Lợi ích của chánh niệm

“Trí tuệ là cái mà bạn không thể trao truyền cho người khác. Hạt giống trí tuệ đã có sẵn nơi mỗi chúng ta. Một người thầy giỏi là người biết cách chạm tới, làm cho hạt giống ấy thức dậy, nẩy mầm và lớn lên.” – Thiền sư Thích Nhất Hạnh

CHÁNH NIỆM LÀ MỘT LOẠI NĂNG LƯỢNG cho phép chúng ta nhận diện những gì đang diễn ra trong giây phút hiện tại. Khi bạn thở vào một cách có ý thức, bạn nhận biết được hơi thở vào, đó gọi là chánh niệm về hơi thở. Khi bạn nâng một tách trà và thưởng thức trà với ý thức trọn vẹn về giây phút hiện tại, đó gọi là chánh niệm khi uống trà. Khi bạn bước đi và ý thức được từng bước chân, đó là chánh niệm khi đi.

Thực tập chánh niệm không đòi hỏi chúng ta phải đi tới một nơi nào đặc biệt. Chúng ta có thể thực tập chánh niệm trong phòng hoặc trên đường đi từ nơi này tới nơi khác. Chúng ta có thể làm những việc mà mình vẫn thường làm – đi bộ, ngồi chơi, làm việc, ăn uống, nói chuyện, chỉ khác ở chỗ là chúng ta làm những việc đó với ý thức trọn vẹn về những gì mình đang làm.

Chánh niệm là một loại năng lượng mà chúng ta có thể tự chế tác cho bản thân. Ai trong chúng ta cũng đều có khả năng thở vào, thở ra trong chánh niệm. Ai cũng có khả năng bước đi trong chánh niệm. Sống chánh niệm là điều mà ai cũng có thể làm được, cho nên điều này không có gì quá xa lạ với chúng ta. Trong chúng ta đã có sẵn hạt giống chánh niệm. Nếu chúng ta biết thực tập, hạt giống chánh niệm ấy sẽ lớn lên và mỗi khi cần đến, năng lượng chánh niệm sẽ có mặt ở đó cho chúng ta.

Thực tập chánh niệm sẽ làm cho chất lượng học tập được gia tăng và đồng thời nâng cao phẩm chất cuộc sống của chúng ta. Chánh niệm giúp chúng ta chăm sóc những nỗi khổ, niềm đau trong ta, mang lại bình an, hiểu biết và thương yêu. Chánh niệm còn giúp chúng ta tái lập truyền thông và đưa tới khả năng hòa giải, nhờ đó chúng ta có thể tìm lại được niềm vui sống. Tuy nhiên, chỉ đọc và nói về chánh niệm thôi thì không đủ, chúng ta cần thực tập chánh niệm.

Khi ngắm nhìn hoàng hôn, nếu bạn tỉnh thức, bạn có thể tiếp xúc một cách sâu sắc với hoàng hôn. Nhưng nếu tâm bạn đang mải nghĩ ngợi vẩn vơ tới những điều khác – bạn bị kéo về quá khứ hay rong ruổi về tương lai, hoặc lo nghĩ về những dự án của mình – thì khi ấy, bạn không thật sự có mặt và không thể tận hưởng được vẻ đẹp của hoàng hôn. Chánh niệm cho phép chúng ta có mặt trọn vẹn trong giây phút hiện tại, bây giờ và ở đây, để tận hưởng được những mầu nhiệm của sự sống – những điều có khả năng nuôi dưỡng, chuyển hóa và trị liệu cho ta.

Dừng lại

Bụt dạy rằng chánh niệm là suối nguồn của niềm vui và hạnh phúc. Hạt giống của chánh niệm đã sẵn có trong mỗi chúng ta, nhưng chúng ta thường quên tưới tẩm nó. Nếu biết cách quay về nương vào hơi thở, vào bước chân, chúng ta có thể chạm tới và làm biểu hiện những hạt giống của bình an, của niềm vui trong ta. Thay vì nương tựa vào những ý niệm trừu tượng về Bụt, về Chúa, hoặc Allah, chúng ta có thể tiếp xúc với Bụt, với Chúa, hoặc Allah ngay trong mỗi hơi thở, mỗi bước chân của mình.

Điều này nghe có vẻ dễ dàng và ai cũng có thể làm được, nhưng nó đòi hỏi một sự rèn luyện. Thực tập dừng lại là một sự thực tập vô cùng quan trọng. Nhưng làm thế nào để có thể dừng lại? Chúng ta dừng lại bằng cách ý thức về hơi thở vào, hơi thở ra và ý thức mỗi bước chân mình. Vì thế, sự thực tập căn bản của chúng ta là chánh niệm về hơi thở và bước chân.

Nếu chúng ta muốn tận hưởng trọn vẹn những món quà mà cuộc sống ban tặng, ta cần thực tập chánh niệm trong mọi sinh hoạt của đời sống hàng ngày, ngay khi đi vệ sinh, nấu bữa sáng cho các con, lái xe đi làm, hoặc khi dạy dỗ các học sinh trong lớp học. Mỗi hơi thở, mỗi bước chân đều là một cơ hội để ta chế tác niềm vui và hạnh phúc. Cuộc sống luôn đầy rẫy những khó khăn, thử thách. Nếu không có đủ niềm vui, niềm hạnh phúc trong “kho dự trữ” của mình, ta khó có thể chăm sóc cho nỗi khổ, niềm đau khi chúng ập đến. Với chánh niệm, chúng ta có thể duy trì niềm vui bên trong, để sẵn sàng đương đầu với những thử thách trong cuộc sống. Chúng ta có thể chế tác không gian, tự do và tình thương bên trong để làm nền tảng vững chắc cho chính mình.

Lắng trong

Trước khi thành lập Làng Mai, tôi đã sống ở Phương Vân Am, cách Paris một tiếng rưỡi lái xe. Phương Vân Am nằm trên một ngọn đồi, xung quanh là rừng cây. Một hôm, có hai cha con người Việt đến Phương Vân Am. Người cha muốn nhờ tôi chăm sóc đứa con gái của ông, bé Thanh Thủy, để ông có thể lên Paris lo giấy tờ và kiếm việc làm. Bé Thanh Thủy khi ấy gần 5 tuổi.

Tối nào Thanh Thủy cũng thấy tôi ngồi. Tôi bảo bé là tôi “ngồi thiền” và tôi không hề nói cho bé biết ngồi thiền là gì và ngồi như thế để làm gì. Mỗi tối, khi thấy tôi rửa mặt, mặc áo tràng và đi thắp một cây nhang cho thơm thiền phòng là bé biết tôi sắp đi “ngồi thiền”. Bé cũng biết là đã đến giờ phải đi đánh răng, thay áo và leo lên chỗ nằm mà không nói chuyện.

Một ngày nọ, Thanh Thủy và mấy em bé khác chơi với nhau trên khu đồi phía sau nhà. Chơi được một lúc, chúng đến xin tôi nước uống. Tôi đi tìm chai nước táo cuối cùng còn lại và đem rót vào cho mỗi đứa một ly đầy. Ly cuối cùng là của Thanh Thủy. Ly này lợn cợn xác táo, không trong như ba ly trước. Thanh Thủy phụng phịu chê, không uống, rồi lại chạy lên đồi chơi.

Chừng một giờ sau, bé quay lại tìm nước uống. Tôi chỉ lên bàn, bảo: “Cháu uống ly nước táo này đi”. Thủy ngoảnh lại nhìn. Ly nước táo bấy giờ trong vắt không còn một tí lợn cợn nào nữa, trông thật ngon lành. Bé tới gần và đưa hai tay nâng ly nước táo lên uống. Uống được chừng một phần ba ly, Thủy đặt ly xuống và ngước mắt nhìn tôi: “Có phải đây là một ly nước táo mới không thưa ông?” Tôi trả lời: “Không, ly nước táo hồi nãy đó. Nó ngồi yên một lúc lâu cho nên trở thành trong vắt và ngon lành như vậy đó cháu.” Thủy nhìn lại ly nước táo: “Ngon quá ông ơi. Có phải ly nước táo bắt chước ông ngồi thiền hả ông?” Tôi bật cười vỗ nhẹ lên đầu bé. Có lẽ nói tôi đã bắt chước ly nước táo mà ngồi thiền thì đúng hơn.

Chắc rằng trong đầu óc non nớt của mình, bé Thủy nghĩ rằng ly nước táo ngồi yên một hồi lâu là để cho nó lắng trở lại và ông của nó ngồi yên một hồi lâu chắc cũng là để cho lắng trong, cho khỏe khoắn như ly nước táo. “Có phải ly nước táo bắt chước ông ngồi thiền hả ông?” Tôi nghĩ bé Thủy chưa đầy 5 tuổi mà đã hiểu thế nào là ngồi thiền mà không cần ai giải thích gì cho bé.

