Tương lai của Làng Mai theo cái nhìn của Chân Không

Về phương diện vật chất

Chân Không sẽ không lo các sư cô, các thầy đệ tử Thầy không tiếp nối được sự nghiệp Thầy. Họ có thể làm hay hơn vì đã có “hào quang” của Thầy toả rạng dọn đường trước.

Có nhiều em sinh sau đẻ muộn mà giỏi một cách kỳ lạ, giống như là tuệ giác của ông bà tổ tiên họ đẩy họ tới dòng sông này để tuệ giác đó có cơ hội được dùng tới. Nếu họ đi vô dòng sông tham dục thì tuệ giác của ông bà tổ tiên sẽ không có cơ hội được sử dụng. Mình không mời, không năn nỉ mà tự nhiên có những sư em kéo tới xin làm đệ tử của Thầy. Nhiều em chưa bao giờ được nghe Thầy giảng trực tiếp mà chỉ nghe qua băng giảng thôi, vậy mà khi biểu hiện qua khoá tu thì rất xuất sắc. Vì vậy sự tiếp nối của Thầy là trùng trùng duyên khởi, rất nhiệm mầu mà mình không thể hiểu hết được. Có thể 300 năm sau khi Thầy tịch, có một cháu vừa nghe tiếng của Thầy thì đã biết mình phải tiếp nối như thế nào từ cái hay của tổ tiên, đất nước. Đất nước đó có thể không phải là Việt Nam mà là Pháp, Ý, Indonesia, là Thái Lan, là Trung Quốc, là Phi Châu. Tuệ giác của Thầy là sự tiếp nối dòng sinh mạng và tuệ giác của nhiều vị Tổ thật thâm sâu. Chân Không không thể thấy rõ Thầy tiếp nối ai, tiếp nối tổ tiên tâm linh nào. Thầy gặp Bụt Thích Ca sau khi Ngài đã nhập diệt hơn 2000 năm mà vẫn triển khai tuyệt vời được tuệ giác của Bụt. Biết đâu 1000 năm sau có một sư em theo học và phát triển được tuệ giác của Thầy. Bằng cớ là Thầy bị đột quỵ và rời Pháp đã ba năm nay vậy mà ở đó mỗi năm vẫn có vài chục em Âu Châu xuất gia, có mươi sư em xuất gia ở Hoa Kỳ, tuỳ theo mỗi trung tâm, các trung tâm ở Hoa Kỳ thì yếu hơn các trung tâm ở Pháp. Có những em rất giỏi, mới vào tu sau này mà có những cái thấy rất thâm sâu.

Chân Không không thể đoán được tương lai của Làng Mai sẽ như thế nào. Về phương diện vật chất, ngày trước Chân Không làm việc rất cực. Nhờ viết cuốn sách này Chân Không mới thấy là nhờ có chư Phật, chư Tổ thương nên mình mới xây được từ chuồng bò, từ chuồng thỏ, chuồng ngựa, chuồng heo thành ra một thiền đường, thành những phòng ốc như phòng Lá Tía Tô, phòng Rau Răm, phòng Rau Tần Ô… Đó là nhờ chất liệu tâm linh và thi ca của Thầy.

Sau khi đi vắng ba năm trở về, Chân Không thấy số thiền sinh tới Làng Mai, thay vì giảm đi thì lại tăng nhiều hơn. Có người không tha thiết gặp thầy Nhất Hạnh, họ còn không biết là Thầy bị đột quỵ nhưng tới tu học rất đàng hoàng, rất thuộc bài chi tiết những gì Thầy dạy. Những ngôi nhà cũng được tu sửa từ từ. Chân Không không cần đi lạc quyên, mấy thầy mấy sư cô cũng đủ sức lạc quyên và sửa lại nhà của ông Bonnamy ngày xưa. Lúc trước Chân Không đã sửa rồi, tưởng là đã hay lắm nhưng bây giờ họ sửa lại rất sang và đúng tiêu chuẩn. Đó là nhờ có mấy thầy trẻ. Xóm Mới, ngày xưa có mấy căn phòng nhỏ rất dễ thương, bây giờ họ phá bỏ và làm thành một nhà bếp sang trọng giống như nhà bếp của EIAB bên Đức, có phòng lạnh chứa rau, chứa nấm… Chân Không không thể tưởng tượng là không có Chân Không mà họ làm được. Mình có cái dở là cứ tưởng không có mình thì các em không làm nổi.

