Chương 5: Phương pháp học hỏi và tu tập đạo Bụt
Trong đạo Bụt, chư tổ đã truyền lại cho chúng ta phương pháp học hỏi và tu tập (methodology) để trở thành tri kỷ có thể hiểu được Bụt.
Phương pháp Bốn tiêu chuẩn (Tứ tất đàn 四 悉 檀, siddhānta)
Tứ tất đàn là bốn tiêu chuẩn về sự thật. Trong khi đọc kinh chúng ta thấy những điều dạy trong kinh nhiều khi có vẻ chống đối nhau. Chúng ta hoang mang không biết cái nào là đúng. Cũng là những điều Bụt nói, nhưng tại sao có khi Bụt nói như thế này, có khi Bụt nói như thế kia. Phương pháp Tứ tất đàn giúp chúng ta có thể phân biệt được.
- Thế gian tất đàn 世 間 悉 檀
Thế gian tất đàn có nghĩa là những cái thấy của thế gian, những quan niệm của thế gian là như vậy nên chúng ta phải tùy thuận theo. Nếu không nói theo văn mạch của thế gian thì người ta không thể hiểu được. Ví dụ như Bụt nói: “Thầy A Nan ơi, thầy đi thiền hành với tôi lên đỉnh đồi!” Bụt dùng chữ tôi, thầy và đỉnh đồi. Tôi với thầy là hai cái ngã và đỉnh đồi là một pháp. Như vậy là có hai cái ngã cùng đi tới một cái pháp. Trong đạo Bụt không chủ trương có ngã và pháp. Đứng về phương diện chân lý tuyệt đối thì không có ngã và không có pháp. Nhưng nếu không sử dụng ngôn từ của thế gian thì làm sao Bụt dạy cho người thế gian. Bụt nói như vậy nhưng không có nghĩa là Bụt tin vào sự có mặt của một cái ngã riêng biệt hay một pháp riêng biệt. Thế gian nói “trời cao đất dày” thì chúng ta nói “trời cao đất dày”. Thế gian nói “có trên có dưới” thì chúng ta nói “có trên có dưới”. Chúng ta đang ngồi đây thì ta nói phía này là phía trên và phía kia là phía dưới. Nhưng những người ở bên kia bán cầu thì phía trên của ta là phía dưới của họ. Cách nói tùy thuận theo thế gian không có nghĩa là chúng ta nói trái chống lại với sự thật. Đó cũng là một loại sự thật, nhưng là sự thật tương đối.
- Các các vị nhân tất đàn 各 各 為 人 悉 檀
Các các vị nhân tất đàn có nghĩa là tùy vào căn cơ của người nghe mà ta nói pháp khác nhau. Đối với người này ta phải nói như vậy, nhưng đối với người khác ta phải nói cách khác. Có một người tới hỏi Bụt: “Anh đó đã tu tập rất nhiều năm rồi, khi anh tịch thì đức Thế Tôn nghĩ anh sẽ đi về đâu, về cõi trời nào?” Bụt nói: “Có thể anh ta sẽ sinh lên tầng trời thứ 33 hay lên cõi trời Đâu Suất.” Nhưng khi có người khác tới hỏi cùng một câu hỏi như vậy thì Bụt lại trả lời: “Anh không đi về đâu hết. Anh không từ đâu tới mà cũng không đi về đâu.”
Có người hỏi tại sao Bụt lại trả lời khác nhau như vậy? Bụt nói rằng: “Tùy theo từng người, với người không còn chấp thì tôi trả lời thế này, với người còn chấp thì tôi trả lời thế kia, nếu không thì người đó sẽ không có chỗ nào để bám víu.” Trong đạo Bụt có niềm tin về nhân quả, nghiệp và quả báo. Ta gieo cái gì thì sẽ gặt cái đó. Nhưng trong đạo Bụt cũng có giáo lý về vô ngã. Nếu nói đến tạo nghiệp thì phải có người để gieo nghiệp và đến khi nghiệp quả chín thì phải có người để thọ nhận. Nhưng trong kinh cũng có nói là không có người gieo nghiệp và không có người nhận chịu quả báo. Như vậy dường như có sự mâu thuẫn là giáo lý vô ngã không đi đôi được với giáo lý nghiệp báo và nhân quả.
Những người có trí tuệ có căn cơ cao do đã từng tu học, có khả năng hiểu được rằng quả báo hay nghiệp có thể có được mà không cần phải có cái ngã. Trong kinh có những đoạn rất hay: Người tạo nghiệp và người nhận chịu quả báo là một hay là hai người khác nhau? Nếu nói rằng người tạo nghiệp là một với người chịu quả báo thì chúng ta bị kẹt vào ý niệm thường. Nếu cho rằng người gieo gió và người gặt bão là một thì chúng ta bị kẹt vào ý niệm nhất. Có một anh nọ gửi một chậu sữa cho một bà kia. Anh đi một thời gian, khi về anh hỏi chậu sữa của anh đâu. Bà kia đưa ra một chậu chỉ có bơ. Anh hỏi bà kia tại sao anh gửi bà sữa mà bây giờ chỉ toàn là bơ. Như vậy thì sữa với bơ là hai (otherness) hay là một (sameness)? Không phải một cũng không phải khác, chúng là phi nhất phi dị 非 一 非 異 . Nếu nói người gieo nghiệp và người thọ nhận quả báo là một thì ta bị kẹt vào thường kiến (eternalism), trong khi vạn vật là vô thường. Nếu nói người gieo nghiệp và người thọ nhận quả báo là hai người khác nhau thì ta bị vướng vào đoạn kiến (annilihationism). Thường kiến và đoạn kiến đều là những tà kiến.
Giáo pháp của Bụt rất thâm sâu. Nhưng đối với những người mới học thì ta phải nói có cái ngã, có người gieo và người gặt. Đối với những người khác thì ta có thể nói không có thường cũng không có đoạn. Nói như vậy mới có thể tới gần với sự thật.
- Đối trị tất đàn 對 治 悉 檀
Đối trị có nghĩa là bệnh nào thì cho thuốc đó. Nếu người kia có tham, có vướng mắc đam mê, có buồn khổ và tuyệt vọng thì thầy thuốc phải kê toa cho đúng, nếu cho thuốc sai thì người đó có thể sẽ chết. Một lần Bụt nói về vô thường, vô ngã và khổ đau như thế nào mà nhiều thầy thấy cuộc đời chán quá và đi tự tử. Như vậy Bụt cũng đã có cơ hội để học hỏi. Là giáo thọ, ta cũng cần phải học hỏi mà đừng nghĩ rằng những điều ta nói là hoàn toàn đúng, vì có thể ta chưa quán cơ được. Giáo pháp phải có tính cách khế cơ, tức phải tùy thuộc vào căn cơ và khả năng của người nghe. Nhưng giáo pháp cũng phải khế lý, tức phải có mùi vị của Phật pháp.
Thiền sư Triệu Châu nói tất cả mọi loài đều có Phật tánh để người ta đừng bị mặc cảm là họ không thể tiến bộ và đi lên được. Ngày hôm sau có một người lên hỏi thiền sư: “Con chó có Phật tánh không?” Theo nguyên tắc, nếu thiền sư nói giống như hôm qua thì con chó cũng có Phật tánh. Nhưng anh này lên hỏi chỉ để khoe là mình đã hiểu những điều thầy nói. Thiền sư Triệu Châu trả lời: “Không!” Nếu thiền sư trả lời có thì anh này hí hửng đi về và cho là đã đủ. Thiền sư phải nói không để anh ta thất điên bát đảo và anh phải tìm hiểu thêm. Đó là tùy bệnh mà cho thuốc. Trong những buổi vấn đáp của chúng ta, thỉnh thoảng cũng có những người lên không phải để hỏi mà chỉ để chứng tỏ là người đó đã hiểu thầy rất nhiều, đã hiểu giáo lý rất sâu sắc.
Một đạo sĩ thuộc phái Kỳ Na giáo tới hỏi Bụt là có ngã hay không có ngã. Bụt không trả lời. Khi ông ta đi rồi, thầy A Nan ngạc nhiên hỏi Bụt: “Tại sao đức Thế Tôn không trả lời? Ông đó hỏi có ngã không, Ngài không trả lời. Ông đó hỏi có phải là không có ngã hay không thì Ngài cũng im lặng.” Bụt trả lời: “Thầy A Nan, nếu tôi nói có ngã thì trái với giáo lý tôi dạy lâu nay. Còn nếu tôi nói không có ngã thì tôi biết ông ấy sẽ đau khổ lắm. Lâu nay ông tưởng là có ngã, bây giờ nghe nói không có ngã thì ông phải làm sao đây!”
Bụt đọc được tâm trạng của ông đạo sĩ. Nếu Bụt nói vô ngã thì tuy là đúng với giáo pháp nhưng điều đó có thể sẽ làm cho ông ta điên. Ông sẽ nghĩ: Lâu nay mình tin là có ngã, bây giờ nghe nói là vô ngã thì làm sao mình sống được?
Những kinh này chứng tỏ Bụt đã sử dụng phương pháp đối trị tất đàn.
- Đệ nhất nghĩa tất đàn 第 一 義 悉 檀
Đệ nhất nghĩa đế hay thắng nghĩa đế, tức là sự thật tuyệt đối. Sự thật tuyệt đối có thể giúp cho người ta giải thoát được. Nhưng nó cũng có thể làm cho người ta cảm thấy bơ vơ vì có thể người ta đang bám víu vào một sự thật tương đối nào đó. Giáo lý không hay giáo lý tương tức là đệ nhất nghĩa đế.
Câu “thử hữu tắc bỉ hữu” là một câu chưa đi đúng với đệ nhất nghĩa, nó chưa phải là chân lý tuyệt đối. Thử hữu tắc bỉ hữu có nghĩa là cái này có vì cái kia có (this is because that is). Cái này (this) và cái kia (that) là một sự phân biệt: cái này không phải là cái kia. Theo đệ nhất nghĩa tất đàn thì cái này nằm trong cái kia, cái này chính là cái kia. Đứa con và bà mẹ là hai danh từ khác nhau. Khi nhìn cho kỹ thì ta thấy đứa con có trong bà mẹ và bà mẹ có trong đứa con. Sự thật sâu hơn là có sự tương tức: con tức là mẹ, mẹ tức là con.
Câu nói “mẹ sinh ra con” chưa phải là đệ nhất nghĩa tất đàn.
Khi tổng thống Obama nhận tin ông được tái đắc cử, ông gửi cho các bằng hữu và cử tri của ông một thông điệp rất ngắn: This happened because of you. Chuyện này xảy ra là nhờ nơi các bạn. Nhưng trong đệ nhất nghĩa tất đàn thì cái này và cái kia không phải là hai cái riêng biệt, chúng ở trong nhau, chúng tương tức. Đó là chân lý tuyệt đối (paramārtha).
Đây là bốn phương pháp đầu gọi là Bốn tiêu chuẩn về sự thật: Thế gian tất đàn, Các các vị nhân tất đàn, Đối trị tất đàn và Đệ nhất nghĩa tất đàn. Nếu nắm vững được phương pháp này thì ta có thể phân biệt được những giáo nghĩa được dạy trong kinh thuộc về tiêu chuẩn nào và ta không còn thấy những giáo nghĩa đó trái chống nhau nữa.
Giáo lý “thử hữu tắc bỉ hữu” đã sâu sắc lắm rồi, nhưng vẫn chưa đi tới Đệ nhất nghĩa tất đàn. Đệ nhất nghĩa tất đàn là không, thử không mà bỉ cũng không. Không có thử bỉ, chỉ có tương tức. Nắm được bốn tiêu chuẩn về sự thật thì chúng ta sẽ bớt hoang mang khi đi vào trong kinh điển.
Phương pháp Bốn sự y cứ (Tứ y 四 依)
Tứ y là bốn sự nương nhờ, căn cứ. Tứ y có thể được dịch là the four reliances.
1. Y pháp bất y nhân 依 法 不依 人
Y pháp bất y nhân có nghĩa là dựa vào chánh pháp mà đừng dựa vào con người. Hồi tôi còn học mẫu giáo, cô giáo khuyên học trò như thế này: Không nên đi giày cao gót vì nó dễ làm trẹo chân và đi đứng không được dễ dàng. Trong khi đó thì cô giáo đang đi giầy cao gót. Khi học Phật pháp thì ta đừng nên vì vị giảng pháp mà bỏ Phật pháp. Người đó tuy tánh tình khó chịu nhưng biết nói pháp. Ví dụ như ta biết có một viên ngọc rơi vào thùng rác, muốn lấy viên ngọc đó thì ta phải vọc tay vào thùng rác và chịu dơ tay để lấy viên ngọc ra. Viên ngọc là Pháp, thùng rác là người. Người đó tuy khó chịu nhưng mình phải chịu đựng để học được giáo pháp từ người đó. Ngày xưa có một thầy rất giỏi, thầy thuộc hết cả tam tạng kinh điển nhưng thầy hơi khó chịu. Các thầy khác biết rằng nếu không chìu thầy này thì họ sẽ không có cơ hội ôn tụng và học hỏi giáo pháp, nên họ rất chìu thầy ấy để thầy đọc ra tất cả các kinh điển cho các thầy khác chép hết xuống lá bối. Đừng vì một người chưa dễ thương mà mình bỏ giáo pháp. Đó là y pháp bất y nhân (rely on the Teaching, not on the teacher).
