niệm sinh hỷ lạc. Từ niệm mà hỷ và lạc phát sanh. Mình rất là giàu có. Mình thật sự là những đứa con rất giàu có nhưng mình hành xử như những đứa cùng tử than nghèo. ‘Trời ơi! Tại sao tôi không có hạnh phúc gì hết, tôi chỉ có khổ đau mà thôi.’

Niệm sinh hỷ lạc có thể được khai thác phát triển ra được, thế giới ngày hôm nay rất cần cái giáo lý này, rất cần sự nhắc nhở này.

Định có nghĩa là chuyên chú, là tập trung tâm ý. Niệm đã đem lại hỷ lạc rồi, còn định làm cho niềm vui và hạnh phúc sâu sắc hơn. Trong niệm có định. Càng thực tập niệm thì định càng lớn. Định này làm cho mình tập trung được, làm cho mình chuyên chú được vào đối tượng, và đối tượng đó có thể đem lại rất nhiều hạnh phúc. Ví dụ như là hơi thở của mình. Trong khi mình ngồi thở, trong khi mình đi thiền, trong khi mình ngồi thiền, trong khi mình nấu cơm, giặt áo, niệm về hơi thở đưa lại hạnh phúc, và định về hơi thở làm cho hạnh phúc sâu sắc hơn. Định càng lớn thì hạnh phúc càng lớn. Khi chúng ta có năng lượng của niệm và định hùng hậu thì chúng ta sẽ có tuệ. Tuệ tức là cái thấy, cái hiểu. Nhờ cái thấy này, cái hiểu này mà đem lại hạnh phúc rất là nhiều. Tuệ có khả năng giải tỏa những hiểu lầm, những khổ đau, những kiến chấp. Ngày xưa khi con mình bị sốt, tại mình không có tuệ, cho nên mình mới nghĩ rằng con mình bị sốt là vì ông thần nào đó phạt hay lúc đi ngang qua cây đa, nó vạch quần đái, vì vậy nó bị ông thần của cây đa phạt… Người mẹ cuống lên nghe người ta bảo phải đem một mâm cơm ra cúng ngoài cây đa thì con mình mới hết sốt. Mình tin như vậy. Hiện bây giờ cũng có nhiều người tin như vậy. Có những ví dụ như là sấm sét hay là mưa bão, tất cả những cái đó mình đều cho là sự trừng phạt của thần linh. Cũng như các ông vua Ả Rập hay là các ông vua Tàu ngày xưa, trước khi chết đi, họ muốn sang thế giới bên kia cũng phải có người hầu cận, cũng cần phải có nhiều lính, có bác sĩ, và vì vậy khi người ta chôn vua người ta chôn luôn cả bác sĩ, nàng hầu, cung nữ mà vua thích. Chôn sống hết! Cái đó là do thiếu tuệ mà gây đau khổ cho mình và cho người khác, cái đó là do chấp vào cái linh hồn bất diệt (thường kiến). Ở bên Tàu, người ta đào xới ra và thấy có quân lính nung bằng đất, hàng trăm ngàn người bằng đất. Tại vì ông vua nghĩ rằng sang thế giới bên kia ông cũng rất cần nhiều lính; khi chôn vua phải chôn theo cái ấn của ông, cái ấn bằng ngọc, tại vì ông sẽ phải ra lệnh; phải đem theo bác sĩ vì nếu có bệnh thì có bác sĩ để chữa trị, cho nên chôn sống luôn cả bác sĩ… Những cái đó là do u mê, vô minh mà ra. Khi có niệm, có định, có tuệ thì mình thấy được sự thật, cho nên mình giải tỏa được những thành kiến, những u mê, và mình có hạnh phúc. Ví dụ giữa mình với người thương của mình có sự hiểu lầm. Người thương hiểu lầm mình, và mình hiểu lầm người thương vì những tri giác sai lầm. Nhờ niệm và tuệ mình thấy được sự thật, nhờ vậy mình lấy đi sự hiểu lầm đó, thì tự nhiên giữa mình và người mình thương có hạnh phúc thôi, cho nên tuệ sinh hỷ lạc. Trí tuệ là nguồn suối của hỷ và lạc, cho nên người nào cũng phải thực tập.

Giới tức là thực tập chánh niệm, mindfulness training. Giới bảo hộ cho mình. Giới là do niệm sinh ra. Nhờ có chánh niệm cho nên ta biết những đau khổ được sinh ra vì ta không chịu giữ giới, cho nên giới tương đương với niệm. Khi giữ giới, mình bảo hộ cho mình, và bảo hộ cho người thương của mình, bảo hộ cho hoàn cảnh gia đình, vì vậy cho nên hạnh phúc có được, niềm vui có được. Giới cũng sanh ra hỷ và lạc.

 

Nhu yếu hiểu và thương

Trong con người của mình có hai nhu yếu, và khi hai nhu yếu đó được thỏa mãn thì mình có rất nhiều hỷ và nhiều lạc. Cái nhu yếu thứ nhất là hiểu. Hiểu tức là tuệ. Hạt giống tuệ ở trong mình đòi hỏi mình phải làm thỏa mãn nó, mình khao khát hiểu biết (curiosity), bởi vì sự sống là một mầu nhiệm. Chính cái thân của mình cũng là một mầu nhiệm. Ngành khoa học Anatony, người ta nghiên cứu về mắt, về mũi, về tất cả những cái gì thuộc về cơ thể của con người, nhưng người ta cũng vẫn chưa hiểu được hết những mầu nhiệm đó. Cho nên con mắt cần một cái viện, gọi là viện mắt, để chỉ nghiên cứu về con mắt mà thôi. Cái lỗ tai cần một cái viện để mà nghiên cứu, gọi là viện tai; mũi cần một cái viện để mà nghiên cứu, gọi là viện mũi,… Có nhiều viện lắm để nghiên cứu về những thành phần của cơ thể. Chúng ta đã khám phá ra những mầu nhiệm của cơ thể, nhưng khám phá đó là khám phá riêng của từng vùng cơ thể. Toàn thể cơ thể đã phối hợp với nhau và lưu chuyển như thế nào, đó cũng là cái mầu nhiệm rất lớn, huống hồ là tâm của chúng ta. Tâm của chúng ta cũng là những mầu nhiệm rất lớn. Đạo Bụt là một khoa học nghiên cứu về tâm, gọi là tâm học. Chúng ta tu, chúng ta cũng có cái nhu yếu muốn hiểu, muốn có cái hiểu biết sâu sắc về thực tại. Chúng ta muốn hiểu biết về năm uẩn của chúng ta, và sự hiểu biết về năm uẩn đó sẽ đưa lại sự thỏa mãn, có thể làm tiêu tán những u mê sai lầm của chúng ta về năm uẩn, những cái u mê đã từng gây ra những khổ đau cho mình và cho người khác. Vì vậy cho nên cái hiểu này không phải là cái hiểu suông, cái hiểu này có tính cách chuyển hóa, giải phóng, giải thoát, cái hiểu đó gọi là prajna (bát nhã), là trí tuệ, đó là nhu yếu rất lớn. Ngày xưa Sĩ Đạt Ta đi tu cũng vì khao khát muốn hiểu biết, mà hiểu biết này không phải là hiểu biết của trí năng không, cái hiểu biết có khả năng giải phóng, chuyển hóa và trị liệu. Trong ta có cái nhu yếu lớn đó. Chúng ta phải để thì giờ để mà thỏa mãn nhu yếu đó, chứ không để thì giờ chạy theo cái nhu yếu khác không quan trọng bằng. Vì những nhu yếu tầm thường như muốn có những tiện nghi về vật chất, muốn có những tiện nghi về tình cảm, mà chúng ta để hết thì giờ để thỏa mãn những nhu yếu đó, thì chúng ta đâu còn thì giờ nào nữa để mà thỏa mãn cái nhu yếu hiểu biết lớn, tiếng phạn là maha-prajna. Maha là lớn, prajna là hiểu biết.

Chúng ta cũng có một cái nhu yếu lớn khác nữa, đó là thương yêu lớn. Thương yêu lớn không phải là tình thương vị kỷ, không phải là tình thương chỉ có một người, hai người, ba người, hay chỉ có vợ chồng con cái mà thôi. Tình thương lớn là tình thương ôm ấp được mọi loài. Trong mỗi chúng ta đều có hạt giống thương yêu lớn, và khi nhu yếu này được chúng ta thỏa mãn, càng thỏa mãn chừng nào thì hạnh phúc của chúng ta càng lớn chừng đó. Tình thương đem lại hạnh phúc, càng thương nhiều càng hạnh phúc nhiều. Tình thương này gọi là maha-maitri (đại từ), maha-karuna (đại bi). Còn cái tình thương một hai người kia thì càng thương càng khổ, càng thương càng bị hệ lụy, càng thương càng bị vướng mắc, càng thương càng bị ray rức, càng thương càng bị lo sợ, đó là tình thương nhỏ không cùng chất liệu với tình thương lớn, nó là tình thương vị kỷ, là sự đam mê, kỳ thị. Trong khi đó tình thương lớn, đối tượng của nó rất là rộng lớn không có tính cách kỳ thị. Dầu cho mình chăm sóc mình đi nữa thì cái đó không phải là kỳ thị, nếu mình chăm sóc mình là mình chăm sóc người kia, mình có sức khỏe, mình có sự thư thái thì cái đó rất là cần thiết cho người mình thương. Bảo trọng thân thể của mình, bảo trọng hạnh phúc của mình rất là quan trọng cho người mình thương, cái đó nằm trong phạm vi của tình thương lớn. Nó không phải là vị kỷ nữa tại vì mình làm cái đó không phải cho mình mà cho những người mình thương. Khi mình lo cho những người khác tức là cũng lo cho mình, tại vì những người khác bớt khổ, mỉm cười được thì mình cũng có hạnh phúc. Tình thương lớn không có tính cách kỳ thị, không có tính cách giới hạn. Trong khi cái tình đam mê vướng mắc có tính cách kỳ thị, chỉ có người này là người thương của mình thôi, còn người khác thì không phải.

Bậc Đại Giác Viên Mãn xuất hiện nơi cõi ta bà,
Tấm lòng ôm trọn cả thái hư

Tức là trái tim của Bụt chứa được hết cả vũ trụ, còn trái tim mình nhỏ xíu chứa được có một người thôi mà chưa chắc đã chứa dược, đó là sự kỳ thị. Chúng ta biết được cái chân hạnh phúc, hạnh phúc chân thật là do mỗi ngày mình có làm thỏa mãn được hai nhu yếu căn bản đó của mình không, tức là nhu yếu hiểu và nhu yếu thương, nhu yếu hiểu biết lớn và nhu yếu thương yêu lớn.

Bây giờ chúng ta có ý niệm sâu hơn và rõ ràng hơn thế nào là chân lạc, chân hạnh phúc. Chúng ta nghiên cứu thêm liên hệ giữa lạc và Lạc. Chữ Lạc viết hoa không phải là chữ lạc không hoa. Chúng ta biết rằng bốn đức của Niết Bàn là Thường, Lạc, Ngã và Tịnh (đều viết hoa), nó không phải là thường của vô thường, lạc của khổ, ngã của vô ngã, và cái tịnh của bất tịnh. Thường và vô thường là một cặp đối đãi, lạc và khổ là một cặp đối đãi thứ hai, ngã và vô ngã là một cặp đối đãi thứ ba, tịnh và bất tịnh là một cặp đối đãi thứ tư. Nhưng Thường không phải là cái thường đối đãi với vô thường cho nên nó được viết hoa, Lạc không phải là lạc đối đãi với khổ cho nên nó được viết hoa. Vậy thì ta hãy xét coi thử có sự liên hệ giữa Lạc và lạc hay không? Hai cái có hẳn là chống đối nhau hay không? Cố nhiên khi nói tới bốn đức của Niết Bàn là Thường, Lạc, Ngã và Tịnh, thì chúng ta không thể nói cái Thường ở đây là cái thường đối với vô thường, tại vì cái thường đối với vô thường là một tà kiến, là một điên đão kiến, còn Thường của Niết Bàn không phải là tà kiến, không phải là điên đão kiến. Chúng ta chưa hiểu được văn mạch của Tích môn và Bản Môn, chúng ta phải đem lại hình ảnh của sóng và nước để cho dễ hiểu. Sóng có sinh có diệt, có lên có xuống, có thường có vô thường. Những từ ngữ sinh diệt, cao thấp, thường vô thường, lên xuống là chỉ áp dụng cho sóng thôi, phải như vậy không? Nó không áp dụng cho nước được. Đứng về phương diện sóng thì có lên có xuống, nhưng nước thì đâu có lên có xuống, nước chỉ có nước thôi. Sóng có thể nói ‘tôi là sóng này anh sóng kia’, nhưng nước thì không thể nói ‘tôi nước này, anh nước kia.’ Đứng về phương diện bản môn thì không có sinh không có diệt, không có lên không có xuống, không có cái này, không có cái kia, cho nên đứng về phương diện bản môn ta không thể dùng chữ thường và vô thường để diễn tả bản môn cho được, cho nên ta dùng chữ Thường viết hoa. Nhìn vào sóng thì ta thấy nước, và ta thấy sóng cũng là nước, trong khi sóng bị điều kiện hóa bởi thường hay vô thường, nhưng mà nước thì không có bị điều kiện hóa, vì vậy trong nước có cái gì giống như là thường (Thường), nhưng cái thường của nước không phải là cái thường đối lại với vô thường của sóng. Chữ Thường ở đây không có nghĩa là có một cái gì trường cửu bất diệt, nó đối chọi với cái mong manh, dễ tan vỡ. Khi nói tới sóng ta nói tới vô thường để đối trị với cái quan niệm thường, đứng về phương diện nước thì chúng ta phải vượt thoát ý niệm thường và vô thường để đi tới một ý niệm cao hơn vượt thoát hai ý niệm kia, đó là ý niệm Thường. Trong khi sóng lên xuống, cao thấp, thì nước đâu có lên xuống, cao thấp, vì vậy ta thấy tính Thường của nó ở trong. Thường của Niết Bàn không phải là thường của sinh tử, Thường của bản môn không phải là thường của tích môn. Cũng như trên phương diện tích môn, có hữu và có vô, đứng về phương diện hiện tượng, đứng về phương diện các pháp thì mình nói tới có và không. Khi đi vào chân như, đi vào phương diện bản môn, thì tuy vượt thoát hữu và vô rồi mình vẫn thấy là có thể dùng chữ diệu hữu và chân không. Diệu hữu và chân không, hai cái là một. Tại vì diệu hữu không phải là hữu, chân không không phải là không. Thì chữ Thường đây ta gọi là chân thường, chữ Lạc đây ta gọi là diệu lạc, còn cái Ngã đây ta gọi là chân ngã, true self, còn cái Tịnh đây ta gọi là diệu tịnh, tạm mượn chữ như vậy. Chư Tổ đã xài chữ như vậy, đã sử dụng chữ nghĩa như vậy, thì ta có thể tiếp tục được chư Tổ.

Khi ta vượt được cái thường và cái vô thường rồi thì ta không có sự sợ hãi, không có sự sợ hãi thì tự nhiên ta có niềm an vui. Khi chúng ta ca ngợi đức Quan Thế Âm, chúng ta hay nói rằng:

Trí tuệ hoằng thâm đại biện tài
Đoan cư ba thượng tuyệt trần ai

Nghĩa là ‘trí tuệ bừng lên đóa biện tài, đứng yên trên sóng sạch trần ai,’ tức là cái sóng của thường và vô thường còn đó, nhưng bồ tát đứng yên không bị sóng đó làm cho lên xuống, làm cho vùi dập, tại vì Ngài đã vượt thoát thường và vô thường, đã đạt được cái chân thường rồi. Chân thường cũng là chân vô thường, vô thường này là một ý niệm, còn chân vô thường không còn là một ý niệm nữa mà nó là một thực tại. Vì vậy ta không còn sự sợ hãi nữa, và ta có Lạc. Lạc này là hạnh phúc, hạnh phúc này hoàn toàn do vô úy, là sự không sợ hãi sinh ra. Món quà lớn nhất đức Quan Thế Âm tặng cho mình là cái vô úy, là sự không sợ hãi. Có ba món quà mình có thể tặng cho người là Tài thí, Pháp thí, và Vô Úy thí. Vô úy thí là món quà lớn nhất. Khi nào đạt tới Bản Môn, Niết Bàn thì mới có Vô Úy thí mà thôi. Ngã là gì? Chân Ngã là gì? Ngã ở đây có nghĩa là không còn là nạn nhân của sự lên xuống, của thường, vô thường nữa. Ngã ở đây có nghĩa là tự do lớn, Ngã ở đây có nghĩa là chủ quyền. Trong khi định nghĩa về Ngã, các Tổ ngày xưa có nói về Ngã là có chủ quyền. Mình có chủ quyền hay không? Nếu mình không có tuệ giác và không có từ bi, thì làm gì mình có chủ quyền được, mình chỉ là nạn nhân thôi, nạn nhân của những gì xảy ra trong hàng ngày. Có được đại trí và đại bi thì có chủ quyền, cái đó gọi là Ngã, tức là có chủ quyền, lúc đó mình không còn là nạn nhân của sự lên xuống của thế gian nữa. Thế gian chê, mình cũng không có buồn; thế gian khen, mình cũng không có mừng, cái đó là chủ quyền, cái đó là Ngã. Bát phong suy bất động, tám ngọn gió không làm cho mình động, đó là chủ quyền, cái đó gọi là Ngã. Ngã tức là chủ quyền. Niết Bàn là chủ quyền. Ngã không phải là một cái ta, một cái ego, hễ ai đụng tới thì ta nổi tam bành lục tặc ra. Cái Ngã này có chủ quyền rất lớn, mà các vị Bụt, các vị bồ tát và các bậc đại nhân có chủ quyền rất lớn. Không còn làm nạn nhân của sự lên xuống, ra vào, khen chê hay là đắc thất nữa, cái đó gọi là Ngã. Tịnh ở đây không phải là cái tịnh do vô minh thấy. Vô minh nhìn cái bất tịnh thì cho là tịnh. Tịnh ở đây vượt ra khỏi ý niệm dơ và sạch. Khi có Thường, Lạc, Ngã rồi thì có sự thanh tịnh lớn gọi là diệu tịnh. Diệu tịnh này tức là sự không có vẩn đục, tâm mình không bị vẩn đục bởi danh lợi tài sắc, đây là sự tinh khiết lớn nhất mà mình có thể đạt được. Sự tinh khiết này chỉ có thể đạt được khi mình thực chứng được niết Bàn. Bốn đức của Niết Bàn là Thường, Lạc, Ngã và Tịnh phải được hiểu như vậy thì mới có thể nói bốn cái đó không phải là tà kiến điên đão, nếu không thì nó vẫn là tà kiến điên đão. Nếu không hiểu thì nói rằng giáo lý về Thường, Lạc, Ngã và Tịnh đi ngược lại giáo lý nguyên thủy của đứcThế Tôn. Tại vì Thường, Lạc, Ngã và Tịnh là bốn điên đão kiến, nhưng nếu hiểu theo văn mạch của bản môn, tích môn, thì mình thấy Thường đây là chân thường, vượt thoát ý niệm thường và vô thường; Lạc đây là diệu lạc, vượt thoát ý niệm khổ và lạc; Ngã đây là chân ngã, vượt thoát ý niệm ngã và vô ngã; Tịnh đây tức là diệu tịnh, sự trong sáng hoàn toàn, không dính líu gì đến tịnh và bất tịnh của tích môn.

Có một ví dụ rất mầu nhiệm có thể cho mình thấy giáo lý của Bụt như là phương tiện huyền xảo. Con người bị kẹt vào ý niệm thường, cho nên Bụt mới chế ra phương thuốc gọi là vô thường, để cho con người có thể hóa giải được, bệnh thường chỉ có thuốc vô thường mới trị được. Con người cho là lạc những cái không phải là lạc, cho nên Bụt nói rằng cái đó không hẳn là lạc, cái đó là khổ. Đó cũng là một phương tiện huyền xảo. Chỉ là thang thuốc thôi, nếu không có bệnh thì thuốc đó đâu có xài được, đâu có cần phải xài. Con người cho là có ngã riêng biệt, cho nên Bụt mới dạy vô ngã. Vô ngã là thuốc để trị ngã. Con người tin vào tịnh nên But mới dạy bất tịnh để cho con người đừng có đam mê. Tất cả giáo lý về vô thường, vô ngã, khổ và bất tịnh là những phương tiện huyền xảo, và những phương tiện huyền xảo đó mình phải vượt luôn. Chớ không có lý nói thuốc này quý quá, vất đi thì uổng, nhưng uống vô thì nguy. Không có bệnh mà uống thuốc thì hơi nguy. ỀGiáo lý của ta là chiếc bè để đưa qua sông, qua sông rồi các ngươi đừng đội chiếc bè mà đi, nên để chiếc bè ở lạiỂ. Bụt dạy như vậy.

Như vậy mình đã thấy cái liên hệ giữa Lạc và lạc. Mình thấy rằng cái lạc nào không viết hoa có khả năng đưa tới Lạc viết hoa, thì cái lạc đó mình có thể sử dụng được. Còn cái lạc nào không đưa tới Lạc viết hoa, cái lạc đó không phải là chân lạc, cái đó là khổ. Kinh Người Bắt Rắn có nói tới sự hiểu lầm này. Bụt dạy rằng chỉ có những cái lạc nào, thanh thoát, nhẹ nhàng, nuôi dưỡng, đưa tới cái Lạc lớn (giáo lý Hiện Pháp Lạc Trú), thì tất cả những cái lạc đó mình đều có thể sử dụng được, trong khi thầy Arita hiểu lầm đức Thế Tôn, thầy nghĩ rằng hành lạc là không có chướng ngại cho sự tu tập.

Đây là bài giảng cho chúng ta chuẩn bị đi vào Lâm Tế Lục. Tại vì Lâm Tế Lục là thuốc rất là đắng, thuốc rất là mạnh, nếu kẹt vào Lâm Tế Lục là chết luôn. Cũng như quẹt que diêm là để có ngọn lửa. Que diêm có mục đích là tạo ra ngọn lửa. Giáo lý vô thường, vô ngã có mục đích giúp cho mình có được tuệ giác về vô thường, vô ngã. Que diêm tức là phương tiện huyền xảo, phương tiện huyền xảo đó để làm phát sinh ra tuệ giác về vô thường và vô ngã. Khi tuệ giác vô thường và vô ngã được phát sinh thì nó thêu đốt que diêm. Vì vậy que diêm là giáo lý vô thường, là giáo lý khổ, vô ngã và bất tịnh. Giáo lý được đưa ra để làm thang thuốc thôi, khi mà thang thuốc đã chữa được bệnh rồi, thì thuốc đó không cần xài nữa. Giáo lý của Bụt như là ngón tay chỉ mặt trăng, như là thuốc trị bệnh, là chiếc bè đưa qua sông. Mục đích của giáo lý đó là làm phát khởi ra tuệ giác, mà tuệ giác đó trong khi phát khởi nó thiêu đốt cái giáo lý đó, làm cho chiếc bè đó không còn, và mình không còn dính vào chiếc bè nữa. Chúng ta phải có một thái độ rất là buông bỏ đối với giáo lý thì mới được, Lâm Tế Lục dạy mình như vậy. Que diêm rất là cần thiết để làm phát sinh ra ngọn lửa, nếu không có que diêm làm sao có ngọn lửa, thì những giáo lý của Bụt như là vô thường, vô ngã, bất tịnh rất cần thiết để làm sinh ra tuệ giác, khi mà tuệ giác sinh ra rồi thì nó đốt cháy cái giáo lý về vô thường, vô ngã, bất tịnh. Khi nào vượt thoát được rồi thì mới đạt được Niết Bàn. Cái thí dụ hộp diêm rất hay, giúp cho quý vị thấy được những người có khuynh hướng giáo điều, bị kẹt vào giáo điều, thì những người đó sẽ khổ, cũng như là những người bắt rắn mà không biết bắt rắn thì rắn trở lại cắn mình. Bụt cũng nói rõ ràng là ‘Giáo lý của ta nguy hiểm lắm, giáo lý của ta là rắn đó, nếu quý vị không biết sử dụng thì nó sẽ cắn quý vị.’ Không có một vị đạo sư nào trên thế gian lại nói về giáo lý của chính mình như vậy. ‘Giáo lý của ta rất là cần thiết cho các ngươi, nếu các ngươi không biết sử dụng thì các ngươi sẽ chết về giáo lý của ta.’ Đệ tử của Bụt chết về giáo lý của Bụt cũng khá nhiều. Thầy Lâm Tế cũng nói như vậy. Con cháu của Tổ Lâm Tế cũng chết vì giáo lý của Tổ Lâm Tế rất nhiều, tại vì trong khi học hỏi họ kẹt vào chữ nghĩa, không biết rằng những giáo lý của Ngài, những cái gậy của Ngài, những tiếng hét của Ngài đều là những phương tiện cả, kẹt vào đó là chỉ có chết thôi.

Hạnh phúc là con đường (I)

Kính thưa đại chúng, hôm nay là ngày 25 tháng 09 năm 2003, chúng ta đang ở tại chùa Cam Lộ, Xóm Hạ, trong khóa tu mùa Thu.

Hiện Pháp Lạc Trú

Chúng ta thường nói tới con đường: con đường đưa tới giải thoát, con đường đưa tới hạnh phúc, con đường đưa tới hòa bình. Khi có ý niệm về con đường thì chúng ta đồng thời có ý niệm là chúng ta vẫn còn đang trên con đường đó, nghĩa là chúng ta chưa tới. Nếu chúng ta đang trên con đường đi tới hạnh phúc, thì chúng ta chưa có hạnh phúc. Nếu chúng ta đang trên con đường đi tới hòa bình, thì chúng ta chưa có hòa bình.

Nếu chúng ta đang trên con đường đi tới giải thoát, thì chúng ta chưa có giải thoát, giải thoát là vấn đề tương lai. Cái ý niệm về con đường có thể gây ra hiểu lầm, có thể gây ra tai hại, một khi chúng ta nói tới con đường như là quá trình phải đi tới. Trong khi đó tại Làng Mai có câu: “There is no way to happiness, happiness is the way”, là không có con đường nào đi đến hạnh phúc, hạnh phúc chính là con đường. “There is no way to peace, peace is the way”, không có con đường nào đưa tới hòa bình cả, hòa bình chính là con đường. Giải thoát cũng vậy. Không có con đường nào đi đến giải thoát, giải thoát chính là con đường. Đó là pháp môn của Làng Mai.

Chúng ta tu học như thế nào để có được giải thoát, có được hạnh phúc, có được hòa bình ngay trong giây phút hiện tại, mà đừng nghĩ rằng giải thoát, hòa bình và hạnh phúc là cái gì chỉ có thể đạt tới trong tương lai. Theo nguyên tắc đó, trong quá trình tu học, chúng ta phải tiếp xúc được với hạnh phúc, giải thoát và hòa bình ngay trong giây phút hiện tại, tại vì không có con đường đi tới hạnh phúc, không có con đường đi tới giải thoát, không có con đường đi tới hòa bình. Hạnh phúc là con đường mình đang đi, đi mà có hạnh phúc. Giải thoát là con đường mình đang đi, vừa đi vừa giải thoát. Hòa bình là con đường mình đang đi, và mình phải có hòa bình trong mỗi giây phút của đời sống hàng ngày. Đó là sự thực tập của chúng ta. Có như vậy chúng ta mới thật sự thực tập được cái gọi là Hiện Pháp Lạc Trú.

Hạnh phúc là cái gì có thật hay không? Mỗi chúng ta ai cũng có kinh nghiệm những giây phút hạnh phúc, và cố nhiên là chúng ta cũng đã có những giây phút khổ đau. Chúng ta thường hỏi: ‘Hạnh phúc đó có phải là hạnh phúc chân thật hay không? Khổ đau đó có phải là khổ đau chân thật không ? Hay tự ta làm khổ ta ?’ Cho nên xét lại cái quan niệm về hạnh phúc và khổ đau là một sự thực tập.

Giáo lý Tam Pháp Ấn, theo đạo Bụt Bắc Truyền là Vô Thường, Vô Ngã và Niết Bàn, là ba đặc tính của thực tại, nghĩa là thực tại là Vô Thường, thực tại là Vô Ngã, nhưng thực tại cũng là Niết Bàn. Trong khi đó, ba đặc tính của thực tại trong Đạo Bụt Nam Truyền là Vô Thường, Khổ và Vô Ngã.

Nếu thực tại là Khổ thì làm sao ta có hạnh phúc được. Chúng ta nhìn vào cái bàn này, chúng ta nói cái bàn này là Vô Thường, cái đó hiểu được. Chúng ta nói cái bàn này là Vô Ngã, không có cái ngã riêng biệt, nếu không có những yếu tố như là cây, rừng hay là thợ mộc… thì cái bàn này không thể nào có được, vì vậy nói cái bàn là vô ngã thì ta có thể hiểu được. Nhưng nói cái bàn là khổ thì thật là khó hiểu. Bàn ơi mi có khổ không ? Sự thật là khi cái bàn là vô thường mà ta nghĩ là nó thường thì ta khổ, khi cái bàn là vô ngã mà ta nghĩ là nó có ngã thì ta khổ. Cái khổ này không nằm trong cái bàn, mà nó nằm trong cái cách ta nhìn cái bàn. Nhìn cái bàn và cho nó là thường, là ngã, thì ta khổ thôi. Khổ không phải là bản chất của thực tại. Khổ là kết quả của cái cách ta nhìn về thực tại.

Có một kinh trong hệ A Hàm (thuộc Đạo Bụt Bắc Truyền) đã sử dụng cụm danh từ Vô Thường, Vô Ngã và Niết Bàn tới năm lần trong kinh này. Trong khi đó, ở thế kỷ thứ hai, thầy Long Thọ đã nói tới Tam Pháp Ấn là Vô thường, Vô Ngã và Niết Bàn, mà không phải là Vô Thường, Vô Ngã và Khổ. Chúng ta thấy rõ là có một sự sai lầm trong khi truyền thừa kinh điển. Có những thế hệ Phật tử đã quá bị ám ảnh bởi cái danh từ Khổ, tại vì khi học Tứ Diệu Đế thì sự thật đầu tiên là Khổ đế, cho nên họ đã muốn nhìn tất cả bằng cái nhãn quang là Khổ. Có nhiều người thực tập cho rằng nếu họ không tự nhắc ‘đời là khổ’, thì họ không chứng đạo được, vì vậy cho nên họ cứ lặp lại ‘đời là khổ, đời là khổ’. Và lâu dần, ‘đời là khổ’ trở thành ra một cái giáo điều. May mắn cho chúng ta là giáo lý về Tam Pháp Ấn có ở trong một vài kinh được trao truyền lại trong Đạo Bụt Bắc Truyền, thì ba đặc tính của thực tại là Vô Thường, Vô Ngã và Niết Bàn. Chúng ta còn nhớ một bài kệ rất nổi tiếng, trong đó có nói Niết Bàn là hạnh phúc. Bài kệ đó là:

Chư hành vô thường
Thị sinh diệt pháp
Sinh diệt diệt dĩ
Tịch diệt vi Lạc

‘Chư hành vô thường’ dịch ra tiếng Anh là all formations are impermanent. Formation là danh từ chuyên môn của đạo Bụt. Chữ hành có nghĩa là hiện tượng, tiếng Phạn là samskara. Cái bàn là một hành, do đó cái bàn là vô thường (chư hành vô thường); cái chuông là vô thường, ta là vô thường, cái nhà là vô thường, núi sông là vô thường, tất cả những cái đó là đều là hành cả. Chư hành vô thường tức là tất cả mọi hiện tượng đều là vô thường. Thị sinh diệt pháp, chúng nó đều là những pháp phải đi ngang qua Sinh và Diệt. Sinh Diệt diệt dĩ. Sinh là birth, Diệt là death. Dĩ là xong rồi. Một khi ý niệm sinh diệt đã được lấy ra rồi, đạt tới sự vắng lặng rồi, thì tịch diệt vi Lạc, tức là sự vắng lặng đó là hạnh phúc. Chữ tịch diệt này nghĩa là Niết Bàn. Nirvana có nghĩa là extinction, tức là không còn nữa, là vắng lặng, là sự tắt ngấm. Sinh và Diệt là một cặp đối nghịch, có sinh thì có diệt, hễ còn sinh thì còn diệt, hễ vượt thoát sinh diệt thì gọi là Niết Bàn. Niết Bàn là sự vắng mặt của những ý niệm về sinh và về diệt.

Hãy lấy hình ảnh của sóng và nước để giúp cho ta hiểu. Khi nhìn một đợt sóng, ta thấy sóng có sinh có diệt : Đây là điểm sinh của đợt sóng, đây là điểm diệt của đợt sóng ; và đây là điểm sinh của đợt sóng khác, và đây là điểm diệt của đợt sóng khác. Các pháp được ví dụ là sóng, và hễ là sóng thì có lên có xuống, có cao có thấp, có sinh só diệt. Đó là đứng về phương diện hiện tượng (tích môn) mà nói. Còn đứng về phương diện bản thể (bản môn), thì tuy sóng là sinh diệt nhưng sóng đồng thời cũng là nước. Và khi sóng biết mình là nước rồi thì nó không còn sợ sinh diệt nữa, tại vì nước thì không sinh không diệt, không cao không thấp, không lên không xuống. Đối với sóng lúc bấy giờ thì sinh cũng vui mà diệt cũng vui.

 

Vậy ta phải thực tập làm sao để đạt tới Niết Bàn, đạt tới Bản Môn?

Sóng là thuộc về thế giới của hiện tượng (Tích Môn). Nước là thuộc về thế giới của bản thể (Bản Môn). Bản thể là self nature, là cái entité ontologic. Sóng với nước không phải là hai cái khác nhau. Sóng là nước, và nước là sóng. Cho nên sóng cũng là nước đứng về phương diện hiện tượng. Còn nước cũng là sóng đứng về phương diện Bản Thể. Đứng về phương diện hiện tượng (sóng), thì ta thấy có sinh có diệt, có có có không, có còn có mất. Khi mà đứng về phương diện bản thể (nước) thì không có lên có xuống, có sinh có diệt nữa. Sự vắng mặt của sinh diệt đó là Tịch Diệt, là Niết Bàn. Vì vậy Niết Bàn là hạnh phúc, và hạnh phúc này thật.

Sinh Diệt diệt dĩ, tịch diệt vi Lạc, một khi mà không còn sinh diệt nữa thì sự vắng lặng đó, Niết Bàn đó được gọi là hạnh phúc. Nhưng sóng có cần phải hết là sóng thì mới là nước không ? Không, sóng vẫn là sóng như thường, trong khi là sóng thì nó vẫn là nước. Và cái hạnh phúc có liền trong giây phút này, tức là trong khi đang còn là sóng thì nó cũng là nước rồi, vì nó tiếp xúc được với bản thể của nó là nước thì nó có hạnh phúc thôi. Cho nên một trong những đặc tính của Niết Bàn là hạnh phúc, điều này không phải là của Đại Thừa riêng mà của Đạo Bụt Nguyên Thỉ nữa. Trong rất nhiều kinh, đức Thế Tôn đã nói Niết Bàn là hạnh phúc. Như vậy hạnh phúc là có thật, và nó có thật ngay bây giờ, không phải đợi tới sau này. Kinh Pháp Hoa nói rằng, các pháp từ xưa đến nay đang an trú trong tự tánh Niết Bàn của nó (chư pháp tùng bản lai, thường trụ tịch diệt tướng), tức là cái bàn này tuy là vô thường, vô ngã nhưng nó cũng là Niết Bàn trong giây phút này. Vô thường, vô ngã và cặp đối lập của nó là thường, ngã, chỉ là những cấu tạo của tâm thức mà thôi. Cái bàn này không là thường mà kỳ thực cũng không vô thường, cái bàn này không phải là ngã mà kỳ thực cũng không phải là vô ngã. Vô thường và vô ngã được dùng để đối trị với ý niệm về thường và về ngã. Và Niết Bàn là sự vắng mặt của tất cả mọi ý niệm, trong đó có ý niệm về thường và vô thường, ngã và vô ngã. Vô thường và vô ngã là thuốc để trị bệnh thường và ngã. Một khi trị bệnh rồi thì thuốc đâu cần sài nữa, bệnh đã mất rồi mà thuốc cũng vất luôn. Do đó ý niệm thường là cái bệnh, thì thuốc trị là vô thường ; ý niệm ngã là cái bệnh thì thuốc trị là vô ngã. Tại vì có bệnh nên có thuốc, nếu không có bệnh thì cần gì thuốc. Vì vậy Niết Bàn không phải là vô thường, Niết Bàn không phải là vô ngã, Niết Bàn là không thường cũng không vô thường, Niết Bàn là không ngã cũng không vô ngã.

Khi người ta cho rằng sự vật là thường, sự vật là ngã, thì cái đó gọi là tà kiến. Tà kiến là vọng tưởng điên đảo. Vọng tưởng nghĩa là tri giác sai lầm. Điên đảo nghĩa là chổng ngược lại. Sự vật là vô thường mà cho là thường, sự vật là vô ngã mà cho là ngã, đó là những cái thấy chổng ngược lại, gọi là tà kiến, gọi là điên đảo (upside down). Trong Tâm Kinh có câu là ‘viễn ly điên đảo mộng tưởng rồi mới cứu cánh Niết Bàn’. Tà kiến, dịch theo tiếng Anh là perverted view, wrong view.

Theo kinh Tam Pháp Ấn của Đạo Bụt Nam Truyền thì có bốn tà kiến: Thường, Ngã, Lạc, và Tịnh. Sự vật vô thường thì cho là thường, đó là tà kiến; sự vật vô ngã thì cho là có ngã, đó là tà kiến; sự vật là không có hạnh phúc thì cho là có hạnh phúc, đó là tà kiến; và sự vật là bất tịnh, nhơ nhớp mà cho là thanh tịnh, đó là tà kiến. Cái gì không có trong sạch, không có thanh tịnh, không có đẹp, mà nghĩ là nó thanh tịnh, nó trong sạch, nó đẹp thì gọi là tà kiến. Khi một số các thầy dạy về Tứ Niệm Xứ thì các thầy ghép bốn đặc tính vô thường, vô ngã, khổ và bất tịnh, coi đó là cái nhìn về thực tại. Và vì vậy khi nói về Tứ Niệm Xứ thì các thầy nói rằng: Thân là bất tịnh, thọ là khổ, tâm là vô thường, pháp là vô ngã. Khi tôi còn là chú tiểu thì phải học thuộc những câu: Thân bất tịnh , thọ thị khổ, tâm vô thường, pháp vô ngã. Học như là giáo điều vậy, học như là nhồi sọ vậy. Thân, Thọ, Tâm và Pháp là bốn đối tượng của sự quán chiếu, gọi là Tứ Niệm Xứ, Four Foundations of Mindfulness. Các thầy mới ghép bốn đặc tính của hiện hữu vào trong bốn lãnh vực quán niệm: Thân bất tịnh, thọ thị khổ, tâm vô thường, pháp vô ngã. Có cái gì sai ở trong mà ta phải tìm ra cho được. Nó sai ở chỗ là: tâm vô thường nhưng tâm cũng vô ngã, pháp vô ngã nhưng pháp cũng vô thường. Tại sao lại nói pháp chỉ có vô ngã không thôi ? Tại sao chỉ có thân mới bất tịnh thôi ? Tại sao chỉ có thọ mới là khổ thôi ? Chúng ta biết là thọ có tới ba loại: lạc thọ, khổ thọ và xã thọ. Thành ra, khi nói ‘thân bất tịnh, thọ thị khổ, tâm vô thường, pháp vô ngã’ là có hơi gượng ép, hơi có tính cách giáo điều, hơi có tính cách nhồi sọ, không đi đúng với tinh thần truyền thống của đạo Bụt. Có cái gì sai ở trong ! Hồi còn nhỏ, tôi học thuộc lòng câu ‘thân bất tịnh, thọ thị khổ, tâm vô thường, pháp vô ngã’, học như là con vẹt vậy.

Theo cái nhìn của Đạo Bụt Nam Truyền thì thường, lạc, ngã, tịnh là bốn tà kiến. Vì nhìn cho kỹ có cái gì là thường đâu, nhìn cho kỹ có cái gì là ngã đâu, nhìn cho kỹ có cái gì là lạc đâu. Trong khi đó, Đạo Bụt Đại Thừa đã đi đến định nghĩa bốn đặc tính của Niết Bàn lại là Thường, Lạc, Ngã và Tịnh (theo kinh Đại Niết Bàn). Điều này làm sao hiểu được nếu ta không phân biệt được Tích Môn và Bản Môn. Đứng về phương diện tích môn, đứng về phương diện sóng thì có sanh có diệt, có thường, có ngã; đứng về phương diện bản môn, tức là nước, thì không còn có sanh có diệt, không còn có thường có ngã nữa. Nếu hiểu được Thường, Lạc, Ngã, Tịnh theo cái nghĩa siêu việt của nó, siêu việt vô thường, siêu việt vô ngã, thì mới có thể hiểu được đó là bốn đặc tính của Niết Bàn. Niết Bàn là gì ? Niết Bàn là sự vượt thoát không những ý niệm về thường mà vượt thoát ý niệm về vô thường, vượt thoát ý niệm ngã và vô ngã, vượt thoát ý niệm lạc và khổ, vượt thoát ý niệm tịnh và bất tịnh. Tất cả mọi ý niệm đều có thể gây ra khổ đau. Niết Bàn, trước hết, có nghĩa là sự vắng lặng, sự tắt ngấm. Sự vắng lặng đây là sự vắng lặng của những ý niệm. Không những có sự vắng lặng của ý niệm thường mà cũng có sự vắng lặng của ý niệm vô thường, vì thường và vô thường là một cặp. Cặp thứ hai là sinh và diệt, và Niết Bàn là sự vắng mặt của cả sinh và diệt. Sinh diệt diệt dĩ, tịch diệt vi Lạc, khi ý niệm về sinh và diệt vắng mặt rồi, thì sự vắng mặt đó, sự tắt ngấm đó, sự vắng lặng đó, được gọi là hạnh phúc. Cái Lạc này không phải là cái lạc nằm trong cặp đối nghịch của lạc và khổ. Bây giờ mình lấy một cái ví dụ để cho dễ hiểu : Có hai con gà sắp bị đi làm thịt. Người ta ra chợ mua hai con gà để làm giỗ, và trong hai giờ đồng hồ nữa hai con gà này sẽ bị chọc tiết. Người ta đem cái lồng gà về, đem hạt bắp và hạt lúa để cho chúng ăn trước khi chết. Hai con gà đánh nhau, mổ nhau nói rằng: ‘Hột bắp ngon hơn hay là hột lúa ngon hơn ?’ Chúng nó tranh nhau cái gì là ngon, cái gì là dở, cái gì là hạnh phúc, cái gì là không hạnh phúc. Chúng không biết rằng ăn hột bắp hay ăn hột lúa đều là khổ. Ăn bắp cũng khổ, ăn lúa cũng khổ, tại vì cái sự thật là chúng sẽ bị giết trong vòng hai giờ đồng hồ nữa. Chỉ có một việc là tháo cái lồng ra cho chúng chạy thoát, khỏi phải bị làm thịt, mới thật là hạnh phúc. Thành ra cái lạc đích thật của chúng không phải trong chỗ hột bắp ngon hay là hột lúa ngon, mà ở chỗ được tháo củi sổ lồng bay đi và không bị giết. Vì vậy cái lạc mà hai con gà tranh chấp nhau không phải là cái Lạc của Niết Bàn là vậy.

Cái Lạc của Niết Bàn không nằm trong vòng tranh chấp của khổ lạc tầm thường. Ví dụ: trúng số độc đắc là lạc, nghèo kiết xác mồng tơi là khổ. Cái lạc, khổ đó nằm trong vòng tương đối, quanh quẩn trong tà kiến: có tiền nhiều là hạnh phúc, không có tiền nhiều là đau khổ. Một người đã được giải thoát, đã thấy hạnh phúc nằm ở chỗ hiểu biết và thương yêu thì thấy người kia rất là tội nghiệp. Người kia có quan niệm về hạnh phúc và khổ đau của họ căn cứ trên tiền tài, còn mình có quan niệm về hạnh phúc lớn hơn, đó là khi nào mà có hiểu và có thương là mình có hạnh phúc. Hạnh phúc của Niết Bàn không phải là hạnh phúc được diễn tả trong sinh tử, trong Tích Môn. Quý vị thấy được điều này thì mình mới đi tiếp được. Có thấy được điều này không? Cái Lạc của Niết Bàn không phải là cái lạc của sinh tử. Cái lạc của sinh tử thì đối chiếu với cái khổ của sinh tử. Cái Lạc của Niết Bàn vượt thoát cái lạc và cái khổ của sinh tử. Cũng như cái tự do của hai con gà mới thật sự là Lạc, còn hai con gà tranh chấp ăn cái này là ngon, ăn cái kia là không ngon, là thuộc về cái lạc khổ của sinh tử. Chúng ta mất thì giờ tranh đấu với nhau, ghanh ghét nhau, đánh lộn nhau, giết nhau là tại chúng ta đi tìm cái lạc tránh cái khổ của tương đối mà không biết rằng cái hạnh phúc thật sự nằm ở chỗ khác.