Hồi xưa, khoá tu Mùa Hè mỗi năm mở cửa trong ba bốn tuần lễ quan trọng nhất để các cha mẹ mang con về tu học. Phòng ốc thì chỉ có 600 chỗ nhưng mình tiếp được 800-1000 thiền sinh vì có người cắm lều bên ngoài hay mình mướn nhà khách cho họ. Sau này, Chân Không vừa về năm rồi thì thấy trong tuần đầu đã có 1350 người trong khi hồi thời còn có Thầy thì tuần đầu chỉ có khoảng 800-1000 người, tuần thứ hai lên 1100 người và tuần thứ ba lên tối đa là 1250 người. Thầy đi vắng ba, bốn năm nay nhưng trong tuần đầu có 1350 người, rồi tuần kế lên 1450 người.

Hay ở Paris, một số thầy đề nghị mở một trung tâm ở Paris rồi mua một tu viện cũ của các nữ tu Thiên Chúa giáo cho mấy sư cô. Chân Không nói:

“Hồi Phật còn tại thế, Ngài đi tới vườn Trúc Lâm xòe bàn tay ra nói với vua: ‘Nếu vua nghĩ tôi có thể giữ chỗ này để làm chỗ tu học cho các thầy thì đổ nước lên tay tôi.’ Vua đổ nước lên tay Phật và vườn Trúc Lâm trở thành tu viện. Chân Không cũng nói: ‘Tôi đưa tay ra nè! Ai có tiền thì đổ nước lên tay tôi và trả giùm tôi cái trung tâm đó.’”

Có một người tới đổ nước thiệt, đó là một người Pháp hoàn toàn không biết về đạo Phật. Ông tới tu với các thầy ở Xóm Thượng. Ông ly dị vợ và có con đã lớn, ông thấy đời nhạt nhẽo quá nên muốn tự tử chết cho rồi. Ông về Làng ở với các thầy được một tuần, hai tuần, ba tuần. Ông thấy cuộc đời vui quá, mình không cần phải chết, ông yêu đời trở lại nên muốn phụ mình mua trung tâm. Vì những thủ tục rắc rối nước Pháp nên ông đại thí chủ này không thể cho toàn bộ tiền mua Trung tâm Suối Trị Liệu ở Paris nhưng sự đóng góp của ông là nhân duyên để rồi mình cũng mua được. Thiền đường Hơi Thở Nhẹ thì quá nhỏ cho chỗ sinh hoạt, mình bán rồi lấy tiền mua một ngôi nhà khác cho quý sư cô ở gần chỗ của quý thầy.

Thầy dạy là theo nguyên tắc thì một trung tâm phải có âm và dương để nâng đỡ nhau, nhưng không nên ở gần nhau quá. Nếu ở gần nhau quá thì nhu yếu làm cha làm mẹ sẽ kéo mình đi mà người tu thì phải ở độc thân. Vì vậy tuy là có âm có dương nhưng phải ở cách xa nhau khoảng 3, 4 cây số. Những trung tâm mà âm dương sát nhau quá thì thường dễ rớt. Mình đã có trung tâm Suối Trị Liệu của quý thầy, bây giờ mình có thêm trung tâm Hơi Thở Nhẹ cách đó chừng 2,5 cây số.