Hồi còn trẻ khi học phương pháp này tôi rất ấn tượng với hình ảnh trong thùng rác dơ có một viên ngọc quý: mình phải chịu khó bị dơ tay để lấy được viên ngọc đó. Có những người chỉ thích nói mà không làm. Vì vậy có người chủ trương là phải ráng làm theo điều mình nói. Như vậy thì Pháp mới đi đôi với người. Bên Trung Quốc có một triết gia tên Vương Dương Minh chủ trương tri hành hợp nhất ( 知 行 合 一 ) tức là cái biết và cái làm đi đôi với nhau (walk the talk).
2. Y liễu nghĩa kinh bất y bất liễu nghĩa kinh 依了義 經 不 依 不了義 經
Y liễu nghĩa kinh bất y bất liễu nghĩa kinh là nương vào kinh liễu nghĩa mà đừng nương vào kinh không liễu nghĩa. Những kinh liễu nghĩa là những kinh đi được với Đệ nhất nghĩa tất đàn, là những kinh nói lên được chân lý tuyệt đối. Bất y bất liễu nghĩa kinh là đừng nương vào những kinh nói về chân lý nửa vời với mục đích áp dụng cho những người chưa đi sâu lắm trong sự học hỏi. Ví dụ trong kinh A Di Đà có câu: “Xá Lợi Phất, tại sao cõi đó được gọi là cõi Cực lạc? Xá Lợi Phất, tại vì ở cõi đó người ta chỉ có hạnh phúc mà không biết khổ đau là gì”. Câu kinh này rất hấp dẫn vì nó rất khế cơ. Phần lớn chúng ta ham tới một cõi mà nơi đó không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc. Trong khi đó theo giáo lý thâm sâu của đạo Bụt thì khổ đau và hạnh phúc tương tức. Hạnh phúc được làm bằng những chất liệu trong đó có khổ đau. Câu nói đó trong kinh A Di Đà là một câu không liễu nghĩa. Nhưng câu đó đóng được vai trò của nó vì chúng sanh ham muốn một nơi không có đau khổ mà chỉ có hạnh phúc. Ở Làng Mai chúng ta cứ học đi học lại rằng khổ đau và hạnh phúc tương tức, không có đau khổ thì không có hạnh phúc. Khổ đau là chất liệu để làm ra hạnh phúc. Không có bùn thì không có sen. Chúng ta không bài bác kinh A Di Đà. Câu nói đó trong kinh A Di Đà cũng là kinh, nhưng là kinh bất liễu nghĩa. Khi nghiên cứu, học hỏi đạo Bụt chúng ta phải dựa theo tiêu chuẩn đó. Chúng ta phải căn cứ vào những kinh liễu nghĩa để đi tới kết luận tối hậu mà đừng căn cứ trên kinh không liễu nghĩa. Liễu nghĩa là nghĩa lý tuyệt đối sâu nhất.
3. Y nghĩa bất y ngữ 依 義 不 依 語
Y nghĩa bất y ngữ là nương vào nghĩa lý mà đừng nương vào văn tự (rely on the meaning not on the words). Khi đọc những câu kinh chúng ta đừng bị kẹt vào chữ. Ta phải thấy ý mà đừng bị kẹt vào lời. Ví dụ như khi đọc câu “thử hữu tắc bỉ hữu” ta đừng vội cho là thử và bỉ là hai cái khác nhau.
4. Y trí bất y thức 依 智不 依 識
Y trí bất y thức là nương vào trí mà đừng nương vào thức. Thức của mình có vô minh, có thành kiến, có tập khí, có sự kỳ thị phân biệt. Trí thì sáng, không bị phiền não che lấp và có tính cách trực giác, đi thẳng không qua lý luận. Vì vậy người tu phải dựa trên trí nhiều hơn thức.
Đó là Bốn tiêu chuẩn về chân lý và Bốn sự y cứ mà chúng ta có thể sử dụng trong khi học hỏi và tu tập.
Tứ như ý túc
Như ý có nghĩa là vừa ý, là thỏa mãn ước vọng của mình. Tứ như ý túc, tiếng Phạn là rddhi-pāda, còn được gọi là Tứ thần túc, tức là bốn phép thần thông (the four psychic powers).
1. Dục 欲 (chanda)
Dục là muốn. Dục thần túc là sức mạnh của ý muốn, phải muốn thật nhiều mới thành công.
Muốn đi xuất gia mà chỉ muốn 70% thì không thể thành công được. Ta phải muốn 100% hay 120% thì mới nên xuất gia. Dục là một sức mạnh tâm linh. Muốn ở đây không phải là chuyện xấu, không phải ta muốn danh, muốn lợi hay muốn sắc dục. Muốn là một sức mạnh. Vì nếu cái muốn đó đủ mạnh thì ta có thể buông bỏ được những cái khác. Nếu cái muốn quá yếu thì ta không buông bỏ được những hệ lụy. Ví dụ như ta đang xem Tivi, đang nghe nhạc Trịnh Công Sơn hay đang coi phim trên internet vì ta thấy buồn và trống trải, và ta bị chìm đắm trong đó. Nhưng niềm vui đó rất giả tạo. Ta đang rong chơi trong thế giới internet, ta tìm cái này cái kia để giải khuây cho đỡ buồn vì trong lòng ta đang có một khối u sầu, một khoảng trống vắng mà ta không biết cách xử lý. Khi mở TV ra xem không hẳn là tại TV hay, khi nghe nhạc không hẳn là vì nhạc hay. Nhưng vì ta cảm thấy trống trải, cô đơn, buồn khổ, nên ta đi tìm sự khỏa lấp.
Trong khi đó thì sự sống tràn đầy những mầu nhiệm. Cơ thể của ta đây là một mầu nhiệm lớn. Khoa sinh học đã đi khá xa nhưng vẫn chưa thấy hết được sự mầu nhiệm của cơ thể con người. Một lá cây, một bông hoa, một hành tinh hay một giọt sương chứa trong đó bao nhiêu là mầu nhiệm. Nhưng ta không tiếp xúc được, không thấy được hết những mầu nhiệm của sự sống. Vì trống trải, buồn khổ, sầu đau nên ta tìm vào trong thế giới của giả tạo như internet, nhạc tình sầu,v.v…
Làm thế nào để giúp cho người kia ra khỏi cái thế giới giả tạo đó? Ta phải làm cho người kia có một cái muốn, muốn trở về với sự sống trong giây phút hiện tại để tiếp xúc với những mầu nhiệm đang có trong giây phút hiện tại. Ví dụ như thay vì nghe nhạc thì ta tắt nhạc để theo dõi hơi thở. Hơi thở của ta vô cùng mầu nhiệm, thở vào ta biết là ta đang thở vào và thấy được là ta đang có một hình hài. Hình hài này rất mầu nhiệm, nó mang theo tất cả tổ tiên và các thế hệ tương lai. Tổ tiên đã trao cho ta hình hài này và ta sẽ trao nó lại cho con cháu ta. Mình có được sự sống mà không biết sống, không biết tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống. Ta cứ nói đời là khổ trong khi cuộc đời rất mầu nhiệm. Cuộc đời có chiến tranh, có đói nghèo, có áp bức, nhưng cũng có những mầu nhiệm của sự sống như: bốn mùa rất đẹp, không khí rất trong, biển xanh rất hùng tráng. Ta phải biết cách tự nuôi dưỡng để có khả năng làm giảm thiểu những khổ đau trên trái đất. Và để làm được chuyện đó ta phải thực tập. Ta thực tập trở về với hơi thở, tiếp xúc với hình hài và làm cho hình hài lắng dịu. Ta thực tập xử lý những niềm đau nỗi khổ trong ta để ta có an lạc và niềm vui mà giúp đời. Đó là cái muốn nhưng nếu cái muốn đó quá yếu thì ta chẳng làm gì được. Vì vậy thần thông đầu tiên là phải có cái muốn hướng thượng.
Mỗi người hãy tự hỏi: Mình có cái muốn hướng thượng hay không? Cái muốn của mình ít hay nhiều? Ở Làng Mai chúng ta thường nói: Nếu tâm muốn đi xuất gia chưa được 100% thì đừng nên xuất gia. Không ai ép ta đi xuất gia. Siddhārtha có cái muốn rất lớn. Siddhārtha đã thấy những đau khổ trong cuộc đời, Siddhārtha đã thấy rằng làm một nhà chính trị thì không thể giúp được đời cho nên Siddharta có cái muốn đi tìm con đường để tự chuyển hóa mình và giúp người khác. Là một vị hoàng tử sống trong nhung lụa xa hoa nhưng Siddhārtha đã bỏ tất cả để sống một cuộc sống đơn sơ của một đạo sĩ, sống một mình trong rừng. Đó là thần thông, thần thông này ta cũng có thể có mà không cần phải tu luyện lâu ngày.
Đang đi mà ta suy nghĩ vớ vẩn tới chuyện quá khứ, chuyện tương lai, hay nói chuyện này chuyện nọ với người khác, thì ta đánh mất cơ hội để có hạnh phúc. Nếu biết cách tiếp xúc với giáo lý đạo Bụt, thấy được phép thiền hành là mầu nhiệm thì ta ngưng được sự suy tư, ngưng được câu chuyện, chỉ để ý tới hơi thở và bước chân. Ta ý thức rõ là ta đang còn sống và ta đang đặt những bước chân lên mặt đất. Đó là một phép lạ, đó là thần thông. Đi trên mặt đất, đó là đang làm phép thần thông. Thiền sư Lâm Tế nói đó là “địa hành thần thông” 地 行 神 通 (the miracle of walking on earth). Tất cả chúng ta đều có thể làm được phép địa hành thần thông. Ta đừng tưởng chỉ có tiên mới làm được phép lạ. Địa là đất, hành là đi, địa hành là đi trên mặt đất. Ta không cần đi trên lửa hay trên mây, ta chỉ cần đi trên đất thì đó đã là thần thông rồi. Nhờ có niệm, định và tuệ mà mỗi bước chân đều có an lạc, có hạnh phúc và có tình thương là ta đang tạo ra thần thông.
Ta đừng nên có mặc cảm là mình không biết làm phép lạ. Ta có thể làm được phép lạ. Người kia đang ở trong trạng thái buồn khổ, chán đời. Ta tới ngồi với người đó, mỉm cười và nói một vài câu giúp cho người đó ra khỏi địa ngục. Nhiều thiền sinh tới đây trong trạng thái buồn khổ, chán nản. Một thầy hay một sư cô ngồi chia sẻ với họ và trong vòng 10 hay 15 phút đã có thể giúp cho họ thoát ra khỏi địa ngục, đó là thần thông. Nếu muốn, mỗi sư chú, mỗi sư cô, mỗi thầy đều có thể làm được như vậy. Giúp đời, cứu người là chuyện ta có thể làm được. Nhưng trước đó ta phải biết giúp mình và cứu mình.
Sư cô Chân Không là người chuyên cho thiền sinh tham vấn ở xóm Mới. Sư cô báo cáo rằng nhiều khi chỉ trong vòng 20 phút là mình có thể biến đổi được một con người, làm cho mắt họ sáng lên, họ nở được nụ cười và ra về trong hạnh phúc. Đó gọi là giáo hóa thần thông, tức là phép lạ của sự giáo hóa. Là người xuất gia, ta làm thần thông cho mình rồi làm thần thông cho người khác. Khi nói một bài pháp thoại hay hướng dẫn một buổi pháp đàm có thể là ta đang làm phép thần thông. Ta nói pháp thoại hay hướng dẫn pháp đàm không phải để chứng tỏ ta có kiến thức về Phật pháp, mà ta đang làm phép thần thông, tức là đang giúp cho nhiều người thoát ra khỏi nỗi khổ niềm đau của họ.
2. Tâm 心 (citta)
Tâm của ta rất mầu nhiệm. Tâm bao gồm cả vũ trụ. Tất cả đều do tâm. Ta đừng cho rằng tại người kia làm mình khổ hay là vì không có người kia nên mình mới khổ. Hạnh phúc hay khổ đau là do tâm mình mà ra.
