Tiếp nối sự nghiệp chư Tổ
Thư ngày 20.05.2009
_ | ___ | __ |
Phương khê, 20.05.2009
Thân gởi các con của thầy ở Từ Hiếu, và khắp nơi,
Các con hãy cùng thầy hình dung cái không khí vui tươi của Tổ đình Từ Hiếu vào ngày rằm tháng Giêng năm Đinh Dậu, tức là ngày 16.02.1897, cách đây 112 năm. Hồi đó, Sư tổ Hải Thiệu Cương Kỷ đang làm trú trì chùa Từ Hiếu và Ngài đã làm trú trì được 50 năm rồi! Chùa mới được trùng tu trở lại trước đó hai năm, có lầu chuông, lầu trống và tiền đường mới. Hôm ấy, rằm tháng Giêng Đinh Dậu (1897) vừa mới ăn Tết xong, đại chúng làm lễ khởi sự khắc bản sách Thiền Môn Nhật Tụng! Các nghệ sĩ khắc bản làm việc rất vui. Sách Thiền Môn Nhật Tụng có 126 trang, và phải khắc tới 68 bản gỗ. Khắc xong sách Thiền Môn Nhật Tụng, chùa lại còn khắc kinh Báo Phụ Mẫu Ân nữa. Đây là công tác văn hóa của Tổ đình để phục vụ cho hành giả trong tỉnh Thừa Thiên và các tỉnh lân cận.
Hồi ấy chưa có chùa nào có Đại Tạng Kinh, cả ở trong cung vua cũng không có, kinh sách rất hiếm, và sách Thiền Môn Nhật Tụng lại là sách cần thiết nhất cho các chùa. Sư tổ Hải Thiệu-Cương Kỷ hồi đó đã 87 tuổi. Sư tổ có một thị giả trẻ tuổi tên là điệu Kỉnh, 14 tuổi, mà Sư tổ rất thương yêu và tin cậy. Chú Nguyễn Hữu Kỉnh được vào chùa làm điệu năm 11 tuổi và chú đã theo hầu Sư tổ những lúc Sư tổ đi giám sát các nghệ nhân đang khắc bản sách Thiền Môn Nhật Tụng. Chú điệu ấy chính là Sư Ông của các con và là Thầy bổn sư của thầy. Chú chính là Sư tổ Thanh Quý Chân Thật của chúng ta sau này.
Hơn một năm sau đó, Sư tổ Hải Thiệu Cương Kỷ viên tịch, và tổ Thanh Thái Huệ Minh, đệ tử của Sư tổ, lúc ấy đang làm tri sự Tổ đình Từ Hiếu, đã có ý cho điệu Kỉnh được thế độ làm sa di ngay trước linh sàng của Sư tổ Hải Thiệu, để chú Kỉnh được làm vị đệ tử cuối của Sư tổ với pháp danh là Thanh Quý và pháp tự là Chân Thật. Đó là ngày 2 tháng 3 năm Mậu Tuất ( 23.03.1898). Thanh Quý có nghĩa là người đệ tử cuối cùng mang chữ Thanh; và pháp hiệu Chân Thật nói lên được tính tình và bản chất của sư chú Thanh Quý. Ai trong sơn môn sau này cũng công nhận là Sư tổ Thanh Quý là một vị cao tăng mà đức độ chân thật khó có người bì kịp. Sư Ông của các con, sa di Thanh Quý, hiệu Chân Thật có một người sư chị rất dịu hiền, pháp danh là Thanh Linh, pháp tự là Diên Trường, được thọ giới sa di ni trước Sư Ông của các con một năm (1898). Sư chị của Sư Ông các con tên là Nhàn, sinh năm 1863, là cháu ngoại của Tùng Thiện Vương, một nhà thơ nổi tiếng của triều Nguyễn. Chính Sư tổ Hải Thiệu Cương Kỷ đã làm lễ truyền giới sa di ni cho sư chị, và Sư Ông của các con đã có mặt trong lễ truyền giới ấy. Ni sư Diên Trường sau này đã thành lập các chùa Phổ Quang và Trúc Lâm làm cơ sở tu học cho ni giới. Các ni viện đầu tiên ở Huế là do ni sư Diên Trường thành lập. Năm 1924 (Giáp Tý) trong Đại Giới Đàn tại chùa Từ Hiếu do tổ Thanh Thái Huệ Minh tổ chức, Ni sư Diên Trường đã đứng ra làm y chỉ sư cho các giới tử thọ giới sa di ni và tỳ kheo ni. Thầy rất mừng khi biết ở ni viện Diệu Trạm các con đã thiết lập bàn thờ để thờ Ni sư Diên Trường. Các ni viện khác có gốc rễ từ Tổ đình Từ Hiếu khắp nơi cũng nên làm như thế, bởi Ni sư Diên Trường là vị Ni tổ của tất cả các sư cô thuộc môn phái Từ Hiếu.