Giữa cái lạc/khổ của thế gian và cái Lạc của Niết Bàn có sự liên hệ gì ? Quan điểm về hạnh phúc của thế gian là khi mình có được đối tượng của năm dục thì mình mới có hạnh phúc, tức là phải có tiền, phải có tài (tiền tài). Có tiền nhiều thì hạnh phúc, có danh nhiều thì hạnh phúc, có quyền lực nhiều thì hạnh phúc. Có tiền tài, danh vọng, quyền lực, sắc dục là có hạnh phúc. Phần lớn chúng ta đều nghĩ như vậy, và chúng ta đã đi tìm hạnh phúc ở cái hướng đó. Có tiền thì có thể mua sắm được. Có nhiều người nói mua được cái ti vi lớn đó, cái xe hơi đó, thì là hạnh phúc. Bây giờ mình chưa có cái ti vi đó, chưa có cái xe hơi đó, và mình nghĩ rằng: mua được cái xe hơi đó, mua được cái ti vi đó là mình có hạnh phúc. Mình tiên đoán hạnh phúc sẽ có được khi mình mua được chiếc xe đó, mua được cái ti vi đó. Đứng về phương diện danh vọng, mình nghĩ là nếu mình được bầu làm Tổng Thống, bầu làm Dân Biểu Quốc Hội, hay mình giật được cái bằng cấp tiến sĩ…, thì lúc đó mình mới có hạnh phúc, còn bây giờ mình chưa có hạnh phúc. Hạnh phúc là khi nào mình giật được mảnh bằng đó, mình được bầu vào chức vụ đó, thì mình có hạnh phúc. Chúng ta đang đứng ở chỗ không có hạnh phúc, và tiên đoán rằng sẽ có hạnh phúc khi mà chúng ta được cái đó. Trước hết là chuyện mua sắm, thứ hai là chuyện danh vọng. Nếu chúng ta quán chiếu và nghiên cứu để kiểm chứng lại sự thật đó, thì chúng ta thấy rằng : một tuần hay hai tuần sau khi mua xe hơi, thì cái hạnh phúc đó không còn nữa. Một năm hay sáu tháng sau khi có chức vụ đó, hay là có bằng cấp đó, thì ta không còn cảm thấy hạnh phúc nữa. Những người nào đã đậu bằng tiến sĩ, nên nghĩ lại là trước khi mình có cái bằng tiến sĩ đó, mình ước ao nó như thế nào : ‘Nếu mình không có bằng tiến sĩ chắc là mình chết quá, mình sẽ không có hạnh phúc.’ Nhưng khi có cái bằng đó rồi, thì tự hỏi mình hạnh phúc được mấy ngày, được mấy tuần hay mấy tháng ? Sự thật là mình chỉ sử dụng cái điều kiện hạnh phúc đó trong một thời gian rất là ngắn, sau đó sự kiện đó nó lờn và không đủ sức làm cho mình có hạnh phúc nữa. Có hạnh phúc thiệt đó, nhưng trong một thời gian ngắn thôi. Cấu trúc của cơ thể và của tâm lý có công năng biến những cái đó ra bình thường, không còn có tính cách kích động nữa. Cho nên cái điều kiện ban đầu mình cho là hạnh phúc, khi mình đạt được rồi, thì chỉ trong một thời gian ngắn nó sẽ lờn đi, nó không còn có cái hấp dẫn lực nữa và không còn cho mình hạnh phúc nữa. Ví dụ khi mình chưa xuất gia, mình nghĩ được xuất gia mới là hạnh phúc. Khi được cạo đầu rồi, được mặc áo nhật bình vô rồi, mới thật là hạnh phúc, chứ bây giờ mình chưa có hạnh phúc. Nhưng xuất gia xong thì hạnh phúc được kéo dài tới mấy tháng hay mấy năm, rồi sau đó mình thấy không còn hạnh phúc nữa. Tại vì điều kiện mình cho là căn bản có hạnh phúc đó, mình làm lờn đi. Thân và tâm của mình có tác dụng làm cho lờn đi. Sau đó khi thấy không có hạnh phúc nữa thì mình lại đi tìm cái điều kiện hạnh phúc khác nữa. Cứ như vậy mà đi tìm hết cái này đến cái khác. Tâm ta rong ruổi chạy theo đối tượng của năm dục mà không bao giờ nhàm chán, đó là kinh Bát Đại Nhân Giác (kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Các Bậc Đại Nhân). Được cái này rồi thì thấy cái này cũng chưa được thỏa mãn, và chạy theo cái khác. Tâm mình cứ tiên đoán thời tiết : nếu mà có được thêm cái đó là có hạnh phúc ; cứ như vậy mà mình chạy về tương lai. Trong khi đó những điều kiện hạnh phúc nhiều khi có đủ rồi hoặc là quá đủ, mà mình không có thừa hưởng được. Cũng như một người có đôi mắt đang sáng, tự nhiên mù không thấy gì được nữa, thì rất là đau khổ. Và nghĩ rằng nếu người ta mổ cho mắt mình sáng lại thì mình hạnh phúc biết bao. Cái điều đó đúng, sau khi giải phẩu, mắt thấy lại thì hạnh phúc thật, nhưng hạnh phúc vài ba tháng rồi mình lại quên và mình coi hai con mắt sáng của mình không còn quan trọng nữa. Chúng sanh rất dại dột. Những điều hạnh phúc đang có thì không biết thừa hưởng, cứ ngồi đó mà tiên đoán, mà ước mơ là nếu giả dụ mình có cái này, mình có kia thì mình có hạnh phúc. Các vị chưa làm giáo thọ thì nói : ‘Trời ơi, mình mà làm giáo thọ thì oai lắm, lúc đó mình mới có hạnh phúc.’ Nhưng làm giáo thọ rồi thì có hạnh phúc gì đâu, đôi khi còn mệt hơn nữa. Cái tiên đoán đó thường thường là không đúng, trước hết là tầm quan trọng của nó, thứ hai là thời gian của nó. Mình nghĩ rằng có cái ti vi đó mình sống hạnh phúc suốt đời, năm này qua năm khác. Nhưng mua ti vi về được hai tuần, mình bắt đầu lờn, mình thấy không có hạnh phúc gì mấy. Mình tưởng là có cái bằng cấp đó rồi thì mình sẽ hạnh phúc suốt đời, ai dè cái bằng cấp đó chỉ hấp dẫn mình sáu tháng hay một năm rồi mình thấy cái chuyện có bằng cấp cũng không có gì đặc biệt, thành ra mình không có hạnh phúc nữa, và mình bắt đầu đi tìm cái khác. Đó là cái sự thật về quan niệm hạnh phúc của mình.

Không những hạnh phúc như vậy mà khổ đau cũng như vậy. Giả tưởng là một ngày nào đó mình bị tai nạn xe hơi, mình sẽ đi giải phẩu và bị cụt một chân. Bây giờ chưa có tai nạn đó, nhưng mình nghĩ nếu cái tai nạn đó xảy ra cho mình thì chắc là mình chết quá. Mình mà cụt chân thì đâu còn gì là cuộc đời nữa. Hoặc là trong gia đình có một người thân chết đi thì làm sao mình sống nỗi. Thành ra mình tiên đoán thời tiết, nếu cái đó xảy ra cho mình, mình không sống nỗi. Sự thật là người ta sống được hết, tại vì thân và tâm của mình có khả năng thích ứng với hoàn cảnh. Cho dù cụt một chân mình vẫn sống được, vẫn có thể có được niềm vui. Dầu người mình thương nhất ở trong gia đình mất đi, mình đau khổ, nhưng thân và tâm mình học thích ứng được với hoàn cảnh, mình vẫn có thể sống được, la vie continue, sự sống vẫn tiếp tục được như thường. Mình phải trông thấy được điều đó. Thân và tâm của mình làm cho bình thường hóa, làm cho những cái excitement dịu xuống, làm cho những khổ đau dịu xuống.

Trong đạo Bụt có nói tới hỷ và lạc. Hỷ chưa phải là Lạc. Hỷ tức là niềm vui sắp được cái đó. Cũng như một người đi trong sa mạc, sắp chết khát rồi mà thấy được một cái hồ nước, thì tuy là chưa có uống nước nhưng mà đã có hỷ rồi, đã có niềm vui rồi. Trong hỷ có cái thao thức, có cái bồn chồn (exciting). Khi mình quỳ xuống bên bờ hồ vóc nước lên uống, lúc đó lạc phát sinh. Giữa hỷ và lạc có sự khác nhau. Trong lạc không còn cái thao thức, bồn chồn của lúc ban đầu. Đối với khổ đau cũng vậy. Mình chưa bị tai nạn, mình chưa mất người thương, mình chưa bị mù, nhưng nghĩ rằng mình có tai nạn, mình bị mù, mình mất người thương, thì mình sống không nỗi, mình đã bắt đầu khổ rồi, tuy là cái khổ chưa tới. Khi cái khổ tới rồi, thì thân và tâm mình sẽ vận động, sẽ hành động, và có thể thích ứng được. Đó là sự thật có thể kiểm chứng bằng những cuộc thí nghiệm, rất là khoa học.

Bây giờ áp dụng lại, quý vị có thể làm thử một bài tập là : Những cái gì mình nghĩ là rất thiết yếu cho cái hạnh phúc mà mình chưa đạt được, thì quý vị hãy gọi tên nó ra và viết xuống một tấm giấy. Mỗi người đều có quyền có ba lời ước : ‘Nếu mà tôi được cái này…, tôi được cái kia…, cái nọ…, là tôi có hạnh phúc.’ Viết xuống ba lời ước đó rồi quán chiếu coi thử. Đó là cái giây phút bây giờ mình có ba lời ước. Ai trong chúng ta mà không có ba lời ước. Và chúng ta hãy nhảy lui năm năm về trước. Chúng ta nhìn lại năm năm về trước, ba lời ước đó là ba lời ước nào, đã có lời ước nào đã được thực hiện chưa, nếu thực hiện rồi tại sao ta không có hạnh phúc ? Quý vị làm thử đi rồi sẽ thấy cái chân lý, cái sự thật bởi chính mình chứ không phải do một người nào khác trao truyền lại. Trong giây phút hiện tại, chúng ta có một ý niệm về hạnh phúc. Chúng ta nghĩ rằng nếu chúng ta có điều kiện này, thì hạnh phúc sẽ lớn lắm, đó là giây phút hiện tại. Rồi chúng ta đi về quá khứ, năm năm về trước hoặc mười năm về trước, chúng ta có những ước vọng gì, và những ước vọng đó đã thành tựu chưa. Một trong ba cái đã thành tựu chưa ? Giả dụ đã thành tựu rồi mình đang có hạnh phúc không, hay là cũng vậy thôi. Tiên đoán thời tiết là nếu ta có cái đó thì ta sẽ có hạnh phúc. Có vị nói : ‘Chà được qua bên Pháp, ở Làng Mai chắc là hạnh phúc lớn lắm.’ Ngày đêm trông ngóng, ngủ không được, ăn không được, làm sao có được chiếu kháng, hộ chiếu, lên được trên máy bay ngồi thao thức. Nhưng khi qua bên Làng Mai thì khóc quá chừng. Cái tiên đoán thời tiết đó trật lất. Cái đó gọi là forcasting. Forcasting errors là những cái lầm lỗi trong khi tiên đoán thời tiết. Chúng ta thấy trong quá khứ có nhiều khi ông weatherman tiên đoán thời tiết trật lất hết. Chúng ta cũng vậy. Chúng ta tiên đoán hạnh phúc rất là trật, và chúng ta người nào cũng vấp phải. Hạnh phúc của chúng ta tùy thuộc ở chỗ chúng ta có đang làm chuyện đó không ? Chúng ta đang có tiên đoán thời tiết hay không ? Chúng ta nghĩ rằng hạnh phúc chỉ có được trong tương lai khi mà những điều kiện đó được thực hiện, đó là cái bẫy của tất cả chúng ta. Câu hỏi đúng cần được đặt ra là: Nếu chúng ta không biết được cái gì làm cho chúng ta có hạnh phúc trong giây phút hiện tại, thì làm sao ta biết được những cái gì làm cho ta hạnh phúc trong tương lai ? Phải hỏi câu hỏi đó. Thành ra, mỗi chúng ta sẽ đặt câu hỏi trong giây phút hiện tại này, cái gì sẽ làm cho ta hạnh phúc. Đó là câu hỏi rất là thiết yếu. Mà cái gì đó có thể có thật hay không ? Có được liền hay không ? Nếu chúng ta không nhận diện được điều kiện có thể làm cho ta có hạnh phúc trong giây phút hiện tại, thì làm sao ta có thể tiên đoán được cái mà làm cho ta có hạnh phúc trong tương lai. Sự thật là trong hiện tại, mình không biết cái gì có thể làm cho mình có hạnh phúc được, nhưng mình phải biết cái gì đem lại hạnh phúc thật cho mình. Nếu biết được rồi thì có hạnh phúc liền lập tức. Hạnh phúc không phải là cái gì trong tương lai, hạnh phúc không phải là con đường, hạnh phúc không phải là cái gì có ở cuối đường nữa, mà hạnh phúc nằm ngay trên mỗi bước chân trên con đường. Ví dụ sư cô Minh Hương tự hỏi, trong giây phút hiện tại cái gì làm cho mình có hạnh phút ? Mình có thể thí nghiệm liền lập tức : Mì gói hay là có sư chị ngồi một bên. Những điều kiện đó mình cứ thử đi. Đó là sự thực tập. Chúng ta có thể tìm hiểu và thấy một cách rõ ràng. Nếu biết được cái gì có thể làm cho mình hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại, thì mình có hạnh phúc liền. Không cần ngồi đó mà đau khổ, mà tiên đoán thời tiết là sau này ta sẽ có hạnh phúc nếu ta có cái này, cái kia. Cái Lạc này không phải là vấn đề tương lai, nó là vấn đề hiện tại.

Chúng ta mới nói tới vấn đề tiền tài, mua sắm, danh vọng, bằng cấp, địa vị, chúng ta chưa nói tới quyền lực. Có quyền thì có hạnh phúc. Mình ra lệnh thì người ta theo, mà mình không cần phải theo lệnh của ai hết. Đó là một cái hạnh phúc. ‘Có quyền ra lệnh, có quyền làm cái này cái kia, hạnh phúc rất là lớn’, mình nghĩ như vậy. Mình nghĩ đến tổng thống Bush, ông có quyền rất là lớn, tại vì ông làm tổng thống một nước rất là lớn. Mình có thể tưởng tượng ông tổng thống Bush ăn không ngon, ngủ không yên: cái đầu nằm ở Irac, cái đầu nằm ở Liên Hiệp Quốc, cái đầu nằm ở nước Pháp. Quyền lực rất là lớn, nhưng mà đau khổ cũng rất là lớn. Mình có thể thấy được những âu lo, ưu tư, những dằn vặt của ông tổng thống đó. Trong khi đó, bao nhiêu người thanh niên Mỹ đều ôm ấp là làm sao, sau này mình được làm tổng thống Mỹ. Người con trai Mỹ nào cũng ôm ấp cái ước vọng đó. Và cái tiên đoán thời tiết đó rất là trật. Còn chuyện sắc dục cũng vậy. Nếu được ngủ với anh chàng đó, nếu được ngủ với cô nàng đó, chắc là hạnh phúc lắm. Nhưng mà đi tới đó rồi sẽ biết. Tất cả những việc làm của chúng sanh là ngồi đó mà tiên đoán, mà ước mơ những điều kiện. Thường thường những tiên đoán đều trật, không trật hoàn toàn nhưng có thể trật hai phần ba, hoặc là hơn hai phần ba.

Mỗi khi mình có điều kiện hạnh phúc đó rồi, ví dụ như là một cái danh vọng, một cái bằng cấp, một cái địa vị, hay là một số tiền lớn, mình vẫn tiếp tục đau khổ như thường. Những cái đó ban đầu cho mình những cái ‘exiting’, nhưng sau đó thân và tâm mình chấp nhận và biến nó thành ra bình thường, và nó hết trở thành một điều kiện của hạnh phúc. Đó là sự thật. Trong đời của một con người, dầu mới có hai mươi mấy tuổi, mình cũng đã thấy điều đó đã xảy ra trong quá khứ của đời mình rồi, mình cần phải học từ những cái đó.

Năm cánh tỏa kỳ hương

(Pháp thoại của Sư Ông Làng Mai ngày 14.02.1999)

 

 

Hôm nay chúng ta học về Nghi thức chúc tán Tổ Sư. Xin quý vị mở cuốn Nhật tụng Thiền môn. Nghi thức Chúc Tán này hướng về các vị Tổ Sư tức là tổ tiên tâm linh của chúng ta. Sư là thầy. Các vị Tổ Sư tức là các bậc thầy trong quá khứ thuộc về nhiều thế hệ. Nghi thức này xưa nay chỉ được sử dụng trong thiền môn. Nhưng lễ Chúc Tán Tổ Sư chưa bao giờ được tổ chức tại gia đình. Theo tôi thì chúng ta cũng có thể áp dụng nghi thức Chúc Tán Tổ Sư trong phạm vi gia đình, tại vì người cư sĩ cũng có tổ tiên tâm linh của họ.

Trong ta có sự có mặt của tổ tiên huyết thống. Ông bà tổ tiên của bao nhiêu thế hệ đã đi trước đều đang có mặt trong ta từng giây từng phút và chúng ta là sự tiếp nối của các vị. Điều này cũng đúng đối với phương diện tâm linh, bởi vì trong ta có sự có mặt của Bụt và của các vị Tổ Sư từ thầy Ca Diếp cho đến Thầy của chúng ta. Khi ta được Thầy trao truyền chánh pháp, ta biết rằng sự trao truyền đó đã tới từ tất cả những thế hệ tổ tiên tâm linh. Và nếu sự trao truyền và tiếp nhận thành công thì trong mỗi tế bào của ta đều có sự có mặt của Bụt và của các vị Tổ Sư. Sự có mặt của các vị tổ tiên tâm linh cũng hiện thực rõ ràng như sự có mặt của tổ tiên huyết thống. Tất cả những tuệ giác, hạnh phúc, kinh nghiệm và tình thương của các thế hệ tổ tiên tâm linh cũng được trao truyền cho ta. Ta phải biết trân quý và sử dụng gia tài quý báu đó. Nhìn vào cách sống, cách hành xử của các sư anh, sư chị và sư em của ta, ta cũng thấy được sự trao truyền nếp sống tâm linh đó và ta thấy rõ ràng họ là sự tiếp nối của Bụt, của chư Tổ qua các thời đại và của Thầy. Thấy được như vậy rồi thì ta cảm nhận có một sự liên hệ giữa ta với sư anh, sư chị và sư em của ta, từ đó ta có sự giao cảm, liên đới, đoàn kết và hiểu biết và ta quyết tâm thiếp lập và xây dựng Tăng thân để làm chỗ nương tựa cho hải chúng mười phương.

Tiếp xúc với chiều dọc đồng thời cũng là tiếp xúc với chiều ngang. Chiều dọc là biểu tượng của hai dòng sinh mạng tổ tiên tâm linh và huyết thống và chiều ngang là biểu tượng của dòng sinh mạng của mọi người và mọi loài có mặt cùng thời với ta giờ này trong giây phút hiện tại. Tất cả đều là tổ tiên của ta và anh chị em của ta. Ta là một với họ. Nếu ta thất bại trong sự tiếp xúc với chiều dọc thì ta sẽ thất bại trong sự tiếp xúc với chiều ngang và nếu ta đã thất bại trong sự tiếp xúc với chiều ngang thì đó cũng có nghĩa là ta cũng đã thất bại trong khi tiếp xúc với chiều dọc. Sự thật là như vậy. Khi ta giận hờn người anh, người chị hoặc người em của ta và ta muốn bỏ đi, hoặc khi liên hệ giữa ta với họ có khó khăn thì ta biết rằng liên hệ giữa ta với tổ tiên tâm linh của ta cũng đã không thành công. Sự thất bại của cái này chứng tỏ sự thất bại của cái khác. Nếu ta thực sự tiếp xúc được với tổ tiên tâm linh, thì ta sẽ không có khó khăn gì trong sự tiếp xúc, xây dựng sự truyền thông với những người bạn đồng tu trong Tăng thân. Đây là điểm rất quan trọng mà chúng ta phải đem ra quán chiếu để thực tập.

Sau khi xướng kệ dâng hương xong, ta xướng tiếp bài Chúc Tán Tổ Sư.

Một đóa hiện linh thoại
Năm cánh tỏa kỳ hương
Pháp tạng trao truyền từ Tây Vức
Tâm tông nối tiếp ở Đông Phương
Xin các thế hệ cao tăng
Trong niết bàn diệu tâm
Cao tọa pháp bảo đàn
Với tuệ giác siêu trần
Đưa mắt nhìn xuống đàn cháu con
Đem lòng thương chứng giám:

Các thế hệ tổ sư đã mở rộng con đường thảnh thơi và vững chãi
Làm khuôn thước và suối nguồn cho các thế hệ tương lai
Chúng con đây là tăng thân chùa ….., quận …..,
tỉnh ……, nước Việt Nam
Hôm nay ngày kỷ niệm Sư Tổ …..
Tập họp bốn chúng
Đi lên tổ đường và bảo điện
Thiền tọa công phu
Phúng tụng kinh văn
Xưng dương công hạnh của liệt vị tổ sư
Đem hết lòng thành kính ngưỡng
Mong tỏ lộ được niềm biết ơn thầm kín của chúng con.

Chúng con kính lạy các vị Bồ tát tổ sư
Tây Phương và Đông Độ
Hòa thượng khai sơn bổn tự
Tất cả các thế hệ cao tăng đi trước
Đã khai đường mở lối cho đàn hậu tiến chúng con
Xin nguyện nỗ lực tiến tu
Chuyển hóa phiền não
Nuôi dưỡng bồ đề
Làm cho tông phong mãi mãi được chấn chỉnh
Tổ ấn càng ngày càng rạng rỡ quang huy
Hoa giác ngộ nở khắp trong thiền lâm
Mưa diệu pháp thấm nhuần nơi học địa
Đệ tử chúng con nhớ ơn huấn giáp của liệt vị tổ sư
Nguyền chấp nhận nhau, tha thứ cho nhau
Thương yêu nhau như con một nhà
Cho tăng thân lớn mạnh
Cho hạnh phúc vững bền
Làm chỗ nương tựa cho hải chúng mười phương
Nguyền noi gương các bậc tổ sư như Ca Diếp, A Nan, Long Thọ, Đề Bà, Vô Trước, Thế Thân, Nghĩa Huyền, Liễu Quán
Cùng các bậc long tượng trong sơn môn
Các bậc có tâm chí đại hành
Các bậc Bồ Tát Ma Ha Tát.
Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật.

Một đóa tức là một bông hoa, một đóa hoa. Linh Thoại tiếng Bắc là linh thụy, đó là tên của hoa Ưu Đàm hay Ưu Bát Đa La (udumbara)- hoa Ưu Đàm mấy ngàn năm mới nở một lần, vì vậy người ta ví Bụt như hoa Ưu Đàm, lâu lắm mới nở trong vườn hoa nhân loại. Sự xuất hiện của một bậc giác ngộ hoàn toàn như Bụt là điềm rất hiếm có; cũng như hoa Linh Thoại, mỗi ba ngàn năm mới nở một lần. Bây giờ đã 2600 năm rồi và có người nghĩ là 400 năm nữa chúng ta sẽ có một đóa hoa Ưu Đàm mới, một vị Bụt mới.

Một đóa hiện linh thoại tức là Bụt, là Thế Tôn, là đấng giác ngộ cao tột đã xuất hiện trên đời. Năm chữ trong câu này đưa ra một hình ảnh rất đẹp. Năm cánh tỏa kỳ hương, là đóa hoa ấy có năm cánh và năm cánh đó tỏa ra mùi hương rất kỳ diệu. Kỳ tức là lạ lùng, mầu nhiệm. Năm cánh này chỉ cho năm tông phái thiền đã tiếp nối được dòng tuệ giác của Bụt. Đây là lời xưng tụng truyền thống của các phái thuộc về thiền tông. Ở Trung Quốc có năm phái thiền; và người Trung Quốc thường đồng nhất năm phái thiền đó với năm cánh của bông hoa. Đó là các thiền phái Lâm Tế, Tào Động, Pháp Nhãn, Quy Ngưỡng và Vân Môn. Năm phái thiền này rất nổi tiếng ở Trung Quốc trong đó phái Lâm Tế và phái Tào Động là hai phái mạnh nhất. Hai phái này đã được truyền sang Nhật Bản và Cao Ly và cũng có truyền sang Việt Nam. Ở Việt Nam chúng ta cũng có năm phái thiền và trong năm phái thiền của Việt Nam cũng có yếu tố của các phái Lâm Tế và phái Tào Động. Nhưng năm phái thiền ở Việt Nam không phải là năm phái thiền của Trung Quốc. Vì vậy chúng ta có cùng một câu tán dương là một đóa hiện linh thoại, năm cánh tỏa kỳ hương.

Phái thiền được thành lập đầu tiên ở Việt Nam là phái thiền Tăng Hội. Phái thiền này được thiết lập vào thế kỷ thứ III. Còn các phái thiền như phái Lâm Tế và phái Tào Động thì mới được du nhập từ thế kỷ thứ XII trở về sau. Tổ Bồ Đề Đạt Ma qua Trung Quốc vào thế kỷ thứ V; nhưng vào thế kỷ thứ III, tại Việt Nam thiền sư Tăng Hội đã lập được phái thiền đầu tiên rồi, tức là trước tổ Bồ Đề Đạt Ma gần ba trăm năm. Điều lạ lùng nhất là Sư Tổ Tăng Hội không phải là một vị tăng sĩ từ Ấn Độ đi sang mà đã được sinh ra và lớn lên tại Việt Nam. Tăng Hội là đứa con lai giữa một người cha gốc Bắc Ấn và một người mẹ Việt Nam. Ngày xưa tổ tiên của thầy Tăng Hội sống ở một nước miền Bắc Ấn Độ gọi là nước Khương Cư (Sogdian). Thân phụ của thầy Tăng Hội là một nhà buôn trẻ sinh ra ở miền Nam Ấn Độ chứ không phải sinh ra ở nước Khương Cư. Ông cùng đi với các thương gia khác tới Việt Nam và thấy đất Việt rất dễ chịu cho nên đã ở lại và định cư tại đó. Người thương gia trẻ đó đã cưới một người thiếu nữ Việt Nam và đã sinh được một đứa con. Khi đứa con vừa mới lên mười một tuổi thì cả cha mẹ đều qua đời. Đứa bé đã đi vào chùa sống, tu tập và sau này đã trở thành một vị cao tăng rất lỗi lạc tên là Tăng Hội.

Thiền sư Tăng Hội sống vào nửa đầu thế kỷ thứ III, vì vậy chúng ta biết rằng Đạo Bụt đã được truyền sang Việt Nam từ Ấn Độ trước thầy Tăng Hội và tới đời thầy Tăng Hội, Việt Nam mới bắt đầu có một thiền phái. Phái thiền này không phải là đã được truyền từ Ấn Độ sang mà đã được thầy Tăng Hội sáng lập. Đạo Bụt sang Việt Nam vào khoảng thế kỷ đầu. Trong thế kỷ thứ II, chúng ta có những nhân vật như Mâu Bác – Mâu Bác có thể là một trong những giáo sư của thầy Tăng Hội. Thầy Tăng Hội là người đã lập ra một môn phái thiền đặc biệt sử dụng các kinh thiền nguyên thỉ nhưng sử dụng theo tinh thần Đại Thừa. Ví dụ kinh An Ban Thủ Ý là một kinh Nguyên Thỉ, nhưng đã được thầy Tăng Hội giảng theo tinh thần Đại Thừa. Câu đầu tiên mà thiền sư Tăng Hội viết trong bài tựa là: An Ban Thủ Ý là cỗ xe lớn (Đại Thừa) mà các vị Bụt dùng để cứu độ cho chúng sanh đang lênh đênh chìm nổi. Câu này rất hay tại vì trong lúc chúng ta đang lênh đênh chìm nổi trong biển sầu, thương, giận, ghét ghen mà chỉ cần biết thở vào, thở ra có chánh niệm thôi thì tự nhiên chúng ta không còn bị lênh đênh chìm nổi nữa. Đó là sự thực tập tại đạo tràng Làng Mai. Phép thực tập ở Làng Mai đã theo sát với truyền thống của thiền tông Việt Nam ngay từ lúc ban đầu, và đã sử dụng những kinh điển nguyên thỉ nhưng đã nhìn với con mắt của Đại Thừa.

Sách Thiền Uyển Tập Anh (Uyển tức là khu vườn thiền, Tập tức là gom lại, Anh tức là đẹp; là sự tập hợp những bông hoa đẹp nhất từ trong vườn thiền) nói rằng tới đời Trần, tức là vào khoảng thế kỷ thứ XII, phái thiền Tăng Hội vẫn còn hiện hành và người đại diện cho thiền phái đó là thiền sư Lôi Hà Trạch. Tăng Hội không phải chỉ là tên của một vị thiền sư mà cũng là tên của một thiền phái và thiền phái đó do người Việt sáng lập chứ không phải là một thiền phái được đem từ Ấn Độ hoặc Trung Quốc sang.

Tới thế kỷ thứ VI chúng ta có một thiền phái thứ hai xuất hiện, đó là thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Thầy Tỳ Ni Đa Lưu Chi (Vinitaruci) là người Ấn Độ. Thầy đã sang Trung Quốc và lưu trú ở đó khoảng hai năm. Trong thời gian tu tập và hành đạo tại Trung Quốc, Thầy đã gặp tổ Tăng Xán, tức là người kế thừa tổ Bồ Đề Đạt Ma. Thầy Tỳ Ni Đa Lưu Chi được gặp gỡ tổ Tăng Xán và sau đó Thầy đi về miền Nam và cư trú tại chùa Pháp Vân. Ở đây Thầy đã sáng lập ra phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Phái thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi như vậy không hẳn là do từ Trung Quốc truyền vào mà là từ Ấn Độ truyền sang. Thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi có ảnh hưởng tư tưởng của Mật Giáo. Thầy Tỳ Ni Đa Lưu Chi đã ở tại chùa Pháp Vân, thủ đô Giao Châu ngày xưa. Thầy đã dịch nhiều kinh thuộc về Mật Giáo, cho nên phái thiền của thầy Tỳ Ni Đa Lưu Chi là một tổng hợp giữa Thiền và Mật Tông. Chúng ta có thể nói rằng phái thiền thứ hai của Việt Nam là một phái thiền từ Ấn Độ truyền sang, tại vì chi tiết Thầy có gặp tổ Tăng Xán ở Trung Quốc tuy được ghi chép nhưng không có gì quan trọng. Chuyện tổ Tăng Xán bảo thầy Tỳ Ni Đa Lưu Chi phải đi về phương Nam để hành đạo có thể là do người đời sau thêm vào để cho rằng phái thiền này cũng có gốc gác Trung Quốc. Chúng ta biết rằng Giao Châu thời bấy giờ là một nước nhỏ, cho nên cái gì xảy ra ở Trung Quốc mới được xem là quan trọng.

Đến thứ kỷ thứ IX, có một thiền sư tên là Vô Ngôn Thông từ Trung Quốc qua Việt Nam và thành lập một phái thiền thứ ba tên là Vô Ngôn Thông. Vô Ngôn Thông nghĩa là sự truyền thông siêu việt cả ngôn từ và lời nói. Thầy Vô Ngôn Thông có liên hệ với tổ Bách Trượng, tức là vị tổ đã sáng lập ra những thanh quy rất nổi tiếng gọi là Bách Trượng Thanh Quy. Tổ Bách Trượng cũng là người chủ trương rằng làm việc chấp tác cũng là tu như làm vườn, tưới rau, cày ruộng… Bất tác bất thực là câu châm ngôn của tổ Bách Trượng. Một hôm có một vị thủ tọa thấy Tổ già yếu rồi mà ngày nào cũng vác cuốc ra làm việc, thấy thương quá nên đem giấu cái cuốc của Tổ đi để Tổ khỏi phải ra ngoài vườn trồng rau nữa. Hôm đó vì không có cuốc để đi làm việc thành ra Sư Tổ không chịu ra ăn cơm. Vị Thủ Tọa đến hỏi: Bạch Hòa Thượng, sao hôm nay Ngài không ra dùng cơm? Sư Tổ đáp: Hôm nay tôi không được làm việc nên tôi không ăn cơm (Nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực). Bất tác bất thực từ đó đã trở thành một câu châm ngôn nổi tiếng. Từ truyền thống đó ta bắt đầu có một mẫu mực tổ chức thiền viện gọi là nông thiền, tức là những trung tâm tu học trong đó mọi người đều làm việc như cày ruộng, làm vườn, trồng trọt. Làm việc là để sản xuất nhưng cũng là tu tập, nghĩa là phải có chánh niệm trong khi làm chứ không phải chỉ là để tăng gia sản xuất mà thôi. Cố nhiên theo tinh thần nông thiền chúng ta phải trồng trọt như thế nào đó để tránh gây tổn hại tới sinh mạng của các loài chúng sanh và đất đai.

Vào thế kỷ thứ XI, ta lại có một phái thiền khác được thành lập, đó là phái thiền Thảo Đường. Thiền sư Thảo Đường là vị tổ đã sáng lập ra thiền phái này. Đây là một thiền phái mang nhiều tính chất trí thức. Thiền sư Thảo Đường là một thi sĩ, một nhà văn rất lỗi lạc. Văn chương và thơ phú của Thầy rất hay. Thầy Thảo Đường đến Đại Việt từ nước Chàm (Champa). Nhưng trước đó Thầy đã từ Trung Quốc tới nước Chàm, rồi từ nước Chàm mới qua Đại Việt. Thời đó Champa còn là một lãnh thổ riêng. Ngày xưa miền Nam Việt Nam được chia ra hai phần; một phần là đất Champa và một phần là đất Thủy Chân Lạp. Giữa hai nước Đại Việt và Champa thường có những cuộc tranh chấp về biên giới và người Chàm là những người chiến sĩ rất hùng dũng, họ có hải quân rất tài giỏi và thường đem hải quân sang đánh phá nước ta. Có lần họ đem hải quân ra tới Thăng Long và đánh chiếm được cả thủ đô Đại Việt. Vì vậy giữa hai nước thường có những tranh chấp và ở biên giới không có ngày nào được yên ổn. Cho nên vào đời Lý, ở thế kỷ thứ XI, vua Lý đã đem quân sang đánh Chiêm Thành và đã bắt đem về một số tù binh. Vua đem chia các tù binh đó cho mỗi quan trong triều để sử dụng như là những người giúp việc trong nhà. Chúng ta nên nhớ rằng đây không phải là chế độ bắt người làm nô lệ vì nước Việt Nam ta chưa bao giờ có chế độ nô lệ.

Hồi đó, ở triều đại nhà Lý có chức quan gọi là Tăng lục. Tăng lục là một vị quan trông coi văn phòng giữ hồ sơ của tất cả các tăng sĩ và sự phát triển của Phật Giáo qua các niên đại. Vị quan này thường phải là người am tường về Phật pháp. Vị Tăng lục cũng đã nhận được một người tù binh để giúp chăm lo việc nhà. Một hôm vào triều chầu vua về ông thấy bản thảo viết về lịch sử Phật Giáo của mình ở trên bàn bị một người nào chữa lại rất đặc. Ông giận dữ và tìm hỏi cho ra kẻ đã to gan chữa bản thảo của ông. Người tù binh đó đã thú nhận là mình đã tự ý sửa chữa. Ông quan Tăng lục vừa ngạc nhiên vừa khâm phục. Sau khi tra hỏi và chuyện trò một hồi thì ông mới khám phá ra rằng người tù binh mà vua trao tặng cho mình là một vị thiền sư. Vị thiền sư này đã từ Trung Quốc đi qua Champa để hoằng pháp độ sanh, nhưng không may trong thời cuộc chiến tranh đã bị bắt làm tù binh và cuối cùng đã bị chia cho vị Tăng lục để giúp việc nhà. Văn chương đã giỏi hơn vị Tăng lục, mà Phật pháp còn uyên thâm hơn. Trong khi quan tăng lục đi vắng người giúp việc kia (thiền sư Thảo Đường) đã có cơ hội đọc trộm bản thảo ở trên bàn, đã thấy rằng những điều ghi chép trong bản thảo đó có nhiều chỗ sai lầm và người giúp việc kia đã tự ý chữa những chỗ sai lầm đó. Vị Tăng lục đi công tác về, nhìn vào bản thảo, chợt giật mình vì thấy rằng người chữa bản thảo là một nhân tài, là một người có kiến thức về Phật Pháp rất thâm uyên và văn chương lưu loát. Vị Tăng lục đã đem mọi việc tâu lên vua. Biết được điều ấy, vua cho mời vị tù binh vào chầu và sau một cuộc đối đáp vua khám phá ra rằng đây không phải là một tên tù binh mà là một vị thiền sư. Thiền sư đã đối đáp rất hay và rất thông suốt khiến cho vua hết sức khâm phục và vua đã tôn thiền sư làm thầy của mình, làm vị Quốc Sư. Đây là sự kiện làm cho chúng ta cảm phục và hãnh diện vì thái độ cởi mở biết cầu hiền của cha ông chúng ta. Một vị hoàng đế đã dám cả gan tôn một tên tù nhân của mình làm thầy và đưa kẻ đó lên làm vị Quốc Sư cho cả nước. Và từ đó chúng ta có thêm một thiền phái nữa, gọi là thiền phái Thảo Đường. Sau này phần nước Chàm được sát nhập vào nước Việt, và hiện bây giờ nếu đi về những tỉnh như Khánh Hòa, Phan Rang và Phan Thiết thì chúng ta còn thấy những di tích của văn hóa Chàm và những làng của người Chàm đang ở. Thiền phái Thảo Đường tuy thế đã không phát triển mạnh vì thiền phái này gồm toàn những người trí thức, trong đó có vua và quan.

Đến thế kỷ thứ XIII, chúng ta lại có một thiền phái khác nữa do người Việt thành lập, đó là thiền phái Trúc Lâm. Người thành lập phái này là thiền sư Hiện Quang. Phái Trúc Lâm sau này có một ông vua đi tu, tên là vua Trần Nhân Tông được chính thức nhìn nhận là tổ thứ nhất của thiền phái. Sau đó có các thiền sư Pháp Loa, Huyền Quang, và phái Trúc Lâm này được tiếp nối mãi cho đến ngày nay. Núi Yên Tử là nơi xuất phát của thiền phái Trúc Lâm này.

Thiền phái Lâm Tế đã được truyền vào sau đó từ thời Tống. Vua Trần Thái Tông là đệ tử của thiền sư Hiện Quang là một trong những người đầu tiên tiếp nhận trao truyền từ thiền phái Lâm Tế. Sau này một số đông trong chúng ta đều đã tiếp nhận nguồn năng lượng của thiền phái Lâm Tế, nhưng trước đó chúng ta vẫn thuộc về các thiền phái của bản xứ rồi.

Những thiền phái ở Trung Quốc đi vào giống như những dòng sông khác đổ vào trong những dòng sông đã có sẵn. Năm thiền phái Tăng Hội, Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường và Trúc Lâm là năm thiền phái Việt Nam. Các thiền phái này được tập hợp thành một dòng sông, và các dòng Lâm Tế và Tào Động từ Trung Quốc đi qua đã chảy vào trong dòng sông lớn đó.

Trong khi chúng ta xướng

Một đóa hiện linh thoại
Năm cánh tỏa kỳ hương

Thì ta nghĩ tới năm thiền phái ở Việt Nam, nhưng khi người Trung Quốc đọc năm cánh thì họ nghĩ tới năm thiền phái ở Trung Quốc. Chúng ta phải nhớ điều đó.

Vào đời Trần, thế kỷ thứ XIII, các thiền phái Tăng Hội, Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường và Trúc Lâm có khuynh hướng tìm tới với nhau thành một nền Phật giáo thống nhất để không có sự kỳ thị giữa các tông phái khác nhau nữa, và vì vậy cho nên thời đại Trần Thái Tông chúng ta đã có một vị quốc sư tên là Nhất Tông Quốc Sư. Năm thiền phái hợp chung với nhau như là một dòng sông và chính trong dòng sông đó mà các dòng Lâm Tế và Tào Động đã đi vào. Phật giáo nhất tông là Phật giáo thống nhất. Trong thế kỷ XX, chúng ta có một giáo hội gọi là Giáo Hội Phật Giáo Thống Nhất. Chuyện này không phải là chuyện mới, đó chỉ là sự tiếp nối tinh thần thống hợp các tông phái lại để tu chung với nhau, làm việc chung với nhau. Tinh thần này đã có từ đời Trần. Nhất Tông Quốc Sư, Phật Giáo Nhất Tông, những cái tên rất hay.

Những tài liệu này về Phật Giáo Việt Nam, hiện bây giờ, trên thế giới còn ít người biết, vì vậy chúng ta phải cố gắng phiên dịch các cuốn Việt Nam Phật Giáo Sử Luận ra Anh văn. Chúng ta phải cố gắng phổ biến những tài liệu đó cho quốc tế biết, tại vì nhiều người còn nghĩ rằng Phật Giáo Việt Nam chỉ là Phật Giáo truyền vào từ Trung Quốc và vì thiền Việt Nam chẳng qua chỉ là thiền Lâm Tế, thiền Tào Động. Phật Giáo Việt Nam có tiếp nhận từ Phật Giáo Trung Quốc nhưng trước đó đã trực tiếp tiếp nhận từ Phật Giáo Ấn Độ.

Pháp tạng trao truyền từ Tây Vức
Tâm tông nối tiếp ở Đông Phương

Pháp tạng tức là kho tàng chánh pháp. Kho tàng chánh pháp đã được trao truyền từ Tây Vức. Tây Vức hoặc là Tây Vực là chỉ cho Ấn Độ. Tâm tông là tông phái của trái tim, ám chỉ thiền tông, tại vì thiền tông là một tông phái truyền từ trái tim này tới trái tim khác. Gọi là dĩ tâm ấn tâm. Lấy trái tim để mà in vào trong trái tim. Nối tiếp tức là chưa bao giờ bị đứt đoạn. Dòng tổ tiên tâm linh của chúng ta chưa bao giờ bị đứt đoạn.

Xin các thế hệ cao tăng
Trong niết bàn diệu tâm
Cao tọa pháp bảo đàn
Với tuệ giác siêu trần
Đưa mắt nhìn xuống đàn cháu con
Đem lòng thương chứng giám

Những câu này có mục đích gọi tên, giúp ta hướng về các thế hệ cao tăng và xin các nhìn lại đàn cháu con để chứng giám cho lòng thành của con cháu. Chúng ta xin các vị tổ tiên tâm linh nhìn xuống chúng ta nhưng kỳ thực chúng ta đang thực tập nhìn về tổ tiên tâm linh. Tổ tiên tâm linh đang cao tọa pháp bảo đàn tức là đang ngồi trên cao, trên đài cao của pháp bảo. Có một kinh gọi là Pháp Bảo Đàn. Chỗ ngồi của quý vị tức là cái đàn chánh pháp. Các ngài ngồi trong niết bàn diệu tâm tức là ngồi trong bản môn và có trái tim rất mầu nhiệm. Các ngài có tuệ giác siêu trần, siêu trần tức là vượt thoát khỏi những tư duy và ham muốn của cuộc đời hệ lụy.

Các thế hệ tổ sư đã mở rộng con đường thảnh thơi và vững chãi

Công nghiệp của các ngài là mở rộng con đường thảnh thơi và vững chãi. Con đường đó ngày xưa còn nhỏ và hẹp nhưng nhờ các ngài con đường đã trở thành xa lộ, đi rất là mau và rất dễ.

Làm khuôn thước và suối nguồn cho các thế hệ tương lai

Khuôn thước tức là những quy tắc, thanh quy và pháp môn rõ ràng, có hiệu quả. Suối nguồn cho các thế hệ tương lai. Chúng ta là những người uống nước và biết rằng sở dĩ có nước là tại vì có suối, có nguồn, có sông.

Chúng con đây là tăng thân Chùa Làng Mai, quận Duras, tỉnh Lot et Garonne, nước Pháp
Hôm nay nhân ngày kỷ niệm Sư Tổ Huệ Minh
Tập họp bốn chúng
Đi lên tổ đường và bảo điện

Bốn chúng gồm có người xuất gia nam, người xuất gia nữ, người cư sĩ nam và người cư sĩ nữ. Tổ đường tức là nơi thờ Tổ, bảo điện tức là nơi thờ Bụt, Bụt cũng là Tổ nhưng chúng ta lại có Phật đường và Tổ đường. Nếu chùa chưa có tổ đường thì chúng ta phải xây cất tổ đường, nếu chùa chưa có Phật đường thì chúng ta phải xây Phật đường. Nếu chưa có tăng đường thì ta xây dựng tăng đường. Trong chùa phải có Phật đường, pháp đường, tổ đường và tăng đường. Trong sự thực tập của chúng ta tiếp xúc với tổ tiên là một pháp môn hành trì rất quan trọng. Nếu không tiếp xúc được với Tổ thì chúng ta cũng không tiếp xúc được với anh, chị, em trong tăng thân của chúng ta.

Tập họp bốn chúng
Đi lên tổ đường và bảo điện
Thiền tọa công phu
Phúng tụng kinh văn
Xưng dương công hạnh của liệt vị tổ sư
Đem hết tâm thành kính ngưỡng
Mong tỏ lộ được niềm biết ơn thầm kín của chúng con

Những câu này chúng ta đã được học ở trong bài Chúc Tán kỳ trước cho nên ở đây khỏi nghe giảng lại.