Ly nước táo ngồi lâu thì lắng trong. Theo cùng một định luật, ngồi lâu thì ta cũng lắng trong. Nếu ta biết cách ngồi, biết cách điều chỉnh tư thế ngồi của mình cho thật vững chãi, có mặt với hơi thở vào và hơi thở ra, thì sau một lúc, tâm ta sẽ trở nên an tĩnh và lắng trong.

CHIẾC LỌ TÂM TRÍ [1]

NHỮNG DỤNG CỤ CẦN CHUẨN BỊ: Chuông nhỏ và dùi thỉnh, bình nước trong, thìa khuấy, cát nhiều màu (có thể thay bằng các loại đậu hoặc hạt ngũ cốc như gạo, kê, yến mạch – những loại hạt mà khi ta thả vào nước sẽ lắng xuống một cách từ từ). Tốt hơn hết là bạn nên thử làm trước, bởi vì một số hạt có thể không lắng xuống mà bị nổi trên mặt nước. Hạt mè khô thì nổi, nhưng nếu ta ngâm nước một đêm thì chúng sẽ lắng xuống.

Những câu được in nghiêng trong bài tập này là những lời hướng dẫn mà bạn có thể sử dụng để chia sẻ với các em. Phần trong ngoặc […] là câu trả lời mà các em nhỏ đã chia sẻ với chúng tôi.

Bạn hãy cho các em ngồi thành vòng tròn, rồi mang một cái bình lớn, trong suốt, bên trong chứa đầy nước đặt vào giữa vòng tròn. Sau đó, bạn mang những khay đựng cát nhiều màu ra.

Bình nước này chính là tâm trí của chúng ta và những hạt cát nhiều màu sắc này tượng trưng cho những suy nghĩ và cảm xúc của chúng ta. Khi vừa thức dậy, trong đầu các em thường có những suy nghĩ nào?

[Mong được đến trường để gặp bạn bè, muốn ngủ “nướng” thêm chút nữa, cảm thấy đói bụng…]

Mỗi em hãy chọn một màu cát phù hợp với cảm xúc hoặc suy nghĩ của mình, rồi thả nắm cát đó vào bình nước.

Yêu cầu một em khác khuấy nước trong bình để các hạt cát xoáy đều lên.

Vậy khi đi học, vào buổi chiều và vào buổi tối trước khi đi ngủ thì các em thường có suy nghĩ gì? Các em có thể chia sẻ về những cảm xúc vui, buồn, khó chịu, giận dữ, bình an hay buồn ngủ… xuất hiện trong ngày. Với mỗi cảm xúc, các em tiếp tục rắc các hạt cát màu vào bình.

Em bé đang khuấy nước có thể khuấy nhanh tay hơn. Đây là tâm trí của chúng ta mỗi khi ta vội vã, căng thẳng, tức giận hoặc buồn bã. Các em có thấy rõ mọi thứ trong trạng thái này không? Đây có phải một trạng thái dễ chịu không? Các em thử nêu vài ví dụ về những lúc mình cảm thấy như vậy.

[Khi em bị mẹ mắng, khi em sợ hãi, khi em đánh nhau với anh trai…]

Giờ thì bạn hãy thỉnh một tiếng chuông và cho em bé

đang khuấy nước dừng lại. Bây giờ, chúng ta cùng thở với tiếng chuông và quan sát những hạt cát từ từ lắng xuống đáy bình nhé! Các em nhỏ thường cảm thấy khá thư giãn với việc này.

Đây là điều xảy ra với tâm trí khi ta tập thiền, khi ta có ý thức về hơi thở và về thân thể mình. Các em thấy nước trong bình bây giờ thế nào?

[Nước trong trẻo, lắng yên]

Các suy nghĩ và cảm xúc có thể vẫn còn ở trong tâm trí chúng ta, nhưng giờ đây chúng đã lắng xuống nằm yên dưới đáy, bởi vì chúng ta đã biết trở về với hơi thở, để giúp chúng được yên lắng.

Chúng ta cũng có thể chọn loại cảm xúc và suy nghĩ mà mình muốn “khuấy động” trong tâm trí mình. Có những lúc ta cần nhìn sâu vào những suy nghĩ và cảm xúc không vui để có thể hiểu nó rõ hơn. Hoặc ta có thể làm sống dậy những suy nghĩ khiến ta hạnh phúc như lòng tốt, tình thương, sự tha thứ… Việc ý thức về các suy nghĩ rất quan trọng, nhờ đó, ta có thể dẫn dắt suy nghĩ theo hướng ta muốn, thay vì để nó dẫn dắt ta.


Lợi ích của việc thực hành chánh niệm cùng trẻ em[2]

Giáo viên thường yêu cầu học sinh phải chú ý, nhưng lại không dạy các em phải làm cách nào để chú ý. Thực tập chánh niệm giúp các em biết chú tâm, qua đó nâng cao kỹ năng học tập lẫn kỹ năng cảm xúc – xã hội của các em.

Chánh niệm giúp giảm căng thẳng một cách hiệu quả và thúc đẩy “chức năng điều hành” của não bộ, tức khả năng tổ chức công việc, quản lý thời gian, đặt ra ưu tiên và đưa ra quyết định. Trẻ em – kể cả các em bị chẩn đoán là mắc các chứng rối loạn liên quan đến căng thẳng – có thể hưởng lợi từ việc học cách tập trung chú ý, trở nên bớt tăng động và phát triển tình thương với chính mình cũng như với người khác.

CHÁNH NIỆM GIÚP CHO TRẺ EM [3]CHÁNH NIỆM GIÚP CHO GIÁO VIÊN [4]

Tập trung chú ý tốt hơn

Ý thức rõ hơn về bản thân và hòa hợp với học sinh

Yên hơn

Dễ dàng nhận biết những nhu yếu của học sinh

Giảm căng thẳng và lo âu

Duy trì được sự cân bằng
cảm xúc

Bớt tăng động

Giúp nuôi dưỡng một cộng đồng học sinh phát triển toàn diện: từ học tập, cảm xúc đến xã hội

Ý thức hơn về bản thân

Phát triển cả về chuyên môn lẫn đời sống cá nhân

Biết cách chăm sóc những cảm xúc không dễ chịu

Biết cách quản lý và giải tỏa căng thẳng

Cảm thông và thấu hiểu người khác

Giữ gìn mối quan hệ tốt đẹp ở nơi làm việc cũng như trong gia đình

Biết cách khéo léo giải quyết những xung đột

 


[1] Phỏng theo tác phẩm Mindfulness – A Guide for Teachers (Chánh niệm – Cẩm nang cho các giáo viên) của Tiến sĩ Amy Saltzman. www.pbs.org/thebud- dha/teachers-guide

[2] Phỏng theo bài tập gốc trong cuốn sách Peaceful Piggy Meditation của tác giả Kerry Lee MacLean (Park Ridge, IL: Albert Whitman & Co., 2004).

[3] Chia sẻ của các thầy cô giáo và học sinh – những người đã được hướng dẫn về thực hành chánh niệm. Nguồn: Mindful Schools: Using Mindfulness to Teach Children to Be Emotionally Aware, Empathetic, and Mindful of Their Thoughts and Actions. 09 Aug. 2010. www.mindfulschools.org

[4] Trích từ sách Mindful Teaching and Teaching Mindfulness của tác giả Deborah Schoeberlein (Somerville, MA: Wisdom Publications, 2009).

Những thiên thần mùa hè

(Sư cô Chân Trăng Bồ Đề)

Nhìn ngắm một lần cuối hai chiếc lá vàng, lá đỏ trước khi bỏ vào bì thư để gửi đi, lòng con tràn ngập sự thương mến. Bất chợt, con mỉm cười khi nhớ lại những dòng chữ ngây thơ mà con nhận được vào một buổi sáng đẹp trời: “Hôm nay là ngày đầu tiên con đi học. Trường của con ở Bilthoven. Con đạp xe 2,5 cây số để đến trường vào buổi sáng và về lại vào buổi chiều”. Đó là một trong những ký ức đẹp con có trong chương trình thiếu nhi mùa hè vừa rồi tại Viện Phật học Ứng dụng châu Âu (EIAB) ở Đức.

Đa phần trẻ em Đức và Hà Lan không nói được tiếng Anh nhiều nên bao câu chuyện khóc cười do khác biệt ngôn ngữ cứ nối nhau.

“Em tìm gì vậy?”