Bây giờ thầy xin trở về với sách Thiền Môn Nhật Tụng. Sách Thiền Môn Nhật Tụng của Tổ đình Từ Hiếu có một bài tựa viết chung cho hai sách Thiền Môn Nhật Tụng và Kinh Báo Ân. Bài tựa này được viết ngày rằm tháng Giêng năm Đinh Dậu, tức là ngày 16.02.1897. Bài tựa nói đến gốc gác của chùa Từ Hiếu, am An Dưỡng do Tổ sư Nhất Định dựng lên, và công lao của Sư tổ Hải Thiệu Cương Kỷ trong buổi đầu tạo dựng Tổ đình Từ Hiếu (1848) và gần 50 năm sau, khi đại trùng tu lại Tổ đình (1895) cũng như trong việc chủ trương khắc bản in kinh. Hồi còn tập sự xuất gia tại Tổ đình, thầy đã có cơ hội được phụ tá các sư chú lớn in kinh Thiền Môn Nhật Tụng. Các sư anh đã tổ chức in kinh tại lầu trống của Tổ đình và thầy đã học được cách in kinh với mực tàu và giấy bản. Thầy đã sử dụng một chiếc lá mít hái ở vườn chùa để xoa lên lưng giấy cho mực được in vào đầy đủ trên trang giấy. Có được một bản sách Thiền Môn Nhật Tụng cho riêng mình để học hỏi, thầy rất hạnh phúc. Thầy học thuộc lòng hai buổi công phu rất nhanh. Chú Lăng Nghiêm, chú Đại Bi và mười bài chú khác thầy cũng đã học thuộc lòng trong vòng hai tuần lễ.
Năm 2007, trong chuyến về Việt Nam, thầy đã có dịp chỉ cho một số các thầy, các sư cô Làng Mai tháp tùng phái đoàn được thấy các bản gỗ của sách Thiền Môn Nhật Tụng này và nhờ thầy Từ Hòa in thử một trang cho mọi người cùng thấy. Nếu có dịp các con cũng nên học cách in như thầy đã từng in năm ấy. Ngoài các kinh Thiền Môn Nhật Tụng và Báo Ân còn có kinh Đại Hạnh Phổ Hiền, bản khắc rất đẹp, các con nhớ in thử cho biết.
Tuy là công việc khắc bản Thiền Môn Nhật Tụng được bắt đầu vào ngày rằm tháng Giêng năm Đinh Dậu (16.02.1897) nhưng chắc chắn trước đó nhiều tháng, bản chính của sách trong đó có bài tựa đã được chuẩn bị viết xuống đầy đủ rồi, nét chữ viết rất đầy đặn và đẹp. Mỗi trang có bảy dòng, mỗi dòng có mười bảy chữ. Nghi thức cuối cùng trong sách là Nghi thức lạy Báo ân gồm có 27 lạy, trong đó có danh hiệu các tổ Lâm Tế Nghĩa Huyền, Minh Hoằng Tử Dung, Hoán Bích Nguyên Thiều và Thật Diệu Liễu Quán.
Đúng 100 năm sau ngày khởi sự khắc bản sách Thiền Môn Nhật Tụng tại Tổ đình Từ Hiếu thì sách Nhật Tụng Thiền Môn 2000 được ấn hành tại Âu Châu và Mỹ Châu, hoàn toàn bằng quốc văn. Sự kiện này được xảy ra năm 1997 và cũng vào mùa Xuân. Sách Nhật Tụng Thiền Môn năm 2000 cũng đã được chuẩn bị trong suốt 15 năm trước khi được ra đời. Thầy trò chúng ta ở Đạo Tràng Mai Thôn đã làm việc trong từng ấy năm tháng để hôm nay sách được cống hiến cho các hành giả khắp nơi, không những bằng tiếng Việt Nam mà còn bằng nhiều thứ tiếng khác nữa. Sách Thiền Môn Nhật Tụng của chúng ta hiện giờ rất giàu có, ấn bản nào cũng dày trên ba trăm trang, với rất nhiều kinh văn, nghi thức, thi kệ, sám văn và hồi hướng. Tháng 4 năm 2009 vừa qua, chúng ta mới cho ra đời bản tiếng Pháp của sách Nhật Tụng Thiền Môn, với tựa đề là Chants du Coeur, do nhà xuất bản Sully ấn hành, 318 trang. Trước đó sách cũng đã được ấn hành bằng tiếng Anh, tiếng Đức và tiếng Ý.