Theo đạo Bụt thì có mười cảnh giới: Thiên, Nhân, Atula, Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh, Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát và Bụt. Mười cảnh giới này đều có trong tâm. Ta muốn đi tìm Bụt thì tìm ngay trong tâm, mà muốn đi tìm địa ngục cũng tìm ngay trong tâm mình. Địa ngục đi lên từ tâm ta chứ không phải là ta rớt xuống địa ngục. Ta phải chọn lựa, cũng như đài truyền hình có mười kênh, ta muốn kênh nào thì bấm kênh đó. Ta có phép thần thông để chọn lựa. Tại sao mình lại chịu chết trong một cảnh giới mà ta có thể thoát ra khỏi nơi đó một cách rất mau chóng.
3. Cần 勤 (vīrya)
Cần là siêng năng, là năng lượng của sự tinh tấn. Chúng ta biết Tứ chánh cần là một phương pháp rất hay. Ở Làng Mai, Tứ chánh cần là phương pháp thực tập tưới tẩm hạt giống tốt. Chúng ta chỉ tưới tẩm những hạt giống tốt trong ta mà đừng tưới tẩm những hạt giống không tốt thì tự nhiên hạnh phúc có mặt trong mỗi giây phút của đời sống hằng ngày. Ta chỉ tưới tẩm hạt giống tốt nơi người kia mà đừng tưới tẩm những hạt giống không tốt. Đó là sự tưới tẩm có chọn lọc (selective watering). Người kia có hạt giống thiên đường, hạnh phúc; ta tưới tẩm hạt giống thiên đường, hạnh phúc ấy thì người đó sẽ có hạnh phúc. Người kia có hạt giống xuất gia, ta tưới tẩm hạt giống xuất gia thì người kia sẽ đi xuất gia. Người kia có hạt giống Bụt, ta tưới tẩm hạt giống Bụt thì người đó sẽ thành Bụt.
Tứ chánh cần là bốn phương pháp thực tập: đừng tưới tẩm những hạt giống xấu trong ta và trong người. Nếu những hạt giống xấu đã biểu hiện rồi thì ta tìm cách nhận diện chúng và mời những hạt giống tốt lên. Nếu những hạt giống xấu chưa biểu hiện thì đừng để chúng biểu hiện. Những hạt giống tốt chưa biểu hiện thì ta tìm cách tưới tẩm để cho chúng biểu hiện. Những hạt giống tốt đã biểu hiện rồi thì ta nên giữ cho chúng được biểu hiện càng lâu càng tốt. Với phương pháp tưới tẩm có chọn lọc, ta có thể làm cho đời sống ta hạnh phúc theo như ý mình. Ta biết cách xử lý nỗi khổ niềm đau để không bị nó làm cho tràn ngập. Ta cũng biết cách giúp cho người kia không bị tràn ngập bởi nỗi khổ niềm đau của họ. Ta kéo họ ra khỏi ngục tù của quá khứ và lo lắng cho tương lai. Chỉ cho họ thấy được trời xanh, mây trắng, chim hót, thông reo, hoa nở để người đó có cơ duyên được trị liệu và nuôi dưỡng. Đó là thần thông mà ta có thể làm được, ta đừng nên mặc cảm.
4. Quán 觀 (mīmāṃsā)
Quán là năng lượng giúp ta có thể thấy và nghe thật sâu để hiểu. Khi có hiểu thì ta sẽ phá tung được mạng lưới của sự khổ đau và u mê. Ví dụ như khi quán về vô thường, vô ngã, về cái giận, về cái chết, về sự sống. Nhờ vào sự quán chiếu mà ta vượt thoát khỏi ý niệm có-không, sống- chết để ta có tự do và hạnh phúc.
Chúng ta không phải là thần linh hay Thượng đế nhưng ta có quyền năng trong tay của mình, ta có thể làm ra phép lạ. Ta có thần túc là Dục như ý túc, Tâm như ý túc, Cần như ý túc và Quán như ý túc. Quán chiếu là một sự thực tập, cũng như muốn chơi tennis hay chơi pingpong thì chúng ta cũng phải tập.
Niệm-định-tuệ: ba yếu tố làm ra chất thánh
Chúng ta đã học về Bốn thần túc (the four psychic powers), và chúng ta biết rằng dù còn đang là phàm phu nhưng mình cũng làm được phép lạ.
Phàm phu là những con người chưa có chất thánh. Phàm phu tục tử là những người đời không có chất thánh. Nhưng theo đạo Bụt thì chất thánh được làm bằng chất phàm, cũng như hoa sen được làm bằng bùn. Nếu biết cách chúng ta có thể sử dụng chất phàm để làm thành chất thánh.
Trong kinh có danh từ Thánh đệ tử, nghĩa là những đệ tử có chất thánh. Ai biết tu chánh niệm, chánh định đều có chất thánh trong người, vì năng lượng niệm, định và tuệ là năng lượng của những bậc thánh. Tất cả chúng ta đều có hạt giống của niệm, định, và tuệ. Nếu biết cách tiếp xúc với những hạt giống đó và làm cho chúng biểu hiện ra thành năng lượng thì ta sẽ có chất thánh. Có chất thánh thì chúng ta có thể làm ra phép lạ. Đức Giáo hoàng được gọi là “his Holiness”, vì người ta nói Đức Giáo hoàng có chất thánh. Chúng ta gọi Đức Dalai Lama là “his Holiness”, có nghĩa là Đức Dalai Lama có chất thánh. Chúng ta cũng có chất thánh, chúng ta không cần phải mặc cảm.
Mỗi khi thở vào có chánh niệm là ta đã có chất thánh. Nếu sư cô, sư chú thở vào có chánh niệm thì sư cô, sư chú là “your Holiness.” Có chánh niệm, chánh định thì mỗi bước chân là một phép lạ, là địa hành thần thông (the miracle of walking). Nếu mỗi bước chân được soi sáng bởi chánh niệm và chánh định, ta sẽ thấy được những mầu nhiệm của đất trời và ta thấy đời sống thật quý giá. Ta bước đi như một vị Bồ tát, như một vị Bụt ngay trên trái đất này. Mỗi bước chân ấy có khả năng nuôi dưỡng, trị liệu và chuyển hóa. Chúng ta ai cũng có thể làm được chuyện đó. Ta có rất nhiều cơ hội và nhiều điều kiện để làm, nếu ta không làm thì rất uổng.
Luân lý học Phật giáo được căn cứ trên sự thực tập niệm, định và tuệ. Mỗi người trong chúng ta đều có hạt giống của niệm, định và tuệ. Ta phải tin rằng chất thánh đang có trong ta, ta không cần phải mặc cảm.
Tại Làng Mai, niệm 念 (smŗti) là trái tim của sự thực tập. Niệm là mindfulness, la pleine conscience. Chúng ta biết cách đi như thế nào để chế tác được năng lượng của niệm. Có năng lượng của niệm trong ta thì ta có chất thánh, mà có chất thánh thì ta bớt đau khổ ngay. Truyền thống Cơ đốc giáo cho rằng khi có Chúa Thánh Thần (holy spirit) trong ta thì tự nhiên có sự nuôi dưỡng và trị liệu. Đó là năng lượng chánh niệm. Trong niệm có năng lượng thứ hai là định. Khi ta chú tâm vào cái gì đó thì ta có sự tập trung tâm ý, sự tập trung tâm ý ấy gọi là định
定 (samādhi). Định làm cho ta chỉ chú ý tới một đối tượng gọi là tâm nhất cảnh, tức là tâm ta chỉ chuyên chú vào một đối tượng. Khi có niệm và định thì ta có tuệ 慧 (prajñā), nghĩa là ta có cái thấy. Cái thấy này làm thay đổi tất cả, giúp cho ta chuyển hóa rất mau. Niệm, định và tuệ thường đi chung với nhau. Có niệm thì có cơ hội có được tuệ. Có khi niệm, định và tuệ tới cùng một lúc trong chớp nhoáng. Ví dụ như ta bước một bước có chánh niệm, ta chú tâm vào bước chân thì tự nhiên ta có mặt ngay bây giờ và ở đây và ta tiếp xúc được với tất cả những mầu nhiệm của vũ trụ đang có mặt quanh ta. Ta biết ta đang còn sống, ta đang có mặt. Ta là một thực thể mầu nhiệm và thế giới chung quanh ta như cây cỏ, suối đồi cũng là một thực thể mầu nhiệm. Tại sao ta lại muốn tìm hạnh phúc ở một nơi khác trong tương lai? Cái thấy đó tới ngay và làm cho ta hạnh phúc liền lập tức. Đó gọi là tuệ (insight, la vision profonde), là giác ngộ. Tuy chưa phải là sự giác ngộ hoàn toàn nhưng đó đã là giác ngộ. Giác ngộ lớn hay đại giác (mahābodhi) được làm bằng những điều giác ngộ nhỏ hay tiểu giác (hīnabodhi), mà giác ngộ nhỏ được làm bằng hơi thở, bằng bước chân. Không có tiểu giác thì làm sao có đại giác?
Đạo đức học Phật giáo là để giúp cho con người bớt khổ, có được niềm vui, căn cứ trên niệm, định và tuệ mà không hẳn căn cứ trên niềm tin về luân hồi, nghiệp và quả báo. Những ý niệm về luân hồi, nghiệp và quả báo đã có sẵn trước khi Phật giáo ra đời. Bụt cũng chấp nhận những ý niệm đó nhưng Ngài không để nguyên mà đã chế tác lại rất hay. Ý niệm về luân hồi, nghiệp và quả báo của Áo Nghĩa Thư và Phạm Thư đã trở thành một dụng cụ rất hay khi ở trong tay của Bụt. Niệm, định và tuệ chính là những yếu tố đặc biệt của Phật pháp có thể mở ra tất cả các cánh cửa của hạnh phúc và chuyển hóa được tất cả khổ đau của con người. Niệm, định và tuệ có công năng giải phóng con người, kéo con người ra khỏi ngục tù của khổ đau.
Nhị đế 二 諦
Nhị đế là hai loại sự thật:
1. Thế tục đế 世 俗 諦 (saṃvṛti-satya)
Thế tục đế là sự thật ước lệ, sự thật tương đối, sự thật mà chúng ta đồng ý với nhau một cách thực dụng như là tôi và anh là hai người khác nhau, sống và chết là hai cái khác nhau, đầu và cuối là hai cái khác nhau, trái và phải là hai cái khác nhau, vui và khổ là hai cái khác nhau. Vui không phải là khổ, tôi không phải là anh, cha không phải là con. Những điều đó cũng là sự thật nhưng là sự thật ước lệ. Trong không gian của sự thật ước lệ thì cái này nằm ngoài cái kia, cha nằm ngoài con, trái không phải là phải, chủ thể không phải là đối tượng, tạo hóa không phải là tạo vật. Đó gọi là thế tục đế (samvṛti-satya).
2. Thắng nghĩa đế 勝 義 諦 (paramārtha-satya)
Nhưng nếu nhìn sâu hơn ta sẽ thấy một sự thật khác. Nhìn sâu vào người con ta sẽ thấy người cha trong đó, vì nếu không có cha thì sẽ không có con và nếu không có con thì người cha không được gọi là cha. Ta không thể lấy cha ra khỏi con hay lấy con ra khỏi cha; không thể lấy phải ra khỏi trái hay lấy trái ra khỏi phải; không thể lấy đối tượng ra khỏi chủ thể hay lấy chủ thể ra khỏi đối tượng; không thể lấy hồn ra khỏi xác hay lấy xác ra khỏi hồn. Đó là thắng nghĩa đế. Trong Thắng nghĩa đế thì cái này nằm trong cái kia.
Nhìn vào con thì thấy cha, nhìn vào bông hoa thì thấy mặt trời, mặt trời không nằm ngoài bông hoa. Cha mẹ không nằm ngoài đứa con, nhìn vào đứa con thì ta thấy con và cha mẹ tương quan, tương duyên với nhau. Nhờ sự tu tập về duyên khởi mà ta tìm thấy được sự thật thứ hai.
Khi học hỏi và tu tập Phật pháp, chúng ta được tiếp nhận những giáo lý trong đó nói về sự thật ước lệ và những giáo lý nói về sự thật tuyệt đối. Chúng ta đừng nên thắc mắc tại sao trong kinh có khi nói như thế này, có khi nói như thế kia. Chúng ta vượt thoát được câu hỏi tại sao kinh nói những điều có vẻ như chống đối nhau, khi thì nói có sinh có diệt và có khi lại nói không sinh không diệt; khi thì Bụt nói: Tôi và thầy A Nan khác nhau, có khi Bụt lại nói: Tôi và thầy A Nan không khác nhau.