Con đang đứng trong hành lang để dọn dẹp, một em chạy ào đến với dáng vẻ bối rối. Con liền hỏi: “Em tìm gì vậy?”. Theo phản xạ tự nhiên, em trả lời bằng tiếng Đức. Nhìn đôi mắt tròn xoe và ngơ ngác của con, em lúng túng không biết phải làm sao. May quá, có một cô tình nguyện viên đi ngang đã kịp thời giải cứu con và em khỏi giây phút bối rối ấy. Nhìn theo hướng em chạy đi, con mới hiểu em tìm nhà vệ sinh. Lúc ấy, con chỉ biết vỗ tay lên trán và lắc đầu, không biết nên khóc hay nên cười nữa.

Những ngày đầu, trong những thời khóa sinh hoạt với các em, con chỉ có thể đóng góp bằng sự có mặt của mình. Nhìn các em cười, nói, chia sẻ, dù không hiểu gì nhưng trong lòng con rất vui. Các em như những đóa hoa với mỗi sắc màu riêng và rất rạng rỡ. Dần dần, con thuộc tên từng em và biết em nào nói được tiếng Anh. Vậy là khi có điểm quan trọng cần truyền thông, con nhờ em đó thông dịch giúp. Đó thật sự là một nỗ lực lớn từ hai phía. Con phải diễn đạt ý của mình sao cho dễ hiểu nhất, còn các em phải lắng nghe thật kỹ càng và tìm cách chuyển tải qua ngôn ngữ của mình cho các bạn khác cùng hiểu. Nhiều khi con và các em đều “vò đầu bứt tai” nhưng sau khi hiểu được rồi, ai cũng thấy thật vui.

Có khi, sau một hồi cố gắng diễn đạt bằng ngôn ngữ lẫn khua chân múa tay mà thấy mặt con vẫn ngơ ngác, các em có giải pháp cuối cùng là “Đi theo chúng con!”. Với vẻ hào hứng, các em dẫn con đến nơi mới khám phá ra trong tòa nhà rộng lớn của Học viện. Sau khi leo gần cả trăm bậc thang, qua mấy tầng lầu, bát cơm trưa của con muốn tiêu hết thì chúng con tới được cầu thang dẫn lên gác mái của tòa nhà. Và thế là chương trình thám hiểm những ô cửa bí mật bắt đầu…

Tình thương làm nên sức mạnh

Những khoảnh khắc con thấy mình kết nối được với các em nhiều nhất là ngoài giờ thời khóa. Con chơi bóng bàn, xích đu, đá bóng, thổi bong bóng, dẫn các em đi thăm những con thỏ hay những chú lừa nhà hàng xóm. Con cũng mời ba mẹ các em đi cùng để yên tâm và dễ truyền thông với các em hơn.

Có những buổi trưa, nhìn các em chơi, con không nỡ rời đi dù biết mình cần nghỉ. Thế là con nhắm mắt lại, buông thư ngay tại chỗ và lắng nghe tiếng cười nói của các em như chim hót bên tai. Một em đưa tay lên miệng “Suỵt..suỵt”, cả nhóm bớt nhốn nháo và lắng nghe. “Sư cô Bồ Đề đang ngủ”, một em nói. Với bản tính trẻ con, các em chỉ giữ cho khoảng lặng được chừng vài giây rồi sau đó lại tiếp tục náo nhiệt trở lại.

Con tự hỏi: “Sao trẻ con lại nhiều năng lượng vậy nhỉ? Có thể chạy nhảy, chơi đùa cả ngày mà không biết mệt”. Phải chăng vì các em chưa lo toan, muộn phiền như người lớn? Nhìn nụ cười rạng rỡ trên những khuôn mặt thánh thiện tựa thiên thần, lòng con chợt có chút thương xót khi nghĩ đến một ngày vẻ vô tư, hồn nhiên kia sẽ biến mất. Dù biết đó là quy luật tất yếu của cuộc sống, rằng đi qua những khó khăn sẽ giúp các em trưởng thành, chín chắn hơn nhưng sao vẫn không nỡ. Mấy ai đi qua bão giông mà không héo hon vì những niềm đau. Liệu các em có đủ can đảm lau đi những thương tích hằn lên đôi mắt để vẫn nhìn cuộc đời với tất cả niềm vui? Kí ức về một tuần ở Làng có thể chỉ như một giọt mưa rơi xuống bề mặt của đại dương, lan tỏa một chút, rồi lại bị vô vàn những con sóng cảm xúc trong cuộc đời khỏa lấp đi mất. Nhưng có hề chi, mỗi khi có cơ hội, con lại làm mọi thứ trong khả năng của mình để gieo vào lòng các em hạt giống của niềm vui và tình thương không điều kiện.

Con có niềm tin rằng những gì nhỏ nhặt nhất, nếu đã rơi xuống biển tâm thức thì sẽ không thể nào mất đi. Con mong rằng mai đây trong những khoảnh khắc bơ vơ, lạc lõng, các em sẽ nhớ một nơi mà mình luôn có thể tìm về để nương tựa. Con giữ gìn sức sống cho nơi đây với sự thực tập của mình và tấm lòng rộng mở chào đón các em trở về.

Tôi đứng đây với tấm lòng kiên nhẫn
Bàn tay tôi cũng hóa đá đợi chờ
Một trăm năm, một ngàn năm
vụt qua nơi vòm trời phương ngoại
Dẫu bão táp, dẫu mưa sa
Đuốc thương yêu cứ lặng lẽ cháy
giữa vườn hoa nhân loại.

Thương là vậy, nhưng có lúc con phải nói “không”. Đó là những lúc đang trong giờ thời khoá, các em bỗng mè nheo với con: “Sư cô ơi, con đi chơi bóng bàn được không?”. Nhìn vào đôi mắt sáng như sao và gương mặt hớn hở kia, dù không đành lòng, con vẫn phải tỏ ra cương quyết: “Bây giờ thì không được, đợi xong thời khóa chị sẽ dẫn em đi”. Sau một hồi năn nỉ con vẫn không lay chuyển, với vẻ tiu nghỉu vì thất vọng, các em ngoan ngoãn trở lại tiếp tục chơi với bút màu và giấy.

Thường khi các em chia sẻ với con điều các em muốn, con sẽ hỏi lại các sư anh, sư chị làm việc chung với mình. Nếu mọi người đều không đồng ý, con sẽ buông ý đó xuống. Con có mặt ở đây là để yểm trợ các sư anh, sư chị mà không phải làm mọi người khó xử. Tuy có làm các em buồn một chút, nhưng nhiều nhất là một, hai tiếng đồng hồ, rồi các em lại tươi cười, chơi đùa như chưa hề có chuyện gì xảy ra. Đó là điều con ngưỡng mộ ở các em. Dường như càng lớn, khả năng buông bỏ của mình càng nhỏ lại, mình chấp chặt, nắm bắt ý kiến và cảm xúc của mình nhiều hơn thì phải.

Cũng có lúc các em nói “không” với chương trình sinh hoạt. Một vài em trong nhóm không hứng thú đi tham quan rừng nên từ chối không tham gia. Giây phút đó thật sự khó cho con. Con đắn đo: “Mình không thể ép nếu các em không muốn. Còn chương trình sinh hoạt, mình cần tôn trọng”. Và rồi, con quyết định đi vào rừng với cả nhóm. Đi ngang qua các em, con không khỏi áy náy vì cảm giác mình bỏ các em lại. Con bước thật chậm, thỉnh thoảng ngoảnh nhìn xem các em có đổi ý mà chạy theo không.

Khi nhận ra lòng mình đang lao xao, con trở về với hơi thở và bước chân để dừng lại những suy nghĩ mông lung, có mặt cho khung cảnh im mát và những người đang đi cùng con. Thật lạ, trong giây phút đó, con chợt thấy sở dĩ các em không muốn đi vì có những cái sợ. Sợ đường dài, trời nắng nóng, sợ mệt hay có những ấn tượng không tốt với việc đi bộ.

Dù đã đi được nửa đoạn đường, con vẫn quay trở lại với những bước chân mạnh mẽ, với hy vọng những thiên thần của con chưa vỗ cánh bay mất. Càng tới gần, nghe tiếng các em trò chuyện, lòng con thoáng mừng thầm. Thấy con, các em ngạc nhiên: “Sư cô không đi vào rừng à?”. Con mỉm cười: “Chị đi rồi và thấy đó là một nơi rất đẹp. Nơi đó có hồ nước và có cả một dòng suối rất trong và mát, có thể uống được nữa cơ. Chị nghĩ là có thể các em muốn đến nên quay về hỏi thử”. Các em nhìn nhau phân vân. Hay quá, thấy các em có vẻ xiêu lòng, con tung chiêu cuối cùng. Với giọng dỗ dành: “Nếu các em muốn thử thì đi với chị. Bất cứ lúc nào các em thấy mệt, chị sẽ dẫn các em về ngay”. Các em đồng ý. Thế là chương trình đi rừng của con và các em bắt đầu.