Thầy trò chúng ta có cơ hội nối tiếp sự nghiệp chư Tổ một cách thiết thực và nhờ đó, thầy trò chúng ta đang có rất nhiều hạnh phúc. Hiện thời, ở quê hương, chúng ta có hai ấn bản đều mang tên Nhật Tụng Thiền Môn năm 2010. Ước muốn của chúng ta là cứ mỗi mười năm thì sách Thiền Môn Nhật Tụng lại được tu chỉnh một lần để nội dung sách được tiếp tục giàu có hơn, sáng đẹp hơn và phục vụ hữu hiệu hơn cho hành giả khắp chốn. Ấn bản Miền Nam của sách vừa được Phương Nam Book ấn hành, hình thức rất đẹp và rất trẻ. Ấn bản này có mang thêm bài tựa của Thượng tọa Lệ Trang, một vị thầy rất có uy tín và thẩm quyền trong lĩnh vực nghi lễ…
Thầy biết các con của thầy ở Từ Hiếu và Diệu Trạm vừa được đi gặt lúa xong và đang chuẩn bị cho Mùa An Cư Kiết Hạ. Thầy được biết là các vị tôn túc ở Huế đã đáp lời mời của Tổ đình đến dự Lễ Trai Đàn Chẩn Tế rất đông, và các con đang được liệt vị thương tưởng và đùm bọc hết lòng. Đây là một phước đức lớn, đây là ân huệ của chư Tổ. Các con phải bày tỏ lòng biết ơn bằng cách tu học cho tinh tiến, ngày nào cũng chế tác và nuôi dưỡng tình huynh đệ. Thực tập chánh niệm, mỗi bước chân các con đi cho thầy, cho Sư Ông, cho chư Tổ, và với mỗi bước chân như thế, các con có thể tiếp nhận được năng lượng của chư Tổ, dù là trước sân chánh điện, trên con đường lên thiền đường Trăng Rằm, bên hồ Sao Mai, trước đồi Dương Xuân hay trên Lăng Viện. Chư Tổ đã từng bước đi trên những lối đi ấy, Sư Ông đã từng bước đi trên những lối đi ấy, và thầy cũng đã từng bước đi trên những lối đi ấy. Đi như thế thì mỗi bước chân là phép lạ, mỗi bước chân là thảnh thơi, mỗi bước chân là trị liệu, mỗi bước chân là hạnh phúc. Chúng ta đi cho cha mẹ, cho tổ tiên, cho dòng họ, cho quê hương, cho đất nước, cho nhân loại. Hạnh phúc là cái gì có thật trong giây phút hiện tại. Chúng ta được may mắn làm con cháu của chư Tổ, chúng ta nguyện sống xứng đáng để có thể tiếp tục được sự nghiệp của các Ngài.
Thầy gửi tới các con niềm tin cậy và thương yêu của thầy.
Thầy của các con,
Nhất Hạnh
_____________________________
T.B: Thầy gửi theo đây bài kệ tán dương Ni sư Diên Trường, nguyên tác chữ Hán của Thiền sư Viên Thành, bản dịch của thầy.
Hình ảnh kèm theo: tổ Nhất Định, tổ Cương Kỷ, tổ Tâm Tịnh, tổ Huệ Minh, Chanting from the Heart, Nhật Tụng Thiền Môn 2000, Nhật Tụng Thiền Môn 2010 ấn bản Miền Bắc, Nhật Tụng Thiền Môn 2010 ấn bản Miền Nam, Chants du Coeur.
Có bài thơ tán dương Ni sư Diên Trường do Sư tổ Viên Thành tặng (VNPGSL, trg 153 – 154)
Thiện tai nữ đạo sư
Giải thoát nhân trung kiệt
Thịnh Niên xã thế vinh
Phỏng đạo ngộ thiền duyệt
Bát kính thị căn trì
Trường trai thủ tố tiết
Uẩn giới phù vân không
Phiền não hải thủy kiệt
Giác mộng cảnh thừ chung
Độ mê tạo bảo phiệt
Công đức mãn chiên lâm
Thanh lương đẳng tuệ nguyệt
An ổn tọa bồ đoàn
Liễu chứng vô sinh quyết
Sơn sắc thanh tịnh thân
Khê thanh quảng trường thiệt
Tích lai bản bất sinh
Kim khứ hà tằng diệt
Siêu nhiên bỉ ngạn đăng
Liên đài diệu hương khiết
Lành thay nữ đạo sư
Bậc Giải thoát hào kiệt
Bỏ vinh hoa cuộc đời
Tìm vui nơi thiền duyệt
Pháp bát kỉnh hành trì
Nếp trường trai tinh khiết
Uẩn, giới như mây bay
Biển não phiền khô kiệt
Chuông khua tỉnh thức đời
Bè từ độ oan kết.
Công đức như rừng trầm
Mát như vầng tuệ nguyệt
An nhiên bồ đoàn ngồi
Chứng quả vô sinh diệt
Lời kia là suối reo
Thân kia là núi biếc
Xưa chưa hề có sinh
Nay cũng chưa từng diệt
Bờ bên kia bước lên
Đài sen hương diệu khiết