David Bohm, nhà vật lý học người Anh có nói về hai loại trật tự: Trật tự ngoại nhiếp (the explicate order) và Trật tự nội nhiếp (the implicate order). Hai loại trật tự này có vẻ như chống đối nhau, nhưng từ trật tự ngoại nhiếp ta quán sát cho kỹ để đi tới trật tự nội nhiếp. Trật tự ngoại nhiếp nghĩa là trong thế giới này, cái này nằm ngoài cái kia, trái nằm ngoài phải, người con nằm ngoài người cha, cha chỉ là cha mà không thể nào là con và con chỉ là con mà không thể nào là cha. Nhưng nhìn cho kỹ thì ta thấy không phải như vậy. Trong một cái chứa đựng rất nhiều cái. Con không những chứa đựng cha mà còn chứa đựng mẹ và chứa đựng cả tổ tiên. Đó là trật tự nội nhiếp.
Hiện nay trong khoa học lượng tử có những chân lý mà bề ngoài có vẻ như chống lại những chân lý đã được tìm thấy trong khoa học cổ điển. Khoa học vật lý cổ điển được đại diện bởi Newton. Những sự thật của khoa học cổ điển được áp dụng rất thành công trong sự sống. Nhưng những sự thật tìm ra trong khoa học lượng tử hiện nay rất khác. Nếu không buông bỏ được những sự thật đã học trong khoa học cổ điển thì ta không thể nào hiểu được khoa học lượng tử.
Ví dụ như chúng ta nghĩ điện tử này khác với điện tử kia, chúng ở ngoài nhau. Nhưng thật ra điện tử kia có trong điện tử này. Đó là trật tự nội nhiếp. Không có gì có thể ở riêng biệt được.
Giữa trật tự ngoại nhiếp và trật tự nội nhiếp có một hàng rào ngăn cách. Người ta đang đặt câu hỏi tại sao từ trật tự ngoại nhiếp ta có thể đi tới trật tự nội nhiếp, nghĩa là làm sao thiết lập được liên hệ giữa khoa học cổ điển và khoa học mới? Đó là một trong những câu hỏi lớn nhất của khoa học vật lý hiện nay. Đạo Bụt đã có câu trả lời: Cả hai sự thật đó đều là sự thật có thể áp dụng được và giữa hai sự thật đó không có sự chống đối nhau. Trong đạo Bụt có những phương pháp quán chiếu để từ sự thật ngoại nhiếp ta có thể đi tới sự thật nội nhiếp mà không thấy có sự chống đối giữa hai sự thật là Thế tục đế và Thắng nghĩa đế.
Chúng ta đã học về hai bình diện của sự thật: bình diện tích môn và bình diện bản môn. Trên bình diện của tích môn thì có sinh có diệt, có có có không, có hành động có người làm hành động (có tác giả, có thọ giả) và có mọi hiện tượng (hành). Nhưng nhìn sâu vào ta thấy có một thế giới không sinh không diệt, không có không không, không tác giả không thọ giả và không có những hiện tượng có mặt ngoài nhau. Đó là thế giới của bản môn, của vô sinh, vô hữu, vô tác, vô hành, là chỗ an toàn nhất, là hải đảo tự thân mà ta tiếp xúc được. Đạt được cái thấy này thì ta không bị chết đuối nữa, chết đuối bởi những ý niệm có-không, sinh-diệt, ai là người làm, ai là kẻ chịu, cái này mất, cái kia còn. Cái thấy đó là Niết bàn, là sự tự do hoàn toàn.
Nhưng chúng ta phải có một con đường, một phương pháp nhìn sâu để thấy thế giới bản môn nằm trong thế giới tích môn. Khoa vật lý học đã tìm thấy được cái “không có, không không”, nhưng họ chỉ áp dụng cái thấy đó vào trong kỹ thuật mà chưa áp dụng được vào trong đời sống hằng ngày của con người. Luật thứ nhất của nhiệt động học, luật bảo tồn năng lượng (la loi de la conservation de l’énergie), đã tìm ra được vật chất và năng lượng là không sinh cũng không diệt. Chúng ta không thể từ chỗ không có năng lượng mà làm ra năng lượng và ta cũng không thể làm mất đi năng lượng. Ta chỉ có thể biến chuyển năng lượng này thành ra năng lượng khác mà thôi. Cũng như vật chất này chỉ có thể trở thành vật chất khác hay trở thành năng lượng mà không thể mất đi được. Năng lượng cũng như vật chất không có sinh, không có diệt. Khoa học đã tìm ra được sự thật này nhưng vẫn chưa ứng dụng được vào đời sống hằng ngày cho nên nhà khoa học vẫn còn những cái giận, cái lo, cái buồn. Với trí tuệ ta có thể thấy được Niết bàn, nhưng ta không thể sống được trong Niết bàn, cũng như ta đã tìm ra được giếng nước nhưng vì giếng sâu và ta không có gàu cho nên dù nhìn thấy nước dưới giếng mà ta vẫn chết khát. Khoa học cũng vậy, khoa học thấy được cái không sinh không diệt nhưng họ vẫn chết vì sự sợ hãi và tuyệt vọng.
Nếu có niệm, định và tuệ thì ta có thể áp dụng được cái không sinh không diệt mà ta thấy trong khoa học vào đời sống, tự nhiên ta có hạnh phúc ngay vì ta không còn sợ sống chết nữa. Lavoisier, khoa học gia người Pháp đã nói rất rõ: Rien ne se crée, rien ne se perd. Không có gì sinh ra, không có gì mất đi. Nhìn vào đám mây ta thấy đám mây cũng không sinh không diệt. Đám mây không thể nào chết được, đám mây là vô sinh bất diệt và chúng ta cũng là vô sinh bất diệt. Trong bình diện tích môn thì thấy có sinh, có diệt, có có, có không, nhưng trong bình diện bản môn thì không sinh không diệt, không có, không không. Có hai loại sự thật:
- Sự thật hời hợt bên trên gọi là sự thật thế gian (lokika)
- Nhìn cho kỹ sự thật bên trên thì ta thấy một loại sự thật sâu sắc ở dưới gọi là sự thật xuất thế gian (lokottara).
Xuất thế gian không nằm ngoài mà nằm trong thế gian. Xuất thế gian là hạnh phúc lớn nhất, là Niết bàn mà những người chứng đạo không cần phải chết đi cũng có thể đạt được. Ngay trong giây phút hiện tại ta có thể tiếp xúc được với thế giới xuất thế gian bằng thân thể của ta chứ đừng nói là bằng tâm của ta.
Vô tác tức là không có ngã, không có ai làm chủ hình hài này và tâm thức này. Hình hài và tâm thức này tự diễn biến mà không cần sự điều khiển của một chủ nhân. Sự thật này khiến cho người ta bị sốc, nhưng nó rất khoa học. Ví dụ như mưa chỉ là mưa mà không cần phải có ông trời đứng phía sau để làm mưa, chỉ có gió mà không có một người đứng sau để thổi.
Học phương pháp Tứ y chúng ta biết khi nghiên cứu, ta phải nương vào kinh liễu nghĩa mà đừng nương vào kinh không liễu nghĩa. Những kinh không liễu nghĩa thuộc về Thế tục đế và những kinh liễu nghĩa thuộc về Thắng nghĩa đế. Khi phân biệt được hai loại sự thật đó thì ta không còn thắc mắc tại sao khi thì kinh nói thế này, khi thì kinh nói thế kia. Hai nền khoa học nói có khác nhau, khoa học cổ điển thì nói thế này và khoa học lượng tử thì nói thế khác, nhưng cả hai nền khoa học đều có chân lý của chúng. Đây là nguyên tắc thứ ba, tức nguyên tắc Nhị đế mà chúng ta phải theo. Nếu không nắm được nguyên tắc này thì chúng ta sẽ rất hoang mang.
Hai loại sự thật đều có thể ứng dụng
Trên bình diện thế tục đế người cư sĩ cũng có thể học được Tứ đế, tức khổ, tập, diệt, đạo. Nhưng bốn đế khác nhau, khổ không phải là tập, tập không phải là diệt, diệt không phải là đạo. Ta có một mục tiêu (diệt) và một con đường (đạo) để tới mục tiêu, và con đường không phải là mục tiêu. Nhưng xuống tới bình diện thắng nghĩa đế thì con đường và mục tiêu mà ta đi tới không phải là hai cái khác nhau. Ta không thể lấy đạo ra khỏi diệt hay lấy diệt ra khỏi đạo, không thể lấy Niết bàn ra khỏi con đường hay lấy con đường ra khỏi Niết bàn. Đó là thắng nghĩa đế. Tụng Tâm Kinh đã ba mươi năm nay thì chúng ta phải thấy được điều đó. Ta phải hiểu con đường và mục đích không phải là hai, ta không thể lấy cái này ra khỏi cái kia cũng như không thể tách mặt trái của tờ giấy ra khỏi mặt phải. Đó gọi là tương tức.
Nhưng nói như vậy không có nghĩa thế tục đế là sai. Thế tục đế là những sự thật mà ta có thể ứng dụng vào trong đời sống hằng ngày. Đầu khóa tu chúng ta đã được học rằng hiện nay người ta phân biệt ra hai nền khoa học:
- khoa học cổ điển, mà người đại diện là Newton.
- khoa học mới gọi là khoa học lượng tử.
Khoa học cổ điển đã đưa ra những định luật vật lý có thể áp dụng trong kỹ thuật và trong đời sống hằng ngày. Nhưng khoa học lượng tử đã khám phá ra những sự thật khác có vẻ như chống đối lại với những sự thật của khoa học cổ điển. Trong khoa học cổ điển, bất cứ vật nào cũng có vị trí chính xác của nó trong không gian và thời gian. Nhưng trong khoa học mới thì một vật có thể có mặt khắp nơi cùng một lúc. Chúng ta không thể nói điện tử nằm đúng ở chỗ đó hay trong thời gian đó. Nó có thể có mặt cùng một lúc trong hiện tại, quá khứ, tương lai và có thể có mặt một lần ở khắp nơi. Nó có tính cách phi cục bộ (non locality). Chất điểm (elementary particle) có khi ở dạng hạt và có khi ở dạng sóng. Hạt thì có một vị trí nhất định, còn đợt sóng thì không có một vị trí nhất định nào. Một điện tử, khi ta nhìn cách này thì nó có đặc tính của hạt nhưng khi ta nhìn cách khác thì nó có đặc tính của sóng. Trong khoa học mới, có những quy luật mà ta có thể áp dụng được tuy nó có vẻ như trái chống lại với những quy luật của khoa học cũ.
Trong đạo Bụt cũng vậy, trên bình diện của sự thật ước lệ cũng có những sự thật có thể ứng dụng được. Nhưng đi sâu vào tiếp xúc với sự thật tuyệt đối thì ta tìm ra được những chân lý khác, và những chân lý khác đó ta cũng có thể áp dụng được. Ví dụ như ta đang ngồi đây, ta thấy chắc chắn là phía trên đầu ta là phía trên và dưới chân ta là phía dưới. Ta sẽ không đồng ý nếu có người nói ngược lại. Nhưng những người ngồi ở bên kia bán cầu thì thấy ngược lại: phía trên của ta là phía dưới của họ. Sự thật là không trên không dưới, cái dưới của anh là cái trên của tôi và cái dưới của tôi là cái trên của anh.
Chúng ta có thể áp dụng được cả hai loại sự thật. Nếu không áp dụng được sự thật có trên có dưới thì ta không thể làm kiến trúc sư, vì ta phải xây tầng dưới trước rồi mới xây được tầng thứ hai. Nhưng sự thật không trên không dưới cũng có thể ứng dụng được. Ta cứ nghĩ là mình đi thẳng, thật ra là ta đi đường vòng rồi trở lại chỗ ban đầu của mình, tại vì quả địa cầu hình tròn. Có hai loại sự thật nhưng loại nào ta cũng có thể ứng dụng được. Trong khóa tu này chúng ta phải rất cẩn thận, nghe một câu kinh hay một giáo lý, ta phải có khả năng nhận diện câu kinh đó hay giáo lý đó thuộc loại sự thật nào.
Trên bình diện của sự thật ước lệ thì có khổ đau và hạnh phúc, nhưng xuống bình diện của sự thật tuyệt đối thì khổ đau và hạnh phúc không thể tách rời nhau được. Cũng như ta không thể tách bùn ra khỏi hoa sen, lấy bùn đi thì cũng không còn sen. Trên bình diện sự thật tương đối thì có thánh và có phàm, thánh khác phàm. Có người muốn thành thánh hoàn toàn nên muốn tiêu diệt chất phàm còn dư lại. Đó là cách suy tư và hành động theo tiêu chuẩn của sự thật ước lệ. Nhưng xuống tới bình diện sự thật tuyệt đối thì nếu không có chất phàm thì ta không thể nào làm ra chất thánh. Ta luôn luôn cần chất phàm để làm ra chất thánh. Không bao giờ ta có thể có 100% chất thánh mà không có chất phàm nào. Cũng như ta chỉ muốn có tay phải mà không có tay trái, nhưng hễ có tay phải thì có tay trái. Đó là luật tương tức, là cái thấy của bản môn: còn phàm thì còn thánh, hết phàm thì thánh cũng không còn.