Chúng con kính lạy các vị
Bồ Tát tổ sư
Tây Phương và Đông Độ

Các vị tổ sư đều là những vị bồ tát tại vì các vị đã mở rộng con đường thảnh thơi và vững chãi. Tây Phương ở đây có nghĩa là Ấn Độ, Đông Độ là những vùng đất về phương Đông, Đông có nghĩa là đối với Tây. Đông tức là Trung Quốc và Việt Nam, còn Tây nghĩa là Ấn Độ.

Hòa thượng khai sơn bổn tự

Ngày chúc tán chúng ta cũng phải nghĩ tới vị cao tăng lập ra đạo tràng này, gọi là hòa thượng khai sơn bổn tự. Công trình khai sơn chùa Làng Mai không phải là công trình của một người. Tất cả chúng ta đều là hòa thượng khai sơn bổn tự.

Tất cả các thế hệ cao tăng đi trước

Người mà chúng ta tiếp xúc dễ dàng nhất là người đã sáng lập ra trung tâm tu học trong đó ta đang thực tập. Rồi qua vị đó ta tiếp xúc với tất cả các thế hệ cao tăng đi trước.

Đã khai đường mở lối cho đàn hậu tiến chúng con
Chúng con là những đàn hậu tiến, những thế hệ đi sau.
Xin nguyện nỗ lực tiến tu

Nỗ lực là đem hết sức mình, tiến tu là tu hành có tiến bộ.

Chuyển hóa phiền não
Nuôi dưỡng bồ đề
Làm cho tông phong mãi mãi được chấn chỉnh
Tổ ấn càng ngày càng rạng rỡ quang huy.

Ở đây có hai chữ tông phong và tổ ấn. Tông phong là phong thái của truyền thống mình, cách thức sống, làm việc, vẻ đẹp của cách sống hàng ngày, vẻ đẹp của cách thức chấp trì công việc và giải quyết mọi vấn đề. Tổ ấn nghĩa là khuôn dấu của tổ, chứng minh rằng chúng ta thuộc về truyền thống đó một cách đích thực, có đầy đủ nội dung chứ không phải là chỉ có danh từ mà thôi. Nhìn vào cách đi, đứng, nằm, ngồi, làm việc và cách hành xử của chúng ta với nhau, người ta thấy được Tổ ấn, chứ không phải Tổ ấn chỉ là khuôn dấu in trên một tấm giấy chứng chỉ hoặc giới điệp. Tổ ấn có thể được nhìn thấy trong cách chúng ta sống với nhau giữa anh chị em, có sự thương yêu, nhường nhịn, có hạnh phúc, có hòa thuận, có vững chãi và thảnh thơi. Chúng ta thấy được cái ấn của Tổ trong mỗi bước chân, trong mỗi cách hành xử. Tổ ấn rất thơm tho, đẹp đẽ và quý giá.

Tông phong được mãi mãi chấn chỉnh.

Chấn chỉnh có nghĩa là vững mạnh hơn, hùng vĩ hơn, đẹp đẽ hơn. Quang huy tức là sáng rỡ. Quang là ánh sáng, huy là rạng rỡ, sáng chói.

Hoa giác ngộ nở khắp trong thiền lâm
Mưa diệu pháp thấm nhuần nơi học địa

Làm thế nào để cho ở chốn rừng thiền chỗ nào cũng thấy bừng nở những đóa hoa giác ngộ, hoa giác ngộ thấy nơi sư anh, nơi sư chị, nơi sư em. Mưa diệu pháp thấm nhuần nơi học địa. Học đây có nghĩa là tu tập, chứ không phải là tiếp thu và trao truyền kiến thức. Học địa là trung tâm thực tập. Trong chốn học địa ngày nào cũng có mưa pháp rơi xuống để thấm nhuần những hạt giống của thương yêu, của hiểu biết, của giác ngộ.

Đệ tử chúng con nhớ ơn giáo huấn của liệt vị tổ sư
Nguyền chấp nhận nhau, tha thứ cho nhau
Thương yêu nhau như con một nhà

Đây là sự cam kết của chúng ta đối với chư Tổ. Tiếp xúc được với chư Tổ mà thành công thì ta tiếp xúc được với nhau thành công. Cho nên chiều dọc và chiều ngang liên hệ với nhau. Không thương được anh, thương được em, thương được chị có nghĩa là mình chưa kính được Tổ. Chấp nhận nhau tại vì người kia có những yếu kém mà ta có thể chấp nhận được. Còn nếu người kia có yếu kém mà ta muốn đẩy người kia đi hay là ta bỏ đi là ta đã thất bại hoàn toàn trong sự tiếp xúc với các vị Tổ sư. Chấp nhận nhau, thương yêu nhau như con một nhà là sự thực tập hàng ngày của chúng ta.

Tại Làng Mai, sự thực tập của chúng ta được hướng về liên hệ giữa người với người. Chúng ta tin rằng sự chuyển hóa chỉ có thể xảy ra khi ta có cơ hội sống chung với những người khác. Khi sống chung với những người khác thì những vụng về, dại dột hoặc khó khăn trong liên hệ giữa con người với con người xảy ra. Ta sẽ thấy những tâm hành như buồn, giận, ganh, nản, v.v.. phát hiện. Còn nếu ta đóng cửa lại sống một mình trong thất hay trong hang núi năm năm hoặc ba năm thì làm gì có cơ hội để cho những tâm hành như vậy phát hiện. Tu tập chánh niệm để có thể nhận diện những tâm hành tiêu cực trong ta. Nhận diện xong rồi nhìn sâu vào trong bản chất của những tâm hành đó để mà chuyển hóa, dùng sức của cá nhân và lợi dụng tuệ giác cùng sự yểm trợ của tăng thân mà chuyển hóa những phiền giận, ganh tỵ ở trong ta. Thực tập không phải là vấn đề cá nhân, sự thực tập phải xảy ra ở trong chúng. Cho nên nếu ta thất bại trong liên hệ hàng ngày giữa anh em trong chúng là ta đã thất bại trong sự thực tập. Ta sống không vui với sư anh và sư em, điều đó chứng tỏ ta thất bại và cũng chứng tỏ rằng tăng thân chưa thành công trong sự giúp đỡ cho ta. Nếu quả thật ta đã chấp nhận được các vị tổ sư là tổ sư của mình thì ta phải cố gắng để có thể chấp nhận được người chị hay là người em của chúng ta. Ta không thể nói rằng: Tại vì chị hay em không tu, không làm đúng như sự mong ước của tôi cho nên tôi không còn liên hệ gì ở đây nữa, tôi muốn đi. Chỉ có tôi mới có lý tưởng, có từ bi thôi, chị không có lý tưởng và từ bi, chị chỉ có thể làm một người quản lý doanh nghiệp thôi, chị không thể nào đóng vai trò của người sư chị hay người sư em được. Nói như vậy là ta chịu thua, ta thất bại, tại vì người anh, người chị kia cũng là ta, là tăng thân của ta, mà nếu ta không làm gì được để giúp người đó, không liên hệ được với người đó, không nói chuyện được với người đó thì sự thực tập của ta đã thất bại. Ta không thể nói chỉ có ta mới thật tâm phụng sự cho chúng, không thể nói chỉ có ta mới có lòng từ bi. Tại vì sự thực là trong chúng, người nào cũng đang làm hết sức mình để mà phụng sự cho đại chúng, mỗi người một cách khác nhau nhưng ai cũng có làm. Có thể người kia làm cách khác và mình làm cách khác và nếu ta nghĩ rằng có thể có cách làm hay hơn thì ta phải biết thiết lập một cuộc đối thoại với người kia để có thể bàn bạc. Khi người kia làm những điều có thể gây ra những thương tích trong ta và trong đại chúng thì ta phải tự hỏi: Tại sao người ấy lại làm như vậy? Tại sao người ấy lại không làm được hay hơn? Ta phải hiểu rằng cái gì cũng có nguyên do. Trong đó có nguyên do là ta chưa bao giờ giúp người ấy cả, ta chưa bao giờ nói chuyện được với người đó. Chúng ta là ai mà có thể đóng vai quan tòa đối với một người khác? Chúng ta là anh em của nhau, chị em của nhau và người kia cũng chính là mình. Những yếu kém của người kia cũng là những yếu kém của mình, những yếu kém của mình cũng là những yếu kém của tăng thân. Cho nên ta phải nương vào nhau để mà thực tập. Sự thất bại của người kia là thất bại của ta và sự thất bại của ta là sự thất bại của người kia. Khi ta có sự chán nản, đầu hàng, muốn bỏ đi thì không những tuệ giác ở trong ta khô cạn mà từ bi trong ta cũng khô cạn nữa. Nếu quả thật năng lượng từ bi còn có mặt trong ta thì những năng lượng của sự giận hờn, bực bội và chán nản không thể phát hiện được. Năng lượng của từ bi là năng lượng hóa giải năng lượng giận hờn và chán nản.

Nếu ta có nhận xét rằng người kia trước khi đi tu dễ thương hơn bây giờ thì ta phải đem điều đó ra để quán chiếu, để xem điều đó có thật hay không. Nếu quả thật điều đó đã xảy ra thì vì những nguyên nhân nào, và ta đã đóng vai trò gì ở trong này. Ta đã thành công hay không trong vai trò một người anh hay một người chị của người đó? Ta không thể nói: Tôi không chấp nhận người đó được! Người đó không có gì được hết! Nếu ta quán chiếu và thấy được phần trách nhiệm của ta, thấy được rằng ta cũng có những yếu kém, những tiêu cực thì ta rất dễ dàng chấp nhận những yếu kém và tiêu cực của người khác, để rồi hai bên cùng bắt đầu nâng đỡ cho nhau. Lúc mà ta có thể thiết lập được truyền thông với người đó và hai bên cùng giúp đỡ được cho nhau thì tự nhiên sự cảm thông của ta với chư tổ được hình thành một cách dễ dàng. Tại vì chư tổ đang nằm ở ngay trong con người của sư em, sư anh hay là sư chị của ta. Nếu không liên hệ được với người sư anh, sư chị và sư em của ta thì thử hỏi làm sao ta liên hệ được với Tổ và với Bụt, vì Bụt cũng là một vị Tổ của chúng ta. Cho nên những câu xướng này quan trọng lắm. Trong lễ chúc tán, chúng ta có dịp thật sự nhìn lại hoàn cảnh và bản thân của chính chúng ta.

Đệ tử chúng con nhớ ơn giáo huấn của liệt vị tổ sư

Các vị Tổ sư đã ban cho ta những lời giáo huấn, cho nên chúng ta phải nguyền chấp nhận nhau. Chấp nhận những yếu kém của nhau tức cũng là chấp nhận những yếu kém của chính mình, nghĩa là biết tha thứ cho nhau. Dầu người kia đã gây ra lỗi lầm và vụng về ta cũng tha thứ. Có tha thứ thì ta mới giúp cho người kia được. Nếu ta không tha thứ được cho người kia thì làm sao ta có thể tha thứ cho chính ta? Ta đâu có phải là toàn hảo, toàn bích?

Thương yêu nhau như con một nhà
Cho tăng thân lớn mạnh
Cho hạnh phúc vững bền
Làm chỗ nương tựa cho hải chúng mười phương

Thương yêu là sự thực tập hàng ngày. Người kia có thể đi đứng chưa có chánh niệm, người kia có thể còn hời hợt, ham những cái vui còn có vẻ thế tục, nhưng vì có lòng từ bi nên ta có thể tới ngồi gần người ấy được. Khi ta có lòng từ bi và có thể ngồi gần được người đó thì sự truyền thông sẽ dễ dàng. Ta có thể nói, cười và giúp được người ấy. Còn nếu ta tiếp tục trách cứ thì ta sẽ thất bại hoàn toàn. Sự tu học của ta có thành công hay không, tự ta ta có thể biết được. Nếu ta không có hạnh phúc với những người trong tăng thân thì ta biết rằng ta thực tập chưa thành công. Ta đừng nói Trong quá khứ tôi đã bị vết thương ấy và bây giờ vì vết thương vẫn còn nên tôi không thực tập gì được. Nói như vậy không có đúng, vì nếu ta hết lòng thực tập thì pháp môn sẽ đem tới hiệu quả ngay tức khắc. Nếu ta có liên hệ tốt với tăng thân bây giờ và ở đây thì đó đã là hạnh phúc lớn. Hạnh phúc này có thể chữa lành những vết thương quá khứ. Vậy thì khi có những liên hệ khó khăn với đại chúng, ta đừng đổ lỗi cho những vết thương ngày xưa. Ngày xưa giả dụ ta đã từng bị người lớn lạm dụng tình dục thì cố nhiên là ta đã có những vết thương. Nhưng nếu ta tu tập và thiết lập được liên hệ tốt giữa ta với những người trong chúng thì tự nhiên những vết thương ngày xưa sẽ từ từ thuyên giảm và cuối cùng sẽ lành hẳn. Chính hạnh phúc mà ta có với thầy và anh em trong đời sống hàng ngày là yếu tố làm lành vết thương. Sở dĩ vết thương ngày xưa vẫn còn chưa lành là vì ta vẫn chưa thực tập được để làm hòa và để sống hạnh phúc với tăng thân ngay bây giờ. Chúng ta phải luôn luôn tự nhắc mình điều đó.

Nếu ta có khó khăn với sư anh, sư chị, sư em, nếu ta chưa nói chuyện được với họ thì ta phải cầu cứu Tăng thân, phải cầu cứu Thầy, phải làm ngay một cái gì đó. Chứ không thể nào để cho tình trạng kéo dài từ ngày này sang ngày khác, năm này qua năm khác và chỉ đứng trên cương vị của một ông quan tòa để phán xét người khác. Tại sao ta không ngồi lại quán chiếu và viết cho người kia một lá thư về những điều ta nghĩ về người đó, về những yếu kém đã từng làm cho ta đau khổ, và ta thực tập viết bằng cái tâm thành thật và bằng phép ái ngữ của ta. Người đó đọc và quán chiếu xong, có thể chỉ cho ta những tri giác sai lầm của ta có về người đó. Chắc chắn thế nào ta cũng vì vậy có tri giác sai lầm, đừng bao giờ tin chắc rằng ta là hoàn hảo trong nhận thức. Phải cẩn thận lắm mới được.

Nguyền noi gương các bậc tổ sư như Ca Diếp, A Nan, Long Thọ, Đề Bà, Vô Trước, Thế Thân, Nghĩa Huyền, Liễu Quán…

Những danh xưng trên đây là những danh xưng tiêu biểu. Ca Diếp, A Nan là những vị tổ sư đã sống đồng thời với Bụt. Long Thọ, Đề Bà là những vị tổ sư đã sống vào khoảng thế kỷ thứ II, thứ III. Vô Trước, Thế Thân là những vị tổ sư đã sống vào khoảng thế kỷ thứ IV và thứ V. Nghĩa Huyền là tên của tổ Lâm Tế. Liễu Quán là tên của một vị tổ sư đã cách chúng ta tới chín thế hệ.

Cùng các bậc long tượng trong sơn môn

Trong sơn môn tức là trong đại chúng, vì Tăng thân ngày xưa cư trú trong vùng rừng núi. Long là rồng, tượng là voi, tức là những cao tăng có kích thước lớn như Long Thọ, Đề Bà, Vô Trước. Các vị được gọi là long tượng trong sơn môn.

Các bậc có tâm chí đại hành
Các bậc Bồ Tát Ma Ha Tát
Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật. (CC)

Đại hành tức là đang đi trên con đường lớn và đang có hành động lớn, mà không mơ ước những chuyện nho nhỏ. Chỉ phát tâm làm những chuyện rất lớn như cứu đời giúp người, mà không để tâm mơ ước những chuyện nho nhỏ như đi lập chùa, học để có một bằng cấp, tìm một nguồn lợi tức nào đó để sống cho yên, để đừng có ai tới quấy phá mình. Có tâm chí đại hành ta sẽ không đặt những câu hỏi như tại sao ta phải ở trong một cái chúng rất đông, phải lo cho nhiều người, rồi bị người này nhìn, người kia ngó, không có tự do làm cái gì mình thích, thức dậy lúc nào mình thích, đi ngủ giờ nào mình muốn ngủ. Nếu chỉ ưa những chuyện nho nhỏ như vậy thì mình không phải là một bậc long tượng, không phải là những bậc có tâm chí đại hành, không thể nào làm đệ tử của bồ tát Phổ Hiền hay bồ tát Quan Âm được.

 

PHẦN II

Lời Khấn Bạch

Chúng con, tăng thân xuất gia, hôm nay vào ngày giỗ Sư Tổ … đã tập họp tại chùa … thôn … xã … quận … tỉnh … nước Việt Nam, kính cẩn trình diện trước tổ đường với tất cả lòng dạ chí thành của chúng con, cúi xin các thế hệ tổ sư của chúng con từ bi chứng giám:

Chúng con ý thức cây có cội, nước có nguồn; chúng con biết Bụt và các thế hệ tổ sư là cội nguồn của chúng con và chúng con là sự tiếp nối của liệt vị. Chúng con nguyện tiếp nhận tuệ giác, từ bi và an lạc mà Bụt và chư tổ đã trao truyền; nguyện nắm giữ và bồi đắp không ngừng gia tài tâm linh quý giá ấy. Chúng con nguyện tiếp tục thực hiện chí nguyện độ sinh của liệt vị, nguyện chuyển hóa những khổ đau trong chúng con, giúp được người đương thời chuyển hóa những khổ đau của họ và mở ra cho các thế hệ tương lai những pháp môn thích hợp có khả năng giúp họ đem đạo Bụt áp dụng được vào trong mọi lĩnh vực của sự sống. Chúng con nguyện thực tập để sống an lạc ngay trong giờ phút hiện tại, để nuôi dưỡng chất liệu vững chãi và thảnh thơi trong chúng con và để giúp được những người chung quanh.

Chúng con nguyện nhìn nhận nhau là anh chị em trong một gia đình tâm linh, bởI vì chúng con biết rằng tất cả chúng con đều là con cháu của liệt vị. Chúng con nguyện sẽ chăm sóc cho nhau, thấy được những khó khăn và khổ đau của nhau để hiểu, để thương và để giúp nhau trong công trình chuyển hóa. Chúng con xin hứa sẽ tập sử dụng các hạnh ái ngữ và lắng nghe để nuôi dưỡng tình huynh đệ trong tăng thân, nguyện chấp nhận sự soi sáng của tăng thân để nhận diện những khả năng cũng như những yếu kém của mình mà vun trồng hoặc chuyển hóa, nguyện xóa bỏ mọi hiềm hận để có thể nương vào nhau mà đi trên con đường thành tựu đạo nghiệp. Chúng con biết chỉ khi nào chúng con làm được như thế thì chúng con mới xứng đáng là con cháu của Bụt và của liệt vị tổ sư.

Chúng con cúi xin Sư Tổ cùng tất cả liệt vị tổ sư từ bi chứng minh cho tâm thành kính và hiếu thảo của chúng con như phẩm vật quý giá nhất của sự cúng dường trong ngày giỗ tổ. (lạy ba lạy)

Lời khấn bạch có tác dụng thiết lập và quán chiếu về những liên hệ giữa ta và các vị tổ sư tâm linh. Các vị tổ sư tâm linh không những chỉ có mặt trong tâm thức ta mà còn có mặt trong cơ thể ta nữa, cũng như các vị tổ tiên huyết thống. Ta cảm thấy được sự có mặt của Bụt, của các vị bồ tát, của các vị tổ sư, của sư ông và của thầy ở ngay trong tâm thức và trong thân thể ta, tại vì thân và tâm là hai thực thể không tách rời ra được. Có mặt ở trong thân thì cũng có mặt ở trong tâm. Thực tập là để thấy được tổ tiên huyết thống và tâm linh trong cơ thể và tâm hồn. Mỗi khi ta cầu cứu tổ tiên huyết thống hay tổ tiên tâm linh thì ta có thể tiếp xúc được với tổ tiên huyết thống và tổ tiên tâm linh ngay trong giờ phút chúng ta cầu cứu. Trong truyền thống Việt Nam vào những lúc nguy ngập chúng ta hay tới bàn thờ tổ tiên cầu nguyện ông bà và cha mẹ đã qua đời. Khi cầu nguyện, ta cảm thấy năng lượng của tổ tiên ông bà phát sinh trong ta. Cũng như vậy mỗi khi có những đau buồn, có khó khăn mà ta cầu cứu tới các bậc tổ tiên tâm linh như Bụt là các vị sư tổ, thì ta cũng cảm thấy những năng lượng của các vị phát hiện trong ta. Đó là vì thân và tâm ta đang chứa đựng năng lượng của những gì mà các vị tổ tiên tâm linh đã trao truyền. Vì vậy cho nên chúng ta phải học tiếp xúc với tổ tiên. Trong đời sống hàng ngày có những lúc ta phải cầu cứu tới năng lượng của quý vị. Nếu chúng ta biết cách cầu cứu và tiếp xúc thì tự nhiên những năng lượng của tổ tiên tâm linh ta sẽ phát hiện trong ta và ta sẽ vững chãi hơn, sẽ an bình hơn, sẽ có nhiều trí tuệ hơn và ta sẽ không làm những điều sai lạc. Ta biết con đường của ta đi, ta biết nên làm những gì và không nên làm những gì. Ngày giỗ sư tổ là một cơ hội để chúng ta có thể tiếp xúc được với năng lượng của sư tổ và qua sư tổ ta tiếp nhận được năng lượng của các vị sư tổ khác trong quá khứ. Lời khấn bạch giúp chúng ta quán chiếu và thấy được sự liên hệ giữa ta và các vị tổ sư tâm linh của ta.

Chúng con ý thức được cây có cội, nước có nguồn.

Cội tức là gốc. Cây có cội, nước có nguồn, đó là sự thật khoa học.

Chúng con biết Bụt và các thế hệ tổ sư là cội nguồn của chúng con và chúng con là sự tiếp nối của liệt vị.

Nếu không có Bụt, không có các vị tổ sư thì không có ta và ta sẽ đi trong bóng tối, sẽ không biết những giá trị đạo đức, không biết con đường tâm linh cho nên ta biết các vị tổ sư là cội nguồn của mình. Và nguồn cội là các mà mình có thể tiếp xúc ngay được. Mỗi cái lá, mỗi cái cành phía trên đều được liên hệ trực tiếp với cái cội và những cái rễ bên dưới. Lá và cành biết rất rõ rằng cội rễ là nền tảng của mình. Và giọt nước trong dòng sông biết rằng khởI nguyên của nó là dòng nước từ trên núi chảy xuống, chưa từng có sự đứt đoạn. Mỗi giọt nước khi tiếp xúc sâu sắc với bản thân thấy mình có liên hệ rất mật thiết rất mầu nhiệm với dòng suối đã từ trên núi cao chảy xuống. Chúng ta cũng vậy. Nếu biết tiếp xúc thì ta liên hệ được với Bụt, với các bậc bồ tát và các vị tổ sư một cách rất mật thiết, và niềm tin đó làm cho năng lượng của các vị Bụt, các vị bồ tát và các vị tổ sư phát hiện trong ta. Rất quan trọng.

Chúng con nguyện tiếp nhận tuệ giác, từ bi và an lạc mà Bụt và chư tổ đã trao truyền.

Đây là một điều rất khoa học. Bụt có tuệ giác, từ bi, an lạc và các vị tổ sư, học trò của Bụt, cũng đã thực tập và vì vậy các vị tổ sư qua các thời đại cũng có tuệ giác, từ bi và an lạc. Chúng ta là con cháu quý vị thì thế nào chúng ta cũng đã tiếp nhận những cái đó, nghĩa là tuệ giác, từ bi và an lạc. Có thể chúng ta đã tiếp nhận mà chưa biết đem ra sử dụng, và bây giờ đây là lúc chúng ta học cách đem ra sử dụng những nguồn tuệ giác, từ bi và an lạc ấy của Bụt, bồ tát và các vị tổ sư. Những gì mà thầy ta đã trao truyền có thể rất hay nhưng ta đã chỉ cất chứa mà chưa đem ra sử dụng. Nếu ta biết rằng ta giàu có và ta quyết đem ra sử dụng thì đời đời ta có hạnh phúc.

Nguyện nắm giữ và bồi đắp không ngừng gia tài tâm linh quý giá ấy.

Chúng ta đã tiếp nhận gia tài của các tổ tiên tâm linh và bổn phận của ta là nắm giữ, đừng để cho rơi rụng mất mát và bồi đắp cho cái gia tài đó càng ngày càng thêm giàu có. Hai danh từ nắm giữ và bồi đắp rất quan trọng vì chúng nói lên được thực chất sự thực tập của chúng ta. Thứ nhất là nắm giữ đừng để cho rơi rớt ra ngoài, và thứ hai là phải bồi đắp để cho nó càng ngày càng vững. Nắm giữ cái gia tài mà chúng ta đã tiếp nhận và bồi đắp cho nó, nếu không thì chúng ta sẽ là những đứa con, những đứa cháu bất hiếu với tổ tiên, bất hiếu với Bụt và các vị bồ tát.

Chúng con nguyện tiếp tục thực hiện chí nguyện độ sinh của liệt vị

Chí nguyện của quý vị tổ tiên tâm linh, Bụt và các vị tổ sư là độ sinh, làm thế nào để đưa những chúng sinh đang đau khổ và chìm đắm từ bờ hệ lụy đi sang bờ giải thoát. Sở dĩ chúng ta liên hệ được với các vị là nhờ chúng ta cũng có chí nguyện độ sinh kia, là giúp đời, giúp người, giúp chúng sanh. Nếu ta không có tâm độ sinh thì ta không có dính líu gì tới Bụt, bồ tát và với các vị tổ sư. Nếu ta không có tiếp tục cái chí nguyện độ sinh đó thì ta không trung thành với tổ tiên tâm linh của chúng ta.

Chúng con nguyện tiếp tục thực hiện chí nguyện độ sinh của liệt vị, nguyện chuyển hóa những khổ đau trong chúng con, giúp được người đương thời chuyển hóa những khổ đau của họ…

Nội dung sự thực tập được diễn đạt một cách rõ ràng. Chúng ta là những người có hiếu. Ta muốn được trung kiên với các vị tổ tiên tâm linh của chúng ta. Nhưng làm thế nào để thực sự có hiếu? Phải nói ra một cách rất cụ thể. Thực tập thế nào, sống thế nào để cái hiếu hạnh của chúng ta được biểu lộ? Đó là chuyển hóa những khổ đau trong tự thân của chúng ta và giúp được người đương thời chuyển hóa những khổ đau của họ. Người đương thời tức là người đang sống với ta trong thời đại này, trong năm 1999, trong những ngày cuối cùng của thế kỷ XX và bắt đầu những ngày mới của thế kỷ XXI. Nhìn ra xung quanh ta thấy những người đang sống với chúng ta, đó là những người đương thời. Những người đương thời có những khổ đau của họ, có những loại khổ đau mới mà ngày xưa không có, và chúng ta phải hiểu được, phải nhận diện được những loại khổ đau mới. Thời của Bụt và của các vị tổ sư đã có những khổ đau và những khổ đau đó chúng ta có thể thấy được trong thời hiện tại, nhưng trong thời đại hiện tại chúng ta lại thấy có những khổ đau mới và chúng phải nhận diện chúng. Những chứng bệnh như ung thư, những hệ lụy mới như ma túy, xì ke, những khổ đau gây ra do gia đình tan nát, môi trường sinh sống bị tàn phá, niềm tuyệt vọng vì đánh mất niềm tin. Có rất nhiều nỗi khổ mới ở trong xã hội của chúng ta, và chúng ta phải nhận diện được những khổ đau đó và mở ra cho các thế hệ tương lai những pháp môn mới có khả năng giúp họ đem đạo Bụt áp dụng vào mọi lĩnh vực của sự sống. Độ sinh có nghĩa là giúp cho các loài chúng sanh được bớt khổ, được có an lạc. Trong số những chúng sinh cần được độ có bản thân chúng ta. Chúng ta biết rằng không chuyển hóa được những khổ đau trong tự thân ta thì chúng ta không thể chuyển hóa những khổ đau của người khác. Vì vậy chúng ta luôn luôn bắt đầu bằng việc tự độ và khi thành quả của sự tự độ đã khá thì hành động độ tha mới có kết quả. Cũng như một người đứng trong cái lu thì không thể vần cái lu đi chỗ khác được. Phải nhảy ra ngoài cái lu thì mới vần cái lu đi chỗ khác. Chúng ta cũng vậy, nếu còn bị kẹt trong những khổ đau của bản thân thì chúng ta không thể nào giúp người khác được, không thể độ sinh được.

Đây là tinh hoa của sự thực tập đem đạo Bụt đi vào cuộc đời. Tại vì trong xã hội mới có những khổ đau mới, những khó khăn mới của con người đương thời. Nhìn sâu vào những khổ đau và những khó khăn ấy chúng ta phát kiến ra được phương pháp đối trị với chúng. Nghĩa là khi nào chúng ta chưa thực sự hiểu được sự thật thứ nhất là khổ đế thì ta vẫn chưa thấy được sự thật thứ tư là đạo đế. Cho nên phải thấy được khổ đau thì mới thấy con đường thoát khổ. Đây là một câu kinh, một lời cầu nguyện chứng tỏ rằng chúng ta nắm vững được nguyên tắc của tứ diệu đế. Phải thấy được, hiểu được bản chất của những khó khăn và khổ đau mới thì mới cống hiến được những pháp môn đưa con người hiện đại ra khỏi tình trạng khổ đau và khó khăn. Sự thật thứ tư chỉ có thể thực hiện được khi mà chúng ta nắm vững được sự thật thứ nhất. Đạo đế phát sinh từ sự quán chiếu khổ đế. Pháp môn thích hợp là những phương pháp tu mà khi đem áp dụng thì ta thấy có hiệu quả liền. Tu không có nghĩa là bắt chước và làm theo một cách không thông minh. Tu là phải thấy được những khổ đau của mình, phải chọn những pháp môn thích hợp. Nếu chúng ta nhận diện được những khổ đau và những khó khăn của chúng ta, nếu chúng ta tìm ra được những pháp môn thích hợp thì chỉ nội trong vài ba ngày thực tập là chúng ta đã bắt đầu thấy được sự chuyển hóa trong thân tâm của chúng ta. Vì vậy bốn chữ pháp môn thích hợp rất quan trọng. Chúng ta thấy có những người trẻ đi chùa mà không thấy thoải mái, tại vì những giáo lý được trao truyền cho họ, họ không hiểu được và những pháp môn đưa ra cho họ thực tập, họ thực tập không có hiệu quả. Họ thấy những gì trao truyền cho họ không thích hợp với thân và tâm của họ, và vì vậy họ không muốn đi chùa nữa. Họ thấy đạo Bụt không phải là một cái gì có thể chuyển hóa khổ đau và đem tới sự an lạc cho họ. Tại sao? Tại vì những giáo lý và pháp môn đó không phải là những giáo lý và pháp môn thích hợp. Do đó người tu phải tu tập, học hỏi như thế nào để cống hiến được cho những người đương thời – nghĩa là những người trẻ – những pháp môn tu thích hợp, có khả năng chuyển hóa những khổ đau hiện thực ở trong thân và trong tâm của họ. Đó là chìa khóa. Khi ta tiếp xúc với những người xung quanh, thấy được những khổ đau, những bế tắc, những khó khăn của họ và hiểu được những khổ đau, bế tắc và khó khăn đó thì ta mới có thể thấy được những phương pháp hữu hiệu mà ta có thể đem ra hiến tặng cho họ. Và nhờ đó họ có thể thực tập vượt thoát những khổ đau, bế tắc và khó khăn của họ. Điều này rất quan trọng.

Chúng ta biết rằng trong đạo Bụt có nhiều pháp môn, tám vạn bốn ngàn pháp môn. Tại sao lại phải có nhiều pháp môn như vậy? Tám vạn bốn ngàn pháp môn chưa đủ hay sao mà phải mở ra những pháp môn mới? Tại vì chừng nào còn có những khổ đau, bế tắc và khó khăn mới thì chúng ta còn cần mở ra những pháp môn mới, những pháp môn thích hợp để có thể cứu người cứu đời.

… những pháp môn thích hợp có khả năng giúp họ đem đạo Bụt áp dụng được vào trong mọi lãnh vực của sự sống.

Sự sống có nhiều lĩnh vực như là kinh tế, giáo dục, văn hóa, tôn giáo, … Làm thế nào những pháp môn của đạo Bụt đi được vào tất cả các lĩnh vực đó. Người làm chính trị cũng phải tu học, nếu không họ sẽ gây đau khổ cho họ và gây đau khổ cho những người khác. Nhà thương mại cũng thế. Vì vậy có bao nhiêu lĩnh vực của sự sống là có bấy nhiêu lĩnh vực của sự hành đạo và đạo Bụt mà chúng ta đang nói đây là đạo Bụt nhập thế, đi vào cuộc đời và có mặt trong tất cả mọi lĩnh vực của sự sống, từ kinh tế tới chính trị, xã hội, giáo dục, thương mại và khoa học.

Chúng con nguyện thực tập để sống an lạc ngay trong giờ phút hiện tại, để nuôi dưỡng chất liệu vững chãi và thảnh thơi trong chúng con và để giúp được những người chung quanh.

Trong lời khấn nguyện này chúng ta tiếp xúc được với giáo lý hiện pháp lạc trú. Chúng ta đã được nghe rằng giáo pháp của đức Thế Tôn là vượt thoát thời gian, là đến để mà thấy, là có hiệu nghiệm ngay trong giờ phút hiện tại. Vì vậy tu tập không phải là để cho một hạnh phúc mơ hồ viễn vông nào trong tương lai, mà là để có sự bớt khổ ngay trong hiện tại, và bắt đầu có được hạnh phúc vá an lạc ngay trong giờ phút hiện tại. Giáo pháp mà chỉ hứa hẹn hạnh phúc trong tương lai mà không có khả năng làm vơi bớt sầu khổ trong giờ phút hiện tại thì giáo pháp đó không phải là giáo pháp đích thực của đức Thế Tôn. Giờ phút mà chúng ta biết thở vào và mỉm cười, thở ra và buông thả thì giờ phút đó chúng ta đã bắt đầu bớt khổ rồi. Giờ phút mà chúng ta mở cửa đi thiền hành thì ngay những bước đầu đã đem lại sự thư thái buông thả cho chúng ta. Vì vậy giáo pháp có khả năng đem lại sự chuyển hóa ngay từ khi chúng ta bắt đầu sự thực tập, và sự an lạc đó chúng ta có thể thừa hưởng được ngay trong giờ phút hiện tại. Chúng ta phải đem giáo lý này truyền bá bằng cách tự mình thực tập và khuyên những người xung quanh thực tập. Thực tập như thế nào để mỗi giây phút trong đời sống hàng ngày chúng ta có thể tiếp nhận được những chất liệu nuôi dưỡng ta. Đó là chất liệu vững chãi và thảnh thơi. Nếu không có sự vững chãi và thảnh thơi thì chúng ta không có hạnh phúc. Có thêm yếu tố vững chãi và thảnh thơi chúng ta mới làm chỗ nương tựa cho chính ta, và làm chỗ nương tựa cho những người ta thương được. Còn nếu ta thay đổi hoài như cái chong chóng, nếu ta không có sự bình an và vững chãi trong thân tâm thì ai có thể nhờ cậy được ta. Chính ta cũng không có thể nhờ cậy được ta nữa. Vì vậy phải bước những bước vững chãi, ngồi cho vững chãi, thở cho vững chãi, phải thực tập sự vững chãi đó trong khi nấu ăn, quét dọn, lái xe, làm việc, tưới rau, tiếp khách. Mỗi giây phút của đời sống hàng ngày là để chúng ta thực tập nuôi dưỡng sự vững chãi trong ta. Yếu tố thứ hai là thảnh thơi. Ta không bận rộn quá, không xoay như một con chong chóng, không bị cuộc sống hàng ngày xô đẩy như là một cái nút chai nằm trên mặt nước bị những đợt sóng xô đẩy. Chúng ta phải có tự do. Tự do này không phải là tự do chính trị, mà tự do đối với những sự ràng buộc như là sự tham đắm, vướng mắc, giận hờn, ganh tỵ và si mê. Có những sự bận bịu hàng ngày có tính cách vô ích, không đáng để cho ta bận tâm. Nếu ta đem tâm lực và thì giờ của ta để vào những cái vô nghĩa đó thì rất uổng. Tự do có nghĩa là ta biết cái gì là quan trọng nhất, cái gì có thể đem lại hạnh phúc và an lạc cho ta và cho những người chung quanh và những cái gì thật sự không có ích lợi gì cả, chỉ làm mất thì giờ và năng lượng của ta. Không để bị chìm đắm và lôi cuốn trong những cái đó, thì lúc đó ta bắt đầu có tự do.

Chúng con nguyện nhìn nhận nhau là anh chị em trong một gia đình tâm linh.

Chúng ta gọi nhau là sư anh, sư chị và sư em. Tuy chúng ta đã rời gia đình huyết thống để trở thành người xuất gia nhưng chúng ta vẫn còn một gia đình, đó là gia đình của những người xuất gia cũng gọi là gia đình tâm linh. Sự thực tập của chúng ta là phải làm thế nào để đối xử với người sư anh, sư chị và sư em của ta giống như một người ruột thịt. Thầy của ta cũng như là một người cha hay một người mẹ của ta. Sư anh ta cũng là anh ruột của ta, sư em ta cũng là em ruột của ta. Tu tập như thế nào để cho Tăng thân trở thành một gia đình ấm áp và hạnh phúc, lúc đó chúng ta mới có khả năng tiếp độ và làm chỗ nương tựa cho bao nhiêu người ở bên ngoài. Nếu thất bại trong sự thực tập này thì ta không thể nào làm chỗ nương tựa cho hải chúng mười phương. Vì vậy sự thực tập chuyển hóa liên hệ giữa ta và sư anh, sư chị và sư em là đối tượng trực tiếp của sự tu học. Chúng ta ngồi thiền, thiền hành, nghe pháp thoại, dự pháp đàm, tập thở và tụng kinh là để làm cho liên hệ giữa ta và sư anh, sư chị và sư em trở thành tốt đẹp hơn mỗi ngày. Chúng ta đã biết rằng trong khi tiếp xúc và chung đụng có thể có những khó khăn xảy ra. Người kia có thể có những vụng về, có thể nói những câu thiếu chánh niệm, có thể có những hành động không chánh niệm, và trong ta có thể phát sinh ra một cảm thọ không dễ chịu, cảm thọ đau buồn, hờn tủi. Tu tập là có ý thức về những cảm thọ đang có trong ta và để nhìn sâu vào trong chiều sâu của cảm thọ đó để thấy rõ được những nguyên do nội tại và những nguyên do ngoại tại của chúng. Chúng ta phải nhận diện những nguyên do đó, để có thể chuyển hóa, tu tập, bằng bản thân mình và với sự yểm trợ của tăng thân. Sống trong tăng thân ta phải nhờ tới sư anh, sư chị và sư em của ta. Chuyển hóa một tâm hành phát hiện trong tâm là điều quan trọng nhất, đó là bản chất của sự tu. Tu không có nghĩa là làm việc suốt ngày. Làm việc suốt ngày trong vườn, trong thiền đường, trong bếp hay với máy vi tính đó chưa phải là tu, đó chỉ mới là lao động thôi. Tu như vậy là để cầu phước, nhưng cái phước đó còn rất nhỏ so với cái phước lớn là sự chuyển hóa những tâm hành tiêu cực ở trong ta và giúp những người bạn đạo của ta là các sư anh, sư chị và sư em của ta chuyển hóa được những tâm hành tiêu cực ở trong họ. Khi chuyển hóa được rồi thì đau khổ giảm thiểu, hạnh phúc tăng tiến, điều này chúng ta phải thực hiện mỗi ngày. Khi trong tăng thân đã có sự chuyển hóa, đã có nụ cười và mắt người nào cũng sáng, bước chân của người nào cũng vững chãi thì lúc đó tăng thân trở thành chỗ nương tựa cho hải chúng mười phương và lúc đó chúng ta xứng đáng để tiếp nối sự nghiệp của Bụt, bồ tát và các vị tổ sư. Vì vậy tổ chức có khéo cách mấy đi nữa mà trong tăng thân không có hòa điệu và hạnh phúc thì trung tâm tu học vẫn được xem là thất bại như thường. Tài tổ chức cũng cần, nhưng không phải là căn bản. Căn bản là thiết lập được liên hệ tốt giữa ta và người bạn đồng tu, những người sư anh, sư chị và sư em của ta. Đó là mục tiêu đầu của sự tu tập. Chung đụng với nhau, sống với nhau hai mươi bốn giờ một ngày thì có thể có những tâm hành tiêu cực phát hiện. Nắm lấy những tâm hành tiêu cực ấy, nhận diện và nhìn sâu vào chúng để thấy được những nguyên do nội tại và ngoại tại, những nguyên nhân gần và những nguyên nhân xa. Thấy được rồi thì có thể hiểu, hiểu được rồi thì có thể tha thứ, có thể thương yêu. Cái hiểu đưa tới sự chấp nhận và thương yêu. Thương yêu ở đây là năng lượng từ bi, tha thứ và ý hướng muốn đem lại hạnh phúc cho người kia và cho chính mình.

Người kia rất dễ thương, tu tập rất đàng hoàng, nói năng hòa nhã, ánh mắt dịu hiền. Thương người đó là chuyện quá dễ. Nhưng nếu người kia ánh mắt còn chưa được dễ thương, lời nói còn chưa được dễ thương và hành động cũng chưa được dễ thương mà ta thương được, chấp nhận được thì điều đó chứng tỏ rằng ta thực tập giỏi và đã có thành công. Khi chấp nhận được và thương được người đó thì người ấy bắt đầu có sự chuyển hóa, đó là một sự thành công lớn. Có khi người thương không dễ thương nhưng nếu ta thương được thì trong lòng ta sẽ thấy khỏe và người thương sẽ trở thành thực sự dễ thương. Ta có thể viết trong nhật ký Người thương ơi! Hôm nay em không dễ thương nhưng mà tôi vẫn thương! Nếu tôi không thương được em thì đó là một sự thất bại của chính tôi trong sự tu tập.

Chúng con nguyện nhìn nhận nhau là anh chị em trong một gia đình tâm linh.
Điều này tôi hay lặp lại trong các trung tâm tu học mà tôi đã viếng thăm. Ở Âu châu cũng như Mỹ châu có nhiều trung tâm tu học, nhiều thiền viện thuộc nhiều truyền thống khác nhau. Họ tổ chức rất giỏi và Làng Mai đã học được nhiều phương pháp tổ chức của họ. Nhưng tổ chức giỏi không có nghĩa là ta đã thành công được trong sự tu tập. Mỗi người sống trong trung tâm tu học có thể vẫn còn là mỗi ốc đảo không có liên hệ được với nhau nhiều. Sự truyền thông giữa người thực tập này với người thực tập kia nếu không có thì sự thương yêu, chấp nhận và niềm vui không được tỏa rạng. Sự thực tập bề ngoài có thể được coi như rất nghiêm chỉnh nhưng sự thực tập đó không có kết quả, tại vì khi bước vào thiền viện ta không thấy được niềm vui, sự thương yêu và không thấy được không khí hạnh phúc của một gia đình. Dầu được tổ chức khéo, trung tâm ấy vẫn là một sự thất bại lớn. Cho nên tôi thường nhắc quý vị phải tổ chức trung tâm tu học của mình như thế nào để nó trở thành một gia đình thì mới thành công. Chừng nào chúng ta không sống được với nhau như là một gia đình thì chừng đó sự thực tập của chúng ta còn thất bại.

Chúng con nguyện nhìn nhận nhau là anh chị em trong một gia đình tâm linh, bởI vì chúng con biết rằng tất cả chúng con đều là con cháu của liệt vị.

Điều này là một sự thật, vì tất cả chúng ta đều là con cháu của Bụt và các vị tổ sư.

Chúng con nguyện sẽ chăm sóc cho nhau, thấy được những khó khăn và khổ đau của nhau để hiểu, để thương và để giúp nhau trong công trình chuyển hóa.

Ta có những khó khăn và khổ đau, và ta muốn người khác thấy được những khó khăn và khổ đau của ta. Người khác cũng có những khó khăn và khổ đau của họ, chúng ta phải làm thế nào để thấy được những khó khăn và khổ đau của họ. Muốn đưọc như vậy ta phải quán chiếu và xin người đó nói cho ta nghe những khó khăn và khổ đau của người đó. Nếu người ấy không nói được thì ta phải hỏi, phải nhờ người khác ở trong tăng thân giúp ta, và mỗi khi ta thấy được những khó khăn và khổ đau của người đó rồi thì ta có thể thực tập hiểu và thương, giúp người đó trong công trình chuyển hóa. Người đó chuyển hóa được thì ta có hạnh phúc thêm và lại giúp được người đó chuyển hóa thêm nữa. Nói luôn luôn phải dùng phép ái ngữ và nghe thì nên thực tập phép bi thính, tức là nghe với lòng từ bi, nghe bằng năng lượng chánh niệm nằm sau lỗ tai. Hai hạnh đó có thể nuôi dưỡng tình huynh đệ trong tăng thân.

Nguyện chấp nhận sự soi sáng của tăng thân để nhận diện những khả năng cũng như những yếu kém của mình mà vun trồng hoặc chuyển hóa.