Con vừa đi vừa trò chuyện với các em, thỉnh thoảng hỏi xem các em có mệt chưa. Con khám phá ra rằng các em rất khỏe nhưng không muốn đi chỉ vì những tưởng tượng và hình dung trong đầu. Gần đến nơi, sự yên tĩnh của cánh rừng làm dấy lên trong con chút lo lắng. Mọi người đâu cả rồi? Làm sao tìm được người giữa khu rừng rộng lớn này đây? May quá, gặp một thầy đang đi lấy nước, con liền hỏi thăm. Thầy nói: “À, mọi người đang chơi nơi mé rừng phía trước đó”. Quả thật, con nghe có âm thanh từ đằng xa vọng lại. Giây phút đó, câu trả lời của thầy cùng sự im mát của cánh rừng hòa với chất liệu tinh khiết, ngọt lành của nước suối tạo nên khoảng lặng bình an, khỏe nhẹ trong tâm hồn người lữ hành.

 

“Sư cô ơi, nước suối này ngon quá!”. Giọng non nớt của một thiên thần vang lên khiến con cười thật tươi. Con dẫn các em leo đồi với những bước chân thật thảnh thơi. Tới nơi, các em nhanh chóng hòa vào cuộc vui với những thiên thần khác. Sư chị liền hỏi: “Làm sao em rủ được các em đi cùng hay vậy?”. Nhìn về phía chiếc võng đang đung đưa khó nhọc do sức nặng của bầy thiên thần ngồi trên, con trả lời: “Dạ, tại các em thương em mà đi thôi. Với lại, em có hứa khi nào các em mệt, em sẽ dẫn về ngay”. Nếu không có sự truyền thông với các em trước đó, con thấy mình rất khó thành công dù có khéo léo cỡ nào đi nữa. “Các thiên thần rất thích ngồi võng thì phải. Lần sau đi rừng, mình sẽ đem theo nhiều võng hơn”, con thầm nghĩ.

Thì ra siêu quậy cũng biết buồn

Điều con thấy mình làm được là thương các em đều như nhau, dù các em ngoan hay không ngoan. Trong khóa tu hai tuần ở Đức, có hai bé gái vô cùng nhiều năng lượng, thông minh và siêu quậy. Các em bày đủ thứ trò để chơi, để phá và để chọc mọi người. Thú thật, con chỉ dám nhìn hai em từ xa chứ không có can đảm để tới chơi.

Một buổi chiều, khi đang chơi đá cầu với các anh chị em, “siêu quậy một” đến gần thỏ thẻ: “Sư cô ơi, sư cô đi chơi với con được không?”. Nhìn nét mặt, con biết em đang buồn vì phải chia tay bạn của mình – siêu quậy hai đã về nhà rồi. Con quay sang, hỏi với giọng trìu mến: “Ừ, em muốn chơi trò gì nào?”. Chơi cùng em, con phát hiện ra em là một cô bé rất tình cảm. Khi cảm nhận được tình thương từ quý thầy, quý sư cô, em trở nên dễ chịu và yên hơn trước. Qua đó, con thấy rằng một đứa trẻ dù nghịch ngợm, khó bảo đến đâu nhưng nếu mình đủ sự bao dung, ôm ấp và chấp nhận, đó sẽ là cơ hội để em thay đổi.

Tương lai của thế giới nằm trong tay các thiên thần

Một buổi sáng yên bình. Màu vàng óng ả của những vạt nắng dàn trải trên những tán lá dâu và mái ngói thiền đường. Nắng chạy chơi khắp nơi trong bản nhạc véo von của những chú chim nhỏ. Con lặng im thưởng thức khung cảnh trước mắt. Bất chợt, một tia suy nghĩ đi lên: Nếu trong tương lai, nếp sống tâm linh không còn được chú trọng, xã hội đi về hướng tiêu thụ thì khung cảnh thiên nhiên an lành này có thể sẽ biến mất, thiền đường kia có thể trở thành siêu thị. Giây phút đó con nhớ về những thiên thần.

Phải chăng bên cạnh sự tươi mát, hồn nhiên, trong tất cả các em đều tồn tại những hạt giống của sợ hãi, bạo động, buồn giận và tuyệt vọng. Tùy thuộc vào sự tưới tẩm những hạt giống trong tâm thức mà các em có là thiên thần hay không. Nếu con tưới cho các em hạt giống của tình thương với thiên nhiên, với sự sống, các em sẽ biết đau lòng khi nhìn một cái cây bị đốn ngã, sẽ biết cách để chú ong nhỏ bay ra khi vô tình lạc vào nhà, sẽ bước những bước chân cẩn trọng để không giẫm lên bạn ốc sên đang bò ngang trên đường.

Con trao truyền hạt giống thương yêu đó cho các em qua nụ cười, ánh mắt, lời nói và cả trong cách con hành xử. Con làm tất cả những gì cần làm để mai kia khi hóa thành gió, thành mây, con có thể mỉm cười thanh thản. Vì con biết rằng, các thiên thần sẽ tiếp tục sứ mạng mang thương yêu thấm nhuần trái đất.

Tương lai của thế giới có tươi sáng hay không phụ thuộc vào cách bạn đối xử với một em bé trong giây phút hiện tại. Có nhiều cách để bảo vệ đất Mẹ, và một trong những cách thiết thực nhất là chăm sóc con cháu của bạn với tất cả tình thương và sự tỉnh thức.

Con đường là tâm hồn tôi

(Thầy Chân Minh Hy)

Rừng thu, bóng nắng ngả về chiều mời gọi từng bước chân.

Trên con đường vắng, những cây tùng xanh mạnh khỏe, đứng bên nhau, vững chãi.

Thầy nói:

“Những hàng cây đứng thẳng như những cây cột trong giáo đường, khiến ta có cảm tưởng như đang lạc vào trong một thánh đường uy nghiêm”.

 

 

Tôi cứ đi và cho phép mình đi chơi. Những con đường đẹp quá làm tôi cứ muốn đi thêm chút nữa, thân quen đến nỗi như chính đó là tâm hồn tôi. Những con đường ấy cho hạnh phúc, niềm vui mà chưa bao giờ là khổ đau. Không có gì thích thú hơn là được đi chơi. Dù trời mưa, bùn đất lầy lội, được đi từng bước trên những con đường ấy tôi đều cảm thấy thật dễ chịu, có khi nỗi buồn một lúc là tan biến mất.

Tôi ước rằng bạn cũng có ít nhất một con đường như thế để đi trong thôn xóm của mình. Có người thích đi trên những con đường mới, tôi cũng thích. Nhưng được đi trên những con đường trong xóm, tôi chưa bao giờ thấy chán. Con đường cũ là người bạn cố tri mà bao giờ mình cũng trông mong được gặp. Nếu bạn ghé thăm, chúng ta có thể đãi nhau bằng một chuyến dạo chơi. Chúng tôi ở đây không có gì ngoài những con đường đẹp. Cả gia tài hạnh phúc đều được Thầy cất giữ trên những con đường ấy.

Nếu chẳng thấy mãn nguyện cùng đi chơi trên những con đường như thế, có lẽ kẻ lãng tử vẫn còn lang thang đi tìm cái hạnh phúc không phải là con đường. Thời gian, sức khỏe và tình yêu dần phai mòn vì mãi còn tìm kiếm.

Về đi! Bạn và tôi thuộc về nơi đây, thuộc về những con đường. Con đường là hạnh phúc, là chính ta.

Con đường vắng, những hàng tùng xanh, dáng đứng thẳng tắp bên nhau.