Con đường chính là Niết bàn
Trên bình diện của sự thật ước lệ thì diệt và đạo khác nhau, nhưng xuống dưới bình diện của sự thật tuyệt đối thì diệt (chỗ đến) và đạo (con đường) không phải là hai cái khác nhau. Cũng như chúng ta thường nói: There is no way to peace, peace is the way. Không có con đường đưa tới hòa bình, hòa bình chính là con đường. Ban đầu ta nghĩ có hòa bình và có một con đường đưa tới hòa bình, hòa bình khác với con đường. Đó là bình diện của thế tục đế. Xuống tới bình diện của thắng nghĩa đế thì hòa bình chính là con đường. Câu nói “không có con đường đưa tới hòa bình, hòa bình chính là con đường” rất quan trọng. Chúng ta phải áp dụng được câu nói đó thì mới có hòa bình thật sự. Tại vì nếu dùng những biện pháp bạo động để có hòa bình thì ta sẽ thất bại ngay từ trong trứng nước. Bất cứ một tư tưởng, một lời nói hay một hành động nào ta sử dụng cho hòa bình thì chính nó phải là hòa bình. Hòa bình chính là tư tưởng, là lời nói, là hành động của ta. Ta có hòa bình ngay trong giây phút hiện tại. Phương tiện và cứu cánh là một, không thể lấy phương tiện ra khỏi cứu cánh, cũng không thể lấy cứu cánh ra khỏi phương tiện. Đời sống của ta chính là hòa bình.
Niết bàn và con đường đi tới Niết bàn cũng vậy, trên bình diện thế tục đế ta thấy có Niết bàn và có con đường đi tới Niết bàn, nhưng nhìn kỹ thì Niết bàn chính là con đường. Nếu ta thật sự sống theo Bát chánh đạo thì mỗi giây phút của đời sống là Niết bàn. Ví dụ như từ Bordeaux đi Paris, nếu ở ga Saint Jean (Bordeaux) ta lên đúng xe lửa đi Paris thì lúc ta bước lên xe lửa đã là Paris rồi. Nhưng nếu lên nhầm xe lửa đi Marseilles thì ta sẽ không bao giờ tới được Paris. Paris nằm ở mọi điểm trên con đường Bordeaux-Paris, Paris có trong mỗi bước chân đi, còn như nếu ta đi ngược lại Paris-Bordeaux thì bước nào cũng là Bordeaux, Bordeaux hay Paris là tùy theo hướng của ta đi. Từ Bordeaux ta muốn đi Paris, nếu đi đúng hướng thì mỗi bước là Paris, còn nếu đi ngược hướng thì mỗi bước là Bordeaux. Vì vậy con đường và nơi đến là một. Nếu Bát chánh đạo được ta thực tập một cách đúng đắn thì mỗi giây phút đều có Niết bàn, mỗi giây phút đều có lắng dịu, thảnh thơi, an lạc và tự do. Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, v.v… nếu thực tập đúng thì mỗi giây phút đều là an lạc, hạnh phúc, tự do và lắng dịu. Mỗi giây phút đó là con đường, là Niết bàn. Con đường chính là Niết bàn.
Không có sự vật khách quan nằm ngoài tâm thức
Trên bình diện thế tục đế thì tâm và vật là hai cái khác nhau. Vì vậy chúng ta có môn sinh học để nghiên cứu về hình hài và môn tâm lý học để nghiên cứu về tâm. Hai ngành khác nhau, một ngành nghiên cứu về thân và một ngành nghiên cứu về tâm. Nhưng ở bình diện thắng nghĩa đế thì ta không thể lấy tâm ra khỏi thân. Trong Phật giáo Đại thừa có hai hệ thống triết học: pháp tướng và pháp tánh.
Theo pháp tánh không tuệ học, tâm không có tự tánh riêng biệt, tâm được làm bằng những yếu tố không phải tâm, có nghĩa là trong tâm có thân, lấy thân ra thì không còn tâm. Thân cũng được làm bằng những yếu tố không phải thân. Cả thân và tâm đều không có tự tánh 自 性 , svabhāva (own nature), tâm được làm bằng những yếu tố không phải tâm và vật được làm bằng những yếu tố không phải vật.
Đám mây hay ngọn núi kia, ta cho nó là vật chất, là không có linh hồn. Đó là ta suy nghĩ trên bình diện của sự thật tương đối, ta phân biệt có vật chất khác với linh hồn. Nhưng nhìn cho sâu thì ta thấy khác. Pháp tướng tông nói rất rõ: Đám mây hay ngọn núi mà ta thấy đó, trước hết nó là đối tượng của tâm ý ta. Theo đạo Bụt thì pháp là đối tượng của tâm ý, pháp không có mặt độc lập ngoài tâm ý.
Tưởng 想 hay tri giác có hai phần: năng tri 能 知 và sở tri 所 知. Một tri giác xảy ra chỉ trong một sát na, trong đó có chủ thể (năng tri) và đối tượng (sở tri).
Khi thấy một vật ta đừng nghĩ là vật đó có ở ngoài ta. Triết học và khoa học đều đồng ý với nhau rằng: Rất khó có được vật ngoài tâm. Khoa học và triết học đều không chứng minh được có một sự vật khách quan nằm ngoài tâm thức. Duy thức học nói:
Thị chư thức chuyển biến
Phân biệt sở phân biệt
Do thử bỉ giai vô
Cố nhất thiết duy thức
Phân biệt là năng tri, sở phân biệt là sở tri. Tâm thức luôn luôn biểu hiện dưới hai mặt, năng tri (subject) và sở tri (object), và hai mặt đó cùng có đồng thời. Tây phương nói: Conscience est toujours conscience de quelque chose. Có tâm thức là có đối tượng tâm thức. Vì vậy đám mây mà ta thấy, ta đừng cho nó là vật chất không có linh hồn, đám mây đó là tâm thức. Đó là cách nói của Duy biểu học.
Từ từ khoa học cũng khám phá ra được điều này. Ta đừng tưởng đám mây không có cái biết. Đám mây cũng có cái biết của nó, nó biết cách làm ra mưa, ra tuyết, và cũng có thể làm ra sấm sét. Cho rằng đám mây là vật chất vô tri là không đúng. Nhìn một hạt bắp ta thấy nó là vật chất hay có tâm thức? Ta ươm một hạt bắp trong mười ngày thì hạt bắp bắt đầu nảy mầm rồi làm ra lá bắp, cây bắp, hoa bắp và trái bắp. Hạt bắp có cái biết, vì vậy cho hạt bắp chỉ là vật chất thôi là không đúng. Các loài thực vật như bông hoa, cây cỏ đều có cái biết của nó. Cây kia biết làm ra bông hoa có màu sắc hấp dẫn để thu hút loài bướm, loài ong. Nếu không có bướm ong tới thăm thì nó không thể làm ra trái. Bướm ong tới thăm, đem nhụy của hoa đực tới nhị của hoa cái để làm thành trái. Những loài hoa ăn thịt phát ra mùi thơm để lôi kéo bọn ruồi muỗi. Ruồi muỗi tới bị dính vào, hoa úp lại rồi từ từ tiêu hóa con mồi để lấy chất bổ nuôi cây. Không có gì là không có tâm thức, vì vậy chúng ta phải rất cẩn thận. Trên bình diện sư thật tương đối thì ta phân biệt có tâm và vật, có khổ và vui, có mục đích và con đường. Nhưng dưới bình diện của sự thật tuyệt đối thì không còn sự phân biệt. Tâm Kinh dạy chúng ta vượt thoát cái thấy của thế tục đế và đi sâu vào cái thấy của thắng nghĩa đế. Khoa học lượng tử hiện nay tìm ra được rằng những điện tử cũng có cái biết. Người ta gửi hai điện tử bạn đi hai hướng khác nhau cách xa hàng chục ngàn cây số. Nhưng những gì xảy ra cho điện tử này thì điện tử kia cũng cảm nhận được. Vì vậy phân biệt vật chất khác với tinh thần là một sai lầm.
Ngay đầu khóa tu chúng ta đã nói có hai loại khoa học. Hai loại khoa học này đã tìm ra được hai loại sự thật ứng dụng được vào đời sống. Trong khoa học hiện nay người ta đang tìm con đường để nối hai loại khoa học đó lại với nhau. Nhưng trong đạo Bụt thì đã có con đường, đó là con đường tùy thuận trí, dùng tuệ giác duyên sinh, tương tức và trung đạo để từ từ đưa người ta từ sự thật ước lệ tới sự thật tuyệt đối.
Tánh tướng biệt quán 性 相 別 觀
Phương pháp này do các vị tổ sư đã tìm ra và trao truyền lại cho chúng ta. Trong khi học hỏi và nghiên cứu, ta phải phân biệt tánh và tướng (the separate investigation of noumena and phenomena).
Tánh là thế giới bản thể (noumena, ontological ground), tướng là thế giới hiện tượng (phenomenogical world). Khi nghiên cứu chúng ta đừng trộn hai thứ lại thành một, nghiên cứu về bản thể thì chỉ nói về bản thể và nghiên cứu về hiện tượng thì chỉ nói về hiện tượng.
Trong Pháp tướng Duy thức học chúng ta có danh sách của 100 pháp. Thế giới hiện tượng được phân thành 100 phạm trù (categories), ví dụ như sắc, tức vật chất là một pháp (thanh, hương, xúc, pháp, nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý cũng đều là các pháp).
Con mắt là một pháp hữu vi (conditioned dharma), tiếng Phạn là saṃskṛta dharma. Bông hoa là một pháp hữu vi vì nó là sự tập hợp của những cái không phải hoa. Cái bàn hay hình hài của mình là những pháp hữu vi. Nhưng trong 100 pháp có những pháp gọi là pháp vô vi (asaṃskṛta dharma), ví dụ như hư không là một pháp vô vi, Niết bàn là một pháp vô vi.
Nhưng Niết bàn không phải là một pháp, nếu nói Niết bàn là một pháp thì ta trộn lẫn tánh và tướng. Niết bàn thuộc về thế giới của bản thể, không thể đưa Niết bàn lên bình diện của sự vật, cũng như Thượng đế là nền tảng của sự vật. Chúng ta có thể nói bông hoa này có hay không có, đẹp hay không đẹp. Nhưng chúng ta không thể nói Thượng đế có hay không có, tốt hay không tốt. Chúng ta không thể trộn bản thể và hiện tượng lại với nhau. Chúng ta không thể đem những ý niệm của thế giới hiện tượng để nói về thế giới bản thể. Trong thế giới hiện tượng có bắt đầu, có chung cục, có lớn nhỏ, cao thấp, đẹp xấu nhưng trong thế giới bản thể thì không có. Ví dụ như đại dương và sóng, chúng ta có thể nói sóng lớn nhỏ, cao thấp vì sóng tượng trưng cho thế giới hiện tượng, nhưng nước thì tượng trưng cho thế giới bản thể. Chúng ta đừng pha lẫn hai thứ, ta phải nghiên cứu thế giới hiện tượng và thế giới bản thể riêng biệt, gọi là tánh tướng biệt quán (the separate investigation of the ontological ground and the phenomenal world).
Tùng tướng nhập tánh 從 相 入 性
Bằng một phương pháp khéo léo chúng ta phải đi dần từ thế giới hiện tượng tới thế giới bản thể để thấy không có sự chống đối giữa hai thế giới đó. Ta có thể nói thế giới hiện tượng là thế giới bản thể, nhưng hiện tượng khác với bản thể. Trong thế giới hiện tượng có có, có không; có cao, có thấp; có xấu, có đẹp. Trong thế giới bản thể thì không có có- không, cao-thấp, xấu-đẹp. Nhưng lìa thế giới bản thể thì không có thế giới hiện tượng, không có nước thì sóng không có mặt. Hai thế giới đó là hai mà thật ra là một.
Một thiền sư Việt Nam thuộc phái thiền Vô Ngôn Thông dạy rằng: “Có thế giới sinh diệt nhưng cũng có thế giới không sinh không diệt. Là người tu ta phải có chí hướng đi về chỗ bất sinh bất diệt.” Một thầy đệ tử lên hỏi: “Vậy con đi tìm thế giới bất sinh bất diệt đó ở đâu?” Thiền sư trả lời: “Con đi tìm ngay ở chỗ có sinh có diệt.”
