Chương trình Hiểu và Thương

 

Những hạt mầm đầu tiên

Hạt giống tích cực bắt đầu từ tánh thương, lo cho người bần cùng của bên nội: ông Cao tổ Cao Thắng, ông Tằng tổ Cao Thâm, ông cố Cao Văn hay ông nội Cao Thái Ri. Họ không chịu làm giàu tiền của mà chỉ cần giàu phước đức, thương nước, thương dân. Hạt giống tích cực trong tôi cũng bắt đầu từ ông ngoại. Đến mùa lạnh, ông ngoại phát chiếu cho những người nằm co ro giữa chợ Bến Tre. Cậu Bảy thì lấy tiền của ông ngoại phát cơm cho tù nhân mỗi ba tháng một lần.

Hạt giống cũng bắt đầu từ những tánh yếu của gia đình để trồng nên cây hiểu và thương. Tánh yếu là hằng tuần, cứ vài ba tối cả gia đình tôi lái ba chiếc ô tô đưa nhau đi vào thành phố để ăn cơm chiều chung do ba tôi đãi. Có những trẻ nhỏ đứng xớ rớ xin đánh giày để kiếm vài ba đồng tiền lẻ về cho gia đình. Cô bé 14 tuổi họ Cao mới năm thứ hai trung học mà đã thấy như có cái gì bất công. Trong khi mình ăn thỏa thuê thì các em bé kia chỉ cầu mong được đánh giày cho mình để có tiền đem về cho mẹ. Rồi bé Chín lấy cớ bận học để không đi ăn uống. Xin ở nhà, bé đi dạy kèm trẻ chiều hay tối cho các con nhà giàu để có tiền công… Bé Chín đã bắt đầu có chương trình riêng, không cho ai biết.

Niềm vui đầu tiên: bé Chín để dành mỗi tháng tiền túi ba cho được 50 đồng, đi một mình tới đường Nguyễn Tri Phương mời các em đánh giày vào bàn ăn một đĩa mì xào. Cho mỗi em tự chọn, chị Chín trả tiền. Ôi thiên đàng tuổi thơ của các bé đánh giày!

Cô Chín đề nghị xin đến thăm nhà các em ở xóm Mả Lạng nghèo nhất Sài Gòn. Mỗi gia đình một mẹ, hai hay ba con sống trên một cái mả của người Pháp bỏ hoang. Cô Chín đi làm giấy khai sinh cho các em và đề nghị các gia đình cho con nhỏ đến trường. Rồi cô Chín đi gom gạo từ những gia đình quen, những nhà hàng xóm khá giả. Mỗi nhà chỉ cần xin một nắm gạo. Khi chị bếp đong hai lon gạo, cô Chín xin lại một nắm gạo trong số hai lon để cho người thiếu ăn. Cô Chín giống như một con chim đói đi mổ những hạt gạo rơi rớt. Tuy mỗi bữa cơm là một nhúm gạo nhỏ nhưng mỗi ngày hai lần gom lại thì mỗi tuần mỗi nhà cũng được một chén gạo để mỗi tháng có 15 ký gạo giúp cho mỗi bé được bỏ nghề xin ăn hay đánh giày để được đi học. Còn ai bệnh thì cô Chín đưa đi khám.

 

 

Mẹ các em không có vốn làm ăn. Cô Chín dùng tiền túi của mình và tiền xin được từ người thân (mỗi người một đồng bạc mỗi tháng) đi chợ đầu mối mua gánh gióng, đũa, chén, nồi, dĩa, tô, đũa, muỗng,… cho các mẹ bán cháo đậu nước dừa, hay bánh bèo, bánh canh, bánh cuốn chả lụa, cà rem cây, xôi lá dứa… Nhờ xin ít nên ai cũng ham làm phước, ham cho, nên cô Chín được nhiều. Mỗi tháng cô Chín cũng xin được vài chục gia đình, rủng rẻng cả trăm đồng giúp các gia đình khó khăn làm vốn. Mỗi gia đình như vậy có thể tự bán buôn nho nhỏ, tự túc lo kinh tế cho gia đình. Để cho các mẹ yên tâm bán buôn, cô Chín còn đề nghị cách “giữ con vần công”. Bà A giữ trẻ cho các bà B,C,D… đi buôn bán và hôm sau đến lượt bà B, rồi bà C…

Ngày gặp Thầy

Tôi thích giúp người nghèo, thích đi đến các xóm nghèo giúp trẻ em đừng ăn cắp, móc túi. Thầy Thanh Từ dạy tôi rằng làm chuyện từ thiện như thế sẽ có phước đức về tài chánh, kiếp sau được sinh làm con gái nhà giàu, hay công chúa. Ni sư Vĩnh Bửu nói phụ nữ cần tái sinh thành người nam mới thành Phật được. Tôi nghi là Phật không tuyên bố như thế.

Bài giảng đầu tiên tôi nghe từ thầy Nhất Hạnh vào ngày 15 tháng 11 năm 1961. Bài giảng xoáy tận tâm can tôi. Đúng là thứ đạo Bụt tôi chờ đợi. Ước muốn đi tu và làm nhiều thứ giúp dân nghèo sống dậy mãnh liệt trong tôi. Tôi xin Thầy đỡ đầu chúng tôi nếu tôi lập ni viện mới, theo lối không cần phải chờ kiếp sau sinh ra làm đàn ông mới giúp người nghèo khổ, không cần kiếp sau sinh ra trong các gia đình giàu sang mới thành Phật để giúp vô số người. Thầy nói nếu tôi hứa giúp các chị em làm ni viện tu kiểu đó thì Thầy hứa sẽ làm Thầy xuất gia cho chúng tôi.

Thầy đi Hoa Kỳ năm 1961, tôi vẫn tiếp tục chương trình giúp người nghèo với gần 70 người tham dự, như các em Cao Ngọc Thanh, Nguyễn Thị Trà Mi, Công tằng Tôn Nữ Phùng Thăng, Nguyễn Thị Đoan Trang, Phạm Văn Minh,…

Tháng 4 năm 1963, tranh đấu nhân quyền và tự do tôn giáo, tăng ni khoác y vàng, biểu tình, phát tài liệu. Tôi vẫn phải đi giảng tại các phòng thí nghiệm, làm nghiên cứu luận án Rong nước ngọt với giáo sư Phạm Hoàng Hộ và tiếp tục chăm sóc cho các gia đình nghèo trong xóm Mả Lạng, tôi đâu thể bỏ được. Tháng sáu, Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu. Ngày 22 tháng 8, nhiều tăng ni bị bỏ tù. Tôi đòi xé luận án Rong nước ngọt để đi tự thiêu. Giáo sư Phạm Hoàng Hộ hứa làm nhanh giấy tờ cho tôi đi Pháp trình luận án Đệ tam cấp, không nên tự thiêu. Tôi thì đồng ý đi Pháp với ý định: sang bên ấy, mặc áo dài truyền thống Việt Nam rồi sẽ cạo đầu, dâng bộ tóc dài cho ông Ngô Đình Diệm, xin ông thả tăng ni, tôn trọng tự do tôn giáo. Tháng mười năm 1963, tôi đi Pháp, chuẩn bị họp báo ngày 3 tháng 11, cạo mái tóc tặng ông Ngô. Nhưng mới ngày 1 tháng 11, hai anh em ông bị ám sát và chính quyền sụp đổ. Tôi ở Pháp bảy tháng, được trình luận án tiến sĩ đệ tam cấp tại Đại học Jussieu Paris ngày 12 tháng 6 năm 1964.

Trình xong luận án, ngày 13 tháng 6 tôi về Việt Nam làm làng giúp dân nghèo ở làng Cầu Kinh, Thảo Điền. Tháng 11 năm 1964, trận lụt kinh hoàng Giáp Thìn, tôi đi cứu trợ sông Thu Bồn với Thầy và sinh viên Đại học Vạn Hạnh. Lúc đó, tôi là Phó trưởng Ban cứu trợ. Mới hai tháng sau khi đi Huế dạy sinh vật học thay ông Phạm Hoàng Hộ, tôi lấy cớ đi dạy cho Viện đại học Huế để có thể có sự vụ lệnh của Bộ giáo dục mời đi Huế bằng máy bay không tốn tiền, ra Huế dạy 10 ngày. Mười ngày đó tôi đi cứu trợ những vùng hiểm nạn rồi mới về Sài Gòn. Các sinh viên cùng đi với tôi có em đang học Văn khoa, có em Phan Đạm Hiệp, đang học luật và sư chú Nhất Trí, một người chẳng biết sợ là gì. Chuyến đầu có Thầy cùng đi làm người hướng dẫn và nhiều vị xuất sĩ địa phương như Thượng tọa Như Vạn, Như Huệ hỗ trợ. Các chuyến sau, chú Nhất Trí nói: nơi nào đói nhất thì ta cứ treo cờ Phật giáo lên mà đi giữa hai bên kình chống nhau bằng súng đạn. Tôi niệm Bồ tát Quan Thế Âm, không biết sợ, xin ngài cho chúng con mượn hai cánh tay của ngài để chở gạo, muối, thuốc men cho đồng bào. Các em ơi, đi nguy hiểm như vầy thì mình không thể nào tránh đạn được, có Bồ tát cho mượn hai cánh tay thì đạn phải tránh mình thôi.

 

 

Năm 1966, tôi đi tu, không phải với hình tướng cạo đầu. Cao Ngọc Phượng thọ Mười bốn giới Tiếp hiện xuất sĩ nhưng vẫn mặc áo dài trắng. Cùng với Phan Thị Mai (Nhất Chi Mai), chị Phạm Thúy Uyên, làm một trong mười người của ban lãnh đạo trường đào tạo cán bộ Thanh niên Phụng sự xã hội từ năm 1966. Làm phụ tá cho Thầy nên chuyện làm xã hội của chúng tôi được Thầy viết trong nhiều cuốn sách cổ xúy như Đạo Phật đi vào cuộc đời, Đạo Phật hiện đại hóa và nhiều bài thơ chống chiến tranh. Làm việc giúp đời mà có thơ nhạc, có sách tu học nên phong trào đem nhiều hứng khởi cho tuổi trẻ. Song song với phong trào Đạo Phật đi vào cuộc đời, Thầy khuyến khích nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ phổ nhạc từ đoản văn Bông hồng cài áo và nghệ sĩ Thanh Nga thực hiện luôn vở cải lương Bông hồng cài áo. Đài phát thanh Sài Gòn hay đọc những truyện ngắn của Thầy như Cửa tùng đôi cánh gài và rằm tháng Bảy năm nào cũng đọc Bông hồng cài áo. Những hoạt động xã hội của chúng tôi còn được khuyến khích bởi nhạc sĩ Phạm Duy khi ông viết 10 bài Tâm ca, trong đó có câu “Kẻ thù ta đâu có phải là người, giết người đi thì ta ở với ai?” Trường TNPSXH làm việc theo tinh thần tu học, chia sẻ, xây dựng và phát triển với niềm vui; như các vị Bồ tát chứ không như các La hán khổ hạnh lưu truyền trong nhân gian.

Những lời khuyến khích của Thầy

Tôi đọc được trong hồi ký của Thầy về cảm nghĩ của Thầy sau khi đọc mấy trang thư tôi viết cho Thầy lần đầu tiên năm 1960: “Đọc năm trang thư của cô Chín tôi thấy lòng tràn đầy biết ơn. Tôi biết ơn những người trẻ này đã biết đem đạo Bụt đi vào thực tế giúp đời.” Thầy đã hứa với tôi là sẽ lập một hệ thống Phụng sự Xã hội có bài bản hơn là xóm nghèo Mả Lạng. Thầy lỡ nhận học bổng đi Hoa Kỳ nghiên cứu và tìm những đặc thù của các tôn giáo thế giới, Thầy đi một năm thôi, năm 1961-1962. Sau đó vì nhận được tin 8 em Gia đình Phật tử Huế bị xe tăng của anh em ông Ngô Đình Diệm cán chết trước đài phát thanh, Thầy đã ở lại Hoa Kỳ thêm một thời gian để phụ quý thầy trong Ủy ban Liên phái Phật giáo chống kỳ thị tôn giáo rồi sẽ về giúp chúng tôi.

Ngày 21 tháng 1 năm 1964, Thầy về nước và cùng các bạn trẻ từng làm việc ở xóm Mả Lạng với tôi ngày xưa bắt đầu lập làng tình thương Hoa Tiêu để làm thử chương trình. Từ tháng 1 năm 1964 cho đến ngày 15 tháng 9 năm 1965 là thành lập phong trào TNPSXH, kéo dài đến năm 1975 đã có hơn 9000 tình nguyện viên.

Từ trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội tới chương trình Hiểu và Thương

Bắt đầu có 70 sinh viên Phật tử cùng góp tay trong chương trình phụng sự lý tưởng này. Chúng tôi – nhóm sinh viên Phật tử theo thầy Nhất Hạnh – thương nhau như anh em ruột. Huỳnh Bá Huệ Dương là anh Cả, chị Phượng là chị Hai, chị Ba là Thu Thảo sau này là vợ anh Huệ Dương, cô Tư là chị Cao Ngọc Thanh, cô năm là Phạm Thúy Uyên, Trương Thị Nhiên là chị Sáu. Tụi này làm việc rất lặng lẽ. Có lần Thu Thảo bị bắt, chị đã lãnh hết trách nhiệm là do mình thiết kế quay roneo những tài liệu về cuộc tranh đấu, dân tra khảo tù của ông Ngô Đình Diệm đã tra đánh chị rất dã man. Chị Ba là người có tấm lòng chung thủy và đức hy sinh.

Trường TNPSXH bị khủng bố nhưng vẫn giữ vững lập trường kẻ thù ta không phải là người. Từ từ số người ủng hộ chương trình càng đông. Tác viên và trợ tác viên tăng dần. Tới cuối chiến tranh đã có gần chín, mười ngàn thành viên. Trong đó có tiểu thương Phật tử, Gia đình Phật tử, các khuôn hội Phật học địa phương. Những vị thường xuyên giúp đỡ kẻ bần hàn mà mình luôn gửi tiền đều đặn: quý Sư bà Cát Tường, Trí Hải, quý Ni sư Như Minh, Minh Tánh, Minh Tú, thầy Hải Ấn, Lê Văn Đính, hay Phan Thị Thuần giúp đem gạo, xì dầu cho nhiều gia đình kinh tế mới. Bên nước Pháp, đệ tử Thầy là Pierre Marchand giúp các nước nghèo như Băng-la-đét, Thái Lan. Thầy Nhất Hạnh dạy chuyện cứu trợ cũng là chuyện tu, đem giới luật, chánh niệm vào trong từng hành động.

Chương trình Hiểu và Thương đã bắt đầu với anh Nghiệm (Chân Giác Hạnh), chị Xuân (Chân Tuệ Từ), cô Chín (Chân Không), chú Phước (thầy Pháp Lộ), chị Diệu Phước Tâm, chị Phụng,…

Năm 1998, tôi liên lạc được với anh Phạm Viết Nghiệm – người được thầy Thanh Văn giao làm Ban quản trị cho trường TNPSXH nhiều năm trước 1975 và chị Nguyễn Thị Xuân – người rất thích tu tập theo pháp môn của Thầy hướng dẫn, vợ anh Nghiệm để đề nghị họ giúp làm chương trình Hiểu và Thương. Hai anh chị rất nghiêm túc và đạo đức, cố ý cho vào chương trình những người bạn cũ của nhóm TNPSXH.

Bắt đầu làm với các bạn cũ, tôi đã thuật những tánh xuất sắc, tài ba của từng người và những tánh còn chưa hay của họ để anh Nghiệm biết mà tùy người giao việc. Không giao tài chánh cho những người dù nhiều sáng kiến phụng sự nhưng xài tiền không phân minh. Tôi cũng đề nghị anh Nghiệm tổ chức để anh em từng tỉnh, từng vùng tự bầu nhau, ai có phẩm chất đạo đức được toàn thể công nhận thì lên làm trưởng nhóm. Anh Nghiệm nhận lại hết những người bạn cũ vào làm trong chương trình Hiểu và Thương và nhờ theo dõi các chương trình xây cầu, nhà tình thương, nhà giữ trẻ, và tùy điểm mạnh của từng người mà giao việc.

Chúng tôi bắt đầu thuyết phục các nhà nghèo đi hái trà, cà phê mỗi ngày được 10 ngàn. Các cô có con nhỏ, thay vì gùi con trên lưng đi hái trà thì mình khuyên ở nhà coi con của cô và con của những người khác nữa để họ có thể đi làm. Như vậy, mình trả lương cho hai cô. Mỗi cô 200 ngàn mỗi tháng. Một cô dạy hát, dạy học, còn một cô giúp phần nấu ăn trưa, tắm rửa cho các bé. Tác viên mướn thợ xây cái nền nhà cô bảo mẫu bằng phẳng, tráng xi măng cái sân, làm rào để bé không té hay không chạy ra ngoài. Vậy là mình có một lớp học dã chiến.

Mỗi sáu tháng mình ghi tên cho các cô bảo mẫu tham dự lớp tu nghiệp chăm trẻ mẫu giáo. Sau này, các cô có thể có bằng để được tuyển vào làm nhân viên nhà nước, có lương của Bộ giáo dục. Các cô có thể được nhà nước cho vô ngạch, trả lương và mình chỉ cần trả phụ phí. Nhưng nhiều cô giáo ưa đi tu với Thầy hơn là làm cô giáo.

Mình cũng lo bữa cơm trưa cho các cháu. Cha mẹ chỉ có thể cho con đi học một củ khoai hay thỉnh thoảng cho lớp một trái bầu, trái bí,… Nên mình phải tổ chức nuôi ăn cho trẻ. Mỗi tuần, anh Nghiệm và các anh chị trong chương trình Hiểu và Thương đi thăm các lớp mẫu giáo, đem phụ phí lương cho các cô bảo mẫu và xem cần phải trả tiền các bữa ăn là bao nhiêu. Rồi giao số tiền mặt cần chi hàng tuần đó cho một Ban điều hành. Ban điều hành, gồm có ông tổ trưởng hay thôn trưởng, một anh chị gia đình theo đạo Phật mà mình tin tưởng có đạo đức, một đại diện của cha mẹ các cháu để chắc chắn là không ăn bớt tiền cơm của các cháu.

Chương trình Hiểu và Thương cũng tổ chức đi cứu trợ lũ lụt miền Trung nhưng mình không chủ trương căng băng rôn. Thầy nói rõ: giúp người khổ là giúp họ bớt khổ, không có nhãn hiệu. Hiểu và Thương là nhiều nhất rồi.

Năm 1997: chương trình có 12 nhà trẻ, 26 cô bảo mẫu, 780 trẻ, trao 160 học bổng cho học sinh cấp một, 78 bô lão khuyết tật, cô đơn.

Năm 1998 – 2004: Tại tỉnh Bảo Lộc, nhóm Sài Gòn cũng chăm sóc cho 30 nhà trẻ, 70 cô bảo mẫu, 1100 trẻ, học bổng cho 160 học sinh, 40 bô lão cô đơn, khuyết tật.

Tỉnh Đồng Nai: 10 nhà trẻ, 3 cô bảo mẫu, 260 trẻ, học bổng cho 180 học sinh, sinh viên; 350 người già khuyết tật.

Những năm qua, chương trình đã xây 430 cây cầu (chừng 8 đến 15 chiếc cầu mỗi năm), trong đó có một cây cầu lớn nhất là Cầu Suối dài 18m, cao 17m, rộng 3.5m.

Chương trình giúp đào 530 giếng ở những vùng rất khô. Giúp cho 1600 gia đình. Ở Pháp, tôi xin mỗi gia đình về Làng tu học từ 350 đến 450 euro để đào một cái giếng thật sâu.

Hôm đó anh Chân Giác Lưu được anh Chân Giác Hạnh chở xe gắn máy đi thăm vườn dưa của nông dân, có hai gia đình chạy tới ôm anh Chân Giác Lưu: “Cám ơn quý vị quá, ba đời chúng tôi ở trên đất này đều nghèo, có khi không có gạo ăn vì năm đó trời khô hạn hán vắng mưa quá. Ông cố tôi thiếu điều đi di cư nơi khác. Đến đời ba tôi, anh em tôi sống sót nhưng nói chi đến trường học? Đời tôi bỗng nhiên đổi thay từ cái ngày mà quý vị cho chúng tôi cái giếng sâu có nước tràn trề ba bốn mùa. Trồng xà lách mùa xuân, dưa gang, đậu que, đậu Hà Lan bán mùa hè, mùa thu trồng cải bẹ to làm dưa, trồng dưa hấu ăn Tết bán Tết. Làm sao chúng tôi đào nổi? Tôi có tiền cho các con học tiểu học, trung học, đi Sài Gòn học đại học. Ơn nghĩa biết chừng nào tôi đáp được!”