Linh dược trị khổ đau

(Trích từ sách “Con Đã Có Đường Đi” của Thiền sư Thích Nhất Hạnh)

Trong mỗi chúng ta đều có hạt giống của tài năng, của tình thương và của hạnh phúc. Nếu các hạt giống ấy được nuôi dưỡng, được tưới tẩm hằng ngày thì không những ta có được hạnh phúc mà còn mang lại hạnh phúc cho người khác. Tuy vậy, ta nên biết bên cạnh những hạnh phúc ta vẫn còn có những khó khăn, những khổ đau trong thân tâm. Ta cần có thời gian để nhìn lại chúng, để gọi tên chúng và để công nhận sự có mặt của chúng. Ta không được đè nén hay trốn chạy chúng. Nỗi khổ niềm đau ấy có thể là do cha mẹ, tổ tiên của ta trao truyền lại. Nếu gọi được tên của những nỗi khổ niềm đau, chúng ta sẽ cảm thấy rất khỏe. Sở dĩ chúng ta còn khổ bởi chúng ta chưa chịu công nhận những nỗi khổ niềm đau của mình. Có công nhận chúng thì mới có cơ hội tính đến chuyện chuyển hóa chúng. Đối với những người thương của ta, những người sống xung quanh ta, ta cũng cần quán chiếu để thấy được những khó khăn, những yếu kém và những khổ đau của họ. Bởi vì khó khăn của họ có ảnh hưởng đến hạnh phúc của chính chúng ta. Thật vậy, nhiều người đã không biết cách xử lý những khổ đau của chính họ nên không những họ tự gây khổ đau cho mình mà còn làm khổ người khác. Chúng ta phải thấy được những người ấy rất đáng thương vì họ cũng chỉ là nạn nhân của những tập khí xấu được trao truyền từ ông bà tổ tiên qua nhiều thế hệ. Nếu thấy được nguyên nhân và gốc rễ của những khó khăn nơi người kia thì ta sẽ chấp nhận được họ mà không gây áp lực, không đòi hỏi sự thay đổi nơi họ. Ngược lại ta còn có thể giúp họ chuyển hóa những yếu kém ấy. Sự chấp nhận này được thể hiện bằng chất liệu từ bi qua cách nói, cách nhìn của ta đối với người ấy. Chính sự chấp nhận đó mới có khả năng mang lại sự thay đổi nơi chính ta và nơi người khác.

Tuy nhiên, muốn giúp được người thì trước tiên ta cần làm hòa, cần chấp nhận những khổ đau và yếu kém của chính bản thân mình. Ta có thể viết một lá thư chia sẻ những nỗi khổ niềm đau của ta với người kia. Trong thư cần nêu được nguyên nhân nào đã đưa đến những khổ đau nơi ta. Rồi ta giúp người kia quán chiếu những khổ đau của chính họ. Những bác sĩ tâm lý trị liệu có nhiệm vụ giúp đỡ các bệnh nhân thấy được nguyên nhân dẫn đến khổ đau. Tuy nhiên, bác sĩ tâm lý trị liệu cũng phải hiểu được nỗi khổ niềm đau của chính họ, phải biết được gốc rễ đã đưa đến những nỗi khổ niềm đau ấy. Tóm lại, cả hai, bệnh nhân và bác sĩ, đều phải làm việc. Họ phải thực tập như một Phật tử là công nhận những khổ đau họ đang có. Có chấp nhận sự có mặt của những khổ đau ấy thì họ mới có cơ hội tìm đến được gốc rễ của những khổ đau ấy, đó là tập đế. Khi biết được nguyên nhân của những khổ đau, ta sẽ có con đường để chuyển hóa, để trị liệu chúng, đó là đạo đế. Bác sĩ y khoa cũng nên thực tập theo phương pháp Tứ diệu đế vì Tứ diệu đế là linh dược trị khổ đau. Khi nhìn sâu vào những khổ đau, chúng ta sẽ thấy được gốc rễ của nó. Đó chính là chánh kiến. Với chánh kiến, ta sẽ không còn oán trời trách đất nữa mỗi khi gặp khổ đau. Chánh kiến ấy trước hết là cái thấy về Bốn sự thật. Nếu quán chiếu sâu sắc ta sẽ thấy được tính tương tức giữa các sự vật, các hiện tượng, đó cũng là chánh kiến. Cụ thể, ta thấy được hạnh phúc và khổ đau có tính tương tức, khổ đau và hạnh phúc nương vào nhau mà có, không có hạnh phúc thì không thể có khổ đau và ngược lại. Rõ ràng, khổ đau đóng một vai trò  quan trọng trong việc xây dựng hạnh phúc như bùn nuôi sen tươi vậy.                                                                                                                                                   

 

Thấy được điều này, cách hành xử của ta cũng sẽ thay đổi theo. Một người không biết khổ đau thì sẽ không biết hạnh phúc là gì. Có trải qua khổ đau, ta mới có được sự hiểu biết và thương yêu. Hiểu biết và thương yêu làm ra chất liệu của hạnh phúc chân thật. Người nào không biết hiểu, không biết thương thì không thể có được hạnh phúc. Nếu không sợ hãi mỗi khổ đau mà can đảm ôm lấy nó, nhìn sâu vào nó, ta sẽ tìm ra được hạnh phúc. Đây gọi là cái nhìn bất nhị, cái nhìn tương tức. Tính bất nhị có mặt trong các hiện tượng như: trái và phải, thiện và ác, tốt và xấu. Nhìn vào cái này ta sẽ thấy được cái kia, và nhìn vào cái kia ta sẽ thấy được cái này. Để có những cái thấy đúng là cả một quá trình tu tập. Nếu có được cái thấy này, ta sẽ vượt thắng được cái nhìn nhị nguyên giữa khổ đau và hạnh phúc, tức là cho rằng khổ đau và hạnh phúc là hai cái khác nhau. Ta không còn ý niệm trốn chạy khổ đau để đi tìm hạnh phúc nữa. Mình có thể tìm hạnh phúc ngay trong khổ đau.

 

 

 

 

 

Nhìn đời trong chiếc gương soi

(Trích từ sách Áo vách núi của sư cô Chân Đẳng Nghiêm)

Có lần con đi theo tăng thân Bích Nham đến chùa Hoa Nghiêm để hướng dẫn khoá tu. Ngày đầu tiên, quý thầy và quý sư cô đã đi thăm Washington D.C nhưng con không đi được. Hôm đó, con bị đau nhức trong người nên phải nằm dài trên cái túi ngủ.

Hết giờ này qua giờ khác, con chỉ nhìn vào đôi mắt của mình trong một chiếc gương soi nhỏ. Tất cả những kỉ niệm khi con còn ba, bốn tuổi đã lần lượt trở về và con đã thấy rõ được từng kỉ niệm một. “Ồ, đây là biến cố mình đã đi qua với sự tuyệt vọng, sợ hãi và lo âu”. Con nhận thấy con người chúng ta, dù khi còn là một đứa trẻ đã có những cảm xúc mạnh rất sớm. Dù không gọi tên được những cảm xúc ấy nhưng đứa trẻ vẫn cảm nhận được với tất cả con người của nó.

Con nằm với chiếc gương như vậy sáu tiếng đồng hồ và nhìn vào cả chuỗi dài cuộc đời với những kỉ niệm lần lượt trôi vào kí ức. Con chỉ buông thư, mỉm cười và nhận diện chúng một cách đơn thuần. Con thú thật, trước khi đi tu, nếu con gợi lên một kỉ niệm của thời thơ ấu thì nó có thể làm con tê liệt cả một tuần. Nhưng khi con nhìn vào cuộc đời mình với hơi thở chánh niệm và toàn thân buông thư như vậy, con đã hiểu trọn vẹn hơn về đời mình, hiểu hơn về những ngọn sóng lên xuống, những thành bại, vui buồn hay hạnh phúc, khổ đau.

Sau sáu giờ nhìn lại cuộc đời mình như vậy, con đi tập thể dục hơn một tiếng rưỡi nữa. Khi các sư cô trở về, con cảm thấy mình khoẻ hơn và vui vẻ ngồi chơi với các sư chị, sư em. Sự tu học cho con một thứ quyền lực để nhìn lại đời mình một cách trọn vẹn mà tài sắc và danh vọng không thể nào mang đến được. Năng lượng của niệm, định và tuệ cho con khả năng nhìn lại cuộc đời mình, có được sự chấp nhận, sự bình an đối với những gì đã, đang và sẽ xảy ra.

Mỗi người chúng ta dù còn trẻ hay đã lớn tuổi, ai cũng có những kỉ niệm, những kí ức về chính chúng ta, về cha me, ông bà tổ tiên và về biết bao người mình đã gặp, đã thương, đã từng ân oán. Khi có những căn bệnh mãn tính, cấp tính hoặc khi chúng ta sắp lìa đời, các kí ức sẽ cuồn cuộn đi lên và liệu chúng ta có cái khả năng để nhìn chúng hay không? Hồi còn làm trong các bệnh viện, con đã chứng kiến rất nhiều bệnh nhân khi gần chết đã tỏ ra rất sợ hãi và tuyệt vọng. Đó là vì những chuyện cần làm nhưng chưa được làm xong (unfinished buisiness) đã cùng kí ức cuồn cuộn trào lên trong tâm thức họ. Trong lúc cơ thể đã yếu đuối mong manh hoặc sắp chết, người ta có thể bị cuốn đi bởi những cơn bão của hối tiếc, sợ hãi và tuyệt vọng. Có những người có quá nhiều đau đớn và sợ hãi nên phải chích morphine cho hôn mê. Họ ra đi trong tình trạng lãng quên và mê man như vậy.

