Đạo Phật Làng Mai làm sao hấp dẫn…

2008 05 14 tăng thân Làng Mai niệm Bồ Tát Quan Thế Âm

“Đạo Phật Làng Mai làm sao hấp dẫn được một lượng người ngoại quốc đi theo đông đảo như thế?”

Báo Hồn Việt phỏng vấn Thiền sư Thích Nhất Hạnh
Nguyễn Đắc Xuân thực hiện

Đại lễ Phật Đản Liên Hiệp Quốc Vesak 2008 bế mạc, Thiền sư Thích Nhất Hạnh và tăng thân Làng Mai gần 500 người rời Hà Nội, đáp máy bay về Tổ đình Từ Hiếu, Huế nghỉ ngơi vài hôm trước khi vào Hội An để tổ chức sinh hoạt với doanh nhân tại Palm Garden Resort từ ngày 24 đến 25.05.2008, một đại diện của báo Hồn Việt hân hạnh được gặp Thiền sư và được Thiền sư trả lời một số câu hỏi mà độc giả của Hồn Việt đang quan tâm sau đây.

Nguyễn Đắc Xuân:
Xin cám ơn Thiền sư đã dành thời gian nghỉ ngơi quý báu này tiếp đại diện báo Hồn Việt của Hội Nhà văn Việt Nam. Để tranh thủ thời gian, kính xin Thiền sư cho chúng tôi được chuyển đến Thiền sư thắc mắc của dân chúng Hà Nội khi đứng xem đoàn tăng thân Làng Mai hàng năm trăm người với nhiều quốc tịch khác nhau thanh thản tiến vào Trung tâm Hội nghị Quốc gia Mỹ Đình dự Phật Đản LHQ Vesak 2008, rằng: “Đạo Phật Làng Mai làm sao hấp dẫn được một lượng người ngoại quốc đi theo đông đảo thế?” Kính nhờ Thiền sư giải đáp hộ.

2008 05 14 ts Nhất Hạnh tại Vesak
Thiền sư Thích Nhất Hạnh:
Tôi vắng mặt ở Việt Nam từ 1966. Trong thời gian ở nước ngoài, tôi dành ít nhất 30 năm để chia sẻ tuệ giác và thực tập đạo Bụt Việt Nam (sau này tôi thành lập Làng Mai ở Pháp nên có tên là Đạo Bụt Làng Mai) với người Tây phương bằng những khóa tu, cộng với hàng trăm cuốn sách đạo Phật Việt Nam hiện đại hóa. Các khóa tu chung cho giới trẻ và trí thức, cũng có những khóa tu dành riêng cho các thầy giáo, các doanh nhân, giới bảo vệ môi trường, diễn viên điện ảnh Hollywood, dân biểu quốc hội Hoa Kỳ, cảnh sát, người giữ tù, v.v… Phần lớn người Tây phương cho biết họ theo đạo Phật Làng Mai vì những điều thông thường sau đây:

1. Đạo Phật đã có trên 25 thế kỷ, đến nay đạo Phật được trình bày lại với ngôn ngữ văn hóa mới của Việt Nam và thế giới, dễ hiểu, gần gũi với con người của thời đại. Đạo Phật không chỉ là một tôn giáo tín ngưỡng mà còn là nguồn tuệ giác sâu sắc, những phương pháp tu tập thực tế giúp cho mỗi cá nhân tháo gỡ được những khó khăn trong một thời gian tu tập ngắn (một khóa tu ngắn hạn có thể từ 7 đến 10 ngày). Nói cách khác, người Tây phương đến tu học ở Làng Mai không phải để được hiến tặng một đức tin mà để được tiếp nhận một phương pháp thực tập kinh nghiệm, đem lại hạnh phúc cho mình, ngay bây giờ và ở đây.

2. Đức Phật không phải là một đấng tạo hóa hay một vị thần linh mà đích thực là một con người, một người đã đắc đạo, có tuệ giác cao siêu nhờ tu tập. Đạo Phật là một phương pháp sống nương vào tự lực hơn là nương vào một quyền lực linh thiêng bên ngoài không có giáo điều, không mặc khải, không xung đột báng bổ với bất cứ một truyền thống tâm linh nào, và trong bản chất đích thực của nó cũng không xung đột với khoa học hiện đại. Chúng tôi học đạo Phật và cũng học để biết các truyền thống khác như Thiên Chúa giáo, Tin Lành, Hồi giáo… Nhiều tín đồ Thiên Chúa giáo, Tin Lành, và các tôn giáo khác đến tu ở Làng Mai mà vẫn giữ nguyên tôn giáo mà họ đã theo. Có người giác ngộ muốn vừa làm Mục sư Tin Lành vừa làm Giáo thọ của Làng Mai. Sáng chủ nhật ông giảng bài với con chiên với phương pháp mới học ở Làng Mai, buổi chiều hướng dẫn thiền tập cho Phật tử Làng Mai. Nếu bề trên không cho phép thì ông chọn cái nghiệp mới là làm Giáo thọ. Trí thức và tuổi trẻ phương Tây rất thích điều này.

3. Đạo Phật Làng Mai được người phương Tây theo nhiều vì đạo Phật giúp họ tháo gỡ được những khủng hoảng giữa cha mẹ với con cái, vợ chồng, về đời sống xã hội, bế tắc về tâm linh đang diễn ra ở phương Tây hiện nay.

Nguyễn Đắc Xuân:
Kính thưa Thiền sư, những người đến Làng Mai tu tập được học và thực tập những nội dung gì?

Thiền sư Thích Nhất Hạnh:
Trước hết chúng tôi chia sẻ với họ cách hít thở, hành thiền, chánh niệm, phương pháp lấy ra những căng thẳng trong thân, trong tâm, tập nhận diện và ôm ấp những sợ hãi, đau buồn, lo lắng của mình. Nhìn sâu vào mình để có thể nhận diện được bản chất tâm hành đó. Rồi nhìn vào người thân của mình để nhìn thấy trong họ có căng thẳng trong thân, trong tâm để phát khởi lòng thương, chấp nhận họ. Nhờ sự lắng dịu trong thân và tâm, cởi bỏ được thái độ trách móc, với phương pháp ái ngữ và lắng nghe, hiểu được khó khăn và bức xúc, khổ đau, mơ ước của người khác, chấp nhận người khác và giúp đỡ được cho người khác. Đó là hiểu và thương. Lập lại được truyền thông đã mất giữa những người thân.

Sau các khóa tu, nhiều phép lạ đã xuất hiện, vợ chồng tưởng cắt đứt vĩnh viễn lại hòa giải được, cha mẹ với con tưởng đã không thể hiểu nhau lại làm hòa được và thương kính nhau. Sau các khóa tu, chúng tôi không quyến rũ người ta theo đạo Phật. Nhưng khi họ đã thấy được hiệu nghiệm của đạo Phật, họ xin quy y Phật và thọ năm giới. Năm giới là sự thực tập cụ thể của tình thương. Giới thứ nhất: bảo vệ sự sống, giới thứ hai: chia thời gian và tài vật cho người khác, không ăn cắp, ăn trộm; giới thứ ba: không lạm dụng tình dục, giới thứ tư: ái ngữ và lắng nghe; giới thứ năm: tiêu thụ trong chánh niệm (chỉ tiêu thụ những sản phẩm mang lại sự an lạc cho tâm mình, không rượu chè, ma-túy). Tiếp đến họ được chia sẻ ý nghĩa của Tứ Diệu Đế và tùy theo ý nguyện, họ có thể đi sâu vào các lĩnh vực triết lý Phật giáo cao siêu khác.

Nguyễn Đắc Xuân:
Xin Thiền sư cho biết có thể áp dụng năm giới cho toàn xã hội phương Tây và Việt Nam được không?

Thiền sư Thích Nhất Hạnh:
Đó là ước muốn của Phật giáo. Nhiều Phật tử Việt Nam đã thực hiện 5 giới từ lâu rồi. Hàng triệu người trong hàng ngàn tăng thân theo đạo Phật Làng Mai trên thế giới đang thực hiện. Phật tử sinh hoạt đạo Phật ở Làng Mai (Pháp), Lộc Uyển (miền nam California, Mỹ), Bích Nham (New York, Mỹ), Bát Nhã (Bảo Lộc, Việt Nam) và ngay tại chùa Từ Hiếu (Huế) này nhiều Phật tử đang thực hiện. Nếu năm giới được đưa vào chương trình giáo dục quốc gia, thanh niên được chia sẻ và thực tập năm giới là một hồng ân của dân tộc. Thực hiện năm giới là cứu nạn cho con người hiện nay.

Nguyễn Đắc Xuân:
Kính xin Thiền sư cho vài ví dụ!

Thiền sư Thích Nhất Hạnh:
Thực hiện giới thứ nhất là muốn bảo vệ sự sống thì phải sử dụng khả năng hiểu và thương để chấm dứt các cuộc xung đột trong phạm vi gia đình, cộng đồng, quốc gia và quốc tế, phải biết lắng nghe và nhìn sâu để tự hiểu mình và hiểu người khác, giải quyết những ngộ nhận để các dân tộc hiểu và thương nhau, lập lại hòa bình (ví dụ như chiến tranh ở I-rắc); thực tập giới thứ hai là không trộm cắp, không bóc lột, để trừ tận gốc bệnh tham nhũng, ăn cắp hiện nay. Thực hiện giới thứ năm là góp phần bảo vệ môi trường bằng cách sản xuất và tiêu thụ có ý thức chánh niệm. Một số tu viện của đạo Phật Làng Mai đã bắt đầu dùng điện mặt trời, ô-tô không chạy bằng xăng mà chạy bằng dầu thực vật v.v…

Nguyễn Đắc Xuân:
Những đại biểu thuộc nhiều tôn phái Phật giáo trên thế giới đến dự Phật Đản LHQ Vesak 2008 tại Hà Nội vận đủ kiểu, đủ sắc màu vàng, nâu, đen, trắng rất mới lạ. Tại sao Thiền sư và tăng thân Làng Mai chỉ với áo nâu và chiếc nón lá?

2008 05 14 tăng thân Làng Mai tham dự Vesak   áo nâu nón láThiền sư Thích Nhất Hạnh:
Nón lá, chiếc khăn chít đầu và trang phục màu nâu là hình ảnh và màu sắc của dân tộc Việt Nam đã có hàng ngàn năm nay. Đạo Phật Làng Mai là đạo Phật Việt Nam, dù đã được hiện đại hóa nhưng cái gốc văn hóa Việt Nam thì phải rõ. Hơn bốn mươi năm trước tôi ra đi với chiếc nón lá và chiếc áo nâu, nay trở về cũng chỉ với chiếc nón lá và áo nâu. Bây giờ, tôi thấy y áo lễ phục của các tăng sĩ Việt Nam mình màu sắc rực rỡ, gấm hoa, sang trọng quá nó gây cảm giác xa lạ với truyền thống bình dân Việt Nam. Tôi không muốn mình xa lạ với dân tộc mình. Áo nâu và nón lá là hình ảnh của đạo Phật Làng Mai đã quá quen thuộc với thế giới rồi thay đổi làm gì nữa và cũng không thể thay đổi được. Hình ảnh giới tu sĩ Phật giáo Việt Nam ở nước ngoài là thế đó!

Nguyễn Đắc Xuân:
Lâu nay chắc Thiền sư có biết Việt Nam đang theo đuổi việc xây dựng một nền văn hóa “đậm đà bản sắc dân tộc”. Vậy, “bản sắc dân tộc” theo Thiền sư nghĩ là cái gì? Cái bản sắc văn hóa dân tộc Việt đó đi vào đời sống hội nhập thế giới hiện đại ngày nay có gì khó khăn trở ngại không?

Thiền sư Thích Nhất Hạnh:
Bản sắc văn hóa dân tộc có thể cảm nhận được nhưng nói ra cho đầy đủ thì rất khó. Người ta nói Làng Mai là một Việt Nam thu nhỏ trên đất Pháp. Người ta sống với Làng Mai họ có cảm giác như thế chứ nói cái gì ở Làng Mai là mang bản sắc văn hóa Việt Nam thì khó. Về bản sắc dân tộc, tôi lấy một ví dụ: Ngày xưa cha ông mình đi ăn giỗ, đi sớm đi muộn gì cũng có phần ăn. Ăn giỗ xong trên đường về ghé bẻ một nhánh cây dọc đường xỉa răng, không sao cả. Bây giờ đi ăn giỗ phải đi đúng giờ, phải tính đến chuyện kẹt xe, nếu đi trễ sẽ phải ra nhà hàng ăn lót dạ trước khi quay xe trở về. Việt Nam nghèo nhưng cha ông ta có nếp sống nhàn nhã, thong thả, đến bữa ăn tất cả mọi người trong gia đình đều ngồi quanh mâm cơm, có thì giờ dạy bảo con cái, chuyện trò với người thân, kỵ giỗ đình đám quanh năm, cuộc sống gắn bó tâm tình thân thiết. Bây giờ thì ít khi bữa ăn có đủ mặt người thân trong gia đình, vợ chồng con cái ít có thì giờ gặp gỡ, trò chuyện với nhau, mỗi người có mỗi thời khóa biểu làm việc riêng, không phụ thuộc nhau. Kỵ giỗ không nhớ. Vì vậy nếu giữ cái bản sắc dân tộc cố hữu của mình thì sẽ bị cuộc sống hiện nay đào thải. Nếu chạy theo cuộc sống hiện nay thì sẽ mất gốc. Theo tôi, văn hóa Việt Nam là một cái mỏ vàng, ta phải khai thác, tinh lọc để lấy cho được thứ vàng ròng, rồi dùng ngôn ngữ và phương pháp hiện đại trình bày lại cho hợp với nếp sống hiện đại. Làng Mai đã làm như thế đối với đạo Phật truyền thống của Việt Nam và đã có kết quả.

Nguyễn Đắc Xuân:
Kính thưa Thiền sư, như báo chí vừa phản ảnh, lễ Phật Đản Liên Hiệp Quốc Vesak 2008 tại Hà Nội vừa qua đã đạt được kết quả rất to lớn. Theo nhận xét của Thiền sư cuộc đại lễ chưa từng có đó có gì cần phải góp ý nữa không?

Thiền sư Thích Nhất Hạnh:
Tôi hơi tiếc Ban tổ chức Đại lễ Vesak thiếu quan tâm đến giới trí thức hàng đầu của Việt Nam ở các Đại học, các Hội nhà văn, Hội sử học, Hội âm nhạc, và cả các tôn giáo khác. Phải có những thành phần ấy họ mới tiếp thu được kết quả của hội nghị để vận dụng vào cuộc đời ở những nơi, những giới mà ảnh hưởng của giới tu sĩ Phật giáo còn hạn chế.

Nguyễn Đắc Xuân:
Kính bạch Thiền sư, còn rất nhiều vấn đề độc giả Hồn Việt muốn biết nữa, nhưng vì sức khỏe của Thiền sư, chúng tôi xin được cám ơn Thiền sư ở đây. Kính chúc Thiền sư luôn sức khỏe để Đạo Phật Làng Mai dồi dào năng lượng chia sẻ phương pháp tu học giúp những người đang đau khổ lập lại truyền thông tạo dựng lại hạnh phúc đã mất trên thế gian này. Kính chào Thiền sư.

Chùa Từ Hiếu, chiều 20.05.2008 (Hồn Việt số 12/06.2008)

Ngồi trong bình an giữa lòng Boston

(BBT chuyển ngữ từ bài viết “Thousands meditate with Zen Buddhist monk” của tác giả Billy Baker đăng trên tờ Boston Globe, ngày 16/9/2013)


Khi Thiền sư Thích Nhất Hạnh – năm nay đã 86 tuổi – được giới thiệu trước công chúng tại quảng trường Copley vào chiều Chủ nhật, Thầy bắt đầu bằng hành động ngồi yên và không nói gì trong suốt 25 phút.

Sự có mặt tại Boston lần này của Thầy Nhất Hạnh, vị Thiền sư người Việt đồng thời cũng là một nhà hoạt động vì hòa bình và một học giả được cả thế giới kính ngưỡng, là một phần trong chuyến đi hoằng pháp tại Mỹ của Thầy. Khi ngồi thiền trước đám đông khoảng 2000 người, Thầy Nhất Hạnh đã làm được một điều mà dường như không bao giờ có thể làm được: Thầy đã làm cho cả trung tâm thành phố vốn ồn ào, náo nhiệt cũng trở nên yên lặng cùng với Thầy, đến mức mà bất kỳ một tiếng động nào – dù là tiếng trượt ván, tiếng còi hay tiếng xe du lịch (duck boat tour) đi ngang qua – cũng trở nên lạc lõng giữa không khí tĩnh lặng nơi đây.

Buổi ngồi thiền công cộng này diễn ra ngay trước Nhà thờ Trinity (Trinity Church) và kéo dài trong một tiếng đồng hồ. Không khí tại quảng trường lúc đó hoàn toàn yên lặng, chỉ thỉnh thoảng nghe tiếng Thầy hướng dẫn cho mọi người thở vào, thở ra và ý thức về những cảm xúc đang có mặt trong thân và tâm của mình.

“Bằng cách trở về với hơi thở vào và hơi thở ra, chúng ta có thể dừng lại những suy nghĩ miên man trong đầu mình. Những suy nghĩ này thường kéo chúng ta ra khỏi giây phút hiện tại và không cho ta có mặt trong giây phút này, ngay bây giờ và ở đây” Thầy chia sẻ.

Sự có mặt của Thầy Nhất Hạnh tại Boston là một sự kiện quan trọng đối với cộng đồng Phật giáo địa phương – Boston là điểm dừng chân duy nhất của Thầy Nhất Hạnh ở vùng New England trong hành trình hoằng pháp của Thầy tại Mỹ trong năm nay.  Vào ngày thứ Bảy, Thầy đã có một buổi pháp thoại có bán vé bên trong nhà thờ, nhưng Thầy mong muốn tổ chức một hoạt động mà công chúng có thể tham dự miễn phí.

“Nếu bạn là một người thực tập theo đạo Bụt thì đây là một cơ hội thật hiếm có, vì Thầy Nhất Hạnh là một trong những vị thiền sư nổi tiếng nhất thế giới, có lẽ chỉ đứng thứ hai sau Đức Đạt Lai Lạt Ma mà thôi” – đó là lời của Louise Burnham Packard, Giám đốc điều hành của Trinity Boston Foundation, nơi đứng ra tổ chức sự kiện này.

“Chúng tôi tổ chức sự kiện này nhằm đem thông điệp của Thầy “hòa bình trên thế giới bắt đầu từ hòa bình trong mỗi chúng ta” đến với mọi người. Thật là một sự trùng hợp kỳ diệu vì đây cũng là ngày kỷ niệm đúng 5 tháng kể khi xảy ra vụ đánh bom tại cuộc đua marathon ở Boston. Và giờ đây chúng ta cùng có mặt tại quảng trường Copley với mục tiêu mang cả thành phố đến với nhau.”