 

 

 

Chương Trình Máu Chảy Ruột Mềm

Những năm đầu sau 1975, ở Việt nam có trại tập trung cải tạo hơn 300.000 tù nhân sĩ quan và cán bộ của chế độ thân Hoa Kỳ. Hàng trăm hàng ngàn người Việt bỏ nước trốn đi bằng thuyền. Tháng 12 năm 1976, Thầy được World Conference on Religions and Peace (viết tắt WCRP)- Hội nghị thế giới về Tôn giáo và Hòa bình – mời họp tại Singapore vì Thầy là Phó chủ tịch. Ngày đầu tiên của đại hội, đài Agence France Presse (AFP – Thông tấn xã Pháp) chỉ nhận được một bài thơ ngắn nhờ AFP gửi cho nhân loại toàn cầu nói về thuyền nhân chết trên biển. AFP tưởng tác giả là Giáo sư Isaka và đã phổ biến bài thơ như tiếng nói của đại hội này.

Lời Nguyện Cầu Tìm Đất Sống

Lênh đênh ngoài sóng gió
Thuyền nhỏ giữa đại đương
Quyết tâm tìm đất sống
Đói lạnh bao ngày đường
Chúng tôi là bọt biển
Trôi dạt giữa mênh mông
Chúng tôi là hạt bụi
Trong không gian vô cùng
Tiếng chúng tôi lạc mất,
Trong gió rít từng không
Trên thuyền không nước uống
Trên thuyền hết thức ăn
Con chúng tôi kiệt sức
Khóc rã và lịm dần
Chúng tôi khao khát đất
Nhưng chẳng được tới gần
Mặc sức mà kêu cứu
Tàu bè vẫn dửng dưng
Bao nhiêu thuyền đã lật
Vì sóng gió bất thần
Bao nhiêu là mạng sống
Đã chìm lòng đại dương
Chúa Kitô có nghe
Lời nguyện cầu rướm máu?
Phật Quan Âm có nghe
Lời kêu cứu không ngừng
Loài người ơi có nghe
Tiếng gọi từ hố thẳm
Đất liền ơi có biết
Tâm sự này hay không
Xin loài người có mặt
Xin đất liền giang tay
Cho chúng tôi tìm thấy
Hy vọng trên đất này.

 

 

Thầy được tin là hễ thuyền nhân nào cập bến Singapore, Thái Lan hay Mã Lai đều bị đẩy ra biển không thương xót. Vì các nước này không giàu có gì nên không thể nuôi nổi tất cả hàng trăm ngàn người vượt biên mong được tị nạn. Hễ tàu đánh cá nào vớt thuyền nhân cũng sẽ bị phạt, bị phạt xong vẫn phải đẩy những thuyền nhân ra biển lại và trôi dạt đi đâu tùy họ. Quá thương xót trước tình trạng đó, Thầy nói: tôi mong WCRP mướn chiếc tàu lớn vớt vài trăm thuyền nhân…

Thầy được cả 482 đại diện của WCRP đề cử làm Giám đốc cho chương trình này. Thầy đặt tên cho chương trình là Máu chảy ruột mềm. Thầy xin WCRP mời tôi từ Pháp qua để cùng làm việc vì tôi giỏi xử lý những trường hợp cứu trợ cấp bách. Hội đồng WCRP mời tôi qua Singapore làm Phó chủ tịch trong Dự án giải cứu thuyền nhân (Project Rescue Boat People), WCRP mời ông Willie Tay người Singapore làm thủ quỹ.

Chỉ trong vòng hai tuần, tôi đã lạc quyên được 223.000 đô Hoa Kỳ và các hội đoàn còn hứa sẽ gửi tiếp. Thầy cho mướn ba chiếc tàu dầu nhỏ để vớt tạm vài trăm người trước rồi từ từ chờ mua tàu lớn. Chương trình đang tiến triển thì Thầy bị lệnh trục xuất ra khỏi Singapore với lý do Thầy không có giấy thông hành hợp lệ. Cảnh sát Singapore xem hộ chiếu của từng người và chỉ lấy giấy tờ của Thầy vì giấy tờ “Không tổ quốc” của Thầy. Họ ra lệnh ngày mai hay trễ lắm ngày kia, Thầy phải ra phi trường lên phi cơ về luôn nước Pháp là nơi Thầy tị nạn.

Khi đoàn cảnh sát Singapore rời văn phòng của phái đoàn. Thầy ngồi thiền, chúng tôi đều ngồi theo. Ngồi một giờ Thầy đứng dậy thiền hành, rồi lại ngồi 45 phút, rồi lại đi 45 phút, từ 2 giờ khuya đến 6 giờ sáng. Thầy tìm ra giải pháp, dạy mọi người bình tĩnh ở nhà. Thầy và tôi đi gặp Đại sứ Pháp tại Singapore: Đại sứ Jacques Gasseau. Sau khi thầy trò giải thích xong mọi sự, đại sứ Pháp hiền hậu, hiểu và rất cảm thông. Ông tự tay ngồi đánh máy một văn thư ngắn gọn cho Bộ nội vụ chính quyền Singapore, nói rằng nước Pháp rất quý trọng ông thầy tu này, quý vị đuổi ông này giống như đuổi cán bộ quan trọng của nước Pháp trên vai trò cứu giúp thuyền nhân. Nếu quý vị nói chương trình bị Singapore cấm thì chúng tôi đi nước khác nhưng phải cho ông thầy tu này ba tuần để thu xếp mọi sự.

Hôm sau Thầy ra sở di trú. Nội các chính phủ Singapore phải hội họp về bức thư Đại sứ Pháp gửi và cuối cùng chính phủ Singapore nhượng bộ cho Thầy ở thêm hai tuần để thu xếp. Sau đó, tôi cũng bị tịch thu hộ chiếu và yêu cầu bay về lại Pháp vì đã hết nhiệm vụ ở đây.

503 thuyền nhân ở Singapore lênh đênh trên hai chiếc tàu dầu Leapdal chẳng được cập bến. Cứ lâu lâu lại có phái đoàn nhân đạo chấp nhận vào nước của họ năm bảy người. Chương trình bị hỏng, tôi rất đau buồn. Tôi bay đi Úc, họp báo và xuất hiện trên nhiều nhật báo lớn kêu gọi chính phủ Đức mở cửa đón thuyền nhân. Úc và New Zealand sau đó đón khá nhiều thuyền nhân. Khi về tới Paris, tôi sống như một người mộng du, tự hỏi: “Tại sao cũng là con người với nhau nhưng tôi được đi thong dong trong thành phố Paris như bây giờ mà những thuyền nhân lại khổ sở như thế kia? Thua nhau chỉ một tờ giấy nhỏ nói anh chị là người Pháp, thế là anh chị tự do. Không có miếng giấy nhỏ đó thì sinh mạng bọt bèo”. Những lúc tuyệt vọng, tôi muốn nhắm mắt ngủ luôn. Nhưng may mắn là còn Thầy. Thầy luôn động viên cho các đệ tử lên tinh thần. Thầy nói, nhiều đêm Thầy cứ chiêm bao đang ngủ trong nhà thờ họ Nguyễn Đình của Thầy. Sáng dậy, Thầy tự nhiên thấy nhẹ hơn nhiều lắm. Thầy thấy mình chỉ là một khoen nhỏ của dòng họ tổ tiên hai ngàn năm rồi. Mình làm việc với tâm từ bi tối đa của mình, nhưng dòng sinh mệnh của tổ tiên mình dài và nặng lắm. Mình chỉ có thể cố gắng làm cho hay hơn.

 

 

Quỹ Từ Thị (Maitreya Fonds)

Quỹ Từ Thị được thành lập cùng với anh Karl Schmied và chị Thục Quyên.

Khi mới gặp, anh Karl bảo chưa bao giờ anh được nghe ai giảng dạy đạo Bụt quá sâu sắc, đúng giáo lý mà dễ thương như thế. Anh rất giỏi về giáo lý của đạo Bụt, thuộc làu kinh Duy Ma Cật, kinh Kim Cương, nhưng nghe các bài giảng trong khóa tu tiếng Đức vẫn chưa đủ. Khi nghe chỗ nào có Thầy giảng dù là tiếng Việt, anh cũng muốn có mặt ngồi kế bên để nghe. Các anh, chị Phật tử người Việt ở Koln, Bonn, Hannover, Munchen cùng thành phố anh ở cũng chịu khó ngồi thông dịch ra tiếng Đức cho anh. Karl Schmied rất mê từng câu giảng của Thầy. Đi khóa tu chưa đủ, anh theo dự ngày quán niệm cho đồng bào người Việt, dù chỉ có mình tôi dịch ra tiếng Anh sơ sơ cho anh nghe. Khi anh chào tôi để lái xe từ Đức sang Ý gặp khách hàng, tôi nói: “Thôi ‘thả bò’ đi anh. Không mấy thuở Thầy sang Đức, anh tiếc làm chi mấy cái dự án cần thương thuyết. Sau khi đi khóa tu tâm anh sẽ vui khỏe, bình an hơn, biết đâu anh lại có nhiều hợp đồng hấp dẫn hơn”. Anh lắc đầu nguầy nguậy: “Không được đâu chị ạ. Karl có những dự án cần ký tên gấp, không ký tên là mất khách nhiều lắm đó chị!”

Sáng hôm sau tại khóa tu Munchen, vừa vào phòng ngồi thiền tôi đã thấy anh ngồi thư thái ở đó… Sau thời ngồi thiền anh cười thật tươi và đến gặp tôi. “Khó tin quá sư cô ơi, Karl nhất định đi Ý nhưng nụ cười tươi mát của Thầy và những lời giảng đầy tuệ giác cứ theo em hoài, đánh động em suốt dọc đường. Cuối cùng em quyết định quay ngược xe 180 độ, về khóa tu chắc là món lợi lớn nhất cho con đường tâm linh của em. Em hết do dự, thẳng thắn thả mấy con bò của em bên Ý, quẹo xe về dự khóa tu.”

Nghe thế chị Thục Quyên bèn vẽ cái hình bát cơm cho trẻ em đói trao cho anh và đề nghị: “Thành lập quỹ Từ Thị đi! Anh nhớ xin luôn giấy phép được miễn thuế nếu ai đóng góp cho quỹ này. Đó là việc làm kế tiếp của anh nhé!”

Chân Không nhớ hễ mỗi lần Thầy giảng xong, trong thính đường hai hay ba ngàn người, Karl Schmied đại diện ban tổ chức nói về những khóa tu kế tiếp hay những buổi thuyết pháp công cộng tại những hội trường lớn. Nói xong anh giới thiệu ngay về quỹ Từ Thị: “Đây không phải là hội từ thiện giúp trẻ em đói như ở Đức. Chương trình Hiểu và Thương của sư cô Chân Không lập ra không chỉ để làm từ thiện xin tiền. Các tác viên xã hội này đến để huấn luyện các cô giáo dạy thiếu nhi Năm Điều Em Nhớ. Bạn cứ thoải mái cho mười đồng, năm chục đồng Đức mã. Hội này được phép để bạn khai đã làm từ thiện bao nhiêu tiền và tiền đóng từ thiện này sẽ giúp bạn được trừ thuế. Vì hội này được hưởng quyền đặc biệt đó. Riêng tôi, mỗi năm tặng cho quỹ Từ Thị một vé máy bay đi ba ngày ở Bình Dương, Đồng Nai, Phan Thiết, Thừa Thiên, Quảng Trị và một vé máy bay du lịch Việt Nam năm ngày. Ở đây tôi đi thăm từng chương trình, xem tỉnh này các cô bảo mẫu, các cô giáo có dạy thiền ca để con nít cũng được tập cách vừa hát vừa tu vừa chơi hay không? Các bài hát như: ‘Ai nói gì thì mình cứ nghe… Nghe sâu hiểu thấu thương nhiều. Buồn chi mà ba bốn bữa, cho tâm tư héo sầu. Ta buồn ta thở thật sâu, nỗi buồn tan biến thật mau. Tang tình tang tính tình tang’. Các cháu được dạy khi người lớn trong gia đình có cãi cọ nhau thì cháu chỉ cần hát “Ta buồn ta thở thật sâu, nỗi buồn tan biến thật mau. Tang tình tang tính tình tang”.

Chương trình phát mỗi năm một bộ áo đều có in những câu như: “Chiều nay khi đi học về em sẽ đến bên mẹ, ôm mẹ và hỏi: Mẹ ơi, mẹ có biết là con yêu mẹ lắm không?” Anh chỉ đi Việt Nam để kiểm soát từng ấy việc, xem các lớp học không những dạy chữ mà còn dạy những điều như thế, để kết luận là quỹ Từ Thị là quỹ xã hội duy nhất dạy phần tâm linh cho các cháu chứ không phải chỉ cho tiền ăn buổi trưa!

Trong những năm tháng thành lập, chăm lo và phát triển chương trình Hiểu và Thương, tôi chưa bao giờ cảm thấy nản lòng, muốn bỏ cuộc. Những hạt giống đã gieo từ năm 14 tuổi vẫn còn đang lớn mạnh. Ý muốn được sẻ chia, được giúp người nghèo khổ vơi bớt những nhọc nhằn luôn là nền tảng cho những chương trình, những sáng kiến đưa ra đôi khi tôi làm không kịp. Mỗi chương trình có mỗi đặc tính riêng, không chương trình nào giống chương trình nào. Ngày nay có nhiều vấn nạn mới xuất hiện và tôi luôn cầu nguyện cho một số Bồ tát trẻ xuất hiện. Mỗi vị Bồ tát trẻ đó sẽ có những sáng kiến của họ, ông bà tổ tiên mỗi nơi sẽ có cách yểm trợ cho hành động của riêng họ. Rồi Phật tánh trong họ sẽ dẫn đường cho từng nhóm. Vấn đề là chỉ cần họ giữ Năm hướng đi chánh niệm (Năm giới), Mười bốn giới Tiếp hiện trong tâm và thực tập theo tinh thần Lục hòa mà đức Thế Tôn đã dạy thì đi tới đâu họ cũng sẽ làm hay nhất theo những cách mới của họ, thích ứng được với trào lưu của xã hội mới.

 

( Sư cô Chân Không )

Linh đan đổi cốt mới ra về

 

Sư cô Bảo Nghiêm đến Làng tập sự xuất gia năm 1991. Hiện nay, sư cô đang sống hạnh phúc tại chùa Từ Nghiêm – Xóm Mới. BBT đã có cơ hội được ngồi chơi, cùng sư cô ôn lại những kỷ niệm trong sinh hoạt của Làng từ những năm đầu tiên ấy.

 

 

Quê hương tìm thấy

Làng ngày xưa rất nghèo. Khi tới lần đầu, Bảo Nghiêm thấy Làng chẳng có gì cả, chỉ có bụi tre là lạ quá! Bảo Nghiêm cứ quanh quẩn chơi ở bụi tre, rồi thấy khát nước nên hỏi sư cô Chân Không: Em khát nước quá mà không biết lấy nước ở đâu để uống? Dẫn Bảo Nghiêm đi lấy nước ở vòi nước, sư cô nói: Nước này uống vào là hết khát ngay. Bảo Nghiêm uống vào chỉ thấy toàn mùi phèn! Ở Làng hồi đó là như vậy, cái gì cũng cũ kỹ lắm.

Cái mà Bảo Nghiêm thích nhất ở Làng là Làng rất Việt Nam và còn giữ được nhiều cách dạy dỗ, giáo dục theo truyền thống Việt Nam. Hồi ấy, Làng chỉ mở khóa tu mùa Hè vì chỉ khi đó các gia đình mới có thể mang con cháu tới được. Nhiều gia đình có cả ba thế hệ ông bà, cha mẹ và các cháu cùng đến. Vui lắm! Người già thì dọn một chỗ trong nhà để ngủ, người trẻ thì ngủ ngoài lều hết vì trời ấm.

Thầy dạy cho người già cũng có việc làm, người trẻ hay con nít cũng đều có việc làm. Giả dụ người già sẽ giúp làm những ngày lễ giỗ Tổ tiên. Thầy chỉ cách để làm lễ, cách quỳ lạy, cách đặt bàn thờ ngoài trời, ông bà lạy trước, con cái lạy sau, rồi cháu chắt lạy sau nữa, y như ở Việt Nam… Người Việt Nam có truyền thống quý trọng tổ tiên, ông bà, cha mẹ nên khi được làm lễ như vậy họ đều hạnh phúc, sung sướng, tươi mát ra. Những thế hệ đó không bao giờ quên Làng, năm nào cũng về. Các em nhỏ thì được học tiếng Việt. Thầy chỉ cho các em lớn, đã biết chữ, dạy các em nhỏ hơn. Cũng tập viết, làm bài, cũng chấm điểm, trao phần thưởng, có giấy khen, đẹp lắm!

Các em nhỏ được Thầy dạy thực tập chánh niệm: đi cho có chánh niệm, ăn cho có chánh niệm, làm cho có chánh niệm. Các em học nhanh và kỹ. Học xong là làm y chang như vậy chứ không như người lớn mình hay lọng cọng, lẹo quẹo! Khi lớn rồi, mình hay mắc cỡ, không tự nhiên được như các em nhỏ. Thầy còn dạy cả thiền trà cho các em. Các em làm rất hay. Người lớn đến tham dự, được thấy các em nhỏ trình bày các nghi lễ như dâng bánh, trà cho Bụt. Các em đi đẹp thiệt là đẹp! Mình ngồi nhìn bước chân của các em mà mê mải. Tất cả những gì ở Làng đều rất Việt Nam nên người Việt đến đây cảm thấy hạnh phúc, sung sướng như được về quê vậy.

Những khi Thầy đi tổ chức khóa tu ở các nước thì chỉ có vài người đi với Thầy thôi. Trước khi đi, Thầy viết thư dặn các con ở nhà làm giúp cho Thầy các việc: học tiếng Anh cho giỏi, học thêm chữ Hán, chăm sóc thiền sinh cho thật giỏi,…

Bảo Nghiêm là người lớn ở nhà nên bao quát hết các việc: đi chợ, đổ rác, chăm sóc thiền sinh, làm sao cho họ ăn uống ngon lành để giúp họ siêng năng tu tập. Tới ngày thiền sinh ra về, Bảo Nghiêm biết họ đi đường xa thích có thức ăn đem theo nên dậy thật sớm, bắc một nồi xôi thật to, gói thật đẹp cho mỗi người một gói làm quà. Thiền sinh hạnh phúc lắm, cảm được cái tình của mình. Khi làm việc, dù có làm nhiều, Bảo Nghiêm cũng không thấy mệt nhọc gì hết vì mình để hết tâm vào công việc. Làm việc cũng là để cho cái tâm của mình, cho nó có cơ hội thực tập. Các em thấy Bảo Nghiêm làm thường ra làm cùng.

Thầy cũng rất thích chấp tác. Ở Sơn Cốc thì Thầy trồng xà lách. Khi xuống xóm Hạ mỗi tuần hai lần, thì buổi sáng Thầy dạy kinh rồi đi thiền hành, sau đó ăn trưa, nghỉ một chút rồi thực tập pháp đàm và chấp tác. Chấp tác xong Thầy mới về lại Sơn Cốc. Hồi đó mình chấp tác ở vườn mận là chính. Những cây mận, khi ấy, còn nhỏ lắm. Họ tỉa cành xong để ngay dưới đất. Thầy đi và nhặt những cành mận trên đất, bỏ vào bên trong, sát gốc cây. Thầy đi lần lượt hết hàng này đến hàng khác. Học trò thấy vậy cũng chạy ra, bắt chước Thầy làm y chang. Sau này, có xe xới đất đi qua sẽ cán vụn những cành mận đó ra, trộn vào đất để làm phân cho cây và cũng làm cho đất thoáng, ánh sáng đi vào được, làm những cây mận lên nhanh, mạnh hơn. Sư cô Chân Không có nhiều việc khác nữa. Sư cô xin tiền để nuôi các em bé ở Việt Nam, nên giờ chấp tác sư cô chỉ ra một lúc rồi sau đó đi làm việc của sư cô.