Trong cuộc sống hằng ngày, nếu chúng ta có khả năng nhìn vào gương soi để thấy được con người thật của mình để thương yêu, chấp nhận, trân quý; cũng như từ từ chăm sóc được những liên hệ tình cảm với cha mẹ, con cháu, bạn bè, với chính mình, học làm tri kỉ của chính mình thì khi những đợt sóng đó đi lên, chúng ta có thể buông thư và mỉm cười được.

Bài kệ 36

Hành tịnh trí độ thế

行 淨 致 度 世

Thiên nhân mạc bất lễ

天 人 莫 不 禮

Sống thanh tịnh, vượt thoát được thời gian,

Thì cả hai giới thiên nhân đều nghiêng mình kính nể.

Hành tịnh trí độ thế: Hành tịnh là sống nếp sống tịnh hạnh. Trí độ thế là vượt được thế gian. Thời gian và không gian không còn là nhà tù của mình nữa.

Thiên nhân mạc bất lễ: Hai giới trời và người đều kính nể.

Chúng ta phải học, phải nghiên cứu kinh Pháp Cú theo phương pháp sau:

Phải ý thức được Pháp Cú là những bài kệvề giáo pháp mà chư Tổ đã thu góp từ các kinh Bụt dạy và sắp xếp lại thành từng chủ đề. Có những bài kệ nói về Niết bàn, chư Tổ đã gom lại thành một chương gọi là Phẩm Nê Hoàn. Đó là lời Bụt dạy trong kinh dưới hình thức những bài kệ. Trong khi biên tập kinh Pháp Cú, chư Tổ đã thâu tóm những bài kệ đó lại thành những chủ đề. Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại (Nê Hoàn Phẩm) là một trong những chủ đề đó. Kinh Chiếc Lưới Ái Ân mà chúng ta đã học, cũng là một chủ đề. Trong khi thu góp các bài kệ để vào một chủ đề, chư Tổ cũng đã sắp xếp lại; nhưng đó chỉ là sắp xếp tạm thời. Khi học, chúng ta phải học với con mắt của nhà khoa học, có thể Bụt nói câu này ở môi trường này và nói câu kia ở môi trường kia, chứ không phải Bụt nói câu này rồi tiếp tục nói câu kia. Có sự liên hệ giữa câu này và câu kia, nhưng đó là do chư Tổ đã sắp xếp lại. Ta phải thấy trước và đừng cho là kinh này Bụt nói theo thứ tự từ đầu tới cuối. Kinh Pháp Cú có thể đã do tôn giả Pháp Cứu (Dharmatrāta), một vị luận sư nổi tiếng của học phái Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ (Sarvāstivāda), sưu tập.

Phải phân biệt hai loại kinh. Kinh liễu nghĩa và kinh chưa liễu nghĩa. Kinh liễu nghĩa là những kinh nói về chân lý tuyệt đối (paramārtha). Những kinh nói về chân lý tương đối là kinh chưa liễu nghĩa.

Có kinh nói mình phải thoát cõi sinh tử để đi vào cõi Niết bàn. Như vậy, kinh có hàm ý: Có sinh tử và có Niết bàn tách riêng ra khỏi sinh tử. Nhưng có kinh nói: Sinh tử chỉ là ý niệm; thật ra, không có sinh, cũng không có tử, như trong Tâm Kinh. Tâm Kinh là một kinh liễu nghĩa. Có kinh nói có bốn sự thật rõ ràng: Khổ, tập, diệt, đạo. Bốn sự thật là nền tảng của giáo lý đạo Bụt. Nhưng trong Tâm Kinh nói không khổ – tập – diệt – đạo, nhìn kỹ ta thấy khổ không thể tự có một mình. Khổ làm gì có nếu không có vui, vui làm gì có nếu không có khổ. Khổ, tập, diệt, đạo là bốn sự thật; nhưng sự thật này nằm trong ba sự thật kia, ta không thể tìm một sự thật ngoài ba sự thật còn lại. Không có từng sự thật khổ, tập, diệt, đạo nằm riêng rẽ nhau. Chúng ta thấy giống như hai giáo lý chống đối nhau; nhưng thật ra chúng không chống nhau, vì một giáo lý nói về chân lý không liễu nghĩa và giáo lý kia nói về chân lý liễu nghĩa.

Khi chư Tổ đưa các bài kệ chung vào một kinh, thì có bài kệ liễu nghĩa và có bài kệ không liễu nghĩa, nên có vẻ giống như bài kệ này chống đối bài kệ kia. Ta phải thấy được điều đó và đừng hỏi tại sao câu kệ này không phù hợp với câu kệ kia. Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại có 36 bài kệ. Là một học giả ta phải có khả năng thấy được bài kệ nào là liễu nghĩa và bài kệ nào là không liễu nghĩa. Kinh liễu nghĩa hay, mà kinh không liễu nghĩa cũng hay. Mỗi loại kinh có chức năng của nó. Có thể, ta phải bắt đầu bằng các kinh không liễu nghĩa, rồi từ từ ta đi tới kinh liễu nghĩa. Ta phải công nhận có bốn sự thật khổ – tập – diệt – đạo; khi nắm vững rồi, ta mới có thể vượt qua. Ngay từ đầu nếu ta nói không có khổ – tập – diệt – đạo thì rất khó.

Có những bài kệ có vẻ như không đi theo những bài kệ khác trong kinh và ta cho rằng trong kinh có sự bất nhất. Là học giả, ta biết đó là những bài kệ bất liễu nghĩa, nên không thể so sánh với những bài kệ liễu nghĩa; nhưng nhờ bất liễu nghĩa mà ta có thể đi tới liễu nghĩa. Ta phải có khả năng nhận diện những bài kệ không liễu nghĩa, nhưng những bài kệ ấy có vai trò giúp ta đi tới chỗ liễu nghĩa. Phải tìm cho ra. Một hành giả cũng là một học giả, một nhà nghiên cứu thông minh. Phải học hỏi theo tinh thần khoa học, chứ không phải người ta nói gì ta đều nghe theo không điều kiện.

Có những bài kệ nói về không dơ, không sạch. Trong Niết bàn không có ý niệm dơ và sạch, trong và ngoài, đến và đi, khổ và lạc. Trong khi đó, có những bài kệ nói: Thân là bất tịnh, thì tại sao lại tìm hạnh phúc ở chỗ dơ bẩn? Theo nguyên tắc của kinh liễu nghĩa, không có gì là tịnh hay bất tịnh. Chúng ta có hai con đường để đi tới, vì vậy trước tiên chúng ta phải đọc từ đầu tới cuối, thấy được bài kệ nào là liễu nghĩa và bài kệ nào chưa liễu nghĩa nhưng cũng có công năng đưa tới liễu nghĩa.

Bốn bài kệ đầu xưng tán Niết bàn, bài kệ thứ nhất nói Niết bàn là cái cao nhất (Nê Hoàn là tối thượng), bài kệ thứ hai nói Niết bàn là tối khoái, bài kệ thứ ba thì dùng chữ tối lạc và bài thứ tư dùng chữ tối an. Bốn bài kệ này có mục đích cho Niết bàn là cái quan trọng nhất. Bài kệ thứ năm hàm ý: Tuy Niết bàn có đó, nhưng mình phải biết cách mới có thể đi vào. Sự thật là như vậy: Tịnh độ, Niết bàn, tình thương, hạnh phúc có đó, nhưng có người loay hoay mãi cũng không đi vào được. Ta phải biết cách đi vào, vì vậy cho nên ta phải cần thực tập. Bài thứ sáu là một hình ảnh rất thi ca, tôi cho đây là bài kệ đẹp nhất trong kinh:

Hươu nai nương đồng quê

Chim chóc nương trời mây

Sự vật nương phân biệt mà biểu hiện

Các bậc chân nhân nương vào Niết bàn để sống thảnh thơi

Niết bàn có đó, Niết bàn không phải là chuyện tương lai. Nirvāna, trong ngôn ngữ nhân gian, có nghĩa là mát lạnh, là trạng thái không bốc cháy. Những phiền não như đam mê, giận hờn, thù hận bốc cháy làm ta khổ đau. Khi ngọn lửa phiền não tắt thì ta thấy mát, đó là Niết bàn. Định nghĩa đầu tiên của Niết bàn là sự vắng mặt của ngọn lửa phiền não (extinction of fire). Nhưng ngọn lửa phiền não cháy được là nhờ nhiên liệu (fuel), nhiên liệu là sự u mê của mình, tức những nhận thức sai lầm của mình. Ta thấy có sinh, diệt, trong, ngoài, ta và người. Cái thấy lưỡng nguyên đó cần phải lấy đi, ngọn lửa mới tắt. Định nghĩa thứ hai của Niết bàn là sự tắt ngấm của những tri giác sai lầm (extinction of wrong perceptions), những ý niệm như tôi và anh là hai thực tại riêng biệt, thân và tâm là hai cái hoàn toàn khác nhau, chủ thể và đối tượng là hai cái tách rời nhau, sinh và diệt, có và không là những cái chống đối nhau. Những ý niệm đó nhen cho ngọn lửa cháy lên, nên chúng ta phải dập tắt mọi ý niệm.