Tổ chức một sự kiện trọng đại mà phần lớn ảnh hưởng của nó được tạo nên bởi sự yên lặng thực sự là một thách thức thú vị đối với các tình nguyện viên – những người mặc áo thun đồng phục với  dòng chữ “Sit in Peace” (Ngồi trong Bình an). Họ âm thầm làm việc dọc phía ngoài quảng trường để giúp cho những người đang ngồi thiền không bị ảnh hưởng bởi những âm thanh ồn ào, náo nhiệt của thành phố. Cả quảng trường từ nhà thờ cho đến những bồn hoa dọc đường Dartmouth đều chật kín người. Có những lúc các tình nguyện viên phải xử lý những tình huống hết sức khó khăn, như tìm mọi cách để thuyết phục một người biểu diễn đường phố để anh ta ngừng việc chơi nhạc trên đường Boylston.

Trong số những người đến tham dự cũng có nhiều người thực tập theo đạo Bụt, tuy nhiên  phần lớn mọi người đến đây với một mục đích đơn giản là để bày tỏ lòng kính ngưỡng đối với thiền sư Nhất Hạnh và với giáo lý đạo Bụt.

“Chúng tôi là những người thực tập thiền theo kiểu tùy hứng, nhưng chúng tôi có một niềm tin lớn vào đạo Bụt,” Steve Joseph, 59 tuổi, đến từ Arlington chia sẻ.

“Thầy Nhất Hạnh là một nhà lãnh đạo tâm linh, vì vậy lý do mà tôi đến đây đơn giản là để được nhìn thấy Thầy và cảm nhận sự có mặt của Thầy,” Ann Horowitz, 57 tuổi, chia sẻ thêm.

Tại quảng trường, trong lúc mọi người đều chờ đợi sự kiện bắt đầu, Sunny-San – một trong những tình nguyện viên – cũng cảm thấy nóng lòng chờ đợi sự xuất hiện của Thiền sư Nhất Hạnh. Anh tò mò muốn  tận mắt thấy, hay nói đúng hơn là muốn thực sự cảm nhận điều gì từ vị thầy này mà khiến cho quá nhiều người kính ngưỡng và mong chờ được gặp đến vậy.  Mục sư Martin Luther King Jr. đã từng ca ngợi Thầy là “một tông đồ của hòa bình và bất bạo động”. Những giáo lý căn bản của Thầy thường được người ta nhắc đến như là “nghệ thuật sống chánh niệm”, giúp cho ta tìm thấy hạnh phúc bằng cách sống an trú trong giây phút hiện tại.

“Có một cái gì đó thật lạ nơi Thầy. Năng lượng từ Thầy làm cho tôi cảm nhận rằng đây đúng là một bậc thầy hiếm có,” Sunny-San chia sẻ. “Tôi có đọc một số sách của Thầy. Tôi cho rằng nếu có ai đó hỏi tôn giáo của Thầy là gì thì Thầy sẽ tóm tắt nó trong một từ, đó là: từ bi. Những gì Thầy dạy cho chúng ta không phải là để chúng ta trở thành một người y như Thầy. Thầy dạy cho chúng ta cách thương yêu lẫn nhau. Thầy đúng là người mà chúng ta đang cần ở đây, tại quảng trường Copley này”.

Khi sự kiện bắt đầu, mục sư Bill Rich – lãnh đạo nhà thờ Trinity đã có một bài diễn văn trong đó nhắc đến vụ đánh bom xảy ra tại cuộc đua marathon ở Boston 5 tháng trước đó – địa điểm đánh bom chỉ cách quảng trường Copley khoảng vài trăm mét. Mục sư cũng đồng thời kêu gọi cho hòa bình và tưởng nhớ đến các nạn nhân của vụ đánh bom.

Khi được mục sư Bill Rich giới thiệu trước công chúng, trong chiếc áo tràng nâu cùng với chiếc mũ len giữ ấm, Thiền sư Thích Nhất Hạnh – vị thầy lãnh đạo tâm linh – không làm gì khác ngoài việc ngồi yên lặng hoàn toàn trong suốt 25 phút. Và đây chính là những gì mà mọi người mong đợi được chứng kiến khi đến tham dự buổi ngồi thiền công cộng hôm đó.

 

 

Sử dụng kinh thiền Nguyên thỉ làm nền tảng với tinh thần Phật giáo Ðại thừa

Phương pháp thiền Làng Mai –
Sử dụng các kinh thiền Nguyên thỉ làm nền tảng với tinh thần của Phật giáo Ðại thừa

Được bắt nhịp và bám rễ trên mảnh đất Tây phương từ khá sớm, phương pháp thiền do Thiền sư Nhất Hạnh hướng dẫn đã tạo nên một ảnh hưởng rất lớn trong xu hướng tu tập của nhiều giới, nhiều người. Trong khuôn khổ phác thảo một bức tranh chung về Thiền học Việt Nam đương đại, NSGN xin trân trọng giới thiệu cuộc phỏng vấn với Thiền sư Nhất Hạnh xoay quanh chủ đề về Thiền phái mà Thiền sư chính là người khai phát thành công tại Tây phương và nhiều quốc gia trên thế giới.

NSGN

Phóng viên:

Xin Thiền sư cho biết, nhân duyên nào khiến Thiền sư chọn pháp môn tu Thiền trong đường hướng tu tập của mình?

Thiền sư Nhất Hạnh:

Hồi còn là học Tăng, tôi đã có dịp thực tập các phép Chỉ và Quán của thầy Trí Giả, các pháp quán Ngũ Ðình Tâm, và phép niệm Phật, nhưng một phần vì sự học hỏi còn chưa được sâu sắc, một phần vì sự hướng dẫn của các vị thầy y chỉ lúc ấy còn sơ sài, nên kết quả không có gì đáng kể. Lớn lên, tôi có dịp nghiên cứu về Thiền Tổ Sư, Thiền Công Án, Thiền Mặc Chiếu, và cũng đã cố gắng đem ra thực tập, nhưng cũng không đạt được những kết quả mình mong muốn. Mãi đến khi phải đối diện với các tình trạng chiến tranh, đất nước chia đôi, mẹ mất, sa sút tinh thần, mất ngủ, tôi mới quyết liệt nắm lấy pháp môn An Ban Thủ Ý mà thực tập để sống sót. Nhờ đem thiền Ðông độ trở về tắm ở dòng suối của Phật giáo Nguyên thỉ nên tôi mới tinh lọc được giá trị chân thật của Phật giáo Ðại thừa. Những thiền kinh căn bản của Nguyên thỉ như Niệm Xứ, Niệm Thân, An Ban Thủ Ý, A Lê Xá, An Nan Thuyết v.v… trong Hán tạng cũng như trong Pali tạng đã được tôi nghiên cứu kỹ lưỡng để đem ra thực tập. Giáo nghĩa hiện pháp lạc trú, các phép điều thân, điều tức, nhận diện cảm thọ, cảm xúc, quán chiếu tự tính các pháp v.v… hiện ra như một bó đuốc soi đường. Lúc bấy giờ tôi mới thấy được tính cách thiết dụng các kinh điển đại thừa như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Kim Cương, và tính cách nhất trí giữa hai truyền thống Nguyên thỉ và Ðại thừa. Tác phẩm nhỏ bé Bông Hồng Cài Áo là hoa trái đầu tiên của sự thực tập ấy. Tác phẩm Phép Lạ của Sự Tỉnh Thức , xuất bản lần đầu tại Việt Nam và Hoa Kỳ năm 1974 là chứng tích của sự thực tập, 1956-1972 là giai đoạn thai nghén và hình thành Thiền Làng Mai.

Thưa, quan điểm về Thiền của Ngài là gì, và nền tảng lý luận về phương pháp ấy?

Thiền sư Nhất Hạnh:

Tôi nghĩ, bất cứ pháp môn nào có sử dụng năng lượng của Niệm và của Ðịnh đều mang tính chất thiền, kể cả các pháp môn Niệm Bụt và Trì Chú. Niệm và Ðịnh nếu thực sự có mặt thì sẽ đem tới Tuệ. Tuệ luôn luôn làm phát khởi Từ và Bi. Chính Tuệ sẽ tháo gỡ được những khó khăn của bản thân và giúp tháo gỡ những khó khăn của những người khác. Thiền có công năng chuyển hóa và trị liệu cho mình và cho người. Giải thoát trước hết là vượt thoát các tâm hành giận hờn, bế tắc, lo lắng, sợ hãi, tuyệt vọng, những khó khăn trong nội tâm và trong hoàn cảnh, giải tỏa được hiểu lầm, thực hiện được hòa giải và tha thứ. Vì vậy, thiền phải có tính cách thực dụng. Mình tháo gỡ được cho mình rồi mình mới có khả năng giúp người khác tháo gỡ. Công phu cũng như thành quả phải tập trung cả vào giờ phút hiện tại. Ðọc lại Lâm Tế Lục , mình mới thấy được rõ ràng cái quan trọng của giây phút hiện tại: tùy xứ tác chủ, lập xứ tắc chân, phép lạ là đi ngay trên mặt đất . Vì lý do đó cho nên Thiền có thể đi đôi tuyệt hảo với Tịnh: nếu tâm có Niệm và Ðịnh thì Tịnh Ðộ hiện tiền, không cần đi tìm Tịnh Ðộ ở tương lai và ở một nơi nào khác. Giáo lý Duy Tâm Tịnh Ðộ đã cung cấp nền tảng cho sự thực tập này: nếu tâm tịnh là độ tịnh, ở đâu mình cũng có thể ngồi ở tịnh độ, đi trong tịnh độ. Có tịnh độ bây giờ thì chắc chắn cũng có tịnh độ trong tương lai. Vì vậy người tu thiền cảm thấy thoải mái khi trì tụng bài sám: Nương tựa A Di Ðà, trong bản môn mầu nhiệm (Nhật Tụng Thiền Môn 2000 ). Các vị tổ sư như Trần Thái Tông và Tuệ Trung Thượng Sĩ đều có nói: Di Ðà là tự tính, là pháp thân của chính ta, không phải là một thực tại nằm bên ngoài.

– Nếu như có thể, xin khái quát phương thức tu tập căn bản của dòng Thiền mà Thiền sư hướng dẫn – bao gồm những gì, quá trình tu tập và cùng những ích lợi cụ thể thiết thực của nó trong đời sống hiện đại?

Thiền sư Nhất Hạnh:

Sự thực tập của giới xuất gia và cả của giới không xuất gia là nắm cho vững hơi thở, bước chân và an trú trong giây phút hiện tại để nhận diện tất cả những gì đang xảy ra trong giây phút hiện tại. Tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống để được nuôi dưỡng, nhận diện những khổ đau để làm vơi nhẹ và cuối cùng để chuyển hóa và trị liệu: năng lượng để làm các công việc này là Niệm và Ðịnh. Mỗi giây phút của sự thực tập hằng ngày là để chế tác Niệm và Ðịnh. Niệm và Ðịnh đưa tới hiểu (Tuệ) và thương (Từ và Bi). Chính cái vốn liếng hiểu và thương ấy giúp mình tháo gỡ được những khó khăn cho mình và cho người. Các khóa tu tổ chức hoặc 90 ngày, 21 ngày, 7 ngày, 5 ngày, 3 ngày hay 1 ngày đều là để thực tập chế tác niệm, định và tuệ; những giờ ngồi thiền, đi thiền, chấp tác, pháp đàm, địa xúc, làm mới, xướng tụng… đều nhắm vào mục đích ấy. Phương pháp lắng nghe và ái ngữ giúp mình điều chỉnh tri giác sai lầm, giúp người khác điều chỉnh tri giác sai lầm, phục hồi tình huynh đệ, nuôi dưỡng hiểu và thương. Những khóa tu như thế đã được tổ chức khắp nơi, thường thường phải thuê các trường Ðại Học trong dịp Hè mới có đủ chỗ cho cả ngàn thiền sinh về tu tập trong nhiều ngày. Năng lượng hùng hậu của một tăng thân có tu có học lâu ngày rất cần thiết cho sự thành công của những khóa tu lớn như thế. Ít nhất phải có một tăng thân gồm có 60 vị vừa xuất gia vừa tại gia mới hướng dẫn được một khóa tu như thế. Khóa nào cũng chứng kiến sự chuyển hóa của những cặp vợ chồng, cha con, mẹ con, đem lại hòa giải, tha thứ, hạnh phúc. Sau những khóa tu như thế ai cũng muốn khi trở về địa phương thành lập một tăng thân để tiếp tục nuôi dưỡng sự thực tập cho bền bỉ. Hiện có cả hàng ngàn tăng thân như thế tại các nước Âu, Mỹ, Á và Úc. Các thành phố lớn như New York, London, Los Angeles đều có ít nhất mười tăng thân. Tăng thân là những nhóm người thực tập theo pháp môn Làng Mai, thường được gọi là Communities of Mindful Living. Từ Ðiển Làng Mai cũng như các web sites trang nhà liên hệ tới Làng đều cung cấp địa chỉ của những tăng thân như thế để mọi người có thể tìm tới tham dự.

Thiền sinh thực tập theo pháp môn Làng Mai đều thọ trì Năm Giới và Giới Tiếp Hiện. Trong pháp tu Làng Mai, Niệm là bản chất của Giới. Cho nên vị nào thực tập Năm Giới và Mười Bốn Giới và các Uy Nghi cho vững vàng thì vị ấy sẽ dễ thành công hơn trong công phu thiền tập. Có những khóa tu được tổ chức cho những giới chức nghiệp đặc biệt như các vị chuyên về Tâm Lý Trị Liệu, các vị Giáo Chức, các vị chuyên về Bảo Hộ Sinh Môi, các vị chuyên về ngành An Ninh, các vị Văn Nghệ Sĩ, Diễn viên và Sản xuất Ðiện Ảnh, các vị Doanh Nhân, các vị Dân Biểu Quốc Hội v.. v… Trước khi mở những khóa đặc biệt như thế, mình phải học hỏi về những khó khăn và khổ đau của họ để có thể đưa ra những pháp môn thực tập thích hợp và hữu hiệu.

– Phương pháp tu Thiền mà Thiền sư đang hướng dẫn có thể gọi là gì?

Thiền sư Nhất Hạnh:

Làng Mai chưa từng có ý đặt tên cho sự thực tập của mình. Các bạn thiền sinh Tây phương khi viết và nói về Làng Mai hay dùng danh từ “Thiền Làng Mai” hoặc “In the tradition of Thích Nhất Hạnh” . Có một hôm nhìn lại tôi bỗng ngạc nhiên thấy sao mà pháp môn Làng Mai đi đúng con đường Thiền Sư Tăng Hội đã vạch cách đây 18 thế kỷ quá: sử dụng các kinh thiền nguyên thỉ làm nền tảng cho sự thực tập, nhưng với tinh thần của Phật giáo Ðại Thừa! (Thiền Sư Tăng Hội có nói : An Ban là đại thừa của chư Phật, có mục đích cứu độ chúng sanh ). Tôi cũng thấy sao mà pháp môn tu tập Làng Mai trung thực với tinh thần Lâm Tế Lục một cách không ngờ được như thế! Ðây là tình cờ hay là có chủ ý? Có chủ ý thì tôi thấy mình chưa bao giờ có chủ ý, nhưng tình cờ thì tôi không tin là tình cờ được. Không có cái gì tình cờ. Phải có những động lực nào thúc đẩy trong chiều sâu tâm thức. Tôi nghĩ đó là năng lượng dẫn dắt của chư vị tổ sư.

– Xin Thiền sư cho biết sự phát triển hiện nay của dòng Thiền do thiền sư hướng dẫn, trên thế giới và Việt Nam ?

Thiền sư Nhất Hạnh:

Cho đến ngày 06.08.2008, chúng tôi đã độ được 515 người xuất gia của 31 quốc tịch, và đào tạo được suýt soát 300 vị giáo thọ vừa xuất gia, vừa tại gia. Số lượng này còn quá ít không thể thỏa mãn được những nhu cầu khắp nơi. Có những trung tâm tu học đã được thiết lập tại Tây Phương : Các Tu Viện Bích Nham (Nữu Ước), Lộc Uyển (Cali), Rừng Phong, Thanh Sơn, (Vermont), Mộc Lan (Mississipi) ở Hoa Kỳ, Làng Cây Phong ở Canada, Làng Sen Búp, Làng Trúc Xanh ở Úc, các trung tâm Từ Thị ở Bavaria, Trung Tâm Suối Thương ở Berlin (Ðức). Pháp môn Làng Mai hiện đang được thực tập ở ít nhất là 50 quốc gia. Viện Phật Học Ứng Dụng Châu Âu (The European Institute of Applied Buddhism) gọi tắt là EIAB vừa được thiết lập ở Ðức để góp phần đào tạo thêm các vị Giáo Thọ.

-Liên hệ giữa Thiền và Giáo như thế nào trong pháp môn Làng Mai ?

Thiền sư Nhất Hạnh:

Nhìn vào cách học và thực tập ở Làng Mai ta có thể thấy được sự nhất trí của Thiền và Giáo một cách rõ ràng. Các kiến thức về Duy Biểu do các tác phẩm Duy Thức Học cung cấp, các kiến thức về A Tỳ Ðạt Ma do các bộ Luận như Câu Xá, Thành Thật, Thanh Tịnh Ðạo, Giải Thoát Ðạo v..v.. đều có ích lợi cho sự thực tập Thiền bởi vì chúng giúp cho hành giả biết rõ hơn về cách vận hành của tâm thức. Thiền sư Thường Chiếu ngày xưa đã nói: “Biết rõ về cách vận hành của tâm thức thì sự thực tập trở nên dễ dàng hơn”. Các kinh điển lớn của Ðại Thừa như Bát Nhã, Hoa Nghiêm, Bảo Tích, Pháp Hoa đều đóng một vai trò quan trọng trong thiền tập. Khi học các kinh này, thiền sinh luôn luôn phải đặt câu hỏi: Những giáo lý uyên thâm trong kinh này phải được áp dụng như thế nào để tháo gỡ những khó khăn nội tâm mà hành giả đang mắc phải ? Cho nên giữa cái học và cái hành có một liên hệ rất thân thiết. Sách Nhật Tụng Thiền Môn có một buổi Công Phu Niệm Bụt với màu sắc Tịnh Ðộ Tông và một buổi Công Phu Thí Thực có màu sắc Mật Tông. Hành giả cảm thấy thoải mái với cả hai truyền thống này. Chắc quý vị còn nhớ là năm 2007 các thiền sinh Làng Mai đã tham dự các Ðại Trai Ðàn Chẩn Tế Bình Ðẳng tại Ba Miền Việt Nam với rất nhiều thoải mái trong có các buổi thiền tọa, thiền hành, pháp thoại… Các kiến thức về khoa sinh học mới, nhất là về khoa thần kinh não bộ, về khoa lượng tử học cũng như kinh nghiệm của các trường phái tâm lý trị liệu Tây Phương cũng đóng góp rất nhiều cho sự giảng dạy và thực tập ở Làng Mai. Thiền Làng Mai không có tính trừu tượng, trái lại rất cụ thể: thiền sinh nào cũng đều thực tập thiền hướng dẫn một thời gian mới có thể tự quán chiếu một mình; Các sách tập thiền căn bản như Sen Búp Từng Cánh Hé, Phép Lạ của sự Tỉnh Thức, Từng Bước Nở Hoa Sen, Chỉ Nam Thiền Tập cho Người Trẻ v…v… đều có thể được sử dụng như những thiền phổ cho người mới bắt đầu thực tập. Viện Phật Học Ứng Dụng Châu Âu với các khuôn viên của Viện ở Ðức, Pháp, Hoa Kỳ v..v.. có mở những khóa tu thiền rất thực tiễn cho thiền sinh như những khóa tu dành cho những người đang khổ đau vì mất người thân, cho những người vừa khám phá ra rằng mình có bệnh nan y, cho những cặp cha con vợ chồng đang có khó khăn trong việc truyền thông, cho những cặp nam nữ đang có dự tính kết hôn v..v.. Những khóa tu ấy rất thực dụng và đều đi về hướng Ðạo Phật Nhập Thế, ai cũng có thể ghi tên theo học và thực tập mà không nhất thiết cần phải là Phật tử.