Chăm sóc vườn tâm

Có lần Thầy thử đưa cho Bảo Nghiêm cuốn Con đường chuyển hóa để đánh máy mà Bảo Nghiêm không làm được. Bảo Nghiêm thưa với Thầy là con đánh máy không được vì nước mắt chảy nhiều quá. Thầy bảo: Thôi không sao, không đánh máy nữa, thế giờ con thích làm gì? Bảo Nghiêm mới thưa là cho con ra làm vườn. Ngoài vườn có ánh sáng mặt trời, có nhiều không khí để thở, hợp với tim của con. Từ đó Bảo Nghiêm gắn bó với vườn cho tới bây giờ.

Làm vườn là tiếp xúc với thiên nhiên. Nó trị liệu cho mình rất nhiều về tâm cũng như về thân. Thầy là người biết rõ điều đó. Hễ cư sĩ nào về Làng mà có nhiều khó khăn là Thầy sẽ cho ra vườn, đi theo Bảo Nghiêm. Đi theo làm vườn một thời gian là con người họ thay đổi. Tuy vậy, mình cũng phải biết làm việc có điều độ, chỉ làm đến chừng ấy thôi rồi nghỉ, chứ không nên đắm chìm trong đó.

Tuy thế, sự chuyển hóa của Bảo Nghiêm không hoàn toàn đến do việc làm vườn. Nó đến từ chuyện khác. Khi Thầy dạy Duy biểu, mình biết mình có thức thứ sáu, thức thứ bảy và thức thứ tám. Ba thức này làm mình lên xuống rất nhiều. Thức thứ tám giữ hết các hạt giống của mình, xấu cũng như tốt. Thức thứ sáu thì lượm hết các hạt giống bên ngoài đem về cho thức thứ tám giữ gìn. Thức thứ bảy là người canh gác ở cửa của thức thứ tám. Cái anh chàng canh cửa này rất khó chịu. Anh ta chê hết người này tới người khác: anh chê người này dài quá, người kia ngắn quá, người này giàu, người kia nghèo… làm cho mình cứ mù tịt đi nên mình khó mà chuyển hóa được. Sau này khi biết ra, Bảo Nghiêm thực tập bằng cách cho anh chàng đó đi nghỉ hè! Không cho anh thứ bảy làm việc nữa. Anh thứ sáu làm việc thẳng với anh thứ tám và anh thứ tám muốn cái gì thì đưa thẳng lên cho mình chứ không đi qua anh chàng thứ bảy nữa. Thức thứ tám đưa lên cái gì thì mình nói cái đó, mình không đi qua anh chàng thứ bảy chê khen đủ thứ.

Hồi đó Thầy hay hỏi Bảo Nghiêm về đây để làm gì? Thầy dạy mà Bảo Nghiêm làm hoài không được nên Thầy mới hỏi thế. Biết là về đây để học, để thực tập, để chuyển hóa nhưng đâu dễ, mình làm mãi không được. Cho tới khi Bảo Nghiêm nhìn ra cách tâm mình vận hành ra sao thì Bảo Nghiêm chỉ đi theo thức thứ sáu và thứ tám để làm việc thôi, nhất định không theo thức thứ bảy. Và Bảo Nghiêm bắt đầu thấy có sự thay đổi. Thay đổi nghĩa là khổ đau được lắng xuống, mình không bị chạy theo nó nữa, mình cũng nhẹ nhàng hơn và khỏe ra. Khi nó lên, mình không để nó vùng vẫy. Mình nói: À, tôi biết em có mặt ở đó nhưng không làm gì được đâu, đi ngủ hay đi chơi đi. Mình bắt chước Thầy, nói chuyện với nó.

Với Bảo Nghiêm, không phải do làm vườn mà có chuyển hóa, nhưng những lúc làm vườn mình được trị liệu nhiều lắm, và khi đã bắt đầu có chuyển hóa thì nhờ làm vườn mà thân tâm mình khỏe lại rất nhanh.

Con đường chuyển hóa

Những pháp môn Thầy dạy như thiền hành, thiền tọa, ăn cơm yên lặng… pháp môn nào Bảo Nghiêm cũng thích như nhau, không có pháp môn nào đứng thứ hai. Tất cả các pháp môn đó đều là nhất hết. Mình thực tập hết các pháp môn đó thì chánh niệm của mình được giữ gìn. Khi chánh niệm được nuôi dưỡng thì tự nhiên khổ đau được chuyển hóa. Như là khổ đau của Bảo Nghiêm ngày xưa, nhiều lắm, tích tụ trong mấy mươi năm trời. Mình vào đây, chưa chuyển hóa được hết những khổ đau đó thì lại có cái mới cộng thêm vào. Bảo Nghiêm đã khóc rất nhiều, trong lòng cứ nghĩ: không biết bao giờ mới hết khổ, càng ngày càng nhiều thêm thôi, chắc không hết được. Nhưng Bảo Nghiêm đã kiên trì thực tập.

Hồi đó, Bảo Nghiêm sống bên Đức nhiều năm, có tập khí đi nhanh, làm nhanh, ăn nhanh. Nếu mình chậm, người ta sẽ hỏi mình có bị bệnh không, chỉ bị bệnh thì mới chậm. Thầy hay hỏi mọi người không biết sư cô Bảo Nghiêm đi nhanh như vậy để làm gì? Hồi đó Bảo Nghiêm hay nghĩ nếu người ta có bán một đôi guốc nào thật là nặng, mang vào chân sẽ không đi nhanh được thì Bảo Nghiêm sẽ mua ngay, đắt mấy cũng mua. Mua về để đi, để thực tập thiền hành cho được. Rồi theo thời gian, bằng niềm tin và sự kiên trì thực tập, Bảo Nghiêm cũng làm được.

Đối với pháp môn ăn trong chánh niệm, sự thực tập của Bảo Nghiêm là ăn cơm quá đường. Bảo Nghiêm không bỏ một buổi ăn cơm quá đường nào hết. Khi ăn quá đường mình phải rất chánh niệm, ăn chậm. Ngồi ăn trước mặt Thầy, mình không thể nào không ý thức sự chậm rãi được. Mình cứ theo Thầy thôi, Thầy gắp một miếng thức ăn rất nhỏ mà Thầy nhai ít nhất là bốn chục lần, năm chục lần. Cũng có lúc mình quên, mình ăn nhanh hơn một chút nhưng mình nhận ra thì mình dừng lại ngay. Những buổi ăn cơm quá đường là những buổi thực tập hay nhất. Nhiều khi Bảo Nghiêm nấu ăn hay có công việc thì vào ăn trễ, không ngồi phía trên được, ngồi tuốt ở phía dưới nhưng vẫn vào ăn để thực tập. Nhờ những buổi quá đường mà Bảo Nghiêm đã thực tập được pháp môn ăn cơm trong chánh niệm. Ngày xưa, chúng xuất sĩ chưa nhiều. Khi ăn cơm quá đường, cư sĩ đông hơn xuất sĩ và thường ăn rất nhanh. Mình vừa ăn để học ăn chậm mà cũng phải ăn làm sao để làm gương cho thiền sinh.

Từ xưa tới giờ, Làng vẫn ăn cơm quá đường vào Chủ nhật. Thứ Năm thì không ngồi theo hạ lạp, và nếu ngồi cạnh Thầy, có tài gì Thầy sẽ hỏi về cái tài đó của mình. Có lần Bảo Nghiêm lén lén đến ngồi cạnh Thầy. Dùng cơm xong, Thầy quay sang hỏi Bảo Nghiêm: Năm nay cải có được nhiều không con? Có to không?

Thầy là Bụt sống của con

Lần đầu tiên gặp Thầy, Bảo Nghiêm rất ấn tượng với sự giản dị của Thầy. Thầy mặc một bộ đồ lam ngắn, bên ngoài có một cái áo len nâu đã rách, đội một cái nón lá cũ và đi chấp tác với mọi người. Khi Thầy ăn cơm, Thầy lấy một cái đĩa để đựng cơm, một cái bát để đựng súp rồi Thầy tự đi khất thực chứ không cần có một mâm dọn sẵn, thịnh soạn. Ăn xong Thầy tự ôm bát đi rửa.

Những cái giản dị đó làm Bảo Nghiêm cảm động vô cùng. Thấy thương Thầy quá! Bảo Nghiêm cứ đến năn nỉ Thầy cho con rửa bát nhưng Thầy không cho. Thầy bảo: đây là thực tập của Thầy, để Thầy làm. Thầy làm, các con nhìn rồi học theo. Mà đi đằng sau Thầy là một lũ dài con nít. Thầy rất thương các em nhỏ. Chúng nó biết là Thầy thương nên cứ bám theo Thầy. Thầy đi trước, theo sau là một lũ dài con nít, không có ai chen vô đó được. Những cảnh tượng như vậy khiến mình cảm động lắm!

Hồi đó, Bảo Nghiêm viết thơ cho Thầy kể với Thầy là: Thầy ơi, con thấy người ta cứ gọi đức Đạt Lai Lạt Ma là Bụt sống. Thực ra ý của Bảo Nghiêm là Bảo Nghiêm cũng muốn gọi Thầy là Bụt sống nhưng không dám nói thẳng nên viết thơ, gợi ý như vậy. Thầy trả lời Bảo Nghiêm: Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng sống như mình thôi chứ có gì đâu. Thế là Bảo Nghiêm không dám nói gì thêm nữa!

Sau này, khi Thầy bệnh rồi, Bảo Nghiêm viết thơ cho Thầy và đã kể cho Thầy rằng: Bạch Thầy, ngày xưa con đã viết thơ cho Thầy, đã hỏi Thầy như vậy để nói ý của con là con muốn được gọi Thầy là Bụt sống, nhưng khi Thầy trả lời như thế thì con không dám nữa. Nhưng bây giờ con viết lên giấy, thị giả nào đọc cho Thầy nghe để Thầy biết là con muốn được gọi Thầy là Bụt sống của con. Thầy là Bụt sống nên Thầy đã nuôi con từ lúc con về Làng cho đến bây giờ. Bao nhiêu khổ đau của con Thầy biết hết, ôm ấp hết. Thầy kiên trì dạy dỗ con, không gạt con ra ngoài. Nhiều khi Thầy cũng dọa con, nói là gửi con đến sư bà này hay sư bà kia nhưng Thầy không làm. Nhờ được Thầy nuôi mà khổ đau của con đã được chuyển hóa.

Bây giờ Bảo Nghiêm rất mong các sư em thực tập làm sao để có thảnh thơi và an lạc. Nếu mình có thảnh thơi thì hạt giống vô minh không có mặt. Có an lạc thì tự nhiên có sự chuyển hóa. Mà muốn có an lạc và thảnh thơi thì cứ các pháp môn căn bản mà thực tập thôi. Thầy đã dạy cho mình hết rồi.

Sư cô Chân Bảo Nghiêm )

Chăm sóc tăng thân

Trong cuốn Đường xưa mây trắng, Thầy có dạy: “Kiến hòa đồng giải là trao đổi, chia sẻ những hiểu biết và những kiến thức với nhau, không giấu giếm cho riêng mình để cho mọi người cùng được học hiểu”. Thầy khuyến khích tăng thân chia sẻ cái thấy cho nhau. Thầy đã lắng nghe nhiều ý kiến đóng góp của tăng thân. Tăng thân đã thỉnh ý Thầy và Thầy cũng đã hội ý với tăng thân khi giải quyết những việc trong chúng. Ban chăm sóc (trước đây gọi là Ban điều hành) được ra đời trong tinh thần Kiến hòa đồng giải. Vào tháng 4 năm 1999, Thầy đã hỏi ý tăng thân phương pháp tổ chức để cho việc tu học và sinh hoạt có thể đem lại nhiều hạnh phúc hơn. Một vài thành viên trong tăng thân xuất sĩ đã góp ý lên Thầy. Thầy đã đưa ra tăng thân xem xét và sau đó chấp thuận thành lập. Bài viết này ghi lại sự ra đời của Ban chăm sóc.

Tăng thân xuất sĩ Làng Mai được thiết lập từ tháng 11 năm 1988, với sự xuất gia của các sư cô Chân Không, Chân Đức và Chân Vị. Đến cuối năm 1991 thì có 3 nam và 9 nữ, cuối năm 1992 thì có 5 nam và 11 nữ, cuối năm 1993 thì có 10 nam và 13 nữ. Số lượng xuất sĩ tăng từ từ, cho đến tháng 4 năm 1999, thì có khoảng 40 nam và 45 nữ đã xuất gia với Thầy. Thầy Nguyện Hải được Thầy bổ nhiệm làm trú trì chùa Pháp Vân, xóm Thượng năm 1996. Sư cô Trung Chính được bổ nhiệm làm trú trì chùa Từ Nghiêm, xóm Mới năm 1996. Sư cô Diệu Nghiêm được bổ nhiệm làm trú trì chùa Cam Lộ, xóm Hạ năm 1998. Khoảng thời gian đó thì Làng Mai đã mở tu viện Rừng Phong cho các thầy và trung tâm Thanh Sơn (Green Mountain Dharma Center) cho các sư cô tại Vermont. Tu viện Rừng Phong do thầy Giác Thanh làm trú trì và trung tâm Thanh Sơn do sư cô Chân Đức làm trú trì.

Lúc đó quý thầy, quý sư cô trú trì điều hành công việc trong chúng, với sự giúp đỡ của các tri phụ trách. Số lượng các thầy, các sư cô không phải người Việt cũng tăng lên nhiều, từ đó có sự khác biệt về cách hiểu biết và ứng xử trong đời sống xuất sĩ tùy theo văn hóa mỗi nơi. Các xuất sĩ gốc Việt đều là Việt kiều sống tại các nước Tây Phương, phần đông là từ Mỹ, Canada, Pháp, Đức, Hòa Lan, Anh (các nước Tây Âu) nên ít nhiều cũng có hai nền văn hóa Việt Nam – Tây phương. Từ đây tăng thân xuất sĩ Làng Mai bắt đầu không phải chỉ có một nền văn hóa và một nếp sống Việt Nam thuần túy. Những vị có kỹ năng đa văn hóa (multi-culture skills) thì có khả năng thích ứng với môi trường tu học tại Làng Mai nhiều hơn.

 

Tăng thân xóm Thượng mùa hè năm 1998

 

Tăng thân là một xã hội thu nhỏ. Những khó khăn có mặt ngoài xã hội thì trong tăng thân cũng có. Sự khác biệt là trong môi trường tu học, các thành viên xuất sĩ là người nguyện đi theo con đường giải thoát nên có thể có nhiều cơ hội nhận diện được khó khăn, có phương pháp chuyển hóa sớm và thông suốt hơn là môi trường cư sĩ. Vào khoảng mùa xuân năm 1999, có những bất đồng ý kiến về cách sinh hoạt ở một vài thầy trên xóm Thượng. Không biết là bên quý sư cô có những điều làm Thầy quan tâm hay không. Sau đó, Thầy đã triệu tập một buổi họp ở xóm Mới gồm tất cả xuất sĩ của ba xóm để nhìn vào những vấn đề cần quan tâm này. Thầy đã lắng nghe các thầy, các sư cô trình bày về việc xuất gia cho các vị Tây phương, việc ứng xử của tăng thân khi một vài vị rời chúng, mối liên hệ giữa các thầy, các sư cô lớn với nhau và một vài việc khác nữa. Thầy khuyến khích nói lên tất cả những gì xảy ra trong chúng để cùng quán chiếu chung. Trong buổi họp, Thầy hỏi là tăng thân mong đợi sự hòa hợp như thế nào, theo tỷ lệ phần trăm. Thầy Nguyện Hải nói là khoảng 80%. Thầy mỉm cười và nói như vậy là hơi cao, có được sự hòa hợp khoảng 60% là tốt lắm rồi. Điều đó nói lên một sự thật là có ý kiến khác nhau là chuyện bình thường trong cuộc sống và trong tăng thân. Quan trọng là chấp nhận những ý kiến khác biệt và cùng đi đến một giải pháp tốt nhất có thể.

Sau buổi họp sáng hôm đó, Thầy hỏi ý kiến các thầy, các sư cô lớn về một mô thức tổ chức có thể thích hợp hơn với tăng thân xuất sĩ đang lớn mạnh với nhiều văn hóa và nhiều phương diện. Tối hôm đó, sư chú Pháp Khâm vào phòng thầy Pháp Ấn chơi. Từ khi xuất gia vào tháng 2 năm 1998, sư chú Pháp Khâm cùng với thầy Pháp Hội thường hay vào phòng thầy Pháp Ấn để làm việc liên quan đến máy tính. Cả ba đã giúp thiết kế hệ thống máy tính và mạng lưới Internet cho Làng trong thời gian đó. Cứ đến ngày làm biếng hay giờ rảnh là thấy ba vị làm việc chung với nhau về lĩnh vực này. Thầy Pháp Ấn hỏi sư chú Pháp Khâm có ý kiến gì không? Trước khi xuất gia, sư chú Pháp Khâm đã đến Làng vào năm 1987 và đã giúp tổ chức các chuyến đi hoằng pháp của Thầy tại miền Đông Bắc nước Mỹ từ năm 1989 cho đến năm 1997. Ngoài việc đi làm ngày thường, sư chú lúc đó còn là một nhà hoạt động cộng đồng (community activist) cho nên cũng khá rành trong các mô hình tổ chức.

Sư chú Pháp Khâm nói là có thể tổ chức theo mô hình điều hành thành phố gồm có một thị trưởng (mayor) và một hội đồng nghị viên (council members) đại diện các địa phương. Trong mô hình này thì vị trú trì tương đương với thị trưởng, còn một Ban chăm sóc gồm đại diện các thành viên trong tăng thân trong đó có giáo thọ, tỳ kheo, và sa di. Vị trú trì thì nhiệm kỳ lâu hơn, lúc đó là do Thầy bổ nhiệm. Các thành viên Ban chăm sóc thì nhiệm kỳ là hai năm và do tăng thân bổ nhiệm. Thành viên Ban chăm sóc có thể tham gia nhiều nhiệm kỳ. Cần có đại diện của các thầy và sư chú Tây phương. Thầy Pháp Ấn trình ý kiến đó lên Thầy. Thầy đưa ra hội đồng tỳ kheo xóm Thượng xem xét. Sau vài ngày thảo luận, quý thầy đồng ý với ý kiến đó. Một Ban chăm sóc đầu tiên được thành lập trong đó có thầy Pháp Ứng (giáo thọ), các thầy Pháp Hiền, Pháp Sơn, Pháp Hội cùng các sư chú Pháp Khâm và Pháp Minh. Trong Ban chăm sóc đầu tiên đó, một nửa là gốc Việt (thầy Pháp Ứng, Pháp Hội và sư chú Pháp Khâm) và một nửa là Tây phương (thầy Pháp Hiền, Pháp Sơn và sư chú Pháp Minh).

Mới đầu thì tên tiếng Việt là Ban điều hành, nhưng thầy Pháp Hiền nói tên đó dịch qua tiếng Anh không hay lắm (Executive Council), cho nên mới đề nghị lấy tên là Care Taking Council, dịch là Ban chăm sóc. Hai tên Ban chăm sóc và Ban điều hành được dùng lẫn lộn cho đến năm 2003 thì chính thức đổi qua tên Ban chăm sóc. Lý do là lúc đó xóm Thượng có mở thêm Sơn Hạ. Hai vị lớn là thầy Giác Viên và thầy Thông Tạng được Thầy cử lo tu học ở đó, với sự phụ tá của thầy Ananda (người Pháp gốc Lào) và thầy Pháp Khâm. Thầy Pháp Khâm thấy dùng tên Ban điều hành không ổn vì có hai thầy lớn. Chăm sóc cho hai thầy chớ làm sao mà điều hành hai thầy được. Với lại, có ai mà điều hành được ai, chỉ có chăm sóc thôi. Chăm sóc cho con người và cho cả công việc.