Tại Làng Mai, chúng ta có pháp môn soi sáng. Tăng thân họp lại để soi sáng cho ta, soi sáng với tất cả từ bi. Trong những lá thư soi sáng, tăng thân rất cẩn thận, nói rằng cái thấy của tăng thân là như vậy, có thể có một vài khuyết điểm, có thể tăng thân chưa thấy hết được những điểm tích cực của đương sự và tăng thân có thể còn có một vài tri giác chưa hoàn toàn chính xác. Lá thơ chứng tỏ rằng tăng thân có đức khiêm cung và làm việc soi sáng cho ta với tất cả sự thương yêu. Soi sáng không có nghĩa là chỉ trích, tại vì trong công trình thực tập soi sáng này tất cả mọi người đều được soi sáng. Đại chúng họp lại để soi sáng cho một sư anh, một sư chị hay một sư em về những ưu điểm và khuyết điểm trong sự tu tập của người đó. Và mỗi khi nói tới một ưu điểm của đương sự thì mọi người trong đại chúng lại có cơ hội nhìn lại xem thử mình có ưu điểm ấy trong tự thân mình hay không. Nếu có thì ta phát tâm hân hoan, và ta tự hứa rằng sẽ cố gắng để làm cho ưu điểm đó lớn lên nữa. Nếu thấy ưu điểm đó của đương sự không có ở trong ta thì ta cảm thấy hổ thẹn và tự dặn lòng là ta sẽ làm thế nào để phát triển ưu điểm đó trong bản thân của mình. Soi sáng là soi sáng cho cả hai phía. Soi sáng ở đây không có nghĩa là phán xét, lên án hoặc chỉ trích. Khi ta nói đến một khuyết điểm của đương sự thì ta cũng có cơ hội để nhìn vào bản thân để xem có khuyết điểm đó hay không. Nếu ta cũng có khuyết điểm đó thì ta cũng nói như vậy: sư em có khuyết điểm đó nhưng trong tăng thân cũng có người có khuyết điểm đó. Và khi ta thấy có khuyết điểm đó thì ta phải biết tu tập để chuyển hóa điểm tiêu cực ấy trong bản thân.

Nguyện chấp nhận sự soi sáng của tăng thân, nguyện xóa bỏ mọi hiềm hận để có thể nương vào nhau mà đi trên con đường thành tựu đạo nghiệp

Không những ta chấp nhận mà ta còn cần phải lạy xuống để cầu tăng thân soi sáng thêm cho ta. Tại Làng Mai pháp môn soi sáng đã trở thành một pháp môn rất quan trọng, không những các sư em mới tu được soi sáng, mà các sư anh và sư chị đã tu lâu năm cũng được soi sáng. Chính sư cô Chân Đức một vị giáo thọ lớn của Làng, hiện làm trú trì của đạo tràng Thanh Sơn, làm thầy của tất cả các sư em cũng đã quỳ xuống để cầu tăng thân soi sáng cho mình. Vậy thì chúng ta biết rằng pháp môn soi sáng là để cho tất cả mọi người, chứ không phải là chỉ để cho những người mới tu mà thôi. Tại đạo tràng Mai Thôn cũng như đạo tràng Thanh Sơn, những năm gần đây, chúng ta đã chứng kiến những buổI soi sáng rất đầm ấm, hạnh phúc, chúng ta cũng đã chứng kiến cảnh tượng những người được tiếp nhận soi sáng và thấy được đối tượng chính của sự hành trì chuyển hóa của họ và đạt tới sự chuyển hóa rất mau chóng sau khi được soi sáng.

Tu tập là để chuyển hóa những buồn phiền, ganh tức và phiền não trong ta. Sự chuyển hóa này có công năng tạo ra không khí đầm ấm vì hạnh phúc có công năng nuôi dưỡng mọi người. Ta phải quyết tâm chuyển hóa buồn phiền để nương vào nhau mà đi trên con đường thành tựu đạo nghiệp. Nếu ta thất bại trong tăng thân của ta thì ta sẽ thất bại trong sự nghiệp hoằng pháp sau này. Cho nên ta phải thành công trong sự tạo ra hạnh phúc và hòa điệu trong tăng thân. Hòa điệu và hạnh phúc ấy là cái mà người ta tới có thấy ngay được. Nếu ta không có hòa điệu thì ta có giấu cách mấy thì người ta cũng thấy. Nếu ta không có hạnh phúc mà giả bộ có hạnh phúc thì nội trong một vài giờ người ta cũng thấy. Hòa điệu và hạnh phúc là những cái ta có thể chế tác ra trong mỗi giờ phút của đời sống hàng ngày. Tất cả chúng ta ở đây, vị nào cũng có tâm niệm tu tập chuyển hóa để cho mọi hiềm hận của mình đối với người khác được chuyển hóa, và để cho tăng thân được an lạc, để cho hạnh phúc và hòa điệu trở thành niềm vui cho tăng thân và cho những người tới với tăng thân.

Chúng con biết chỉ khi nào chúng con làm được như thế thì chúng con mới xứng đáng là con cháu của Bụt và của liệt vị tổ sư.

Câu này là câu kết luận, rất quan trọng. Trong Thánh kinh cũng có một câu tương tự: trước khi anh dâng lễ vật lên bàn thờ của Thượng Đế thì anh phải trở về hòa giải với người anh em của anh. Nếu anh chưa hòa giải được với người anh em của anh thì hãy khoan dâng lễ vật của anh lên bàn thờ Thượng Đế. Ở đây chúng ta cũng có một tuệ giác tương tự. Nếu chúng ta không tha thứ cho nhau, không chấp nhận nhau, nếu chúng ta sống không có an lạc với nhau thì chúng ta lạy trước Bụt và các vị tổ sư là không có ý nghĩa. Điều này tôi thấy rất rõ trong tăng thân. Vị nào trong tăng thân có hòa hợp, có hạnh phúc với đại chúng thì liên hệ giữa vị đó với Thầy trở thành tự nhiên, rất dễ dàng, không cần phải có một cố gắng nào cả. Trong khi đó vị nào có khó khăn với chúng, liên hệ với chúng không dễ dàng thì tự nhiên cũng cảm thấy với Thầy có một cái gì ngăn cách. Cái ngăn cách đó không phải do Thầy tạo ra, mà tại vì đương sự cảm thấy như vậy. Có chánh niệm một chút quý vị sẽ thấy khi nào mình có liên hệ tốt với tăng thân thì cũng cảm thấy rất gần với Thầy, và tới với Thầy một cách rất là dễ dàng. Tại sao? Tại vì Thầy cũng là tăng thân, tăng thân cũng là Thầy. Không phải là gần gũi Thầy, nấu cơm cho Thầy, pha trà, giặt áo cho Thầy mà mình gần Thầy hơn đâu. Có thể là mình mỗi tháng chưa được gặp Thầy một lần, nhưng mình vẫn cảm thấy rất gần gũi Thầy. Có những vị vì công vụ tăng thân giao phó khá nhiều, không có thì giờ để gần gũi Thầy, nhưng những vị đó đối với Thầy luôn luôn cảm thấy rất gần gũi. Vì vậy sự gần gũi Thầy không phải được đo bằng thời gian ở bên Thầy, mà được đo bằng sự liên hệ giữa mình với những thành phần khác của tăng thân. Dầu mình ở rất xa như là bên Úc, không được nói chuyện với Thầy, không được gần gũi Thầy, nhưng nếu đối với tăng thân mà có hạnh phúc thì mình cũng có cảm tưởng Thầy với mình ở trong gang tấc mà thôi. Xin quý vị quán chiếu thì sẽ thấy. Khi ta lạy xuống trước các vị tổ sư mà cảm thấy có hạnh phúc thì ta biết rằng liên hệ giữa ta với tăng thân của ta đã tốt. Còn nếu liên hệ giữa ta với tăng thân không tốt thì dầu có lạy xuống 108 lạy ta vẫn không có hạnh phúc.

Chúng con cúi xin Sư Tổ cùng tất cả liệt vị tổ sư từ bi chứng minh cho tâm thành kính và hiếu thảo của chúng con như phẩm vật quý giá nhất của sự cúng dường trong ngày giỗ tổ.

Cố nhiên là trong ngày giỗ tổ ta dâng hoa, hương, trái cây và thực phẩm nhưng mà phẩm vật cúng dường quý báu nhất là tâm thành kính và hiếu thảo của ta. Tâm thành kính và hiếu thảo đó được biểu lộ một cách rõ ràng ở chỗ ta sống hài hòa và hạnh phúc với những người trong tăng thân.
Bây giờ chúng ta đi sang phần tán dương vị tổ sư.

Nâng hoa ngộ chỉ
Nối gót tôn sư
Lâu đài pháp nhiệm diễn chân thừa
Thiền đạo nhiếp tâm tu
Hiện pháp lạc cư
Chánh pháp sáng hơn xưa.

Nam mô liệt vị Bồ Tát tổ sư qua các triều đại (C)

Đây là một bài tán, và ta có thể tán theo điệu truyền thống của thiền môn.
Nâng hoa ngộ chỉ, là nói về truyền thuyết về đức Thế Tôn một hôm ở trong hội Linh Sơn, đến giờ thuyết pháp ngài nâng trên tay một đóa hoa. Thay vì nói, ngài chỉ mỉm cười rồi nhìn đại chúng. Đó là nâng hoa (niêm hoa). Ngài giữ nụ cười của ngài rất bền, trong một lúc ngài không nói một tiếng nào hết. Đại chúng không biết tại sao đức Thế Tôn im lặng lâu như vậy. Trong đại chúng có một thầy tên là Ca Diếp thấm được nụ cười đó và hiểu được tông chỉ của đức Thích Ca. Đó gọi là ngộ chỉ, tức là bừng tỉnh, và thấy được nội dung của sự trao truyền của đức Thế Tôn, gọi là nâng hoa ngộ chỉ. Đức Thế Tôn đang trao truyền một tông chỉ gì đó, mà ngài trao truyền bằng sự im lặng, bằng một bông hoa và một nụ cười. Chúng ta có thể hiểu rằng bông hoa là tượng trưng, là đại diện cho sự mầu nhiệm của sự sống. Đức Thế Tôn có mặt, tất cả mọi người trong tăng thân đều có mặt, giờ phút này quý báu. Đức Thế Tôn đưa cành hoa lên. Nếu an trú trong hiện tại thì ta sẽ thấy rõ đây là một cảnh tượng rất mầu nhiệm. Đức Thế Tôn còn sống, đang nâng cành hoa lên và tất cả đại chúng đang có mặt đó. An trú trong hiện pháp thì mọi người sẽ thấy đó đã là một sự mầu nhiệm lớn lao rồi. Nếu ta có khuynh hướng suy nghĩ thì ta sẽ đặt ra hàng ngàn câu hỏi trong đầu: Hôm nay Đức Thế Tôn làm gì lạ vậy? Có ý nghĩa gì trong sự nâng hoa đó không? Chìm đắm trong suy tư về siêu hình và triết học và như vậy ta đánh mất hết sự mầu nhiệm. Ta không thấy rằng Đức Thế Tôn là một mầu nhiệm và bông hoa là một mầu nhiệm, nụ cười của ngài là một mầu nhiệm, và sự có mặt của đại chúng trên núi Thứu cũng là một mầu nhiệm. Chừng đó không đủ sao? Nếu ta có khả năng sống trong giây phút hiện tại thì trong giây phút đó ta không cần phải suy nghĩ, phải đặt câu hỏi. Vì vậy cái người đứng trong chúng mà hiểu được nụ cười của Bụt cũng đã đáp ứng lại bằng một nụ cười, đức Thế Tôn cầm hoa mỉm cười thì mình cũng mỉm cười lại với đức Thế Tôn. Đâu có cần làm gì khác. Người đó là người khôn khéo nhất ở trong đại chúng. Người đó không suy nghĩ về quá khứ, về tương lai, người đó tiếp xúc được với cảnh tượng đẹp đẽ mầu nhiệm nhất ở trong hiện tại. Đó là tông chỉ của thiền. Và cũng vì lẽ đó trong thiền tông người ta nhận thầy Ca Diếp làm vị tổ đầu tiên của thiền tông là tại vì thầy không cần nói, không cần nghe mà vẫn tiếp nhận được giáo chỉ của Bụt.

Nâng hoa ngộ chỉ
Nối gót tôn sư.

Có nghĩa là đi theo các bậc thầy tôn kính của mình. Các bậc thầy của chúng ta đi trước và ta cứ chỉ đi theo thôi. Đó là nối gót tôn sư.

Lâu đài pháp nhiệm diễn chân thừa
Thiền đạo nhiếp tâm tu

Truyền thống đó kéo dài từ thời của đức Thế Tôn cho đến bây giờ, không bao giờ bị đứt đoạn, đó là sự truyền thừa tu tập. Pháp nhiệm tức là giáo pháp mầu nhiệm, diễn chân thừa là trình bày ra được cái giáo lý, cái cỗ xe chân chính. Chân tức là chính thống, không hỗn tạp, không phải tà đạo mà là chánh tông. Thừa tức là cỗ xe, là con đường, mà cỗ xe đó chở được rất nhiều người từ bến mê tới bờ giác, con đường đó đưa ta từ chỗ khổ đau tới hạnh phúc. Giáo pháp diễn đạt được con đường chân chính của đức Thế Tôn, giáo pháp đó được kéo dài là nhờ ta thực tập thiền đạo, nhiếp tâm tu. Đem hết tâm tư đi vào con đường thiền gọi là thiền đạo nhiếp tâm tu. Chúng ta cần hiểu chữ thiền ở đây không có nghĩa là phe phái, không phải là thiền công án hay là thiền mặc chiếu, không phải là thiền Trung Quốc, không phải là thiền Tổ Sư. Thiền ở đây là nói chung cho sự thực tập của tất cả các Phật tử, tức là sự thực tập của đức Thế Tôn dạy. Khi nào ta thực tập giới, định và tuệ (tam học), tức là ta đã thực tập thiền rồi. Có tông phái nào trong Phật giáo mà không thực tập giới, niệm, định và tuệ không? Trong Tịnh Độ cũng có sự thực tập giới, niệm, định và tuệ, và như vậy Tịnh Độ cũng là thiền. Khi nào có giới, niệm, định và tuệ thì lúc đó là có thiền rồi. Thiền được hiểu theo nghĩa rộng đó. Lâu nay chúng ta đã tranh chấp, đã nói vào ra, qua lại về sự khác nhau giữa thiền và không phải thiền là tại vì chúng ta nghĩ thiền đó là thiền tổ sư ở Đông Độ, nhưng chữ thiền ở đây có nghĩa là sự thực tập giới, niệm, định và tuệ. Ngay trong đạo Bụt nguyên thỉ chúng ta đã có thiền Tứ Niệm Xứ là phương pháp thực tập giới, niệm, định và tuệ và phương pháp An Ban Thủ Ý. Tất cả những pháp đó đều thuộc về thiền nguyên thỉ cả mà thiền nguyên thỉ có thể được nhận diện trong các hệ phái truyền thiền khác như là thiền Mặc Chiếu, thiền Công Án, thiền Tào Động, thiền Lâm Tế, thiền Pháp Nhãn, thiền Vân Môn, v.v.. Vì vậy chúng ta phải hiểu chữ thiền ở đây không phải là một cái gì đối lập với Tịnh Độ mà nó bao trùm được cả Tịnh Độ, bao trùm được cả Mật Tông, bao trùm được cả Thiên Thai tông, tức là bao trùm tất cả các tông phái Phật giáo. Không có giới, niệm, định và tuệ, không có tam học thì không phải là Phật giáo, và thiền ở đây chỉ có nghĩa là sự thực tập giới, niệm, định và tuệ mà thôi. Thiền đạo là con đường thiền ta phải nhiếp tâm để tu học.

Hiện pháp lạc cư tức là sống an lạc, hạnh phúc ngay trong giờ phút hiện tại. Bản in đầu của sách Thiền Môn Nhật Tụng đã bỏ sót bốn chữ hiện pháp lạc cư này, chúng ta nên thêm vào cho đủ.

Chánh pháp sáng hơn xưa

Nhờ sự tu tập hết lòng mà giáo pháp của đức Thế Tôn càng ngày càng sáng và cung cấp rất nhiều ánh sáng cho thế giới đầy khổ đau và bế tắc của chúng ta trong hiện tại.

Thân thể là đền thờ tâm linh

(Trích pháp thoại của Sư Ông Làng Mai)

 

Ngày xưa, việc cưới vợ lấy chồng là vấn đề của đại gia đình. Nhưng bây giờ, người trẻ nghĩ đó là vấn đề của riêng họ. Đứng về phương diện tâm lý, gia đình nhỏ ngày nay không còn được vững chãi như ngày xưa nữa, nguy cơ tan vỡ của nó rất lớn. Nếu sống trong mạng lưới đại gia đình ngày xưa, mình sẽ được bảo vệ nhiều hơn. Bởi nếu mình có những quyết định bồng bột, sai đường thì sẽ được những thành viên trong gia đình kể cả những em nhỏ của mình giúp định hướng lại. Bây giờ thì ngược lại, mình muốn làm gì thì làm, muốn đi đâu thì đi, mình không muốn nghe theo ai hết.

Trong thập niên 60 đã xảy ra một cuộc cách mạng về tình dục với sự xuất hiện của thuốc ngừa thai. Nó đã làm thay đổi xã hội rất nhiều. Phong trào này bắt đầu từ các trường đại học tại Mỹ, tại Pháp. Những cô thiếu nữ cũng đòi có tự do về tình dục. Họ nghĩ rằng, đàn ông có tự do về tình dục, tại sao họ lại không được? Trước đây, người phụ nữ phải gánh chịu phần lớn hậu quả của chuyện phóng túng tình dục, còn đàn ông, sau khi xong chuyện thì phủi tay trốn chạy. Nhưng với sự xuất hiện của thuốc ngừa thai đã làm đảo lộn quan điểm của rất nhiều người về tình dục. Ban đầu, bác sĩ chỉ áp dụng thuốc ngừa thai đối với những cặp vợ chống không muốn có con. Nhưng sau đó thì được sử dụng tràn lan, không còn mục đích rõ ràng. Cuộc cách mạng tình dục đã tạo phản ứng rất mạnh từ giới bảo thủ. Nhưng đối với những người phụ nữ trẻ thì họ thấy đây là cơ hội cho họ được giải phóng. Trong truyền thống, nếu người phụ nữ không có chồng mà có mang thì chịu sự trừng phạt rất nặng, có thể bị ném đá cho tới chết, có thể bị bỏ bè trôi sông. Trong khi đó, người đàn ông không bị truy cứu hoặc có thể trốn chạy. Đây là một sự bất công lớn.

Năm 1962, Mỹ có 1.200.000 người dùng thuốc ngừa thai. Nhà chức trách ngăn cản phong trào này bằng cách, bác sĩ sẽ không cấp thuốc ngừa thai cho những phụ nữ không chồng. Nhưng làm vậy cũng không ngăn cản nổi phong trào này. Nhiều gia đình tan nát, vợ chồng thù hận nhau vì chuyện ngoại tình không chung thủy. Những đứa con trong những gia đình ấy rất khổ đau. Trong giới thứ 3 của năm giới giành cho các vị cư sĩ có nói rất rõ: “Ý thức được những khổ đau do thói tà dâm gây ra, con xin học theo tinh thần trách nhiệm để giúp bảo vệ tiết hạnh và sự an toàn của mọi người và mọi gia đình trong xã hội. Con nguyện không ăn nằm với những người không phải là vợ hay chồng của con” .

Theo tuệ giác của đạo Bụt, thân và tâm không tách biệt. Nếu thân bị ô nhiễm thì tâm cũng trở nên chán chường, ô nhiễm và thương tích. Nếu thân được nguyên vẹn thì tâm cũng được nguyên vẹn. Trong giới tiếp hiện, có đề cập đến thân như đền thờ tâm linh. Thân cũng linh thiêng như tâm vậy. Nếu thân không còn linh thiêng thì tâm cũng không còn linh thiêng nữa. Mình cần gìn giữ thân như việc gìn giữ tâm và ngược lại.  Có lẽ trong quá khứ, quan niệm về sự gìn giữ thân và tâm giữa Tây phương và Đông phương không khác biệt là bao nhiêu.

Thông thường, mình chỉ chia sẻ những gì sâu kín nhất trong tâm mình với người mà mình tin tưởng, với người tri kỷ. Đối với thân thể của mình cũng vậy. Nếu không có tình yêu sâu sắc với một người thì mình không bao giờ phó thác cái thân này cho người ấy. Do vậy, tình yêu trở thành rất thiêng liêng. Nó nuôi dưỡng được cả hai phía yêu nhau. Nếu coi xác thân người kia là dụng cụ phục vụ cho sự khoái lạc của mình thì tình yêu bị đánh mất đi yếu tố linh thiêng.

Người Đông phương rất coi trọng việc giữ gìn thân thể của mình. Khi bị lạm dụng trong chuyện tình dục, họ có cảm tưởng như bị đánh mất đi những gì rất quý giá của đời mình. Đối với những em bé gái, bé trai khi bị lạm dụng, các em đau khổ rất nhiều, và niềm đau ấy có thể đeo đuổi suốt cuộc đời của các em. Cơ thể của mình có những vùng linh thiêng mà không có ai được quyền chạm tới. Sự toàn vẹn của cơ thể có liên hệ tới sự toàn vẹn của tâm hồn.

 

 

Cái thấy thân tâm nhất như rất quan trọng. Thân nằm trong tâm và tâm nằm trong thân. Nếu không kính trọng thân thể thì không thể nào kính trọng được tâm hồn. Thân thể không thể là một món đồ chơi của chính mình và người khác. Điều này có liên hệ đến hạnh phúc của mình và con cháu của mình. Giữ gìn thân thể không phải chỉ để cho riêng mình mà còn cho con cháu của mình nữa.

Giới thứ ba có liên hệ đến tình yêu, và sự liên hệ giữa hai người đứng về phương diện tình dục. Đức Thế Tôn dạy về tình yêu rất sâu sắc và đầy đủ. Tình yêu chân thật có chứa những yếu tố: từ, bi, hỷ và xả. Phải thấy mình và người kia là một. Những khổ đau của người kia là những khổ đau của mình, và khổ đau của mình cũng là khổ đau của người kia. Mình không loại trừ người kia ra khỏi hạnh phúc và khổ đau của mình. Muốn xây dựng tình yêu chân thật thì phải thực tập giới thứ ba. Đi tìm thú vui trong tình dục mà phá đổ những yếu tố của tình thương đích thực, là phạm giới. Phải thấy rằng, sự an ninh và toàn vẹn của người kia là sự an ninh và toàn vẹn của chính mình. Phải thấy rằng, cái thân và cái tâm của người kia là nơi linh thiêng, và cần phải tôn trọng thì lúc đó tình thương chân thật mới thật sự có mặt. Sự toàn vẹn của cơ thể liên hệ tới sự toàn vẹn của tâm hồn. Với nền văn hóa xưa thì mình chỉ giao phó thân tâm cho người kia khi người ấy trở thành bạn tri kỷ của đời mình.

Tuy hai người đã cưới nhau, nhưng vẫn phải luôn luôn kính trọng lẫn nhau, không được có những cử chỉ, hành động thô lỗ với người bạn hôn phối. Phải thấy, thân thể của mình cũng linh thiêng như của người kia, và mình vẫn tiếp tục khám phá ra những cái hay cái đẹp ở nơi người kia thì lúc đó tình yêu mới kéo dài được. Tình yêu là một quá trình của sự khám phá, đi tìm khoái lạc trong tình dục sẽ chỉ làm phá vỡ hạnh phúc mà thôi. Tuổi trẻ bây giờ không được hướng dẫn về tình yêu, nhà trường chỉ dạy về sinh học thôi, nên các bạn trẻ biết tình dục mà chưa kịp biết tình yêu. Các nhà giáo dục cần xét lại điều này. Nếu chỉ dạy cho học trò về sinh học mà không dạy về tình thương thì e rằng, cái đẹp, cái linh thiêng nơi họ sẽ bị đánh mất.

Trong xã hội ngày nay, năng lượng tình dục quá nhiều, những hình ảnh, âm thanh độc hại trong sách báo, truyện trò tràn lan. Vì vậy chúng ta phải nguyện học hỏi những phương pháp thích ứng để chăm sóc năng lượng tình dục của mình. Người nào cũng có năng lượng tình dục, và chính Đức Thế Tôn cũng có năng lượng tình dục. Ngài thành đạo hồi 35 tuổi, và dĩ nhiên ngài vẫn còn những năng lượng tình dục, nhưng ngài biết cách chăm sóc năng lượng ấy nên nó không gây hại đến ngài. Ngài đã biết hướng toàn bộ năng lượng của ngài về phía độ đời, thương người.

Vậy chúng ta cần chăm sóc năng lượng tình dục ấy thế nào? Chuyện ăn uống cũng có liên quan đến năng lượng tình dục. Người xuất gia không còn làm chuyện dâm dục, nhưng làm thế nào để quản lý năng lượng ấy? Bụt có dạy, người xuất gia không ăn mặn, không uống rượu. Đây là một phương pháp rất hay để hỗ trợ cho việc quản lý năng lượng này. Bên đạo Bụt nguyên thủy, mỗi ngày các thầy, các sư cô chỉ ăn một bữa vào buổi trưa, đây cũng là phương pháp hay. Trước khi ăn, mình luôn nhớ, ăn như thế nào cho có chừng mực và điều độ. Mỗi thầy, mỗi sư cô đều có chiếc bình bát để làm ứng lượng khí. Khi lấy thức ăn phải chừng mực, phải nhận diện được tâm hành tham ăn của mình. Chuyện ăn uống có ảnh hưởng rất quan trọng đến năng lượng tình dục.

 

 

Trong đạo Bụt còn có phương pháp đệ nhị thân, tức là không được đi ra ngoài một mình, không chuyện trò với người khác phái một mình, mà phải luôn có một người cùng giới bên cạnh để bảo hộ. Đây cũng là một phương pháp hữu hiệu để quản lý năng lượng tình dục khi đi ra ngoài. Ngoài ra, thực tập sám pháp và thực tập khí công cũng là những cách chăm sóc những năng lượng tình dục. Không phải chỉ người xuất gia mới học hỏi phương pháp thích ứng để chăm sóc năng lượng tình dục của mình mà người tại gia cũng phải học. Bởi những người tại gia trong cuộc sống hằng ngày tiếp xúc quá nhiều với những yếu tố kích thích như phim ảnh, sách báo, âm thanh… Do vậy, người tại gia thực tập vấn đề chăm sóc năng lượng tình dục khó hơn nhiều so với người xuất gia. Giới tà dâm đôi khi lại khó thực hiện hơn giới bất dâm. Bất dâm là hoàn toàn không có dâm dục, còn giới tà dâm là chỉ có liên hệ với vợ hay chồng của mình thôi. Người cư sĩ cũng phải ăn uống như thế nào để không chế tác quá nhiều năng lượng tình dục…

Thực tập giới là giúp bảo hộ đem lại cho mình bình an và hạnh phúc. Trong giới bản năm giới mới chúng ta sẽ bổ xung thêm vào giới thứ ba như sau: “Con nguyện học hỏi những phương pháp thích ứng để chăm sóc năng lượng tình dục của con, để thấy được tính bất nhị của thân và của tâm” – thân và tâm là một. Nếu không kính trọng thân là cũng không kính trọng tâm. Những điều này phải học hỏi và thực tập mới thấy được, chứ không phải chỉ đọc là đã hiểu. Sau khi thọ giới, người hành trì giới phải pháp đàm và học hỏi một tháng hai lần. Tu tập để chế tác thêm các chất liệu từ bi hỷ xả. Bốn yếu tố căn bản của tình yêu chân thật có công năng làm lớn lên hạnh phúc của mình và của người khác. Xã hội ngày nay, tình yêu thì ít mà tình dục thì nhiều. Do vậy mà khổ đau trong gia đình, xã hội rất lớn. Mỗi người cần phải tập chế tác tình yêu chân thật, để làm giảm thiểu năng lượng tình dục nơi mình và nơi người kia.

 

Ngon và lành

(Pháp thoại của Sư ông Làng Mai ngày 13 tháng 01 năm 2011)
 

 

Trước khi ăn cơm, mình chúc người kia ăn ngon. Trước khi ngủ mình cũng chúc người kia ngủ ngon. Khi đi thiền hành mình cũng có thể chúc “chị đi thiền hành ngon”, ngồi thiền thì mình chúc “chị ngồi thiền ngon”.

Trong tiếng Việt chữ “ngon” thường đi đôi với chữ “lành”. Cái ngon phải đi với cái lành cho nên chúng ta phải làm thế nào để cái ngon có nghĩa là cái lành. “Ngon” có nghĩa là ăn như thế nào để có sức khỏe, để đừng tàn phá cơ thể và sinh môi.

Trong đời sống tu tập, mình phải làm thế nào để buổi ngồi thiền vừa ngon vừa lành tức mình tận hưởng mỗi giây phút của giờ ngồi thiền, làm cho buổi ngồi thiền có tính cách nuôi dưỡng và trị liệu. “Chúc chị có buổi ngồi thiền ngon lành!” Trong khi ngồi thiền, mình theo dõi hơi thở, buông thư và quán chiếu. Mình sử dụng hơi thở, thân và tâm ý để làm cho mỗi giây phút của buổi ngồi thiền được lành. Trong buổi ngồi thiền, nếu mình chưa hưởng được cái ngon lành đó là mình chưa biết ngồi thiền, mình phải học thêm tại vì ngồi thiền là một sự tiêu thụ giống như ăn cơm vậy. Nếu mình chưa thấy hạnh phúc lắm, chưa thấy nuôi dưỡng, chưa thấy ngon lành trong buổi ngồi thiền thì mình phải tham khảo với các sư anh, sư chị và các bạn đồng tu để có thể tận hưởng hạnh phúc của giây phút ngồi thiền.

Sống trong tu viện, mình có được quyền lợi tiêu thụ một bữa ngồi thiền sáng, một bữa ngồi thiền chiều. Đó là quyền lợi mà mình phải tận hưởng. Trong một bữa cơm, mình phải biết nghệ thuật tiêu thụ thì bữa cơm đó mới ngon lành và bổ dưỡng. Cũng như vậy, mình phải chuẩn bị buổi ngồi thiền để đừng bị uổng phí, mình phải sử dụng hơi thở, thân và tâm cho khéo để giây phút của buổi thiền tọa trở nên ngon lành, nuôi dưỡng và phát khởi được niềm vui, hạnh phúc, tình thương.

Ăn cơm không phải chỉ để có chất bổ dưỡng cho cơ thể mà thôi. Bữa ăn cơm, dù là ăn sáng hay ăn trưa, cũng phải ngon và lành. Mình phải có hạnh phúc trong khi ăn sáng, trong khi ăn trưa. Tại Làng Mai mình được dạy rất kỹ làm thế nào để có hạnh phúc, có nuôi dưỡng trong khi ăn, làm thế nào để bữa ăn vừa ngon vừa lành. Hôm chủ nhật đi khất thực tôi thấy trên bàn có hai chai tương ớt. Tương ớt có thể ngon nhưng không lành và mình muốn lấy hai chai tương ớt bỏ vào thùng rác. Ngon thì phải lành, nếu chưa lành thì chưa ngon.

Trước khi ăn mình thực tập “năm quán” ăn cơm là một sự thực tập để nuôi dưỡng thân và tâm của mình. Chất liệu nuôi dưỡng không phải chỉ là thức ăn mà còn là sự có mặt của mình, của tăng thân, sự có mặt của chánh niệm. Chúng ta quán niệm ăn cơm như thế nào để có thảnh thơi tức tự do, giải thoát. Trong khi ăn, nếu bị một trăm sợi dây ràng buộc (những lo lắng, buồn khổ, suy tư, dự tính) thì mình ăn không ngon. Khi ăn thì mình chỉ ăn thôi, mình buông bỏ những suy tư, lo lắng. Mình ăn cơm như thế nào để có sự thảnh thơi, có tình anh chị em và có hạnh phúc trong khi ăn. Thức ăn nuôi dưỡng mình nhưng sự thảnh thơi, tình anh chị em và niềm vui cũng nuôi dưỡng mình.

Trong cửa thiền chúng ta nói: Thiền tập có công năng nuôi dưỡng (thiền duyệt vi thực)tức niềm vui của sự thực tập thiền là thức ăn hàng ngày. Vì vậy ăn cơm là ăn mà ngồi thiền cũng là ăn. Bữa cơm nào mình cũng đọc “ngũ quán”, mình cũng được nhắc ăn cơm như thế nào để được thảnh thơi. Mình ngồi lưng có thẳng, có buông thư, có thảnh thơi không hay là mình co rúm lại, bị giam hãm trong thế giới của lo lắng, của buồn khổ riêng mình. Mình không thật sự có mặt với tăng thân, mình không đóng góp được cho tăng thân sự có mặt tươi mát của mình.

Ăn cơm là một phép thực tập ngồi cho thảnh thơi, ngồi cho có tươi mát, có niềm vui. Sự thảnh thơi, sự có mặt đích thực của mình, nụ cười của mình góp phần tạo ra tình anh chị em mà tình anh chị em có tính cách nuôi dưỡng rất lớn. Mình ăn cơm như thế nào để có thảnh thơi, có hạnh phúc và có tình anh chị em. Chúng ta người nào cũng phải cố gắng chế tác được ba chất liệu đó.

 

 
Khi đồng hồ điểm nhạc mỗi mười lăm phút thì tất cả mọi người ngừng ăn, lắng tai nghe, tự nhiên một năng lượng chánh niệm tập thể được chế tác ra trong giây phút đó. Chúng ta thấy rõ ràng là mình đang có mặt với tăng thân. Mình thấy mình đang có mặt đó, mình đang hiến tặng sự có mặt của mình cho tăng thân và tăng thân cũng đang có mặt đó cho mình. Đó là một sự thức tỉnh, sự thức tỉnh do đồng hồ gợi lên. Đồng hồ là một trợ duyên giúp tạo ra cái gọi là như lý tác ý. Như lý tác ý khiến mình phát khởi được tuệ giác: mình đang có mặt trong tăng thân và tăng thân đang có mặt cho mình, mình đang được ngồi ăn với tăng thân như một gia đình tâm linh. Chuyện này rất hiếm, rất ít có được. Chỉ có mấy nốt nhạc mà tạo ra được không khí đó.

Nếu trong khi ăn mà mình bị tư duy xâm chiếm, mình đánh mất ý thức là mình đang có mặt, tăng thân đang có mặt và đây là một giây phút hạnh phúc thì có tiếng đồng hồ nhắc mình. Xóm Hạ, xóm Mới, xóm Thượng đều có đồng hồ trong nhà ăn, rất hay. Tiếng nhạc đồng hồ có một ý nghĩa rất đặc biệt đối với mình. Nhà nào cũng có đồng hồ, nhưng khi đồng hồ điểm nhạc thì người ta không thực tập như mình vì mình trao cho âm thanh của đồng hồ một ý nghĩa. Cũng như mình trao cho tiếng chuông một ý nghĩa, khi nghe tiếng chuông nhấp thì mình ngưng nói năng, suy nghĩ và mình bắt đầu thở vào, thở ra rất ngon lành ba lần. Ba tiếng chuông cung cấp cho mình cơ hội thở vào, thở ra chín lần. Cái ngon không phải chỉ do mình tiếp xúc được với những điều kiện hạnh phúc trong giây phút hiện tại mà còn do mình tiếp xúc được với sự thật là mình đang có đó và tăng thân đang có đó với mình. Nghe chuông, mình chế tác được một năng lượng tập thể của chánh niệm để nuôi dưỡng. Năng lượng ấy rất quí giá, rất hiếm hoi, không thể mua được ngoài siêu thị.

Trong khóa tu cho thiền sinh nói tiếng Đức tổ chức tại Viện Phật Học Ứng Dụng Châu Âu, ngồi ở hàng đầu có bốn, năm thiếu phụ và các em bé nhỏ xíu. Các bà mẹ cho các em bé vào pháp đường cùng nghe pháp, các bé rất ngoan không khóc nên không ảnh hưởng gì tới buổi pháp thoại. Trong đó tôi để ý thấy có hai ba bà mẹ đang cho em bé bú. Không biết trong nhà thờ người ta có được phép cho con bú trong giờ giảng đạo không, còn với tăng thân Làng Mai thì được phép làm như vậy. Tôi thấy rất rõ mỗi khi tiếng chuông vọng lên và gần một ngàn người chú tâm vào hơi thở thì năng lượng chánh niệm trong thiền đường rất hùng hậu, rất nhiệm mầu. Đó là một thức ăn rất tốt, mấy em bé chưa biết tiếng chuông, chưa biết chánh niệm là gì, chưa hiểu được tiếng người, nhưng cảm được năng lượng bình an đó. Trong giây phút đó các em bé vừa được nuôi bằng sữa mẹ vừa được nuôi bằng năng lượng hòa bình, an lạc, chánh niệm được chế tác một cách tập thể trong pháp đường. Đó là thức ăn rất quí không thể tìm được ngoài chợ.

Mình có rất nhiều cơ hội, trong khi ngồi thiền, trong khi ăn cơm mình có cả một tăng thân cho nên mình chế tác được năng lượng tập thể. Năng lượng đó quí hơn vàng, nó bảo hộ, trị liệu cho mình. Nếu những người bệnh tới mà biết mở lòng ra để năng lượng tập thể đó đi vào trong cơ thể, trong trái tim thì sẽ lành bệnh rất mau.

Trong bữa cơm mình phải sắp đặt, hành trì như thế nào để bữa cơm trở thành một buổi thực tập có khả năng nuôi dưỡng và trị liệu. Đứng về phương diện vật chất mình làm cho bữa cơm được ngon lành. Đứng về phương diện tâm linh mình cũng ăn với tinh thần đó mới xứng đáng. Chúng ta có những người rất giỏi về phương diện tổ chức. Chúng ta cần những người như vậy để tổ chức những buổi ngồi thiền và những bữa ăn cơm rất ngon, rất lành và rất trị liệu.

Ôm Bé Bị Thương

 

Bước Chân Thượng Thừa
Trong khi nghe chuông, chúng ta nên mở lòng ra để cho thế hệ tổ tiên ở trong ta đồng thời được nghe chuông với chúng ta. Chúng ta đừng tự giam hãm vào trong một cái vỏ bản ngã. Chúng ta phải cho phép, phải mở rộng thân tâm ra, để cho tổ tiên chúng ta cũng được nghe tiếng chuông trong giờ phút đó với chúng ta. Đây là một sự thực tập. Tại vì tất cả những thế hệ tổ tiên của chúng ta trong đó có cha, mẹ của chúng ta đều đang có mặt trong chúng ta một cách rất cụ thể trong mỗi tế bào của thân thể ta.

Cái sắc (rupa) chứa đựng cái danh (nama), và chúng ta cũng có thể nói rằng cái danh chứa đựng cái sắc. Nama tức là tâm thức của mình, trong đó có cảm thọ, tri giác, tâm hành và nhận thức. Chúng ta cũng nên học để thấy được rằng tâm hành của chúng ta cũng được làm bằng những tế bào giống như những tế bào của cơ thể. Những tế bào của cơ thể chứa đựng những tế bào của tâm thức, và những tế bào của tâm thức nó chứa đựng những tế bào của cơ thể. Nama rupa là hai mặt của một thực tại, không có cái nào có trước, không có cái nào có sau. Cũng như sóng (onde) và hạt (particule) là hai mặt của một thực tại. Làn sóng đó chứa đựng cái hạt, cũng như cái hạt nó chứa đựng làn sóng. Thực tại của chúng ta là thực tại danh sắc, ta có thể gọi nó là danh, ta cũng có thể gọi nó là sắc, kỳ thực sắc và danh là hai mặt biểu hiện của cùng một thực thể. Khi nhìn vào một tế bào của cơ thể hay nhìn vào một tế bào của tâm thức, ta nhận diện được sự có mặt của tất cả các thế hệ tổ tiên ở trong ta. Đó là một sự thật.Tổ tiên chúng ta không phải chỉ là loài người. Trước khi loài người biểu hiện thì chúng ta đã là những loài khác. Chúng ta đã từng làm cây, làm cỏ, làm đá, làm sương. Chúng ta đã từng làm con sóc, con nai, con khỉ. Chúng ta đã từng làm những sinh vật đơn tế bào. Và tất cả các thế hệ tổ tiên đó đều đang có mặt trong từng tế bào của cơ thể cũng như của tâm thức, và ta là sự tiếp nối của dòng sinh mạng đó. Vì vậy cho nên khi nghe chuông ta nên biết là không phải một cái ta biệt lập đơn độc đang nghe chuông, mà là cả dòng sống thênh thang đang nghe chuông. Đây là sự thực tập vô ngã. Khi nghe một tiếng chuông nếu chúng ta cho phép tất cả các thế hệ tổ tiên của chúng ta và tất cả những con cháu đang tiềm tàng trong cơ thể chúng ta được nghe tiếng chuông đó thì lúc đó chúng ta đang chứng thực cái thực tại vô ngã mà Bụt nói tới. Thực tại vô ngã mà Bụt nói tới không phải là một lý thuyết mơ hồ mà là một cái gì ta đang mang trong cơ thể và tâm hồn của ta. Và chỉ cần nghe chuông thôi là ta đã có thể thoát ra khỏi cái vỏ của bản ngã mà ta đã tạo tác ra. Ta thoát khỏi được cái ngục tù khái niệm về bản ngã mà chúng ta đã tạo tác ra. Chúng ta phải để cho tiếng chuông thấm vào tất cả các thế hệ quá khứ và các thế hệ tương lai đã có rồi trong chúng ta.

Một trái ổi, dù là trái ổi còn rất non, cũng có những hạt ổi non ở trong trái ổi. Chúng ta cũng vậy. Chúng ta mới có mười bốn tuổi. Chúng ta nghĩ rằng chúng ta chỉ có thể làm con thôi, làm em thôi, nhưng kỳ thực chúng ta đã làm mẹ rồi, đã bắt đầu làm mẹ rồi, đã bắt đầu làm bà rồi. Vậy thì một chú tiểu mười hai tuổi hay mười ba tuổi tuy đang đóng vai trò một đệ tử, nhưng chú tiểu đó đã có đệ tử ở trong con người của chú, và cũng đã có đệ tử của đệ tử rồi. Vì vậy cho nên khi nghe chuông, sư chú phải mở lòng ra để cho các thế hệ tổ sư cùng được nghe, để cho các thế hệ ông bà, cha mẹ huyết thống cùng được nghe, và chú cũng có thể mở lòng ra và để cho các thế hệ đệ tử con cháu của chú trong tương lai cũng được nghe. Nghe một tiếng chuông như vậy là chú đã thực tập vô ngã và chú chạm được vào cái mầu nhiệm của vô ngã. Nghe chuông như vậy mới là nghe chuông theo kiểu thượng thừa. Khi bước những bước chân thiền hành trên bãi cỏ xanh non của mùa xuân cũng vậy. Ta bước như thế nào để cho tất cả các thế hệ tổ tiên của chúng ta đều cùng bước theo ta. Và sự an lạc thảnh thơi mà ta đạt được trong khi bước thấm vào tất cả các thế hệ tổ tiên và đồng thời thấm vào tất cả các thế hệ tương lai. Một bước chân như vậy là một bước chân thượng thừa. Đưa một chân ra để bước, ta thấy hàng triệu cái chân đang cùng bước chung với ta ở trong ta. Khi thở một hơi thở vào nhẹ nhàng, thoải mái, tĩnh lặng, ta làm cho tất cả các thế hệ tổ tiên cũng được thở và tất cả các thế hệ con cháu tương lai của ta cũng được thở. Thở như vậy mới là hơi thở thượng thừa. Chúng ta có thể làm được. Chúng ta chỉ cần một ít niệm và một ít định là có thể quán chiếu, có thể thấy. Ban đầu chúng ta dùng phương pháp quán tưởng và thấy tất cả thế hệ tổ tiên cùng đưa chân phải ra đồng thời với ta để bước một bước. Từ từ không cần phải quán tưởng nữa mà tự nhiên mỗi khi bước chân đưa ra như vậy là ta thấy được bước chân của tất cả mọi người trong quá khứ. Trong khi nấu một món ăn, món ăn mà ta đã học được từ mẹ ta hay là cha ta, món ăn truyền thống của dân tộc, ta hãy nhìn bàn tay của ta mà mỉm cười. Tại vì bàn tay này là bàn tay của mẹ, bàn tay của bà ngoại, bàn tay của bà nội, đang làm món đó, đang xào nấu món đó. Ta nào có tài ba gì đâu. Ta đâu có phải là kẻ đã sáng tác ra thực phổ này. Ta tiếp nối các thế hệ tổ tiên. Ta thấy rằng bàn tay của mẹ đang làm món này, bàn tay của ngoại đang làm món này. Và ta thấy rằng tất cả những bàn tay của tổ tiên ta đang làm cái món này. Nấu cơm ở trong bếp, mình có thể thiền thượng thừa được rồi, không cần phải lên trên thiền đường ngồi xuống ta mới thực tập. Cơ hội của chúng ta có rất nhiều. Vấn đề là chúng ta có biết thừa hưởng cơ hội không? Đây không phải là lý thuyết, đây là sự sống thực tiễn của mỗi giây phút trong đời sống hàng ngày.