-Thiền sư nhận định gì về tình hình tu tập ở Việt Nam hiện nay? Phương pháp tu hành của Ngài đóng góp như thế nào cho vấn đề tu tập ấy và tương lai của nó?

Thiền sư Nhất Hạnh:

Cái học của chúng ta hiện rất từ chương. Tôi rất mong Phật giáo Việt Nam sớm đi về hướng nhập thế và thực dụng để có thể đóng góp cụ thể cho hạnh phúc dân tộc và đất nước. Cái học và cái hành phải đi song song (hành giải tương ưng). Rất mong tại các Viện Phật Học, các vị giáo thọ và các học tăng được thực tập với nhau, sống với nhau, ngồi thiền, bái sám, đi thiền hành, ăn cơm chánh niệm, chấp tác với nhau… như trong truyền thống các tu viện ngày xưa. Có như thế người học tăng mới tiếp nhận được từ kinh nghiệm và phong cách của các bậc thầy của mình. Hy vọng pháp môn Làng Mai có thể đóng góp một phần nhỏ vào hướng đi ấy. Chúng ta có thể tổ chức cho các vị giáo thọ và sinh viên các Viện Phật Học, thỉnh thoảng về các tu viện Làng Mai tại Âu Mỹ hay tại Việt Nam để thăm viếng, cắm trại và quán sát cách học, cách tu của những nơi này. Có thể đó là một trong những phương thức vui tươi nhất để tìm hiểu và đối thoại mang ích lợi cho cả hai phía truyền thống.

 

Chúc Phú – Quảng Kiến thực hiện – (Tựa đề của NSGN, Nguyệt San Giác Ngộ số 150/ tháng 9/2008)

Oprah đàm đạo với Thiền sư Nhất Hạnh

Oprah Winfrey là một phụ nữ 56 tuổi – một ngôi sao truyền hình Mỹ. Có thể nói Oprah Winfrey là một phụ nữ danh tiếng và có nhiều ảnh hưởng nhất trên quần chúng ở Hoa Kỳ. Năm 2006, chính Oprah đã mang về cho Obama hơn một triệu lá phiếu, thắng Hilary Clinton,  để được đảng Dân Chủ đề cử làm ứng viên Tổng thống. Có người cho rằng Oprah có quyền lực mạnh bằng hay hơn 100 nghị sĩ, dân biểu Mỹ.

Cô đã là tỷ phú da đen đầu tiên và duy nhất trên thế giới (trong các năm 2004-2006). Sanh ra trong nghèo khó và trải qua nhiều thảm kịch khi còn trẻ, Oprah đã được học về ngành truyền thông trên đại học. Từ 1986, Oprah bắt đầu Show riêng của cô, lấy tên là Oprah Winfrey, mỗi năm mỗi thêm khán giả – tới năm 1998, hàng ngày có khoảng 14 triệu người Mỹ xem chương trình truyền hình của cô. Cũng thời gian này, Oprah đổi hướng, làm các show chú trọng tới các vấn đề văn chương, tâm linh và giáo dục.  Công ty Harpo do Oprah làm chủ phát hành các Shows truyền hình, sách báo, radio, phim ảnh và trang nhà Oprah.com v.v… Cô dự định ngưng việc làm Show trên truyền hình vào tháng 9, 2011, sau 25 năm làm “bá chủ” ngành này. Năm 2010, cô bước vào lãnh vực mới, làm người kể chuyện trong một loạt chương trình dài hạn về Đời sống cho đài Discovery, sau khi đã bỏ vốn hùn hạp với họ.

Trên trang nhà Oprah.com, chúng tôi đọc được lời giới thiệu sau đây của Oprah về Thiền sư Nhất Hạnh, người mà cô được đặc cách phỏng vấn vào tháng 9, 2009 tại Nữu Ước, khi thiền sư tới đó hoằng pháp:

OWand - ThichNhatHanh

Đó là nhà sư Phật Giáo có 60 tuổi đạo, cũng là một vị thầy dạy học, một nhà văn, một người can đảm gióng lên tiếng gọi ngưng chiến tranh, những vị thế đó đã đưa người vào tình trạng bị lưu đày khỏi quê hương bốn mươi năm. Và người ấy, người mà Martin Luther King Jr đã gọi là “một vị tông đồ của hòa bình và bất bạo động” đã chỉ cho chúng ta thấy cái đẹp của phút giây hiện tại, biết cám ơn từng hơi thở, và giúp cho ta thấy được là giải thoát và hạnh phúc có thể tìm thấy rất dễ dàng trong khi ta uống một ngụm trà. Ngay phút giây được gặp người ở khách sạn Bốn Mùa (Four Season Hotel) ở Mahattan Nữu Ước, tôi cảm nhận ngay một sự an bình tỏa rạng nơi người. Một trường năng lượng an bình và sâu lắng toát ra từ Thiền Sư. Nhưng bên dưới của phong thái rất bình an đó là một chiến sĩ cang cường. Sinh đẻ tại Việt Nam ông thầy tu 83 tuổi này đi tu hồi năm 16, can đảm đòi hỏi chấm dứt chiến tranh Việt Nam trong thời kỳ mà hai bên đất nước ông đang lâm chiến. Dù đã chọn cuộc đời thiền quán của một ông thầy tu nhưng chiến tranh xảy ra trước mắt khiến người phải chọn : một là mãi ẩn tránh trong chùa, hai là vừa thiền quán mà vừa ra ngoài giúp người đang chạy dưới bom đạn? Quyết định của ông thầy tu trẻ này đã khai sinh ra một loại Phật Giáo dấn thân, một phong trào vận động cho hòa bình đồng thời dấn thân vào những công tác đưa tới sự thay đổi chuyển hóa xã hội. Chính những hành động muốn sửa đội xã hội bằng phương pháp bất bạo động đó đã khiến cho ngài Martin Luther King Jr đề nghị Thiền Sư nhận giải Nobel Hòa Bình năm 1967.

Song song với việc phản đối những bạo động mà đồng bào ông phải gánh chịu, ông thầy tu trẻ đã thành lập một tổ chức xã hội để xây trường học trạm y tế ở những nơi nghèo khó, xây dựng lại những làng xã bị nát tan vì đạn bom và tìm cách giúp định cư cho những người nhà cửa bị tiêu tán vì bom đạn. Thầy Nhất Hạnh cũng đã xây dựng trường đại học Phật giáo, lập nhà xuất bản và chủ trương viết tuần báo, viết nguyệt san cổ xúy cho hòa bình – tất cả những việc làm này cuối cùng đã khiến cho chính quyền Miền Nam cấm đoán ông trở về lại Việt Nam sau một chuyến đi vận động cho hòa bình. Thầy bị lưu đày khỏi xứ 39 năm.

Trước khi bị lưu đày Thầy đã từng xuất ngoại và sống ở Tây Phương (học và nghiên cứu tại đại học Princeton và dạy học ở Đại Học Columbia trong những năm đầu 1960) và cũng chính ở Tây Phương mà bây giờ Thầy đã trở lại. Thấy rằng để có dịp chia sẻ những hiểu biết của mình về đạo Phật và cũng để vận động cho hòa bình Việt Nam qua hành động bất bạo động, Thầy đã thành lập Phái Đoàn Hòa Bình Phật Giáo tại Paris trong khi các cường quốc đang hội họp để bàn về vận mạng Việt Nam ở nơi này . Đó là vào năm 1969, khi thầy thành lập Giáo Hội Phật Giáo Nhất Quán tại Pháp và tiếp tục viết hơn 100 quyển sách, kể cả quyển sách bán chạy nhất là Living Buddha, living Chirst (Bụt đang sống Chúa đang có mặt) năm 1995 – cuốn sách này là sách gối đầu giường của tôi.

Thầy Nhất Hạnh giờ đây đã định cư ở Miền Nam nước Pháp và thành lập Làng Mai, một trung tâm tu học đạo Phật và một tu viện nơi mà thầy đang sống. Mỗi năm, hàng ngàn người tới từ nhiều quốc gia, họ đến để tìm hiểu thâm sâu hơn cách hành trì theo lời Bụt dạy – kể cả thực tập chánh niệm (mục đích là đưa tâm về phút giây hiện tại), khai triển những phương pháp tu tập (sinh hoạt bình thường như là đi trong ý thức, và kéo mình trở lại chánh tư duy) và giác ngộ (thoát khỏi những khổ đau khi mình thấy rõ được bản chất của thực tại). Những nguyên tắc này đã được giới thiệu từ hơn 2000 năm nay bởi Siddhartha Gautama – là Đức Phật, một ông hoàng người Ấn Độ đã từ bỏ đời sống dễ dãi và hưởng thụ của mình để đi tìm ánh sáng giác ngộ – và sau đó đã thành lập một con đường tâm linh cho cuộc hành trình đó. Thiền sư Thích Nhất Hạnh, hay đơn giản hơn “thầy” mà các đệ tử của người đã gọi rất thân thương, đã dẫn theo một nhóm nam và nữ tu sĩ từ Làng Mai đến để tham dự cuộc trò chuyện của chúng tôi. Trong vài truyền thống tâm linh thường hay có một nhóm người có mặt để lắng nghe một cách từ bi câu chuyện. Thầy Nhất Hạnh đã đem theo một nhóm người như thế và đã cùng chụp ảnh với chúng tôi và cuối cùng đã hát chung một bản nhạc rất nhẹ nhàng bình an : “Chúng ta là lá của một thân cây, chúng ta là những đợt sóng của một đại dương, đã đến lúc mà chúng ta phải đến và sống với nhau như cùng một cơ thể.”

Cô Oprah: Cám ơn thầy đã cho chúng tôi hân hạnh trò chuyện với thầy. Chỉ cần sự hiện diện của thầy là chúng tôi đã cảm thấy bớt bức xúc quýnh quáng nhiều lắm, so với những gì xảy ra từ sáng đến giờ. Quả thực như là có một vùng ánh sáng thật bình an đang toát ra quấn lấy thầy. Lúc nào thầy cũng có vẻ an bình tròn đầy như vậy sao ?

TS Nhất Hạnh: Đó là sự thực tập của tôi. Và tôi luyện cách sống như vậy mỗi phút giây để có thể giữ sự bình an trong tôi suốt ngày.

Cô Oprah: Bởi vì mình sẽ không thể cho người khác cái gì mà mình không có phải không thưa thiền sư ?

TS Nhất Hạnh: Vâng, đúng vậy.

Cô Oprah: Tôi biết rõ là thầy được sinh ra ở Việt Nam năm 1926. Thầy có thể chia sẻ cho chúng tôi một kỷ niệm nào tuyệt vời nhất trong thời ấu thơ không ?

TS Nhất Hạnh: Đó là ngày tôi thấy được hình ảnh của Đức Phật trong một tờ tạp chí.

Cô Oprah: Hồi ấy thầy mấy tuổi ?

TS Nhất Hạnh: Tôi lên 7 hay 8 gì đó. Phật ngồi trên cỏ, thật bình an và mỉm cười. Tôi rất cảm kích, bởi vì quanh tôi không ai được như vậy. Vì thế tôi đã mong được như ngài. Và tôi đã nuôi dưỡng ước mong đó cho tới năm tôi 16 tuổi khi tôi xin được cha mẹ tôi để đi tu và tôi được quy y, thọ giới.

Cô Oprah: Ba mẹ thầy có khuyến khích thầy không ?

TS Nhất Hạnh: Ban đầu thì hơi miễn cưỡng vì họ nghĩ là cuộc sống của một nhà tu cực khổ và nhiều khó khăn.

Cô Oprah: Ở tuổi 16 thầy có biết cuộc đời sẽ như thế nào không ?

TS Nhất Hạnh: Không nhiều lắm. Tôi chỉ biết là trong tôi có một khát khao lớn. Cảm tưởng rằng mình sẽ không bao giờ hạnh phúc được nếu không là thầy tu. Người đời thường gọi đó là tâm ban đầu – sự khát khao sâu sắc mà một người có thể có. Và tôi có thể nói là cho tới bây giờ cái tâm ban đầu đó vẫn còn sống mạnh mẽ trong tôi.

Cô Oprah: Đó là cái mà thiên hạ gọi là sự đam mê. Đó cũng là cách tôi cảm nhận về công việc tôi đang làm hàng ngày. Khi có đam mê như thế thì mình vẫn cảm thấy thoải máy khi làm việc dù không ai trả tiền cho mình.

TS Nhất Hạnh: Và ta thích thú làm việc đó.

Cô Oprah: Vậy là thầy thích thú hành động theo cái tâm ban đầu đó. Chúng ta thử nhắc lại khi thầy vừa mới bước tới Bắc Mỹ lần đầu nhé. Thầy đã học ở Viện Đại Học Princeton phải không? Là một ông thầy tu Việt Nam, cái gì khó khăn nhất với thầy để có thể làm bạn được với sinh viên (Hoa Kỳ) ? Thầy có cảm thấy cô đơn không ?

TS Nhất Hạnh: Vâng, đại học Princeton giống như một tu viện. Thời đó chỉ có nam sinh viên và không có lấy một người Việt sống ở vùng lân cận và cũng không có nhiều ở Hoa Kỳ. Sáu tháng liền tôi không thể chuyện trò với ai bằng tiếng Việt. Nhưng khu làng đại học rất đẹp. Và cái gì cũng mới đối với tôi – cây cỏ chim chóc, và cả thức ăn nữa. Mùa tuyết đầu tiên của tôi là ở tại đây, và lần đầu tiên tôi dùng máy sưởi. Mùa thu đầu tiên của tôi cũng ở Princeton.

Cô Oprah: Khi lá bắt đầu đổi màu.

TS Nhất Hạnh: Vâng, ở Việt Nam chúng tôi không hề thấy được cảnh huy hoàng ấy của mùa thu.

Cô Oprah: Thời đó thầy vẫn mặc áo thầy tu chứ ?

TS Nhất Hạnh: Vâng.

Cô Oprah: Khỏi phải lo đi mua áo phải không ạ ? Lúc nào cũng chỉ mặc cái áo thầy tu ư ?

TS Nhất Hạnh: Vâng.

Cô Oprah: Thầy có áo nào khác vào những dịp khác không ?

TS Nhất Hạnh: Chúng tôi có áo để làm lễ gọi là y, màu cam. Chỉ có thế. Chúng tôi cảm thấy rất thoải mái khi mặc những y áo ấy. Và chúng đã vui vẻ nhắc nhở rằng chúng tôi là thầy tu.

Cô Oprah: Thầy tu là sao thưa thầy ?

TS Nhất Hạnh: Là thầy tu là để có được nhiều thì giờ tu tập, để chuyển hóa những khó khăn và chữa lành được những nỗi khổ niềm đau của mình. Rồi sau đó mình mới biết cách giúp người khác chuyển hóa và trị liệu như mình.

Cô Oprah: Có phải là hầu hết các người tu đều được giác ngộ hay là đang tìm cách để sớm giác ngộ không ?

TS Nhất Hạnh: Giác ngộ lúc nào cũng có mặt đó. Một giác ngộ nhỏ, hai giác ngộ nhỏ … từ từ đưa tới giác ngộ lớn. Nếu cô thở và cô ý thức là cô đang sống – là cô đang tiếp xúc với cái mầu nhiệm của sự kiện mình vẫn đang còn sống – đó một loại giác ngộ. Nhiều người đang còn sống nhưng họ không ý thức và vì thế không tiếp xúc được sự mầu nhiệm là mình còn sống ấy.

Cô Oprah: Tôi biết chắc là thầy đã thấy rõ hết quanh thầy – tôi cũng cảm thấy mình có sai lầm ấy – vì sao lúc nào người ta cũng gắng làm xong việc thật nhanh để bắt kịp việc làm kế tiếp, hành động kế tiếp. Ở đất nước chúng tôi, con người rất bận rộn. Ngay cả trẻ con. Tôi có cảm tưởng như là rất ít người trong chúng ta làm được những gì thầy vừa nói, nghĩa là tiếp xúc với phép lạ mà mình đang được sống.

TS Nhất Hạnh: Đó là môi trường mà mọi người đang sống. Nhưng với sự thực tập, chúng ta vẫn có thể luôn giữ đựợc sự tỉnh giác trong phút giây hiện tại là mình đang may mắn còn sống. Với chánh niệm, ta có thể định tâm trong phút giây hiện tại để có thể tiếp xúc được với những nhiệm mầu của sự sống đang có mặt trong giây phút đó. Chúng ta có thể sống rất hạnh phúc ngay bây giờ và tại đây. Có rất nhiều điều kiện đang có mặt bây giờ và tại đây – nhiều hơn là bạn tưởng, để bạn có thể hạnh phúc liền tức thì. Bạn không cần chạy về tương lai để có thêm nữa.

Thầy Nhất Hạnh định nghĩa về hạnh phúc và tiết lộ cách nào để đạt tới hạnh phúc

Cô Oprah: Hạnh phúc là gì thưa Thầy?

TS Nhất Hạnh: Hạnh phúc là sự chấm dứt khổ đau, mạnh khoẻ và thoải mái. Ví dụ như khi tôi thở vào và ý thức sự có mặt của đôi mắt tôi, thở ra tôi ý thức đôi mắt tôi còn tốt và mỉm cười với đôi mắt của tôi, hạnh phúc quá phải không. Có cả một thiên đường mầu sắc và hình dáng dàn trãi quanh tôi, trên cuộc đời này. Nhờ chúng ta còn đôi mắt sáng nên ta mới tiếp xúc được với thiên đàng ấy. Vì thế khi tôi bắt đầu ý thức về đôi mắt tôi, tôi tiếp xúc ngay được những điều kiện hạnh phúc. Và khi tiếp xúc những điều kiện ấy, ta bắt gặp ngay hạnh phúc trong giờ phút này.

Cô Oprah: Và thầy có thể làm như thế với những phần khác của cơ thể thầy phải không ?

TS Nhất Hạnh: Đúng vậy. Thở vào, tôi để ý tới trái tim tôi. Thở ra tôi mỉm cười với trái tim tôi và biết rằng trái tim tôi còn đang đập bình thường. Tôi rất cám ơn trái tim của tôi.

Cô Oprah: Thế là phải nhớ ý thức từng sự vật, từng phút giây và dâng niềm biết ơn về những gì mà mình đang có phải không thưa thiền sư ?

TS Nhất Hạnh: Vâng.

Cô Oprah: Và không chỉ những điều kiện vật chất mà thôi, mà về sự kiện là ta vẫn còn hơi thở.