Về phương diện tu học

Chân Không thấy mấy thầy, mấy sư cô trẻ rất thông minh và biết triển khai những điều Thầy mình dạy, nhất là những vị có đức độ như là thầy Pháp Ứng, Pháp Dung, Pháp Hữu… Thầy Pháp Ứng có điểm yếu, nhưng đối với Chân Không đó lại là điểm mạnh ví dụ như thầy đi tu nhưng không bỏ cha mẹ. Lúc đó ba thầy bị đột quỵ chết. Trong thời gian ba mẹ sống với nhau thì ba không dễ thương với mẹ. Thầy viết cho mẹ những lá thơ với nội dung giống như là thầy thay ba để xin lỗi mẹ, Chân Không đọc thơ của thầy mà chảy nước mắt. Thầy có một đứa em bị bệnh nên xin phép chúng về lo cho gia đình. Thầy Pháp Ứng về nhà mà không buông Xóm Thượng, cứ vài tuần thì thầy điện thoại báo cáo cho Thầy qua Sư cô Chân Không việc này, báo cáo với các thầy ở Xóm Thượng việc kia. Thầy Pháp Ứng tuy ở nhà lo cho em nhưng không rời tăng thân của mình. Bây giờ, cứ 12 tháng thì thầy về nhà hai tháng để giúp mẹ và em trai. Thầy Pháp Ứng rất chín chắn và sâu sắc.

Mỗi thầy, mỗi sư cô có những đặc thù rất hay. Cái hay nào Chân Không cũng học hỏi và phát triển được. Vì vậy trên con đường này mình phải đi chung với tăng thân thì mới có thể phát triển và chuyển hoá được những tập khí yếu kém của mình. Chân Không nhớ những lời cuối Thầy Làng Mai nói với Chân Không trước khi đột quỵ là: “Này con, con cái gì cũng giỏi, nhưng cái giỏi của con cũng chưa đủ. Con phải nghe lời tăng thân một chút để học được tuệ giác của mấy em. Mấy em tuy không giỏi bằng con nhưng nó cũng có tuệ giác mà con không thấy được.” Vì vậy bây giờ, tuy thấy có mấy em làm chưa giỏi lắm nhưng Chân Không cũng không muốn lấy quyền của một chị lớn để bắt mấy em phải làm theo ý mình. Chân Không cũng lắng nghe, theo dõi một hai năm rồi mới góp ý để sửa đổi. Chân Không nghĩ, nếu một dòng sông mà đi cho đàng hoàng thì tuệ giác của mình càng ngày càng lớn để mình có thể giúp cho nhân loại.

Hiện tại Thầy có 1179 học trò xuất gia, tính tới khi Cây Hoa Mộc ra đời tháng 11 năm 2020, chưa kể những Cây Trà Thơm tức là gồm những vị đệ tử của quý Sư bà hay quý Hoà thượng truyền thống sang Làng Mai xin y chỉ của Ôn Nhất Hạnh. Đường tu thì rất khó nên có người tu được 5 năm, 10 năm, 12 năm thì ra đời. Vì vậy số người đi tu với Thầy cũng có khi lên khi xuống.

Sức khỏe của Thầy bây giờ yếu, Thầy về ở chùa Từ Hiếu rồi muốn tịch luôn ở đó. Mình hy vọng Thầy sống thêm vài năm nữa nhưng cũng thấy Thầy khó mà khỏe đến độ có thể bay về Pháp. Sơn Cốc bây giờ chia ra, 2/3 làm viện bảo tàng giữ sách vở, thư pháp… của Thầy và 1/3 làm nội viện để mấy thầy mấy sư cô về tịnh tu sau khi làm việc. Tầng dưới của Sơn Cốc có một nhà bếp và một phòng ăn rất to chung quanh lắp kính nhìn ra một vườn tre lớn. Phía sau nội viện là những ngôi nhà bỏ trống mà Thầy sau khi đột quỵ vẫn ngồi xe lăn ra coi và biểu sửa lại. Hiện giờ chỗ đó đã được sửa lại thành một thiền đường lớn cho chúng xuất sĩ sinh hoạt. Sơn Cốc ngày xưa là nhà của ông tỉnh trưởng nên rất đẹp. Không ai được vào Sơn Cốc của Thầy trừ vài người giữ chìa khoá.