Trị Liệu Tận Gốc

Ngày xưa, bà ngoại ta đã từng chơi bóng chuyền hay không? Không, tại vì hồi đó ở xứ ta chưa có bóng chuyền. Ngày xưa, bà ngoại có chạy bộ mỗi buổi sáng như ta hay không? Ngày xưa, bà ngoại có cơ hội thực tập hiện pháp lạc trú trong khi đi, trong khi chạy hay không? Bây giờ, ta là một người trẻ, khi đang chạy từng bước thảnh thơi, ta hãy để cho bà ngoại cùng chạy với ta, mà thực sự là bà ngoại đang chạy với ta, trong từng tế bào của cơ thể ta. Ta mang hết tổ tiên của ta để cùng chạy, để cùng đi thiền hành, để thực hiện phép hiện pháp lạc trú. Các vị ngày xưa có thể đã không có cơ hội, đã không có cơ duyên gặp gỡ chánh pháp và tiếp nhận phương pháp thực tập. Bây giờ đây ta có cơ duyên gặp gỡ chánh pháp và được trao truyền pháp môn thực tập, tại sao ta không làm việc đó cho quý vị? Và tự nhiên ta đem lại niềm vui cho vô số những thế hệ tổ tiên và thế hệ con cháu của ta trong khi ta thực tập đi, chạy và thở. Chúng ta tạo ra khung cảnh của Làng Mai để có thể làm được việc đó, tại vì trong cái xã hội ngoài kia, ở dưới cái thành phố kia, chúng ta không có những điều kiện để có thể đi như vậy, để có thể thở như vậy, để có thể mỉm cười như vậy, để có thể nấu cơm như vậy, để có thể giặt áo như vậy… Một khung cảnh trong đó ta có thể thoải mái, ta có thể làm được những công việc kia một cách thoải mái, để thực tập hiện pháp lạc trú. Chúng ta phải biết ơn những người đã yểm trợ, đã đem tâm huyết và thì giờ của họ để tạo dựng cho chúng ta một môi trường trong đó ta có thể bước đi những bước như vậy, thở vào và thở ra những hơi thở như vậy, có thể xào nấu như vậy, ta có thể thực tập như vậy, và ta làm như vậy là ta làm cho cả thế gian, ta làm cho cả quá khứ và tương lai. Nhờ chúng ta bước đi như vậy, nhờ chúng ta thở như vậy, nhờ chúng ta mỉm cười như vậy, nhờ chúng ta ngồi xuống như vậy, nhờ chúng ta đứng lên như vậy mà chúng ta giải phóng được cho bao nhiêu thế hệ. Giải phóng bằng cách vượt thoát ra khỏi cái vỏ của bản ngã.

Tâm lý trị liệu Tây phương nhắm đem tới cho chúng ta một cái ngã gọi là vững chãi và lành mạnh. Khoa tâm lý trị liệu Tây phương có thể đem tới một ít sự chuyển hóa, sự trị liệu, nhưng khoa tâm lý trị liệu Tây phương chưa đi được xa, tại vì còn bị kẹt vào trong cái ý niệm về ngã. Khoa tâm lý trị liệu Tây phương giả định có một cái trạng thái mà con người ta thoải mái, lành mạnh, an lạc, mà vì những lý do gì đó, vì những tai nạn gì đó mà chúng ta đánh mất cái trạng thái thoải mái, an lạc đó, cho nên sự thực tập là làm thế nào để vượt khỏi những tai nạn đó để trở về cái trạng thái an lạc, thoải mái và vô bệnh ban đầu. Như vậy, khoa tâm lý trị liệu Tây phương căn cứ trên cái giả định là trước kia đã từng có lúc ta có cái bản ngã lành mạnh, thoải mái và an lạc. Mục đích của trị liệu là phục hồi lại trạng thái đó. Trong ánh sáng của sự thực tập đạo Bụt là chừng nào chúng ta còn bị kẹt vào ý niệm của một cái ngã riêng biệt thì chừng đó vô minh đang còn nằm trong danh và sắc của chúng ta. Thực tập vô ngã là phép chữa trị tuyệt vời. Thực tập vô ngã là thoát ra khỏi cái ý niệm hẹp hòi của bản ngã, thấy được liên hệ mật thiết giữa ta và không ta. Khi vô minh ấy được tiêu tán, thì tất cả những khổ đau, những giận hờn, những tủi hận, những ganh ghét, những sợ hãi sẽ tan biến. Kết quả đạt được nhờ sự thực tập ấy sẽ lớn bằng ngàn lần sự chữa trị căn cứ trên ý niệm của một bản ngã. Chúng ta hầu hết đều là những người đang có vấn đề tâm lý. Chúng ta tự hỏi những câu hỏi như: Tôi là ai? Ngày xưa khi cha tôi và mẹ tôi tới với nhau, họ có muốn tôi ra đời thiệt không hay là họ đã tới với nhau như vậy và tôi đã ra đời như là một tai nạn? Họ có muốn tôi ra đời hay không? Có thể họ chỉ tới với nhau một cách cạn cợt, vô tình vậy thôi, và do đó mà tôi ra đời. Nếu như vậy thì tôi tủi hổ lắm. Khi tôi chưa ra đời họ có muốn giữ tôi hay không, hay là họ muốn phá cái thai trong bụng họ? Những câu hỏi đó làm cho rất nhiều người đau khổ. Đời tôi có ý nghĩa gì không? Chúng ta ưa hỏi những câu hỏi như vậy. Và tất cả những câu hỏi đó đưa lại không biết bao nhiêu là khổ đau, tại vì chúng ta bị kẹt vào trong ý niệm về bản ngã. Một đứa nhỏ lớn lên nếu nghe nói rằng ba mẹ đã từng muốn phá thai hồi mình còn trứng nước thì sẽ đau khổ lắm. Nó biết là cha mẹ nó đâu có muốn có nó, tại vì tai nạn cho nên nó mới sinh ra như vậy thôi. Khi nghĩ như vậy thì nó đau khổ lắm, và từ cái đau khổ đó sinh ra không biết bao nhiêu là tâm bệnh. Tâm lý trị liệu có thể giải quyết như thế nào cho những kẻ ấy? Đời tôi nó có ý nghĩa gì không? Tôi từ đâu tới? Tôi là ai? Những câu hỏi đó có thể là nguyên nhân của những cái bất thường, những cái khổ đau ở trong một kiếp người. Nếu quán chiếu theo phương pháp Bụt dạy, thấy được thực tính vô ngã, ta sẽ không còn hỏi những câu hỏi như vậy. Đó là một trong những điểm chính yếu mà chúng ta đã học được trong kinh Trung Đạo Nhân Duyên. Trước hết, ta thấy ta là sự tiếp nối của một dòng sinh mạng. Chuyện bố mẹ ta có muốn ta ra đời hay không, chuyện đó không quan trọng mấy. Có thể bố mẹ ta không muốn ta ra đời, chưa muốn ta ra đời, nhưng mà ông bà tổ tiên ta luôn luôn muốn ta ra đời. Đó là một sự thật. Sự thật là bao giờ ông bà chúng ta cũng muốn có sự tiếp nối, nếu không phải thế hệ này thì thế hệ khác. Chắc chắn là có những thế hệ rất muốn ta ra đời để ta tiếp tục sự có mặt và sự nghiệp của liệt vị. Nội một câu trả lời đó đã có thể làm cho em bé bớt đau khổ, hoặc là hết đau khổ. Cha mẹ của ta cũng như bất cứ một cặp cha mẹ nào khác cũng có lúc lên lúc xuống. Có khi đầy thương yêu nhưng cũng có khi đầy giận hờn. Những thương yêu và những giận hờn đó không phải là chỉ của họ mà là đã được trao truyền từ những thế hệ khác. Thấy được như vậy, ta không trách cha, ta không trách mẹ nữa. Cha mẹ ta cũng như ta, có những lúc rất giỏi nhưng mà có những lúc rất dở. Ở Á Đông, có khi chúng ta được ép gả cho một người con trai mà chúng ta ghét. Chúng ta oán trách cha mẹ tại sao lại gả ta cho người con trai ta không thương. Nhưng có thể sau hai năm, ba năm ở với người con trai kia, ta khám phá ra được người con trai này là một người con trai rất ngọt ngào, rất dễ thương, và ta bắt đầu cám ơn cha mẹ. Cha mẹ đã có một tuệ giác nào đó, cha mẹ đã nhận xét như thế nào đó, và cha mẹ đã làm một cái nguyên do rất tốt đẹp để cho sự phối hợp này được thành hình. Ban đầu có thể ta rất ghét, nhưng sau đó thì ta rất thương. Trong chúng ta ai cũng có những người bạn mà lúc bắt đầu mới gặp chúng ta rất ghét. Mới thấy cái mặt đã thấy ghét quá đi, không muốn chơi, nhưng không biết tại sao chơi một hồi thì khám phá ra rằng đây là một người bạn rất tốt. Vì vậy cho nên, cái giây phút ghét đó không phải là vĩnh viễn, nó chỉ là một giây phút thôi. Sau giây phút đó thì có thể có những giây phút rất thương. Ghét, thương ở bề mặt, nằm sâu dưới đó có một cái gì quan trọng hơn mà ta phải thấy được điều đó, thì ta sẽ không buồn tủi hỏi rằng: cha mẹ tôi có muốn tôi ra đời hay không? Có thể là lúc đó cha mẹ tôi không muốn tôi, nhưng sau khi sinh tôi ra rồi thì cha mẹ tôi lại thương tôi quá chừng. Cái thương đó nó bù đắp lại. Rồi mình thấy mình là cha mẹ của chính mình, mình thấy mình là ông bà của chính mình, và vượt thoát khỏi cái ý niệm ngã, mình không còn đau khổ về câu hỏi kia nữa. Thành ra học Phật và thực tập theo pháp môn vô ngã của Bụt, chúng ta có thể giải phóng được cho chúng ta và đồng thời giải phóng được cho bao nhiêu thế hệ tổ tiên và con cháu tương lai đang có mặt trong chúng ta.

Trở Về Ôm Lấy Bé

Nhiều người trong chúng ta trong thời thơ ấu đã từng đi ngang qua những giai đoạn rất khó khăn và chúng ta đã bị tổn thương nặng. Ta thường thường không có ước muốn nhớ lại những giai đoạn khổ đau đó. Trong ta có cơ chế tự tồn, cơ chế tự vệ. Nó vùi chôn những kỷ niệm đau thương ấy ở trong những vùng rất xa thẳm của tâm thức. Mỗi lần chúng ta tiếp xúc với những kỷ niệm đau buồn thì ta chịu không nổi, vì vậy cho nên cái cơ chế tự tồn cứ tìm cách chôn vùi những kỷ niệm kia vào trong đáy sâu của tâm thức. Khi có một người nào tới khơi dậy mối thương tâm của ta thì ta khóc, ta đau, ta buồn, ta không ăn cơm được trong một ngày, hai ngày, ba ngày. Nhưng phương pháp chạy trốn không phải là phương pháp hay nhất, không phải là thượng sách. Trong đạo Bụt, chúng ta được dạy rằng chúng ta phải thực tập chánh niệm, chúng ta phải chế tác năng lượng của chánh niệm, phải trở về ôm lấy đứa trẻ đang bị thương trong ta. Đứa trẻ đó có thể đã bị thương tích rất nặng. Nhưng vì ta không có đủ sức mạnh, cho nên mấy chục năm vừa rồi ta chỉ muốn trốn tránh và không dám gặp mặt nó. Vì vậy đứa trẻ bị thương tích trong ta tiếp tục đau khổ, nó không được thừa nhận, nó đòi hỏi sự thừa nhận, nó đòi hỏi sự săn sóc. Nhưng chúng ta đã làm ngược lại chuyện đó. Chúng ta luôn luôn trốn tránh nó, tại vì chúng ta sợ khổ. Phương pháp đạo Bụt là thực tập như thế nào để chế tác được năng lượng chánh niệm. Với năng lượng chánh niệm đó, chúng ta không cần phải sợ hãi nữa, chúng ta có thể trở về gọi đích danh đứa bé ở trong ta ra, và chúng ta ôm ấp lấy nó. Chúng ta phải nói chuyện với nó. Có năng lượng chánh niệm rồi thì ta có khả năng ôm ấp được nó. Trước hết là nhận diện: Này em bé trong tôi đang bị thương tích, tôi biết em còn đó. Trong những năm vùa qua, tôi rất tệ bạc, tôi bỏ em một mình bơ vơ với những vết thương nặng nề của em. Bây giờ, tôi đã trở lại. Xin em cho phép tôi ôm em vào lòng. Tội nghiệp em quá! Phải nói chuyện với nó. Phải ôm ấp nó. Nếu cần thì cả hai chị em cùng khóc với nhau. Nếu cần thì cả hai anh em cùng khóc với nhau. Trong thiền tọa cũng được. Ngồi một mình ở trong rừng cũng được. Hãy nói chuyện với nó bằng ngôn ngữ vắng lặng. Trong rừng, mình có thể nói chuyện với nó, mình có thể gọi nó bằng em. Nó với mình không hai mà cũng không phải là một. Trong chúng ta có những người đã thực tập theo pháp môn đó và sau một thời gian thực tập thì đã có sự thuyên giảm, có sự chuyển hóa, có sự trị liệu. Sau đó thì liên hệ giữa mình và những người anh, người chị, người em, người bạn của mình tự nhiên trở thành ra dễ dàng. Khi đã trở về chữa trị cho đứa trẻ bị thương trong ta rồi, thì ta có đủ sức mạnh có khả năng hiểu và thương nhiều hơn, tại vì những người chung quanh ta, người chị kia, người em kia, người anh kia, có thể cũng đang có một đứa bé bị thương tích nặng nề trong họ, và ta có thể giúp người đó được. Cho nên, sau khi đã chữa trị cho mình rồi, ta thấy liên hệ giữa ta và những người khác trở thành tốt đẹp hơn, dễ dàng hơn, bởi vì ta đã có nhiều hiểu biết, thương yêu và bình an hơn.

Chúng ta thấy đứa bé bị thương trong ta không phải chỉ là ta, có thể đó là mẹ ta. Tại vì mẹ ta, trong suốt đời của bà, cũng đã từng khổ đau. Mẹ ta có thể chưa được gặp chánh pháp, chưa biết được phương pháp trở về để ôm lấy đứa trẻ bị thương trong mẹ. Vì vậy cho nên, đứa bé bị thương trong ta cũng chính là mẹ ta đang bị thương, hay là cha ta đang bị thương, ta phải ôm lấy nó. Trong khi ôm lấy đứa bé trong ta, ta ôm lấy hết tất những đứa bé trong quá khứ của nhiều thế hệ, ta vỗ về và trị liệu cho chúng. Sự thực tập này không phải là sự thực tập cho cái ngã của riêng ta, mà là sự thực tập cho không biết bao nhiêu thế hệ của tổ tiên và của tương lai. Cho nên khi đã ôm ấp được đứa bé bị thương trong ta, ta cũng ôm ấp được mẹ ta, ta cũng ôm ấp được cha ta, tại vì có thể cha ta đã từng khổ đau, mẹ ta đã từng khổ đau, và những đứa trẻ trong họ chưa bao giờ được thừa nhận, ôm ấp, được trị liệu cả. Ta làm chuyện này cho cha, làm chuyện này cho mẹ, làm chuyện này cho ngoại, cho nội. Nếu ta không làm bây giờ, thì bao giờ ta mới làm? Làng Mai không phải là một trường học, nơi chúng ta tới tiếp nhận một mớ kiến thức để sau này đi dạy hay đi làm. Tại Làng Mai chúng ta có thể thực tập được sự ôm ấp và chuyển hóa đứa trẻ bị thương tích trong ta. Trong ta, đứa trẻ bị thương tích luôn luôn có mặt, đang luôn luôn trông chờ, và ta đã bỏ bê nó từ lâu. Bây giờ ta phải trở về, phải nhận diện, phải công nhận sự có mặt của nó, phải ôm ấp lấy nó, phải cùng khóc với nó và phải dùng năng lượng chánh niệm để mà trị thương cho nó. Trong ánh sáng của kinh Trung Đạo Nhân Duyên, ta biết rằng em bé đó, em bé bị thương trong ta, không phải chỉ là ta mà cũng là em bé của những thế hệ khác. Nó là em bé bị thương của mẹ, nó là em bé bị thương của cha, nó là em bé bị thương của bà ngoại, của ông ngoại. Ta tu là ta tu một lần cho tất cả các tổ tiên của ta. Em bé đó ở đâu? Em bé đó đang nằm trong tất cả các tế bào của cơ thể. Không có tế bào nào của ta mà không có em bé đang nằm trong đó, những tế bào của danh và những tế bào của sắc. Tâm thức của chúng ta được làm bằng những tế bào, thì trong mỗi tế bào của tâm thức, trong mỗi tâm hành, đều có em bé đó đang nằm co, bơ vơ, bị thương tích nặng. Ta phải trở về. Ta không cần đi tìm đâu xa. Ta không cần đi tìm về quá khứ, ba trăm triệu năm về trước. Ta không cần đi tìm về những thời đại thạch khí. Ta không cần đi tìm về thời ấu thơ, hoặc là thời ông cố, ông ngoại. Tại vì tất cả những dữ liệu đó, tất cả những sự thật đó, tất cả những đau thương đó, tất cả những em bé bị thương đó hiện bây giờ đang nằm trong giây phút hiện tại, trong từng tế bào của danh và của sắc. Ta chỉ cần đi về và tiếp xúc là ta thấy được. Cũng như tuệ giác của tổ tiên, tuệ giác của Bụt, hạnh phúc của Bụt cũng có mặt trong từng tế bào của cơ thể ta. Ta phải biết trở về. Ta lợi dụng những yếu tố đó, những hạnh phúc đó, những tuệ giác đó, để chế tác năng lượng chánh niệm, năng lượng thương yêu, mà ôm ấp lấy đứa trẻ bị thương. Đau thương nằm ở trong từng tế bào, và hạnh phúc, tuệ giác cũng đang nằm trong từng tế bào của ta. Bụt đã trao truyền, Tổ đã trao truyền, Thầy đã trao truyền cho ta tuệ giác đó. Ta trở về. Với hơi thở, với bước chân, ta chế tác năng lượng của chánh niệm, của tuệ giác. Và với năng lượng đó, ta ôm ấp và thừa nhận đứa trẻ bị thương trong ta.

Phát Ra Ánh Sáng

Chúng ta là những người có chất liệu u mê trong từng tế bào của cơ thể và của tâm thức. Chất liệu u mê đó gọi là vô minh. Vô minh tức là không trông thấy. Những cái ấy nằm sờ sờ ra đó mà chúng ta không biết rằng chúng có mặt. Vô minh tức là không có ánh sáng, không có cái thấy. Em bé bị thương nằm đó rất hiện thực mà ta đâu biết. Em bé bị thương trong ta là một thực tại sờ sờ, rất đồ sộ, rất cấn cái, vậy mà ta không thấy. Không thấy được thì gọi là vô minh. Nó đang bị thương. Nó rất cần ta trở về để công nhận nó, để ôm ấp nó, vậy mà ta vẫn không biết là nó có đó. Ta luôn luôn chạy đi. Thử hỏi thái độ đó không gọi là vô minh thì gọi là gì? Ta lo đi tìm danh, tìm lợi. Trong khi đó thì ta không nhận thức được cái gì đang xảy ra ở trong ta. Chính sự u mê tạo ra những nguồn năng lượng làm ta bệnh. Trong mỗi tế bào của cơ thể và của tâm thức đều có chất vô minh đó.

Như giọt mực đen hòa vào trong ly nước. Chất liệu của vô minh hòa vào trong tất cả các tế bào của tâm thức, làm cho ta không thấy được sự thật và đẩy ta đi về những phương hướng tối tăm, để ta làm ra những điều dại dột, để ta làm khổ ta, gây thương tích thêm cho đứa trẻ trong ta và gây thương tích cho những người khác. Những năng lượng u tối đó gọi là hành. Mỗi ngày ta bị hành thúc đẩy. Ta đã nói cái đó, làm cái đó, rất u mê, vì bản chất của hành là vô minh. Ta buồn, ta giận, ta trách, ta ganh, tất cả những cái ấy đều là năng lượng của hành. Những cái hành đó ta đâu có thấy rõ ràng. Nó nằm ở trong tâm thức của ta. Tâm thức của ta là vọng thức, chứa chất những chất liệu của vô minh và của hành. Tâm thức là đối tượng của tâm lý học. Nó có những phần bề mặt và những phần thâm sâu. Phần bề mặt ta gọi là ý thức, phần thâm sâu ta gọi là tàng thức. Tây phương gọi là vô thức (inconscience). Tây phương lại có tiềm thức (subconscience). Đó đều là những vùng của a-lại-gia. Chúng ta chôn những nỗi khổ niềm đau, chúng ta cố dìm em bé bị thương xuống dưới chiều sâu của vô thức. Nó ngạt thở dưới đó, nó kêu cứu dưới đó, trong chúng ta vẫn nhởn nhơ đi lo những chuyện không thực sự cần thiết. Vô minh tạo ra tâm thức hiện thời của chúng ta. Thức được biểu hiện thành danh sắc. Trong mỗi tế bào của cơ thể (sắc) và trong mỗi tế bào của tâm hồn (danh), đều có chứa đựng thức a-lại-gia này, tiềm thức này, vô thức này, những năng lượng của vô minh này, và chúng thúc đẩy ta sống đời sống hàng ngày một cách cạn cợt, một cách dại dột, để tiếp tục gây đau khổ cho chính ta và cho những người xung quanh ta. Pháp môn mà chúng ta học hỏi và tu tập ở đây là làm thế nào để bên cạnh vô minh phát sinh ra được cái minh, bên cạnh bóng tối làm sao phát được ánh sáng? Chúng ta đi trong đêm, nên chúng ta mới sờ soạng, chúng ta mới làm những điều trái ngược mà đáng lý chúng ta không làm. Chúng ta thấy rằng chúng ta cần ánh sáng. Ánh sáng đây là thắp lên cây đèn. Cây đèn lấy ở đâu ra? Cây đèn cũng lấy ở trong danh sắc của chúng ta ra. Trong danh sắc có chất liệu của thức, của hành, của vô minh, nhưng trong danh sắc cũng có hạt giống của minh. Chúng ta cũng đã được tổ tiên tâm linh và tổ tiên huyết thống trao truyền những hạt giống của thương yêu và hiểu biết, nhưng chúng ta ít đem ra sử dụng. Bụt đã trao truyền, Tổ đã trao truyền, Thầy đã trao truyền. Chúng ta tiếp nhận, chúng ta cất giữ, nhưng không đem ra sử dụng. Chúng ta có cây đèn, nhưng chúng ta không chịu thắp lên. Cây đèn đó tức là cây đèn chánh niệm. Dầu của cây đèn là hơi thở, là bước chân, là nụ cười, là sự chấp tác trong chánh niệm. Thắp lên cây đèn chánh niệm, tự nhiên ánh sáng tỏa chiếu, và bóng tối giảm thiểu. Những giây phút minh biểu hiện thì vô minh rút lui. Khi vô minh rút lui thì những năng lượng ma quái không còn được chế tác. Trong khi đó, minh chế tác ra năng lượng bồ đề tâm, đại nguyện và tâm thương yêu. Tâm thương yêu cũng là năng lượng. Nó cũng là năng lượng như hành, nhưng đây là thứ năng lượng được soi sáng.  Khi có ánh sáng, thay vì có những năng lượng mù quáng thúc đẩy ta lại có những năng lượng khác như năng lượng của hiểu biết, của thương yêu và của bồ đề tâm. Khi có năng lượng của bồ đề tâm rồi, tâm thức của chúng ta bắt đầu chiếu sáng, đó là trí (prajna). Trí và thức cùng một bản chất. Ta gọi nó là thức khi nào ta bị vô minh và hành chi phối. Khi được minh với bồ đề tâm soi sáng và nuôi dưỡng thì cái mà ta gọi là thức ngày xưa bây giờ được gọi là trí. Trí tuệ, thương yêu và bồ đề tâm là chất liệu của hạnh phúc. Chúng ta có thân thị hiện thay vì có thân danh sắc. Ta cũng có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý, nhưng trong những tế bào của sáu giác quan đó, tế bào nào cũng có sự thương yêu, tế bào nào cũng có bồ đề tâm, tế bào nào cũng có minh và sự hiểu biết. Vì vậy cho nên chìa khóa của sự thực tập là thắp lên một ngọn đèn. Chúng ta có một bài kệ rất hay để thắp đèn:

Thắp lên một ngọn đèn
Cúng dường vô lượng Bụt
Một tâm niệm an lành
Làm rạng ngời trái đất

Trước khi thắp đèn hay bật đèn, ta thở và mỉm cười khi ta đọc lên bài kệ đó. Một mặt ta thấy có ánh sáng chiếu ra trong phòng của chúng ta, một mặt thì vô minh ở trong tâm nhường chỗ cho minh. Ánh sáng phát sinh một lần trong hai lĩnh vực: trong phòng ta ở là ánh sáng của điện, trong tâm ta là ánh sáng của minh, của chánh niệm. Thực tập bài kệ này là để có hai thứ ánh sáng cùng một lúc. Còn nếu chỉ bật đèn trong thất niệm thôi thì ta chỉ có một thứ ánh sáng, đó là ánh sáng của điện, hay ánh sáng của đèn cầy.

Cho nên mới đi tu là đã được học tập thi kệ chánh niệm liền lập tức. Thi kệ chánh niệm là nghệ thuật thắp đèn trong tâm. Nếu anh không thắp đèn thì làm sao anh có ánh sáng trong tâm được, và vô minh không bao giờ trở thành minh được cả. Khi ngọn đèn của ánh sáng đã thắp lên rồi thì ta bắt đầu thấy. Ta thấy được rằng ta đã bỏ quên em bé bị thương trong ta. Rất tội nghiệp. Ta thấy rằng ta phải thực tập bước chân và hơi thở cho vững chãi để chế tác năng lượng chánh niệm, và để có thể trở về để ôm lấy em bé, an ủi và chữa trị cho nó. Nếu ánh sáng đó đầy đủ thì ta có thể thấy em bé đó không phải chỉ là ta mà cũng là mẹ ta, cha ta. Mẹ ta đã từng khổ đau. Cha ta đã từng khổ đau. Và họ chưa có cơ hội ôm lấy em bé trong họ. Thì bây giờ đây ta làm chuyện đó cho họ, tại vì em bé trong ta cũng là cha ta, cũng là mẹ ta. Thử hỏi có cái Hiếu nào lớn hơn cái Hiếu này không? Đạo Nho nói rất nhiều tới Hiếu, nhưng còn có cái Hiếu nào siêu tuyệt và cao vời bằng cái Hiếu này? Khi mỉm cười, mình cũng mỉm cười cho cha; khi mỉm cười, mình cũng mỉm cười cho mẹ. Mình thực tập để giải phóng cho cha, cho mẹ và cho tổ tiên mình. Và nếu ta thực tập được như vậy rồi, thì những câu hỏi làm cho người ta đau khổ da diết như: Tôi là ai? Ba má tôi có thực sự muốn tôi ra đời hay không? Đời tôi có nghĩa lý gì? Tất cả những câu hỏi đó đều trở thành vô nghĩa. Trong kinh Duyên Sinh cũng như kinh Đại Không hay kinh Trung Đạo Nhân Duyên chúng ta thấy rằng với sự thực tập này ta có thể vượt thoát khỏi những câu hỏi đó, những khổ đau đó. Mình không cần phải về Ái Nhĩ Lan, mình không cần phải đi Trung Quốc mới tìm ra được gốc rễ của mình. Về tới quê xưa tìm gốc rễ. Không, mình chỉ cần ngồi đây thôi và nếu tiếp xúc được với các tế bào trong cơ thể mình là mình đã tìm được gốc rễ mình. Cha mẹ mình, tổ tiên mình, ông bà mình đang có mặt một cách một cách rất đích thực trong từng tế bào của cơ thể. Nói cho cùng, các loài vi khuẩn (bactérie) cũng là tổ tiên của mình, và tuệ giác của các loài truyền tới cho mình là bắt đầu từ lúc đó. Không những các loài hữu tình có tuệ giác, có thương yêu, mà những loài mà ta gọi là vô tình cũng vậy.

Con Người Chánh Niệm

Khoa học bây giờ hay nói tới sự sống như là một vật chất (la matière). Ban đầu thì chỉ là vật chất vô tri (la matierè inerte). Ở Đông phương, trước khi thế giới thành lập, thì có cái gọi là khối càn khôn hỗn độn, Tây phương hay dùng từ la soupe primitve, một thứ cháo lỏng nguyên thỉ, trong đó có những giới tử, điện tử… đủ thứ hết. La matière inerte tức là vật chất bất động, không có sự sống; từ đó mà trở thành la matière vivante, nghĩa là chất sống linh động. Lúc ban đầu thì có những loài nấm, có những con a míp, có những loài rêu, rong, đơn tế bào, đa tế bào, rồi sau mới có con người, tất cả đều được gọi là la matière vivante. Nhưng người ta vẫn ưa dùng chữ matière, tại vì người ta nghĩ ban đầu chỉ có vật chất thôi, nghĩa là chỉ có sắc. Họ không biết rằng sắc luôn luôn ôm danh, và sắc chẳng qua chỉ là đối tượng của danh. Thật ra đối tượng của tưởng cũng là tưởng. Cái mà họ gọi là la matière (matter), trước hết phải là đối tượng của tri giác, nó là tri giác, tức là danh, là tâm. Và vì vậy cho nên tâm ôm lấy vật, mà vật cũng ôm lấy tâm. Tâm và vật, theo đạo Phật, là hai khía cạnh của thực tại. Có khi thực tại ấy hiện ra là tâm, có khi nó hiện ra là vật, nhưng kỳ thực nó không phải là vật, nó không phải là tâm. Cũng như chất điểm (particule élémentaire), mình gọi nó là sóng cũng không được, mà gọi nó là điểm cũng không xong, tại vì có khi nó biểu hiện ra như một dạng sóng, có khi nó biểu hiện ra như một dạng hạt. Kỳ thực nó là cả hai. Nó là sóng. Nó là hạt. Đứng về phương diện hình thức thì hạt không thể là sóng, sóng không có thể nào là hạt được. Một cái particule (hạt) và một cái onde (sóng), hai cái đó nó làm sao là một, nhưng kỳ thực hai cái là một. Cũng như mình vừa là cha vừa là con. Con làm sao là cha được? Nhưng kỳ thực có khi mình biểu hiện ra như cha, có khi mình biểu hiện ra như con. Mình là con, mình cũng đồng thời là cha hay là mẹ. Trái ổi khi mới bắt đầu sinh ra là đã có những hạt ổi ở trong đó rồi. Trái ổi đó nó vừa là con mà nó cũng vừa là cha. Lý luận hình thức nói: nếu đã là cha thì làm sao là con được? Nhưng sự thật thì thực tại tự biểu hiện khi thì là cha, khi thì là con, khi thì là sóng, khi thì là hạt, khi thì là danh, khi thì là sắc. Vậy thì la matière inerte là một với la matière vivante, và từ la matière vivante mình có la matière pensante.

Khoa học nói con người là la matière pensante, tức là cái sắc có suy tư, hoặc là sự suy tư biểu hiện ra sắc. Khoa khảo cổ học gọi tên con người vào giai đoạn đứng thẳng trên hai chân được với cái tên là homo-erectus. Erectus là đứng thẳng trên hai chân. Rồi sau con người lại có tên là homo-sapiens. Homo-sapiens là con người có trí tuệ. Bây giờ có danh từ homo-conscius, con người có ý thức, con người có chánh niệm. Con người có chánh niệm, con người có ý thức, con người bắt đầu biết rằng mình có sanh thì có tử. Thở vào, tôi biết rằng thế nào tôi cũng phải bệnh. Thở vào, tôi biết rằng thế nào tôi cũng phải già. Thở ra, tôi biết rằng thế nào tôi cũng phải chết. Cái đó là con người có ý thức. Chính vì có ý thức, cho nên con người phải đau khổ hơn các loài khác. Từ ý thức đó mà con người có sự lo lắng, ưu tư, sầu khổ, gọi là angoisse, và tâm hành này làm ra bệnh khá nhiều. Con người biết đặt vấn đề đau khổ, vấn đề chết. Các loài khác có nhận thức và trí tuệ nằm ở dưới mức độ thấp hơn, vì vậy không ý thức được là mình đang đau khổ, mình sẽ già, mình sẽ chết, hay mình có thể biến thành hư vô. Con người đau khổ nhiều hơn vì có cái angoisse, cái ưu tư ấy. Chính cái angoisse này đã tạo ra triết học. Tôi là ai? Tôi từ đâu tới? Ngày mai sẽ có còn tôi hay không? Trong quá khứ có tôi hay không? Nếu có tôi thì tôi là gì? Trong quá khứ, tôi có thể là một con cóc hay không? Rồi trong tương lai sẽ có tôi hay là không? Nếu có tôi thì tôi sẽ là con gì? Cái mặt tôi có đẹp hay không? Cái đuôi của tôi có dài hay không? Những câu hỏi như vậy. Tất cả những câu hỏi đó cũng đều có tính triết học. Triết học angoisse. Loài người bị bệnh tâm thần một phần cũng vì cái angoisse đó. Cha mẹ tôi có muốn có tôi hay không? Tôi ra đời có phải do một tai nạn hay không? Có ai thương tôi hay không? Tất cả những câu hỏi đó có thể làm cho ta đau khổ. Trong khi đó, chính cái khả năng có thể ý thức được, gọi là con người chánh niệm, lại cũng là yếu tố cứu tinh cho con người và cho muôn loại. Chính cái ý thức đó giúp cho ta biết rằng tình trạng đi xuống của sinh môi trên trái đất đang là mối hăm dọa cho tất cả các chủng loại. Chính nhờ ý thức đó mà chúng ta biết rằng tình trạng của trái đất đang lâm nguy, tại vì con người đã tàn phá trái đất và làm ô nhiễm sinh môi rất nhiều. Con người đang ý thức được đau khổ đang tràn lan về phương diện áp bức, bất công xã hội, khai thác và điên loạn. Cũng nhờ ý thức này mà con người thấy được và thấy được rồi thì có khả năng tự ngưng lại và giúp người khác ngưng lại để đừng đi tới sự đổ vỡ và tự hủy của cả trái đất. Thành ra, một mặt ý thức ấy đưa ra những lo lắng, ưu tư, buồn khổ, sợ hãi, bệnh tật, nhưng một mặt khác, nếu biết sử dụng ý thức và chánh niệm đó, thì ta thấy được cái tình trạng, và biết mình phải làm gì và không nên làm gì để có thể chuyển hóa, đem lại an lạc, tươi vui và sự sống còn cho nhân loại.

Đức Thế Tôn là mẫu người tốt đẹp nhất của chủng loại homo-conscius, con người chánh niệm, con người đi thẳng, con người khéo léo (homo-habilis), con người biết suy tư (homo-sapiens). Danh từ homo-conscius này đã được bắt đầu sử dụng. Trong khi ăn cơm, ta phải ăn như thế nào để có sự thoải mái, để có hạnh phúc. Chúng ta ngồi quây quần lại để ăn cơm với nhau, đó cũng là một sự thực tập rất sâu sắc, như chúng ta thở, chúng ta đi, chúng ta làm việc trong bếp. Ăn như thế nào mà tổ tiên cùng được ăn với ta, mẹ được ăn với ta, cha được ăn với ta, ông nội được ăn với ta, ông ngoại được ăn với ta. Ta ngồi thoải mái như là một người bình an vô sự, không lo lắng, không buồn phiền, an trú trong hiện tại, tiếp xúc sâu sắc với thức ăn và với tăng thân. Ăn như thế nào mà giải phóng được cho tất cả các thế hệ tổ tiên và con cháu.

Ngày xưa, hồi tôi còn bốn năm tuổi, mỗi lần mẹ đi chợ về thì được một cái bánh ít, hay là bánh in gì đó. Trước khi mẹ về thì mình đã vui rồi. Thành ra mình có thể đi thảnh thơi ở trong vườn, chơi với con ốc sên, chơi với hòn sỏi. Đến khi mẹ về thì mình mừng quá. Cầm lấy cái bánh mẹ cho, đi ra phía sau để ăn một mình. Và mình biết rất rõ là không nên ăn mau, phải ăn chậm chậm, càng chậm chừng nào càng tốt chừng đó. Cắn một miếng nhỏ để cho chất liệu của miếng bánh thấm vào trong lưỡi, rồi nhìn lên trời xanh, rồi cúi xuống, đưa chân phải hất con chó nhè nhẹ, lấy tay trái vuốt con mèo, rồi cắn thêm một miếng thứ hai. Cứ như vậy mà ăn hết cái bánh. Có khi ta để ra cả nửa giờ đồng hồ mới ăn hết cái bánh. Tại vì trong lúc đó ta đâu phải lo lắng về danh, về lợi, về quá khứ, tương lai? Ta hoàn toàn có khả năng sống trong hiện tại. Cái bánh in thời thơ ấu ấy là một cái kỷ niệm. Chúng ta ai cũng đã từng được sống như vậy. Lúc ấy, ta không tham danh, tham lợi, không thao thức về quá khứ, không thao thức về tương lai, không đặt những câu hỏi triết học: Ta là ai? Đời sống ta có nghĩa gì? Nhưng bây giờ ta còn khả năng ăn được một cái bánh hay uống một chén trà như vậy hay không? Chúng ta tới đây là để ta học làm trở lại những gì mà chúng ta đã không có thể làm được nữa. Chúng ta tới đây để học đi trở lại cho vững chãi, cho thảnh thơi, đừng đi như bị ma đuổi. Chúng ta tới đây để học ngồi trở lại cho thoải mái như ngồi trên một đóa sen mà không phải ngồi trên một đống lửa hồng. Chúng ta học thở, học nói, học cười. Chúng ta phải học làm lại tất cả. Ngày xưa, mẹ chúng ta đã từng dạy chúng ta ăn, uống, lật, đứng dậy, đi, nói…, chúng ta đã làm được. Bây giờ, chúng ta lại phải học lại tất cả. Tại vì chúng ta sinh ra một lần thứ hai ở trong ánh sáng của chánh pháp.

_____________________
(Pháp thoại ngày 26.3.1998, xóm Mới trong khóa tu mùa Xuân).

Lượng Cả Bao Dung (nhẫn ba la mật)

Chịu và Đựng

Paramita dịch tiếng hán việt là Độ, có nghĩa là đi sang bờ bên kia, vượt bờ. Ta biết rằng ta có thể thực tập được chuyện vượt bờ bất cứ lúc nào trong ngày. Khi giận hờn thì ta đang ở bờ bên này, bờ của sự giận hờn, và ta muốn vượt qua bờ bên kia, bờ của sự thương yêu và tha thứ. Muốn qua bờ bên kia, ta phải sử dụng một chiếc bè nào đó mà ta đã tiếp nhận được từ Bụt, từ thầy, từ tăng thân. Đứng ở bờ bên kia nỗi buồn và cơn giận sẽ không còn nữa. Chúng ta biết rằng bờ bên kia không phải là chuyện xa vời. Bờ bên kia là cái có thể xẩy ra ngay trong giờ phút hiện tại.

Chữ nhẫn có nghĩa là chịu đựng. Danh từ “chịu đựng” là một danh từ rất hay. Nó dịch được chữ ksanti. Nó hay hơn chữ nhẫn nhục. Chữ nhẫn viết theo tiếng Hán có chữ tâm nằm dưới tức là tâm thức của ta, và trên chữ tâm có chữ nhận. Chữ nhận có nghĩa là mũi nhọn, giống như có một cây dao hay cái dùi có mũi nhọn đang làm chúng ta đau nhức. Tâm chúng ta phải làm thế nào để có thể ôm được, chấp nhận được sự nhức nhối đó. Đó là nghĩa của chữ nhẫn theo cảm nghĩ của người Trung Quốc. Trong khi đó tiếng Việt là chịu đựng. Chịu tức là chấp nhận. Chịu không, anh chịu không?” “Tôi chịu.” Cho dù có khó khăn, vất vả, cho dù có lao nhọc, dai dẳng, tôi vẫn gánh chịu được. Chữ chịu nầy là có nghĩa là sự chấp nhận (acceptance). Chúng ta biết rằng chấp nhận là một sự thực tập rất lớn. Khi chưa chấp nhận được chúng ta mới đau khổ nhiều. Giờ phút mà ta chấp nhận được thì ta đã có sự an bình trong lòng rồi. Một người bị ung thư, lần đầu tiên được tin mình đang có bệnh ung thư, không thể tin được rằng mình có thể có ung thư. “Oh, no!”, người ấy nói như vậy. Người đó đau khổ và chống đối. Trách trời, trách đất, giận mình, giận người, giận tất cả. Và người đó phải vật lộn rất lâu với sự thật. Sự đau khổ lên tới cùng cực, kéo dài một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, mười ngày, hai mươi ngày. Thời gian đó là thời gian người ấy học tập để chấp nhận sự thật. Khi chấp nhận rằng tôi có ung thư, đây là một sự thật không thể nào chối cãi được, thì lúc đó ở trong tâm sẽ phát sinh một sự bình an. Chúng ta phần lớn chưa có, hoặc không có ung thư, nhưng chúng ta cũng có thể đã có cái kinh nghiệm tương tự. Khi có một sự kiện bất như ý xảy ra trong đời sống, chúng ta thấy rằng chúng ta không thể chấp nhận được. Chúng ta nghĩ: làm sao sống được với tình trạng này, với cái gì đang xảy ra? Tại sao ta như thế này mà lại phải gặp một hoàn cảnh như thế kia? Tại sao ta như thế mà người ta lại đối xử với ta như thế? Ta phản kháng, ta chống đối, ta không chấp nhận. Nhưng sự thật là như vậy. Cuối cùng ta cũng phải học chấp nhận. Đó là nghĩa chữ chịu của tiếng Việt. Chữ thứ hai là đựng. “Đựng” có nghĩa là chứa đựng. Chúng ta có những cái chén có thể đựng nước. Chén nhỏ thì đựng được ít nước. Chén lớn thì đựng được nhiều nước. Nếu niềm đau nỗi khổ của ta lớn thì ta phải có một cái tâm khá lớn thì mới đựng được nó. Nếu không nó sẽ tràn ngập và làm ta khổ vô cùng. Tâm càng lớn thì nỗi khổ đau càng nhỏ, khi mà tâm đạt tới cái mức rất lớn (cực quảng, thậm đại) thì cái đau khổ đó tuy có mặt nhưng không đủ sức làm cho ta đau khổ. Đây là một điều rất lạ lùng, nhưng rất dễ hiểu. Trong kinh Tăng Chi Bộ, Anguttara-Nikaya, Bụt có dùng một ví dụ rất hay. Bụt nói nếu trong một bát nước mà người ta thả vào một nắm muối thì nước ở trong bát đó uống không được. Nhưng nếu có một người đứng trên thuyền mà đổ một bát muối xuống dưới sông thì người ta vẫn có thể uống nước sông được như thường. Người ta uống nước sông được, không phải tại vì trong ấy không có muối, nhưng tại vì lòng sông quá lớn. Cho nên so với sông thì chút muối ấy không có nghĩa lý gì cả. Cũng vậy, khi ta có một nỗi khổ niềm đau, mà ta có một cái tâm quảng đại, thì nỗi khổ niềm đau đó không đủ sức làm cho ta đau khổ. Nó có đó chứ không phải là không có, nhưng vì ta có một sức chịu đựng rất lớn cho nên nỗi khổ niềm đau đó không có tác dụng gì trên cái tâm của chúng ta. Đó là nghĩa của chữ đựng.

Vì vậy cho nên Nhẫn Nhục Ba La Mật không phải là đè nén xuống, đè nén niềm đau, nỗi giận của mình xuống. Rất đông người học Phật không hiểu được chữ nhẫn, và nghĩ rằng nhẫn tức là ráng cắn răng đè niềm đau nỗi khổ xuống. Khi một dòng sông vĩ đại nhận một nắm muối nhỏ, nó đâu cần phải nghiến răng để đè niềm đau đó xuống đâu. Nó vẫn cười như thường, tại vì niềm đau nỗi khổ đó, nắm muối đó không có nghĩa lý gì hết. Vì vậy nhẫn nhục không có nghĩa là đè nén hay ức chế. Phương pháp cắn răng chịu đựng và cố nuốt đó rất nguy hiểm. Chúng ta đã từng thấy có nhiều người khi bị la mắng hay dày vò thì cố không có phản ứng, cố làm ra vẻ tươi cười. Chúng ta thấy được thiện chí của người đó. Nhưng mà sức người có hạn. Một tuần, hai tuần, ba tuần, bốn tuần…, cho đến một ngày nào đó, những cái mà chúng ta đè nén áp bức đó sẽ vùng dậy và giống như một dòng sông vỡ bờ, chúng sẽ làm ngập lụt cả vùng. Rất nguy hiểm. Chúng ta đã từng thấy, chúng ta đã từng chứng kiến cảnh đó. Vì vậy cho nên nhẫn nhục quyết không phải là sự đè nén, không phải là sự ức chế. Nhẫn nhục tức là mở lòng ra cho tâm càng ngày càng lớn. Nếu chúng ta đè nén chúng xuống, tiếng Pháp gọi là refouler hay là supprimer, thì đến một mức nào đó chúng sẽ trở thành quá nặng như một vùng năng lượng đen tối bị cất giữ lâu ngày, đến một lúc nào đó sẽ bùng dậy. Chúng ta thấy có một cái gì giống như một cơn bão và chúng ta không hiểu tại sao người đó hôm nay lại hành xử bạo động như vậy. Chúng ta không ngờ rằng người đó có thể nói những điều như vậy và làm những điều như vậy. Một người thường thường mình thấy là không có gì bạo động, không có gì hung hãn mà ngày hôm ấy trở thành một người rất bạo động, rất hung hãn. Ta không thể nào nhận ra được người đó. Đó là kết quả của sự ức chế. Bụt không dạy như vậy. Bụt không dạy chúng ta ức chế và đè nén. Bụt dạy ôm ấp niềm đau nỗi khổ đó và làm cho tâm của chúng ta lớn lên bằng phương pháp quán chiếu.