TS Nhất Hạnh: Vâng, ta chỉ cần tập chánh niệm nghĩa là đem tâm trở về với thân và an trú trong giây phút hiện tại. Nếu mình hoàn toàn có mặt trong phút giây này, ta có thể nhìn sâu hơn để bước một bước chân ý thức trên hành tinh đẹp đẽ này, hay thở vào một hơi để ý thức là ta đang đứng trong thiên đàng của Thượng Đế. Khi mà ta đã có cõi thiên đàng thanh tịnh đó rồi, ta đâu có cần phải chạy theo đối tượng của sự thèm khát như là danh tiếng, tiền tài hay những dục lạc khác. Bình an và niềm vui nhẹ nhàng có thể đạt tới ngay. Và sự thực tập này đủ đơn giản cho tất cả mọi người.

Cô Oprah: Thầy dạy chúng tôi cách thực tập đó đi.

TS Nhất Hạnh: Ví dụ như cô đang uống trà nhé. Cô nâng chén trà lên, cô có thể thở vào, đưa tâm cô trở về với thân và cô sẽ hoàn toàn có mặt trong lúc đó. Và khi mà cô thực tình có mặt trong phút ấy thì còn một cái khác cũng có mặt, đó là sự sống được đại diện bởi chén trà. Trong giây phút ấy cô thật sự sống, chén trà cũng hiển hiện thơm tho, sâu lắng… Cô không bị đi lạc vào quá khứ, không bị kéo về tương lai, về những dự án, những lo âu… Cô hoàn toàn tự do, thoát khỏi những phiền toái đó. Và trong trạng thái có mặt thực sự với chén trà, cô hoàn toàn tự do, vượt khỏi phiền muộn và tận hưởng từng ngụm trà. Đó là phút giây hạnh phúc và bình an. Khi cô chải răng cũng vậy, có lẽ là cô thường chải cho nhanh chừng hai phút thôi. Nhưng với sự thực tập này cô có thể đạt tới tự do buông bỏ những suy tư về quá khứ hay bị kéo đi bởi những tính toán tương lai, vì cô đang định tâm vào phút giây hiện tại, cô có niềm vui khi nhìn sâu những chiếc răng của cô, kem đánh răng thơm, bàn chải ưng ý của cô… trong chánh niệm. Nếu cô có khả năng chải răng trong chánh niệm thì cô cũng có thể rất hạnh phúc tận hưởng giây phút hiện tại khi tắm, khi chuẩn bị thức ăn sáng, uống từng ngụm trà… vô số hành động khác trong chánh niệm.

Cô Oprah: Như vậy theo cái cách nầy thì ta có vô số điều kiện hạnh phúc.

TS Nhất Hạnh: Vâng. Chánh niệm giúp ta trở về với chính ta trong phút giây hiện tại và mỗi khi trở về với phút giây này ta nhận diện những điều kiện hạnh phúc mà ta đang có và ta hạnh phúc ngay.

Cô Oprah: Với Thầy, trà là thực tại mầu nhiệm.

TS Nhất Hạnh: Tôi, và trà có thật. Tôi đang sống trong phút giây hiện tại. Tôi không nghĩ đến chuyện đã qua. Không nghĩ đến những gì sắp tới. Khi đó mới có một sự trực diện thâm sâu giữa tôi và trà. Bình an, hạnh phúc và niềm vui có mặt khi tôi uống trà.

Cô Oprah: Tôi thật chưa bao giờ có cái suy tư khá sâu về một chén trà như thế.

TS Nhất Hạnh: Chúng tôi tập làm thiền trà rất vui. Chúng tôi cùng ngồi, uống với nhau một chén trà và cảm nhận được tình bạn, tình huynh đệ, tình chị em. Chúng tôi có thể ngồi chơi như thế một giờ luôn, chỉ để hưởng một chén trà.

Cô Oprah: Một chén trà chừng này thôi phải không ? (Cô nâng chén trà của cô lên).

TS Nhất Hạnh: Đúng vậy.

Cô Oprah: Một giờ.

TS Nhất Hạnh: Mỗi phút giây là một phút giây hạnh phúc. Và trong một giờ đồng hồ cùng ngồi uống trà, ta nuôi dưỡng niềm vui, tình huynh đệ, tình chị em, định trú thật bình an nơi này và ở đây.

Suốt 39 năm bị lưu đày, tạo được một cộng đồng để phụng sự chung là việc làm thiết yếu

Cô Oprah: Thầy có làm như vậy với các thức ăn không ?

TS Nhất Hạnh: Thưa có. Chúng tôi có những bữa ăn im lặng, ăn như thế nào để có thể tiếp xúc được với cả vũ trụ, với từng miếng thức ăn đưa vào miệng.

Cô Oprah: Như vậy thì ăn một bữa ăn phải tốn bao lâu ? Trọn ngày ư ?

TS Nhất Hạnh: Một giờ là đủ. Ngồi chung với nhau như nhóm bạn bè thân thiện, cùng ăn chung những thức ăn như nhau, rồi uống trà, rồi cùng rửa chén. Ta thực tập như thế nào để cho thảnh thơi, niềm vui và hạnh phúc có mặt trong suốt thời gian ấy. Rất nhiều người đến Trung Tâm tu học của chúng tôi, học cái nghệ thuật sống chánh niệm ấy. Rồi khi họ trở về thành phố cư trú của họ họ thành lập một tăng thân, một nhóm bạn thực tập như vậy để giúp đở nhau nuôi dưỡng sự tu tập. Chúng tôi đã giúp xây dựng rất nhiều những tăng thân như vậy cùng khắp trên thế giới.

Cô Oprah: Một tăng thân tức là một cộng đồng dễ thương.

TS Nhất Hạnh: Vâng.

Cô Oprah: Cộng đồng dễ thương như vậy quan trọng như thế nào trong đời chúng ta ? Thiên hạ có gia đình để cùng sống như một cộng đồng, còn thầy, thầy mở rộng cộng đồng dễ thương của thầy để chấp nhận những người khác. Thành ra cộng đồng dễ thương càng lớn thì ta có thể đạt những thành quả lớn trong cuộc đời.

TS Nhất Hạnh: Đúng như vậy.

Cô Oprah: Với đề tài cộng đồng dễ thương, ta nên trở về năm 1966. Thầy được mời đến đại học Cornell để thuyết giảng về Việt Nam và không lâu sau đó thầy không được phép trở về nước của thầy nữa. Thầy bị lưu đày 39 năm. Làm thế nào mà thầy xử lý được với những cảm thọ ấy ?

TS Nhất Hạnh: Vâng, tôi như một con ong bị tách rời khỏi tổ. Nhưng nhờ tôi mang theo tôi cộng đồng dễ thương trong lòng, tôi tìm những yếu tố của cộng đồng đó, của tăng thân dễ thương đó quanh tôi, ngay trong lòng các tiểu bang Hiệp Chủng Quốc, trong lòng các nước Âu Châu. Và tôi bắt đầu xây dựng cộng đồng dễ thương làm việc cho hòa bình cùng với tôi.

Cô Oprah: Ban đầu thầy có giận không ? Tổn thương không ?

TS Nhất Hạnh: Có giận, có lo, buồn và tổn thương. Sự thực tập giúp tôi nhận diện những trạng thái đó. Trong năm đầu, đêm nào tôi cũng nằm mơ thấy trở về quê, gần như mỗi đêm. Tôi thấy tôi leo lên một ngọn đồi thật đẹp, thật xanh và thật hạnh phúc nhưng rồi tôi chợt tỉnh dậy và nhận ra là mình đang bị lưu đày. Và sự thực tập của tôi là đem tâm về với thân sống thật hết lòng trong phút giây hiện tại, tiếp xúc với cây cỏ chim chóc hoa lá và trẻ em và những người bạn mới ở phương Tây – và chấp nhận biến họ thành cộng đồng dễ thương của tôi. Nhờ cách tu tập như thế tôi đã tìm ra quê hương ngoài quê hương. Dần dà khoảng một năm sau thì những giấc mơ chấm dứt.

Cô Oprah: Lý do vì sao mà thầy không được phép trở về nước ?

TS Nhất Hạnh: Trong thời gian chiến tranh, các phe lâm chiến nhất định đánh tới cùng. Và vì thế mà dĩ nhiên là không phe nào cho phép chúng tôi nói tới chuyện hòa giải giữa anh em – họ không cho phép nói đến hòa giải.

Cô Oprah: Thành ra thầy là một người không có quê hương để về, nên thầy biến nơi nào thầy đang ở là quê hương, cùng khắp trên nhiều nước phải không ?

TS Nhất Hạnh: Đúng thế.

Cô Oprah: Và Hoa Kỳ là một phải không ?

TS Nhất Hạnh: Vâng.

Cô Oprah: Thầy gặp Martin Luther King khi nào ?

TS Nhất Hạnh: Tháng sáu năm 1965. Tôi viết cho người một bức thư – từ Việt Nam – giải thích vì sao những ông thầy tu ở Việt Nam đã hiến thân cho lửa. Tôi giải thích đó không phải là hành động tự tử. Tôi nói ở Việt Nam rất khó để cho lời kêu gọi tha thiết của mình được lắng nghe. Đôi khi ta phải tự thiêu để tiếng nói được lắng nghe. Và người tự thiêu hành động như vậy vì lòng thương chứ không vì giận hờn hay tuyệt vọng. Và sau khi tôi viết bức thư cho người thì đúng một năm sau tôi gặp được người ở Chicago. Chúng tôi đã đàm luận rất nhiều về hòa bình, về tự do và về cộng đồng. Và chúng tôi cũng đồng ý với nhau là nếu không có một cộng đồng cùng sống cùng làm thì chúng ta không thể đi xa.

Cô Oprah: Thầy đàm luận với Martin được bao lâu ?

TS Nhất Hạnh: Chắc cũng chỉ hơn năm phút thôi vì sau đó còn có một cuộc họp báo và ngài đã nói rất rõ là ngài hoàn toàn chống chiến tranh ở Việt Nam.

Cô Oprah: Thầy có nghĩ đó là kết quả của cuộc đàm luận với thầy ?

TS Nhất Hạnh: Tôi tin là như thế, và chúng tôi cùng làm việc chung trên hướng đó. Rồi lần chót mà tôi gặp ngài là ở Geneva trong một hội nghị hòa bình.

Thầy Thích Nhất Hạnh giải thích cách giải quyết hay nhất và duy nhất để chống khủng bố

Oprah: Trong hội nghị hòa bình đó, hai vị đã đàm luận nhiều chứ ?

TS Nhất Hạnh: Vâng có. Ngài mời tôi lên ăn sáng và chúng tôi lại bàn sâu hơn những vấn đề này. Tôi bị kẹt trong một cuộc họp báo bên tầng dưới và đến khá trễ, nhưng ngài vẫn giữ thức ăn sáng nóng cho tôi. Tôi có nói rằng dân chúng nước tôi xem ngài như là một vị bồ tát – một người giác ngộ – vì những hành động của ngài cho dân tộc ngài, cho đất nước ngài và cho cả thế giới.

Cô Oprah: Và nhất là ông làm những điều đó bất bạo động.

TS Nhất Hạnh: Đúng vậy. Đó là hành động của một vị bồ tát, một đức Phật. Làm gì cũng với lòng từ bi và bất hại. Khi tôi nghe tin ngài bị ám sát, tôi không thể tin được. Tôi tự nhủ : “Dân tộc Hoa Kỳ đã sinh ra được một vị như King nhưng không đủ khả năng giữ gìn che chở được ngài”. Tôi hơi giận. Tôi không ăn được, không ngủ được. Nhưng lòng quyết chí xây dựng những cộng đồng dễ thương vẫn luôn tiếp tục. Tôi nghĩ là tôi đang luôn được ngài ủng hộ.

Cô Oprah: Luôn được ủng hộ ?

TS Nhất Hạnh: Vâng.

Cô Oprah: Đúng rồi. Chúng ta đang nói về chánh niệm, và thầy nhắc đến đi trong chánh niệm. Đi trong chánh niệm là sao ?

TS Nhất Hạnh: Khi ta đi, ta tiếp xúc với mặt đất một cách chánh niệm. Mỗi bước chân định tâm trong phút giây hiện tại đó, cho ta thêm vững chãi, niềm vui và sự thanh thoát. Thoát khỏi những tiếc nuối về những chuyện trong quá khứ, thoát khỏi sự lo sợ cho tương lai.

Cô Oprah: Phần đông mọi người khi đi họ thường nghĩ phải đi đâu, phải làm gì. Nhưng thầy nói như thế sẽ đánh mất hết những niềm vui trong ta ?

TS Nhất Hạnh: Người ta hy sinh hiện tại cho tương lai, nhưng sự sống chỉ xảy ra trong phút giây hiện tại. Vì thế cho nên ta phải đi như thế nào mà mỗi bước chân có thể đưa ta đến sự sống đang có mặt bây giờ và chỗ ta đang đứng.

Cô Oprah: Nhưng các giấy nợ, đòi thanh toán những món tiền chưa trả thì sao ? Tôi đang đi nhưng tôi nhớ phải thanh toán tiền này nè, tiền kia nè. Tôi đang đi mà tôi đang nghĩ đến các món tiền cần trả.

TS Nhất Hạnh: Mỗi việc mỗi lúc. Có lúc cần ngồi xuống, định tâm để giải quyết những món tiền cần trả, nhưng khi đang đi thảnh thơi thì việc gì phải lo trước khi đang đi. Một thời điểm, chú tâm lo một việc thôi. Chúng ta đi thiền hành để chữa lành cho ta, để trị liệu, bởi vì đi như thế ta buông nhẹ được những lo âu, những bức bách, những căn thẳng trong thân và trong tâm ta.

Cô Oprah: Trường hợp cũng sẽ tương tự khi ta lắng nghe sâu mà tôi được nghe thầy nói khi nảy.

TS Nhất Hạnh: Lắng nghe sâu là lắng nghe như thế nào mà làm vơi được khổ đau của người khác. Ta có thể gọi đó là cách lắng nghe bằng tâm từ bi. Ta lắng nghe chỉ với một mục đích duy nhất : giúp cho ngươi kia trút hết nỗi lòng. Dù rằng có khi người kia đã nói những điều dẫy đầy những cái thấy rất sai lạc, đầy cay đắng, nhưng ta vẫn có thể tiếp tục ngồi lắng nghe với tâm từ bi. Bởi vì ta biết rõ là lắng nghe như thế sẽ cho người kia một dịp may là bớt khổ. Nếu bạn muốn tìm cách sửa cái thấy sai lạc của người kia, ta phải chờ một dịp khác. Nhưng bây giờ đang ngồi nghe, bạn không nên cướp lời người đó, cũng không nên lý luận gì hết. Nếu bạn cướp lời thì người kia sẽ cụt hứng, sẽ mất dịp may được trút bầu tâm sự. Bạn chỉ cần lắng nghe với tấm lòng thật từ bi và điều đó sẽ giúp cho người kia bớt khổ nhiều lắm. Chỉ cần ngồi lắng nghe được chừng một giờ như thế thì ta có thể giúp chuyển hoá và chữa lành khá nhiều.

Cô Oprah: Tôi thích cách lắng nghe sâu này lắm bởi vì khi người bạn tới với ta và muốn ta lắng nghe nỗi khổ của người ấy, ta hay bị kéo đi bởi ý muốn góp ý khuyên can này nọ. Nhưng nếu ta để cho người kia trút được hết nỗi lòng. Rồi một thời gian khác ta mới trở lại khuyên nhủ và góp ý thì người kia có dịp chữa lành sâu sắc hơn. Có phải thầy muốn nói như vậy không ?

TS Nhất Hạnh: Thưa đúng. Lắng nghe sâu giúp ta nhận diện những cái thấy sai lầm của người kia về chính họ và cả những cái thấy phiến diện của họ về ta. Người kia có cái thấy sai lầm về chính anh hay chị ta và về chúng ta. Và chúng ta thì cũng có tri giác sai lầm về chính ta và về người đó. Đó là căn nguyên của bạo động, bất hòa và chiến tranh. Các người khủng bố, họ có cái thấy sai lệch. Họ tin là nhóm người kia (chống khủng bố) đang muốn tiêu diệt tôn giáo họ, tiêu diệt nền văn minh của họ. Vì thế họ phải tiêu diệt ta trước, trước khi ta tiêu diệt họ. Rồi những người chống khủng bố cũng nghĩ và hành xử y chang như nhóm kia : tụi nó muốn tiêu diệt ta thì ta phải tiêu diệt họ trước. Cả hai bên đều bị kích động bởi sự sợ hãi, căm thù và tri giác sai lầm. Và tri giác sai lầm, cái thấy sai không thể chữa trị bằng đạn bom. Cái thấy sai chỉ có thể chữa trị bằng lắng nghe sâu, nghe với tâm từ bi và lời nói ái ngữ, để gỡ từ từ những cái thấy sai lệch đó mà thôi

Tại sao khổ đau quan trọng thế và làm sao để chữa lành nó?

Cô Oprah: Cách duy nhất để chấm dứt chiến tranh là sự truyền thông của các bên.

TS Nhất Hạnh: Vâng, chúng ta phải có khả năng nói rằng: “Này các bạn, này các bạn thân mến, tôi biết quý vị đang khổ, tôi không hiểu hết được những khó khăn và khổ đau của quý vị. Chúng tôi không có ý đồ làm khổ quý vị. Ngược lại chúng tôi không hề muốn làm cho quý vị khổ thêm nữa. Nhưng chúng tôi không biết làm cách nào và chúng tôi e sẽ làm thêm những điều sai trái để khiến cho quý vị khổ thêm nếu quý vị không giúp chúng tôi hiểu thêm quý vị. Vì thế xin quý vị cho chúng biết những khó khăn của quý vị, chúng tôi rất mong được học thêm, được hiểu thêm”. Chúng ta phải tập nói lời ái ngữ. Và nếu thật sự chúng ta nói những lời ấy bằng tấm lòng chân thật của ta thì họ sẽ mở lòng ra. Rồi thì ta thực tập lắng nghe với tâm từ bi và nhờ thế ta sẽ học thêm được biết bao điều về cái thấy (chưa đúng đắn) của ta và cái thấy (chưa đúng đắn) của họ. Chỉ có những dịp như thế ta mới lấy ra từ từ những cái thấy sai lầm. Đó là cách hay nhất, cách duy nhất để làm vơi đi nạn khủng bố.

Cô Oprah: Nhưng những điều thầy nói cũng áp dụng được cho những khó khăn trong các gia đình, giữa ta và những người thân trong gia đình ta phải không, hay cả giữa bạn bè với nhau (khi mà ta thấy người kia dữ dằn liều mạng như người khủng bố ). Nguyên tắc vẫn như thế phải không ?

TS Nhất Hạnh: Đúng vậy, trong gia đình cũng vậy và các cuộc thương thuyết cho hòa bình cũng nên làm theo nguyên tắc đó. Khi tới bàn hội nghị, ta không nên thương thuyết ngay. Ta nên để thời gian đi dạo chung, ăn chung, tập biết nhau nhiều hơn về những khổ đau khó khăn của mỗi người, mỗi bên. Kể ra những khổ đau tủi nhục của dân tộc ta mà không cần phải lên án kết tội. Chắc cũng cần một hay hai tuần rồi mới đi đến chuyện thương thuyết. Nếu bên này nghe được thông hiểu được nỗi khổ của bên kia thì hiểu biết là chuyện có thể thực hiện và có hiểu biết thì thương thuyết sẽ dễ hơn nhiều. Vì thế nếu tôi đứng ra tổ chức những hòa đàm thì tôi sẽ tổ chức theo cách đó.