Nền tảng của Ban chăm sóc là nơi các thành viên có thể đóng góp những tài năng của mình cho tăng thân. Ban chăm sóc là sân chơi của tăng thân. Ngoài phương diện tu tập, tăng thân có nhiều người có kỹ năng chuyên môn về nhiều phương diện, ví dụ như làm văn phòng, công nghệ thông tin, nấu ăn, làm vườn, làm báo,… Mùa an cư năm 2013, Làng Mai Thái Lan có tổ chức các lớp kỹ năng cho các thầy, các sư cô trẻ phụ trách về chương trình trẻ em, thiếu niên, và thanh niên (Wake-Up). Sư cô Toại Nghiêm (mẹ của các thầy Pháp Lâm, Pháp Anh và sư cô Lộc Nghiêm) hỏi: Vậy các vị lớn tuổi thì sao, có chương trình gì cho họ không? Sau đó, một lớp đào tạo kỹ năng tổng quát cần thiết cho một khóa tu được mở ra, trong đó những vị phụ trách thiền đường, đội rửa dọn, nấu ăn, làm vườn, chuyển hóa rác… được nói rõ vai trò của họ là có thể hướng dẫn các thiền sinh tu học trong những công việc của mình. Không chỉ vào trong các chương trình trẻ em, thanh thiếu niên hay hướng dẫn pháp đàm mới gọi là hướng dẫn tu học. Ai cũng có kỹ năng và khả năng đóng góp trong việc phụng sự. Ông bà ta có nói “dùng người như dùng gỗ”. Ban chăm sóc cần khám phá và sử dụng các tài năng đó.

Cách vận hành của Ban chăm sóc và mối liên hệ giữa Ban chăm sóc với Hội đồng giáo thọ và các thầy, các sư cô trú trì được nêu rõ trong cuốn Sống chung an lạc. Ban chăm sóc giống như là Hội đồng Bộ trưởng của một nước, trong đó có thủ tướng, các phó thủ tướng và các bộ trưởng. Vị tri sự giống như bộ trưởng bộ lao động, bảo đảm các công việc thường ngày được thực hiện và ai cũng được chia công việc, không để ai đó thất nghiệp. Các bộ thì như là các ban chuyên môn, như là ban tài chánh, ban văn phòng, ban đối ngoại, ban làm visa,… Hội đồng giáo thọ có vai trò chính là hướng dẫn tu học và thực tập. Vị trú trì (hay rộng hơn là văn phòng trú trì vì trong đó có vị phó trú trì và các phụ tá) thì vai trò chính là chăm sóc đời sống tinh thần và chuyện nội bộ của tăng thân, như Thầy đã nói: “Vị trú trì là người mà ai cũng có thể đến với được”. Thầy thường ví vai trò của vị trú trì như là vai trò của Nữ Hoàng Anh, không điều hành đất nước (đó là việc của thủ tướng) nhưng rất được dân chúng thương yêu và tin cậy. Các vị giáo thọ có thể tham gia vào các ban chuyên môn để giúp cho tăng thân và cũng để có cơ hội gần gũi và đào tạo thế hệ trẻ hơn. Ba bộ phận trên nếu làm việc với những vai trò và trách nhiệm rõ ràng, tương trợ lẫn nhau trong tinh thần hòa hợp thì việc tu học và sinh hoạt trong tăng thân sẽ rất suôn sẻ.

 

 

Mô hình về mối liên hệ giữa Ban chăm sóc, Hội đồng giáo thọ và Văn phòng trú trì được mô tả dưới đây. Hội đồng tỳ kheo tương tự như quốc hội, đưa ra những chính sách và dự án chung cho tăng thân. Ban chăm sóc là do Hội đồng tỳ kheo bổ nhiệm và được ủy quyền để thực hiện những công việc mà Hội đồng tỳ kheo giao phó. Có một khuynh hướng cho rằng trong Ban chăm sóc có những vị còn trẻ, được đề cử vào Ban chăm sóc để được đào tạo, từ đó có yêu cầu là những gì Ban chăm sóc quyết định phải được Hội đồng giáo thọ hay Hội đồng tỳ kheo chấp thuận. Điều này là không cần thiết vì tạo thêm nhiều công việc cho Hội đồng giáo thọ và Hội đồng tỳ kheo và lấy đi thẩm quyền quyết định của Ban chăm sóc. Những gì cần phải có quyết định chung của Hội đồng tỳ kheo thì đã được nêu rõ. Ban chăm sóc được ủy quyền làm những công việc mà không cần phải có sự chấp thuận một lần nữa của Hội đồng tỳ kheo, vì đã được chấp thuận trong những buổi họp tỳ kheo trước rồi. Quan trọng là Hội đồng tỳ kheo phải bổ nhiệm người có trách nhiệm và có kỹ năng vào những vị trí đó. Trong Ban chăm sóc đã có đại diện của các vị giáo thọ, tỳ kheo và sa di rồi. Theo nguyên tắc là Ban chăm sóc biết rõ những gì cần phải làm, biết cần tham vấn những ai cho công việc được giao phó.

 

 

Thầy có nhắc đến vai trò của các thầy, các sư cô lớn trong tăng thân qua sự có mặt của Hội đồng trưởng lão, kết hợp truyền thống thâm niên với truyền thống dân chủ. Thành viên của Hội đồng trưởng lão thường là các vị giáo thọ lớn trong trú xứ đó. Hội đồng trưởng lão có vai trò cố vấn và giúp giải quyết những việc cần đến uy đức của tăng thân, như Bụt đã dạy trong Bảy phương pháp diệt trừ tranh chấpBảy phương pháp bất thoái. Những khi có việc cần giải quyết lập tức mà không thể triệu tập buổi họp của Hội đồng tỳ kheo ngay được, đại diện của Hội đồng trưởng lão, vị trú trì, đại diện của Ban chăm sóc có thể hội ý với nhau để đưa ra quyết định. Có một lần vào ngày quán niệm thứ Năm tại xóm Thượng, hôm đó trời đẹp nên Ban chăm sóc xóm Thượng đề nghị cho ăn picnic. Thầy không biết gì về quyết định đó vì không thấy xin phép, cho nên Thầy yêu cầu phải ăn trong thiền đường như mọi khi. Trong trường hợp này Ban chăm sóc có thể làm hay hơn. Thời khóa ngày quán niệm là của chung ba xóm Làng Mai đã quy định. Có muốn thay đổi cho ngày hôm đó thì cần phải hội ý giữa các vị giáo thọ lớn, thầy trú trì và Ban chăm sóc. Có đồng ý đổi thì mới vào xin phép Thầy. Thầy đồng ý thì mới được đổi. Ban chăm sóc được ủy quyền tổ chức ngày quán niệm chớ không được ủy quyền thay đổi thời khóa.

Tinh thần kiến hòa đồng giải đã tạo ra những niềm cảm hứng, phát sinh những chương trình tu học và sinh hoạt phong phú cho tăng thân. Những chương trình như Nông trại hạnh phúc (Happy Farm), phong trào Người trẻ (Wake-Up)… được thành lập cũng có sự đóng góp của các thành viên trong tăng thân. Việc thành lập Ban chăm sóc chỉ là một trong những đóng góp đó thôi. Cơ hội đóng góp cho những sáng tạo có rất nhiều trong đời sống tăng thân.

( Thầy Chân Pháp Khâm )

Nếp xưa

Làng của những năm 1980, 1990 như một cái làng ở thôn quê, vẫn còn đơn sơ lắm! Làng khi đó rất ít người, đời sống đơn giản. Phòng chúng tôi chỉ có một cái bàn và một giường ngủ. Giường là một miếng ván được kê trên bốn miếng gạch vậy thôi. Ngày xuất gia, tôi được sư chị Đoan Nghiêm tặng bộ vạt hò màu nâu đã nhạt màu. Sư cô Viên Quang cho tôi một cái áo, sư chị Chân Vị cho tôi một cái quần, tôi chỉ có hai bộ thôi. Sư Ông cho tôi một cái áo nhật bình lam. Tôi thích chiếc áo nhật bình đó lắm.

 

 

Lúc đó, tuổi của tôi chỉ bằng nửa số tuổi bây giờ. Một bầu nhiệt huyết tuổi trẻ, rất năng động, việc gì cũng muốn làm. Tôi xung phong làm vườn, vì chúng tôi ăn uống đạm bạc, tự trồng rau mà ăn. Từ khi sinh ra và lớn lên tôi đều sống ở thành phố, nên việc làm vườn đối với tôi thật là mới mẻ. Tôi theo sư chị Chân Vị để học cách làm vườn. Tôi hăng say cuốc đất, trồng rau, gieo hạt. Đôi khi mê làm vườn quá nên bỏ giờ công phu chiều, chúng tôi bị sư cô Thanh Lương rầy: “Vào đây để đi tu chứ có phải đi làm việc đâu”. Chúng tôi liền đi sám hối với sư cô, vì sư cô là vị chúng trưởng của chúng tôi thời bấy giờ.

Khi những hạt bí, hạt cà nảy mầm non, tôi say mê nhìn chúng lên cao mỗi ngày. Ngày làm biếng sư chị Bảo Nghiêm gọi tôi dậy lúc 6 giờ sáng, rồi chúng tôi cùng sư chị Chân Vị ra vườn bắt những con limace. Limace giống như những con ốc sên, chúng rất mê ăn những cây bí non, cây bầu non, rau non. Chỉ cần chúng gặm nhấm một buổi sáng là thân cây non sẽ bị đứt ngang. Như vậy là uổng công gieo hạt và tưới tẩm trong suốt hai tháng mùa xuân. Mỗi lần bắt đầy một lon thì chị Chân Vị nhìn tôi cười nói: “Hoa Nghiêm, chị em mình đem chúng đi vùng kinh tế mới”. Tôi ngạc nhiên hỏi: “Vùng kinh tế mới là ở đâu vậy sư chị?” Sư chị cười ha hả: “Là đem chúng vô rừng bỏ. Ở đó chúng đâu có gì để ăn, chỉ ăn cỏ thôi”. Thì ra là vậy. Tôi nghĩ tuy rằng chúng sẽ ăn cỏ nhưng chúng không bị giết. Có nhiều người làm vườn đã mua thuốc về xịt trên những cây non và rau xanh, chúng không biết, ăn vào và nứt bụng mà chết. Thầy thường nói với chúng tôi rằng, mình cũng có thể chia cho chúng ăn phân nửa, mình ăn phân nửa chứ đừng giết chúng tội nghiệp. Lòng từ bi đã dạy chúng tôi thương tất cả mọi loài chúng sanh.

Khi Thầy không đi hướng dẫn khóa tu bên Mỹ, chúng tôi hạnh phúc lắm. Thời gian đó, Thầy thường xuống xóm Hạ và dạy chúng tôi những oai nghi của người xuất sĩ. Khi quét nhà thì không được đưa chổi lên cao vì nó sẽ văng bụi, khi ăn thì đầu phải thẳng không được cúi xuống,… Thầy dạy chúng tôi làm thơ nữa. Chị Tịnh Thủy và sư chú Vô Ngại là người học nhanh nhất. Thầy vừa mới dạy xong thì hai vị đã có thơ nộp liền. Mỗi lần Thầy về xóm Hạ là chúng tôi vui như mở hội. Nói sao cho hết những kỷ niệm đẹp! Tất cả những điều đó đã nuôi dưỡng bồ đề tâm của tôi cho đến ngày hôm nay.

Vào khóa tu mùa Hè, thiền sinh đến tu học thật đông. Ngày xưa, xóm Hạ dành cho thiền sinh Việt Nam. Khóa tu mùa Hè đầu tiên tham dự với tư cách là một sư cô, tôi có bổn phận giúp sư cô Chân Không chăm sóc về thiền trà. Tôi phải lấy danh sách thiền sinh để làm thư mời, rồi chuẩn bị ly trà và kiêm luôn trà giả. Tôi làm như vậy suốt cả khóa tu. Bên cạnh đó, tôi còn giúp chị Tịnh Thủy bán quán sách, rồi vào đội nấu ăn với Thanh Tuyền (bây giờ là sư cô Hương Nghiêm). Khi mới vào tu, làm sao tôi biết nấu ăn cho số lượng người đông như vậy. Lúc đó, mỗi tuần có sáu, bảy chục người, có khi lên đến cả trăm thiền sinh. Trước khóa tu mùa Hè, sư cô Thanh Lương đã huấn luyện chúng tôi một khóa nấu ăn. Nồi nào nấu cơm cho 50 đến 100 người. Chuẩn bị bao nhiêu dao, bao nhiêu thớt cho thiền sinh cắt gọt. Tôi và Thanh Tuyền bàn với nhau, cứ mỗi tuần mình nấu lại y chang món đó, vì mỗi tuần thì thiền sinh khác nhau, đâu ai biết! Chỉ có các sư chị là kêu trời. Sư chị Chân Vị nói: “Lần nào mà đến hai đứa nấu thì y như rằng bổn cũ soạn lại. Các em không thấy ngán hả?” Tôi nhủ thầm trong bụng, mỗi tuần ăn có một lần mà ngán chi không biết? Tôi không còn nhớ món gì nữa, nhưng tôi chỉ nhớ món mà tôi rất thích là cháo đậu đen chan với nước cốt dừa và muối rang đậu phộng. Đó là món tôi nấu mỗi tuần cho buổi ăn chiều.

Có tuần người Việt về rất đông, Thanh Tuyền xếp các bác vào phòng tôi. Tôi chia phòng cùng với bảy bác gái. Lúc đó, tôi thấy vui lắm. Ở chung phòng, nên tôi được nghe các bác tâm sự về chuyện gia đình, con cái. Tôi thấy mình may mắn quá vì đã đi tu, nếu không thì cũng sẽ khổ như các bác đây, chẳng khác gì.

Khu rừng của xóm Hạ có một cái hồ dài, nước trong veo. Cây trong rừng rất đẹp với những nhánh nương nhau, như tăng thân chúng tôi vậy. Sau khóa tu mùa Hè chúng tôi có mười ngày làm biếng. Những ngày này, tôi thường đeo một cái túi nhỏ, trong đó có một miếng bánh mì, một trái chuối, một bình nước nóng rồi đi vào rừng. Tôi tìm một khoảng đất trống trải tọa cụ, ngồi thiền rồi ăn trưa. Sau đó, tôi đánh một giấc ngủ thật dài cho đến khi chiều xuống thì tôi thu dọn đi về lại xóm. Thời sadini của tôi ngày xưa thật trong sáng, thánh thiện, chỉ biết tu thôi, chẳng biết gì.

 

 

 

Ngày xưa ở Làng, chúng tôi chỉ tiếp xúc với thiền sinh. Thiền sinh lại chỉ lo tu học theo thời khóa, rất ít nói chuyện về xã hội bên ngoài. Những tin tức về thế giới, chính trị, bạo động,… chưa từng xuất hiện một lần trong trí não của tôi, chứ đừng nói rằng tôi đã tưởng tượng hay nghĩ về chúng. Mỗi tháng chúng tôi được phát tiền túi đủ để mua những thứ cá nhân căn bản, như một cuốn tập để ghi chép lời Thầy dạy, sang lắm thì một hộp bánh LU khi mình thèm ăn bánh ngọt. Hai từ “cúng dường” thật xa lạ và mới mẻ đối với tôi. Tôi nhớ mình chỉ nhận được duy nhất một lần tiền cúng dường sau bao nhiêu năm ở Làng, khoảng năm mười đô gì đó. Tôi luôn tự nói: Mình đi tu đâu phải để tìm sự cúng dường. Thầy có dạy trong một khóa tu xuất sĩ rằng mục đích của người tu không phải là cơm áo, cũng không phải đi tìm vật chất tiện nghi. Thực tập của Làng Mai là để có hạnh phúc.

Ngày xưa, khi thế giới chưa có hệ thống internet, chưa có Iphone, Ipad, computer, sự truyền thông còn giới hạn, nên con người ít sợ hãi. Còn thời đại bây giờ, càng văn minh, sự truyền thông được mở rộng, thì con người càng thích gom góp những thông tin. Nhưng những thông tin này đa số đem đến cho chúng ta nhiều lo âu, phiền não và sợ hãi. Đời sống luôn bận rộn không một chút bình yên.

Nhớ hôm nào, chúng tôi ăn mừng Làng Mai hai mươi tuổi. Năm ấy, chúng tôi đã lớn hơn và đã nhận truyền đăng. Lúc đó, chúng tôi như những con chim non tập bay ra khỏi tổ ấm của mình. Thầy giao phó nhiệm vụ đi xây dựng các trung tâm tu học Làng Mai, từ Âu, Mỹ rồi sang Á. Làng Mai bây giờ đã bốn mươi tuổi, chúng tôi cũng đã đến thời trung niên. Những hiện tượng sinh diệt, đổi thay là thế giới tích môn. Cũng đã đến lúc mình phải chuẩn bị cho mình một chốn để đi về, tôi luôn tự nhắc mình như thế. Như sư em Chỉ Nghiêm của tôi đã đi trước tôi rồi. Sáng nay, sau bao nhiêu ngày chống chọi với căn bệnh ung thư, giờ phút này sư em đã thực sự vẫy tay chào đại chúng trong tiếng niệm Bụt. Điều kiện đã mãn trong kiếp này, để rồi khi nhân duyên hội tụ sư em sẽ biểu hiện ở một đời sống mới đẹp hơn. Khi tu viện Lộc Uyển mới thành lập, sư em đã nghe theo lời chỉ dạy của Thầy đi về đó để cùng với quý sư cô khác xây dựng Lộc Uyển. Khi Bích Nham mới thành lập, sư em cũng tình nguyện về Bích Nham để cùng giúp xây dựng tăng thân. Sư em đã không phụ lòng Thầy Tổ. Giờ phút cuối sư em đã ra đi thanh thản. Tối qua khi chúng tôi làm lễ tẩy tịnh, Ôn Minh Tuấn đem một cây quạt màu vàng sậm, trên quạt có hình vẽ vòng tròn, trong vòng tròn là bút pháp của Thầy: “Con hãy mỉm cười đi để bước qua bờ bên kia”.

Trên con đường đến thiền đường Đại Đồng, tôi thấy tăng xá của quý thầy đã lên đèn màu rất đẹp. Mùa Giáng sinh đang về, các sư em đang treo đèn đón mừng, không khí sinh động như chưa từng hiện hữu một tang lễ vừa mới xảy ra mấy ngày trước đây. Bóng thời gian!

Mới hôm qua đây, tôi còn thấy Thầy đang ngồi trên bục giảng pháp. Mới hôm qua đây, tôi thấy mình đang giúp Thầy bón phân cho cây cúc đại đóa. Mới hôm qua đây, tôi thấy mình cùng với phái đoàn đi từng bước chánh niệm sau lưng Thầy lên đỉnh núi Linh Thứu… Bây giờ tất cả như là giấc mộng đẹp. Tôi phải chấp nhận sự đổi thay để thấy có những cái không bao giờ thay đổi. Đó là tình thầy trò, là tình huynh đệ, là bồ đề tâm. Những điều này sẽ sống mãi trong lòng tôi, kiếp này cho đến mãi những kiếp về sau.

 

Thầy trên đỉnh Linh Thứu tại Ấn Độ năm 2008


( Sư cô Chân Hoa Nghiêm )



Thương như Thầy thương

 

BBT phỏng vấn sư cô Đoan Nghiêm.

BBT: Thưa sư cô, hồi mới tới Làng, hình ảnh gì khiến sư cô ấn tượng nhất?

Sư cô Đoan Nghiêm: Nghèo và hoang sơ. Gia đình chị quen biết Làng đã lâu và thường hay kể về Làng khiến chị cũng có những hình dung trong đầu. Mùa đông năm 1989, lần đầu tiên đến Làng, chị chỉ thấy nhà đá và gạch đơn sơ, có khung nhà xây cất còn bỏ dở. Xung quanh nhìn hoang sơ lắm, hoàn toàn không giống như những gì chị nghĩ trước khi tới Làng. Chị hơi bất ngờ khi thấy Làng nghèo đến vậy. Thiền đường Cam Lộ hồi đó chỉ có mái tôn và sườn sắt thôi. Dãy nhà ăn ở xóm Hạ, lúc ấy, chỉ là những mảnh tường đá, vừa làm phòng ăn, phòng Sư Ông cho pháp thoại và nơi chứa củi. Mỗi khi mưa xuống là dột nước, phải lấy nồi, thau ra hứng nước mưa.

BBT: Vậy điều gì đã giữ chân sư cô ở lại cho đến ngày hôm nay?

Sư cô Đoan Nghiêm: Do tâm chị muốn tu. Ban đầu, chị về Làng vì tánh “tò mò” thôi. Các chị và các cháu chị nói nhiều về Làng nên làm cho chị muốn biết nơi này. Về Làng có những thời khoá sinh hoạt, thấy mọi người đi thì mình đi theo, chứ cũng chưa muốn tu học gì. May mắn là năm đó Sư Ông đang viết cuốn Đường xưa mây trắng (ĐXMT), và đem ra giảng dạy luôn trong khoá học mùa Đông đó. Được nghe Sư Ông giảng như đang nghe kể chuyện về cuộc đời và lối sống của đức Phật cùng các vị đệ tử. Thích lắm! Chính những câu chuyện đó cho chị thấy có một lối sống khác với lối sống ngoài đời. Thật sự, lúc đó chị cũng không biết mình muốn gì. Không có gì ở bên ngoài làm cho chị có cảm xúc và ham muốn hết, lúc nào chị cũng trầm tư và không thấy có lối thoát.