Thế giới bất sinh bất diệt nằm ngay trong thế giới có sinh có diệt, không có một thế giới bất sinh bất diệt nằm riêng ngoài thế giới có sinh có diệt. Bất sinh bất diệt nằm ngay trong sinh diệt. Từ thế giới hiện tượng mình đi vào trong thế giới bản thể. Năm 24 tuổi tôi có làm bài thơ Thuyền về bến cũ trong đó có câu:
Từ hiện tượng thuyền quay về bản thể
(Thơ từng ôm và mặt trời từng hạt – Nhất Hạnh)
Đó là tùng tướng nhập tánh (from the phenomenal world we gradually go to the noumenal world). Thiền sư đó tên là Vân Phong. Vân Phong có nghĩa là mây trên đỉnh núi. Còn thầy đệ tử tên là Thiện Hội. Thiện Hội có nghĩa là khéo hiểu, nghe nói sơ sơ đã hiểu. Thầy Vân Phong sống vào thế kỷ thứ 10 và tịch năm 950. Câu nói của thiền sư Vân Phong chứng tỏ rằng thầy đã thấy rất rõ: Hãy có một ước muốn sâu sắc là đi tìm tới một thế giới không sinh không diệt và tìm nó ngay trong thế giới có sinh có diệt.
Vì vậy Niết bàn nằm ngay trong sinh tử, không phải bỏ thế giới sinh tử mà tìm ra được Niết bàn. Chúng ta thay đổi cách nhìn thì tự nhiên sinh tử trở thành Niết bàn và phương pháp chúng ta sử dụng là quán niệm theo trung đạo ( 中 道 ) và tương tức (相 即).
Tương tức có nghĩa là nhau (tức là là, tương là nhau). Ta là nhau, tôi là anh, chúng ta không phải là hai thực thể tách biệt. Tương tức tiếng Anh là interbeing. Chúng ta căn cứ trên lời dạy của Bụt: Cái này có vì cái kia có. Trái có nên phải có, cái ban đầu có cho nên cái chung cục phải có. Nếu không có trái thì không có phải, không có ban đầu thì không có chung cục, không có mặt trời thì không có bông hoa. Đó là tương tức.
Chúng ta thường bị kẹt vào hai ý niệm có và không (being and non-being). Nếu kẹt vào ý niệm có thì đồng thời ta cũng bị kẹt vào ý niệm không. Nhưng theo đạo Bụt thì sự thật tuyệt đối thoát ra khỏi ý niệm có và không. Vì vậy chúng ta đã sai lầm khi nói Thượng đế có hay không có. Có-không chỉ là một ý niệm. Thượng đế là bản thể, là một thực tại mầu nhiệm thoát ra khỏi ý niệm có-không. Khi hỏi những câu như “Tại sao Thượng đế sinh ra vạn vật?” và “Ai đã sinh ra Thượng đế?” là ta đã trộn lẫn tướng và tánh. Niết bàn cũng vậy, Niết bàn là một thực thể mầu nhiệm thoát ra khỏi ý niệm có và không. Ý niệm tương tức (interbeing) kéo ta ra khỏi ý niệm có-không. Tuy chữ being vẫn còn nhưng người ta đã từ từ thoát ra khỏi ý niệm being. Đây là một phương pháp rất mầu nhiệm giúp chúng ta đi dần từ tướng tới tánh. Đạo Bụt gọi phương pháp đó là tùy thuận, và cái trí chúng ta sử dụng để đi từ tướng tới tánh là tùy thuận trí ( 隨 順 智 ), anuloma- jñāna. Từ ý niệm có, ta vượt thoát ý niệm có và đi tới ý niệm tương tức (cùng có). Cùng có là sahabhu. Chúng ta không thể tự có mà phải cùng có, đó là tương tức. Chúng ta là nhau, chúng ta không phải là hai thực thể tách biệt. You are therefore I am. Tu es donc je suis. Nếu phát hiện thì chúng ta phát hiện ra cùng một lần gọi là cộng sinh hay câu sinh (俱生 ), sahajata. Ví dụ như trái và phải, trái không thể có trước rồi phải mới sinh ra hay phải có trước rồi trái mới sinh ra, mà phải và trái cùng sinh ra một lần. Cũng như cha và con cùng sinh ra một lần, vì trước khi có con thì người đó không được gọi là cha. Chỉ khi nào người đó có con thì người đó mới được gọi là cha nên cha và con cùng sinh ra một lần. Sinh và tử cũng cùng sinh ra một lần. Chúng ta đừng tưởng bây giờ ta sinh ra rồi tới 80, 90 tuổi ta mới chết. Trong giây phút hiện tại có hàng triệu tế bào đang chết và cái chết của chúng giúp cho những tế bào mới sinh ra. Sinh và tử là hai mặt của một thực tại. Chúng ta đang sinh ra và đang chết đi trong từng giây phút.
Trong đạo Bụt, ngoài ý niệm tương tức còn có ý niệm tương đãi ( 相 待 ). Đãi có nghĩa là đợi, là tiếp đón, mời khách tới, đợi chờ nhau. Tôi phải chờ anh để chúng ta cùng xuất hiện một lần. Tôi có kể một câu chuyện là Thượng đế ra lệnh cho ánh sáng:
– Ánh sáng xuất hiện đi!
– Tâu Thượng đế, con phải đợi.
– Mi đợi cái gì nữa?
– Con đợi bóng tối!
Ánh sáng và bóng tối chỉ xuất hiện cùng một lần với nhau, không có bóng tối thì không có ánh sáng, không có ánh sáng thì không có bóng tối. Đó là luật tương đãi, hễ có trái là có phải, có trên là có dưới, có ánh sáng là có bóng tối, có sinh là có tử, có luân hồi là có giải thoát. Einstein có thuyết tương đối luận còn trong đạo Bụt thì có thuyết tương đãi luận (sahabhu).
Sử dụng những phương pháp này chúng ta sẽ không cảm thấy bối rối khi đi vào học hỏi và nghiên cứu Phật pháp.
Kinh Kalama
Kinh Kalama là một kinh rất hay, kinh này Bụt nói cho những người trẻ tuổi thuộc bộ tộc Kalama. Một hôm các thanh niên Kalama tới bao quanh Bụt và hỏi:
– Thỉnh thoảng có một vị đạo sư đi ngang qua đây. Chúng con đã mời vị đạo sư đó dừng lại để giảng cho chúng con. Vị nào cũng nói giáo lý của họ là hay nhất, đúng nhất và giáo lý của các bậc đạo sư khác là sai. Vì vậy chúng con không biết nên tin ai, Bụt dạy chúng con nên làm như thế nào?
Kinh này rất nổi tiếng, kinh đã chứng tỏ đạo Bụt có tinh thần rất khoa học. Bụt nói: Này các thanh niên Kalama, đừng vội tin một điều gì dù điều đó đã được chép trong kinh điển, đừng vội tin tưởng một điều gì dù điều đó do một bậc thầy nổi tiếng nói ra. Điều gì ta nghe thì ta hãy quán chiếu kỹ lưỡng xem nó có hợp lý hay không. Ta dùng trí tuệ của mình để thẩm định xem có đúng hay không, và ta phải đem ra áp dụng, nếu những điều đó đem tới sự an lạc, giải thoát, hạnh phúc thì ta mới tin, còn nếu không thì tại sao ta phải tin vào những điều đó? Người Tây phương gọi kinh Kalama là “the charter of free enquiry” tức là “nguyên tắc của tư tưởng tự do”. Ngày xưa các vị tổ cũng khuyên ta đừng khơi kinh ra từng chữ một để giải thích mà hãy dùng trí tuệ. Y kinh giải nghĩa tam thế Phật oan 依 經 解 義 三 世 佛 冤, có nghĩa là nếu lấy từng chữ trong kinh ra giải nghĩa thì tạo sự oan ức cho chư Bụt trong ba đời. Ta phải dùng trí tuệ mà đừng kẹt vào chữ nghĩa. Chúng ta có phương pháp “y trí bất y thức”, tức là nương vào trí tuệ mà đừng nương vào sự phân biệt. Khi học ta phải dùng trí tuệ của mình, ta có thể tư duy, quán chiếu và đem ra áp dụng thì niềm tin của ta mới là chánh tín.
Chánh kiến là trái tim của đạo Bụt
Nền tảng thực tập giáo lý đạo Bụt không dựa trên niềm tin về luân hồi, về nghiệp và quả báo. Trái tim của đạo Bụt dựa trên một cái thấy rất sáng về Bốn sự thật, cái thấy đó là chánh kiến. Cái thấy đó rất sâu, ta phải đạt được bằng thiền quán. Niệm và định càng vững chãi thì cái thấy càng sáng.
Tuệ, có khi còn được gọi là chánh kiến 正 見 (right view, la vue juste) tức là cái thấy đúng. Có cái thấy đúng thì tư duy của ta sẽ đúng, gọi là chánh tư duy 正 思 惟. Muốn có cái thấy đúng chúng ta phải thực tập chánh định và chánh niệm. Sự thực tập trong đạo Bụt bắt đầu từ chánh niệm, chánh định và từ đó phát khởi ra chánh kiến. Đạo đức học của đạo Bụt căn cứ trên cái thấy sáng và đúng.
Thân, khẩu, ý là nghiệp
Phải có cái thấy đúng thì ta mới tư duy đúng và hành động đúng. Có cái thấy (kiến) đúng thì ta có lời nói (ngữ) đúng tức chánh ngữ 正 語 , và hành động (thân) đúng tức chánh nghiệp 正 業. Thân, khẩu, ý là sự tạo nghiệp. Trong một ngày chúng ta tạo không biết bao nhiêu là nghiệp, nghiệp lành hay nghiệp dữ. Nếu phát khởi tâm niệm tha thứ, thương yêu thì ta tạo nghiệp tốt, nhưng nếu phát khởi tư tưởng giận hờn, hận thù, chán đời thì ta tạo nghiệp xấu. Mỗi ngày ta tạo nghiệp, nhưng nghiệp không có nghĩa là xấu. Nghiệp có thể tốt, có thể xấu. Mỗi ngày chúng ta nói, viết thư hay gửi e-mail, những điều chúng ta nói và viết có thể tạo ra nghiệp xấu hay nghiệp tốt và có thể làm cho ta và cho người khác khổ đau hay hạnh phúc.
Chúng ta sử dụng thân của mình để hành động. Hành động của cơ thể mình có tính cách bảo hộ, cứu độ, che chở thì đó là nghiệp tốt. Nếu hành động đó có tính cách phá hoại, giết chóc, tàn hại thì đó là nghiệp xấu. Thân, khẩu, ý là ba mặt của hành động.
Mục đích duy nhất là có được cái thấy chánh kiến
Thường thì chúng ta nghĩ rằng ta chỉ có thể làm hạnh phúc cho người khi ta có nhiều tiền, khi ta là triệu phú, vì nếu có nhiều tiền thì ta có thể ban phát cho người. Ta mơ làm vua hay làm tổng thống, vì nếu có quyền lực trong tay thì ta có thể ban ân huệ cho người. Ta nghĩ nếu có tiền bạc, quyền lực, danh vọng thì ta có thể làm hạnh phúc cho mình và cho người khác, đó là sự mê tín. Nhìn chung quanh chúng ta thấy nhiều người có tiền bạc, quyền hành, danh vọng nhưng họ rất đau khổ và không giúp được cho ai. Chúng ta cảm thấy khó thở vì ta không có hạnh phúc và không làm được hạnh phúc cho người khác.
Nhưng theo giáo lý Tứ thần túc thì khác. Trong điều kiện hiện tại của ta, dù không có một thước đất cắm dùi, dù không có trương mục hàng triệu đô la, ta vẫn có thể làm hạnh phúc được cho người khác. Ngay bây giờ và ở đây ta có thể làm phép thần thông, ta là một bà tiên với chiếc đũa thần làm hạnh phúc cho nhiều người. Khi người khác hạnh phúc thì ta cũng hạnh phúc. Ta có thể làm hạnh phúc bằng cách phát ra một tư tưởng tha thứ và thương yêu, tư tưởng có chất liệu của hiểu và thương. Ta đã từng phát khởi một tư tưởng thương yêu tha thứ để tư tưởng ấy ôm lấy người kia chưa, hay ta chỉ biết trách móc? Sở dĩ ta chỉ trách móc, hờn oán mà không thương, không đùm bọc, che chở được cho người đó là vì ta không có chánh kiến. Chánh kiến là thấy được nỗi khổ niềm đau của người đó, nếu thấy được thì tự nhiên ta hết giận. Ta muốn nói hay làm điều gì để người kia bớt khổ. Có được tư tưởng đó đã là một phép lạ, nó làm cho mình khỏe ngay. Mình có thể gọi điện thoại hay viết một lá thư trong đó tràn đầy những lời hiểu biết thương yêu. Khi nói hay viết ra những lời như vậy ta thấy rất khỏe và người đó cũng khỏe khi nghe hay đọc được những lời đó. Đó là phép lạ mà ta có thể làm được ngay bây giờ. Ta hãy làm ngay hôm nay! Ta hãy nghĩ tới người đó, người đó có bao nhiêu là bế tắc, hệ lụy, khổ đau mà lâu nay không được ai giúp. Thấy được như vậy là ta có chánh kiến.