Cô Oprah: Và thầy sẽ bắt đầu cho mọi người uống trà ?

TS Nhất Hạnh: Vâng, uống trà và đi trong chánh niệm.

Cô Oprah: Uống trà trong chánh niệm.

TS Nhất Hạnh: Và sẽ chia sẻ những hạnh phúc và những khổ đau. Và lắng nghe sâu và nói lời ái ngữ.

Cô Oprah: Vậy là không có chỗ cho sự tức giận sao ?

TS Nhất Hạnh: Tức giận là năng lượng giúp người ta hành động, có gan hành động, nhưng khi ta giận, ta không còn sáng suốt và ta rất có thể làm nhiều điều sai quấy mà ta sẽ hối tiếc. Từ bi cũng là năng lượng nhưng năng lượng rất lành. Khi năng lượng từ bi rất mạnh thì ta cũng cang cường không kém. Ta sẽ bớt khổ đau khi ta có từ bi. Điều này rất đúng. Ta nên tập không nên để cho cơn giận kéo ta đi. Ta đang khổ đó nhưng đừng để cho cơn sợ hãi đó kéo ta đi. Ta ý thức rõ ràng rằng đó chỉ là sợ hãi. Đó là tri giác sai lầm.

Cô Oprah: Thầy nghĩ sao nếu trong khi ta đang thực tập chánh niệm thì có một chuyện rất thách thức xảy ra như là tự nhiên bị thiên hạ kiện ta ra tòa. Và dĩ nhiên khi bị đưa ra toà thì khó mà an trú trong phút giây hiện tại để cảm thấy hạnh phúc.

TS Nhất Hạnh: Sự thực tập là cứ bình tĩnh đến với niềm bức xúc lo lắng ấy.

Cô Oprah: Sợ hãi. Điều thứ nhất là cơn sợ hãi trấn áp tôi liền và tôi tự hỏi : Ta sẽ phải làm gì đây ?

TS Nhất Hạnh: Này nhé, cô nhận diện ngay có sự sợ hãi trong cô. Cô ôm ấp nó, dịu dàng và nhìn sâu vào niềm sợ hãi đó. Cũng cùng một cách như khi cô có niềm đau, cô ôm ấp niềm đau kia một cách dịu dàng vì niềm đau chính là cô, sợ hãi cũng chính là cô. Cô chấp nhận trạng thái không dễ chịu đó, làm cho nó dịu xuống, nhẹ hơn một chút, tìm cách xử lý trạng thái này của tâm. Và nếu cô biết xử lý cơn sợ hãi của cô thì cô sẽ có đủ tuệ giác để giải quyết cái khó khăn ấy. Vấn đề là không để cho cơn sợ nó trấn ngự. Khi những cảm xúc mạnh mẽ ấy nổi dậy, ta tập để cho năng lượng chánh niệm nhận diện nó liền (biết rồi, đây cơn sợ của tôi nè!), chấp nhận ôm ấp nó, nhìn sâu vào nó. Cũng như một bà mẹ khi nghe bé khóc. Niềm lo của bạn chính là đứa bé đang khóc đó. Ta phải chăm sóc bé ngay, ta phải trở về với chính ta để nhận diện cơn đau này, chấp nhận ôm ấp cơn đau kia thì ta sẽ thấy đỡ hơn một chút. Ta tiếp tục dùng sự thực tập chánh niệm để ôm ấp, nhìn sâu và từ từ tìm ra gốc rễ cái bản chất của nổi khổ đó, và khi biết rõ bản chất, gốc rễ của cơn đau đó thì ta có thể tìm cách chuyển hóa nó.

Cô Oprah: Thầy dùng khá nhiều chữ khổ đau. Nhiều người có thể nghĩ khổ đau chỉ đơn giản là thiếu thốn, nghèo đói. Nhưng khi thầy nói về khổ đau thầy có nghĩ như vậy không ? (thiếu thốn những phương tiện vật chất).

TS Nhất Hạnh: Tôi muốn nói đến sợ hãi, tức giận, tuyệt vọng, lo lắng trong ta. Nếu ta biết xử lý chúng, ta sẽ có thể xử lý vấn đề chiến tranh, nghèo đói và những tranh chấp.

Cô Oprah: Bản chất những điều Bụt dạy – theo sự hiểu biết của tôi – là tin rằng chúng ta ai cũng đều thanh tịnh và sáng suốt sâu trong tâm ta. Thế nhưng ta chỉ thấy chung quanh ta rất nhiều người không hành xử trong tư thế thanh tịnh và sáng suốt gì hết. Làm sao mà ta liên kết được cái thấy đó của Phật dạy và sự kiện phũ phàng hằng ngày ta gặp ?

TS Nhất Hạnh: Cô biết không, hạnh phúc và đau khổ nó nương nhau. Cùng hiện hữu, cũng như bên trái và bên phải. Nếu không có bên trái thì cũng không có bên phải. Điều này cũng đúng với khổ đau và hạnh phúc, tốt và xấu. Mỗi người trong ta đều có những hạt giống tốt và xấu. Ta có hạt giống của tình huynh đệ, từ, bi và tuệ giác. Nhưng chúng ta cũng có hạt giống của giận hờn, căm thù và tách biệt.

Cô Oprah: Đó là bản chất rất “người.”

TS Nhất Hạnh: Đúng vậy. Có bùn và có hoa sen mọc lên từ bùn. Chúng ta cần có bùn để cho hoa sen mọc được.

Cô Oprah: Chúng ta không thể có cái này mà không có cái kia.

TS Nhất Hạnh: Vâng. Ta chỉ có thể thấy rõ hạnh phúc của ta dựa trên quá khứ khổ đau. Nếu bạn chưa bao giờ bị đói, bạn sẽ không trân quý khi được ăn. Nếu bạn chưa bao giờ thấy chiến tranh, bạn sẽ không thấy được giá trị của hòa bình. Vì thế ta không nên trốn chạy khó khăn này đến khó khăn khác. Nhận diện cái khổ của bạn, nhìn sâu và tìm cách đi ra khỏi khó khăn kia để đến được hạnh phúc.

Khi thiền quán ta tập bốn câu thần chú của thiền sư Thích Nhất Hạnh

Cô Oprah: Ngày nào thầy cũng đều thiền quán chứ ?

TS Nhất Hạnh: Chúng tôi thiền quán không phải mỗi ngày mà mỗi giây phút của sự sống. Khi chúng tôi uống, khi nói chuyện, khi viết lách, khi tưới cây trong vườn… và chúng tôi tập để sống trong hiện tại để nhìn sâu hơn vào cái hiện tại đó (và tiếp xúc với những gì tích cực mầu nhiệm trong hiện tại đó).

Cô Oprah: Nhưng thầy không có ngồi im lặng để đọc thần chú sao ?

TS Nhất Hạnh: Có, chúng tôi ngồi một mình, chúng tôi ngồi chung.

Cô Oprah: Càng nhiều người cùng ngồi càng tốt phải không ?

TS Nhất Hạnh: Vâng, năng lượng tập thể giúp ta nhiều lắm. Tôi muốn chia sẻ với cô về những thần chú mà cô vừa mới nhắc đến. Thần chú thứ nhất “Em yêu ơi, anh có mặt với em đây !***” Khi ta thương ai, món quà quý nhất mà ta có thể tặng cho người kia là sự có mặt, sự hiện diện của mình. Làm sao mà ta có thể nói là ta thương người kia được nếu ta không có mặt ?

***ghi chú: ngôn ngữ Việt rất đặc biệt, chữ my darling tiếng Anh, có thể dịch là anh yêu (nếu vợ nhìn mặt chồng mà đọc thần chú), hay em yêu (nếu chồng nhìn mặt vợ mà đọc thần chú, hay mẹ yêu (nếu con nhìn mặt mẹ mà đọc thần chú), hay bố yêu (nếu con nhìn mặt bố mà đọc thần chú), hay con yêu (nếu mẹ hay bố nhìn mặt con mà đọc thần chú), tùy theo đối tượng.

Cô Oprah: Thật là một thần chú đáng yêu.

TS Nhất Hạnh: Bạn phải nhìn sâu vào mắt người kia (mẹ của các cháu) và nói với tất cả tấm lòng của mình “Bạn nói : “Em em yêu ơi, em có biết gì không, em có biết là anh đang có mặt cho em đây không ?” hay là với mẹ của mình: “Mẹ yêu ơi, mẹ có biết là con đang có mặt cho mẹ không ?” hay là “Con yêu của mẹ ơi, con có biết là mẹ đang có mặt cho con không ?” Ta hiến dâng cho người kia sự có mặt trọn vẹn của ta. Ta không bị bực mình của quá khứ, dự án của tương lai lôi kéo. Ta có mặt hoàn toàn với người ta thương. Thần chú thứ hai là : “Mẹ yêu ơi, con biết là mẹ còn đó, hiện diện bên con và con thật hạnh phúc.” Nếu bạn là cha thì nhìn vào mắt con bạn nói: “Con trai thương của ba, ba biết là con đang có mặt bên ba, nên ba rất hạnh phúc.” Bởi vì bạn đang có mặt, bạn nhận diện sự có mặt của người mà bạn rất thương kia đang còn đó, thật là quý báu. Bạn ôm trọm người kia bằng ánh mắt chánh niệm của bạn. Và người kia sẽ nở ra như một đóa hoa. Được thương có nghĩa là được công nhận sự hiện diện của nhau. Và hai câu thần chú đó đủ đem cho ta hạnh phúc ngay, dù rằng người kia không ở gần thì mình cũng đọc thần chú được bằng điện thoại.

Cô Oprah: Hoặc bằng điện thư.

TS Nhất Hạnh: Vâng, bằng điện thư. Và ta không đọc thần chú bằng tiếng Phạn hay tiếng Tây Tạng, ta có thể đọc thần chú bằng ngôn ngữ ngọt ngào thường ngày của ta.

Cô Oprah: Con yêu ơi, mẹ đang có mặt cho con này.

TS Nhất Hạnh: Và mẹ đang hạnh phúc.

Ta tập thốt lên thần chú thứ ba khi người ta thương đang khổ. “Mẹ ơi, con biết mẹ đang khổ, và vì thế con đang có mặt với mẹ đây.” Trước khi mình làm được gì cho mẹ, chỉ cần nói lên câu thần chú đó là mẹ khoẻ liền

Cô Oprah: Thấy được cái khổ của người kia, sự tổn thương của người kia.

TS Nhất Hạnh: Đúng vậy. Còn câu thần chú thứ tư mới là khó nhất. Đọc thần chú này khi mà mình đang khổ và mình biết rõ là nỗi khổ của mình do chính người mà mình yêu thương và tin cậy nhất gây ra. Nếu ai khác mà làm điều sai trái ấy thì mình cũng khổ nhưng khổ ít hơn. Đằng này, người kia chính là người mình yêu thương tin tưởng nhất cho nên mình khổ vô cùng. Mình chỉ muốn vào phòng riêng, đóng cửa lại và ôm nỗi khổ một mình.

Cô Oprah: Đúng vậy !

TS Nhất Hạnh: Mình bị tổn thương, mình muốn phạt người đó (mẹ hay ba mình hay người yêu của mình) vì đã nở tâm làm cho mình khổ. Đọc thần chú này để vượt thoát cái cách hành sử thường tình ấy : “Mẹ, con đang khổ, con đang cố gắng hết sức, nhưng mẹ phải giúp con.” (hay bố ơi, con đang khổ, con đang cô gắng hết sức nhưng bố phải giúp con hay Anh ơi, em đang khổ, em đang cô gắng hết sức nhưng anh phải giúp em) Mình phải tới với người đó, với chính đương sự làm khổ mình và phải vượt qua mặc cảm, nói thẳng với người đó bằng thần chú kia thì bạn sẽ nhẹ vơi đi nhiều lắm. Tại vì bạn không còn bị cái tự ái đó nó chận đường giữa bạn và người kia. Làm được như thế bạn sẽ nhẹ bớt đi nhiều.

Cô Oprah: “Anh yêu, em đang khổ ! Anh phải giúp em!”

TS Nhất Hạnh: “Mẹ ơi, con đang khổ, mẹ giúp con với !”

Cô Oprah: Nhưng nếu anh chàng hay cô nàng không muốn giúp mình ?

TS Nhất Hạnh: Trước nhất khi mình thương ai, mình muốn chia sẻ hết tất cả những gì mình đang mang trong lòng với người đó. Vì thế đó là bổn phận mình phải nói câu đó với người đó : “Con khổ, con muốn mẹ biết điều đó. Hay anh khổ, anh muốn em biết điều đó” Và chắc chắn là người kia sẽ đánh giá cao câu nói chí tình ấy.

Cô Oprah: Nếu người đó thương mình.

TS Nhất Hạnh: Vâng, trong trường hợp hai người thương nhau. Đây là câu thần chú với người mình thương.

Cô Oprah: Đồng ý.

TS Nhất Hạnh: Và khi mình tìm mọi cách để nhìn sâu hơn, để thấy rằng niềm đau đó có thể là do tri giác sai lầm của mình và mình đang tìm cách chứng minh là tri giác ấy của mình là sai (thí dụ như thấy người yêu của mình đang líu lo vui vẻ với cô nàng khác). Nhưng trong trường hợp ta không tìm ra được cái thấy kia là sai thì ta phải nhờ người kia giúp ta. (Phần chú thích của Phù Sa: “Anh ơi, em đang khổ, Anh phải giúp em, hôm qua anh không nhìn thấy em, anh líu lo vui vẻ quá với cái cô mặc áo xanh đó” Bằng cách đó mình diễn tả sự tin tưởng nơi người kia, mình có niềm tin nơi người kia, mình không muốn phạt người ấy nữa. Làm được như thế bạn sẽ bớt khổ tức thì. Và anh ta có thể ngạc nhiên thốt lên : Ồ em không biết sao? Cô ấy là em con của dì của anh mà!).

Cô Oprah : Hay quá.

Thầy Thích Nhất Hạnh chia sẽ về những  cái thấy của mình mà mình thường chắc chắn là đúng.

Cô Oprah: Bây giờ đây, tôi xin hỏi thầy một số câu hỏi về cách sống của người tu. Thầy có tập thể dục để cho mạnh khỏe không ?

TS Nhất Hạnh: Có chứ. Hằng ngày chúng tôi tập 10 động tác chánh niệm, cùng đi thiền hành chung với nhau một giờ đồng hồ mỗi ngày và ăn cơm chung trong chánh niệm.

Cô Oprah: Thầy có ăn chay không?

TS Nhất Hạnh: Vâng, chúng tôi ăn chay. Hoàn toàn chay tịnh, không có thực phẩm từ thú vật.

Cô Oprah: Vậy thầy không ăn trứng sao ?

TS Nhất Hạnh: Không trứng, không sữa bò, không phô mai bò. Bởi vì chúng tôi biết cách ăn chánh niệm này sẽ cứu vãn hành tinh của ta.

Cô Oprah: Thầy có xem truyền hình không ?

TS Nhất Hạnh: Không. Nhưng tôi vẫn tiếp xúc được với thế giới. Khi có sự kiện nào quan trọng, thế nào cũng có người kể cho tôi nghe.

Cô Oprah: Tôi cũng nghĩ như thế !

TS Nhất Hạnh: Ta không cần nghe bản tin mỗi ngày ba lần. Hay là đọc hết tờ báo này tới tờ báo khác.

Cô Oprah: Đúng vậy. Giờ thầy nói cho chúng tôi nghe đi. Đời sống của ông thầy tu là sống độc thân, đúng không ?

TS Nhất Hạnh: Đúng.

Cô Oprah: Thầy có khó khăn gì về ý niệm nên hay không nên bỏ đời thầy tu để có gia đình rồi có con không ?

TS Nhất Hạnh: Một hôm đó, khi tôi vào khoảng 30 tuổi, trong khi tôi đang đi thiền hành ở một công viên bên Pháp, tôi thấy một bà mẹ trẻ đang đang đùa với một đứa bé rất xinh. Trong một thoáng rất nhanh, tôi đã nghĩ là nếu tôi không đi tu thì tôi cũng sẽ có người vợ trẻ và đứa con như thế. Ý niệm đó chỉ thoáng qua trong một giây thôi rồi thì tôi vượt qua ngay ý tưởng ấy.

Cô Oprah: Đó không phải là nếp sống của thầy. Ta đang nói về sự sống. Thế thì cái chết thì sao ? Chuyện gì xảy ra khi ta chết, thầy tin về cái chết ra sao ?

TS Nhất Hạnh: Tôi có thể trả lời câu đó khi tôi trả lời được câu này : Những gì đang xảy ra trong lúc này đây ? Trong phút giây hiện tại, ta đang chế tác tư duy, ngôn từ và hành động. Chúng đang phát ra ba thứ đó và chúng đang ảnh hưởng cùng khắp. Mỗi tư duy, mỗi lời nói mỗi hành động của ta đều mang chữ ký của ta. Đó là nghiệp của ta. Đó là sự tiếp nối của ta. Khi thân xác này tàn hoại, ta vẫn được tiếp nối bằng những nghiệp lực ấy. Cũng như đám mây trên trời kia. Khi đám mây không thể giữ được hình thái đám mây nữa thì đám mây đang tiếp tục bằng những hình thái khác như là mưa, tuyết, nước đá. Bản chất của của chúng ta là không sinh, không diệt. Không thể nào một đám mây lại có thể thành hư không được. Và điều đó cũng đúng với người thương của ta. Họ không có chết đâu. Họ đang tiếp tục trong nhiều hình thái khác, nếu ta nhìn sâu, ta sẽ nhận diện ra sự luân hồi của người kia, cùng khắp quanh ta và ngay cả trong ta.

Cô Oprah: Có phải đó là ý nghĩa của bài thơ của thầy “Hãy gọi đúng tên tôi” bài thơ tôi mà tôi thích nhất.

TS Nhất Hạnh: Vâng. Khi quý vị hỏi tôi có phải là người Âu Châu không ? Tôi sẽ nói vâng ạ, tôi là người Âu. Nếu quý vị hỏi tôi có phải là người Á Rập không ? Tôi sẽ nói : Vâng, tôi là người Á Rập. Nếu quý vị hỏi tôi có phải là người da đen không?, tôi sẽ nói vâng, tôi là người da đen. Nếu quý vị hỏi tôi có phải là người da trắng không, tôi cũng sẽ nói : Vâng, tôi là người da trắng. Bởi vì tôi có mặt trong các bạn và các bạn có mặt trong tôi. Chúng ta đã có nhau từ muôn vạn kiếp, cùng khắp trong vũ trụ…

Cô Oprah: [đọc bài thơ] “Tôi là con phù du thoát hình trên mặt nước | Và là con chim sơn ca mùa xuân về trên sông đón bắt phù du | Tôi là con ếch bơi trong hồ thu, | và cũng là con rắn nước trườn đi | Tìm cách nuôi thân bằng thân ếch nhái | Tôi là em bé nghèo Uganda, bao nhiêu xương sườn đều lộ ra hai bàn chân bằng hai ống sậy, | Tôi cũng là người chế tạo bom đạn để cung cấp kịp thời cho Á Phi | Tôi là em bé mười hai bị làm nhục, nhảy xuống biển sâu | Tôi cũng là nguời hải tặc sinh ra với một trái tim chưa biết nhìn biết cảm | Hãy nhớ gọi đúng tên tôi | Cho tôi được nghe một lần tất cả những tiếng tôi khóc tôi cười | Cho tôi thấy nỗi đau và niềm vui là một | Hãy nhớ gọi đúng tên tôi | Cho tôi giật mình tỉnh thức | Và để cho cánh cửa lòng tôi để ngỏ | Cánh cửa Xót Thương.” Bài thơ đó nghĩa là sao thưa thầy ?