Đựng nghĩa là chứa đựng. Muốn chứa đựng thì chúng ta phải có một dụng cụ, một đồ đựng. Đồ đựng đó nhỏ thì mình đựng được ít. Đồ đựng đó lớn thì mình đựng được nhiều. Dung tích của đồ đựng đó, chúng ta gọi là lượng. Lượng này là lượng của cái gì? Không phải là lượng của một cái chén, cái ly hay một cái lu, cái chậu, mà là lượng của tâm, tại vì chúng ta đang nói tới nhẫn nhục. Vì vậy cho nên lượng của tâm gọi là tâm lượng. Chúng ta khổ đau nhiều hay ít là do cái tâm lượng của chúng ta lớn hay nhỏ. Và tu tập có nghĩa là làm cho cái lượng của tâm càng ngày càng lớn. Lượng tâm càng lớn thì càng ít đau khổ, càng nhiều hạnh phúc.

Lượng Cả Bao Dung

Khi nói chuyện với Từ Hải lần đầu, Thúy Kiều đã thấy được nơi Từ Hải một con người rất tốt, một lòng dạ khá lớn. Thúy Kiều nói: “Anh là người có lượng lớn!”

“Nàng rằng: lượng cả bao dung
Tấn dương được thấy mây rồng có phen.”

Lượng cả bao dung. Quí vị trẻ có thể không biết chữ cả là gì. Cả có nghĩa là lớn. Chữ cả tương đương với chữ đại. Lượng cả tức là đại lượng. Cả cười tức là cười lớn. Anh cả tức là anh lớn. Lượng cả bao dung tức là lượng của Ngài lớn quá cho nên nó bao dung được hết tất cả, dù người kia có lỗi lầm, dù người kia có hư hỏng, dù người kia có khó khăn, dù người kia có ác độc, Ngài vẫn có thể bao dung được, Ngài vẫn có thể thương được. Ngài thấy người đó cần được cứu giúp hơn là cần bị trừng phạt. Khi mình muốn trừng phạt là mình đang có đau khổ. Mình có đau khổ trong lòng cho nên mình mới muốn trừng phạt người kia, để cho người kia khổ, để cho đã cái khổ của mình, cái giận của mình. Khi tâm lượng của mình lớn rồi thì dù người kia không dễ thương với mình, ác độc với mình, tệ lậu với mình thì mình cũng không giận, trái lại mình biết thương xót. Do đó cho nên thay vì có ý định muốn báo thù hay muốn trừng phạt, mình lại có những biện pháp giúp người kia để người kia đừng làm như vậy nữa, tại vì làm như vậy thì chính người đó khổ và người đó làm cho những người khác tiếp tục khổ. Cái đó gọi là lượng cả, đại lượng. Những người lớn như là cha, mẹ, thầy, anh, chị, tỉnh trưởng, quận trưởng, bộ trưởng, thủ tướng, tổng thống, hay vua… đều là những người cần có cái lượng lớn. Tại vì nếu không có cái lượng lớn thì mình không xứng đáng làm anh của người kia, không xứng đáng làm chị của người kia, không xứng đáng làm thầy của người kia, không xứng đáng làm cha, làm mẹ của người kia. Cha mẹ mà giận con, mà từ con, mà oán hờn con cũng tại vì cha mẹ chưa có lượng lớn.

Trong truyện Kiều có một câu khác của Nguyễn Du nói về lượng: “Có dung kẻ dưới mới là lượng trên”. Dung tức là dung chứa, là đựng. Nếu mình muốn là người trên thì mình phải có lượng. Người trên là ai? Người trên là anh, là chị, là thầy, là cha, là mẹ, là vua. Người trên thì phải có lượng, lượng lớn, cái đó gọi là lượng trên. Có lượng lớn thì mình mới có thể dung được kẻ dưới. Dung tức là ôm trùm được mà không có nhu yếu loại trừ, đá ra khỏi, đạp ra khỏi. Nhưng mà lượng lớn hay không là do ta thực tập chứ không phải mình muốn cái lượng của mình lớn mà tự nhiên nó lớn ra được. Ví dụ ở Làng Mai có một thiền sinh mới tới. Thiền sinh đó cần tu học lắm, nhưng thiền sinh đó không dễ chịu. Vậy thì cái lượng của tăng thân như thế nào? Người đó ở được hay không ở được một phần là tùy cái lượng của tăng thân. Cái sự khó chịu đó của người kia chúng ta đo được ví dụ một gang hoặc một gang rưỡi. Nếu cái lượng của tăng thân nhỏ hơn một gang thì tăng thân không bao dung được người đó. Tăng thân chỉ bao dung được một phần sự khó chịu của người đó thôi và người này sẽ không được ở trong chúng. Hội đồng sẽ nói: “Không!”. Hội đồng đại diện cho tất cả tăng thân. Nếu tăng thân giỏi, có hạnh phúc nhiều thì tăng thân dễ chấp nhận được những người khó chịu; nếu tăng thân không được hạnh phúc lắm, tăng thân vẫn còn những khó khăn trong nội bộ thì rất khó cho tăng thân khi nhận thêm một người khó chịu, nhất là người đó khó chịu quá. Cho nên khi hội đồng quyết định nói: “Không!”, đó không có nghĩa là hội đồng không có sự hiểu biết, không có sự thương yêu. Hội đồng không ác độc, hội đồng có hiểu biết, có thương yêu, nhưng tại tăng thân biết rằng cái lượng của mình chưa đủ lớn để chấp nhận người này. Tại vì chấp nhận người này thì tăng thân sẽ rối loạn. Tăng thân cũng cần thực tập như cá nhân, nghĩa là làm thế nào để cho cái lượng của mình càng ngày càng lớn. Nếu cái lượng của tăng thân lớn hơn, hai gang, ba gang mà người kia vẫn không được ở, thì trong trường hợp này chúng ta phải hiểu như thế nào? Chúng ta phải nhìn nhận rằng nếu muốn đi tới một giải pháp êm đẹp cho cả hai bên thì phải có sự cố gắng của cả hai bên. Tăng thân phải cố gắng làm cho cái lượng của tăng thân lớn lên một chút, tăng thân phải hoan hỷ hơn, phải hiểu biết hơn, phải thấy được nỗi khổ của người kia hơn. Nghĩa là cái lượng của tăng thân phải lớn ra thêm. Người kia cũng phải cố gắng thực tập để làm giảm bớt sự khó chịu đi. Nếu người đó thực tập được, làm cho cái mức khó chịu của mình xuống dưới cái mức chịu đựng của tăng thân thì người đó sẽ được chấp nhận. Vấn đề là như vậy. Thành ra cần phải có sự cố gắng của cả hai bên. Điều này có thể được áp dụng ở tất cả trường hợp: cha với con, chủ hãng với người làm công, chị với em, anh với em. Vấn đề là vấn đề cái lượng của mình. Trong câu “Có dung kẻ dưới mới là lượng trên” của cụ Nguyễn Du, ta thấy cụ Nguyễn Du đang nói về những người có lòng lớn, những người lớn, tức là những người anh, người chị. Mình là người lớn thì cái tâm của mình phải lớn. Nếu mình là anh mà cái tâm của mình không lớn hơn cái tâm của em mình thì mình chưa phải đích thực là anh. Nếu mình là chị mà cái tâm của mình chưa lớn bằng tâm em của mình thì mình chưa đích thực là chị. Nội dung câu này là như thế. Còn nếu ta nói: “Tao không chịu đựng được mầy nữa, tao hết chịu đựng được mầy rồi, mầy không phải là em tao. Đi đâu thì đi!” Cái đó là cái lượng của mình đang còn nhỏ. Mà nếu nó còn nhỏ là tại vì mình không chịu thực tập, không chịu quán chiếu để hiểu biết, để thương yêu. Tại vì thương yêu chỉ có mặt khi mà mình đựng được, khi mình chịu đựng được. Trong truyền thống thiền môn ta hay nói rằng một ông thầy giỏi, một ông thầy tốt, là một ông thầy vừa có ân vừa có uy. Cố nhiên làm thầy thì phải có uy quyền. Uy quyền này là uy quyền tinh thần. Nếu không có uy quyền tinh thần thì học trò không thể theo học được. Mà uy quyền đó là do sự thực tập mà có chứ không phải tự nhiên mà có. Nếu vị ấy không thực tập, nếu vị ấy ba nghiệp không được chăm sóc, nếu vị ấy không hành xử theo giới luật và uy nghi thì vị ấy không thể nào làm thầy người ta được, tại vì vị ấy không có uy. Không phải là do nạt nộ người ta mà mình có uy. Uy không có nghĩa là lấy tư cách chủ chùa để dọa nạt người ta, làm người ta sợ và phải vâng theo mình. Sử dụng uy quyền theo kiểu ấy thì đó là chỗ thấp nhất của sự thực tập. Người ta không cãi lại mình, người ta chịu nhịn mình là tại vì người ta sợ mình đuổi. Cái đó không phải là cái uy. Cái uy của một ông thầy có được là do ngôn ngữ, hành động và tư tưởng đều đúng theo chánh pháp. Được đặt trong giới luật và uy nghi thì tự nhiên vị thầy đó có uy và có uy thì học trò sẽ kính nể. Và uy đi đôi với ân. Ân tức là tình thương, ân là lượng cả bao dung. Vị thầy giỏi là vị thầy có lượng cả bao dung. Cái lượng cả bao dung đó đi đôi với cái uy của một vị đạo sư. Vì vậy cho nên chúng ta phải thực tập cả hai cái. Hai cái có dính líu tới nhau.

Trong đời sống chúng ta có thể gặp nhiều điều bất như ý. Ta có thể đau khổ cùng cực. Có lúc ta có thể nghĩ rằng thà chết mà khỏe hơn là sống. Nhẫn Nhục Ba La Mật là phương pháp thực tập để chúng ta có thể đối diện với tất cả những khó khăn, những khổ đau, những trắc trở, những tai nạn có thể xảy ra trong đời chúng ta, dù tai nạn đó là tai nạn lớn nhất. Phương pháp thực tập đó không có gì khác ngoài việc học tháo gỡ để làm cho tâm ta càng ngày càng lớn, để cho cái tâm lượng của chúng ta càng ngày càng lớn. Mà cái lượng của tâm thì chỉ có thể được làm bằng chất liệu của hiểu biết và của thương yêu. Trước hết chúng ta hãy nói về bệnh. Bệnh là một cái mà tất cả chúng ta đều phải chấp nhận. Chúng ta người nào cũng có một chút bệnh, ít hay nhiều. Chúng ta phải có cái lượng khá lớn để có thể chấp nhận được cái bệnh của chúng ta. Cố nhiên bệnh lớn thì phải thực tập nhiều. Và bốn cái bệnh lớn nhất là bệnh chết, bệnh già, bệnh sinh và bệnh bệnh.

Bệnh Chết

Trước hết chúng ta hãy quán chiếu về bệnh chết. Chết là một cái bệnh. Tất cả chúng ta đều đang mang cái bệnh đó ở trong người, tại vì chúng ta ai mà không phải chết. Người thì chết sớm, người thì chết trễ. Anh nói rằng anh có ung thư, anh sẽ chết trong vòng sáu tháng. Anh nói rằng tôi không có ung thư, tôi không chết. Cái đó không đúng. Tôi cũng đang chết như anh. Tôi chỉ chết trễ hơn anh thôi. Anh và tôi cùng mang chung một thứ bệnh, đó là bệnh chết. Có nhiều người tìm cách để quên rằng mình có cái bệnh chết đó. Các nhà triết học và đạo học đều đặt vấn đề: Tại sao ta sinh ra? Để rồi ta phải chết?

Có người đi tìm phép trường sinh bất tử, đi tu đạo Lão, tịch cốc, luyện đơn. Có người đi tu đạo Bụt. Có người đi uống rượu, tại vì uống rượu thì có thể quên được trong chốc lát sự thật là anh thế nào cũng phải chết. Cho đến những nhà nông dân nghèo khổ, đầu tắt mặt tối, cả ngày lo chuyện cơm áo nhà cửa, mà thỉnh thoảng cũng có một vài phút rỗi rảnh nghĩ đến thân phận của con người: tại sao mình phải chết. Ông láng giềng của tôi, ông Gerlin, ngày xưa nhà ở gần am Phương Khê, là người gốc Ý. Ông nói tiếng Pháp rất ít và ưa pha vào tiếng Ý. Ông không có học thức. Ông trồng nho. Ông phát cỏ. Chính ông đã tới dạy cho tôi cái phương pháp phát cỏ. Ông cũng biết điều hợp những cử động của hai tay với hơi thở, tại vì kinh nghiệm cho ông biết rằng làm như vậy thì không mệt. Một hôm ông ngưng phát cỏ và than thở với tôi là ông rất phẫn uất đối với sự thật đó của cuộc đời: tại sao một mai này mình phải chết.

Thiền sư Tiên Nhai của Nhật Bổn một hôm viết xuống một chữ Tử rất lớn. Rồi thầy viết thêm một hàng nhỏ: “Nếu người nào thấy được bản chất của cái này thì mới là bậc đại trượng phu”. Tất cả chúng ta ai cũng đều có cái bệnh chết. Đạo Lão, đạo Tiên cũng đi tìm cách chữa bịnh này, đạo Bụt cũng đi tìm cách chữa bệnh này. Chúng ta phải chịu đựng nó bởi vì nỗi sợ chết là cái ung nhọt do bệnh làm ra, nó luôn luôn nằm dưới đáy tâm thức. Sở dĩ chúng ta cười được, nói được, chạy chơi được là tại vì ta tạm quên nó thôi, chứ sự thật nó sờ sờ ra đó, và một ngày nào đó thì mình phải chết. Muốn để cho cái sợ chết không làm mình khổ thì mình phải thực tập. Mình phải có cái lượng. Đạo Bụt dạy mình nhiều phương pháp. Đạo Bụt không dạy mình phải tịch cốc luyện đơn như đạo Lão. Đạo Bụt dạy mình trong đời sống hằng ngày, trong những giây phút của đời sống hằng ngày, sống làm sao cho sâu sắc để đồng thời tiếp xúc được với bản môn. Chỉ có tiếp xúc được với bản môn thì ta mới có thể chữa được bịnh chết. Muốn tiếp xúc được với bản môn thì ta phải quán chiếu. Khi tiếp xúc được với bản môn rồi thì ta thấy sống và chết chỉ là sóng, trong khi ta là nước. Lúc đó cái lượng của mình rất lớn. Sống thì sống chết thì chết. Sống một triệu lần cũng được. Chết một triệu lần cũng được. Không sợ nữa. Cỡi trên sóng sinh tử mà đi. Đó là người đã đạt được tới sự siêu thoát sinh tử. Đó là cái công phu làm cho lượng mình lớn. Không những ta gọi nó là đại lượng mà còn gọi nó là vô lượng. Vô lượng thọ, tức là tên của Bụt A Di Đà. Vô lượng thọ là gì? Là sống hoài sống mãi. Làm sao có thể có được chuyện này? Có ai sống hoài đâu? Ai có thể tự xưng mình là vô lượng thọ? Không ai tự mình xưng mình là vô lượng thọ cả. Nhưng đối với người đã tiếp xúc được với bản môn thì người đó có vô lượng thọ. Chúng ta cũng vậy. Sư chú, sư cô tuy còn trẻ, nhưng nếu tiếp xúc được với bản môn thì sư chú và sư cô đã là một bậc vô lượng thọ.

Bệnh Sinh

Sinh là một cái bệnh. Điều này mới nghe thì thấy lạ lùng. Tại vì sinh, la naissance, thường được người ta cho là một hiện tượng rất vui, rất hy hữu. Khi sinh con, người ta làm tiệc ăn mừng và tới ngày sinh nhật người ta thường làm một cái bánh và đốt lên bao nhiêu ngọn nến. Người ta ăn mừng sự sống. Không ai ăn mừng sự chết cả. Mình muốn thoát ly khỏi sự chết, chứ mình đâu có muốn thoát ly khỏi sự sống. Vì vậy cho nên giữa hai cái sinh và tử, mình chỉ muốn chọn một cái. Chọn sinh thôi, còn tử thì bỏ ra ngoài. Nhưng quán sát lại ta sẽ thấy có những người đã từng trải qua rất nhiều khổ đau. Niềm vui rất ít, mà nỗi khổ thì vô lượng. Có những người sống ngay trong thế kỷ này mà mỗi ngày đã tìm cách tự tử ba, bốn lần, tại vì họ chịu đựng không nổi sự sống, họ không có Nhẫn Nhục Ba La Mật. Chúng ta đã từng đọc hồi ký của những người trong tù, của những người gian nan, vào sinh ra tử. Chúng ta hiểu được tại sao có những người cảm thấy rất mệt mỏi với sự sống. Ngay trong giới những người còn trẻ cũng có người muốn chết, muốn tìm giải thoát trong cái chết. Nhưng đức Thế Tôn dạy rằng chết không phải là giải pháp. Tại vì sau khi chết rồi, anh lại phải sinh ra trở lại. Con đường tự tử là con đường dại dột. Anh nghĩ rằng chết là để chấm dứt, nhưng theo tuệ giác của tôi thì chết không phải là chấm dứt mà là một khúc quanh để chuyển sang một giai đoạn mới. Chết là để sinh ra trở lại. Điều này không phải chỉ đúng trong giờ phút lâm chung mà đúng ở trong mỗi giây phút của đời sống hằng ngày. Trong mỗi giây phút của đời sống hằng ngày, anh luôn luôn chết để sinh trở lại. Nếu thực tập thì anh sẽ sinh vào một cõi nhẹ nhàng hơn, nếu anh không thực tập thì anh sẽ sinh vào địa ngục, ngay trong giờ phút hiện tại. Trong một ngày mình có thể sinh ra và chết đi rất nhiều lần, và cõi mình sinh ra tùy thuộc ở cách mình chết. Vì vậy cho nên ngày xưa, và cả bây giờ cũng vậy, có rất nhiều người sợ sinh, tại vì sinh ra là phải chịu đựng những cái mà mình đã chịu đựng trong suốt cuộc đời mình. Giải thoát tử rồi lại còn muốn giải thoát sinh nữa. Nếu không giải thoát sinh thì ta còn phải chết hoài, chết trăm lần, ngàn lần, vạn lần. Ở địa ngục, người ta nói rằng mỗi ngày người ta phải chết cả triệu lần. Đúng như vậy. Trong địa ngục, giây phút nào ta cũng đau khổ, vì vậy cho nên giây phút nào ta cũng muốn chết. Nhưng chết đâu có phải là yên, là hết. Chết là để sinh ra lại. Cho nên giải thoát không phải là giải thoát tử, mà là giải thoát sinh tử. Mục tiêu đó trong đạo Bụt gọi là vô sinh. Cửa vô sinh mở rồi. Vì vậy tìm cách giải thoát ra khỏi cái chết, mà không tìm cách giải thoát ra khỏi cái sinh thì đó là một điều mơ ước viển vông. Làm sao có cái sinh mà không có cái chết. Sự thật rất đơn giản là có sinh thì phải có tử, có ngày thì phải có đêm, có trái thì phải có phải, có trên thì phải có dưới. Tại sao anh muốn có một cái mà không muốn có cái kia? Anh muốn có phải mà không muốn có trái thì làm được, làm sao có thể có trái mà không có phải? Nếu anh chấp nhận sinh thì anh phải chấp nhận tử. Chúng ta đã hiểu rằng tại sao ở trong kinh điển có câu giải thoát sinh tử. Nếu thấy được điều đó, quí vị mới bắt đầu hiểu được mười hai nhân duyên trong đạo Bụt. Người ta tu đạo Lão để trốn thoát cái tử. Người ta tu đạo Bụt để giải thoát cả sinh lẫn tử. Cái khác là ở chỗ đó. Giả dụ có người đau khổ tới mức cùng cực, trong đời không có điều gì vui hết, đời không đáng sống. Như Thúy Kiều có lúc nói: “Đã không biết sống là vui, tấm thân nào biết thiệt thòi là thương”. “Sống mà đã không vui thì tại sao không chết đi?”. Có rất nhiều người nghĩ như vậy. Nhưng may mắn là ta còn có thể chết được. Giả dụ có người tuyên án rằng: anh phải sống mãi mãi, hoài hoài, không bao giờ được chết. Đó là một cái án ghê gớm. Cái án đó nặng bằng muôn ngàn án tử hình. Lâu nay anh có tự do muốn chết thì chết, nhưng bấy giờ vì có bản án đó rồi nên anh bắt buộc phải sống hoài. Có những lúc anh mệt quá chừng, mệt tới mức nghĩ rằng chỉ có cái chết mới giúp anh được nghỉ ngơi. Thành ra trường sinh bất tử có thể không phải là cái mà chúng ta đi tìm. Cái chúng ta đi tìm không phải là trường sinh bất tử. Cái chúng ta đi tìm là giải thoát sinh tử. Tức là ta có khả năng coi sinh và tử nhẹ như một sợi tóc, một chiếc lông hồng, một sợi tơ. Chỉ có thực tập đạo Bụt và tiếp xúc với bản môn ta mới giải thoát được sinh và tử. Cho nên người ngộ đạo thì sinh ra cũng được, chết đi cũng không sao. Gọi là ra vào sinh tử. Nhưng ra vào với cái lượng của một vị bồ tát. Cỡi trên sóng sinh tử mà đi. Sinh hả, cũng được! Tử hả, cũng được! Tại vì mình có một cái thấy lớn, một tình thương bao la, một tâm lượng bao la, cho nên sinh và tử không thực sự đụng chạm tới mình. Vì vậy cho nên thiền sư Tuệ Trung đời Trần, trong bài Phóng Cuồng Ca đã thốt lên: “Cái sống và cái chết tới ép uổng ta, vây hãm ta, nhưng làm sao động tới ta được?” (Sinh tử tương bức hề, ư ngã hà thương). Đó là câu thơ của một người ngộ đạo có thể xem sinh tử nhẹ như chiếc lông hồng.

 

Bệnh Già

Già là một cái bệnh, và tất cả chúng ta đều có mang hạt giống của bệnh già. Có ai mà sẽ không già? Thế nào ta cũng sẽ phải già. Ta có chịu đựng được không? Giờ này đây sư em Tuệ Nghiêm đâu có chấp nhận được sự kiện sau này mình sẽ trở thành một sư bà móm. Nhưng thế nào một ngày mai sư bà cũng móm, không thể nào tránh thoát được. Sư cô có thể là không tin rằng chuyện đó sẽ xảy ra cho mình. Sự thật là tất cả chúng ta đều sẽ phải trở thành những ông già móm, những bà già móm. Chúng ta đều sẽ phải chống gậy để đi. Chúng ta đều sẽ không còn có hai chân khỏe để chạy. Quí vị hãy nhớ đi thiền hành mỗi ngày, nếu không thì uổng lắm đó. Đến khi hai chân run rồi thì dù ta có muốn đi thiền hành nữa cũng không đi được. Tôi cũng đang mang bệnh già và tôi đang thực tập quán chiếu rất nhiều về cái bệnh già của tôi. Ngày xưa ký ức tôi rất tốt. Đến khi về già rồi, tự nhiên có những cái tiếng, có những cái chữ mình muốn nhớ lại mà chúng không chịu nhảy lên, và dù có đi tìm tòi lục lạo trong tàng thức mình cũng khó nhớ lại. Ban đầu tôi không chấp nhận được điều đó. Tôi không chấp nhận được cái chuyện là mình đang già. Có một lúc, vào hai ba giờ khuya, tôi quên một chữ. Quên một chữ mà không ngủ được nữa. Mà chữ ấy đâu có quan trọng gì lắm, đến nỗi mình phải bỏ giấc ngủ. Mình bỏ giấc ngủ đi tìm là tại vì mình giận. Mình giận vì không chấp nhận được sự kiện là mình đã già. Chữ đó là chữ salpêtre. Salpêtre là một thứ muối mọc ra ở những chân tường đá ẩm thấp. Tôi tự bảo: “A lại gia thức ơi, chữ đó là chữ gì, giúp tôi với!” Tàng thức không giúp tôi được. Tất cả mọi người đều ngủ hết rồi. Điện thoại cho ai được. Mà mở tự điển ra thì mình đâu có biết rằng chữ ấy phải bắt đầu bằng chữ “S”? Có một lần cả cái tên của thành phố Darwin tôi cũng quên mất. Đi trên xe buýt tôi nghĩ tới cái thành phố mang tên nhà bác học đó mà không nhớ được cái tên ấy. Nhà bác học đã sáng tạo ra thuyết tiến hóa. Sự thật là tôi đã già. Mỗi ngày có nhiều tế bào óc chết. Những phản kháng và bực mình của ta chỉ là do vô minh tạo ra thôi. Chúng ta nhiều người có trí tuệ, nhưng không chịu đem trí tuệ của mình ra để sử dụng. Mình biết chứ không phải không biết đâu, nhưng mình vẫn không chịu đem trí tuệ ấy ra sử dụng. Vì vậy trong khi còn trẻ, ta hãy làm những gì mà người trẻ có thể làm được. Điều này rất quan trọng. Thiền sư Huyền Quang, tổ thứ ba của thiền phái Trúc Lâm, ngày xưa ưa ở Côn Sơn. Có mấy sư chú ở chung với Ngài. Mùa đông này chúng ta sẽ được học về thầy Huyền Quang trong khóa tu về chủ đề Truyền Thống Sinh Động Của Thiền Tập. Thầy Huyền Quang lúc đó đã già và vì vậy rất ưa sống với các sư chú. Tại vì thầy nghĩ rằng sống với các sư chú thì mình có cảm tưởng là mình ít già hơn. Thầy Huyền Quang rất ưa hoa cúc. Thầy để rất nhiều thì giờ chăm bón hoa cúc. Thỉnh thoảng đến mùa hoa mai nở, thầy cũng đi vào núi cắt một vài cành mai về cắm. Thầy nói rằng sở dĩ thầy cắt cành mai về là để cho cái bệnh già của Thầy được thuyên giảm chút đỉnh đó mà thôi.

Ngửa mặt trời cao hỏi lý do
Hiên ngang trong núi mọc thành hoa
Hái về không để chưng vui mắt
Chỉ mượn màu xuân đỡ bệnh già.

Tôi có cái bệnh già, vì vậy cho nên tôi cắt một cành mai về cắm ở trong phòng để ngắm nhìn và cảm thấy bớt già. Khi đọc thơ thầy Huyền Quang, tôi mới hiểu tại sao tôi ưa ngồi chơi với các sư cô và các sư chú trẻ. Tại khi ngồi với các người trẻ, ta thấy là ta không già. Nếu quán chiếu, mình có thể làm hay hơn. Mình có thể vượt được cái bệnh già chứ tại sao không. Nếu quán chiếu vào bản thân, nếu quán chiếu vào bông hoa, vào cành mai, nếu quán chiếu vào các sư chú và các sư cô ta sẽ thấy rằng ta đâu có già. Ta là một với họ. Ta đang trẻ mà, ta sẽ trẻ mãi mãi. Tất cả đều do sự quán chiếu. Quán chiếu như vậy, cái thấy lớn lên và cái bệnh già sẽ tiêu mất. Vì vậy cho nên bốn câu thơ mới đọc kia cũng chưa có gì gọi là siêu việt lắm.

Ngửa mặt trời cao hỏi lý do
Hiên ngang trong núi mọc thành hoa
Hái về không để chưng vui mắt
Chỉ mượn màu xuân đỡ bệnh già.

Đó chỉ mới là thoa kem cho bớt đau nhức thôi, chứ chưa phải là sự trị liệu.

Bệnh Bệnh

Cái bệnh thứ tư gọi là bệnh bệnh. Bệnh sinh, bệnh chết, bệnh già và bệnh bệnh. Bệnh bệnh có nghĩa là chúng ta không ai tránh khỏi cái bệnh. Nous sommes tous sujets à la maladie. Anh nói anh không có bệnh gì hả, nhưng mà anh cũng có bệnh bệnh. Nghĩa là anh có thể bị bệnh bất cứ lúc nào. Sự kiện chúng ta có thể bị bệnh, cái đó gọi là bệnh bệnh. Chúng ta phải quán chiếu. Bụt không muốn chúng ta trốn chạy. Cho nên Ngài mới nói rằng mỗi ngày ta đều phải thực tập: “Tôi thế nào cũng phải bệnh, tôi không thể nào chạy thoát khỏi cái bệnh.” Luận Bảo Vương Tam Muội có nói: ”Tu học đừng có cầu cho không có bệnh. Không có bệnh thì tham dục dễ sanh.” Mình phải học làm thế nào để chấp nhận được cái bệnh của mình. Mình phải làm quen với nó. Mình phải cười với nó. Mình phải ôm lấy nó. Mình phải đồng nhất với nó. Cuối cùng mình và nó cùng siêu việt. Mà con đường thực tập cũng là một con đường làm cho cái lượng của ta lớn lên. Có những người bệnh ít thôi, nhưng cũng chịu đựng không nổi. Bệnh chưa ghê gớm gì mấy, nhưng đã hốt hoảng và xuống tinh thần. Đôi khi mới tưởng tượng là mình có cái bệnh đó thôi, chứ chưa thực sự có bệnh mà đã hoảng lên, và đã bị trầm cảm (depression). Những người ấy có cái lượng rất nhỏ. Có một vị nữ thiền sư ở Boston biết bà ta có ung thư. Trong những năm chót của đời bà, bà thực tập rất sâu sắc. Có thể cái bệnh đó là một trong những nguyên do khiến cho vị nữ đạo sư đó thực tập rất vững chãi, rất êm ả. Đến ngày lâm chung, thị tịch, người nữ đạo sư đó có rất nhiều an bình. Ai cũng công nhận như vậy. Ngày xưa tôi đã từng giảng dạy ở trong thiền viện của vị nữ đạo sư đó. Từ khi được nghe tin rằng mình có ung thư, vị nữ đạo sư đó đã đi qua một cơn sóng gió. Nhờ sự thực tập cho nên sau một thời gian ngắn bà chấp nhận được. Biết rằng mình còn có bao nhiêu tháng, bao nhiêu năm để thực tập, nên bà đã đem hết tất cả con người của mình để thực tập. Do đó bà không còn chạy theo những cái danh, những cái lợi tầm thường nữa. Sự có mặt của một người như vậy rất có ích lợi cho những người xung quanh. Đâu có cần phải sống một trăm năm. Chỉ cần sống một năm thôi, hay là sáu tháng thôi, mà sống đúng với cái phong thái của một bậc thầy, còn hơn là sống năm mươi năm, bảy mươi năm mà phong thái của mình và đời sống của mình không phản ảnh được những ngôn từ mà mình nói ra. Những người như thế, như vị nữ đạo sư kia, đã có thể vượt ra khỏi cái bệnh gọi là bệnh bệnh. Thấy được rằng bệnh là một chuyện tất nhiên. Nếu mình không bệnh thì người khác bệnh. Mà người khác cũng là mình thôi. Cho nên, nếu mình thấy người khác bệnh mà mình mừng: “May quá, không phải mình!” tức là cái lượng của mình còn rất nhỏ. Trong sự thực tập hàng ngày, mình phải thấy cái bệnh của người kia là cái bệnh của mình. Do đó mình có thể lân mẫn, giúp đỡ và chăm sóc người đó như là chính mình bệnh. Những người như vậy có tâm lượng lớn. Nếu có rủi ro mà người như vậy mắc bệnh, thì người đó không đau khổ nhiều như những người khác. Cùng gặp những biến cố như nhau mà một người thì đau khổ cực kỳ, một người có thể mỉm cười được. Cái gì làm ra sự sai khác đó? Đó là Ksantiparamita, Nhẫn Nhục Ba La Mật. Chúng ta phải học hỏi. Chúng ta phải thực tập trong đời sống hằng ngày.

Trái Tim Ôm Trọn Thái Hư

Chúng ta đã nói tới danh từ chịu đựng. Chịu có nghĩa là chấp nhận và đựng có nghĩa là ôm lấy. Ôm lấy có nghĩa là không phải vứt bỏ ra ngoài, không liệng ra ngoài. Nếu chúng ta có thể ôm lấy được, thì đó là vì dung tích của trái tim chúng ta lớn. Còn nếu trái tim chúng ta nhỏ thì chúng ta sẽ không ôm lấy được. Nếu chúng ta ôm được và ôm hết lòng thì đối tượng ấy sẽ được chuyển hóa. Ở Việt Nam, ta có truyền thống quý khách; mỗi khi có khách, nhà tuy chật nhưng ta vẫn mời khách ở lại, dù khách và ta phải nằm dưới đất, dù phải trải chiếu nằm bên nhau như cá hộp. Vì có lòng thương mến những người khách cho nên chúng ta chấp nhận. Chúng ta nói “chật là chật bụng chứ không phải là chật nhà.” Khi trái tim của chúng ta không chật, thì dù cái nhà có chật cũng không sao. Đó là tại vì cái lượng của chúng ta lớn. Bài chúc tán có câu: “Bậc đại giác viên mãn xuất hiện nơi cõi Ta bà, tấm lòng ôm trọn cả thái hư.” Tấm lòng ôm trọn cả thái hư là được dịch từ câu: “Tâm bảo thái hư”. Mấy chữ đó cho chúng ta thấy trái tim của đức Thế Tôn rất lớn. “Lượng châu sa giới”: lượng Từ Bi của Ngài ôm được cả vũ trụ. Thái hư là vũ trụ, the great cosmos, the immense space. Thái là lớn. Hư là không gian. Bốn chữ này là bốn chữ ca ngợi đức từ bi và nhẫn nhục của Bụt. Trái tim của Bụt, tình thương của Bụt có thể bao trọn và ôm hết được tất cả các loài chúng sanh với tất cả những gai góc khó khăn; ôm lấy được hết, ôm mà không đau khổ. Khi trái tim mình còn nhỏ, mà mình phải ôm thì mình đau khổ, nhưng khi trái tim đã lớn, có nghĩa là khi tình thương đã mở rộng, thì mình không còn đau khổ nữa. Cho nên sự thực tập của chúng ta là phải làm cho tim ta lớn lên hơn mỗi ngày.

“Lượng”, chữ này chúng ta đã học rồi. Lượng tức là sức dung chứa, là sự bao dung của ta. Trong thơ Kiều có câu: “Có dung kẻ dưới mới là lượng trên”. Châu là bao trùm, là đi giáp một vòng xung quanh. Sa giới tức là những thế giới nhiều như cát ở sông Hằng. Trái đất của chúng ta chẳng qua chỉ là một phần rất nhỏ của thái dương hệ, của một tiểu thế giới thôi, và ngoài kia còn có biết bao nhiêu tinh hà, còn có biết bao nhiêu thế giới trong vũ trụ nhiều như số cát sông Hằng. Vì vậy thế giới được gọi là sa giới. Cái lượng của đức Thế Tôn bao trùm hết tất cả mọi cõi. “Tâm bảo thái hư, lượng châu sa giới”, tám chữ rất hay. Tám chữ nói lên được cái từ bi vô lượng, lòng thương và sức dung chứa vô lượng của một trái tim. Người ấy là ai mà có một trái tim rộng lớn như vậy? Chúng ta là học trò của người, chúng ta phải thực tập thế nào để trái tim của chúng ta cũng càng ngày càng lớn để có thể nhìn những người khác bằng một cặp mắt ít khắt khe hơn, ít hẹp hòi hơn. Chúng ta phải nhìn bằng con mắt rộng rãi. Chúng ta phải có không gian bên trong thật nhiều thì tự nhiên con mắt chúng ta sẽ sáng ra. Con mắt đó có thể nhìn mọi loài với tình thương. Nhìn mọi loài với tình thương là năm chữ ở trong kinh Pháp Hoa, “từ nhãn thị chúng sinh.” Không phải là hễ chúng ta muốn nhìn bằng tình thương mà nhìn được đâu. Ai lại không muốn nhìn bằng tình thương, nhưng nếu trái tim ta đang còn nhỏ thì ta nhìn cách ấy không được. Do đó sự thực tập của chúng ta là phải nuôi cho trái tim lớn lên. Mà muốn nuôi cho trái tim lớn lên thì ta phải thực tập quán chiếu để thấy. Khi có thấy thì mới có hiểu, và có hiểu rồi thì mới có thương.

Bậc Đại Giác Viên Mãn
Xuất hiện nơi cõi Ta bà
Tấm lòng ôm trọn cả thái hư
Trí giác soi cùng đại thiên thế giới

Ngay đối với cái bệnh của chúng ta, dù là một chứng bệnh ngặt nghèo, nan y hay là một chứng bệnh tầm thường mỗi ngày của chúng ta, mà nếu chúng ta có một trái tim lớn, có một cái nhìn lớn thì những chứng bệnh đó không còn làm khổ chúng ta nữa.

Kỳ trước chúng ta đã học tới bốn cái bệnh lớn mà người nào cũng đang mang ở trong con người, là bệnh sinh, bệnh già, bệnh bệnh và bệnh chết. Bốn cái đó làm cho chúng ta đau nhức. Mỗi khi nghĩ tới bốn cái đó, chúng ta thấy nhức nhối tại vì thân của chúng ta đã bị điều kiện hóa bởi chúng. Ta thế nào cũng phải già, ta thế nào cũng phải bệnh, ta thế nào cũng phải chết, và tệ hơn nữa là chết rồi ta lại phải sanh ra trở lại để mà tiếp tục chịu khổ. Đó là chứng bệnh trầm kha mà đức Thế Tôn đã đi tìm những phương thuốc để trị liệu.

Thế và Xuất Thế

Trong giới Phật học, người ta có ý niệm về hai loại nhẫn, tức là hai loại chịu đựng. Thứ nhất là nhẫn thế gian và thứ hai là nhẫn xuất thế gian. Nhẫn thế gian nghĩa là cái nhẫn trong cuộc sống hàng ngày của người phàm, còn nhẫn xuất thế gian là một loại nhẫn được làm bằng chất liệu của tuệ giác. Có những người có một khả năng nhẫn nhịn nào đó, nhưng trong khi nhẫn nhịn họ cảm thấy đau khổ và thấy rằng mình phải nghiến răng chịu khổ. Khi thực tập nhẫn xuất thế gian, chúng ta vượt tới một bờ bến rất xa lạ: trong khi nhẫn, chúng ta không còn thấy chúng ta nhẫn nữa, chúng ta không cần chịu đựng nữa, tại vì chúng ta đã có tuệ giác, đã tiếp xúc được với bản môn. Học Bụt, chúng ta phải học cho được nhẫn xuất thế gian. Chính cái nhẫn của xuất thế gian mới đem lại cho ta an lạc thực sự. Nhẫn của thế gian chẳng qua chỉ có thể giúp ta tránh khỏi một ít những đổ vỡ và lầm lỗi. Nhẫn tới một mức nào đó thì người đời hết nhẫn được nữa và họ sẽ nổ tung. Ngày xưa có một đại gia đình, cả trăm người, suốt trong chín thế hệ, nổi tiếng là ăn ở với nhau vô cùng hòa thuận. Đó là gia đình Trương Công Nghệ. Vua nghe đồn là gia đình đó ăn ở với nhau rất hòa thuận nên mới ngự giá tới thăm. Tất cả mọi người trong gia đình đều ra quỳ xuống để đón tiếp vua. Vua hỏi: “Bí quyết của các vị là gì mà có thể sống với nhau có hạnh phúc, không có sự xáo trộn, không có sự mâu thuẫn và không chia rẽ?” Ông tộc trưởng mới dâng lên một tờ biểu để trả lời. Trong tờ biểu đó chỉ có viết một trăm chữ “nhẫn”. Vua gật đầu khen phải và thưởng cho gia đình kia mấy tấm lụa. Đó là bài học thuộc lòng trong sách Luân Lý Giáo Khoa Thư mà tôi được học hồi còn nhỏ. Và đây là cái nhẫn gọi là nhẫn thế gian.

Mũi Tên Thứ Hai

Khi một người bị trúng tên thì người đó cảm thấy đau nhức. Nhưng giá dụ có một mũi tên thứ hai được bắn tới và trúng ngay chỗ mũi tên đầu, thì nạn nhân của hai mũi tên không phải cảm thấy đau nhức gấp hai lần mà có thể đau nhức gấp trăm lần. Bụt nói: “Khi có một sự đau nhức trong cơ thể, chúng ta phải thực tập như thế nào để thấy rằng đó chỉ là một đau nhức của cơ thể mà thôi, và ta thấy được tầm vóc chính xác của sự đau nhức đó. Đừng đánh giá nó một cách sai lầm”. Nói như vậy có nghĩa là khi có một đau nhức ở trong cơ thể, ta phải quán sát cho kỹ để thấy đó chỉ là một sự đau nhức trong cơ thể có giới hạn của nó thôi, và đừng tưởng tượng rằng sự đau nhức đó quá trầm trọng. Tưởng tượng như vậy thì ta sẽ lo lắng. Ta không nên nghĩ: “có thể là ta đang bị ung thư”. Và khi chúng ta hoảng sợ tức là mũi tên thứ hai đã lao tới, đã cắm vào chỗ của mũi tên thứ nhất, và sự đau nhức đó sẽ tăng lên gấp trăm lần. Một lần trước, chúng ta có nói tới chuyện một người chỉ bị một chứng bệnh thường thôi nơi cuống trái tim, có thể chữa được dễ dàng. Nếu sống cho đàng hoàng, ăn uống ngủ nghỉ cho đàng hoàng, thì người ấy sẽ không sao cả. Nhưng nếu người ấy quá sợ hãi thì những cơn chấn động tâm thần sẽ làm cho ông ta đau khổ gấp cả trăm lần. Chính người đó đã dại dột để cho mũi tên thứ hai bay tới. Bụt dạy đừng để cho mũi tên thứ hai bay tới. Khi có một khổ đau nào đó, ta phải biết nhận diện tầm quan trọng của nó và đừng cường điệu, đừng tưởng tượng. Mũi tên thứ hai có thể là sự giận dữ hay sự oán hờn. Ta có thể oán trách những người khác, ta có thể oán trời trách đất là tại sao ta là người phải gánh chịu cái bệnh đó mà không phải là một người khác? Thường thường chúng ta hay nghĩ là ung thư hoặc AIDS thì người khác bị chứ tại sao mình lại bị. Người khác bị thì ta chấp nhận được còn ta bị thì đó là vô lý, là không đúng, là bất công, là không thể chấp nhận được. Cái khuynh hướng suy nghĩ như vậy có mặt trong tất cả mọi người. Các chứng bệnh, những tai nạn xe hơi, nước, lửa, bão tố, v.v.., những cái đó chỉ có thể xảy ra cho ai khác thôi. Điều đó chứng tỏ ta không thấy được rằng ta đang mang trong ta đủ bốn thứ bệnh, cũng như tất cả mọi người khác. Ai cũng có thể bị bệnh và có thể bệnh ấy sẽ bộc phát ra bất cứ lúc nào. Đó là một sự thật đơn giản. Người nào, trẻ hay già, cũng có thể bị bệnh và có thể bị bệnh bất cứ lúc nào. Chúng ta phải học chấp nhận chuyện đó. Đó gọi là chịu. Vì không chấp nhận được nên khi bị bệnh ta mới phản kháng, mới nổi giận, mới oán trời trách đất. Vì không có trí tuệ cho nên ta mới không chấp nhận được cái chuyện là có thân thì có bệnh. Người có trí tuệ và có quán chiếu chấp nhận được sự thật một cách dễ dàng. Người không có trí tuệ và không có quán chiếu thì tiếp tục lồng lộn phản kháng. Và sự đau khổ đó, sự bực bội đó, hoặc sự thất chí đó chính là mũi tên thứ hai.

Hố Thẳm Và Đất Liền

Khi có một nỗi đau nhức hay một chứng bệnh trong cơ thể, ta phải nhận diện nó và học phương cách để chấp nhận nó. Chấp nhận được thì chúng ta bắt đầu khỏe. Đó là điều kiện nền tảng để chúng ta có thể đi tới, ôm lấy nó và chuyển hóa nó. Có nhiều người trong chúng ta nghĩ rằng cái mà họ cần nhất là sức khỏe, sức khỏe toàn hảo. Khi ta cầu nguyện Bụt hay cầu nguyện Chúa, chúng ta muốn Chúa hoặc Bụt sẽ cho ta một sức khỏe toàn hảo. Nhưng đó không phải là một lời cầu nguyện được soi sáng bởi trí tuệ, tại vì cái gọi là sức khỏe toàn hảo ấy không bao giờ có mặt, đó là cái không thể có. Perfect health là một cái gì không có thật. Chúng ta phải học sống với cái bệnh của chúng ta, phải làm hòa với cái bệnh của chúng ta và phải ôm lấy cái bệnh của chúng ta, đó gọi là nhẫn. Nhẫn là ôm lấy một cách vui vẻ, chấp nhận và chịu đựng. Sở dĩ chúng ta còn sống đây là vì hồi còn bé chúng ta đã bệnh lên bệnh xuống liên miên, hết cơn bệnh này tới cơn bệnh kia. Chính nhờ em bé bệnh lên bệnh xuống như vậy, cơ thể em mới phát sinh ra khả năng chống cự được với những con virus, với những con vi khuẩn, với những loại nấm độc. Nếu em bé không trải qua những cơn bệnh như vậy, thì em bé không khỏe mạnh được như bây giờ chúng ta thấy. Thành ra chúng ta phải học để chấp nhận cái bệnh và phải ôm lấy cái bệnh chúng ta, phải sống an lạc và hòa bình với nó. Bệnh của quý vị, nếu là bệnh ruột, bệnh tim, bệnh nhức mỏi, bệnh thận hay bệnh tiểu đường cũng vậy, quý vị phải chấp nhận nó và phải ôm lấy nó.