Khi Chân Không về lại Pháp thì thường ở Sơn Cốc tại vì trong đó có những hình ảnh và tài liệu quý giá của Thầy. Lúc trước, có lẽ Thầy ý thức được là mình có thể chết bất cứ lúc nào nên nói:

“Mỗi khi con cạo tóc cho Thầy thì lấy một ít bỏ vô bao thơ rồi đề ngày tháng lên.”

Chân Không về kỳ này khám phá còn đủ tóc của Thầy từ năm 2010 tới năm 2018, có điều là tóc của Thầy đen hơn tóc của Chân Không. Thư viện của Thầy có những tượng Phật thầy mua bên Trung Quốc, tượng Phật bên Ấn Độ tặng cho Thầy, xá lợi Phật, bàn thờ của ba mẹ và anh của Thầy, bàn thờ của Thầy của Thầy tức Sư Cố. Kệ sách của Thầy mình không được đụng tới tại vì đó là những sách xưa cũ. Có một phòng ngày xưa mẹ Chân Không ở, có kỷ niệm và gia phả của Chân Không. Gia phả của Thầy bằng chữ Hán thì Chân Không không biết để đâu, nhưng đồ vật của Thầy thì mình để yên không đụng tới.

Nhưng hình như là khi đi Thái Lan Thầy có linh cảm là mình không trở về nên biểu sư cô Định Nghiêm lấy hết những nhật ký của Thầy và những cuốn sổ có ghi chép chương trình đi giảng của Thầy. Cô Định Nghiêm không lấy hết nên bây giờ ở Sơn Cốc còn mấy chục cuốn sổ đó. Ở đó còn hình lúc nhỏ của Thầy cho nên Sơn Cốc đúng là bảo tàng viện của Thầy.

Viện Phật học Ứng dụng Âu Châu EIAB và Viện Phật học Ứng dụng Á Châu AIAB vẫn còn đứng vững và rất cần người, những người có đủ đạo đức và tình thương để ôm ấp và nâng đỡ mấy em. Sư cô Chân Đức tuy là giáo thọ trưởng bên Đức nhưng sư cô nói phần đông mấy em là người Việt Nam còn sư cô là người Anh không nắm vững văn hoá Việt Nam. Sư cô muốn xin mấy sư chị lớn người Việt Nam qua giúp. Mấy sư chị lớn của Diệu Trạm hay Trạm Tịch là những người theo pháp môn của Thầy nhưng cũng hiểu về truyền thống. Nếu làm mới nhiều quá thì mình có thể làm tổn thương.

Mình ráng tu tập theo lời Bụt dạy. Thầy nói kỳ này Thầy về Việt Nam chỉ với một vai trò duy nhất là xây dựng tình huynh đệ. Bác Hồ nói “không có gì quý hơn độc lập tự do”, còn Thầy thì nói “không có gì quý hơn tình huynh đệ”. Chân Không nhìn sâu thì thấy mình phải bắt đầu từ mình. Mình xây dựng tình huynh đệ với những thầy không dễ thương. Mình tập thương, tập hiểu, tập thấy những tánh hay của quý thầy đó. Mình không nói láo, mình trân quý họ thiệt. Nếu quý thầy chê mình thì mình phải nhìn sâu để nhận lỗi chứ đừng vì cái ngã mà cãi chầy cãi bướng. Có nhiều sư em tu chưa giỏi, chưa thọ tỳ kheo mà đã nghinh mặt với mình, không cho mình làm cái này, không cho mình làm cái kia. Mình nên tự nhắc tội nghiệp các em mới tu, mình tu lâu rồi mà mình cũng bực sao. Chân Không nói, tình huynh đệ bắt đầu từ mình thôi.