Sau đó chị được nghe kinh Con rùa mù. Đây chính là điểm then chốt cho quyết định của chị. Trong kinh Bụt dạy, sinh ra được làm người đã khó, được gặp pháp càng khó hơn, có cơ hội được làm người tu khó hơn nữa và trở thành bậc giác ngộ càng hiếm hoi. Nghe tới đâu, trong đầu chị đánh dấu tới phần khó nào mình đã vượt qua. Rồi chị thấy chỉ có phần đi tu là chị chưa làm, do đó chị quyết định đi tu. Bởi vì chị không muốn làm con rùa mù mất cả trăm năm mới có may mắn chui được vào bọng của khúc gỗ trôi trên biển cả. Chị muốn thử. Vì xa lạ với lối sống của người xuất gia và cũng vì muốn khám phá đời sống tâm linh, nên Sư Ông dạy gì là chị làm y chang theo lời Thầy dạy. Ví dụ kệ quét nhà, chị học thuộc lòng và đọc thành tiếng trong khi quét nhà. Mỗi một câu, cầm chổi quét một lần. Chú tâm lắm! Hồi đó chị rất nghe lời vì chị thực sự muốn tìm hiểu con đường này, vì chị nghĩ mình là ‘tay mơ’ trong đời sống mới này.

BBT: Thưa sư cô, hồi đó sư cô làm thị giả cho Sư Ông có vui không? Sư cô có được Sư Ông dạy cách làm thị giả không?

Sư cô Đoan Nghiêm: Sư Ông không hề dạy chị làm thị giả. Năm 1990, khi chị vừa xuất gia xong thì Sư Ông đi khóa tu bên Mỹ. Trước khi đi, Sư Ông đưa cho chị cuốn Sa di Luật giải của cố Hòa thượng Thích Hành Trụ. Sư Ông rất quý cuốn sách cũ đã ố vàng này. Sư Ông nói đây là cuốn Sư Ông thực tập hồi mới vô tu. Nghe vậy chị cũng rất quý quyển sách, còn mua bọc nhựa loại có keo dính vào bìa sách đã sờn, muốn rách. Tuy vậy, chị đọc quyển luật đó nhưng không để tâm lắm. Cho đến cuối năm 1992, chị mới có dịp hầu Sư Ông lần đầu tiên. Hôm đó, tuyết rất dày, xe không đi được nên, sau khi ăn tất niên, Sư Ông phải ở lại phòng Hoa Cau, xóm Hạ. Quý sư cô dạy chị làm thị giả cho Sư Ông. Chị vội đi lo đốt lò củi sưởi ấm phòng trước. Còn lại, Sư Ông bảo gì thì làm đó. Xong xuôi chị về phòng mình và bắt đầu lật lại cuốn Sa di Luật giải ra coi. Lúc này ráng ngồi học thuộc chương hầu thầy như thế nào! (cười)

Chị đọc đi đọc lại chương đó gần như suốt đêm. Lúc đó, chị có nhiều ‘trăn trở’ lắm. Trong sách dạy ‘không được ngủ trước thầy, phải dậy sớm trước thầy’. Nội chuyện đó không thôi cũng khiến chị thấy hoảng rồi! Chị tự hỏi: “Mấy giờ Thầy ngủ?”, “Mấy giờ Thầy thức?” Đọc đến đoạn nào thì đặt câu hỏi đoạn đó. Cho nên, đêm đó đâu dám đi ngủ trước Thầy. Chị lại phải chạy qua phòng Thầy xem đã tắt đèn chưa mới dám đi ngủ. Tại vì trong luật dạy là không được ngủ trước Thầy! Chị thì ở dãy nhà Nến Hồng, Sư Ông thì ở phòng Hoa Cau (dãy nhà Mây Tím). Hôm đó, tuyết lại phủ dày một lớp khá cao, vậy mà chị cứ chạy qua chạy lại coi phòng Sư Ông tắt đèn chưa chị mới dám đi ngủ. Nói chung là gần như cả đêm chị không ngủ. Nếu có ngủ cũng không yên. Cứ ngồi học thuộc trình tự chăm sóc thầy như thế nào, trong đó dạy cái gì thì mình sẽ làm giống cái đó.

 

 

Sáng hôm sau, không biết mấy giờ Sư Ông dậy. Chị nghĩ Sư Ông mình là thiền sư nên buổi sáng chắc cũng dậy sớm giống như mấy vị thiền sư trong các truyện thiền mà chị thường hay đọc, cho nên ba giờ sáng là chị chạy qua phòng Sư Ông rồi. Chị đi rón rén, rồi ‘khẩy móng tay’ thay cho tiếng gõ cửa! Bởi vì trong luật nói là ‘khẩy móng tay’, nên chị cũng làm theo là ‘khẩy móng tay’! Nhưng làm sao mà Sư Ông nghe được thứ âm thanh còn nhỏ hơn tiếng muỗi bay vo ve bên tai. Tiếng móng tay khẩy làm sao mà xuyên qua bức tường đá dày và cánh cửa bằng gỗ chứ! Hồi đó sao ngây thơ quá! Không nghe tiếng Sư Ông trả lời nên chị đành bỏ về.

Thế là chị cứ chạy qua chạy lại giữa hai nhà cho đến tám giờ sáng! Từ 3 giờ sáng tới 8 giờ sáng! Lúc đó, chị hết kiên nhẫn! Chị không thèm dùng móng tay để khẩy ra tiếng nữa, mà dùng đầu ngón tay gõ vào cửa. Ấy vậy mà chị vẫn không nghe tiếng Sư Ông trả lời. Chị bắt đầu gõ mạnh hơn. Không nghe Sư Ông trả lời gì hết. Chị nôn nóng quá, không biết có gì xảy ra cho Sư Ông không? Trong Luật có dạy, mình không được tự động đi vào nếu thầy không kêu vào. Quýnh quá, chị nhìn vào lỗ chìa khóa cánh cửa để coi phòng Sư Ông có bật đèn không. Bật đèn tức là Sư Ông đã dậy rồi. Chị nghĩ như vậy. Nhưng xuyên qua lỗ khoá, chị thấy phòng vẫn còn tối om. May là ngày xưa, học trò của Sư Ông ai cũng mang guốc. Ban đầu chị đi chân không vì sợ làm ồn Sư Ông, nhưng lúc đó chị lấy guốc mang vô, đi ‘cộp cộp’ cho đến trước cửa phòng, chị vừa gõ nhẹ một cái thì Sư Ông lên tiếng “Mời vô”. Trời! Chị mừng gì đâu!

Trong đầu chị đã có sẵn ‘một danh sách’ công việc cần làm mà cuốn Sa di Luật giảidạy. Vừa vô phòng Sư Ông, chị đóng cửa nhẹ nhẹ rồi quét con mắt khắp phòng. Lúc đó, Sư Ông còn đang trên giường nghe tin tức buổi sáng (Sư Ông nói chị mới biết), nên chị không dọn dẹp giường được. Chị đảo con mắt để coi phòng có ‘cái bô’ không. Đó là điều trong sách Luật dạy. Chị làm y chang theo sách chỉ dẫn mà quên mất là phòng Sư Ông có nhà vệ sinh kế bên rồi thì cần bô làm gì. Không thấy ‘cái bô’, chị quay qua lò củi, thêm củi vào lò, nấu nước sôi cho Thầy ngâm chân… Chị loay hoay làm theo ‘danh sách hầu thầy’ trong đầu của chị mà không để ý gì tới Sư Ông. Bỗng nhiên, chị nghe tiếng động sau lưng, quay qua thì thấy Sư Ông đã ngồi dậy. Sư Ông vừa đứng lên, chị nhảy sang giường để xếp mền liền. Sau đó, chị giăng võng ra vì Sư Ông rất thích nằm võng trong phòng. Sư Ông vừa đánh răng xong thì đến nằm võng. Chị quay qua pha trà. Sau đó đem thau nước nóng cho Sư Ông vừa ngồi nhâm nhi trà vừa ngâm chân. Sau khi không còn chuyện gì làm nữa, chị tới ngồi xuống bên cạnh võng và đợi xem Sư Ông dạy mình làm gì. Câu đầu tiên Sư Ông nói với chị là: “Để khi nào thầy rảnh, thầy dạy con làm thị giả! ”

Nhưng, cuối cùng Sư Ông cũng không dạy chị làm thị giả. Chị nghĩ lúc đó Sư Ông nói vậy là vì thấy chị lăng xăng quá!

Hồi đó, chị thật ngô nghê! Mỗi mùa đông, sau an cư, Sư Ông dẫn các sư con đi núi tuyết. Trong Luật Sa di dạy, theo hầu thầy, khi qua sông nước mình phải dò xem chỗ nào sâu chỗ nào cạn để biết chỗ đưa thầy qua cho an toàn. Mình sống ở đây làm gì có sông nước, chỉ có tuyết thôi. Lâu lâu mình đi trên tuyết có thể bị hụt chân. Chị nghĩ Sư Ông cũng có thể bị hụt chân, nên mỗi lần thấy có tuyết là chị đi băng qua trước mặt Sư Ông để dò đường. Chị cứ đi phía trước và cứ đạp chân xuống tuyết xem nông sâu thế nào. Sư Ông nói: “Đoan Nghiêm, thôi được rồi, không sao đâu con, thầy đi được”. Chắc Sư Ông thấy cái tướng chị lăng xăng quá. Chưa hết đâu, còn chuyện cầm dù cho Sư Ông nữa. Luật dạy khi đi mình không được đạp lên bóng của Thầy. Thành ra khi đi chị không nhìn Sư Ông mà chỉ nhìn bóng của Sư Ông để tránh đạp lên. Sư Ông đi chậm, cho nên nhiều lúc bận đi thì hướng mặt trời khiến bóng nằm bên này, lúc về thì hướng mặt trời và bóng của Sư Ông đều đổi sang bên kia, thế là chị cũng đổi vị trí đi sau lưng Sư Ông. Sư Ông thỉnh thoảng muốn dừng lại nói chuyện với đệ tử đi sau. Lúc trước, Sư Ông quay qua hướng này thì chị còn đứng đó, nhưng lúc sau chị đã đổi hướng rồi, Sư Ông quay sang không thấy chị đâu nữa!

 

 

Nhìn lại những kỷ niệm ngày mới tu, làm thị giả, chị rất vui khi thấy tâm mình đơn thuần. Mình hoàn toàn buông hết những lối suy nghĩ ngoài đời, cứ được dạy sao là làm y vậy, không hề đặt câu hỏi với Thầy.

BBT: Thưa sư cô, hồi đó Làng mình còn ít người, chúng con nghe kể là sư cô làm hết tất cả mọi chuyện: bửa củi, lái máy cày, sửa điện… Xin sư cô kể cho chúng con nghe cách sinh hoạt của Làng hồi đó.

Sư cô Đoan Nghiêm: Thời chị đã có đội luân phiên rồi, nhưng mỗi đội chỉ có một người! Vui lắm! Năm đầu tiên chị mới xuất gia, cái khó khăn cho chị là nấu ăn trong khóa tu mùa Hè. Trong chúng có vài ba sư cô, ai cũng có việc nấy. Mỗi người mỗi việc. Vào mùa Hè năm 1990, Làng mời cô Tám – chị ruột của sư cô Chân Không – đến nấu giúp và chị là người chạy việc cho cô Tám. Chỉ có hai người (cô Tám và chị) nấu ăn trong suốt ba mươi ngày của khóa tu. Nhiệm vụ của chị là rửa nồi, dọn dẹp, cắt gọt cho cô Tám và còn dọn dẹp, rửa nồi sau buổi ăn của thiền sinh nữa. Lúc đó, chị chỉ biết nấu duy nhất nồi cơm. Xóm Hạ toàn người Việt, ăn một ngày ba bữa đều cơm hết. Nhờ mùa hè đó mà chị biết nấu ăn. Hết khóa tu thì về lại đội luân phiên, mỗi người nấu một ngày mà ngày nào cũng là tiệc cả. Ngày xưa, Làng không có nhiều khóa tu như bây giờ, chỉ có khóa tu mùa hè và mùa đông, tổ chức lúc Sư Ông ở nhà.

 

 

Trong thời gian Sư Ông đi khóa tu bên Mỹ và châu Âu, mọi người ở nhà nghe lại băng giảng mùa hè của Sư Ông. Trong khoá tu hè, mọi người đều chấp tác nên không đi tham dự pháp thoại của Sư Ông được. Lúc đó chưa có video, chỉ có băng cassette thôi. Sinh hoạt đơn giản lắm, cũng công phu sáng tối giống như bây giờ. Nhưng sẽ có hai thời ngồi thiền xen kẽ đi thiền hành ở giữa. Thời thiền thứ hai xong mới ngồi xuống tụng kinh. Ngày xưa, kinh nhật tụng của Làng không có nhiều bài kinh như bây giờ. Công việc chấp tác chỉ quanh quẩn ở vườn mận, mình làm từ A tới Z, từ tỉa cây đến bón phân, chăm sóc. Chỉ có mấy thầy cô làm mà không thuê thêm người làm. Hơn một ngàn cây nên mình cứ loay hoay làm vườn mận suốt năm. Nhưng mà vui, vì nhà có bao nhiêu người là ra vườn mận hết, vừa làm vừa nói chuyện rồi chơi với nhau. Ngày xưa chỉ ăn cơm quá đường vào mùa hè. Sinh hoạt hồi đó đơn giản, cũng ít được nghe pháp thoại, trừ ba tháng mùa Đông. Hầu như thấy mình chơi nhiều hơn.

Hồi đó để tiết kiệm chi phí cho Làng, Sư Ông dạy chị phụ giúp thợ hồ sửa nhà. Chị được học lót gạch hay đổ xi măng, lót các loại cách nhiệt lên trần nhà… Chị không biết tiếng Pháp nên họ chỉ đâu thì làm đó. Khi kéo dây điện vào thiền đường Cam Lộ hay cốc Ngồi Yên, chị cùng làm với thầy Pháp Lữ (hồi đó là anh Hoàng). Hầu như cái gì mình cũng tự làm. Mùa đông lạnh, tụi chị tự đi kiếm củi vụn thải ra từ các xưởng cưa và dùng trong phòng cá nhân, củi mua thì dành cho phòng Sư Ông, thiền đường và phòng học vào ngày có pháp thoại. Củi vụn đốt thì nhanh cháy và cháy mạnh nhưng không có than, nên nửa đêm là phòng lạnh ngắt, mền cũng lạnh, phải nói là mình sưởi mền, sáng dậy không nổi. Đó cũng là một trong những lý do khiến chị lười đi ngồi thiền! Không biết có ai đó báo cáo cho Sư Ông, Sư Ông xuống xóm Hạ nói nhỏ với chị: “Này con, con cầm túi ngủ mà đi ngồi thiền, nếu cần thì con có thể ngủ trong thiền đường cũng được”. Lúc đó có ai cầm túi ngủ đi ngồi thiền đâu, vậy mà Sư Ông cho chị cầm túi ngủ vô thiền đường đó.

BBT: Sư cô có thể chia sẻ với chúng con về liên hệ thầy trò và cách Sư Ông chăm sóc, dạy dỗ sư cô không ?

Xóm Hạ năm 1987

Sư cô Đoan Nghiêm: Sư Ông chăm các con rất kỹ. Sư Ông thương chị còn nhỏ mà có một mình và sợ tâm chị không vững. Trước chị, có một sư chị tên là Chân Tu, sau khi xuất gia được mấy tháng đã bỏ đi, nên Sư Ông cũng sợ chị bỏ tu. Nếu không đi khóa tu, Sư Ông thường xuống xóm Hạ chơi và ăn cơm chung với các sư con. Lúc đó chỉ có năm người thôi: sư cô Chân Không, sư cô Chân Đức, sư cô Chân Vị, một sư cô từ trú xứ khác đến tên là Thanh Lương, và chị. Sư Ông ngồi ăn chung với các con rất vui, có khi Sư Ông dạy hát.

Chị biết hát là nhờ Sư Ông. Hồi đó chị hay nói: “Sư Ông nói con làm gì con cũng làm hết nhưng đừng nói con hát”. Chị không thích hát. Vậy là Sư Ông kêu chị hát riết. Mặc dù chị hát dở nhưng Sư Ông cứ kêu. Bởi vậy, đừng bao giờ nói trước mặt Sư Ông là mình không thích cái gì! Đến khi chị tự động hát và một lần bị Sư Ông bắt gặp. Sư Ông đi khoe khắp nơi. Sau đó, Sư Ông không kêu chị hát nữa, Sư Ông thấy mình đã thành công rồi.

Khi Làng có máy Macintosh đầu tiên, Sư Ông đã giao quyển vở viết tay về kinh Kim Cương để cho chị đánh vào máy. Chị còn nhớ lúc đó dùng font Binh Minh. Trước đó, Sư Ông toàn đánh máy chữ. Khi có máy tính thì Sư Ông mừng lắm và giao cho chị học sử dụng để đánh thành sách. Lúc mới vô tu chị rất ngại nói chuyện, chị ít mở miệng lắm, đến nỗi thầy Pháp Đăng nói: “Hình như sư chị Đoan Nghiêm một câu nói không quá mười chữ”. Khi mở miệng ra, chị nói ngắn ngủn, nên nghe hơi cộc. Cho nên khi đưa cho chị mấy bài viết tay, Sư Ông dạy: “Con học để ý cách thầy viết và cách thầy sửa bài. Con phải đọc luôn những phần thầy gạch và đặt câu hỏi tại sao”. Lúc đó hỏi thì hỏi, chứ không biết tại sao Thầy mình xoá chữ này, lấy chữ kia. Hỏi mà không bao giờ có câu trả lời. Theo thời gian thì từ từ mình hiểu ra và phân biệt được. Chỉ có tự trải nghiệm sẽ hiểu. Cứ mỗi lần sửa là mỗi lần hoàn chỉnh hơn. Đó là điều chị học được và thấy quý nhất trong khi làm sách với Sư Ông.

Sư Ông chưa bao giờ rầy chị, dù chị biết có rất nhiều người phản ảnh về chị lên Sư Ông. Những năm đầu không hiểu tại sao chị dễ khóc lắm. Khi có ai “méc” Sư Ông về chị, chị được Sư Ông gọi lên Sơn Cốc. Tới nơi, mở cửa ra đã thấy Sư Ông mặc áo tràng ngồi ngay giữa phòng nghiêm trang đợi chị vào. Vừa xá Sư Ông xong, ngồi xuống là chị khóc, khiến Sư Ông hết rầy chị được luôn! (cười). Chị cũng không hiểu tại sao mình khóc nữa. Chị nghĩ với tính nóng nảy không biết diễn bày nội tâm mình, lời nói lại cộc cằn, nếu nghe nhiều có thể sẽ dễ suy diễn lung tung, cho nên Sư Ông không nói gì chăng? Chị nghĩ như vậy.

 

 

Theo thời gian tu học, chị cảm nhận được cái tình của Thầy đối với mình, nên chị cũng muốn tiếp nối Thầy mình điều này: thương và không rầy các sư em. Chị nghĩ ai cũng cần cơ hội để thay đổi. Chị đã thay đổi thì chị tin là các sư em của chị cũng sẽ thay đổi.

Sư cô Chân Đoan Nghiêm )

Sự tiếp nối đẹp đẽ

 

Chúng ta về đây như muôn ngàn viên ngọc
Kết thành tràng phản chiếu sáng long lanh
Chúng ta hợp thành bồ tát ngàn mắt ngàn tay
Đem hiểu biết, tình thương hiến dâng cho thế giới

Từ muôn lối như muôn ngàn con suối
Ta trở về lòng biển hạnh mênh mông
Nước từ bi ngọt thấm mấy tầng không
Không là gì cả mà là tất cả

 
( Sư cô Chân Quy Nghiêm )

Tăng thân đích thực

 

Kính thưa đại chúng, hôm nay là ngày 14 tháng 10 năm 2010, chúng ta đang ở thiền đường Trời Phương Ngoại, Pak Chong, Thái Lan, trong khóa tu xuất sĩ với chủ đề Vườn Ươm.