Có cái thấy đúng thì tự nhiên có tư duy đúng. Tư duy đúng là tư duy có chất liệu của hiểu và thương. Và khi chất liệu hiểu và thương được chế tác ra là ta cảm thấy khỏe ngay. Một tư tưởng tha thứ, thương yêu, đùm bọc làm cho ta hết bệnh trong thân cũng như trong tâm. Nó là một năng lượng chữa trị mà ta được thừa hưởng trước cả người kia. Nhờ có tâm niệm thương yêu, tha thứ mà ta có thể làm những điều giúp cho người kia bớt khổ ngay trong ngày hôm nay. Chỉ cần năm phút nhìn cho sâu để thấy được nỗi khổ niềm đau của người đó thì ta đã phát khởi được một tư tưởng từ bi. Đó là một phép lạ!
Ta ngồi thở cho thật yên rồi viết một lá thư hay điện thoại nói một câu dễ thương thì tình trạng thay đổi liền lập tức. Đó là gì nếu không phải là một phép lạ? Ta không cần phải có một trăm triệu đô la trong trương mục, hay làm bộ trưởng hoặc tổng thống mới có thể làm phép lạ. Với con người phàm này, nhưng nếu có chất thánh ở trong thì ta đã có thể làm được phép lạ ngay bây giờ, có thể làm bà tiên hay ông tiên ngay trong ngày hôm nay. Ta phải thực tập bố thí và hiến tặng. Ta rất giàu nên ta phải thực tập hiến tặng (dāna), tiếng Anh là generosity. Vì trái tim của ta nhỏ bằng trái sim nên ta không thể làm hạnh phúc cho người kia. Bây giờ ta làm cho trái tim của mình lớn ra. Trước tiên là ta chấp nhận được mình. Trong chúng ta có người không tự chấp nhận được mình. Ta tự trách móc, khinh khi mình. Trái tim chúng ta nhỏ quá nên ta không tự thương được mình. Và nếu ta không thương được chính mình thì làm sao ta có thể thương được người khác? Muốn làm cho trái tim ta lớn lên thì ta phải có cái thấy, thấy những nỗi khổ niềm đau của chính mình. Thấy được thì tự nhiên thương được. Thấy được nỗi khổ niềm đau của chính mình thì mình thấy được nỗi khổ niềm đau của người kia. Vì vậy cái thấy rất quan trọng, nó có thể thay đổi tư duy của ta khiến ta nghĩ, nói và làm những điều đưa đến hạnh phúc ngay lập tức. Trái tim của ta phải có lượng lớn, gọi là tâm lượng 心 量. Trong Truyện Kiều, Kim Trọng nói: Lượng xuân dù có hẹp hòi, có nghĩa là cô hãy mở lòng ra để thương tôi. Một vị Bồ tát là một người có tâm lượng rất lớn. Trong kinh, bài chúc tán ngày mồng Một có câu ca ngợi Bụt Thích Ca:
Tâm bảo thái hư
Lượng châu sa giới
Tâm bảo thái hư có nghĩa là trái tim của Bụt ôm trọn cả thái hư. Lượng châu sa giới có nghĩa là lượng của Ngài bao trùm hết cả tam thiên đại thiên thế giới. Nếu có tâm lượng lớn thì ta sẽ có rất nhiều không gian. Tâm lượng có lớn hay không là tùy thuộc vào cái thấy của ta. Tất cả nền đạo lý Phật giáo được xây dựng dựa trên nền tảng gọi là tuệ giác (prajña) tức là cái thấy. Cái thấy đó nhờ vào sự thực tập chánh tư duy, chánh ngữ và chánh nghiệp. Thực tập như thế nào để chúng ta có hạnh phúc và có thể đem hạnh phúc cho người ngay lập tức. Ta có thể làm phép lạ ngay bây giờ và ở đây nhờ vào ba chiếc đũa thần, mà chiếc đũa thần đầu tiên là tư duy của ta. Ta có khả năng phát khởi ra một tư tưởng tha thứ và muốn giúp người, khi đó ta cảm thấy thân tâm khỏe nhẹ và sự trị liệu xảy ra liền. Tuy chưa làm gì cả nhưng người kia cũng đã bắt đầu hưởng được, vì những gì xảy ra cho ta đều có ảnh hưởng đến thế giới ngay lập tức. Ta có tư tưởng đen tối, hận thù bạo động thì thế giới sẽ tối sầm lại ngay. Nếu tư tưởng đó là từ bi, chấp nhận, thương yêu thì thế giới sẽ sáng lên lập tức.
Ta phải nhớ rằng không phải là ta không có quyền lực. Quyền lực chính trị, danh vọng hay tiền tài chưa phải là quyền lực thật sự vì chúng có thể làm cho người ta hệ lụy, khổ đau. Nhưng ta có sức mạnh của thương yêu (the power of love). Trong ta có hạt giống của hiểu biết, từ bi. Nếu biết tiếp xúc với những hạt giống đó thì tự nhiên ta có được năng lượng thương yêu. Ta không có tiền, không có địa vị, quyền hành trong xã hội nhưng ta có quyền rất lớn là quyền thương yêu. Quyền thương yêu mình và thương yêu người khác. Và điều đó có thể thực hiện được ngay ngày hôm nay. Sự thực tập hơi thở và bước chân có thể làm cho quyền thương yêu lớn lên.
Ngoài chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chúng ta có chánh mạng 正 命, tức phương tiện sinh sống chân chánh và chánh tinh tấn 正 精 進. Đó là Bát chánh đạo, tức con đường chuyển hóa khổ đau và đưa tới hạnh phúc, là cốt tủy của giáo lý đạo Bụt mà không phải là giáo lý luân hồi, nghiệp hay quả báo. Tài năng của Bụt không phải là sáng chế ra giáo lý về luân hồi, nghiệp và quả báo. Tài năng của Bụt là phát khởi ra và đưa cho chúng ta một con đường, đó là con đường Bát chánh dựa trên cái thấy Tứ diệu đế, tức Bốn sự thật. Cái thấy này là cái thấy về Tứ đế 四 諦.
Bắt đầu từ giờ phút này, quý vị – những người xuất gia cũng như tại gia – đừng nên có mặc cảm, đừng nghĩ là mình không có quyền năng (helpless). Với niệm, định chúng ta có thể có được cái thấy (tuệ), trước hết là thấy được khổ đau của mình. Hiểu được khổ đau của mình thì tình thương trào lên và ta chấp nhận được mình. Hiểu được khổ đau của mình rồi thì tự nhiên ta hiểu được khổ đau của người khác. Ta không còn buồn, giận, trách móc nữa mà chỉ muốn làm, muốn nói điều gì đó cho người kia bớt khổ. Chuyện đó có thể xảy ra ngay trong ngày hôm nay. Chúng ta đừng có mặc cảm là mình bất lực. Chúng ta có quyền lực, quyền lực của thương yêu. Khả năng của thương yêu dựa trên khả năng của hiểu biết, trước hết là hiểu khổ đau của chính mình và sau đó là hiểu khổ đau của người khác. Bắt đầu hôm nay chúng ta sẽ hành xử như một bà tiên hay một ông tiên có khả năng làm hạnh phúc cho mình và cho người khác. Chúng ta đừng chờ đợi một lực lượng bên ngoài. Trái tim của đạo Bụt là chánh kiến. Chánh kiến làm cho con người trở thành một vị Bụt, một người phàm trở thành một vị thánh. Tất cả sự thực tập trong đạo Bụt đều nhắm tới mục đích duy nhất là có được cái thấy (chánh kiến).
Chánh kiến là tuệ, là sự nghiệp của người tu
Chánh kiến (right view) là cái thấy đúng, cái thấy xác thực. Louis de la Vallée Poussin, một học giả người Bỉ, đã dịch chữ chánh kiến là “la bonne vue”, nhưng bây giờ người ta dịch chữ chánh kiến là “la vue juste”. Chánh kiến là cái thấy đúng với sự thật. Sự thật có hai tầng:
Tầng thứ nhất là sự thật ước lệ, tức thế tục đế.
Tầng thứ hai là sự thật tuyệt đối, tức thắng nghĩa đế.
Khi đức Thế Tôn dạy: “Chánh kiến là một cái thấy vượt thoát có-không” thì đó là chánh kiến thuộc thắng nghĩa đế. Câu nói “có sinh, có diệt, có có, có không, có người, có ta” cũng là một loại sự thật, nhưng là sự thật ước lệ. Chánh kiến là tuệ 慧(insight), là một cái thấy trực tiếp, là một trực giác không đi ngang qua lý luận, suy tư. Cái thấy trực tiếp là sự chứng ngộ được biểu hiện ra khi chúng ta có đủ chánh định và chánh niệm.
Tuệ là cái quan trọng nhất đối với người tu, là cái mà ta tìm cầu đêm ngày. Tuệ là sự nghiệp của người tu. Trong kinh Bát Đại Nhân Giác, tức kinh Tám điều giác ngộ của các bậc đại nhân có câu: Duy tuệ thị nghiệp 惟 慧 是 業 . Tuệ là sự nghiệp mà ta đeo đuổi trong cuộc đời, ta chỉ lấy trí tuệ để làm sự nghiệp của đời mình. Đối với người đời thì danh vọng là sự nghiệp của họ:
“Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông”
(Nguyễn Công Trứ)
Những nhà doanh thương thì chạy theo sự giàu sang, sự nghiệp của họ là một gia tài đồ sộ. Còn đối với những ông tướng thì sự nghiệp của họ là một cuộc chiến thắng vẻ vang. Sự nghiệp của người tu là tuệ, vì tuệ đem tới tự do và hạnh phúc. Trường đại học Vạn Hạnh ở Việt Nam mà tôi đã góp chút công sức tạo dựng trong những ngày đầu, đã lấy bốn chữ duy tuệ thị nghiệp làm phương châm sống và hành trì cho học tăng.
Chánh kiến đưa tới chánh tư duy
Khi có chánh kiến thì tất cả tư duy của ta là chánh tư duy 正 思 惟 (right thinking). Chánh tư duy là tư duy đưa tới tuệ, đưa tới hiểu và thương để giúp cho ta bỏ đi những kỳ thị, so sánh, lo lắng và sợ hãi. Tư duy có hai phần: tầm 尋 (vitarka) và từ 伺 (vicāra).
Tầm, tiếng Phạn là vitarka. Khi có sự tiếp xúc, ví dụ như khi mắt tiếp xúc với sắc, tai tiếp xúc với âm thanh, ý tiếp xúc với pháp, mũi tiếp xúc với mùi hương thì trong đầu ta phát sinh ra những ý niệm gọi là tưởng (notion), tiếng Phạn là samjñā. Tưởng là những hạt rất nhỏ như những hạt bụi, những hạt bụi nhỏ đó kết lại thành tư tưởng (thinking). Mắt ta xúc chạm với sắc làm phát sinh ra những cái tưởng, tai ta xúc chạm với âm thanh sinh ra những cái tưởng, hình hài ta xúc chạm với cảm xúc làm sinh ra những cái tưởng. Tưởng giống như những nguyên tử kết hợp lại với nhau làm ra vật chất.
Tầm là bắt đầu suy nghĩ, bắt đầu kết hợp những cái tưởng lại với nhau, giống như những nguyên tử bắt đầu kết hợp lại với nhau để làm ra vật chất. Vật chất có những nguyên tử rất nhỏ, còn tư duy có những cái tưởng rất nhỏ. Những cái tưởng đó phát sinh ra từ “xúc”, tức là từ sự xúc chạm giữa sáu căn với sáu trần. Những nguyên tử kết hợp lại thành chất này hay chất khác, còn những cái tưởng kết hợp lại thành tư duy, tức tầm và từ. Các nguyên tử (atom) tới với nhau làm ra những phân tử (molecule) và những phân tử kết hợp lại với nhau làm thành vật chất (cell, tissue). Những cái tưởng kết hợp lại với nhau thành những tầm (initial thinking), khi tầm đi sâu hơn nữa thì có sự phân biệt, so sánh, ước đoán gọi là từ 伺 (discursive thinking)
Tầm và từ được ví như con ong tới thăm một bông hoa. Khi con ong vừa đáp xuống bông hoa thì gọi là tầm (initial thought), nghĩa là tư duy còn đang ở giai đoạn khởi đầu, chưa có sự phân biệt, so sánh. Đến khi con ong đi khám xét bông hoa để lấy được phấn hoa thì gọi là từ. Tư duy của ta được làm bằng những hạt rất nhỏ gọi là tưởng. Những hạt tưởng tới với nhau làm thành tầm (initial thinking). Khi tầm đi sâu hơn, có so sánh, ước lượng, tưởng tượng thì gọi là từ (discursive thinking). Một bên là vật chất còn một bên là tinh thần, vật chất thì do những hạt nguyên tử rất nhỏ làm ra và tinh thần thì do những hạt tưởng rất nhỏ làm ra. Trong một giây, trong đầu của ta phát ra không biết bao nhiêu là tưởng. Tưởng do xúc và thọ làm phát sinh ra.