Bài kệ thứ sáu cho ta thấy Niết bàn là cái gì đang có mặt cho mình, chứ không phải là cái ta đi tìm cầu trong tương lai ở một không gian khác; cũng như đợt sóng đã là nước và nó không cần đi tìm nước ở một nơi khác. Đợt sóng đau khổ, vì không biết mình là nước, nó sợ hãi những lúc lên xuống, lúc bắt đầu, khi chung cục. Biết mình là nước rồi thì lên cũng vui, mà xuống cũng vui; có cũng vui, không cũng vui; cao cũng vui, thấp cũng vui. Niết bàn là cái đã có sẵn, ta chỉ cần tiếp xúc. Đợt sóng quá bận rộn, nó không tiếp xúc được với bản chất của nó là nước nên nó đau khổ.

Hai định nghĩa về Niết bàn được lặp lại nhiều lần trong nhiều bài kệ. Ý niệm về ngã, mình có cái ta riêng và người kia có cái ta riêng, đưa tới sự so sánh hơn người, thua người hay bằng người và tạo ra sự đau khổ. Trong các bài kệ được coi là liễu nghĩa có bài kệ nói về sự vắng mặt của các phiền não và có bài kệ nói về sự vắng mặt của các ý niệm sai lầm. Chúng ta phải đọc lại kinh và nhận diện bài kệ nào nói về sự vắng mặt của phiền não và bài kệ nào nói về sự vắng mặt của những ý niệm. Cuối cùng, ta thấy có những chỉ dẫn rất cụ thể để đi vào Niết bàn. Nhận diện được và trở về Niết bàn trong đời sống hàng ngày như chim trở về trời, cá trở về sông, hươu nai trở về đồng quê. Ta phải tìm về Niết bàn trong đời sống hàng ngày, nhưng làm sao đi về được Niết bàn? Có những bài kệ khác dạy cách đi về Niết bàn như sống đời phạm hạnh, giữ giới, quán thân bất tịnh.

Ông già Noel rất cần thiết cho mình. Khi lớn lên, ta nhận ra rằng không có ông già Noel; nhưng lúc còn nhỏ, ta rất hạnh phúc tin rằng vào buổi sáng thức dậy thì sẽ thấy có quà của ông già Noel trong chiếc vớ. Trong lúc ngủ, ông già Noel vào nhà bằng cách chui xuống theo ống khói. Ba má cũng giả bộ tin theo, để làm cho con cháu hạnh phúc: “Con ngủ đi! Nếu con không ngủ, ông già Noel sẽ không tới!Ba mẹ không tin, nhưng nuôi dưỡng niềm tin đó để làm hạnh phúc cho con cháu. Trẻ con lớn lên biết ba má nói dối, nhưng đến khi làm ba má, chúng cũng lại nói dối với con cháu. Ông già Noel là một sự nói dối trường kỳ từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Ta đi vào chùa lạy Phật, má nói với ta trong chùa có Phật. Chỉ có vào chùa mới gặp được Phật, ta đem nào nhang, nào đèn, nào chuối, nào cam lên chùa cúng Phật. Chỗ ta đi tìm Phật là trong chùa; nhưng khi lớn lên, ta thấy không đúng như vậy. Trong chùa, chỉ có tượng Phật, ta tìm ra sự thật rằng Phật là ở trong lòng. Những người có tu, sớm muộn gì cũng tìm ra sự thật Phật không phải ở trong chùa. Chư Tổ và những người tu đều nói Phật tức tâm, Phật ở trong tâm, còn Phật ở trên bàn thờ trong chùa là một cách nói dối giống như nói có ông già Noel.

Khi chết, ta đi về Tây phương và gặp Bụt ở đó, hay ta lên thiên đường ngồi dưới chân Thượng đế, đó là một thứ ông già Noel. Nếu tu học đàng hoàng, ta biết Bụt có ngay trong tâm mình bây giờ và ở đây. Trong đạo Bụt, có những người tu tập, thực chứng được điều đó và cho chuyện Phật ở Tây phương, hay Bụt trên bàn thờ chỉ là chuyện ông già Noel. Họ thấy rất rõ Bụt và Tịnh độ đang có mặt ngay trong giây phút hiện tại, trong con người của mình. Những nhà tu thần bí tìm ra Chúa không phải ở trên trời, mà có ngay ở đây trong tâm hồn của mình và Thiên quốc cũng có mặt ngay bây giờ.

Chúng ta ở Làng Mai, đã lặp lại nhiều lần: The Pure Land is here and now and Amitabha Buddha is your own nature. Chư Tổ cũng có nói: Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ. Ý niệm nước Cực lạc và Bụt Di Đà ở phía Tây, chết rồi ta mới sang bên đó… cũng có thể xem như là chuyện ông già Noel cho những người mới bắt đầu. Nếu tu đàng hoàng, ta không cần phải chết rồi mới đi qua bên đó. Đức Di Đà và cõi Cực lạc có thực trong phút giây hiện tại. Niết bàn không phải là cõi rất xa mà ta chỉ tới được sau khi chết, Niết bàn là cái đang có bây giờ và ở đây. Niết bàn là tự tánh của ta, ta phải đặt Niết bàn đúng chỗ ở đây bây giờ. Trong kinh Tạp A Hàm có dùng danh từ “Hiện pháp Niết bàn” (Dṛṣṭa-dharma-nirvāna), tức Niết bàn trong giây phút hiện tại. Ta không muốn là trẻ con, bị lừa bởi chuyện ông già Noel, ta phải bước thêm một bước để thấy Niết bàn đó đang có mặt trong giây phút hiện tại, như trời mây đang có mặt cho chim, đồng quê đang có mặt cho hươu, dòng sông đang có mặt cho cá. Niết bàn đang có mặt cho ta, ta phải biết cách trở về Niết bàn trong sự sống hàng ngày.

Khi thở hay bước đi trong chánh niệm thì năng lượng của niệm – định – tuệ mở cửa cho mình bước vào cõi không sinh diệt, không phiền não. Sinh diệt chỉ là những ý niệm của mình. Thượng đế có thể được nhận thức như tự tánh bất sinh bất diệt, mát mẻ, không phiền não, đang có mặt cho mình ngay bây giờ. Thay vì đọc theo kiểu ông già Noel: “My Father’s in heaven” ta có thể đọc “My Father’s right in us”. Chữ Father là một ý niệm; tên Vô lượng thọ, Vô lượng quang của Bụt cũng chỉ là một cái tên; Allah hay God đều là những cái tên. Cái quan trọng là bản chất, là cái vô sinh bất diệt, mát mẻ, không phiền não đang có mặt cho ta.

Kinh này có tên Rong Chơi Trời Phương Ngoại. Nếu đang bị ngọn lửa phiền não đốt cháy, hay đang bị những kỳ thị, những tri giác sai lầm làm cho sợ hãi, lo lắng, buồn phiền, thì ta không có Niết bàn. Con đường đi vào Niết bàn là con đường rũ bỏ những phiền não, kỳ thị đó. Nhân loại cần phải bước thêm bước nữa, không thể bám mãi vào các ông già Noel. Thượng đế không thể được diễn tả bằng ý niệm có và không, trong và ngoài, ta và người. Bất cứ một ý niệm nào cũng không thể diễn tả được Thượng đế; cũng như không có ý niệm nào có thể diễn tả được Niết bàn, vì Niết bàn là sự dập tắt tất cả những ý niệm, trong đó có ý niệm ta và người, sanh và diệt, có và không. Rất buồn cười khi nói có Thượng đế hay không có Thượng đế. Thượng đế không thể được diễn tả bằng ý niệm có hay không. Thượng đế hay Niết bàn vượt khỏi ý niệm có không.