 

 

Trí tuệ không biên giới

Trời Phương Ngoại tiếng Hán là Phương ngoại phương (方外方). Phương ngoại là không gian. Người tu rất cần không gian. Không gian này là chất liệu tự do, giải thoát. Mục đích của sự tu tập là đem thêm không gian vào trong trái tim, là cung cấp cho mình cũng như những người xung quanh thật nhiều không gian. Không gian này chúng ta đạt được bằng sự tu tập, bằng trí tuệ và từ bi.

Trí tuệ và Từ bi luôn đi đôi với nhau. Người nào có trí và bi thì người đó có nhiều hạnh phúc và không khổ nữa. Nhưng bi và trí không phải là hai cái riêng biệt, nó có liên hệ với nhau. Trí làm bằng bi và bi được làm từ trí, không có cái này thì cũng không có cái kia. Về tình thương, đạo Bụt thường nói tới Tứ vô lượng tâm(Brahmavihāra) gồm Từ (Maitrī), Bi (Karuṇā), Hỷ (Muditā) và Xả (Upekṣā). Bốn tâm này không có giới hạn nên gọi là Tứ vô lượng tâm, là tâm không có biên giới. Tình thương trong đạo Bụt là tình thương không có biên giới. Trong tất cả các tông phái Phật giáo, tông phái nào cũng dạy về Tứ vô lượng tâm và tông phái nào cũng công nhận sự thật là tình thương không bao giờ có biên giới, hễ còn có biên giới thì chưa phải tình thương đích thực của Bụt. Vô lượng tâm là trái tim không có biên giới.

Điều này quan trọng lắm vì chất liệu làm ra tình thương là trí tuệ. Không hiểu thì không thể thương. Đây là điều chúng ta có thể kinh nghiệm được. Nếu người cha không hiểu được những khó khăn, buồn khổ của con thì người cha càng thương càng làm con khổ. Giữa thầy trò cũng vậy. Nếu thầy không hiểu những khó khăn, khổ đau của đệ tử thì thầy chưa biết thương đệ tử, chưa giúp được đệ tử. Thành ra người thầy phải có bổn phận hiểu được đệ tử của mình. Khi vị thầy đã hiểu thấu được những khó khăn, khổ đau, dằn vặt của đệ tử thì lúc đó thầy mới thật sự có tình thương. Và những điều thầy nói, thầy dạy, thầy làm mới có thể giúp được cho đệ tử. Trước đó dầu có muốn thương bao nhiêu đi nữa cũng chưa phải là tình thương đích thực. Đệ tử đối với thầy cũng vậy.

Bây giờ chúng ta đi tới một kết luận rất quan trọng: Nếu cái bi không có biên giới thì cái trí cũng không có biên giới. Nếu cái thương không có biên giới thì cái hiểu cũng không có biên giới. Cho nên phải xét lại những danh từ như là nhất thiết trí hay toàn giác. Cái trí được gọi là nhất thiết trí phải là cái trí không có biên giới. Nếu ai đó nói tôi đã có đầy đủ trí tuệ rồi, không thể có trí tuệ cao hơn nữa thì trí tuệ đó chưa phải là trí tuệ của Bụt. Là đệ tử Bụt, chúng ta hay xưng tụng Ngài là bậc có trí tuệ cao tột, không có trí tuệ của ai cao hơn được là bởi vì ta thương kính Ngài. Nhưng chưa chắc Ngài đã công nhận điều đó. Điều này có thể có nhiều người không chấp nhận được vì đã mấy ngàn năm nay ta đã quen với điều đó rồi. Xưng tụng Ngài là bậc Vô thượng chánh đẳng chánh giác nghĩa là cho rằng trí tuệ của Ngài đã tới mức cùng tột, cao nhất; nghĩa là nó có biên giới, có giới hạn. Điều này chưa chắc đúng vì nếu tình thương không có biên giới thì trí tuệ làm ra tình thương cũng không có biên giới. Nó luôn có thể lớn hơn. Đây là một công án, một chủ đề cho chúng ta quán chiếu. Nếu chúng ta bị kẹt vào thái độ giáo điều thì chúng ta không thể hiểu được.

Bụt có cần thực tập không?

Trong kinh ghi rõ là sau khi thành đạo, Bụt vẫn thiền hành, thực tập an ban thủ ý, ăn cơm im lặng và tham dự các buổi pháp đàm với các thầy. Chúng ta hỏi: Người chưa thành Bụt mới cần thực tập, tại sao thành Bụt rồi mà vẫn phải làm những chuyện đó? Nếu dành thời giờ để quán chiếu, ta sẽ tìm ra câu trả lời. Bởi vì thực tập không phải chỉ để thành Bụt. Thành Bụt thôi chưa đủ.

Những thực tập đó có mục đích gì ngoài mục đích thành Bụt? Câu trả lời rất rõ. Vì những thực tập đó nuôi dưỡng mình. Bụt cũng có một cơ thể, một đời sống hàng ngày và Ngài cũng có nhu yếu được nuôi dưỡng, được trị liệu bằng các phương pháp thực tập.

Dựng tăng – sự nghiệp của các vị Bụt

Mà thành Bụt để làm cái gì mới được chứ? Thành Bụt là để cứu độ chúng sanh. Thành Bụt mới là sự khởi đầu. Mỗi vị Bụt đều có một sự nghiệp cần phải hoàn tất. Vì vậy sau khi thành đạo, ngồi dưới gốc cây bồ đề để dưỡng sức bằng năng lượng tỉnh giác, đức Thế Tôn bắt đầu nghĩ đến sự nghiệp của mình. Sự nghiệp đó là xây dựng tăng thân. Nếu không có tăng thân thì một đức Thế Tôn cũng không làm được gì nhiều. Nhờ có tăng thân mà Bụt hoàn tất được sự nghiệp hóa độ của Ngài. Tăng thân của Bụt có khả năng đem giáo pháp đi vào cuộc đời. Bụt có rất nhiều chuyện để làm, chứ không phải thành Bụt rồi là xong.

Tu với tăng thân

Có một điều chúng ta phải thấy rõ là giáo pháp của Bụt trao truyền không phải để ta thực tập một mình. Từ Kinh cho đến Luận hay Luật, tất cả đều nói rằng giáo pháp của đức Thế Tôn là để thực tập với tăng thân chứ không phải để thực tập một mình. Khi ta thọ giới, dù là giới sadi, giới khất sĩ, hay giới ưu bà tắc, ưu bà di thì ta cũng phải tụng giới. Không tụng giới là phạm giới. Mà tụng giới với ai? Tụng giới với những người cùng tu. Nếu là sadi thì tụng giới với những vị sadi. Nếu là khất sĩ nam thì tụng giới với các vị khất sĩ. Nếu là khất sĩ nữ thì tụng giới với các vị khất sĩ nữ. Nếu an cư thì ta cũng phải tìm đến an cư chung với các bạn đồng tu. Tu là phải có một tăng thân. Tam quy là chuyện căn bản. Khi nói Sangham saranam gacchami – con về nương tựa Tăng, nghĩa là con nguyện không bao giờ ly khai tăng thân. Không nương vào tăng thân là không phải Phật tử. Điều này rất rõ ràng.

Cho nên nghĩ rằng đi vào núi tu cho thành Bụt rồi làm gì thì làm, chứ ở với loài người quá rắc rối phiền nhiễu là một ý tưởng rất sai. Nếu có vị nào ôm ấp ý tưởng muốn đi vào núi tu một mình cho khỏe thì nên buông bỏ ngay lập tức. Theo đạo Bụt, đó là tà tư duy. Tu là luôn luôn phải tu với một tăng thân. Và nếu chúng ta đang sống với một tăng thân còn có những yếu kém, thiếu sót thì ta phải làm thế nào để giúp cho tăng thân đó có phẩm chất hơn.

Giáo lý của đạo Bụt cống hiến cho chúng ta không phải để cho chúng ta tu một mình. Khi tu một mình, năng lượng niệm và định ta chế tác ra có thể còn yếu, không đủ sức giúp cho ta chuyển hóa và đem lại nhiều không gian trong trái tim. Khi tới với một tăng thân có nhiều người biết tu tập, biết chế tác năng lượng chánh niệm, chúng ta sẽ thấy có một nguồn năng lượng tập thể của niệm và định rất hùng hậu. Ta có thể mượn nguồn năng lượng đó để làm công việc mà ta không đủ khả năng làm được khi ở riêng. Cũng như một giọt nước muốn đi ra biển, giọt nước đó phải biết rằng một mình đi ra biển rất khó thành công, nửa đường có thể bị bốc hơi và trở thành một phần của đám mây, rồi sẽ đi loanh quanh hoài không bao giờ ra đến biển cả. Nhưng nếu giọt nước đó đi vào dòng sông, để cho dòng sông ôm ấp và chuyển hóa thì chắc chắn nó sẽ đi ra tới biển. Người tu phải để cho tăng thân dẫn dắt, để cho tăng thân ôm ấp, chuyên chở thì mới thành công.

Chân tăng

Tăng là một đoàn thể những người cùng tu tập với nhau, có khả năng chế tác được năng lượng niệm (Smrti) và định (Samādhi). Khi thở hay đi, chúng ta thở và đi như thế nào để có khả năng chế tác niệm và định. Nếu một tăng thân, một đoàn thể thực tập như vậy thì khi tiếp xúc chúng ta sẽ nhận ra ngay. Đó là một tăng thân đích thực. Khi tới với một nhóm người mà chúng ta không thấy năng lượng hùng hậu của niệm và định thì dầu nhóm người đó có mặc áo nâu, khoác y vàng thì đó cũng không phải là tăng thân đích thực. Có thể đoàn thể đó có hình thức của một tăng thân nhưng nội dung không phải là một tăng thân. Tăng ở đây không phải là một người xuất gia mà là một đoàn thể của những người xuất gia.

 

 

Chân tăng (True Sangha) là một đoàn thể có tu tập, một đoàn thể chế tác được chánh pháp. Khi thở, khi đi thì chế tác được chánh niệm và chánh định về hơi thở, bước chân. Khi ăn cơm, uống nước, rửa bát, hay chải răng… đều có khả năng chế tác năng lượng niệm và định. Năng lượng tập thể của niệm và định hùng hậu thì chúng ta biết tăng thân này là một chân tăng và ta phải nương tựa vào đoàn thể đó. Chúng ta là một người may mắn nếu gặp được một tăng thân như vậy. Tăng thân đó chứa đựng chánh pháp (gọi là chân pháp). Pháp ở đây không phải là pháp nói ra thành lời, cũng không phải là pháp viết thành sách. Pháp nói ra thành lời hay viết thành sách cũng là pháp, nhưng chưa quý bằng pháp linh động (living dharma). Pháp linh động là khi ta thở hay bước đi trong chánh niệm, chánh định. Bằng hơi thở, bước chân, mỉm cười, chải răng, giặt áo, chúng ta chế tác được pháp linh động đó, và pháp đích thực đang có mặt. Pháp có mặt thì Bụt cũng đang có mặt. Đây là Bụt thật (chân Bụt), được làm bởi năng lượng của niệm, định và tuệ chứ không phải làm bằng đá, xi măng, tạc bằng đồng hay được vẽ bằng sơn dầu. Đức Thích Ca được gọi là Bụt vì Ngài có năng lượng của niệm, định và tuệ. Nếu một thầy hay sư cô có năng lượng đó, vị ấy cũng là Bụt. Bụt lớn hay Bụt nhỏ là tùy theo năng lượng đó hùng hậu nhiều hay ít.

Có người hỏi: bây giờ tìm Bụt ở đâu? Rất dễ trả lời. Khi ta tìm được một tăng thân có tu học, có chế tác được niệm, định và tuệ, tức là ta tìm được pháp, và tìm được pháp rồi thì Bụt ở trong đó. Bụt đang có mặt đích thực trong pháp và trong tăng.

Nương tựa tăng thân để tu học và độ đời

Sáng nay chúng ta tụng kinh Người biết sống một mình sau giờ ngồi thiền. Chúng ta hiểu rằng người biết sống một mình không phải là người tách rời tăng thân, đi lên núi ở một mình. Trong Trung bộ (Majjhima Nikāya) có nhiều kinh nói về đề tài sống một mình, trong đó có kinh Bhaddekaratta. Có người dịch là kinh Nhất dạ hiền giả. Trong kinh nói rằng không nên để cho quá khứ hay tương lai lôi kéo, chúng ta phải an trú và quán chiếu những gì đang xảy ra trong giây phút hiện tại. Nhờ sự quán chiếu đó mà ta được gỡ rối và chuyển hóa, từ đó đem lại nhiều không gian trong trái tim để ta có hạnh phúc. Vì vậy, người biết sống một mình ở đây là người biết sống trong giây phút hiện tại, và người đó có thể sống một mình với tăng thân mà không đánh mất mình trong đám đông. Thực tập thiền hành, ngồi thiền hay ăn cơm với tăng thân hai ngàn người nhưng mình vẫn là mình. Chúng ta không tự đánh mất mình, trái lại còn thừa hưởng được năng lượng tập thể của tăng thân. Con về nương tựa tăng hay như vậy đó!

Ngày xưa đức Thế Tôn đã để ra rất nhiều tâm huyết và thời gian xây dựng tăng thân. Sau khi thành đạo rồi, việc đầu tiên Ngài làm là đi tìm những người cùng chí hướng để xây dựng một tăng thân. Nhóm đông nhất mà Ngài thâu nhiếp làm đệ tử xuất gia là 500 học trò của ông Uruvelā Kassapa và đoàn thể của hai người em, vốn theo đạo thờ thần Lửa. Chỉ trong vòng mười ngày mà đức Thế Tôn có trên một ngàn đệ tử xuất gia. Các vị này còn chưa giỏi, vẫn còn ô hợp, chưa biết tu tập. Bụt đã đem tất cả lên núi Tượng Đầu (Gayasisa) để dạy cho họ từng hơi thở, từng bước chân, cách ôm bát, cách đi, đứng, nằm, ngồi. Sau khi tập luyện vài tuần lễ, Ngài mới cho họ về thành Vương Xá (Rājagaha) để đi khất thực lần đầu tiên. Lúc đó Bụt chưa có các ngài Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên hay các vị đệ tử giỏi làm phụ tá. Một mình Ngài phải huấn luyện tới cả ngàn vị tân tỳ kheo. Đây là chuyện không dễ, vậy mà Ngài đã làm rất hay. Chưa đầy một năm mà Bụt đã xây dựng được một tăng thân với một ngàn hai trăm năm mươi vị. Đức Thế Tôn là một người dựng tăng xuất sắc.

Tăng thân rất cần thiết cho sự hoàn thành sự nghiệp của một vị Bụt. Cho dù thành Bụt rồi vẫn cần đến tăng thân, huống hồ là mình chưa thành Bụt. Cho nên câu Con về nương tựa tăng không phải là một lời tuyên bố suông. Phải bám lấy tăng thân, phải xây dựng tăng thân, đừng ly khai tăng thân. Nếu chưa có tăng thân thì phải đêm ngày tâm tâm nguyện nguyện làm thế nào để xây dựng một tăng thân. Chưa có tăng thân thì chưa có nơi nương tựa, thành ra xin quý vị đừng nghĩ rằng Sangham saranam gacchami – con về nương tựa Tăng là một lời tuyên bố về đức tin. Đó là công việc xây dựng tăng thân.

Khi thực tập nghe chuông hay thực tập thiền hành, chúng ta ngưng nói và suy nghĩ (suy nghĩ tuy không có tiếng nhưng đó là sự nói năng bên trong) bằng cách để hết tâm ý vào hơi thở và vào tiếng chuông hay bước chân, như vậy ta chế tác được niệm và định. Có niệm và định là ta đang được Tam bảo che chở. Cái đó đích thực là quy y. Không phải khi ta đọc con về nương tựa Bụt, con về nương tựa Pháp, con về nương tựa Tăng mà chắc chắn ta được che chở. Khi thở vào có chánh niệm và lắng nghe tiếng chuông thì tuy ta không nói con về nương tựa Bụt, con về nương tựa Pháp, con về nương tựa Tăng nhưng thực sự ta đang quy y, đang đặt mình dưới sự che chở của Tam bảo. Tam bảo ở đây là năng lượng của niệm và định. Mỗi tiếng chuông, mỗi bước chân như vậy có giá trị trị liệu, nuôi dưỡng, giải phóng. Nếu hành trì cho hay thì mỗi tiếng chuông, mỗi bước chân có thể giúp ta tiếp xúc được với tịnh độ, với vô sinh. Không khó đâu! Chúng ta có thể làm được. Đây không phải là một ước mơ xa vời. Chúng ta có thể chứng đạo bằng cách đi thiền hành, bằng nghe chuông trong chánh niệm. Chúng ta có thể làm cho Tịnh độ có mặt hiện tiền bằng những bước chân, bằng việc đặt hết tâm ý vào tiếng chuông chánh niệm cùng tăng thân.

Nếu chúng ta muốn là đệ tử của Bụt thì phải học cách xây dựng tăng thân. Nếu Thầy muốn là một học trò giỏi của Bụt thì Thầy cũng phải học cách xây dựng tăng thân. Thầy xây dựng một tăng thân thật dễ thương, có nhiều người có ý chí muốn tu. Và kết quả sẽ là một phần thưởng rất lớn.

Tình huynh đệ – thức ăn quan trọng của người tu

Hồi còn là một ông thầy tu trẻ, một vị tân tỳ kheo mới ngoài hai mươi tuổi thì ước muốn sâu sắc nhất của Thầy là xây dựng một tăng thân dễ thương. Thầy đã dùng cụm từ tăng thân dễ thương, nơi đó anh em sống với nhau trong tình huynh đệ, thương nhau như anh em ruột thịt và cùng nhau đi tới như một đoàn thể. Thầy đã không có ý thích làm sư trưởng hay trụ trì. Những điều đó không có gì hấp dẫn Thầy. Và giấc mơ ấy sau này đã thực hiện được. Năm 1954-1955, Thầy có cơ hội thực hiện giấc mơ đó lần đầu tiên. Hồi đó, đất nước Việt Nam bị chia đôi, Phật học đường Ấn Quang đang bị khủng hoảng, tinh thần học tăng rất hoang mang và xáo động, không biết con đường đi tới như thế nào. Các vị thượng tọa trong Ban giáo thọ không trấn an được học tăng. Các thầy đã cầu cứu Thầy, nhờ Thầy trấn an tinh thần học tăng, tổ chức lại nếp sống của Phật học đường Ấn Quang. Thầy đã gần gũi với các thầy, các sư cô trẻ và chỉ cho họ đường đi nước bước để đi qua giai đoạn khó khăn đó. Hòa thượng Thích Tịnh Khiết tại chùa Ấn Quang đã yểm trợ rất nhiều cho Thầy bằng tình thương và sự tin tưởng.

Cách đây mấy tháng, tại Làng Mai, Thầy có một giấc mơ đơn sơ nhưng làm cho Thầy rất hạnh phúc. Thầy mơ thấy Thầy thức dậy ở một ngôi chùa hay một trung tâm thực tập nào đó mà Thầy cảm thấy không khí thực tập rất vui. Còn nằm trên giường, Thầy hỏi một vị đang có mặt gần đấy: cái gì mà vui vậy hả con? Vị ấy trả lời: bạch Thầy, có mấy huynh đệ vừa về tới. Chúng con đang nấu một nồi cơm để ăn chung cho vui. Vẫn trong giấc mơ, Thầy ngồi dậy, bước ra sân chùa, đi thiền hành, nhận diện từng chậu lan, khóm trúc, gốc cây, chồi hoa mà lòng vui như mở hội, vì cảm thấy mình đang được sống trong lòng tăng thân. Có gì đâu, chỉ có vài huynh đệ vừa về tới, chỉ có một nồi cơm sắp chín để huynh đệ có dịp ngồi ăn với nhau. Chỉ có những chậu lan, khóm trúc ngoài sân chùa. Nhưng tại sao mà vui đến thế? Tại vì chúng ta đang còn có nhau, chúng ta có tình huynh đệ. Một giấc mơ nhỏ, đơn sơ nhưng làm Thầy hạnh phúc trong bao nhiêu ngày. Chính tình huynh đệ, chính cái hạnh phúc đơn giản ấy làm cho ta tu được suốt đời. Người tu cũng cần thức ăn, và thức ăn quan trọng có thể giúp cho người tu thành công được suốt đời chính là tình huynh đệ. Chúng ta cần nhớ rằng, ngoài tăng thân ta không thể có tình huynh đệ.