TS Nhất Hạnh: Có nghĩa là lòng từ bi là sự tu tập quan trọng nhất của chúng tôi. Phải hiểu sâu thì mới phát sinh lòng từ bi được. Hiểu được nỗi khổ mà chúng sinh phải gánh chịu thì năng lượng từ bi mới trào dâng. Và với năng lượng đó ta mới biết phải làm gì.

Cô Oprah: Xong rồi. Cuối bài này, tôi còn một đề tài nữa tên là : Làm sao mà tôi biết cái thấy của tôi là đúng. Làm sao mà thầy biết cái thấy của thầy là đúng nhất ?

TS Nhất Hạnh: Tôi biết chắc chắn là tôi không bao giờ biết đúng, biết đầy đủ trọn vẹn hết. Tôi phải tập học hỏi thêm, phải sẳn sàng buông bỏ những cái biết trước đó của tôi để có thể thấy sâu hơn, hiểu rõ hơn về từng tình trạng, từng thực tại. Ta phải luôn luôn học hỏi. Phải mở lòng ra để buông bỏ ý kiến riêng của mình để có thể có cái thấy sâu sắc trọn vẹn hơn. Như khi ta leo lên một cái thang. Lên tới bậc thứ sáu và ta nghĩ là tới đây là cao nhất rồi, vì thế ta không có dịp leo lên bậc thứ bảy. Phương pháp là phải tập buông bỏ bậc thứ sáu để mới lên được bậc thứ bảy. Đó là sự thực tập của chúng tôi, tập buông bỏ cái thấy của mình. Không cố thủ cái thấy đang có, để có thể thấy được sâu hơn, rõ hơn, trọn vẹn hơn. Đó là cốt lõi của sự thực tập trong Phật giáo. Người ta đau khổ vì họ bị kẹt trong cái thấy của họ. Chắc mẻm là cái thấy của mình đúng nhất. Khi nào mà ta buông bỏ được cái thấy –không trọn vẹn ấy – của mình, thì ta mới giải thoát được và không còn khổ đau nữa.

Cô Oprah: Có phải là sự thao thức là tìm cho được tự do phải không ?

TS Nhất Hạnh: Vâng, nhưng tự do trước nhất là thoát được những cái thấy sai lầm phiến diện của mình. Chính cái thấy phiến diện sai lầm ấy là nền tảng của tất cả khổ đau, sợ hãi và bạo động.

Cô Oprah: Thật là vinh dự cho tôi được hầu chuyện với thầy ngày hôm nay.

TS Nhất Hạnh: Cám ơn cô. Tôi mong cái hạnh phúc chia sẻ này có thể giúp được mọi người.

Cô Oprah: Tôi tin là nó sẽ giúp.


PSN – 20.02.2010 | Phỏng vấn độc quyền của Oprah – Phù Sa chuyển ngữ
Nguồn: http://www.oprah.com/spirit/Oprah-Ta…hich-Nhat-Hanh

Sách Thầy Nhất Hạnh đang trở thành best seller ở Trung Quốc

 

Nhà Xuất Bản Tử Cấm Thành ở Bắc Kinh cho biết là cuốn Dữ Sinh Mệnh Tương Ước (Ước Hẹn với Sự Sống) của Sư Ông  đã trở thành một trong những cuốn sách bán chạy nhất (sướng tiêu thư ) ở Trung Quốc. Sách này được in lần đầu vào tháng 10 năm 2010 mà đến cuối tháng 12 năm 2010 (chỉ trong vòng hai tháng) đã phải tái bản. Làng Mai đã nhận được ấn bản lần thứ hai do nhà xuất bản gửi tới.

Sách này là bản dịch Hoa văn của ba cuốn sách bằng Anh ngữ cũa Sư Ông :

Cultivating the Mind of Love (dịch thành Hoa Văn là Sơ Luyến Tam Ma Địa)
The Heart of Understanding ( dịch thành Hoa Văn là Bát Nhã chi tâm)
Our Appointment with life (dịch thành Hoa văn là Dữ Sinh Mệnh Tương  Ước)

Sách do Tân Hoa Thư Điếm phát hành. Dịch giả là Minh Hạo và Minh Qua.

Người viết lời giới thiệu là học giả Trần Cầm Phú ở Đài Loan. Sách giới thiệu Sư Ông  là

“Thế Giới Đệ Nhất Thiền Tông Đại Đức” và là “ Một trong những vị đại sư tâm linh vĩ đại nhất trên thế giới”

Đồng thời tại Hồng Kông cuốn Phóng Hạ Tâm Trung Đích Ngưu (Releasing the Cow in your Mind) cũng đã trở thành một cuốn best sellers. Sách này tập hợp những bài pháp thoại cũa Sư Ông đăng trên tập chí Ôn Noản Nhận Gian (Buddhist Compassion) và do nhà Cognizance ( Tri Xuất Bản Xã). Cuốn này cũng in lần đầu vào tháng 10 năm 2010 và cũng được tái bản hai tháng sau đó. Tất cả những bài giảng trong ấy đều rất thiết thực cho đời sống hằng ngày. Sách ghi tên người dịch là Tăng Đoàn Làng Mai, trong đó sư cô Chân Sĩ Nghiêm là người dịch chính.

Sách Thầy Nhất Hạnh đang trở thành best seller ở Trung Quốc_Sách Thầy Nhất Hạnh đang trở thành best seller ở Trung Quốc

Ông Thầy tu danh tiếng – tích cực lo cho hoà bình

Thích Nhất Hạnh – Người là hiện thân cho một thứ đạo Bụt dấn thân

Tuần báo LA VIE ra ngày 29 tháng 6 năm 2006

ký giả Isabelle Francq
Sư cô Chân Không chuyển ngữ

Ngọn gió tâm linh thổi xuyên qua vùng ruộng nho và đồi mận

“Ở Việt Nam cũng như khắp nơi trên thế giới, đạo Bụt phải được làm mới. Hiện nay ở Việt Nam phần đông thiên hạ nghĩ rằng đạo Bụt là để dành cho các vị xuất gia và cho những ông bà cụ già. Tuy nhiên chính những người trẻ lại đang rất cần có một nếp sống tâm linh, nếu không họ sẽ bị lạc lối. Nhưng nếu đạo Bụt không trao truyền được cho người trẻ những phép tu tập có thể đáp ứng lại nhữngnhu yếu của họ, thì họ sẽ ruồng bỏ truyền thống tâm linh của cha ông họ.” Thầy Thích Nhất Hạnh đã giải thích như thế. Sau 39 năm sống lưu vong, vị thiền sư Việt Nam định cư trên đất Pháp đã trở về thăm quê hương đất nước của ông, hồi đầu năm vừa qua. Ông được chính quyền Cộng Sản cho thuyết pháp ở những nơi công cộng. Trong các thính đường, ở các nơi trình diễn công cộng và tại các chùa, chỗ nào thiền sư tới giảng cũng đầy ắp người. Ba trăm thanh thiếu niên, nam và nữ đã theo Thầy để xuất gia, thành lập hai tu viện ở hai nơi trên đất nước Việt Nam, theo thể thức tổ chức tu viện Làng Mai của thiền sư ở Pháp.

Thiền sư nói rõ thêm: “ Những điều tôi chia sẻ đã gợi hứng cho nhiều người, bởi vì tôi truyền trao một thứ Phật giáo dấn thân trong cuộc đời, gần gũi với những thao thức của mọi người, một loại Phật giáo đã được làm mới lại, nhờ ba mươi năm tu tập và giảng dạy ở Tây Phương.”

“Muốn thương ai ta phải có mặt, cả thân và tâm, cho người đó”

Rõ ràng là người Việt Nam đã không nhầm lẫn. Người Pháp cũng thế. Mùa Xuân năm nay, như các mùa Xuân mỗi năm, 700 người Pháp đã về Làng Mai để dự khóa tu trọn một tuần lễ do Thiền Sư dạy bằng tiếng Pháp. Phần đông từ 25 đến 55 tuổi, đến từ khắp mọi miền nước Pháp. Cũng có một số đến từ Bỉ hay Thụy Sĩ, từ Ý và Tây Ban Nha. Có những người đã chịu bay từ Montréal – Gia Nã Đại. “Nhà tôi đã biết được Thầytừ Gia Nã Đại. Những điều Thầy dạy đã khiến cô ấy quá mến phục nên đã thuyết phục được tôi cùng đi ”. Vị thiền sinh người Gia Nã Đại đã thú thật với tôi như thế khi ông đặt chân đến Làng Mai – một góc trời Việt Nam nho nhỏ nằm ở tam biên các tỉnh Dordogne, Lot& Garonne và Gironde. Từ năm 1982 Thầy Nhất Hạnh cùng một số đệ tử của Thầy đã chọn làm quê hương góc trời nhỏ giữa những ruộng nho và những đồi mận này.

Rồi từ từ, khi mà những điều dạy dỗ của Thầy đã xuất hiện qua nhiều cuốn sách của Thầy trong các hiệu sách Pháp và các nước nói tiếng Pháp, với những quyển sách càng ngày càng nổi tiếng ấy, số người đến tu học càng lúc càng đông, các vị xuất gia đã mua thêm một nông trại, rồi hai nông trại, rồi một góc Xã cho đến cuối cùng là có bảy xóm tất cả, làm thành một Làng. Làng có tên là Làng Mai vì họ có trồng 1250 cây mai ăn trái. Tiền bán trái mai (mận) sẽ để dành nuôi trẻ em thiếu ăn tại Việt Nam và các nơi khác.

Rải rác đây đó là những hồ sen, những tượng Bụt được dựng lên và những tháp chuông, dưới mỗi tháp mái cong là một quả chuông thật to. Tiếng chuông trầm hùng thỉnh lên mỗi giờ một lần, suốt cả ngày. Khi chuông thỉnh lên thì mọi người dừng lại, từ ánh mắt đến cử chỉ, lời nói. Nhìn cỏ cây, lắng nghe chim hót hay cảm nghe làn gió nhẹ mơn man trong không gian. Rồi sự sống lại tiếp tục diễn tiến. Những điều dạy của Thầy Nhất Hạnh nằm nơ i bí quyết đó. Sự có mặt thật tình trong phút giây hiện tại mà Thầy gọi là “ chánh niệm” và mọi người – người tới tu tập hay người chỉ mớ i bước chân tới thăm Làng Mai lần đầu – tất cả đều nếm được sự dừng lại với hình ảnh đó.

Các thiền sinh về đây tu học được chia thành từng nhóm, nhóm đây không phải là nhóm người chỉ mê sống theo thiên nhiên, họ cũng không là những người hoài niệm thời híp-pi. Bất cứ ai về đây, tất cả đều phải chấp nhận hay tạm chấp nhận sống chung phòng với những người lạ chứ không còn cách nào khác. Tất cả đều phải chấp nhận ăn những bữa ăn chay chung, theo lối Việt Nam, chấp nhận tham dự những buổi thiền làm việc, có khi gọi là chấp tác, nhặt rau hay xắt gọt dưa, khoai, hay lau nhà vệ sinh v.v… Nhưng không ai than phiền cả. Không khí thật bình an và tươi vui, rất khác xa với những mẫu mực có sẵn của những nhóm Phật tử nghiêm nghị và khắc khổ. Suốt một tuần lễ, mọi người đều phải thức dậy từ lúc 5 giờ 00 sáng để ngồi thiền sáng vào lúc 5g 30, hướng dẫn bởi một thầy hay một sư cô của Chùa thuộc xóm mình ở – mỗi xóm có khoảng 50 sư cô và vài trăm thiền sinh trong đó có mươi sư cô Tây phương. Các sư cô mặc áo nâu, đầu cạo nhẵn, ngồi trên những chiếc gối tọa thiền, hướng dẫn thiền sinh định tâm vào hơi thở vào… hơi thở ra.., ý thức toàn thân… buông thư toàn thân…, an trú thâm sâu trong phút giây hiện tại. Vào 9 giờ 00 sáng tất cả từ trẻ con đến người lớn đều tập trung vào thiền đường lớn. Mọi người ngồi yên tới nỗi người ta có thể nghe cả tiếng ruồ i bay. Họ ngồi để chuẩn bị nghe pháp thoại của Thầy.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh diễn giảng với giọng nói thật nhẹ nhàng, bằng một thứ tiếng Pháp tuyệt hảo, thanh lịch, không cần chêm những chữ chuyên môn khó hiểu, cũng không cần dùng những từ đặc biệt Phật giáo cầu kỳ.

Thầy nói: “Muốn thương thì phải “có mặt”, cả thân và tâm. Bằng hơi thở chánh niệm. Để ý tới hơi thở vào và hơi thở ra, cái tâm nhờ thế không đi lung tung, được đưa trở về lại với thân, và do đó ta có mặt cho chính ta và cho người ta thương. Món quà quý nhất cho người mình thương là sự có mặt thật tình cho người đó : Mẹ (hayBa) thương ơi, con có mặt cho mẹ (ba) đây ! Hay là: Anh thương ơi, em có mặt cho anh đây. Hay là: em thương ơi, anh có mặt cho em đây. Hay là: con của mẹ ơi, con của cha ơi, cha (hay mẹ) đang có mặt cho con đây!” Không bị thời gian tàn phá, gương mặt thanh lịch của ông Thầy tu tỏa rạng sự bình an.

Suốt một tuần lễ, nữ luật gia Nathalie, trong những bộ áo có vẻ thời trang, đến từ miền Alpes Maritimes, đã bỏ hẳn văn phòng luật sư của cô, chồng cô và đứa con tám tuổi để đến đây tu học. Chúng tôi ngồi đàm đạo trong thiền đường với câu bút pháp: “Lắng nghe để hiểu, nhìn kỹ để thương”. Khi chia sẻ với các bạn thiền sinh khác, cô Nathalie cảm động nói: “Các điều Thầy dạy sáng nay tiếp tục âm vang trong tôi. Đơn giản vô cùng nhưng thật thâm sâu và không dễ thực tập để mà sống được như vậy. Thầy đang thật tình có mặt cho chúng ta; tôi cảm nghe như Thầy đang hướng dẫn từng bước cho chúng ta đi. Thầy dạy ta nhìn kỹ, nhận diện từng chiếc bóng của chính chúng ta tận mặt, mà không cần có mặc cảm tội lỗi. Như thế ta tiếp xúc được với phần thương tích của chính mình bằng tất cả lòng từ bi, khi nhận diện sự có mặt của thương tích trong ta thì ta có thể hiểu và thương được cách hành xử của người khác vì họ cũng đã từng bị thương tích như mình.”

Như phần đông những người tu tập ở Làng Mai, Nathalie không tự nhận cô là Phật tử. Nhưng từ khi khám phá được sách của Thầy, cô đã tới Làng Mai học với Thầy để có thể có nếp sống đẹp, lành mạnh và hạnh phúc hơn. Những người khác thì xin quy y với Thầy. Là đệ tử tại gia của Thầy, họ tự hứa và hứa với tăng thân Làng Mai trong một buổi lễ quy y là sẽ sống đời sống hằng ngày theo tiêu chuẩn năm giới, trình bày theo cách của Thầy. Họ sẽ tập tìm hiểu sâu thêm giáo lý Bụt dạy và tập thiền quán. Đó là trường hợp cô Marianne 52 tuổi, cố vấn về quản trị xí nghiệp nên biết rất rõ những nhịp độ công tác và những đòi hỏi cấp bách, những điều kiện bức xúc trong các hãng xưởng. “Pháp môn dạy dỗ của Thầy giúp tô i biết nắm lấy những gì thiết yếu nhất.” Cô Marianne tới tu học ở Làng Mai từ nhiều năm nay. Lần này cô mời được mẹ cô cùng về. Bà cụ là người theo đạo Thiên Chúa rất thuần thành. Bà cụ nói “Tôi rất may mắn mà thuộc về một giáo xứ rất cởi mở và nhờ vậy đã được phép thuật lại cho giáo dân nghe những gì tôi học được khi đi tu học ở Làng Mai về. Giáo lý đạo Bụt mà Thầy dạy không có gì chống đối với những điều tôi học trong Thánh Kinh. Ngược lại, những ngày sống ở Làng Mai giúp tôi có nhiều bình an khiến tôi thấy con tim mình mở ra, hiểu Chúa Ky Tô và những người khác nhiều hơn.”

“Ban đầu người Pháp tưởng là họ cần phải mặc áo ki mô nô…”

Nhóm quần chúng đủ màu sắc này, thiền sư Nhất Hạnh đã hiểu khá rõ tâm tư họ nên Thầy đã giúp họ được rất nhiều.

Sư Cô Chân Không, tới Pháp vào những năm cuối thập niên 1960 để phụ giúp thiền sư lo các chương trình cứu trợ nạn nhân chiến tranh và kêu gọi hòa bình, đã vui vẻ nhắc : “ Ban đầu người Pháp tưởng là họ cần phải mặc áo ki mô nô, ăn cơm bằng đũa thì mới trở nên Phật tử được! Thầy mớ i bảo với họ rằng những điều Bụt dạy là một nghệ thuật sống trong bình an và sâu sắc. Với nghệ thuật sống đẹp đó, quý vị là người Pháp thì nên xây dựng một đạo Bụt Pháp có màu sắc văn hóa Pháp”. Thiền Sư Thích Nhất Hạnh là một trong những vị Thầy hiếm có, rất lão thông văn hóa Pháp. Trong những bài thuyết giảng, ông hay hóm hỉnh thuật về triết gia Pháp Descartes hay đọc thơ của thi hào Victor Hugo. Người cũng rất giỏi Thánh Kinh. Thiền Sư xác nhận như sau : “ Khi đọc Thánh Kinh hay khi tiếp xúc với các bạn Ky Tô Giáo, tôi nhận thấy rằng thỉnh thoảng hai đạo này giao thoa rất kỳ diệu với nhau và nhìn cho kỹ thì một số tín hữu Ky Tô lại có nhiều Phật tính hơn một số Phật tử. Bởi vì kh i bạn hành xử với lòng bao dung và từ bi thì bạn đã là Phật tử rồi !”