Trong kinh Tương Ưng Bộ S.IV, 207, Bụt dạy: “Người phàm phu chưa được học Phật pháp không có khả năng đối phó với cái đau khổ của họ. Trong đại dương có một hố sâu thăm thẳm không có đáy. Hố sâu thăm thẳm không đáy đó tượng trưng cho cái khổ. Cái khổ có thể là không có đáy.” Trong kinh, Bụt có dạy là cơ thể của chúng ta giống như bầu hư không. Và trong bầu hư không đó có nhiều loại gió thổi tới: gió Đông, Nam, Tây và Bắc… Có những ngọn gió mang theo cát bụi rất nóng, có những ngọn gió mang theo hơi lạnh căm căm, có những ngọn gió làm cho mình nóng điên lên và có những ngọn gió làm cho mình mát mẻ. Cơ thể của mình là không gian và những cảm thọ khác nhau là những luồng gió thổi trong bầu không gian cơ thể ấy của chúng ta. Bụt cũng dạy rằng cơ thể chúng ta giống một quán trọ có đủ thứ người: người dễ thương, người dễ ghét, người da đen, người da trắng, người giàu, người nghèo… từ phương đông tới hoặc từ phương tây, phương nam và phương bắc tới, lưu trú một thời gian rồi đi. Cơ thể của chúng ta cũng là nơi mà mọi loại cảm thọ có thể xảy ra. Trong đại dương mênh mông có một cái hố thẳm không đáy. Đại dương đó là cơ thể chúng ta, là con người chúng ta. Cái hố sâu thăm thẳm đó được tượng trưng cho cái khổ của chúng ta. Kẻ phàm phu, người không biết chánh pháp và không biết tu tập thì rất sợ hãi khổ đau. Đối với họ, khổ đau là hố sâu thăm thẳm, họ không nghĩ rằng họ có thể chịu đựng được. Nhưng người có trí, biết tu tập, biết quán chiếu và biết thực tập nhẫn Ba La Mật, thì sẽ cảm thấy mình đang đứng trên đất liền mà không phải là đang đứng trong đại dương hay đứng trên bờ vực của hố thẳm khổ đau. Vì vậy khi thực tập nhẫn Ba La Mật, chúng ta sẽ có cảm tưởng an toàn là chúng ta đứng trên đất liền chứ không phải đứng trong hố thẳm của đại dương khổ đau. Khi ta thực tập thì trái tim của ta rộng mở, trí giác của ta rộng mở và ta có thể mỉm cười với tất cả mọi nỗi khổ đau. Ta bao trùm được hết. Nếu ta khổ đau quá, nếu ta không chịu đựng được thì ta sẽ phải tự tử. Vì ta chưa có cái lượng của các bậc Thánh Nhân, của các vị Bồ Tát và của các vị Bụt, vì trái tim của ta chưa có dung tích lớn như vậy, cho nên ta phải tu tập để cho cái thấy cũng như là trái tim của ta lớn lên. Ta phải làm như Bụt, trái tim ta phải ôm được thái hư và trí giác ta phải bao trùm đại thiên thế giới. Nếu chúng ta liệng vào dòng sông mênh mông đó một chậu nước dơ, thì nước của dòng sông đó vẫn có thể trong và ta vẫn có thể lấy nước sông uống được như thường, tại vì dòng sông mênh mông quá, nó dung chứa được chậu nước dơ đó và chuyển hóa được nó một cách rất là dễ dàng. Còn nếu chúng ta đổ chậu nước dơ đó vào trong một thùng nước, hay trong lu nước trước nhà chúng ta thì chắc chắn là lu nước đó ta không thể uống được nữa, tại vì lu nước đó nhỏ quá và nước trong lu ít quá. Dòng sông mênh mông đã ôm lấy chậu nước dơ và chỉ trong vòng một, hai giờ đồng hồ đã làm cho nước dơ đó chuyển hóa, tất cả những cái dơ lặn xuống dưới đất, dưới đáy sông, trộn lẫn với đất, với cát và nước của nó trở thành ra trong trở lại. Dòng sông đâu có làm gì nhiều đâu, ấy vậy mà chậu nước dơ chúng ta đổ vào dòng sông tự nhiên biến thành nước trong là tại vì đất ở dưới dòng sông rất lớn và nước trong dòng sông rất nhiều. Bụt và Bồ Tát cũng vậy, nên quý vị không cần “cắn răng chịu đựng”. Chỉ có những người trong phạm vi thế gian mới phải cắn răng chịu đựng, đó gọi là nhẫn thế gian. Khi trái tim mình đã lớn, khi tâm lượng mình đã trở nên vĩ đại thì mình đâu cần phải cắn răng chịu đựng nữa, đó gọi là nhẫn xuất thế gian. chúng ta biết rằng đè nén và chịu đựng một hồi thì chúng ta cũng sẽ bùng nổ, cho nên phương pháp nhẫn thế gian không đáng để chúng ta học theo. Chúng ta phải học theo nhẫn xuất thế gian.

Trái tim chúng ta lớn chừng nào thì ta dung nạp càng dễ chừng đó, mà dung nạp được một hồi thì sẽ có chuyển hóa. Chúng ta hãy bắt chước dòng sông, tập nhìn bằng con mắt không hẹp hòi, không khắt khe, tập nhìn bằng con mắt độ lượng và bao dung thì chúng ta sẽ không còn khổ nữa. Nhẫn Nhục, ở đây, không đòi hỏi một sự cắn răng chịu đựng, vì nhẫn xuất thế gian rất khác với nhẫn thế gian. Khi nói: “Tôi không muốn thấy mặt anh nữa, tôi không muốn nghe đến tên anh nữa, tôi muốn anh ra khỏi cuộc đời tôi…” là chúng ta đang làm ngược lại với tinh thần đựng. Chúng ta chỉ muốn đổ ra ngoài. Ta nghĩ rằng người đó đã làm cho ta đau khổ, ta không chịu đựng nổi và ta quyết tâm đẩy người đó ra ngoài trái tim của ta. Ngay cái ý định đẩy người đó ra ngoài trái tim của mình đã là một nguyên do của khổ đau rồi. Trái tim của Bụt là trái tim có dung lượng rất lớn. Bụt không muốn đẩy ai, bỏ ai ra ngoài dung lượng của trái tim ấy cả. Nếu ta không có khả năng đựng, không có khả năng ôm lấy một người em, một người anh, một người chị, đó là tại vì sao? Tại vì trái tim ta chưa lớn. Trái tim ta chưa lớn là tại vì sao? Tại vì ta đang còn ngu si, tại vì ta không thực tập quán chiếu, ta không biết rằng người đó chính là ta và người đó cần ta. Ta vẫn coi người đó là kẻ thù, và đó là nguyên do của đau khổ trong ta. Khi ta nhìn người bằng con mắt khắt khe, khi ta nói với người bằng những lời trách cứ, khi ta làm khổ họ bằng những cử chỉ, những lời nói và những ánh mắt của ta, tức là ta không có khả năng ôm, ta không có khả năng đựng. Sự thực tập của ta là phải quán chiếu để có thể ôm, có thể chịu, đó là Nhẫn Nhục Ba La Mật.

Khi một tai nạn hay một khổ đau xảy đến cho ta, ta thường hay có khuynh hướng nghĩ rằng: “Ta đang là nạn nhân của sự bất công. Tại sao người kia không bị như vậy mà ta lại bị như vậy? Tại sao người đó được thương mà ta lại không được thương? Tại sao người đó không có bệnh mà ta lại bị bệnh?” Ta thấy ta là nạn nhân của một sự bất công, sự bất công đó có thể từ xã hội hay Thượng đế đưa tới. Đó cũng là vô minh. Chính vô minh đã làm cho chúng ta khổ.

Đầu Xanh Đã Tội Tình Gì

Chuyện Quan Âm Thị Kính là một chuyện nói về sự oan ức của một thiếu phụ có nhan sắc và có khả năng nhẫn nhục lớn là Thị Kính. Thị Kính lấy chồng tên là Thiện Sĩ và rất thương mến chồng. Có một bữa đó, chồng học bài buồn ngủ. Đang may vá, thấy chồng có mấy sợi râu mọc ngược, Thị Kính nghĩ thầm: “Bây giờ sẵn tay cầm dao, mình cắt mấy sợi râu cho chàng”. Nàng vừa đưa dao lên cắt thì anh chàng thức dậy. Thấy vợ cầm dao đưa vào mặt mình, Thiện Sĩ hoảng hồn và trong trạng thái hoảng hốt đã nghĩ rằng vợ có ý định muốn ám sát mình, chàng la lối lên. Hai ông bà, cha mẹ chồng, vốn sẵn không thích Thị Kính, đã làm lớn chuyện này. Họ đuổi Thị Kính về nhà, Thị Kính rất đau khổ. Đó là nỗi oan. Về nhà rồi, Thị Kính nói: “Cuộc đời là như thế, ta phải đi tu mới được. Chỉ có đi tu ta mới vượt ra khỏi những thói thường cạn cợt của người đời”. Nhưng vào thời đại đó chưa có chùa sư nữ, Thị Kính phải giả làm con trai và đi vào một ngôi chùa gọi là Vân Tự. Cô giả trang khéo lắm. Thầy trụ trì thấy người thanh niên ăn mặc rất gọn ghẽ, mặt mày sáng sủa mà muốn đi tu nên hỏi: “Tại sao cậu lại muốn đi tu?” Thị Kính nói: “Bạch thầy, con thấy cuộc đời vô thường quá, không có cái gì đáng cho con theo đuổi, cho nên con muốn được giải thoát mà không còn muốn chạy theo những hình ảnh hư vọng”. Thầy trụ trì bèn nói: “Được, như vậy là con đã thấy được đạo, thầy bằng lòng cho tu”. Và sư chú được thầy đặt tên là Kính Tâm, tức là người có trái tim đầy sự cung kính.

Trong thời gian Thị Kính tu học, có một cô con gái nhà giàu trong làng, mỗi ngày rằm và mồng một đều lên chùa với cha mẹ để dâng hương. Thấy sư chú đẹp quá, cô cảm động và đã đem lòng yêu sư chú. Cô tìm cách để nói chuyện với sư chú nhưng sư chú rất đoan nghiêm, chỉ trả lời những câu hỏi về Phật Pháp thôi, còn những câu ngoài đời sư chú nhất định không nói. Vì vậy cô lại càng mê say sư chú hơn nữa. Cô về tương tư sư chú, ban đêm cứ nằm mơ tới sư chú. Có một bữa bị sinh lý thúc đẩy, cô nằm ngủ với người đầy tớ trai. Và trong khi nằm ngủ, cô tưởng tượng người kia là sư chú. Ta thấy chuyện này rất kỳ cục nhưng chuyện này thật ra rất có tính người.

Thị Mầu có mang. Thị cố tình giấu, nhưng giấu làm sao được. Từ từ bụng cô lớn ra, và người trong làng bắt đầu bàn tán. Hôm đó có tiếng mõ của làng triệu tập một buổi họp để xét về vụ cô gái chưa lấy chồng mà đã có thai. Trong buổi họp ở đình làng, bị chất vấn thì Thị Mầu nói: “Con đã ngủ với sư chú Kính Tâm.” Lúc tin được đồn ra, người nào cũng bàn tán và nhà chùa mang tiếng rất nhiều: thầy không biết dạy đệ tử để đệ tử phạm giới. Vì danh dự, Thị Mầu nhất định không tiết lộ sự thật là mình đã ngủ với một người đầy tớ trai, nàng chỉ đổ riết cho sư chú Kính Tâm. Khi cô khai cho sư chú Kính Tâm là tác giả của cái thai trong bụng mình thì thầy trụ trì bị mời tới. Tội nghiệp thầy, tội nghiệp cả thầy cả trò. Có nhiều chùa bổn đạo tới chỉ để dâng hương, họ đâu có thực tập tu học. Thấy các sư chú và các sư cô an lạc và thảnh thơi, mặt mày sáng rỡ thì họ đem lòng thương, cái đó rất người. Cho nên người xuất gia phải tạo cơ hội cho người tới chùa được có cơ hội tu học. Tới chùa là để thực tập nữa chứ không phải chỉ để lễ bái. Đó là điều ta phải học từ chuyện Quan Âm Thị Kính.

Kính Tâm bị tra khảo, đánh đập, nhưng đã chịu đựng được và không khai rằng mình là gái. Thầy trú trì bảo lãnh cho Kính Tâm về. Kính Tâm đã thực tập nhẫn, đã thấy rằng đời quá nhiều khổ đau và có những khổ đau đã tự nhiên xảy tới như vậy thôi, mình không có phần trách nhiệm gì cả, mình đã làm nên tội tình gì để phải gánh chịu những khổ đau ấy? Tuy nhiên sư chú tu hành rất đàng hoàng, ngày nào cũng ngồi thiền, ngày nào cũng tụng niệm và nghĩ rằng sự thành công của mình là ở chỗ mình có thể vượt thắng được niềm đau nỗi khổ này hay không, có thể vượt thắng được nỗi oan này hay không. Nhưng đã hết đâu. Khi Thị Mầu sinh em bé thì bị cha mẹ nhiếc mắng: “Con của đứa nào thì mầy phải trao trả cho đứa đó!” Thay vì đem trả đứa bé cho tên đầy tớ trai, thì cô lại đem tới chùa và nói một cách tỉnh bơ: “Đây, con của sư chú đây, sư chú nhận đi!” Và cô để em bé ở lầu chuông mà chạy về. Vì sợ mất mặt mà người ta đã đành lòng dầy vò và gây khổ đau oan ức cho một người khác. Sư chú đã thấy được điều đó. Nhưng sự thật rõ ràng trước mắt là có một em bé bị bỏ rơi. Nếu ta không ẵm lấy để nuôi thì nó sẽ chết. Vì vậy sư chú đã nói: “Đưa đây, đưa nó đây!” và sư chú đưa hai tay ẵm lấy đứa bé. Từ đó về sau sự nuôi con trở thành ra phép thực tập của sư chú. Mỗi ngày sư chú đi vào trong làng để xin sữa cho đứa bé, xin những miếng vải may những cái tả và những chiếc áo cho đứa
bé. Trong làng có người cảm động giúp cho sư chú, nhưng cũng có người cười: “Tu như vậy mà cũng tu. Tu như vậy làm sao mà thành được.” Nhờ có trái tim lớn, nhờ có hiểu biết lớn cho nên sư chú chấp nhận được và sư chú không khổ, hoặc nếu sư chú có khổ thì sư chú cũng khổ ít thôi. Nói tới niềm oan ức to lớn của Kính Tâm, tác giả Quan Âm Thị Kính đã viết:

Mười phương Phật chín phương Trời
Chưa nghe đến sự dưới đời oan ru ?

Năng Lượng

Chúng ta hãy tự hỏi là trong lúc bị tra khảo tơi bời, sư chú có căm hận người hay không? Sư chú có lòng từ bi, biết rằng có những người họ rất u mê, ích kỷ và hẹp hòi, họ làm khổ chính họ, rồi họ làm vung vãi nỗi khổ ấy lên những người khác. Họ đã làm lầm lỗi và họ không có can đảm chấp nhận lầm lỗi của họ. Những cái oan đó có thật trong cuộc đời. Trong khi bị đánh đập và hành hạ như vậy, sư chú chỉ niệm Bụt thôi. Bởi vì mỗi khi niệm Bụt thì sư chú có được cái năng lượng để chịu đựng. Và nếu sư chú hận thù thì sư chú sẽ đau khổ hơn nhiều. Nhờ niệm Bụt để được tiếp xúc với năng lượng của từ bi, cho nên sư chú đã chịu đựng được và đã đi qua được những cơn khó khăn như vậy. Từ khó khăn này tới khó khăn khác, sư chú đã vượt thắng được. Trong khi thỉnh đại hồng chung, sư chú đọc những bài thi kệ:

Nguyện tiếng chuông này vang pháp giới
Khắp nơi u tối mọi loài nghe
Siêu nhiên vượt thoát vòng sinh tử
Giác ngộ tâm tư nguyện hướng về.

Sư chú biến thi kệ đó thành bài ru con và thêm vào những tiếng à ơi. Thành ra dân làng mỗi khi nghe tiếng kệ thì thỉnh thoảng cũng lại nghe tiếng à ơi và ù ơ trong gió. Đó là một phép thực tập của sư chú. Sư chú có thể là không tụng Hoa Nghiêm và Pháp Hoa, không thực tập tứ thiền và tứ vô sắc định, mà chỉ thực tập nuôi con, ru con, đi xin sữa cho con và làm những công việc mà sư chú cần phải làm thôi. Nhưng sư chú đã thành công.

Khi đứa bé đã lớn, sư chú lâm bệnh. Nghĩ rằng mình không tiếp tục sống được, sư chú mới ngồi xuống viết một lá thơ để kể hết sự thật cho thầy. Trước đây, nếu ta nói ra sự thật thì thầy sẽ không cho ta tiếp tục ở trong chùa. Bây giờ ta có thể nói ra sự thật được rồi. Sư chú cũng viết một lá thơ cho cha mẹ, và dặn con sau tang lễ thì đi tìm về quê mà đưa lá thơ này cho ông bà. Sau khi sư chú thị tịch, đứa bé đem lá thơ lên trình thầy. Thầy lập tức cho một sư chú đi báo tin cho làng. Mọi người đều xôn xao. Những nhà chức trách tới khám nhận tử thi và đã chứng xác sự thật: đây là một cô gái. Vậy mà lâu nay làng đã đọa đày, đã làm tội làm tình người ta. Làng lập tức đòi cha con của Thị Mầu ra để trị tội. Gia đình đó ngoài việc nạp khoán cho làng, còn phải xuất tiền ra để làm tang lễ cho sư chú. Khi mà em bé cùng với một vài người khác đi tìm được về quê quán của Thị Kính thì ông bà lập tức lên đường về dự tang lễ. Sau tang lễ, mọi người nhìn lên thấy ở trên trời có mây năm sắc, đức Như Lai hiện ra và báo tin rằng Thị Kính đã thành đạo. Đó là đức Quan Âm của Việt Nam, đức Quan Âm Thị Kính, người đã thực hành hạnh Nhẫn Nhục Ba La Mật.

Tại sao Thị Kính chịu đựng được? Ta sẽ hỏi, đứng về phương diện tâm lý, tại sao Thị Kính không nói ra sự thật và đi chỗ khác cho rồi? Tại sao cứ bám lấy cái ý muốn làm sư chú? Tại sao Thị Kính lại có khả năng chịu đựng được những nỗi khổ lớn như vậy? Cái gì đã giúp cho Thị Kính chịu đựng được? Chỉ có một câu trả lời mà thôi: tại vì Thị Kính muốn được tu quá. Nếu muốn người ta không còn làm tình làm tội mình thì chỉ cần nói ra: tôi là con gái. Nhưng mà Thị Kính đã không nói tại vì ý chí muốn tu hành lớn quá đi. Chỉ vì muốn được tu cho nên sư chú có thể chịu đựng được bất cứ một cái gì. Năng lượng giúp sư chú chịu đựng được, đó là bồ đề tâm. Nếu Thị Kính không có bồ đề tâm thì Thị Kính đâu đã làm được chuyện đó. Đời nay vừa mới bị gánh chịu một vài khó khăn và oan ức là người ta đã muốn bỏ tăng thân mà đi rồi. So với Thị Kính, ta sẽ thấy cái sức nhẫn và bồ đề tâm của ta lớn tới mức nào.

Cỗ Đầu Người

Những người đi làm cách mạng khi bị bắt và bị tra khảo cũng cắn răng chịu đựng và không chịu khai báo. Họ biết nếu họ khai báo thì những người đồng chí của họ cũng bị bắt, cũng bị tra khảo và mục tiêu cách mạng sẽ không đạt tới được. Họ cũng phải thực tập nhẫn. Tại sao họ nhẫn được? Vì họ có tình thương, họ có chí hướng lớn. Những người đi làm cách mạng sống độc thân không có gia đình thì có khác gì người tu đâu! Sống độc thân không có gia đình là để có thể làm được cái chuyện mà người thường không làm được. Người tu, cũng vậy, sống độc thân không có gia đình là để làm cái chuyện mà người khác không có thể làm được. Người đi làm cách mạng bị tra khảo mà không nói, không hé răng tiết lộ những bí mật của tổ chức mình là vì thương lý tưởng và thương những người bạn đồng chí. Là người tu, ta có làm được như vậy không? Sức nhẫn của ta đã tới mức nào? Trong thời ông Diệm có một sư chú bị bắt và bị tra vấn. Người tra vấn mời sư chú ngồi, pha trà mời sư chú uống, rồi mở ra một cái hộp nhỏ trong đó có hai con gián đã chết khô. Ông ta mời sư chú ăn nếu sư chú không nói ai là những người chủ chốt trong đoàn sinh viên Phật tử và trong đoàn thanh niên Tăng Ni. “Nếu thầy không chịu nói thì tôi sẽ mời thầy ăn con gián này để uống trà.” Quí vị có thể ăn được một con gián để uống trà không? Vậy mà sư chú đã ăn con gián, đã uống trà và nhất định không nói ai là những người chủ chốt vì sư chú có tình thương đối với đạo pháp, đối với dân tộc và đối với các bạn đồng tu. Đây là chuyện có thật! Ngày xưa, ta có một vị anh hùng tên là Nguyễn Biểu bị quân giặc bắt. Để thử đảm khí của người con trai này, khi dọn cơm ra, quân giặc chỉ dọn trong mâm cơm một cái đầu người vừa mới bị chặt. Nguyễn Biểu đã móc con mắt của người đó để vào miệng nuốt và cười ha hả, để chứng tỏ rằng dân Việt có những con người hào hùng không thể nào dùng bạo lực mà khuất phục được. Quân giặc rất kính phục, đã thả ông ra, nhưng khi ông đi nửa đường thì họ cho người chạy theo bắt lại và giết đi.

Ngọn Đèn Dù Tắt Đừng Nghe Trẻ

Thiếu phụ Nam Xương cũng là đối tượng và nạn nhân của một sự oan ức lớn. Mình rất trinh liệt và đoan chính, vậy mà chồng mình nghĩ rằng mình đã ăn ngủ với một người khác. Chàng Trương đi lính và trong thời gian xa vắng đó thiếu phụ Nam Xương đã sinh ra một đứa con trai. Khi chàng Trương trở về thì đứa con trai đã được hai tuổi mấy. Trong khi thiếu phụ Nam Xương đi chợ để mua thức ăn về làm một mâm cơm cúng thì chàng Trương chơi với đứa bé và bảo đứa bé tập kêu chàng là “Bố”. Đứa bé nói: ” Ông đâu phải bố tôi nào!” “Tại sao không phải?” “Bố tôi khác, bố tôi đêm nào cũng tới và nói chuyện với mẹ tôi. Nhiều khi mẹ tôi còn khóc với bố tôi nữa. Rồi mỗi khi mẹ tôi ngồi xuống thì bố tôi ngồi xuống, và khi mẹ tôi nằm xuống thì bố tôi cũng nằm xuống.” Nghe những lời nói của em bé, chàng Trương có tri giác sai lầm, nghĩ là vợ mình đã ngoại tình. Khi vợ trở về, anh không thèm nhìn mặt vợ, không thèm nói chuyện với vợ nữa. Anh lạnh lùng như một tảng băng. Người vợ không hiểu tại sao mình lại bị đối xử như thế, cho nên đau khổ một mình. Khi mâm cơm cúng đã được đặt lên rồi, chàng Trương thắp nhang khấn vái. Lạy bốn lạy xong anh cuốn chiếu lại không cho vợ lạy, nghĩ rằng người đàn bà này không có tư cách để trình diện trước tổ tiên. Thiếu phụ Nam Xương cảm thấy nhục nhã và khổ đau nhưng không nói ra được. Chàng Trương sau khi cúng xong không ở lại ăn cơm mà bỏ đi vào trong làng, la cà suốt ngày trong quán rượu. Anh cũng đau khổ lắm. Tất cả hạnh phúc đều đã tan biến đối với anh. Anh đi tìm sự khuây khỏa bằng rượu, rượu là phương pháp duy nhất, uống say rồi thì không còn nhớ tới niềm đau đó nữa. Và ba bốn giờ khuya anh mới về nhà để rồi sáng mai dậy lại đi vào trong xóm. Sau ba bốn ngày như vậy thì thiếu phụ Nam Xương chịu không nổi nữa. Và khi chịu đựng không nổi nữa, người đàn bà ấy đã đâm đầu xuống sông tự tử. Chúng ta chỉ biết nhẫn thế gian mà chưa biết đến nhẫn xuất thế gian, cho nên sức chịu đựng của chúng ta rất có giới hạn. Thiếu phụ Nam Xương đã đâm đầu xuống sông tự tử sau ba ngày khổ đau. Sau khi biết tin vợ chết rồi, anh Trương mới về nhà để chăm sóc đứa con. Đêm ấy, sau khi anh thắp đèn lên thì đứa bé reo: “Bố tôi đây này, ông! Bố tôi đây này, ông!” và nó chỉ vào cái bóng của bố nó ở trên vách tường. Bây giờ tri giác sai lầm của anh không còn nữa nhưng đã quá trễ, vợ anh đã chết rồi!

Nếu không thực tập quán chiếu và truyền thông để giúp nhau thấy được sự thật thì chúng ta sẽ tạo ra cho nhau những nỗi oan. Chị làm oan cho em, em làm oan cho anh, em làm oan cho chị, chuyện đó đang xảy ra hàng ngày. Và do đó bản chất của Nhẫn Nhục Ba La Mật được làm bằng sự quán chiếu chứ không phải là sự đè nén. Quán chiếu thì phải có chánh niệm. Có niệm mới có định và có định mới có tuệ. Nếu không thực tập hơi thở ý thức mỗi ngày, không thực tập thiền đi, thiền ngồi và ăn cơm im lặng mỗi ngày để nuôi dưỡng năng lượng chánh niệm thì ta sẽ lấy gì mà quán chiếu, vốn liếng đâu mà quán chiếu. Cho nên tôi cứ nhắc đi nhắc lại hoài: “Con nên đi từng bước cho chánh niệm, con nên ngồi cho chánh niệm, con nên làm việc trong chánh niệm.” Để làm gì? Để mình có cái vốn liếng và năng lượng mà thiền quán, mà quán chiếu. Cái hiểu của ta sẽ làm cho trái tim ta lớn lên và bao trùm được những khổ đau và khó khăn. Còn nếu không thì ta sẽ tiếp tục giận hờn, trách móc, la mắng, làm tình làm tội bản thân ta và làm tình làm tội những người sống xung quanh ta.

Tu nghĩa là đừng để cho cái lầm lỗi của thiếu phụ Nam Xương được lặp lại. Chàng Trương trong khi làm khổ vợ thì có sung sướng gì đâu. Anh ta cũng đau đớn lắm. Cả hai người đều khổ. Đừng tưởng rằng người làm khổ mình đang vui sướng nhởn nhơ. Người làm khổ mình cũng đang rất khổ. Thấy được điều đó tự nhiên ta ôm được người ấy, ta ôm được người đang làm khổ ta. Mà thấy tức là tuệ. Tuệ tức là hoa trái của quán chiếu.

Vạch Trời Kêu Lên

Chúng ta thường quen oán trời và trách đất mỗi khi bị oan ức. Thúy Kiều là nạn nhân của những nỗi oan rất lớn. Bố của Thúy Kiều đi thăm gia đình bên ngoại về, thì bị lính tới bao vây. Người ta vu oan cho ông buôn lậu và chứa chấp hàng hóa bất hợp pháp. Người ta đã treo ngược ông lên để tra khảo ngay trong nhà của ông và cuối cùng bỏ tù ông. Thúy Kiều phải bán mình để có bốn trăm lạng vàng chuộc cha, mua cha ra khỏi tù tội. Người đến mua Thúy Kiều nói rằng mua nàng về để làm vợ cho một người đàn ông có địa vị trong xã hội, nhưng kỳ thật Tú Bà với Mã Giám Sinh mua Kiều về để làm gái giang hồ mà kiếm lời. Sau khi người ta làm lễ rước Kiều ra ở riêng, Mã Giám Sinh đã tới để phá trinh của Thúy Kiều. Mã đóng vai chàng rể nhưng kỳ thật đó là một anh bợm già. Trong cuộc chung đụng đầu tiên, Thúy Kiều biết ngay rằng anh chàng này không phải là một anh chàng đàng hoàng mà là một tay bợm già. Một người đàn ông đàng hoàng không bao giờ cư xử phũ phàng như vậy. Thúy Kiều nghi Mã không phải là một chàng rể. Lắng nghe xung quanh Kiều biết là mình đã lọt vào một ổ nhền nhện. Khi vào chào mẹ để đi, Thúy Kiều đã nói sự thật và Vương bà ngã ngửa: nỗi oan thứ nhất là chồng bị vu oan giá họa, bị bắt và bị đánh, nỗi oan thứ hai là con gái phải bán mình và bây giờ nỗi oan thứ ba là con gái bị trở thành một cô điếm. Cụ Nguyễn Du viết:

Vương bà nghe bấy nhiêu lời
Tiếng oan đã muốn vạch trời kêu lên!

“Tiếng oan đã muốn vạch trời kêu lên”, tại vì những đau khổ và oan ức của mình lớn quá, mình không nói được với ai hết, chỉ có một cách là ngửa mặt lên trên trời để kêu than; nhưng vạch trời kêu lên cũng không biết trời có nghe được cái nỗi oan của mình hay không. Sao ông trời cứ nín thinh như thể là ông không biết là mình đang đau khổ và oan ức. Tác giả Quan Âm Thị Kính cũng nói:

Mười phương Phật chín phương trời
Chưa nghe đến sự dưới đời oan ru ?

Khi đau khổ quá chúng ta thường hay ngửa mặt lên trời, chúng ta cần một vị trọng tài, chúng ta cần Thượng Đế, chúng ta cần Trời, tại vì chúng ta hết chỗ cầu cứu rồi, tất cả các ngõ ngách đều đã bị đóng kín mít lại, nỗi khổ của chúng ta không ai biết được. Mà chúng ta có thể vạch trời ra được hay không, hay là cửa trời lại cũng đóng im ỉm?

Vương ông, Vương bà, Thúy Kiều, Thúy Vân và Kim Trọng, năm người đó đã có cơ hội đến chùa không, đã được học Phật Pháp không và đã được trao truyền phương pháp thở, phương pháp đi, phương pháp ngồi, phương pháp mỉm cười và phương pháp quán chiếu không? Hình như là không. Vì vậy những khổ đau của họ rất lớn. Có lúc bố của Thúy Kiều đã lao đầu vào bức tường vôi để tự tử, tại vì ông khổ quá không chịu đựng được nổi sự oan ức. Tất cả gia đình đều ngăn lại và nói: “Nếu bố làm như vậy thì khổ thêm các con. Xin bố thương các con mà giữ gìn mạng sống.” Vương ông dừng lại không tự tử nữa. Đó cũng là nhờ tình thương. Ông thấy được rằng mình chết thì mình hết khổ nhưng mà bốn người kia lại khổ thêm. Đó là một thứ tuệ giác, nhưng tuệ giác đó chưa đủ lớn để giúp cho ông hết khổ. Thúy Kiều còn đi qua những oan ức khác nữa. Có lần Thúy Kiều đã rút cây dao dấu trong người ra để tự tử. Lát dao đâm rất sâu đến nỗi tính mạng của Thúy Kiều bị đe dọa trầm trọng. Nhờ một phước đức nào đó của Kiều thành ra Tú Bà chạy chữa được và Thúy Kiều sẽ phải sống mười lăm năm trong cuộc đời lênh đênh đau khổ.

Khổ đau ở ngoài đời đầy dẫy; nếu chúng ta không được trang bị bằng những pháp môn tu học và bằng cái thấy của tuệ giác thì chúng ta không thể nào đương đầu nổi với những khổ đau lớn lao như vậy. Bụt dạy: “Trong đại dương mênh mông có một cái hố thẳm. Cái hố thẳm không đáy đó là tượng trưng cho khổ đau của cuộc đời. Kẻ phàm phu không biết, không học, không có phương pháp thì chết chìm trong cái hố thẳm đó. Người có trí, người có tu, người có học sẽ thấy mình đang đứng ở trên đất liền và cảm thấy có an ninh.” Đó là phương pháp của Nhẫn Nhục Ba La Mật.

Thượng Đế Ơi! Đừng Thử Con Tội Nghiệp

Có khi chúng ta tự hỏi: “Tại sao mình phải gánh chịu cái tai nạn này, tại sao mình lại bị bệnh sida, tại sao mình bị khuyết tật từ ngay khi cha mẹ sanh ra, tại sao con mình mới sanh ra có hai tuổi thôi mà đã bị bệnh nan y?” Có nhiều trường hợp ta không thể nào hiểu được. Không hiểu tại sao những người ăn hiền ở lành mà lại gặp phải những tai nạn ghê gớm như vậy.

Nhìn vào xã hội, vào loài người, vào hoàn cảnh xung quanh để tìm ra một lý do và một nẻo thoát, người ta không tìm ra được và vì vậy người ta phải ngửa mặt lên trời để hỏi.

Vương bà nghe bấy nhiêu lời,
tiếng oan đã muốn vạch trời kêu lên.

Trời là cái hướng duy nhất còn lại để mình có thể vạch ra mà kêu oan. Ở trong Cựu Ước có một thi phẩm rất hay, đó là “The book of Job”. Job là một con người hạnh phúc, một ông nhà giàu có hàng ngàn con bò, con cừu và những đứa con xinh đẹp, lại có một địa vị lớn trong xã hội. Người ta nói rằng Job rất kính trọng Thượng đế, nghe lời Thượng đế, sợ hãi Thượng đế và có niềm tin nơi Thượng đế một cách vững chãi. Một hôm đó, Sa Tăng xuất hiện nơi thượng giới và Thượng đế hỏi: “Ngươi là ai? Ngươi đi đâu?” Thì Sa Tăng nói: “Tôi là người hay lui tới trái đất, đi ra đi vào.” Thượng đế hỏi tiếp: “Sa Tăng, ngươi có thấy Job là một người tín cẩn, một người có đức tin mãnh liệt đang sống trên thế gian không? Người này sẽ không bao giờ mất đức tin nơi ta cả, dầu có gì xảy ra cho người này thì người này cũng sẽ không mất đức tin nơi ta.” Sa Tăng nói: “Đó là Thượng đế chưa biết, Thượng đế cho phép tôi thử đi, tôi mà tạo ra một vài tai nạn, một vài khổ đau cho Job thì có thể Job sẽ trách móc Thượng đế, sẽ lên án đấng Tạo hóa.” Thượng đế trả lời: “Anh cứ thử đi, nhưng anh đừng động tới sinh mạng của người đó.”

Hôm ấy, trong khi Job đang ngồi trong phòng khách ấm cúng của mình thì có một người đầy tớ về báo cáo rằng tất cả những con trâu, bò, lạc đà, cừu của ông ta đều chết hết. Mấy đứa con gái yêu quý của ông ta đi ăn đám giỗ ở nhà đứa em út cũng bị tai nạn chết hết không còn một mống. Lúc đó Job chắp tay lại, nói: “Nếu những cái này xảy ra đó là tại vì có lý do sâu sắc nào đó mà mình chưa hiểu”. Và Job từ chối không trách móc Thượng đế, không lên án Thượng đế. Sa Tăng thất bại. Sa Tăng lên trên Thiên Đình một lần nữa và nói với Thượng đế là tại vì mình chưa chạm vào con người anh ta, nếu chạm vào người anh ta thì có lẽ là anh ta sẽ trách móc Thượng đế, sẽ oán hờn Thượng đế. “Thượng đế cho phép tôi làm vậy đi, cho tôi thử đi. Ngài nói Job là người trung kiên với Chúa một cách tuyệt đối mà, nếu tôi không thử thì làm sao ta biết được sự trung kiên ấy có hay là không có?” Thượng đế chịu thua. Ngài bảo Sa Tăng: “Như vậy thì ta cho phép anh thử nhưng đừng làm cho người đó chết.” Lần này Sa Tăng bắt Job phải đau những chứng bệnh rất ngặt nghèo, cả người đều bị lở lói, không di chuyển được, nằm một đống, đau khổ vô cùng. Sự sản tan nát, các con đều chết, bây giờ thân hình mình bị tật bệnh rất nặng. Lúc đó, Job mới mở miệng ra nguyền rủa, nhưng không phải là nguyền rủa Thượng đế mà là nguyền rủa cái ngày sanh của mình, nguyền rủa cái huyền ước của mình. “Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi, để cho tôi phải khổ như ngày hôm nay? Tại sao tôi phải sinh ra để gánh chịu tất cả những đau khổ này?” Tuy Job không nguyền rủa Thượng đế, nhưng ông đã nguyền rủa cái ngày sanh của ông. Lúc đó có bốn người bạn của Job tới. Thấy Job đau khổ như vậy họ không biết làm gì cả. Khổ đau lớn quá khiến cho họ không thể mở lời ra được, chỉ biết ngồi đó mà chịu trận thôi. Sau đó, họ bắt đầu nói chuyện với Job: “Có lẽ là trong quá khứ mình cũng đã có gây tạo những tội lỗi nào đó mà không biết cho nên bây giờ mình mới phải gánh chịu những khổ đau cùng cực như vậy.” Nhưng Job nhất định không chấp nhận. Job nói: “Tôi chưa từng gây tạo một nỗi khổ đau, một tội lỗi nào hết. Tôi đã sống theo đường lối của Thượng đế đã dạy. Tôi chưa làm điều gì thất đức thì tại sao tôi phải gánh chịu những tai ương như thế này? Tôi không nguyền rủa Thượng đế, nhưng tôi không thể nào không nguyền rủa cái ngày sanh của tôi”. Người bạn thứ tư an ủi không được mới nói: “Đau khổ cần thiết cho con người. Có lẽ đau khổ giúp cho ta học một bài học của sự sống và ta sẽ lớn lên từ sự đau khổ đó.” Nhưng Job cũng không vừa ý. Cuối cùng thì Thượng đế xuất hiện trong tiếng gió và Thượng đế nói những câu như thế này: “Cái ngày mà ta tạo thiên lập địa có mặt ngươi đó hay không? Ai thắp mặt trời lên buổi sáng, ai thắp mặt trăng lên buổi chiều, có mặt ngươi đó không? Có nhiều cái ngươi chưa biết.” Và Job nhận ra rằng quả thật có nhiều cái mình không biết. Chính sự chấp nhận có những cái mình chưa biết làm cho Job bớt đau khổ và Job quỳ xuống để hối lỗi. Lúc đó, Thượng đế hoàn trả lại cho Job tất cả những gì mà Job đã mất, nào lạc đà, nào ngựa, nào trâu, nào bò, nào con. Tác phẩm này là một tác phẩm thi ca rất nổi tiếng trong Thánh kinh.

Trời Đất Bất Công

Đứng trước những bất công xã hội, khi nhận chịu những khổ đau cùng cực, cảm thấy có sự bất công, người ta thường ngửng mặt lên để hỏi: “Có một đấng thiêng liêng nào ngự trị ở trên đó để giữ quyền thưởng phạt hay không? Nếu có một đấng thiêng liêng tại sao để cho sự bất công đó xảy ra? Tại sao một em bé hai tuổi lại bị bệnh nan y? Tại sao một em bé vừa sanh ra đã mang khuyết tật? Tại sao những người ăn hiền ở lành suốt đời mà phải chịu những đau khổ cùng cực?” Tất cả những câu hỏi đó con người không trả lời được và người ta phải đặt ra cho Thượng đế. Có khi người ta trách móc Thượng đế. Trong ngôn ngữ Việt Nam, đôi khi người ta ngửng mặt lên người ta trách rằng: “Trời già độc địa”. Đó là câu nói của những người đã đau khổ quá nhiều. Người ta không hiểu tại sao ông trời lại cho phép những chuyện đau khổ bất công như vậy xảy ra. Có nhiều người uất ức, có nhiều người đặt câu hỏi tại sao đấng Tạo hóa, tại sao Thượng đế, tại sao Phật trời lại để cho chuyện đó xảy ra được? Nếu chúng ta quán sát sự sống trong đời sống hàng ngày thì chúng ta thấy đau khổ đầy dẫy: những đau khổ về thiên tai, về bão lụt, về bệnh tật, về chiến tranh đã đành, nhưng cũng có những đau khổ thật sự trình bày ra tính cách bất công. Tại sao những người ăn ở hiền lành, những người không làm nên tội tình gì lại khổ đau như vậy? Tại sao những người ác độc vẫn sống phây phây, tiếp tục thừa hưởng sự giàu sang phú quý? Khi nhìn thấy sự đau khổ đó người ta nói rằng Thượng đế bất công, Thượng đế không có trái tim. Tác phẩm Đạo Đức Kinh của Lão Tử có câu này: “Thiên địa bất công, thị vạn vật như sô cẩu”, nghĩa là “trời đất bất công coi vạn vật như con chó rơm”.

Sô cẩu là một con chó làm bằng rơm. Thân phận con người, thân phận muôn loại, không hơn gì thân phận một con chó làm bằng rơm, muốn làm gì thì làm, muốn đày đọa như thế nào thì đày đọa. Đó là lời từ Đạo Đức Kinh. Sau đó, Đạo Đức Kinh còn có thêm một câu nữa là “Thánh nhân bất nhân”. Bất nhân là inhuman. “Thánh nhân bất nhân, thị vạn vật như sô cẩu”. Tại sao thiên địa bất nhân rồi mà thánh nhân cũng bất nhân? Thánh nhân là các bậc thánh. Mình đã có trí tuệ, đã có từ bi, mình là bậc thánh, tại sao mình cũng bất nhân? Thánh nhân đây có thể là để chỉ cho những ông vua. Bởi vì thông điệp của vua gọi là thánh chỉ, đạo dụ của vua gọi là thánh dụ và thân thể của vua gọi là thánh thể. Tại vì thánh nhân là ông vua, dù là vua Nghiêu, vua Thuấn hay vua Trụ thì cũng là một thứ Thượng đế trong phạm vi loài người. Và trong chương trình của ông vua cũng có những mục như xây Vạn Lý Trường Thành hay xây Kim Tự Tháp, hoặc quyết định đem quân đi xâm phạm một nước láng giềng. Tất cả những quyết định đó làm rơi rụng xương máu của biết bao nhiêu là thần dân, trong khi đó thánh nhân đã nhân danh tổ quốc, nhân danh hạnh phúc cho muôn loại.

Một em bé lớn lên không biết cha mình là ai, mẹ mình là ai, không biết được gốc gác mình thì em bé cảm thấy lạc lõng. Em bé không thấy mình thuộc về nguồn gốc nào cả. Em bé cũng có thể phẫn uất nói tại sao những em bé khác có cha, có mẹ, có gốc gác văn hóa mà mình không có? Và ai là người chịu trách nhiệm? Nói Thượng đế chịu trách nhiệm về tất cả những cái đó thì tại sao một người, một nhân vật, một vị thần linh như Thượng đế lại có thể để cho những cái bất công ghê gớm như vậy xảy ra? Có những nước sống thanh bình trăm năm này qua trăm năm khác. Có những nước luôn luôn bị xâm chiếm, bị đô hộ cả ngàn năm. Tại sao có thân phận nhược tiểu? Đó là những câu hỏi mà người ta có thể hỏi Thượng đế. Có những cô gái sinh ra không có nhan sắc, nhìn chị em, thấy chị em có nhan sắc, nhìn vào gương lấy làm tủi, trách móc cha mẹ không được, trách móc xã hội cũng không được thì chỉ biết trách móc ông trời mà thôi. Ngày xưa, vào khoảng những năm 1960 có một tập thơ xuất hiện ở thị trường Sài Gòn với nhan đề “Em là gái trời bắt xấu.” Thi sĩ Victor Hugo của Pháp trong một bài thơ viết về cái chết của đứa con gái yêu là Léopoldine cũng có nói rằng loài người chỉ có thể trông thấy được một phần nhỏ của sự việc và loài người không thể nào hiểu được, tại vì phần kia nó chìm trong bí mật, chỉ có Thượng đế mới hiểu mà thôi. Cho nên mình phải bằng lòng với sự ngu dốt của mình và mình phải chấp nhận rằng tất cả những gì xảy ra nằm trong chương trình của Thượng đế. Nếu ta phải đau khổ là tại vì Thượng đế muốn ta đau khổ, để chúng ta có thể lớn lên trong quá trình đau khổ đó. Ông viết như thế này: “Lạy Thượng đế, con tới với Ngài là một đấng mà tất cả mọi người đều phải tin tưởng. Con đến đây đặt trái tim đã tan nát của con trước mặt Thượng đế. Và chính Thượng đế đã đập nát trái tim của con. Con đến đây, trước mặt Thượng đế, công nhận rằng Thượng đế là nhân từ, Thượng đế là rộng lượng. Con phải tỏ lộ với tâm con là chỉ có Thượng đế mới biết rõ được những cái Thượng đế đang làm, con người chẳng qua chỉ là một cọng lau sậy phất phơ bay trong gió. Con người chỉ có thể thấy được một đầu của sự vật thôi và đầu kia lại chìm trong đêm tối hãi hùng không ai có thể thấy được. Con người phải gánh chịu những tai ương ách nạn mà không biết tại sao mình phải gánh chịu những tai ương ách nạn đó. Tất cả những gì mà con người nhận thức đều vô thường và đều mong manh”. Đó là những lời than thở của thi sĩ Pháp khi phải gánh chịu cái chết của cô con gái đang còn trẻ.