Thầy muốn trao truyền hạnh phúc và kinh nghiệm của Thầy cho các con. Nếu các con muốn làm người xuất gia có hạnh phúc, nếu các con muốn tu trọn đời, hoàn thành được sự nghiệp của người xuất gia thì các con phải tâm niệm xây dựng được một tăng thân hòa hợp, có tình huynh đệ. Có một tăng thân như vậy thì không những chúng ta được nuôi dưỡng mà còn có thể giúp đời nhiều hơn. Nếu Bụt không có tăng thân thì Ngài đã không thể hoàn thành được sự nghiệp vĩ đại và trao truyền nó cho chúng ta. Bây giờ cũng vậy, là con cháu của Bụt, chúng ta phải phát lời nguyện đó: con nguyện theo đức Thế Tôn, nguyện xây dựng một tăng thân có tình huynh đệ, có hạnh phúc để con được nuôi dưỡng và có cơ hội độ đời.

 

( Sư Ông Làng Mai )

Nhập Lưu, ngày bình thường

 

Bạch Thầy kính thương,

Hai chị em chúng con về đến Nhập Lưu vào một buổi tối trời khá lạnh. Đón chúng con trên đường là một chú gấu túi (wombat) chạy ục ịch phía trước một đoạn khá xa, trong ánh đèn xe. Sư chị con phải cho xe đi chậm lại để chờ chú tấp vào lề. Ai cũng muốn chú quay lại để thấy mặt nhưng thật tiếc là chú chỉ cắm cúi chạy về phía trước. Tuy vậy, niềm vui và sự phấn khởi chú mang lại cho chị em con vẫn rất nhiều.

Bước xuống xe, không khí lạnh buổi tối phả vào mặt làm con tỉnh táo. Hai tuần đầu tiên sau khi đến Úc, chị em con cách ly ở Perth trong một khách sạn. Cả hai tuần không được bước ra khỏi căn phòng mười sáu mét vuông nên không khí mát lạnh, trong lành là một món ăn thật ngon lành cho hai lá phổi của con.

Chúng con đã sử dụng thời gian cách ly một cách rất thích đáng bằng cách áp dụng sự thực tập hiện pháp lạc trú, nhận diện những điều kiện hạnh phúc đang có sẵn, kết nối với tăng thân địa phương và sử dụng cơ hội sống chung để chị em hiểu nhau hơn.

Vừa lạ vừa quen

Tu viện Nhập Lưu được dời về chỗ mới vào tháng Sáu, ngay trước mùa an cư. Khi chúng con đến, tu viện chỉ có năm sư cô, trong đó có sư cô Trung Chính về an cư ba tháng. Sau an cư sư cô về lại Lộc Uyển để tham dự Đại giới đàn, vì vậy tu viện chỉ có tất cả là sáu sư cô, tính cả hai chị em chúng con.

 

 

Những ngày đầu bỡ ngỡ, vừa lạ vừa quen. Lạ là có nhiều cái khác với xóm Mới, nơi chị em con đã tu học trong nhiều năm. Từ cái máy giặt, nhà bếp, nhà ăn, thùng rác chuyển hóa, cho đến số lượng xuất sĩ khá là nhỏ so với đại chúng bên Làng. Nói chung, nhiều thứ cần phải làm quen. Còn một cái “lạ” nữa là ở đây khi ra phố thấy ai cũng… nói tiếng Anh. Mấy tuần đầu, khi những người Úc thân thiện gặp mình chào “hello”, con vẫn còn theo thói quen trả lời “Bonjour”. Trả lời xong, ngẩn ra, cười quê quê!

Quen là diện tích đất ở đây hơi tương tự xóm Mới, tuy địa hình hơi dốc một chút. Đất không rộng lắm, chỉ vừa đủ để con thưởng thức không gian, vừa đủ để một người hơi lớn tuổi leo hết dốc trong tu viện mà chân không quá mỏi. Thời khóa, pháp môn, sinh hoạt nơi đây được duy trì đều đặn nên con thấy mình có thể hòa chúng ngay mà không cần một sự cố gắng nào.

Chúng con may mắn có cơ hội được tham gia an cư trong vài tuần cuối. Mùa đông lạnh nhưng đại chúng vẫn theo thời khóa miên mật. Sáng nào cũng có cư sĩ tham dự ngồi thiền tụng kinh trực tuyến, trừ ngày thứ hai làm biếng. Sau khi sư chị Sinh Nghiêm về nhập chúng thì có thêm thời khóa tập khí công sau giờ công phu. Ban đầu, sư chị chỉ có ý định tập để cho bố mẹ tham gia cũng như tự thân được tập đều đặn, nhưng rồi có nhiều người tập chung và thời khóa này đã trở nên rất được yêu thích. Bây giờ, sư chị đã xây dựng được một nhóm gồm có cả các vị cư sĩ thay phiên nhau hướng dẫn mỗi sáng.

Quà tặng từ thiên nhiên

Thiên nhiên nơi đây thật ưu đãi chúng con. Sáng hay chiều, lúc nào cũng có các chú Kangaroo đến thăm những bãi cỏ xanh xung quanh ni xá. Tu viện có nhiều hồ nước nhỏ nên các chú vịt trời đang mùa nuôi con tìm về rất đông. Quan sát các chú vịt trời, chúng con dần dần nhận diện chúng. Có những cặp không con, có khi một con vịt lẻ loi, đi một mình, có khi chỉ một con vịt mái nuôi đàn con năm đứa.

Con đặc biệt chú ý đến một cặp bố mẹ nuôi hai con vịt con bởi chúng chiếm cứ cả một vùng rộng xung quanh ni xá. Dần dần chúng đã cho các sư cô đến khá gần, còn các con vịt khác đến là bị đánh đuổi đi ngay. Quan sát cách chúng nó nuôi dạy con rất thú vị. Hai cha mẹ cứ đi theo con, con đi đâu, cha mẹ đi theo đó chứ không bắt con đi theo mình. Chỉ đi theo để quan sát và bảo vệ. Có vẻ như những con vịt không có con muốn đến để bắt vịt con của người khác về nuôi. Khi có vịt khác đến gần nhưng vẫn còn trong vùng an toàn, hai cha mẹ vịt bèn đi xen giữa con và vịt lạ, không hành động gì cả chỉ đi về hướng ngược lại để vịt con đi theo. Chỉ khi nào mấy con vịt con ngây thơ cứ xăm xăm mải mê ăn mà đi về hướng “địch” thì chừng đó hai con vịt lớn mới đánh đuổi vịt lạ mà thôi.

Có những lúc chị em chúng con đứng mải mê nhìn thế giới động thực vật sinh động xung quanh mình thật lâu và cảm thấy được nuôi dưỡng rất nhiều. Hôm nọ, một sư cô đứng quay phim con nhím đang tìm thức ăn trên bãi cỏ thì tự nhiên con nhím ngước nhìn sư cô, rồi tiến lại dũi mỏ vào bàn chân sư cô.

Đồng lòng

Ở đây, dù có mấy chị em nhưng thời khóa và sự thực tập không có gì khác so với thời gian con ở xóm Mới. Có những thực tập nho nhỏ mà con thích từ hồi còn sadi vẫn được duy trì làm cho con rất hạnh phúc. Thí dụ như sau khi thỉnh chuông ăn cơm im lặng rồi thì mình không vào khất thực nữa mà phải đợi sau hai tiếng chuông mới vào để không động chúng. Nhờ vậy nên ai cũng cố gắng đi đúng giờ.

Chúng con về được vài tuần thì có khoá tu online. Covid vẫn đang hoành hành khắp nơi trên nước Úc. Không thể tổ chức hai khóa tu, một bằng tiếng Anh, một bằng tiếng Việt tại tu viện như dự định lúc ban đầu được nữa nên chúng con gộp lại, tổ chức chỉ một khoá tu hai ngôn ngữ. Lần đầu tiên có khoá tu online nên chúng con hơi dè dặt, chẳng biết khả năng của mạng lưới Wifi ở đây có đủ sức đảm đương hay không nên không dám nhận nhiều thiền sinh, chỉ giới hạn tối đa 100 đến 110 người. Nhiều người đăng ký trễ, không được tham dự nên rất buồn làm chúng con khá áy náy. Mới ban đầu chúng con sợ “bị ế” nên nhờ trang nhà Làng Mai cả Anh lẫn Việt quảng bá khóa tu cho rộng rãi. Thế là thiền sinh từ Nhật, Trung Quốc, Nam Phi, v.v. cũng đăng ký làm số lượng tăng lên khá nhanh. Một số người ở Úc để “thủng thẳng rồi hãy đăng ký”, không ngờ những người ở ngoài Úc đăng ký trước nên họ không còn chỗ.

Tất cả chỉ có sáu sư cô, vừa làm ban tổ chức, ban ghi danh, cho pháp thoại, hướng dẫn pháp đàm, thảo luận theo chuyên đề (workshop), ngồi chuông các thời khoá hàng ngày, làm thiền buông thư, và còn nấu ăn nữa. Vậy mà khoá tu đã diễn ra rất suôn sẻ và thành công. Đó là nhờ sự yểm trợ hết lòng của các vị thiền sinh cư sĩ trong việc thông dịch và kỹ thuật. Rất nhiều hoa trái của sự thực tập đã được thiền sinh ghi lại, gửi đến trang nhà Nhập Lưu để chia sẻ, nuôi dưỡng và tạo cảm hứng cho người khác. Chúng con thấy mình thật may mắn được tham dự vào dòng chảy này.

 

 

Nuôi dưỡng

Mùa xuân ở xứ sở Kangaroo này bắt đầu vào khoảng tháng Mười. Nhìn từng nụ hoa, chiếc lá từ lúc mới nhú trên cành đến lúc nở bung ra, con thấy sức sống của đất trời thật mầu nhiệm. Không hiểu sao con rất thích thưởng thức lá non, có khi còn hơn cả hoa nữa. Ở Úc phần nhiều đất đai là sa mạc, mưa ít nên nhìn thấy cây cối ở đây nảy lộc đâm chồi, tự nhiên thấy lòng biết ơn chi lạ! Màu xanh của lá ở đây cũng khác so với ở châu Âu, không mơn mởn mà có gì đó hơi khắc khổ một chút, nhưng con thấy nó đẹp bởi vì nó mang trong mình sự chịu đựng, kiên trì và nhẫn nại. Cùng với hệ thống rễ, những chiếc lá này miên mật làm việc để nuôi cây. Không có chúng, cây không thể lớn được.

Năm ngoái, xóm Mới phát động phong trào trồng cây thay cho những cây mận chết trên đồi. Mỗi sư cô nhận một, hai, hay nhiều cây hạnh nhân để chăm sóc, tưới nước khi cây còn nhỏ. Ban chăm sóc in tên từng sư cô và còn gắn dải ruy băng rất đẹp để mỗi sư cô buộc vào cây của mình. Sau khi trồng cây xuống, buộc bảng tên đó lên cây, tự nhiên ai cũng thấy có sự gắn bó lạ lùng. Đôi lúc ra nhìn vườn mận, thấy thấp thoáng bóng áo nâu của các sư cô đi thăm và chăm sóc cây của mình mà lòng vui chi lạ. Có người đi thiền hành còn tranh thủ bọc theo chai nước để tưới cây. Con cũng không ngoại lệ. Ra thăm cây, nói chuyện với nó, làm hàng rào xung quanh để dê, cừu của hàng xóm không vào gặm lá, gặm cành. Lòng mừng vui khi thấy xuân tới, thời tiết ấm lên và lá non bắt đầu nhú ra mơn mởn.

Hôm đó con ra thăm cây, thấy những chiếc lá non bị côn trùng gặm nham nhở, có lá chỉ trơ lại những sợi gân mỏng manh. Nhìn vào con biết cây không thể nào sống tiếp. Cây còn nhỏ, lại ít lá quá. Trong lòng con thấy buồn buồn vì không cứu được nó. Cũng như tâm bồ đề của chúng con, từ thuở ban sơ là một tế bào, đi qua nhiều kiếp, nhiều thế hệ, đã từ từ thành một hạt giống, ươm mầm và nhú lên màu xanh. Có thể bây giờ tâm bồ đề của con và của nhiều huynh đệ vẫn còn đang trong giai đoạn búp non, cần phải qua nhiều giai đoạn, nhiều kiếp nữa mới trở nên dũng mãnh và viên mãn như các bậc long tượng trong sơn môn, như Hòa thượng Hư Vân, như Thầy. Tuy nhiên, sự có mặt của những búp non này vẫn rất mầu nhiệm. Không có búp non thì sẽ không có lá, không có hoa. Lá non vô cùng quan trọng. Nếu lá non bị gặm nhấm như cây hạnh nhân của con thì không còn hy vọng là cây sẽ sống, nói chi đến việc cắm rễ trong tăng thân.

Công phu hàng ngày và những thanh quy tưởng như lặt vặt lại là loại thuốc chống côn trùng hiệu quả để cho lá non không bị gặm nham nhở dẫn đến sự kiệt quệ của cả cây phải không thưa Thầy? Tuệ giác tích tụ qua kinh nghiệm hàng ngàn năm của các thế hệ cao tăng đi trước thật là bất khả tư nghì. Nơi tu viện mới con đang ở chỉ có sáu chị em, nếu không có công phu tu tập hàng ngày miên mật bảo hộ thì thật khó để đi đường dài.

Buông bỏ

Trước khi về đây, hai chị em con dặn nhau cần thực tập mở lòng cho những cái gì mới đi vào, đừng nên mỗi chút mỗi nhắc lại “bên xóm Mới, bên Làng là vậy, là vậy nè”. Thế mà trong những ngày ở đây, lâu lâu hai chị em lại bắt gặp mình nói câu y chang như vậy.

Ở Úc có loại khuynh diệp da láng. Mùa hè là mùa chúng “lớn vỡ da” (decorticating), nghĩa là nhựa cây căng tràn và cây phải nứt da cũ ra cho cây được lớn lên. Những dải dài da cũ mắc trên cây, khô cứng lại, chờ gió lớn thì rơi xuống. Chúng con hay lượm vào nhen lửa trong mùa đông. Nhiều lúc đi thiền hành, nhìn những cây khuynh diệp lột vỏ cũ để lộ ra lớp vỏ mới xanh non mà con thấy mình như được nhận một bài pháp thoại về sự buông bỏ. Cây càng lớn thì các dải vỏ cũ càng dài và càng nhiều. Quá trình lớn vỡ da này không bao giờ ngừng lại. Chỉ khi lớp vỏ ngoài chịu nứt ra, rơi xuống thì cây mới có thể lớn lên được.

Những gì con đã biết, đã làm, đã kinh nghiệm có thể dễ dàng trở thành một thành trì vững chãi cho con ẩn núp. Và con có thể sẽ mất cơ hội được “vỡ da” để lớn lên.

Ngày thường

Nhóc 16 tuổi. Mùa Giáng sinh và Năm mới này được (hay bị!) gửi lên Nhập Lưu với các sư cô. Bố mẹ và em trai mỗi tuần lên thăm nhóc một lần. Ở đây nghỉ lễ Giáng sinh và Năm mới được sáu tuần, gia đình định cho nhóc ở đây hẳn sáu tuần nhưng các sư cô cẩn thận, chỉ nhận hai tuần thử trước xem sao.

Nhóc bị nghiện trò chơi điện tử. Sau kỳ nghỉ lễ sẽ lên lớp 12 mà vẫn thấy mình chưa có hướng đi nào rõ rệt. Trước khi lên đây, nhóc chuẩn bị tinh thần đến giờ ăn ra ăn, giờ chấp tác ra chấp tác. Ngoài ra sẽ không ngồi thiền, không tiếp xúc với ai. Lúc đầu hỏi gì nhóc cũng trả lời nhát gừng. Vậy mà chưa đầy một tuần sau nhóc đã vui vẻ cười nói với các sư cô, đã bắt đầu thiền hành và tham gia thiền toạ. Nhóc chia sẻ trong pháp đàm: “Thấy các sư cô cũng bình thường chứ không như con tưởng”.

Nhóc vẫn còn con đường dài phía trước để đi, nhưng giờ gương mặt đã vui vẻ, nhẹ nhàng, bước chân bớt kéo lê. Vậy là nhóc đã thành công rồi đó!

Thầy kính thương, những câu chuyện chuyển hóa của thiền sinh sau khi đến tu học với Làng Mai, dù ở đâu đều na ná như nhau. Ở Nhập Lưu chúng con cũng không ngoại lệ. Có những thiền sinh khi mới đến gương mặt buồn bã, u ám, nước mắt cứ chực rơi. Chúng con không làm gì đặc biệt ngoài thời khóa hàng ngày. Những “món hàng thường lệ” của thầy trò Làng Mai: thiền tọa, kinh hành, tụng kinh, ăn trong im lặng, thiền hành, pháp thoại, pháp đàm, thiền hướng dẫn được làm tới làm lui năm này qua năm khác. Vậy mà chỉ sau vài hôm tu tập trông họ đã rất khác. Nhìn thấy họ trở lại, đem bạn bè, người thân đến cùng tu, chúng con thấy mình chỉ cần sống đời thường nhật trong tu viện “như bao người đang sống, thắp mặt trời làm trái tim chung”(Bình an, Sư cô Giải Nghiêm) là đã đủ để tạo nên cái đẹp, cái lành.

Người ta bảo rằng những người lớn tuổi hay sống bằng kỷ niệm. Kỷ niệm đẹp hay không đẹp, người ta vẫn cứ hoài niệm như thường. Vậy người tu “lớn tuổi” có khác gì không nhỉ? Con chắc họ cũng sống bằng kỷ niệm. Một sư em hỏi con sống ở đây thấy ra sao, có lạnh lắm không? Con nói với sư em rằng vì mình biết mình sống ở đây, đây là nơi mình sống, cho nên mình làm bạn với cái lạnh, với cái nóng, với thời tiết ở đây. Con đang sống nơi đây, nơi giây phút hiện tại, con đang tạo cho mình một hiện tại đẹp, để “về già”, con sẽ không đi ngược lại với lẽ thường tình, vẫn sống bằng kỷ niệm nhưng là những kỷ niệm đẹp.

 

 

Từ ngày được làm con xuất gia của Thầy, con đã sống hết mình như vậy. Nhìn lại những năm tháng đã qua trong cuộc đời người xuất sĩ, con muốn học theo thầy Ương Quật Ma, nói rằng: Từ ngày con được sinh ra trong giáo pháp, con thường sống hiện pháp lạc trú. Mong rằng nhờ sự thực đó mà khi sống bằng kỷ niệm(!), con có thể kể về những ngày tháng đã qua và sẽ tới của con với nhiều niềm vui, nhiều cái đẹp, cái lành.

( Sư cô Chân Trăng Mai Thôn )

Advent – Một truyền thống đẹp cần gìn giữ

Lúc con còn nhỏ, mỗi lần Giáng sinh đến, khắp đường phố đều trang trí đèn rất lung linh. Những quầy văn phòng phẩm trưng bày những cây thông Noel, bằng nhựa thôi nhưng trông thật đẹp. Rồi nhà thờ gần nhà, thay vào vẻ vắng lặng thường ngày là không khí tấp nập, vui tươi. Dù không biết Giáng sinh là gì, con cũng thấy vui vì tối đó được đi dạo phố, ngắm cái này, cái kia. Tuy vậy, con chưa từng có can đảm bước chân vào nhà thờ chỉ bởi một lý do: con là Phật tử, ngoại trừ một lần duy nhất vì bị tính hiếu kỳ đưa đường dẫn lối. Có một lằn ranh phân cách giữa chùa và nhà thờ. Ông bà, ba mẹ con đều đồng ý rằng là Phật tử thì không được đi nhà thờ, đi vào đó là hành động phản đạo. Quan niệm ấy cũng được gieo vào đầu chị em con.

 

 

Đến khi vào Diệu Trạm, con có cơ hội thưởng thức không khí Giáng sinh nhiều hơn. Từ trang trí thiền đường, tập văn nghệ, bốc thăm tặng quà, gói quà,… cho đến giây phút cả phòng ngồi lại để mở quà cùng nhau, không khí đều thật vui, rộn ràng và ấm áp. Có lần con thắc mắc hỏi một sư cô rằng tại sao mình lại ăn Giáng sinh trong chùa vì những gì được gieo vào đầu thời thơ ấu vẫn còn ghi dấu trong con. Hơn nữa, theo sự hiểu biết của con thì hình như chùa mình là ngôi chùa duy nhất tổ chức Giáng sinh thì phải. Sư cô trả lời con: “Để hòa nhập văn hóa. Giáng sinh của Tây phương cũng quan trọng như Tết trong văn hóa Đông phương vậy. Đó là dịp để các gia đình sum họp, là dịp để nói với nhau những lời tốt lành cũng như gửi những tâm niệm an lành của mình cho thế giới. Sau này khi sang Làng hay các trung tâm khác, em sẽ có cơ hội thấy rõ hơn tinh thần của Giáng sinh”. Tinh thần Giáng sinh? Hơi thắc mắc một chút nhưng lòng đang ngập tràn niềm vui vì nhận được nhiều quà nên con không hỏi thêm. Ấn tượng về Giáng sinh trong con lúc đó chỉ là: vui, rộn ràng.