Những vị anh hùng châu Á

Dịch từ Time Asia Magazine,ấn hành ngày 13 tháng 11 năm 2006, bộ 168, số 20

Trong sáu mươi năm qua, tạp chí TIME đã liên tục đưa lên thời sự những thành đạt lớn lao của châu Á. Trong số đặc biệt kỷ niệm 60 năm này, chúng tôi muốn vinh danh những con người Á châu đã góp phần tạo dựng xã hội chúng ta trong thời đại mới.

time-60-heroes-jpgTrong sáu thập niên huyên náo vừa qua, châu Á, một châu đông dân cư nhất của địa cầu, đã cho ra đời một loạt các vị anh hùng đáng làm cho chúng ta sửng sốt. Trong 60 năm từ ngày tạp chí TIME bắt đầu phát hành ấn bản Á châu, ban biên tập chúng tôi đã có hân hạnh tiếp xúc được với những con người lỗi lạc nhất trong số các vị anh hùng ấy, có lúc trên những nẻo đường vận động, có lúc giữa chiến trường, có lúc trong phòng thí nghiệm khoa học, hoặc trong phòng trọ, lại có lúc trên sân nhà máy hoặc tại phim trường. Đi theo dấu chân của những con người lỗi lạc ấy chúng tôi đã có cơ duyên tường thuật lại câu chuyện quá trình chuyển hóa của châu Á: từ một xóm làng nghèo đói đi đến sự thành lập một trung tâm điện lực, từ hồi phải đi bắt chước người ta cho đến khi người ta phải trở lại bắt chước mình, từ khi bị đô hộ cho đến khi thoát ra để lãnh đạo kinh tế toàn cầu đi vào một kỷ nguyên mới. Từ Gandhi đến Rushdie, từ Bruce Lee, cho đến Li Ka Shing, số báo đặc biệt này được ra đời để tôn vinh những người đàn ông và những người phụ nữ Á châu đã góp phần dựng thành số phận và thời đại chúng ta.

Thích Nhất Hạnh, vị tăng sĩ Phật Giáo đã góp phần
chấm dứt khổ đau của chiến tranh Việt Nam.

Ngày 11 tháng 06 năm 1963, giữa một đường phố Sài Gòn, Thượng tọa Thích Quảng Đức ngồi xuống châm lửa tự thiêu để chống đối chế độ áp bức của miền nam Việt Nam, một chế độ độc tài do Hoa Kỳ yểm trợ. Hình ảnh ông thầy tu ngồi an nhiên trong lửa đỏ đã trở thành những hình ảnh đầu tiên của cuộc chiến dai dẳng, những hình ảnh có tác dụng đánh thức và gây ra niềm đau nhức trong lương tâm thế giới. Trong những năm kế tiếp, hơn 30 vị xuất gia khác đã dâng hiến mạng sống của mình như thế để tiếp tục chống đối cuộc chiến vô nghĩa và thô bạo này.

Những năm tháng khổ đau chất ngất và dai dẳng của cuộc chiến Đông Dương, trong đó giới phật tử đã nỗ lực để làm vơi bớt đau thương, những tháng năm ấy dường như đã lui về một quá khứ xa xăm. Nhưng ông thầy tu Thích Nhất Hạnh, người đã xướng xuất chủ thuyết triết học Engaged Buddhism (Đạo Phật dấn thân), và đã gây niềm cảm hứng cho phong trào Phật Giáo tranh đấu cho hòa bình trong những năm tháng ấy, ông thầy tu này vẫn còn sống với chúng ta. Ở lãnh vực tôn giáo, Thầy là một trong những tư tưởng gia và hành động gia lớn nhất của thời đại chúng ta.

thich-nhat-hanhthis-buddhist-monk-helped-end-theBằng kinh nghiệm bản thân của mình, Thầy đã thấy được tại sao những ý thức hệ và những tư trào thế tục và đại chúng hóa – như chủ nghĩa quốc gia quá khích, chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa thực dân – đã làm tuôn ra bao nhiêu nguồn năng lượng bạo động cho thế kỷ thứ 20, những nguồn năng lượng bạo động chưa từng được tuôn ra quá nhiều như thế trong quá khứ. Thầy đã học được bài học này từ khi còn nhỏ tuổi. Ít có những chiến trường nào lại đẫm máu nhiều như những chiến trường tại Việt Nam, khi hết người Pháp rồi tới người Mỹ đem quân tới để đàn áp phong trào yêu nước và phong trào cộng sản trong suốt ba thập niên dai dẳng. Tuy lớn lên và sống trong không khí thanh tịnh của thiền viện, Thầy Nhất Hạnh cũng không thể nào đứng ra ngoài được cuộc tranh chấp đang xảy ra chung quanh. Thầy thấy được nhu cầu xác định sự quan yếu cấp thiết của lòng từ bi đạo Phật trong một nền văn hóa càng ngày càng bắt buộc phải trở nên bạo động thêm lên. Thầy tin tưởng rằng chỉ có thể chấm dứt được chiến tranh khi ta dập tắt được ngọn lửa của sợ hãi, thù hận, khinh miệt và giận dữ, những chất liệu đích thực đang nuôi dưỡng chiến tranh.

Năm 1965, sau ngày có một vị xuất gia nữa tự thiêu cho hòa bình, Thầy Nhất Hạnh đã viết cho mục sư Martin Luther King Jr, nhà lãnh đạo dân quyền Mỹ rằng: “Những vị xuất gia khi tự thiêu, không nhắm tới cái chết của những người áp bức họ, mà chỉ muốn có một sự thay đổi chính sách của những người ấy thôi. Họ bảo kẻ thù của họ không phải là con người. Kẻ thù của họ là sự thiếu bao dung, là cuồng tín, là độc tài, là tham lam, là hận thù và sự kỳ thị đang nằm sâu trong trái tim con người”. Thầy Nhất Hạnh đã hướng dẫn cho mục sư King và tiếp sau đó chuyển hóa cảm nghĩ của cả dư luận Hoa Kỳ đi về hướng chống đối lại chiến tranh Việt Nam. Trong những năm 1960, Thầy Nhất Hạnh đã trở thành một trong những biểu tượng cho phong trào phản chiến. Những bài viết của Thầy được đăng trong những tạp chí nổi tiếng nhất của Hoa Kỳ như tạp chí The New York Review of Books, và các bài thơ của Thầy đã được hát lên với đàn ghi ta như những bài nhạc phản chiến trong khuôn viên các trường đại học Hoa Kỳ. Ta sẽ không bị mang tiếng là quá đáng khi nói rằng thầy Nhất Hạnh đã có công gây sức ép buộc Hoa Thịnh Đốn phải rút quân ra khỏi Việt Nam.

Thầy Nhất Hạnh năm nay đã 80 tuổi, vẫn còn sống và hành đạo trong một tu viện bên Pháp. Thầy đã đóng góp một vai trò quan trọng trong việc trao truyền một truyền thống tâm linh Á châu cho xã hội Tây phương, một xã hội tân tiến nhưng phần lớn đã hoàn toàn thế tục hóa. Thầy dạy: “Đừng bị kẹt vào một chủ thuyết nào, một lý thuyết nào, một ý thức hệ nào, kể cả những chủ thuyết Phật giáo. Những giáo nghĩa Phật dạy phải được nhận thức như những pháp môn hướng dẫn thực tập để phát khởi tuệ giác và từ bi mà không phải là một chân lý tuyệt đối để thờ phụng và bảo vệ”. Trong khi các nhà lãnh đạo của thời đại ta từ Hoa Kỳ đến Iran đang lớn tiếng đốc thúc quần chúng họ tham dự vào những cuộc chiến tranh ý thức hệ mới, tạo nên những nguy cơ biến thế kỷ này thành một thế kỷ còn đẫm máu hơn cả thế kỷ vừa rồi, chúng tôi thiết nghĩ tất cả chúng ta đều nên hướng về và đi theo tuệ giác của thiền sư Nhất Hạnh.

________
(Ghi chú của người dịch: trong số những vị anh hùng được tạp chí TIME Magazine vinh danh có hai vị người Việt: đó là tướng Võ Nguyên Giáp và thầy Nhất Hạnh)

Ta hạnh phúc liền giây phút này

Ngày 10/9/2014, báo La Stampa, một trong những tờ báo lớn nhất ở Ý, có đăng một bài phỏng vấn Thầy. Claudio Gallo – Biên tập viên phụ trách chuyên mục Văn hóa (Culture Editor) của tờ báo đã tham dự trọn vẹn khóa tu dành cho người Ý được tổ chức tại Làng Mai trong tuần lễ cuối cùng của tháng 8, và anh đã tự mình trải nghiệm được cái gọi là “hiện pháp lạc trú”. Sau đây là bài tường thuật của anh với tựa đề “Happiness is Now” đã được BBT chuyển ngữ  sang tiếng Việt.

 

 


 

TA HẠNH PHÚC LIỀN GIÂY PHÚT NÀY

Cuộc gặp gỡ với Thiền sư Thích Nhất Hạnh – một vị thầy theo truyền thống Phật giáo – cùng với tăng thân của Thầy tại Pháp. Thầy có đệ tử khắp nơi trên thế giới nhưng Thầy không hề yêu cầu họ phải từ bỏ đạo gốc của mình.

 

Có một cái gì thật dịu ngọt mà cũng thật hùng tráng tỏa từ những ruộng nho, những cánh rừng, những đồng cỏ xanh mướt trải dài nối đuôi nhau lướt qua ô cửa sổ của chuyến tàu đi về miền quê nước Pháp, từ Bordeaux đến Bergerac. Đó cũng là sự nhẹ nhàng đầy hùng lực mà ta có thể tìm thấy trong những lời giảng của Thầy Nhất Hạnh. Là một tu sĩ Phật giáo người Việt, Thầy sống với tăng thân của mình tại Làng Mai, một trung tâm tu học tọa lạc trên những ngọn đồi bao quanh ngôi làng Thénac nhỏ bé. Mọi người đều gọi Thầy một cách giản dị là “Thầy” (nghĩa là “một vị thầy tâm linh”).

Thầy đã 88 tuổi, gương mặt trông có vẻ nghiêm khắc nhưng có thể bất ngờ nở một nụ cười trẻ thơ khiến cho ai nhìn thấy cũng phải mỉm cười theo. Năm 1973, Thầy bị chính quyền miền Nam Việt Nam buộc phải lưu vong và Thầy đã chọn Tây phương nơi mà Thầy được Mục sư Martin Luther King và Linh mục Thomas Merton vô cùng trân quý. Ở Mỹ, Thầy cũng đã được biết đến thông qua các chuyến đi vận động hòa bình cho Việt Nam.

Là tác giả của trên 100 cuốn sách, Thầy đã đem đến cho người Tây phương một phương pháp thực tập dựa trên giáo lý căn bản của đạo Bụt, đó là phương pháp thực tập chánh niệm – sự thực tập tỉnh thức và có mặt một trăm phần trăm cho những gì đang xảy ra trong ta và chung quanh ta. Trong Phật giáo, cùng với đức Đạt Lai Lạt Ma, Thầy có lẽ là vị thầy nổi tiếng nhất trên thế giới với rất nhiều trung tâm tu học ở khắp các châu lục và có số người theo tu học lên đến hàng trăm nghìn người. Điều đáng chú ý là Thầy không đòi hỏi các đệ tử Tây phương phải từ bỏ đạo gốc của mình. Rất nhiều người trong số 700 người Ý tham dự khóa tu vào cuối tháng 8 vừa qua tại Làng Mai là những người theo truyền thống Cơ Đốc giáo.

 

Thưa Thầy, đạo Bụt có thể cống hiến được gì cho thế hệ kỹ thuật số hiện nay – thế hệ những người trẻ suốt ngày vùi đầu vào Internet?

Hiện nay, những người trẻ đã bỏ quá nhiều thì giờ vào internet. Đây  là căn bệnh của thời đại chúng ta. Khi ngồi hai tiếng đồng hồ trước máy vi tính, chúng ta  hoàn toàn quên là mình có một hình hài. Internet là một phương tiện có khả năng mang lại rất nhiều lợi ích cho con người, nhưng đồng thời nó cũng tạo ra vô số vấn đề.

Sử dụng internet là một hình thức tiêu thụ. Ta tiêu thụ thông qua những tư tưởng, hình ảnh, âm thanh mà ta tiếp xúc được trên internet và sự tiêu thụ đó có thể lành mạnh hoặc có thể gây tàn hại cho bản thân ta. Thực tế là chỉ riêng lượng thông tin nhận được qua internet thôi cũng đủ khiến cho nhiều người rơi vào tình trạng quá tải thông tin rồi.

Cũng có nhiều người trong chúng ta trở nên nghiện internet. Ta đánh mất mình trong biển thông tin đó và ta không có mặt cho chính mình, không có mặt cho những người thương của mình và không có mặt cho thiên nhiên. Ta có ảo tưởng là thông qua mạng internet chúng ta có thể nối kết được với nhau, nhưng kỳ thực ta lại càng cảm thấy cô đơn.

Chánh niệm giúp cho ta biết điều độ khi lên mạng, đồng thời cũng giúp cho ta thấy được cái mà ta đang tiếp xúc có thật sự ích lợi hay chỉ làm cho ta càng cô đơn và tuyệt vọng thêm. Ta tiêu thụ internet để khỏa lấp sự cô đơn, nhưng thật ra nó chỉ làm cho tình trạng tệ hại hơn mà thôi. Thường thì khi tiêu thụ những tin tức, quảng cáo, những phim ảnh khêu gợi và kích thích dục tình thì ta đồng thời cũng đang đưa vào trong thân tâm ta những độc tố như giận hờn, bạo động, sợ hãi và thèm khát.

 

 

Theo đạo Bụt thì cái ta riêng biệt là một ảo tưởng, vậy trong cái thấy đó có còn sự phân biệt giữa thiện và ác hay không?

Trong thế kỷ thứ 20, chủ nghĩa cá nhân được đưa lên vị trí hàng đầu và điều này đã tạo ra rất nhiều khổ đau. Chúng ta tạo ra sự phân biệt, chia cách giữa ta và người, giữa cha và con, giữa con người và thiên nhiên, giữa quốc gia này và quốc gia khác… Chúng ta không ý thức được mối tương quan mật thiết giữa mình với mọi người và mọi loài xung quanh mình. Đạo Bụt gọi mối liên hệ đó là “tương tức” (“inter-being”).

Cái hiểu, cái thấy sâu sắc về tương tức chính là nền tảng của con đường đạo đức mà đạo Bụt đóng góp cho nhân loại. Những gì xảy ra cho một cá nhân cũng ảnh hưởng tới toàn thể xã hội và cả thế giới. Với cái thấy này, sự thực tập chánh niệm giúp cho ta phân biệt được cái gì thiện, cái gì ác, cái gì đúng, cái gì sai. Có chánh niệm thì ta sẽ nhận ra được những tàn hại đối với các loài gia súc, gia cầm cũng như đối với hành tinh này do ngành công nghiệp sản xuất thịt gây ra. Ý thức được điều đó thì ăn chay là một hành động thương yêu đối với chính mình, đối với sinh môi và đối với trái đất.

Nhiều người trong chúng ta đang chạy theo danh vọng, quyền hành, tiền tài và sắc dục. Chúng ta nghĩ rằng những thứ đó đem lại cho ta hạnh phúc, nhưng thực ra nó có thể dẫn chúng ta đi tới chỗ tàn hoại thân tâm mình.  Những người trẻ thường lẫn lộn giữa tình dục và tình yêu chân thật. Trên thực tế thì tình dục có thể hủy hoại tình yêu và đưa tới sự thèm khát, cô đơn và tuyệt vọng nhiều hơn. Sự thực tập chánh niệm giúp chúng ta mỗi ngày hiểu sâu hơn về người ta thương. Cái hiểu chính là nền tảng của tình thương đích thực. Chúng ta không thể nào có được một tình thương đích thực nếu ta không hiểu được người mình thương.

 

Có thể vượt thoát sự sợ hãi về cái chết hay không?

Gốc rễ của sự sợ hãi nằm ở cái thấy sai lạc của ta về bản chất cái chết. Ta sợ hãi cái chết tại vì ta nghĩ rằng khi chết rồi thì ta sẽ trở thành không. Khoa học hiện đại đã chứng minh cho ta thấy rằng: không có gì sinh cũng không có gì diệt, tất cả đều chuyển biến không ngừng.

Quan sát một đám mây, ta có thể đặt câu hỏi: đám mây có thể chết được không? Đám mây có thể từ mà trở thành không hay không? Nhìn cho sâu ta thấy đám mây chỉ có thể trở thành mưa, thành tuyết, thành mưa đá, rồi thành hơi nước trở lại. Bản chất của chúng ta cũng giống như bản chất của đám mây. Cũng như mưa, tuyết là sự tiếp nối của đám mây thì những hành động, lời nói và tư tưởng mà ta chế tác ra chính là sự tiếp nối của chúng ta.

 

Chúng ta sống trong một thế giới đầy sự xung đột và bất công xã hội. Làm sao ta có thể cải thiện được tình trạng đó với tư cách một Phật tử?

Sự xung đột và bất công trong xã hội phát sinh ra từ tâm chúng ta. Đạo Bụt cống hiến cho chúng ta những phương pháp thực tập cụ thể để nuôi dưỡng tình thương và hạnh phúc đích thực trong ta. Khi tình thương và hạnh phúc có mặt thì ta có thể tạo ra sự bình an trong tự thân và góp phần vào hòa bình trên thế giới. Khi tâm ta bị cuốn đi bởi tham vọng và sợ hãi thì bất công xã hội và bạo động sẽ phát sinh. Sự thực tập chánh niệm giúp cho ta nuôi lớn hạnh phúc và bình an trong giây phút hiện tại. Và đây chính là sự đóng góp tuyệt vời cho nền hòa bình thế giới và cũng đồng thời là nền tảng để chúng ta có thể làm tốt những công tác phụng sự cho xã hội.

 

Thầy dạy cho mọi người về sự thực tập chánh niệm và chánh định, thế nhưng một tình trạng đáng lo ngại của thế giới hiện nay là tình trạng suy giảm khả năng tập trung của con người…

Nhiều người trong chúng ta không biết làm thế nào để thật sự có mặt cho người mình thương và cho những mầu nhiệm đang có sẵn trong giây phút hiện tại. Tâm của ta rất dễ bị phân tán. Trong khi đó, thị trường bên ngoài không ngừng cung cấp cho ta những phương tiện để giữ cho tâm ta luôn ở trong tình trạng này. Thân của ta ở đây mà tâm của ta thì đang chạy theo những dự án ở tương lai, những sầu đau của quá khứ hay những lo lắng, buồn phiền trong hiện tại.

Cách đây không lâu, chúng tôi được mời hướng dẫn thực tập chánh niệm cho hơn 700 nhân viên của Google tại trụ sở chính của tập đoàn này ở California. Điều đầu tiên mà chúng tôi chia sẻ là sự thực tập dừng lại, tại vì trong xã hội hiện nay chúng ta luôn có thói quen rong ruổi, tìm cầu. Khi chúng ta có khả năng dừng lại, chúng ta có thể nhận diện được những gì đang xảy ra trong thân và trong tâm mình. Và đây là cách thức để ta có thể bắt đầu chăm sóc cho chính mình. Chúng ta đã có quá đủ những điều kiện để hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại. Chỉ cần dừng lại và nhận diện những điều kiện hạnh phúc đang có mặt thì ta có thể tiếp xúc được ngay với hạnh phúc đích thực.