Tây phương hiện nay có hiện tượng gọi là double belonging, tức là vừa theo đạo Chúa vừa theo đạo Bụt, mà không có sự mâu thuẫn, giằng co. Có nhiều vị linh mục đang sống và thực tập như thế, trong đó có thượng tọa Thích Chân Pháp Đệ của mình, và linh mục Paul F.Knitter, tác giả cuốn sách Without Buddha, I could not be a Christian (Nếu không có Bụt thì tôi đã không thể làm một người tín hữu Cơ đốc). Truyền thống này giúp làm sáng thêm truyền thống kia và ngược lại. Nhân ngày lễ Noel, xin quý vị quán chiếu về đề tài này. Đây là vấn đề văn hóa. Theo được con đường này, chúng ta chấm dứt được kỳ thị, chia rẽ, đem lại sự đoàn kết và hòa bình cho thế giới.

Bài kệ 35

Khí cấu hành thanh tịnh

棄 垢 行 清 淨

Khả dĩ hoạch đại an

可 以 獲 大 安

Y tuệ dĩ khước tà

依 慧 以 却 邪

Bất thọ lậu đắc tận

不 受 漏 得 盡

Buông bỏ được cấu uế, đi trên đường thanh tịnh

Thì có thể đạt tới cái an tĩnh lớn

Nương tuệ giác, bỏ tà kiến

Không tiếp nhận gì nữa thì đạt được tới trạng thái lậu tận.

Khí cấu hành thanh tịnh: Buông bỏ, trừ diệt những nhiễm ô, hành động cho trong sạch, sống một nếp sống thanh tịnh, trì giới.

Khả dĩ hoạch đại an: Có khả năng đạt tới an ổn lớn.

Y tuệ dĩ khước tà: Chữ tuệ có thể được hiểu là các bậc có trí tuệ lớn tức chư Bụt và chư Bồ tát. Ta đừng chung đụng với những người thiếu đạo đức, không có trí tuệ mà phải nương vào những bậc thức giả (y tuệ) để từ bỏ những sai quấy (dĩ khước tà).

Bất thọ lậu đắc tận: Bất thọ là không tiếp nhận. Lậu là rỉ ra, hữu lậu là còn đi quanh quẩn trong vòng luân hồi, lậu đắc tận là không còn phiền não. Lậu tận thông là phép thần thông diệt được tất cả những phiền não trong quá khứ. Không tiếp nhận những cái tiêu cực thì những phiền não không còn.

Bài kệ 34

Hình hủ tiêu vi mạt

形 腐 銷 為 沫

Tuệ kiến xả bất tham

慧 見 捨 不 貪

Quán thân vi khổ khí

觀 身 為 苦 器

Sinh lão bệnh vô thống

生 老 病 無 痛

Hình hài này một khi đã hủy hoại sẽ trở thành tro bụi

Kẻ có tuệ biết buông bỏ không bám víu

Quán chiếu thấy được thân này là một công cụ mang toàn hệ lụy

Thì sinh, lão, bệnh, tử sẽ không còn là chuyện đau buồn.

Hình hủ tiêu vi mạt: Chữ tiêu có bộ kim 金 , tức chất kim loại, tiêu là nấu cho chảy ra.

Thân hình của mình thế nào cũng phải hư nát, tiêu hoại, trở thành bụi. Thánh Kinh nói: Hình hài này do cát bụi làm ra và nó sẽ trở về cát bụi.

Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi

Để một mai tôi về làm cát bụi

(Trịnh Công Sơn)

Tuệ kiến xả bất tham: Người có trí tuệ thấy như vậy nên không bám víu, không tham tiếc thân xác này.

Quán thân như khổ khí: Quán chiếu thấy thân thể mình là một công cụ mang theo nhiều hệ lụy. Thấy được thật tướng của hình hài, ta không còn bị kẹt vào nó.

Sinh lão bệnh vô thống: Sinh, lão, bệnh, tử không còn là sự lo sợ nữa. Ta sợ sinh, lão, bệnh, tử tại vì ta còn bị kẹt quá nhiều vào hình hài này. Nếu thấy được ta không chỉ là hình hài này thì lo sợ sẽ không còn nữa.

Bài kệ 33

Khổ đa nhi lạc thiểu

苦 多 而 樂 少

Cửu khổng vô nhất tịnh

九 孔 無 一 淨

Tuệ dĩ nguy mậu an

慧 以 危 貿 安

Khí y thoát chúng nạn

棄 猗 脫 眾 難

Hình hài này đem lại khổ lụy nhiều mà an vui ít

Trong chín kẽ hở, không một kẻ hở nào thanh khiết

Người có trí tuệ biết bỏ nguy, giữ an

Chấm dứt ba hoa, trút được mọi khổ nạn.

Khổ đa nhi lạc thiểu: Chúng ta nói tới hình hài, hình hài đem lại ít an lạc mà nhiều đau nhức.

Cửu khổng vô nhất tịnh: Cửu khổng là chín lỗ: hai lỗ tai, hai mắt, hai lỗ mũi, miệng, hai lỗ phía dưới. Chín lỗ thường tiết ra những chất không thơm, không sạch. Đây là bất tịnh quán, quán thân bất tịnh.

Tuệ dĩ nguy mậu an: Tuệ là những người thông minh có trí tuệ, người thức giả. Mậu là trao đổi (mậu dịch), đổi nguy lấy an.

Khí y thoát chúng nạn: Khí là buông bỏ. Trong đời có những phù phiếm, ba hoa vô ích. Ta buông bỏ tất cả, chấm dứt ba hoa và do đó thoát được mọi khổ nạn (thoát chúng nạn).

Bài kệ 32

Yếu tại vô thức tưởng

要 在 無 識 想

Kết giải vi thanh tịnh

結 解 為 清 淨

Thượng trí yếm hủ thân

上 智 饜 腐 身

Nguy thúy phi thật chân

危 脆 非 實 真

Quan trọng nhất là đừng bám vào tri giác phân biệt

Khi cả hai cái cột và mở đều đã thanh tịnh

Thì bậc thượng trí không còn bị kẹt vào cái hình hài dễ tan vỡ này

Và thấy nó là một cái gì không chắc thật

Yếu tại vô thức tưởng: Tưởng là tri giác. Trong nhận thức của mình có tri giác, tri giác đó có thể sai lầm. Những tri giác như sinh-diệt, có-không, ta-người, bạn- thù gây ra chia rẽ, kỳ thị và tạo ra hận thù, sợ hãi. Quan trọng nhất là vượt thoát những tri giác đó.

Kết giải vi thanh tịnh: Kết là buộc lại, giải là mở ra. Cột và mở, tuy vậy mà không chống đối nhau, không còn sự phân biệt giữa cột và mở, thì có sự thanh tịnh. Bàn tay mình có thể nắm lại, hay xòe ra, nhưng nắm hay xòe cũng là bàn tay. Ta phải thấy được bàn tay, không phải vì nó nắm lại mà ta muốn tiêu diệt bàn tay. Người kia có thể là thiện hay ác, nhưng vẫn là con người. Ta phải làm thế nào để giúp người đó trở thành thiện, chứ không nên tiêu diệt người đó. Đó là cái thấy của Bụt. Kẻ thù ta không phải là con người, kẻ thù ta là cuồng tín, tị hiềm, kỳ thị, sợ hãi, đam mê. Ta thoát khỏi nắm và mở, nắm là bàn tay mà mở cũng là bàn tay. Thấy được như vậy thì ta khỏe, ta không còn hận thù, khổ đau nữa.

Thượng trí yếm hủ thân: Hủ là nát ra. Bậc có trí tuệ lớn không còn kẹt vào hình hài dễ tan vỡ này, không cho hình hài này là mình.

Thân này không phải là tôi

Tôi không bị kẹt vào nơi thân ấy

Tôi là sự sống thênh thang

Tôi chưa bao giờ từng sinh

Cũng chưa bao giờ từng diệt

Chúng ta có hình hài, tư tưởng, lời nói. Những gì chúng ta tạo tác ra hàng ngày như tư tưởng, lời nói và hành động đã và đang lên đường. Ta không chỉ có mặt trong hình hài này, mà ta còn có mặt ở ngoài hình hài, ta có trong ba mẹ, trong con cháu, trong thế giới. Hình hài này sẽ tan rã. Thấy mình chỉ là hình hài này là một tà kiến. Những tư tưởng, lời nói, hành động mình chế tác ra đang tiếp tục mình. Người thượng trí thấy hình hài này không phải mình, mình lớn hơn hình hài này rất nhiều. Mai mốt hình hài này sẽ hủ nát, nhưng ta vẫn tiếp tục và ta phải tiếp tục cho đẹp. Muốn tiếp tục cho đẹp thì thân, khẩu, ý phải đi theo hướng hiểu và thương, phải có giới, định và tuệ.

Nguy thúy phi thật chân: Thấy nó là một cái gì không chắc thật. Hình hài này dễ tan vỡ, dễ bị tai nạn.