Cho đến khi sang Làng, được thấy những ngọn nến thắp lên mang theo nhiều ý nghĩa lúc ăn cơm quá đường, được nghe những bài thánh ca, con tiếp xúc được với một khía cạnh khác của không khí Giáng sinh: tĩnh lặng, bình an. Bên cạnh đó, con biết thêm một danh từ mới: advent. Đó là một khái niệm hoàn toàn xa lạ với con. Hai năm trước con không tham dự Advent ở Làng, con có cảm giác hoạt động này không thích hợp với mình. Năm nay, con cho mình cơ hội để trải nghiệm, đi để biết. Một động lực lớn giúp con có cảm hứng tham dự là vì nó được tổ chức ở thất Da Cóc, nơi bình thường con hiếm có cơ hội được đến. Không hiểu sao trong lòng con có sự yêu mến lạ kỳ với nơi này. Chỉ nghĩ đến việc được xuống đó thôi là đã thấy lòng hân hoan. Ngồi trong thất Thầy, cảm nhận sự ấm áp tỏa ra từ lò sưởi, nghe những tiếng trò chuyện, tiếng cười rộn rã của các anh chị em xung quanh, giây phút đó con trở về với mình. Trở về được với mình, sự ồn ào trở nên thật dễ chịu. Đôi khi những khoảng lặng tuyệt đối lại không đến từ giờ thiền tọa… Nơi náo nhiệt nhất, khi ta biết trở về với chính ta lại là nơi ta tiếp xúc được với con người thật của chính mình. Lúc này, bóng tối đã bắt đầu hành trình dạo chơi của mình. Nhìn ra bên ngoài, con không thấy gì khác hơn ngoài những hạt mưa được gió hắt vào khung cửa sổ. Màn đêm giờ đây đã bao trùm lấy cảnh vật.

Với con, màn đêm là nơi dễ phát sinh những điều mờ ám và xấu xa nhất nhưng đồng thời là nơi khởi đầu cho những gì linh thiêng và thuần khiết nhất. Màn đêm có thể là cỗ xe đưa con người thẳng tiến về địa ngục mà cũng có thể là nơi chắp cánh cho lời nguyện cầu chạm đến được những vì sao. Trong giây phút này, mọi người đang cùng nhau hát và thắp lên cây nến thứ hai của mùa Vọng.

 

 

Giữa sự tĩnh lặng của đêm, bài Thánh ca càng thêm trang nghiêm, mở lối cho con người trở về nơi đẹp đẽ nhất của tâm hồn. Nhắm mắt lại, con buông thư, để những thanh âm mát dịu kia rơi mãi, rơi mãi vào lòng. Trong khung cảnh an lành đó, dường như mọi tư tưởng bất thiện đều phải tan biến hết. Lòng người phút chốc trở nên trong trẻo như sương sớm, thánh thiện như Chúa Hài Đồng. Những ngọn nến cứ lung linh múa ca, mang lời nguyện cầu của các anh chị em đi xa:

     “Con cầu nguyện bình an cho những nạn nhân Covid ở Việt Nam và trên thế giới.”

     “Con mong ước bình an cho những người dân ở Afghanistan-nơi đang chịu khổ đau vì chiến tranh.”

Học theo mọi người, con cũng chắp tay lại giới thiệu tên mình và rồi để trái tim nói lên lời nguyện cầu của nó:

      “Con mong cho những ai đang phải xa nhà có thể trở về và có được những giây phút hạnh phúc như chúng con đang có trong giờ phút này.”

Sau những khoảng lặng, lắng yên, các anh chị em bắt đầu kể cho nhau nghe những câu chuyện vui về Giáng sinh. Hầu như ai cũng từng có ít nhiều kỉ niệm liên quan đến một nhân vật được gọi là Ông già Noel. Lắng nghe là cơ hội để con nhìn kĩ hơn gương mặt của huynh đệ mình, hiểu hơn một chút về những người mà bình thường mình ít khi có cơ hội trò chuyện. Sống trong một đại chúng lớn, sự kết nối nhiều lúc chỉ dừng lại ở việc gặp nhau, chắp tay chào, mỉm cười. Cơ hội tiếp xúc, tương tác giữa các anh chị em với nhau phần nhiều là qua một cây cầu mang tên công việc. Thậm chí, với những sư cô, sư chị, sư em đang sống cùng, có những khoảnh khắc con đã ngỡ ngàng khi nhận ra mình chưa từng nhìn kỹ gương mặt của người đó, chưa từng thực sự có mặt với người đó. Mình chỉ nhận diện, phân biệt các chị em qua tên gọi mà thôi.

Sống một hồi trong tu viện, con cũng dần yêu nếp sống tĩnh lặng, yên bình. Sự yên tĩnh giúp con nhìn rõ tâm tư mình hơn, nuôi dưỡng bình an trong con. Nhưng khi con bắt đầu hình thành tư tưởng “con thích yên tĩnh, ồn ào mệt lắm” thì một bức tường được dựng lên ngăn cách con với thế giới, hạn chế hơn nữa những cơ hội hiếm hoi để có mặt với anh chị em mình. Những lúc như vậy, những lúc con thấy mình “lười chơi”, con hay nghĩ đến sư cha. Sư cha là một người rất chịu chơi, luôn đến góp mặt với một tấm lòng rất cởi mở, hòa đồng. Buổi tối hôm đó, khi sư cha đội mưa đến, con không kiềm chế được sự ngạc nhiên của mình: “Sư cha cũng đi advent nữa à?” Sư cha đáp một cách tự nhiên: “Đi chứ”. Đọng lại trong con đến bây giờ là hình ảnh sư cha cầm bổn, miệng thì nhẩm theo lời và giai điệu của những bài Thánh ca nhưng đôi mắt thì phải cố gắng mở to, to lắm để chống lại cơn buồn ngủ. Bắt gặp ánh mắt và nụ cười tinh nghịch của con nhìn sang: “Sư cha buồn ngủ lắm rồi phải không?”, sư cha làm bộ giương to thêm đôi mắt vốn đã mở hết cỡ để nhìn lại, thay cho câu trả lời, khiến con không khỏi bật cười. Khoảnh khắc ấy con hiểu được rằng: “Đi chơi không phải vì ham chơi mới thật là đi chơi.”

Những ấn tượng đầu tiên về Advent đẹp đến nỗi lúc vừa bước chân vào cổng nhỏ, sư cô hỏi con: “Lần đầu tham dự, em thấy sao?” Không do dự, không cần suy nghĩ, con đáp ngay: “Dạ vui và nuôi dưỡng ạ”. “Lần sau đi nữa không?” “Dạ đi”. Con gật đầu một cách quyết đoán.

Tham dự lần này giúp con tháo gỡ được những tri giác trước đó của mình về sự kiện này, cũng như cho con bài học lớn về việc cẩn thận với tri giác của mình. Nếu chưa biết rõ thì đừng vội phán xét, hãy cho mình cơ hội trải nghiệm để khám phá sự thật. Con cũng thấy rằng bất cứ sự kiện nào, tự thân nó là vô ký. Chính tâm thức của những người tham dự và người tổ chức tạo nên màu sắc của sự kiện đó. Dù là lần đầu tham dự, nhưng con thấy rằng Advent đẹp là nhờ chất liệu tâm linh mà nó chứa đựng. Do đó, để gìn giữ được vẻ đẹp cũng như linh hồn của nó, các anh chị em con phải gìn giữ được chất liệu tâm linh trong chính mình. Nhưng chất liệu tâm linh đó là gì và làm sao để gìn giữ? Ngay lập tức, đôi lông mày giãn ra, con buông xuống mớ ngôn từ đang viết. Mỉm một nụ cười nhẹ, ngôn từ dù đẹp đến đâu cũng chỉ là ngôn từ thôi. Cách mình sống quan trọng hơn nhiều lắm. Nhắm mắt lại, hơi thở dẫn đường cho con trở về suối nguồn bình an, tĩnh lặng trong tự thân. Suối nguồn dịu ngọt này luôn có đó với tình thương vô điều kiện; kiên nhẫn, thủy chung đợi con trở về dù cho trong đời sống, có những lúc vì ham chơi, con vô tình lạc lối để người bạn hiền phải mòn mỏi ngóng trông. Đám mây trong ly trà con uống sáng nay nhắc con rằng: Câu trả lời chính xác nhất không đến bằng trí năng đâu, cũng không đến từ bên ngoài, nó đến từ tự thân mỗi người.

Con nhớ buổi tối hôm đó, khi ngồi yên nghe đọc kinh Thánh, một chuỗi hình ảnh về Chúa hiện lên trong con. Đó là hình ảnh Chúa Hài Đồng nằm ngủ an lành trong máng cỏ mà con nhìn thấy thời thơ ấu; là tranh vẽ Chúa đeo gông, bị áp giải trên đường trong cuốn sách đọc ở nhà thờ Monségur; là khung cảnh Chúa bị đóng đinh trên Thập tự giá trong bộ phim con xem vào mùa làm biếng trước… Hình ảnh nào cũng đẹp. Đường nét trên gương mặt Người hiền từ như những đường nét mà các nhà điêu khắc thường dùng để diễn tả tình thương vô biên của Bụt vậy. Bụt cũng đẹp, Chúa cũng đẹp. Người là một đóa hoa Ưu bát đã nở ra trong thời kỳ tăm tối của nhân loại. Con có cảm tưởng giây phút đó mình tháo tung được chiếc lồng chật hẹp và giải phóng được cho ông bà, cha mẹ con ra khỏi khái niệm “là Phật tử”. Con thấy mình vươn cao hơn, bay xa hơn trong khung trời tâm linh thênh thang, không có giới hạn…

 

 

“Như một người làm công đào đất, khám phá được châu báu trên một khoảnh đất nhỏ. Người ấy liền về nhà, bán hết gia sản, bán hết tất cả những đất đai khác chỉ để mua mảnh đất nhỏ ấy thôi”. Những ngôn từ quen thuộc đưa con rời khỏi thế giới nội tâm của mình. Mở mắt ra, con nhìn về phía người đang đọc. Giây phút đó con thấy rất rõ người đó là huynh đệ mình. Đoạn kinh này con đã nghe Thầy giảng trong một bài pháp thoại nên không quá khó hiểu. Nhớ đến Thầy, lòng con ấm áp sự biết ơn, một sự ấm áp không làm bằng nhiệt lượng vật lý. Thầy là cánh cửa mở ra cho những tinh hoa của đạo Bụt đi vào xã hội Tây phương và song song với điều đó, người Phật tử cũng khám phá được những nét đẹp trong những truyền thống tâm linh đang hiện diện nơi đây như Thiên Chúa giáo, Do Thái hay Hồi giáo. Nhờ Thầy mà gia tài tâm linh của thế hệ anh chị em chúng con giờ đây rất giàu có khi tiếp nhận được rất nhiều dòng chảy tâm linh khác nhau mà dòng chảy nào cũng đẹp, truyền thống tâm linh nào cũng đáng tôn trọng. Con tin rằng nếu nhìn cho kỹ, bỏ đi lớp vỏ ngôn từ và hình thức diễn đạt, ta sẽ thấy rằng không có cái gọi là tuệ giác riêng của từng tôn giáo. Tuệ giác là tuệ giác chung của toàn thể nhân loại…

Đồng hồ đã điểm 9 giờ kém 10, con ghé tai sư cô thì thầm: “Sư cô ơi, sắp đến giờ về rồi ạ”. “Ừ, hát xong bài này rồi mình về.” “Sao mà mấy cô trò mình giống công chúa Lọ Lem quá”, ý nghĩ đó bất chợt đi lên trong đầu khiến con thấy vui vui. Vì nhà xa nên xóm Mới lúc nào cũng về sớm hơn xóm khác. Cứ thấy một chị em nào đó đứng lên là tất cả đều đồng loạt thu dọn đồ đạc, mang ba lô lên vai và đồng thanh nói lời tạm biệt để ra xe, dáng vẻ khẩn trương như thể nếu không về kịp thì xe mình sẽ biến thành những quả bí ngô trong truyện cổ tích vậy. Dần dần con cũng quen với nhịp điệu và rèn luyện được những thao tác nhanh nhẹn đó. Làm cô bé Lọ Lem cũng vui lắm. Biết mình không có nhiều thời gian nên con trân quý từng giây phút hiện tại, có mặt một cách trọn vẹn và hết lòng hơn. Vì vậy mà khi “đến giờ phải về rồi”, con thanh thản đứng dậy, quay đi với những bước chân thong dong. Với con, giá trị của sự có mặt không đo bằng thước đo thời gian. Không phải có mặt bao lâu mà là có mặt như thế nào…

Xe đang bon bon chạy về nhà. Lòng con chỉ thầm mong năm sau xóm Mới sẽ có thêm nhiều “Lọ Lem” đi tham dự Advent hơn. Chung tay, mình cùng gìn giữ truyền thống đẹp này cho thế hệ tương lai.

( Sư cô Chân Trăng Bồ Đề )

Thong dong mây trắng trời xanh

Thế rồi tuyết cũng rơi trắng xóa Tu viện Bích Nham những ngày cuối năm, những ngày mùa đông đặc trưng, những ngày an cư đặc biệt của năm nay. Đây cũng là lúc chúng tôi vẫy tay chào một người sư chị yêu quý của tăng thân để sư chị thanh thản về với Bụt, về với đất Mẹ, với hóa thân mới khỏe mạnh an lành. Sư chị như đám mây rong chơi ngày hôm qua, sáng nay đã trở thành cơn mưa tuyết phủ đầy nơi đây.

Thời gian vừa qua, đại chúng Bích Nham từ sư mẹ lớn nhất cho đến sư em nhỏ nhất đều chung tay chăm sóc, hỗ trợ sư chị Chỉ Nghiêm trong những ngày bệnh nặng cuối đời. Đây thật sự là công trình của cả đại chúng: Những bàn tay chăm sóc tận tình của quý sư cô xóm Hạc Trắng, sự yểm trợ hết lòng của quý thầy xóm Tùng Xanh, cho đến hai tu viện Mộc Lan và Lộc Uyển cũng gửi hai vị sứ giả chữa lành là sư cô Bội Nghiêm và Hướng Nghiêm đến tiếp sức cho đại chúng Bích Nham. Trải qua cơn đau này của sư chị, chúng con thấm hơn tình huynh đệ và sự nâng đỡ như những cái nắm tay không bao giờ muốn buông lơi của các anh chị em trong tăng thân mình.

Sư chị Chỉ Nghiêm phát bệnh ung thư vào năm 2017. Sau khi được phẫu thuật một bên ngực và được điều trị miên mật trong vòng một năm (vô thuốc hóa trị mỗi hai tuần, xạ trị hầu như mỗi ngày) thì tin vui đến là sư chị đã được đội ngũ y bác sĩ chúc mừng khỏi bệnh. Những ngày tháng đó là những ngày tháng chiến đấu với bệnh tật hiểm nghèo. Thầm lặng và dịu dàng, đại chúng Bích Nham yểm trợ sư chị trong từng phút giây. Mỗi hơi thở chính là sự sống, là nơi nương tựa vững chãi. Thiền đường là bệnh viện. Thiền đường là những chuyến xe rong ruổi đi khám bệnh, chữa bệnh. Sư chị đã cảm hoá một đội ngũ y bác sĩ trong tình trạng ốm đau bệnh tật của mình như thế. Bốn năm sau, ung thư tái phát bên ngực còn lại, sư chị không muốn tiếp tục điều trị tây y vì quá trình hoá trị, xạ trị làm mất sức rất nhiều. Sư chị lựa chọn sống những ngày tháng còn lại trọn vẹn bình an với hơi thở, với tăng thân và mãn nguyện với ước vọng của mình.

 

 

Đại chúng luôn nhớ nụ cười hiền lành và lòng yêu đời tha thiết của sư chị. Sau thời gian trở bệnh lần đầu, sư chị đã chăm sóc sức khỏe của mình rất tốt, ăn uống lành mạnh, thể dục thể thao, vui chơi và có mặt cho đại chúng từng giây từng phút. Có lẽ chúng tôi, những sư em trẻ cũng không “chịu chơi” được như sư chị của mình. Khi được hỏi động lực nào để sư chị có năng lượng vui chơi và tu học như thế, sư chị nói rằng vì ham tu nên phải cân bằng việc tu, học, chơi và làm việc như lời Sư Ông dặn. Sự sẻ chia đơn giản mà sâu sắc ấy đến từ lòng kính ngưỡng vị Thầy của mình, đến từ trải nghiệm riêng trong suốt một đời tu. Có những điều vô cùng nhỏ nhặt nhưng phải trả giá thật đắt mới hiểu được: hãy thương yêu nhau như bài ca sư chị hay hát, hãy bắc cây cầu hiểu và thương, hãy buông thư, hãy nở nụ cười nhiều hơn… Sư chị đã lấy chính cuộc đời mình làm bài học cho các sư em.

Chúng tôi biết sư chị trân quý pháp môn, sự sống và hơi thở của mình nhiều lắm. Dù sức khỏe không cho phép nhưng sư chị luôn cố gắng đi thời khoá rất đúng giờ. Hình ảnh sư chị với những bước chân thong dong thiền hành cùng đại chúng vẫn còn đó. Và còn nữa những ngày làm biếng, chúng tôi với cơm nắm, tách trà, vô rừng nghe chim hót, nghe lá cây kể chuyện, nghe gió mang chiều về tối… Đó là nguồn cảm hứng cho những bài thơ và nhạc thiền của sư chị. Chúng tôi biết ơn lòng tin và sự độ lượng của sư chị, thay Thầy dạy dỗ và thương yêu các sư em non dại. Các sư em nhìn sư chị mà lớn lên khi xa Thầy, tán thán công đức một người tu luôn muốn hoàn thiện chính mình từ giây phút đầu tiên đến hơi thở cuối cùng. Sư chị đẹp như câu kinh thường tụng:

Đến phút lâm chung
Lòng không luyến tiếc
Thân không đau nhức
Ý không hôn mê
Chánh niệm rõ ràng
Tĩnh lặng sáu căn
Buông bỏ báo thân
Như vào thiền định
Nếu cần thọ sinh kiếp khác
Sẽ lại làm đệ tử đức Như Lai

Những ngày cuối năm trôi qua nhanh, mùa vẫn lạnh như bấy lâu, nhưng tình thương sư chị dành cho thiền sinh về tu viện qua bao năm tháng xây dựng chúng Bích Nham đủ sưởi ấm lòng nhau. Mọi người vẫn nhớ giọng ca thiền vị qua pháp môn thiền buông thư, những món ngon xôi-chè-bánh-trái sư chị luôn hết mình cúng dường đại chúng… Những bước chân sư chị đến khơi mở con đường đạo trong trái tim từng huynh đệ, từng thiền sinh mãi còn. Những trải nghiệm sư chị đi qua cùng đại chúng, những tháng ngày chiến đấu với bệnh tật, hiểu thấu vô thường, trân quý tình huynh đệ. Từng ngày sống, sư chị đã trọn vẹn với cuộc đời của mình rồi.

Khi vẫy tay chào đại chúng, sư chị luôn ý thức mình may mắn được sống trong tăng thân, một lòng quy ngưỡng về Tam Bảo. Chào nhau là biệt ly đi qua cõi sống chết, chúng ta đã thực sự trải qua những điều ấy trên bình diện tích môn. Lòng còn luyến tiếc nhưng Thầy và huynh đệ vẫn còn đây. Bước chân và nụ cười luôn được khơi nguồn. Bài ca vẫn ngân vang, nụ cười ý nhị có bao giờ mất đi… Tất cả rồi sẽ gặp lại nhau qua muôn ngàn nẻo sống. Tất cả là vô ngã, là uyên nguyên, là kỷ niệm, là tiếng chuông trống bát nhã vang lên đón chào một năm mới, một cuộc đời mới cho sư chị… Đại chúng vẫy tay chào một đám mây thong dong nhé!

 

 
( Đại chúng Tu viện Bích Nham)