Xúc (sparśa), tiếng Anh là contact, là sự xúc chạm giữa sáu căn và sáu trần tạo ra những cảm thọ (vedanā). Và xúc, thọ tạo ra tưởng. Xúc cũng có thể tạo ra sự chú ý gọi là tác ý (manaskāra), tiếng Anh là attention. Ví dụ như ta đang suy nghĩ lung tung thì ta nghe có tiếng chuông, tai ta xúc chạm với tiếng chuông thì ta tập dừng lại, chấm dứt sự suy tư và chỉ tác ý tới tiếng chuông. Chú ý tới tiếng chuông, ta buông bỏ suy tư, nhiếp tâm vào hơi thở và thiết lập thân tâm trong giây phút hiện tại. Tác ý đó gọi là như lý tác ý, tức là tác ý tốt (yoniso manaskāra), tiếng Anh là appropriate attention. Lắng nghe tiếng chim hót, tiếng thông reo, nhìn thấy hoa nở hay thấy một người bạn tu đang đi có chánh niệm, đó là những như lý tác ý. Nếu chú ý tới những cái làm cho tâm ta loạn, mất tự chủ, ta giận, buồn, sợ hãi hay bị vướng mắc, thì đó là phi như lý tác ý (ayoniso manaskāra), tiếng Anh là inappropriate attention. Người tu phải thực tập như lý tác ý để đừng bị kéo theo những cái không có lợi cho sự tu học của mình.
Ban đầu có những cái tưởng do sự xúc chạm, do sự chú ý và do cảm thọ làm phát sinh. Những cái tưởng đó tới với nhau làm thành tầm và từ. Khi chúng ta đi tới một quyết định tức là tư 思 (cetanā), tiếng Anh là volition. Tư là ước muốn khiến ta phải quyết định chạy theo, quyết định chiếm đoạt hay quyết định lìa bỏ. Tác ý, thọ, tưởng đưa tới tư duy (thinking), tùy theo tư duy đó là chánh tư duy (right thinking) hay tà tư duy (wrong thinking) mà ta phản ứng khác nhau.
Ví dụ như khi ta xúc chạm với những cái không như ý mình thì ta thấy bực, ta giận, ta muốn tẩy chay cái đó, ta muốn bỏ chạy hay muốn trừng phạt, đó gọi là tư, tức quyết tâm của ta muốn phản ứng lại, muốn chạy theo, trừng phạt hay bám lấy. Nhưng nếu có niệm, định và tuệ xen vào thì ta sẽ có một thái độ khác. Người đó nói một câu hay làm một hành động không dễ thương, nhưng nếu ta thấy và hiểu được thì tự nhiên ta không còn có ý muốn bỏ đi, muốn trừng phạt hay trả thù mà ta muốn nói một câu gì, làm một điều gì đó để cho người kia bớt khổ. Tư (volition), xúc (contact), thọ (feeling), tưởng (notion, perception), tác ý (attention) là những hạt tâm lý luôn luôn có mặt trong bất cứ giờ phút nào của đời sống hằng ngày.
Vô ngã là tinh hoa của đạo Bụt
Chánh kiến đầu tiên là tuệ giác vô thường, và vô thường đưa tới vô ngã. Nếu có một cái ngã tồn tại hoài hoài, nó mãi mãi vẫn là nó thì em bé không thể lớn lên được, nhờ có vô ngã nên em bé trở thành người lớn. Không có vô thường, vô ngã thì em bé không thể trở thành một thiếu nữ xinh đẹp. Không có vô thường, vô ngã thì hạt bắp luôn luôn là hạt bắp, hạt bắp không thể trở thành cây bắp. Vô thường rất hay, nhờ vô thường mà sự sống có mặt, mà vô thường chính là vô ngã.
Ngã là tự tánh, em bé không có tự tánh nhưng đó không phải là một tin buồn, tại vì nếu có tự tánh thì em bé không thể trở thành một cô thiếu nữ hay một chàng thanh niên. Không có tự tánh là không có một cái gì thường tại bất biến, mà ngã là cái thường tại bất biến. Đã chấp nhận vô thường là một sự thật thì ta cũng phải chấp nhận vô ngã. Hiện nay khoa học đã chấp nhận vô thường nên một ngày nào đó chắc chắn khoa học sẽ chấp nhận vô ngã. Những khám phá khoa học gần đây cho ta thấy rằng vô ngã là một sự thật. Ví dụ như óc ta có hàng tỷ tế bào (neuron), nhưng không có tế bào óc nào làm chủ để ra lệnh, sai khiến. Những tế bào thông tin với nhau nên khi một tư tưởng phát sinh thì đó là thành quả của tất cả các neuron. Các nhà khoa học thần kinh nói rằng bộ óc của con người giống như một dàn nhạc, trong đó mỗi nhạc sĩ đều đang sử dụng một nhạc khí mà không có nhạc trưởng. Cơ thể của ta được làm ra bởi biết bao nhiêu tế bào mà không có tế bào nào tự xưng là ông chủ. Các khám phá khoa học đã chứng minh và xác nhận vô thường, vô ngã là một sự thật. Nhưng vấn đề là ta có áp dụng được tuệ giác vô thường, vô ngã đó vào trong đời sống hằng ngày để ta bớt khổ hay không? Thực tại là vô thường, vô ngã mà ta cứ nghĩ là thường, là ngã cho nên ta khổ. Mưa đã là rơi, sự có mặt của mưa là rơi.
Gió đã là thổi, sự có mặt của gió là thổi. Sự có mặt của cái bàn là công dụng của cái bàn. Chúng ta đã học trong 44 bài kệ thắng nghĩa rằng: Các pháp không tác dụng, sự có mặt của các pháp chính là công dụng của nó.
Triết học Trung Quốc nói: Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử. Chủ từ và động từ là một. Vua phải đích thực làm vua, dân phải đích thực làm dân. Cha mà không làm cha thì không phải là cha, con phải đích thực làm con. Quân quân là vua làm vua, thần thần là dân làm dân, phụ phụ là cha làm cha, tử tử là con làm con. Sự có mặt của ta chính là hành động của ta. Mỗi một danh từ đều là động từ, vì vậy ta không cần phải có một chủ từ nằm ngoài động từ, không cần có một tác giả nằm ngoài tác nghiệp.
Chúng ta nghĩ rằng phải có một cái ngã thì mới thoát khỏi luân hồi và đi vào Niết bàn. Không có ngã thì ai thoát khỏi luân hồi, ai vào Niết bàn? Không có ngã thì ai thấy, ai nghe, ai tu, ai tạo nghiệp và ai tiếp nhận quả báo? Không có ngã thì ai thấy, ai hiểu được Phật pháp? Trong kinh Bụt dạy:
Nếu một người, trong khi tiếp xúc mà không bị kẹt vào xúc, không đứng trong cái kẹt đó và thấy không cần có một cái ngã thì người đó thấy được sự thật, tức là người đó thấy pháp và hiểu pháp. Khi những điều kiện có đủ thì tự nhiên sự vật biểu hiện và khi những điều kiện không đủ nữa thì hiện tượng đó không còn biểu hiện mà không cần vai trò của một cái ngã. Khi những điều kiện có đủ để cái khổ phát sinh thì khổ phát sinh, khi những điều kiện có đủ để cái khổ tiêu diệt thì cái khổ tiêu diệt, không có chủ thể nào đứng ra chủ trương làm cho cái khổ phát sinh hay tiêu diệt. Đó là câu khó nhất trong kinh Trung Đạo Nhân Duyên: Người đời vì bị kẹt vào trong các cảnh giới của nhận thức cho nên tâm họ bị ràng buộc. Nếu một người không tiếp nhận, không nắm bắt và không đứng trong cái kẹt ấy, không kế độ và chấp vào một cái ngã thì người ấy sẽ thấy khi điều kiện có đủ để cái khổ sinh thì cái khổ sinh và khi có đủ điều kiện để cái khổ diệt thì cái khổ tiêu diệt. Trong đó không cần phải có một cái ngã và không cần phải có những ý niệm có và không, những ý niệm có và không không thể áp đặt vào được.
Không cần phải có một chủ thể, khi điều kiện có đủ thì sự vật biểu hiện và khi điều kiện không còn đủ thì sự vật hết biểu hiện. Sự giải thoát cũng như thế. Người ta cứ nghĩ rằng có một cái ngã đi luân hồi, đi vào thân xác này rồi đi ra khỏi thân xác này để đi vào một thân xác khác và đi vòng vòng như vậy. Đó là quan niệm về luân hồi của Bà la môn giáo, của Áo Nghĩa Thư. Đạo Bụt không công nhận quan niệm đó, nhưng trong đạo Bụt có người chưa thấy được vô ngã nên tin vào luân hồi mang màu sắc của Bà la môn giáo hơn là Phật giáo. Vì chưa học đủ, chưa được khai thị nên ý niệm về luân hồi, về nghiệp, về quả báo của chúng ta vẫn còn mang nặng chất liệu của Bà la môn giáo. Bà la môn giáo tin vào một cái ngã.
Tuy đạo Bụt có tiếp thu giáo lý về nghiệp, về luân hồi và về quả báo nhưng giáo lý và sự hành trì của đạo Bụt về nghiệp, về luân hồi và về quả báo rất khác với Bà la môn giáo. Chúng ta phải hiểu luân hồi, nghiệp và quả báo dưới ánh sáng của vô ngã: “Có sự liên tục, có nghiệp, có luân hồi, có quả báo nhưng không cần có một cái ngã”. Nước có thể luân hồi thành nước đá, nước đá có thể luân hồi thành mây, mây có thể luân hồi thành dòng sông, có một sự liên tục với nhau nhưng không cần có một cái ngã, một cái ta bất di bất dịch đi luân hồi. Câu “gieo bắp thì được bắp, gieo đậu thì được đậu” rất đúng nhưng không cần phải có một cái ngã. Đạo Bụt chủ trương: Khi các điều kiện đầy đủ thì hạt bắp trở thành cây bắp và trái bắp mà không cần phải có một cái ngã trong đó.
Bài kệ thắng nghĩa đầu tiên chúng ta đã học năm ngoái có câu:
Không hề có chủ nhân
Không kẻ làm người chịu
Các pháp không tác dụng
Dù chuyển dụng chẳng không
Không có người gây ra nghiệp, không có người thọ nghiệp nhưng nghiệp vẫn có. Khi điều kiện đủ thì tự nhiên có nghiệp, khi điều kiện hết thì nghiệp cũng không còn mà không cần phải có một cái ngã trong đó. Vô ngã là tinh hoa của đạo Bụt. Trong cộng đồng của đạo Bụt có biết bao nhiêu người, nhưng người hiểu đúng pháp và chứng ngộ thì rất ít. Phần lớn đều là những tín hữu và cái hiểu của họ còn vướng mắc vào ý niệm ngã rất nhiều. Tuy vậy,chúng ta phải để cho họ đi từ từ. Muốn hiểu được Bụt ta phải thấy được vô ngã. Có những người tự xưng là Bụt nhưng chất Bụt của họ còn ít mà chất Bà la môn thì nhiều. Tu tập từ từ thì càng ngày chất Bụt càng nhiều và niềm tin vào ngã, vào thần ngã và sự mê tín càng bớt đi.
Chúng ta có những phương pháp học hỏi được chư tổ trao truyền lại. Ở Tây phương có nhiều học giả giỏi tiếng Phạn, tiếng Pāli, chữ Hán, chữ Tây Tạng, v.v… Họ đã nghiên cứu và dịch rất nhiều kinh điển, nhưng họ vẫn có thể hiểu lầm Bụt. Sau ba mươi, bốn mươi, năm mươi năm nghiên cứu về Phật giáo người ta vẫn có thể hiểu lầm Bụt vì chúng ta không vượt thoát được cách suy nghĩ của mình. Chúng ta nhìn theo cách nhìn của mình mà không thấy được sự thật.
Đạo đức học Phật giáo là làm sao để giúp cho con người bớt khổ, có được niềm vui, căn cứ trên niệm, định và tuệ mà không hẳn căn cứ trên niềm tin về luân hồi, nghiệp và quả báo. Những ý niệm về luân hồi, nghiệp và quả báo đã có sẵn trước khi Phật giáo ra đời. Bụt cũng chấp nhận những ý niệm đó nhưng Ngài không để nguyên mà đã sửa lại rất hay. Ý niệm về luân hồi, nghiệp và quả báo của Áo Nghĩa Thư và Phạm Thư trở thành một dụng cụ rất hay ở trong tay của Bụt. Niệm, định và tuệ mới là yếu tố đặc biệt của Phật pháp, nó có thể mở ra tất cả các cánh cửa của hạnh phúc và chuyển hóa được tất cả khổ đau của con người. Niệm, định và tuệ có công năng giải phóng con người, kéo con người ra khỏi ngục tù của khổ đau.