Claudio Gallo

Để đọc bản dịch bằng tiếng Anh, xin xem tại đây:
http://plumvillage.org/news/an-italian-journalist-reports-from-plum-village/

Vấn đề mang tính toàn cầu

Một vấn đề mang tính toàn cầu với những câu trả lời từ địa phương
Những gì chúng ta làm với tư cách cá nhân, gia đình, cộng đồng và xã hội đóng vai trò rất quan trọng.

What we do as individuals, families, communities and societies: It Matters A global problem with local answers

Viết bởi Brigid Brett – Thời báo Quận Phía Bắc – ngày 21/9/2006
Sư cô Khiết Nghiêm chuyển ngữ

 

Watching Thich Nhat Hanh drink a cup of tea is a profound experience. He sits with his eyes closed, his hands circling the cup and sips in such a way that you know that there is nothing more important to him in that moment than the fragrant aroma, the warmth of the cup, the delicious flavor of the liquid.

Nhìn Thiền sư Thích Nhất Hạnh uống một tách trà quả là một kinh nghiệm sâu sắc. Thầy ngồi đó, đôi mắt nhắm lại, ha i bàn tay nâng lấy tách trà và nhấp từng ngụm theo cách mà bạn sẽ thấy được ngay là trong phút giây đó, không có gì quan trọng hơn mùi thơm, hơi ấm tỏa ra từ chiếc tách và vị ngon của nước trà.

When I first discovered the teachings of the 80-year-old Buddhist monk about 10 years ago, I never imagined I’d be watching him drink his tea right here in North County. Last Sunday, I joined about 800 people at Deer Park Monastery high in the hills of Escondido for a Day of Mindfulness with the man who has written many books on mindful living and whom Martin Luther King nominated for the Nobel Peace Prize in 1967.

Lần đầu tiên phát hiện ra những bài pháp thoại của vị Hòa thượng 80 tuổi này cách đây khoảng 10 năm, tôi không bao giờ tưởng tượng được rằng ngay tại đây, tại Quận Phía Bắc, tôi lại được ngồi ngắm nhìn Thầy đang uống trà. Chủ Nhật tuần trước, tại tu viện Lộc Uyển nằm cao trên những ngọn núi của vùng Escondido, tôi đã cùng khoảng 800 người tham dự một Ngày Chánh niệm cùng với người Thầy, tác giả của biết bao nhiêu cuốn sách về nếp sống chánh niệm và cũng là người đã được luật sư Martin Luther King đề cử cho giải Nobel Hòa Bình năm 1967.

Like many deeply spiritual people, Nhat Hanh believes that words are not enough —- that one must take positive action when faced with social injustice and environmental crises. On Sunday, with an unusually somber expression on his face and sense of urgency in his gentle Vietnamese accent, he spoke at length about global warming. He spoke about how each one of us needs to wake up and make some drastic lifestyle changes if we want our children to enjoy the earth the way we are able to now. And he told us about some of the new practices and programs that the Deer Park community in Escondido has underway.

Cũng như nhiều người có nếp sống tâm linh sâu sắc, Thầy Nhất Hạnh tin tưởng rằng ngôn từ không thể nào diễn tả đủ, rằng một người phải hành động một cách tích cực khi đối mặt với tình trạng bất công xã hội và khủng hoảng về môi trường. Vào Chủ Nhật đó, với vẻ mặt khác thường và cảm giác cấp bách trong âm điệu Việt Nam nhẹ nhàng, Thầy đã nói khá lâu về tình trạng hiệu ứng nhà kính. Thầy đã nói về phương pháp làm thế nào để mỗi người trong chúng ta cần tỉnh thức và thay đổi nếp sống một cách quyết liệt nếu chúng ta muốn con cháu chúng ta sau này cũng được tận hưởng trái đất theo cách chúng ta đang tận hưởng bây giờ. Thầy cũng kể cho chúng tô i biết một vài điểm mới trong sự thực tập cũng như một vài chương trình mới mà đại chúng tu viện Lộc Uyển tại Escodido đang tiến hành.

1. Tuesday is a No Car Day – nobody drives on Tuesdays.
2. They have a goal to reduce car use by 50 percent. They will shop for the community only once a week.
3. They are moving toward using biodiesel and hybrid cars.
4. They are purchasing solar panels to provide for all energy needs.
5. They are digging wells to access water.

I had the feeling that all 800 of us were experiencing a similar sense of hopelessness and hope as we listened to his words. I imagined we were all asking ourselves the same question: What can I do to make things better and not worse?

  1. Ngày Thứ Ba sẽ là Ngày không sử dụng xe hơi – Không ai sử dụng xe hơi trong ngày Thứ Ba.
  2. Tu viện đặt ra mục tiêu là giảm việc sử dụng xe hơi xuống còn 50%. Chỉ thực hiện việc mua sắm cho nhu cầu của đại chúng một lần trong tuần.
  3. Tu viện đang đi theo hướng sử dụng dầu diesel sạch và xe hơi hybrid (nửa điện nửa xăng) hay xe hơi chạy dầu hữu cơ.
  4. Tu viện sẽ trang bị các tấm thu năng lượng mặt trời để cung cấp cho toàn bộ nhu cầu về năng lượng của tu viện.
  5. Tu viện sẽ đào giếng để lấy nước.


    Tôi có cảm giác rằng tất cả 800 người chúng tôi đang được trải qua kinh nghiệm của cảm giác tuyệt vọng và hy vọng khi nghe những lời của Thầy. Tôi tưởng tượng ra chúng tôi đang tự hỏ i bản thân cùng một câu hỏi: chúng ta có thể làm được gì để cho cuộc sống không tồi tệ đi và trở nên tốt đẹp hơn?

    When I got home from the monastery, I made myself a cup of tea and took it outside to drink. The sun was starting to set and I watched a pair of hawks flying as if they were really enjoying themselves. Some brazen rabbits came to nibble the grass near where I sat. My husband dropped a handful of just-picked figs into my lap . Inside the house I heard my teenage kids laughing and I thought about how it would feel to one day hold a grandchild in my lap and show her the hawks and rabbits and give her a taste of warm, ripe fig.

    Từ tu viện trở về nhà, tôi đã pha cho mình một tách trà và mang ra ngoài trời uống. Mặt trờ i bắt đầu lặn và tôi thấy một cặp diều hâu đang bay như thể chúng đang thực sự tận hưởng chính bản thân. Một vài chú thỏ chạy tới gặm cỏ gần nơi tôi ngồi. Chồng tôi thả vào tay tôi một vốc sung mới hái. Tôi nghe từ trong nhà vọng ra tiếng cười đùa của mấy đứa con đã đến tuổi thành niên của tôi, và tôi nghĩ đến chuyện một ngày nào đó tôi sẽ ôm đứa cháu nội trong trong vòng tay mình và chỉ cho bé những con chim diều hâu và đàn thỏ và đưa cho bé nếm vị quả sung mới chín và còn ấm.

    So here are some things I am going to do to make North County a little greener. I’m going to have a No Car Day once a week. I’m going to cut down as much as possible on the driving I do. And I’m going to save up to buy a hybrid car. It’s the least I can do for my children – and yours.

    Và đây là vài điều mà tôi sẽ làm để góp phần làm cho quận Phía Bắc xanh hơn. Tôi sẽ thực hiện một ngày không sử dụng xe hơi hằng tuần. Tôi sẽ cố gắng để giảm việc đi lại bằng xe hơi càng nhiều càng tốt. Và tôi sẽ tiết kiệm để mua một chiếc xe chạy bằng dầu hữu cơ. Đó là những gì tối thiểu nhất tôi có thể làm cho các con của tôi – và cũng là cho các bạn.

    For more information on Deer Park Monastery and its programs, visit www.deerparkmonastery.org or call (760) 291-1003.

    Để biết thêm thông tin về tu viện Lộc Uyển và các chương trình của tu viện, xin mời các bạn thăm trang nhà tại địa chỉ www.deerparkmonastery.org hoặc điện thoại số (760) 291-1003.

    Ông hoàng tử Hạnh Phúc

    Sau một tuần tham dự khóa tu do Thiền sư Thích Nhất Hạnh và tăng thân Làng Mai tổ chức tại Brock University, Toronto (11-16/8/2013), Alice Klein – chủ bút của tuần báo Now Magazine, một trong những tờ báo lớn nhất Canada – đã chia sẻ những cảm nhận và khám phá thú vị của mình về nghệ thuật chuyển hóa khổ đau, về tình thương và hạnh phúc chân thực qua bài viết “The Prince of Happiness” (Ông hoàng tử Hạnh Phúc). Dưới đây là phần chuyển ngữ từ nguyên bản tiếng Anh.



    thở với tiếng chuông

    Tình thương và hạnh phúc chân thực? Phải chăng những điều này chỉ có trong chuyện cổ tích mà thôi? Không, hoàn toàn không phải vậy – đó là lời của thiền sư Thích Nhất Hạnh, một vị thầy 87 tuổi và cũng đồng thời là một nhà hoạt động xã hội can trường, người đang ngồi thật an nhiên trong tư thế kiết già trên bục giảng kia.

    Tôi đang sắp sửa nhận được từ Thầy những lời khuyên giản dị và thiết thực làm thế nào để có được tình thương và hạnh phúc chân thực. Nhưng ngay lúc này đây, tôi thực sự không hạnh phúc chút nào. Tôi hết sức mệt mỏi và phải thú thật là đầu óc tôi lúc này chỉ toàn nghĩ đến chuyện trục trặc vừa mới xảy ra trong gia đình tôi. Tất nhiên là chuyện này xảy ra trước khi khóa tu tại đại học Brock bắt đầu.

    Khi hào hứng quyết định tham gia khóa tu sáu ngày để học hỏi từ vị thầy được coi là một trong số ít những nhân vật huyền thoại còn sống về phong trào bất bạo động trên thế giới, tôi không hề tính đến chuyện phải thức dậy từ lúc 5 giờ rưỡi sáng và ăn toàn thức ăn chay được phục vụ trong căn-tin của trường đại học. Tôi cũng không hình dung rằng mình sẽ ngồi hàng giờ liền trong im lặng với 1300 người. Cả một gian phòng lớn – nguyên là phòng thể dục của trường đại học đều chật kín người, thật là ấn tượng. Trong khóa tu, mọi người đều thực tập im lặng hùng tráng từ tối hôm trước cho đến sau giờ ăn trưa của ngày hôm sau, cũng như trong suốt các bữa ăn.

    Thực lòng khi đến khóa tu, tôi chỉ tò mò muốn được trực tiếp cảm nhận sự có mặt sống động của vị thầy nổi tiếng thứ hai thế giới trong lĩnh vực Phật giáo. Nhưng không hiểu vì nhân duyên gì, hay là vì thấu hiểu được tâm lý rất “con người” của tôi nên hôm đó Thầy đã dạy cho tôi làm thế nào để có thể có mặt thực sự trong giây phút hiện tại, bây giờ và ở đây, chỉ khi đó tôi mới có thể thực sự cảm nhận được sự có mặt của người khác.

    Cũng như Đức Đạt Lai Lạt Ma, lập trường tranh đấu bất bạo động cho hòa bình và hòa giải dân tộc của Thầy Nhất Hạnh được hun đúc và rèn giũa trong lò lửa chiến tranh với bạo động chính trị, đàn áp và biết bao đau thương không thể nói thành lời. Trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam, Thầy là người sáng lập phong trào “đạo Bụt dấn thân” (“Engaged Buddhism”), tạo cảm hứng cho hàng ngàn xuất sĩ trong cả nước đi về các vùng nông thôn để giúp xây dựng lại những làng quê bị chiến tranh tàn phá và giúp những người dân đang sống trong cảnh nghèo đói. Tất cả những người đi theo phong trào này đều cam kết kêu gọi hòa bình bằng phương pháp bất bạo động. Và sứ mệnh của Thầy là đi ra nước ngoài để kêu gọi hòa bình cho Việt Nam và từ đó phong trào tranh đấu bất bạo động cho hòa bình và hòa giải dân tộc đã lan rộng ra các quốc gia và vẫn còn đang được tiếp tục cho đến ngày hôm nay.

    Năm 1966, sau hai thập niên dấn thân cho phong trào hoạt động xã hội, mở ra một hướng đi mới cho thế hệ trẻ lúc bấy giờ đang bị bế tắc và gặp nhiều thách thức, Thầy Nhất Hạnh đã bị chính quyền Việt Nam ngăn cấm không được trở về quê hương. Mặc dù vậy, Thầy vẫn không ngừng nỗ lực vận động người dân Mỹ cũng như người dân khắp nơi trên thế giới ủng hộ việc chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam. Vì những nỗ lực đó, Thầy đã được Mục sư Martin Luther King đề cử giải Nobel Hòa bình. Mục sư Luther King đã hoàn toàn cam kết đấu tranh cho hòa bình và chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam sau cuộc nói chuyện với Thầy Nhất Hạnh – vị Hoàng tử Hạnh Phúc đang ngồi an nhiên trước mặt tôi đây.

    Thầy không hề để lộ tuổi tác qua dáng vẻ của mình. Trong chiếc áo tràng nâu, Thầy hơi có vẻ giống nhân vật Spock trong bộ phim nổi tiếng Star Trek, với cặp lông mày rậm và đôi mắt sâu thẳm luôn có tia sáng lấp lánh. Thầy đang chuẩn bị giảng về cái mà Thầy gọi là nghệ thuật khổ đau. Và dĩ nhiên là tôi sẽ phải bận rộn với trái tim đang tan vỡ của mình.

    Có lẽ bất kỳ ai dù chỉ mới đọc một xíu thôi trong hơn 80 đầu sách của Thầy – chưa kể đến các CD, video và những thứ khác – cũng biết rằng những gì Thầy Nhất Hạnh dạy đều bắt đầu bằng một cách rất đơn giản, đó là theo dõi hơi thở vào. Thầy nói rằng chỉ cần một hơi thở vào là ta có thể trở về và tiếp xúc với một sự thật mầu nhiệm là ta đang còn sống trong giây phút hiện tại và đây là giây phút hạnh phúc.

    Tôi thử làm theo lời Thầy dạy, và quả nhiên hơi thở vào giúp tôi kết nối với thân thể của mình ngay lập tức. Wow! Tôi thật sự cảm nhận được điều này! Tôi thở vào và lần này tôi theo sát hơi thở xuống dưới bụng (trong khi thở vào tôi nhủ thầm “Con đã về”), rồi tôi theo dõi hơi thở ra từ đầu cho đến cuối, trọn vẹn và thoải mái (đồng thời nhủ thầm câu “Con đã tới”). Thầy gọi đó là hơi thở có ý thức, hay hơi thở chánh niệm.

    Mặc dù trái tim khổ đau của tôi vẫn bắt buộc tôi phải dành gần như toàn bộ tâm ý cho nó, nhưng phải thừa nhận rằng phương pháp làm cho thân tâm hợp nhất này thật là thâm sâu và có hiệu quả ngay tức thì.

    Trong khi theo dõi hơi thở từ đầu cho đến cuối, tôi đã đi ra khỏi những ồn ào huyên náo trong đầu và bước sang một trạng thái tỉnh thức khác lạ. Bây giờ tôi mới hiểu thế nào là giây phút hiện tại. Tôi không thể nào tin được rằng sau hàng chục năm nghiên cứu và tìm tòi, tôi lại khám phá ra được một cách kết nối thân tâm nhanh chóng và giản dị đến thế.

    “Nghệ thuật khổ đau” cũng đòi hỏi ta phải chế tác năng lượng chánh niệm bằng hơi thở ý thức. “Ai trong chúng ta cũng có ít nhiều khổ đau”, Thầy nói một cách nhẹ nhàng. “Và với năng lượng chánh niệm, ta có thể trở về với chính mình và ta có thể nhận diện được khổ đau đang có mặt trong mình”. Đúng vậy, tôi đã làm được bước đầu tiên rồi!

    “Nhiều người trong chúng ta thường sợ phải đối diện và bị nhấn chìm trong khổ đau của chính mình, vì vậy mà ta thường có xu hướng trốn chạy hoặc khỏa lấp nỗi cô đơn, buồn giận, sợ hãi hay tuyệt vọng trong lòng mình. Chúng ta làm mọi cách để bận rộn, để không phải trở về với chính mình và tiếp xúc với niềm đau, nỗi khổ trong lòng mình. Nhưng với năng lượng chánh niệm, chúng ta sẽ có đủ sức mạnh để trở về nhà, trở về với chính mình. Ta có thể ôm ấp niềm đau của mình với tất cả sự dịu dàng như một người mẹ đang ôm đứa con của mình trong lòng.”

    Được rồi, vậy thì tôi sẽ cố gắng thở và nhẹ nhàng ôm ấp niềm đau trong tôi như ôm một em bé.

    “Chúng ta mang theo cả những khổ đau của cha, của mẹ, của ông bà tổ tiên trong ta” Thầy giải thích thêm.

    Trong giây phút này, tôi thực sự cảm nhận được sự có mặt rất rõ ràng của tổ tiên ở trong tôi và tôi muốn dừng lại cái vòng luẩn quẩn mà tôi đang mắc kẹt vào.

    Tôi càng có động lực hơn khi nghe Thầy dạy: “Khi ôm ấp khổ đau trong lòng mình, chúng ta sẽ đi đến một cái thấy về bản chất và gốc rễ của khổ đau đó. Và khi đã hiểu được gốc rễ của khổ đau rồi thì tình thương và lòng từ bi trong ta sẽ phát khởi một cách rất tự nhiên. Từ bi là một loại năng lượng có khả năng chữa trị cho chúng ta và cho cả thế giới này.”

    Tôi đã thực sự thực tập đúng theo lời Thầy dạy và phải mất khoảng 24 giờ. Tôi không hề nhận ra rằng cảm giác đau khổ trong lòng tôi đã tan biến, tôi chỉ thấy mình bỗng nhiên nhẹ nhàng hơn trước rất nhiều.

    Tuy nhiên, chìa khóa của thành công nằm ở chỗ: nếu anh chưa thực tập được đến mức không còn muốn trừng phạt bất kỳ ai – những người đã làm anh khổ đau – thì anh vẫn chưa thực sự thành công. Nếu anh chỉ thực tập nửa vời thì không bao giờ có thể thành công được.

    Phương pháp bất bạo động của Thầy Nhất Hạnh có vẻ quá khác lạ so với cách tư duy thông thường, vì vậy mà nó làm cho ta khó chấp nhận. Nhưng bù lại ta sẽ nhận được những phần thưởng thật xứng đáng, đó là tự do, hạnh phúc, tình thương chân thực và Niết bàn. Tất cả những điều này đều chờ đợi ta ở địa chỉ: bây giờ và ở đây, đó là lời của Thầy Nhất Hạnh. Thầy nói rằng: “Không có con đường đi đến Niết bàn, Niết bàn chính là con đường”.

    Chỉ đến khi kết thúc khóa tu tôi mới hiểu ra vì sao sự có mặt của Thầy có thể gây xúc động và ảnh hưởng lớn với tôi như vậy. Đó là vì Thầy luôn an trú trong giây phút hiện tại, Thầy luôn ở trong Niết bàn.

    Alice Klein



    Phần chuyển ngữ từ nguyên bản tiếng Anh
    The Prince of Happiness