Cha Ăn Mặn Con Khát Nước

Ở trong đạo Bụt, khi được hỏi tại sao những người ác độc vẫn sống phây phây và những người nhân từ lại khổ đau thì có nhiều vị pháp sư trả lời: “Đó là tại vì những người đang đau khổ ấy tuy bây giờ hiền lành nhưng trong kiếp trước đã làm những điều dữ. Nếu có những người dữ đang sống phây phây bây giờ là vì trong kiếp trước họ đã biết làm điều lành.” Nói như vậy để chúng ta có thể chấp nhận được khổ đau của chúng ta. “Dục tri tiền thế nhân, kim sinh thọ giả thị. Dục tri lai thế quả, kim sinh tác giả thị”. Muốn biết những cái nhân của kiếp trước mình gây tốt hay không, thì mình chỉ cần nhìn những kết quả mà mình thu nhận trong đời sống ngày hôm nay. Nếu mình bây giờ có hạnh phúc, được đoàn tụ gia đình, có công ăn việc làm đàng hoàng, thiên hạ đối xử với mình tử tế, mình không bị bệnh tật là tại vì sao? Nhìn vào những cái mà mình thọ hưởng ngày hôm nay, mình biết ngày xưa mình đã gây ra những nhân tốt. Còn nếu nhìn vào những cái khổ đau trong đời sống bây giờ, mình biết rằng tại vì trong quá khứ, trong đời trước, mình đã làm những việc ác đức.

Dục tri tiền thế nhân
Kim sinh thọ giả thị

Đó là câu trả lời cho câu hỏi tại sao người ác độc vẫn sống phây phây, còn người hiền lành thì tiếp tục chịu đau khổ.

Dục tri lai thế quả
Kim sinh tác giả thị

Nếu muốn biết rằng đời sau mình có được hạnh phúc hay không, nếu muốn biết cái quả của đời vị lai thì mình chỉ cần nhìn vào những hành động của ngày hôm nay. Kim sinh tác giả thị là những cái gì mình tạo tác ra trong đời sống hiện tại. Nếu trong đời này mình làm những chuyện thất đức thì kiếp sau mình sẽ khổ đau, mình sẽ lãnh đủ. Đó là cách giải thích cho những người quá đau khổ để họ có thể chấp nhận được số phận của họ: “Tại vì trong quá khứ ta đã làm những chuyện thất đức, vì vậy hôm nay ta phải ráng chịu, và tìm cách làm ra những nhân tốt để cho đời sau ta sẽ có hạnh phúc hơn”. Lối giải thích đó tuy cũng đúng với luật nhân quả nhưng chỉ đúng có một phần nào thôi. Tại sao? Cố nhiên theo luật nhân quả: trồng ngô thì hái ngô, trồng đậu thì hái đậu, gieo gió thì gặt bão. Nếu quá khứ làm nhân ác độc thì bây giờ phải chịu quả khổ đau. Nếu bây giờ làm nhân lành thì kiếp sau sẽ được hưởng quả tốt đẹp. Vậy tại sao không nói là đúng hết mà chỉ nói đúng một phần ? Đúng một phần là tại vì lối giải thích về nhân quả này còn vướng vào ý niệm ngã. Vì vậy lối giải thích ấy chưa phải là nhân quả đích thực của đạo Bụt. Đạo lý nhân quả đích thực của đạo Bụt phải đi đôi với giáo lý vô ngã. Khi ta hiểu được giáo lý vô ngã theo nguyên lý vô ngã, khi ta hiểu được giáo lý nhân quả trong ánh sáng của vô ngã, thì lúc đó ta mới bắt đầu hiểu được thực sự tại sao cha ăn mặn mà con lại khát nước. Tại vì cha ăn mặn mà con khát nước cũng là một sự thật. Người này làm mà người kia chịu, như vậy nó có phải là một điều trái chống với lý nhân quả không? Không, nó không trái chống với lý nhân quả, nó đúng là lý nhân quả trong đạo lý vô ngã, tại vì cha với con không phải là hai thực thể riêng biệt. Cha với con cùng chung một dòng sinh mạng, vì vậy cho nên những điều gì mà cha ông ta làm ngày xưa, bây giờ ta sẽ tiếp tục thừa hưởng hoặc lãnh đủ. Có thể ta không biết nhưng mỗi khi ta hút một điếu thuốc hay uống một ly rượu, thì hành động này chắc chắn là có tác động tới cháu chắt của ta trong nhiều đời về sau. Khi được thừa hưởng một cơ thể lành mạnh không bệnh tật, chúng ta đừng nói rằng cái đó là chỉ do kiếp trước ta đã trồng những nhân tốt cho nên trong kiếp này ta được thừa hưởng một thân thể lành mạnh không có tật bệnh. Có những em bé mới sinh ra đã có một cái cơ thể bèo nhèo rất tội nghiệp. Nếu nói rằng vì kiếp trước em đã làm ác nên kiếp này em mới khổ như vậy thì chúng ta tàn nhẫn quá. Trong sự thật “cha ăn mặn, con khát nước”  vừa có lý nhân quả vừa có lý vô ngã. Nếu ngày hôm nay ta được thừa hưởng một cơ thể lành mạnh không bệnh tật thì ta biết rằng đó là nhờ cha, nhờ mẹ, nhờ ông nội, nhờ bà nội, ông ngoại, bà ngoại và những thế hệ khác đã sống như thế nào, đã giữ gìn cơ thể họ như thế nào nên hôm nay ta mới có được cơ thể này. Vì vậy không phải chỉ có ta gieo hạt trong quá khứ mà ông cha chúng ta cũng đã gieo hạt trong quá khứ. Như vậy cũng có nghĩa ông cha ta tức là ta, ta là sự tiếp nối của ông cha. Đây là đạo lý vô ngã.

Thi sĩ Nguyễn Du chẳng hạn, đã viết nhiều tác phẩm trong đó có truyện Kiều. Hồi đó người Việt chưa có đức tin mãnh liệt nơi ngôn ngữ Việt. Người ta nghĩ rằng chỉ có chữ Hán mới có thể diễn tả được những cái sâu sắc nhất của tâm tư và nhiều học giả chỉ làm thơ chữ Hán. Nhưng có những người như thi sĩ Nguyễn Du lại có đức tin rất vững nơi tiếng Việt. Vì vậy họ đã sáng tác bằng tiếng Việt và gởi tất cả tâm hồn mình vào tác phẩm. Thi sĩ Nguyễn Du sáng tác cho ai? Cái nhân đó, cái hạt giống đó gieo xuống cho ai, để cho kiếp sau thi sĩ được hạnh phúc hay là để cho cả dân tộc được thừa hưởng? Trong ánh sáng của đạo lý vô ngã, Nguyễn Du không có một cái ngã riêng biệt. Cái ngã của Nguyễn Du là cái ngã của con cháu Nguyễn Du ngày hôm nay. Vì vậy, nếu ngày hôm nay những người trẻ có đức tin nơi tiếng Việt, cái đó không phải chỉ vì những người trẻ đó đã trồng nhân lành quá khứ, mà tại vì họ đã có những bậc cha ông biết gieo những nhân lành. Cho nên khi gánh chịu một khổ đau, ta phải thấy rằng khổ đau này là ta đang gánh chịu cho cả dòng họ, cho cả dân tộc ta. Khi thấy như vậy thì ta sẽ đỡ đau khổ nhiều lắm, và trong khi gánh chịu ta có thể có rất nhiều nghị lực và nhiều niềm vui vì ta đang gánh chịu với tình thương và trách nhiệm của một thành phần trong dòng sinh mạng. Trong khi chùi cầu tiêu, sư chú biết rằng sư em mình đang nói pháp thoại trên thiền đường. Tuy vậy, sư chú vẫn chùi cầu tiêu một cách rất hạnh phúc, và thấy rằng việc chùi cầu tiêu là một việc rất cao cả, quan trọng không thua gì việc nói pháp thoại. Sư chú biết rằng nhờ sư chú đang chùi cầu tiêu nên sư em mới có cơ hội để nói pháp thoại. Như vậy chùi cầu tiêu là một hình thức nói pháp thoại. Trong khi sư em mình nói pháp thoại có lợi lạc cho sư em và cho những người khác, thì sư chú chùi cầu tiêu cũng có rất nhiều lợi lạc và cũng đem lợi lạc này lại cho rất nhiều người. Vì vậy không có sự kỳ thị giữa việc chùi cầu tiêu và việc nói pháp thoại. Đó là vô ngã. Ta biết rằng đức Quan Thế Âm Bồ Tát đã thành Bụt từ vô lượng kiếp rồi, nhưng trong pháp hội của Bụt Thích Ca, đức Quan Âm vẫn đóng vai trò của một người đệ tử. Chúng ta biết rằng Bụt Thích Ca cũng có thể làm chuyện đó. Có thể trong một hoàn cảnh khác, đức Quan Thế Âm Bồ Tát đóng vai trò của một bậc Chúng Trung Tôn và Bụt Thích Ca Mâu Ni lại đóng vai trò của một người đệ tử. Tất cả đều là thị hiện. Thị hiện trong tuệ giác tôi với anh không phải là hai thực thể: anh làm chuyện này, tôi làm chuyện khác; anh vo gạo, tôi rửa bát, tất cả đều mầu nhiệm như nhau. Vì vậy cho nên dù ngồi trên pháp tọa hay đang làm vua thì mình cũng không thấy mình bị tách rời ra khỏi những thực thể khác ở chung quanh mình.

Vì vậy mình có khả năng hạnh phúc và nếu cần đau khổ mình cũng có thể chấp nhận được, tại vì mình đang gánh chịu cho anh mình, cho chị mình, cho em mình, cho dân tộc, cho dòng họ của mình. Đó là nhẫn. Nhẫn tức là có một trái tim rất lớn có thể chứa đựng được những cái mà những trái tim khác không thể chứa đựng. “Nhẫn điều khó nhẫn mới là chân tu”, đó là một câu ở trong truyện Quan Âm Thị Kính. Chứa đựng những cái không thể chứa đựng được, đó mới gọi là chân tu. Mà tại sao trái tim mình đã lớn lên được tới cái mức đó, có thể chứa đựng được tất cả những đau khổ, những bất công như thế? Đó là tại vì mình đã có dụng cụ của sự quán chiếu. Dụng cụ của sự quán chiếu ấy tháo tung được trái tim mình ra và làm cho trái tim mình có thể ôm trọn cả được thái hư. Còn nếu không thì mình vẫn còn trách trời, trách đất, nguyền rủa thiên địa, nguyền rủa chính quyền, nguyền rủa xã hội, nguyền rủa cha mẹ, nguyền rủa đủ thứ và mình tiếp tục đau khổ.

Hãy Gọi Đúng Tên Tôi

Khi em bé thuyền nhân bị hãm hiếp trên Vịnh Thái Lan nhảy xuống biển tự tử, người cha của em bé đau khổ vô cùng. Người cha đó tới can thiệp nhưng đã bị những tên cướp biển đánh cho bị thương tích, quỵ xuống không làm gì được và cuối cùng phải tận mắt chứng kiến cảnh con gái mình bị hãm hiếp. Đó là một oan ức lớn và hận thù cao ngút. Hận thù là một khối đau rất lớn. Đó là địa ngục, đó là lửa cháy. Càng đau khổ thì càng hận thù và càng bị oan ức thì hận thù càng lớn. Chữ oan biến thành chữ oán, chỉ cần thêm một dấu sắc. Khi ta cảm thấy bị oan ức thì ta dễ sinh tâm oán hận. Và khi có oán hận trong lòng thì trái tim bốc cháy và ta càng đau khổ hơn. Vì vậy cho nên ta phải thực tập Nhẫn Ba La Mật. Nhẫn Ba La Mật không phải là sự đè nén mà là sự quán chiếu. Buổi chiều hôm đó, sau khi được tin em bé nhảy xuống biển, tôi đã không ăn cơm được. Tôi đi thơ thẩn vào rừng, trái tim đầy khổ đau, đầy phẫn uất. Đêm đó, trong giờ thiền quán, tôi thấy tôi là người hải tặc được sinh ra ở miền duyên hải Vịnh Thái Lan. Tôi thấy tôi là một em bé trai được sinh ra trong một gia đình ngư dân nghèo. Cha tôi là một ngư phủ, dốt nát không biết chữ, đêm nào cũng say rượu và về đánh đập vợ. Mẹ tôi là một người đàn bà không có học thức, không biết cách nuôi con, cứ để tôi lêu lổng chơi bời với những đứa trẻ hàng xóm không có giáo dục. Từ mười lăm, mười sáu tuổi, tôi đã phải theo cha ra biển để đánh cá. Cuộc sống rất khó khăn, nghèo khổ. Dòng họ của tôi, bao nhiêu đời rồi, đã từng sống một cuộc sống nghèo khó như vậy. Thành ra sau khi cha tôi mất, tôi phải đi ra làm nghề biển. Rồi một hôm đó, một vài người đồng nghiệp nói với tôi: “Có những người thuyền nhân vượt biển mang theo vàng, mình chỉ cần đi ăn cướp một chuyến thôi là mình có thể tự giải phóng mình ra khỏi thân phận nghèo đói và khổ đau đã kéo dài trong bao nhiêu đời, bao nhiêu kiếp.” Nghe lời mấy kẻ đó, tôi tự nói: “Một lần thôi nhé”, và tôi đã đi theo những tên hải tặc khác. Khi ra tới biển khơi đón đường một chiếc thuyền, chúng tôi đã không cướp bóc được gì. Không ai có vàng. Người ta phải lấy áo, lấy quần, lấy dây chuyền của những người thuyền nhân. Rốt cuộc tôi thấy một đứa bạn, cũng làm nghề đánh cá, hãm hiếp một cô bé. Nhìn quanh tôi thấy không có ai, không có cảnh sát, tôi nghĩ rằng ở đây không có ai thấy ai biết và tôi đã bắt chước bạn tôi hãm hiếp cô bé. Tôi nói: “Chỉ một lần thôi.” Bấy giờ, nếu anh có súng, anh sẽ bắn tôi chết và anh hất tôi xuống biển sâu. Tôi chết thì cũng vậy thôi. Từ khi tôi sanh ra tới giờ, đâu có ai dạy cho tôi biết thương, biết yêu và biết quán chiếu. Chưa ai dạy tôi làm thế nào để thoát ra khỏi thân phận nghèo đói và áp bức của một kiếp người. Chưa ai tìm cách mở trái tim của tôi ra để cho tôi biết thương và biết cảm. Vì vậy, nếu anh giết tôi thì tôi chết thôi. Anh cũng không giúp được tôi. Trong giờ thiền quán, tôi đã thấy như vậy và tự nhiên bao nhiêu giận hờn, bao nhiêu trách móc đối với người hải tặc đó tan biến hết. Cũng trong buổi thiền quán đó, tôi thấy được hàng trăm em bé đang sinh ra rải rác trên miền duyên hải Thái Lan. Tôi biết rằng những em bé này nếu không có ai dạy, không có ai thương, không có ai chăm sóc; nếu các nhà văn hóa, các nhà giáo dục, các nhà kinh tế và các nhà chính trị tiếp tục bỏ bê các em thì hai mươi năm sau, có nhiều đứa trong số đó sẽ trở nên hải tặc. Chúng ta đã cùng với nhau tạo nên những tên hải tặc. Chúng ta chịu trách nhiệm về cái chết của em bé gái, không phải chỉ riêng người hải tặc kia. Đó là quán chiếu theo lý vô ngã. Nếu không quán chiếu theo lý vô ngã thì ta sẽ đổ tội một trăm phần trăm cho tên hải tặc. Nhưng nếu chúng ta đã được sanh ra trong gia đình tên hải tặc đó, đã được nuôi nấng, được giáo dục theo cách đó thì lớn lên chúng ta sẽ trở thành một tên hải tặc như nó. Vì vậy cho nên nó không phải là người duy nhất chịu trách nhiệm mà chúng ta cũng liên đới chịu trách nhiệm. Chúng ta, ở gần hay ở xa, khi thấy bi kịch đó, hãy nói lên được và kêu gọi dư luận thế giới làm thế nào để ngăn ngừa không cho những em bé sanh ra tối hôm nay, hai mươi năm sau trở thành một tên hải tặc. Đó là bổn phận của tất cả chúng ta. Chỉ khi nào chúng ta quán chiếu và thấy được nguyên do tại sao những người tàn bạo kia đã làm như vậy thì lửa hận thù, lửa hờn oán trong ta mới bắt đầu lắng xuống và tiêu diệt. Chỉ lúc đó, giọt nước thanh lương trong trái tim mới có thể ứa ra và ta cảm thấy êm dịu, dễ chịu. Trong Thánh Kinh có lời cầu nguyện: “Lạy Cha, xin Cha tha cho người đó, bởi vì người đó không biết họ đang làm gì”. Đúng như vậy. Nếu người ta nói điều ác, nếu người ta làm điều ác, đó là vì người ta vô minh và không có chánh niệm. Người ta không biết rằng lời nói đó hay hành động đó đang gây ra đau khổ cho người khác và cho chính mình. Một em bé bắt một con bướm cầm trong hai tay và xé con bướm ra làm hai mảnh. “Này bé, có phải em ác độc không?” Đó là câu hỏi. Trẻ em có thể chơi ác như vậy. Có một hôm, tôi nói với một em bé: “Con có biết rằng con bướm này nó có anh, có chị, có mẹ, có cha hay không? Con hãy tưởng tượng tối nay con bướm nó không về nhà thì anh chị nó sẽ lo lắng như thế nào? Mẹ nó sẽ lo lắng như thế nào? Cha nó sẽ lo lắng như thế nào?” Em bé hiểu. Từ đó, em bé không còn bắt bướm xé ra thành hai mảnh nữa và mỗi khi đi chơi với Sư Ông gặp một con sên, thay vì đạp lên thì bé cúi xuống nâng con sên lên để vào trong bụi cây và nói: “Nếu không thì nó sẽ bị người ta đạp và tối nay nó về nhà với ba má nó không được.” Đó là cái thấy. Cái thấy đó làm cho trái tim ta lớn lên, làm cho tình yêu trở nên một cái gì có thật.

Vì vậy cho nên tu là quán chiếu. Quán chiếu nghĩa là thiền tập. Nếu anh lo tu tạo công đức mà không thực tập quán chiếu thì công đức đó sẽ không phải là công đức đích thực. Năng lượng dùng để quán chiếu là chánh niệm, tại vì không có niệm thì không có định, mà không có định thì không thể nào quán chiếu. Cho nên trong khi ăn, uống, đi, ngồi, ta phải chế tác chánh niệm. Cố nhiên phải nấu cơm ta mới có cơm ăn. Người đời nấu cơm là để có cơm ăn thôi. Còn chúng ta, người tu, nấu cơm không phải chỉ là để có cơm. Hành động nấu cơm của chúng ta phải là hành động quán chiếu, cho nên ta phải nấu cơm trong chánh niệm. Đó là chìa khóa của tất cả mọi thành công.

Giải Oan

Đọc truyện Thúy Kiều, chúng ta rất thương cô nàng long đong mười lăm năm lưu lạc. Thúy Kiều đã đau khổ vô cùng. Và Thúy Kiều, có khi cũng làm như mẹ, cô ngửng mặt lên trời để hỏi: “Tại sao thân phận của con như vậy, hai lần làm đầy tớ, hai lần làm gái giang hồ, bị dày xéo, đánh đập và hành hạ đủ cách?” Ai gây ra những khổ đau đó cho Thúy Kiều? Thúy Kiều chịu khổ vì ai? Cố nhiên có thể là vì xã hội bất công và có thể là vì cha ông đã từng gieo những hạt giống không lành trong quá khứ, nhưng chính Thúy Kiều cũng chứa chấp trong lòng những vô minh, những hận thù và những dại dột. Chúng ta biết rằng sau khi Từ Hải trở nên một vị tiểu vương hùng cứ một địa phương, Thúy Kiều đã được Từ Hải rước về và hạnh phúc gần như được coi là hoàn toàn. Một gái thanh lâu, một con thanh y bị người khác hành hạ bây giờ đã trở nên một bà mệnh phụ có quyền uy rất lớn. Nhưng trong địa vị đó, Thúy Kiều vẫn không có hạnh phúc, vẫn tiếp tục đau khổ, vì Thúy Kiều vẫn còn cảm thấy nỗi oan ức canh cánh trong lòng. Ngày xưa đã là nạn nhân của Tú Bà và Mã Giám Sinh, sau này nàng còn là nạn nhân của Bạc Hạnh, Bạc Bà, Ưng, Khuyển và Sở Khanh. Bao nhiêu người đã làm tình làm tội, đã dày xéo lên trên cuộc đời của nàng. Cho nên một hôm Thúy Kiều năn nỉ với Từ Hải: “Làm sao Tướng công cho người đi bắt hết tất cả những người đã làm khổ em trong quá khứ đem về đây cho em trừng trị.” Từ Hải vì thương Kiều quá nên đã chiều theo. Ông ta cho một đạo quân đi bắt hết tất cả những người đã làm khổ Kiều, từ Tú Bà, Mã Giám Sinh cho đến Bạc Hạnh, Bạc Bà, Khuyển và Ưng. Thúy Kiều cũng đã nói: “Có những người đã làm ơn cho em ngày xưa thì cũng xin Tướng công mời về để em có thể trả ơn.” Trong số những người mà Thúy Kiều mời về để trả ơn, có ni sư Giác Duyên là người đã cho Thúy Kiều tỵ nạn một thời gian dưới hình thức sư cô ở chùa Chiêu Ẩn và một bà quản gia. Bà quản gia này đã săn sóc những vết thương của Thúy Kiều sau khi Thúy Kiều bị đánh đập, đã từng sắc thuốc cho Thúy Kiều uống để lấy lại sức khỏe. Vì vậy Thúy Kiều đã mời hai người ấy về, và sẵn có vàng có ngọc, có lụa là trong cung, Thúy Kiều đã đem ra tặng hai người. Trong khi đó, một dãy tội phạm kia được dẫn tới. Thúy Kiều nói: “Nhìn lên đây. Quý vị có thấy ai đây không? Quý vị có thấy đây là cái người mà quý vị đã từng làm tình làm tội, là người mà quý vị đã từng đánh từng đập và hành hạ trong quá khứ?” Mọi người đều hoảng hốt và sợ hãi tại vì “không ngờ con nhỏ đó bây giờ làm lớn quá và giờ đây bị nó bắt về thì thôi, chắc là mình chết.” Thúy Kiều đã ra lệnh là người nào ngày xưa thề bồi như thế nào thì bây giờ bị trừng phạt như thế đó. Đó là sự trả thù của Thúy Kiều. Trong con người của Thúy Kiều còn nhiều hạt giống của vô minh và ác độc có thể là đã được thừa hưởng từ ông bà, cha mẹ hay là từ quan điểm về công bình xã hội của giai cấp như trong xã hội của Thúy Kiều.

Trước là Bạc Hạnh, Bạc Bà
Bên là Ưng Khuyển, bên là Sở Khanh
Tú Bà với Mã Giám Sinh
Các tên tội ấy đáng tình còn sao?
Lệnh trên truyền xuống khai đao
Thề sao thì lại cứ sao gia hình
Máu rơi thịt nát tan tành
Ai trông thấy cũng hồn kinh phách rời.

Thúy Kiều chịu được cảnh trả thù. Quý vị khi bắt được những người đã làm khổ mình trong quá khứ, quý vị có khả năng ngồi nhìn những người đó bị hành hình như vậy hay không? Nàng Thúy Kiều của chúng ta đã ngồi để chứng kiến sự đau khổ của những kẻ thù mình. Hèn gì con người đó đã phải gánh chịu biết bao nhiêu là đau khổ trong vòng mười lăm năm. Thời gian mà Kiều tu với sư chị Giác Duyên tại chùa Chiêu Ẩn chẳng qua chỉ là thời gian tỵ nạn thôi, chứ chưa phải là tu hành đàng hoàng. Mười lăm năm sau, sau khi đã nếm đau khổ đến chỗ cùng cực, rồi nhảy xuống sông Tiền Đường tự tử và được sư chị vớt lên, Kiều mới thực sự tu hành nghiêm chỉnh. Và tu hành chỉ một thời gian ngắn thôi, Trạc Tuyền đã có thể chuyển hóa. Đó là vì bây giờ sư cô tu thiệt, còn trước đó sư cô tu là để tỵ nạn thôi. Oan, tiếng Anh là injustice. Oan là một sợi dây trói mình, xiết chặt mình lại; mình đau khổ và rên siết trong sợi dây oan nghiệt đó. Chừng nào mình còn cảm thấy oan thì chừng đó mình còn cảm thấy đau khổ. Mình cảm thấy mình có nhu yếu cần phải giải oan. Giải oan tức là mở nỗi oan ra. Giải oan là một danh từ được sử dụng rất nhiều ở Việt Nam. Ở dưới chân núi Yên Tử có dòng Giải Oan. Ở trên chùa Hương cũng có chùa Giải Oan. Chúng ta đi chùa cầu Bụt và các vị Bồ Tát để giải oan. Chúng ta thiết lập những đàn tràng để giải oan, gọi là Đàn Giải Oan. Chúng ta ra biển làm lễ vớt những vong hồn của các thuyền nhân bị đắm trên biển cả, chúng ta tụng kinh siêu độ, chúng ta thí thực và chúng ta giải oan là tại vì chỉ khi nào cái oan của mình được giải thì mình mới có hạnh phúc. Nhưng ai là người giải oan được cho mình bây giờ? Thúy Kiều đã nhờ Từ Hải giải oan cho nàng. Thúy Kiều đã trông cậy vào một thế lực chính trị, một thế lực quân sự để mà giải oan. Chúng ta có thể đi tìm những phương tiện quân sự và chính trị để giải oan. Nhưng trong trường hợp của Thúy Kiều, oan kia không biết đã giải được hay không mà lúc ấy Thúy Kiều đã tạo thêm ra những tội trạng. Thúy Kiều không thấy rằng nếu Tú Bà và Mã Giám Sinh làm như vậy là vì xã hội đã dung dưỡng những thành phần như vậy. Tú Bà và Mã Giám Sinh làm nghề chứa gái điếm là một trong những nghề làm được rất nhiều tiền. Có thể là Tú Bà và Mã Giám Sinh không có nghề nào khác hơn, và không ai giúp cho họ có một nghề lương thiện hơn. Vì vậy Tú Bà và Mã Giám Sinh cũng là nạn nhân của xã hội như Thúy Kiều. Không những Thúy Kiều cần phải giải oan, mà Tú Bà và Mã Giám Sinh cũng cần được giải oan. Tại sao phải đi làm nghề đó? Ai đặt Tú Bà và Mã Giám Sinh vào hoàn cảnh đó nếu không phải là xã hội, nếu không phải là hạt giống của cha ông? Cho nên Tú Bà với Mã Giám Sinh cũng là nạn nhân như Thúy Kiều. Nếu chúng ta thương Thúy Kiều thì tại sao trái tim của chúng ta không mở rộng hơn lên để có thể thương được Mã Giám Sinh và Tú Bà? Tất cả những người đang ngồi trong tù vì đã làm những hành động bạo động trong xã hội, những người đó cần bị trừng phạt hay là cần được giúp đỡ? Quán chiếu theo đạo lý duyên sinh và vô ngã của đạo Bụt, chúng ta thấy rằng tất cả những người đang bị giam giữ trong tù đều là những người cần được giúp đỡ, cần được thương yêu. Họ là những người cần được thương yêu hơn là những người khác. Họ đã thiếu thương yêu và thiếu hiểu biết, cho nên họ đã làm giống như em bé cầm một con bướm xé ra làm hai mà không thấy trái tim rung động gì hết. “Lạy Chúa, xin Chúa tha tội cho kẻ kia tại vì kẻ kia không biết họ đang làm gì.”  Cái gì đã xui khiến kẻ kia làm ra điều ác đó? Cái đó là vô minh. Vì ngu dốt và vì không có tình thương cho nên kẻ kia đã làm như vậy. Vì thế, cái mà kẻ kia cần là một ít tình thương và một ít trí tuệ. Nếu họ có một ít tình thương và một ít trí tuệ thì họ sẽ không làm như vậy. Tình thương và trí tuệ là hai tặng phẩm lớn nhất và quý giá nhất mà chúng ta có thể trao tặng cho đời, nhất là những người cần được tiếp nhận hai chất liệu đó. Nhốt một người bạo động lại là chuyện bất đắc dĩ để người ấy đừng tiếp tục giết người, đánh người và đốt nhà. Chúng ta phải có lòng thương. Tuy nhốt người ấy lại nhưng ta phải làm thế nào để cho người ấy đừng phát điên và có cơ hội để có thể học, có thể thực tập, có thể mở được trái tim và có thể thấy được một hướng đi trong cuộc đời. Chúng ta phải có một chương trình thương yêu những người bị giam giữ. Cũng vì vậy cho nên sự có mặt của các sư cô, sư chú đến thăm viếng các trại giam là chuyện rất quan trọng. Chúng ta không thể chỉ giao phó số mạng của những người bị giam giữ cho những ông cai tù, tại vì những ông đó có thể chưa biết thương, chưa biết hiểu. Những thiếu niên phạm pháp, chúng ta đâu có muốn nhốt các em lại. Nhốt các em lại là chuyện bất đắc dĩ để các em đừng tiếp tục phạm pháp. Nhưng chúng ta phải có chương trình để giúp các em thoát ra khỏi tình trạng trái tim trở thành một thoi sắt và trí tuệ trở thành một tảng đá. Ai là người có thể giúp được các em để các em có chất liệu của hiểu biết và thương yêu nếu không phải là những người đã thực tập hiểu biết và thương yêu? Cho nên chúng ta phải có mặt. Chúng ta thương ai? Chúng ta thương thầy, thương bạn, thương cha và thương mẹ. Điều đó rất đúng, nhưng có thể những người đó ít cần tình thương của chúng ta hơn là những người ác độc kia. Thúy Kiều đã không có cái nhìn như vậy. Thúy Kiều đã không thấy được Tú Bà, Mã Giám Sinh, Sở Khanh và Bạc Bà cũng đều là nạn nhân như là Thúy Kiều vậy. Chính những người đó cần được giúp đỡ. Nếu Thúy Kiều có được từ bi, có được trí tuệ thì sau khi mời những người đó về, Thúy Kiều sẽ cho họ gia nhập một khóa tu mười ngày hay là hai mươi ngày.

Quý vị đừng tưởng Thúy Kiều đã chết. Thúy Kiều đang còn sống, đang còn ngồi đó giữa chúng ta ngay trong ngày hôm nay. Không trễ đâu. Khi Thúy Kiều đã có chương trình giúp cho người thù trong quá khứ, để những người này có thể tu học được một khóa mười ngày hay là hai mươi ngày thì trái tim của Thúy Kiều đã mở ra rồi. Từ Hải không thể nào giải oan được cho Thúy Kiều. Giải pháp quân sự, giải pháp bạo động và giải pháp chính trị không đủ để giải oan cho chúng ta với tư cách một cá nhân, một dòng họ, một gia đình và một dân tộc. Chúng ta phải tự giải oan lấy cho mình bằng phương pháp thực tập. Chỉ khi nào trí tuệ bừng nở và cam lộ của từ bi ứa ra trong trái tim, thì lúc đó oan ức của chúng ta mới bắt đầu dịu lại và chúng ta mới được chuyển hóa thật sự. Đừng mong ước giải oan bằng những phương tiện quân sự hay chính trị. Đừng mong ước giải oan bằng một thế lực ngoài ta, dù đó là Thượng đế, là Bụt hay là Bồ tát. Nếu quán chiếu sâu sắc thì chúng ta thấy rằng Thượng đế chính là ta, Bụt chính là ta, Bồ tát chính là ta và cái năng lượng kia chúng ta phải sử dụng trong tâm ta để ta có thể thực sự giải oan cho ta. Tất cả mọi người hôm nay ngồi đây ít nhiều cũng đã bị oan ức trong quá khứ, đã bị dèm pha, đã bị ganh ghét và đã bị vu oan giá họa. Nếu nỗi oan trong lòng ta chưa tiêu thì ta biết rằng ta phải thực tập. Một tờ báo, một bài báo hay là một lời xin lỗi không đủ để giải tỏa những nỗi oan cừu đó. Muốn thực sự giải tỏa những nỗi oan cừu đó và những nỗi khổ đau đó thì chúng ta phải thực tập Nhẫn Ba La Mật. Nghĩa là chúng ta phải làm thế nào cho trái tim ta lớn lên và trí tuệ ta lớn lên để trái tim chúng ta có thể đi về hướng trái tim Đức Thế Tôn. Chúng ta có khả năng ôm được, chứa đựng được những niềm đau nỗi khổ đó và chứa đựng luôn được cái người, ngày xưa hoặc bây giờ, đang làm cho ta đau khổ. Và nếu trái tim ta đã lớn thì những cái kia không còn đủ sức làm cho chúng ta đau khổ nữa. Một đêm quán chiếu làm cho trái tim mình mở ra, làm cho người hải tặc kia không còn là kẻ thù của mình mà trở thành một người thương của mình. Người hải tặc phải là một người cần được giúp đỡ. Và những người hải tặc trong tương lai mình phải thấy ngay từ bây giờ, để mình có thể giúp đỡ và để cho ngày mai em bé trai sinh ra đêm nay sẽ không trở nên hải tặc. Đó là cái thấy của sự quán chiếu và đó là lòng từ bi. Tình thương là một cái gì không thể có nếu không có sự quán chiếu. Vì vậy cho nên nói bi tức là nói trí và nói trí tức là nói bi, hai cái không thể tách rời nhau.

Sinh Nhẫn Và Pháp Nhẫn

Hôm trước chúng ta đã học về hai loại nhẫn tức là nhẫn thế gian và nhẫn xuất thế gian. Hôm nay chúng ta học về hai cái nhẫn khác là sinh nhẫn và pháp nhẫn. Sinh tức là chúng sinh. Trước hết là loài người, tức là loài làm ta khổ đau nhiều nhất. Các loài khác như loài vi trùng hay là loài cọp beo cũng làm ta khổ, nhưng không làm cho ta cay đắng quằn quại như loài người. Sinh nhẫn tức là nhẫn chúng sinh. Nếu cha mẹ mình làm khổ mình thì cha mẹ mình cũng là chúng sinh, mình phải làm thế nào để có thể ôm được cha mẹ, hiểu được cha mẹ và thương được cha mẹ, đó gọi là sinh nhẫn. Nếu con mình làm khổ mình thì mình phải thực tập như thế nào để con mình hiểu được mình, để trái tim mình lớn lên và ôm được con mình, mình không còn giữ ý muốn từ con mình nữa tại vì con mình cũng là một chúng sinh, đó gọi là sinh nhẫn. Nếu giai cấp kia đàn áp, bóc lột mình và mình đau khổ cùng cực, thì mình phải làm thế nào để trái tim mình lớn lên và ôm được trọn những người đó, thương được những người đó tại vì những người đó cũng là chúng sinh, đó gọi là sinh nhẫn. Nói như vậy không có nghĩa là chúng ta cứ để cho sự đàn áp và bóc lột tiếp tục. Chúng ta cũng phải làm như là đối với em bé phạm pháp. Hễ em bé phạm pháp thì chúng ta phải bắt nhốt lại và xét xử. Nếu em bé bạo động, bắn người, giết người thì chúng ta phải bắt em bé lại và ngăn không cho em tiếp tục bạo động. Đối với một giai cấp bóc lột và đàn áp chúng ta cũng phải làm như vậy. Chúng ta phải tìm tất cả các biện pháp để có thể ngăn ngừa không cho họ bóc lột và đàn áp. Ta hành động không phải vì hận thù mà vì tình thương, tại vì những người kia cũng đang đau khổ. Họ tuy đứng về một giai cấp phú quí, tư bản và bóc lột nhưng họ cũng đau khổ. Họ không thấy được cái đau khổ của đồng loại và của những giai cấp khác. Vì vậy cho nên trái tim của họ rất cần tình thương và đầu óc của họ rất cần trí tuệ. Và khi ta chấp nhận được họ và ôm được họ rồi, ta sẽ có thể giúp đỡ cho họ có một cái thấy và có một trái tim. Trong khi đó, ta vẫn làm hết sức tất cả những gì ta có thể làm để ngăn chặn không cho họ tiếp tục chuyện bóc lột và đàn áp. Ta hành động nhưng không hành động trên cơ bản căm thù. Ta hành động trên cơ bản tình thương và từ bi. Đó là phương châm của đạo Bụt. Chúng ta có thể tranh đấu trong lãnh vực xã hội, chúng ta có thể tranh đấu trong lĩnh vực kinh tế và chúng ta phải tranh đấu, vì tự do dân chủ không thể nào có được nếu không có sự tranh đấu. Chúng ta quả quyết là điều này nằm trên đường hướng thực tập của chúng ta. Nếu chúng ta tới nước Pháp mà được hưởng quyền tự do và dân chủ ở nước Pháp là tại vì trong quá khứ người Pháp đã đau khổ, đã tranh đấu cho nền dân chủ và tự do của họ. Vì vậy cho nên chúng ta quả quyết rằng muốn có dân chủ, muốn có tự do là phải tranh đấu. Nhưng phương tiện của đạo Bụt để tranh đấu không phải là hận thù, tại vì tranh đấu với một trái tim hận thù thì chúng ta sẽ tạo ra rất nhiều đau khổ, không phải cho những người kia thôi mà còn cho chính chúng ta. Một người có hận thù và đau khổ trong lòng thì có thể mù quáng, có thể gây ra những đau khổ không cần thiết. Trong khi đó thì năng lượng cần thiết cho những người tranh đấu là cái thấy, cái hiểu và cái thương. Cái hiểu và cái thương là hai nguồn năng lượng vô cùng tận, gọi là đại bi và đại trí. Mà đại bi và đại trí đi với đại dũng cho nên các em trong gia đình Phật tử đã học bi, trí và dũng (đại hùng, đại lực, đại từ bi). Chúng ta biết rằng mỗi khi chúng ta có căm thù trong trái tim thì chúng ta nhìn không rõ, chúng ta bị mù quáng. Vì mù quáng, chúng ta hành động sai lầm và gây đau khổ rất nhiều. Cho nên thay vì sử dụng chất liệu hận thù làm năng lượng thì chúng ta dùng một năng lượng khác, đó là năng lượng của tình thương, năng lượng của hiểu biết. Năng lượng hiểu và thương rất mạnh. Năng lượng đó có thể thay đổi được thế giới, có thể thay đổi được trái tim ta.

Chúng ta đã nói tới sinh nhẫn, bây giờ chúng ta nói tới pháp nhẫn. Pháp tức là các pháp. Đại Trí Độ Luận có nói tới hai loại pháp. Trước hết là tâm pháp và hai là sắc pháp. Tâm pháp tức là những trạng thái tâm lý của ta như là: buồn, giận, thất vọng, ganh tị, lo lắng, sợ hãi… tất cả đều thuộc về phạm vi tâm pháp. Làm thế nào để chúng ta có thể ôm được và chuyển hóa những cái đó. Rồi tới những sắc pháp như là: bệnh tật, thiên tai, nước lụt, lửa cháy, nóng, lạnh, tai nạn xe hơi… Tất cả những cái đó chúng ta cũng phải làm thế nào để ôm lấy và chịu đựng được chúng. Chúng ta đã biết rất rõ, chúng ta đã nghe nhiều lần rằng chúng ta chỉ có thể ôm chúng khi nào chúng ta có một trái tim lớn và một nhận thức lớn. Mà muốn có một trái tim lớn và một nhận thức lớn, chúng ta phải thực tập quán chiếu theo tinh thần vô ngã. Vì vậy cho nên vô ngã là chiếc chìa khóa độc nhất vô nhị mà Đức Thế Tôn đã trao truyền cho chúng ta. Nó có thể mở toang ra tất cả những nhà tù chật hẹp, nhà tù của thành kiến, của nghi kỵ và của hận thù. Vô thường và vô ngã là chìa khóa để mở cửa thương yêu. Tuy nhiên cũng trong tác phẩm đó, Đại Trí Độ Luận, có chỗ lại giải thích sinh nhẫn và pháp nhẫn hơi khác. Sinh nhẫn ở đây là tất cả những bức hại, những bức bách và những ác độc của các loại chúng sanh. Nó cũng giống như cách giải thích trước, nhưng đến khi nói tới pháp nhẫn thì pháp ở đây là tất cả các pháp. Tất cả các pháp không những là tâm pháp và sắc pháp, mà trong đó còn có chứa đựng chúng sinh nữa. Nghĩa là cái nhẫn này bao trùm cái nhẫn đầu là sinh nhẫn. Và theo tinh thần đạo Bụt đại thừa thì pháp nhẫn là phép thực tập quán chiếu. Quán chiếu để thấy được tự tính vô ngã và không của mọi pháp. Chỉ khi nào chúng ta quán chiếu được tự tánh vô ngã, tương tức và không của vạn pháp thì chúng ta mới giải oan cho chúng ta được.

Tại sao tuệ giác về vô ngã, và tương tức lại giải oan cho ta được? Quý vị đã biết nguyên tắc “cha ăn mặn, con khát nước”. Người hải tặc kia sở dĩ làm như vậy là vì những nguyên do nào, chúng ta phải quán chiếu. Chúng ta không qui tội vào cho một người, mà chúng ta thấy được tất cả những nguyên do gần xa chằng chịt đã đưa tới cái hiện tượng bức bách, hãm hại và giày xéo kia. Và khi thấy được chúng sanh cũng như thấy được các pháp trong sự liên hệ tương tức của chúng thì tự nhiên trái tim chúng ta mở ra. Chúng ta có thể chứa đựng và ôm lấy được tất cả những gì đang xảy ra cho chúng ta và chúng ta không còn đau khổ. Cũng như là người sư anh trong khi chùi cầu tiêu có cảm giác rất hoan lạc là tại vì biết rằng mình đang làm việc này cho tất cả tăng thân. Nhờ mình đang làm chuyện này cho nên tăng thân mới có thể đang làm chuyện kia và chuyện nọ. Đó là cái nhìn tương tức, đó là cái nhìn vô ngã. Nếu chúng ta không thực tập quán chiếu vô ngã và tương tức thì cái nhẫn của chúng ta chưa phải là Nhẫn Ba La Mật. Trong kinh luận, chúng ta thường nghe lặp đi lặp lại ý “chỉ có quán chiếu tự tánh vô sinh của các pháp mới thực sự là Nhẫn Nhục Ba La Mật”. Vô sinh có nghĩa là không sanh không diệt, cũng có nghĩa là tương tức. Mà bất sinh bất diệt, cũng như tương tức, là những đóa hoa nở trên sự quán chiếu vô ngã. Nắm được vô ngã tức là thấy được vô sinh. Vì vậy cho nên kinh luận nói rằng chỉ có quán chiếu vô sinh mới là Nhẫn Nhục Ba La Mật. Chúng ta lại có một danh từ rất nổi tiếng là “vô sinh pháp nhẫn”. Vô sinh pháp nhẫn tức là cái nhẫn đạt được do quán chiếu tự tánh vô sinh của các pháp.

Sinh nhẫn tiếng Anh gọi là patience, nghĩa là chịu đựng được. Nếu sức mình không lớn, nếu trái tim mình không lớn thì làm sao mình chịu đựng. Nếu cha mà không chịu đựng được con là tại vì trái tim cha và sự hiểu biết của cha còn nhỏ. Nếu con mà không chịu đựng được mẹ là tại vì trái tim cũng như cái thấy của con chưa đủ lớn để có thể ôm được mẹ. Khi mình đủ sức để ôm rồi thì mình không còn khổ nữa, mình có thể chịu đựng được. Nếu mình chịu đựng mà thấy không được thoải mái lắm là tại vì mức chịu đựng của mình còn nhỏ, và mình phải thực tập để có thể chịu được mà không khổ thì mới hay. Thí dụ như mình có một đứa học trò cứng đầu, làm và nói những điều không cho mình hạnh phúc thì mình cũng có thể chịu đựng được. Mình nói là phải cho nó thời gian để nó thực tập. Tùy theo chiều sâu của sự quán chiếu mà mình chịu đựng đứa học trò đó dễ hay khó. Hoặc hơi cồng kềnh nếu mình có một sư anh, một sư em hay là một sư chị hơi khó ôm thì mình đừng nói: “anh ơi, chị ơi, nhỏ lại một chút đi để tôi ôm cho dễ.” Thay vì nói như vậy thì mình phải làm sao để trái tim mình lớn lên, lớn lên thêm nữa để mình có thể ôm được anh mình, chị mình hoặc em mình. Và tự nhiên tuy không đòi hỏi ở người kia một sự thay đổi nào cả mà mình vẫn có hạnh phúc như thường. Cái đó là Nhẫn Ba La Mật. Đây không phải là chuyện xa vời trên trời dưới đất, mà là chuyện hàng ngày của chúng ta. Chúng ta phải nên tự hỏi và mỗi ngày phải trở về trái tim để hỏi thăm: “Trái tim của ta ơi, hôm nay em có lớn lên chút nào không? Sự quán chiếu của ta có giúp em trưởng thành không?” Vô sinh pháp nhẫn rất mầu nhiệm. Ôm giữ được mà không bị nứt rạn, bao trùm được mà không thấy chật vật. Chữ Nhẫn có thể diễn dịch một phần nào chữ chịu đựng trong tiếng Việt. Và tôi đề nghị dùng tiếng inclusiveness để dịch chữ nhẫn, thay vì dùng các tiếng patience và forbearance.

________
Pháp thoại các ngày ngày 7, 11, 14 tháng 7năm 1996