Khi về đây, nơi mà Chân Không đang ngồi viết hồi ký này, người ta thấy có vẻ như là Chân Không không làm Phật sự nhiều nhưng thật ra Chân Không làm nhiều Phật sự cho chính mình. Bước đi bước nào Chân Không cũng nguyện: Xin cho Đức Bồ tát Quan Thế Âm trong con sống dậy để con biết thương cái cây cái ngọn cỏ này, để con thương được chú sư em khó chịu này, để con hiểu và lắng nghe được người kia. Trong thời gian này hễ không đi dạy thì Chân Không tu (nói vậy chứ không hoài đâu, đi mười bước mà nhớ được ba bước tập dừng lại nhìn sâu hơn, tha thứ và thương thêm là giỏi lắm rồi). Chân Không mong rằng người nào đọc được tới đây mà thương Thầy thì phải tu, tự quán chiếu lại mình thêm nhiều hơn. Đừng chờ đóng góp gì cho tăng thân. Mình tha thứ, thương yêu, chấp nhận ngay những người xung quanh mình, trong sở làm, trong công ty, ngoài khu phố thì từ từ mình sẽ xây dựng được tình huynh đệ cho đất nước Việt Nam để Thầy được sống lâu.

Thầy trở về chùa Từ Hiếu là để xây dựng tình huynh đệ. Ban đầu nghe một cách cạn cợt thì Chân Không nghĩ rằng, xây dựng tình huynh đệ có nghĩa là những người với các lập trường khác nhau nên tập có tình huynh đệ với nhau hơn. Tri giác tức cái tưởng của mình chỉ đúng với sự thật có năm phần trăm, vì vậy cho nên mình phải rất khiêm nhường về cái tưởng (tức là “cái thấy” của mình). Mình mới chỉ sờ cái chân của con voi nên tưởng con voi là cây cột. Mình phải khiêm nhường để học hỏi và biết được rằng con voi có bốn cái chân, hai cái tai, một cái vòi. Mình giận người kia tại vì mình chỉ thấy một phần nhỏ của người kia thôi, mới thấy chân của con voi. Đừng tự tin là mình thấy hết, biết hết về người kia. Nếu có cái thấy đó rồi thì dù mình thuộc lập trường nào cũng đều là một và mình có thể học được từ nhau. Đi được với nhau thì từ từ mình có tình huynh đệ. Từ chùa Từ Hiếu tình huynh đệ sẽ lan ra các chùa, lan ra các thành phần, lan ra các tỉnh và lan ra toàn quốc, lan qua Á Châu, Âu Châu và cả địa cầu. Chân Không nghĩ đó là con đường mình phải đi, đầu tiên là sự khiêm nhường về cái thấy của mình. Cái thấy của mình chỉ là năm phần trăm của thực tại. Mới biết có năm phần trăm thôi nhưng khuynh hướng lúc nào cũng chắc mẩm là mình biết hết. Chồng tôi thì lúc nào cũng thế đấy. Bám chặt vào cái thấy giới hạn của mình mà cứ chắc chắn là mình biết hết. Vợ tôi thì lúc nào cũng thế đấy! Cô ấy, anh ấy thì lúc nào cũng thế đấy. Biết bao nhiêu là sinh vật đang sinh sống trên trái đất này, mỗi sinh vật có cái thấy khác nhau. Nên nhìn sâu, lắng nghe và tập khiêm nhường buông xả về cái biết của mình để học thêm về mình… và về người khác. Đó là tương lai nhân loại nằm trong tầm tay của cái chủng loại mà loài người có được. Người Tỉnh Thức (Bụt) thấy rõ và chỉ cho ta điều đơn giản ấy, cũng có chỉ cách tháo gỡ… Nhưng chúng ta có tập luyện khiêm nhường về cái thấy của mình và tập luyện buông bỏ, tập nhìn xa hơn và chấp nhận nhau hơn không?