Lời nguyện cầu tìm đất sống

lênh đênh ngoài sóng gió

thuyền nhỏ giữa đại dương

quyết tâm tìm đất sống

đói lạnh bao ngày đường

cng tôi là bọt biển

trôi dạt giữa mênh mông

cng tôi là hạt bụi

trong không gian vô cùng

tiếng chúng tôi lạc mất

trong gió rít từng không

trên thuyền không nước uống

trên thuyền hết thức ăn

con chúng tôi kiệt sức

khóc rã và lịm dần

cng tôi khao khát Đất

nhưng chẳng được tới gần

mặc sức mà kêu cứu

u bè vẫn dửng dưng

bao nhiêu thuyền đã lật

vì sóng gió bất thần

bao nhiêu là mạng sống

đã chìm lòng đại dương

Ca Ki Tô có nghe

lời nguyện cầu rướm máu?

Pht Quan Âm có nghe

li kêu cứu không ngừng?

loài người ơi có nghe

tiếng gọi từ hố thẳm

đt liền ơi có biết

tâm sự này hay không?

 

xin loài người có mặt

xin đất liền dang tay!

cho chúng tôi tìm thấy

Hy Vọng trên đất này!

Bài này Thầy viết nhân danh người tị nạn bằng đường biển. Các đồng bào tị nạn đường biển trên các chiếc Leapdal và Roland đều có bài này cả bằng tiếng Việt lẫn tiếng Anh. Thầy dặn họ “Khi chiếc Koojara qua tới Úc thì xin đồng bào đọc bài kinh này và trao bản tiếng Anh cho giới báo chí có mặt”. Bản Anh văn Thầy cũng cho gửi đến các tổ chức tôn giáo và nhân bản ở khắp nơi trên thế giới. Bài này được một số tạp chí ngoại quốc và Việt ngữ đăng tải nhưng không đề tên tác giả có lẽ là vì họ không biết là của ai. Đây là bản Anh văn:

A Prayer for Land

lost in the tempests

out on the open seas

our small boats drift

we seek for land

during endless days and endless nights

we are the foam

floating on the vast ocean

we are the dust

wandering in endless space

our cries are lost

in the howling wind

without food, without water

our children lie exhausted

until they cry no more

we thirst for land

but are turned back from every shore

our distress signals rise and rise again

but the passing ships do not stop

how many boats have perished

how many families lie beneath the waves

Lord Jesus, do you hear the prayer of our flesh?

Lord Buddha, do you listen to our cries?

o fellow humans, do you hear our voice

from the abyss of death?

o solid shore

we long for you!

we pray for Mankind to be present today!

we pray for Land to stretch its arms to us!

we pray that Hope be given us

today, from this very Land!

Chúng ta hãy trả lời

một bông sen nở trên đại dương

bé sinh ra

giữa muôn trùng sóng nước.

giữa khuya này, đêm ba mươi tháng Giêng

hai trăm tám mươi mốt người trên thuyền lặng im

nghe sóng đêm cầu nguyện.

tám người thủy thủ

yên lặng cho thuyền hướng về phương Nam

nước uống đã cạn rồi

tàu chạy về gần cù lao Tiên An Môn

cầu cứu.

biển đêm

sóng vỗ mạn thuyền

trăng lặn lâu rồi

ánh sao soi đường cho bé vào đời

dưới kia nhấp nhô đầu sóng bạc.

một bà mẹ nằm trên boong tàu

chuẩn bị cho bé vào đời,

cả thuyền không có một phòng riêng:

người bác sĩ

cũng là giới lênh đênh bèo nước.

tiếng khóc chào đời của bé

bị át đi trong tiếng gió

người mẹ mỉm cười yếu ớt

bác sĩ đứng lên loan báo tin mừng

hai trăm tám mươi người vỗ tay.

vị thuyền trưởng hô to:

chúng ta đi về phương Nam

Dân số chúng ta trở thành hai trăm tám hai

xin mọi người cảm ơn trời Phật.

chiếc máy điện thoại nối liền

chuyển niềm vui lên lục địa

khuya nay trên đất liền có người hay tin

bé đã chào đời

bé Rolanda Nguyễn Thị

bé từ đâu tới nhỉ?

và bé đang đi về đâu?

tại sao lại chọn nơi ra đời giữa đại dương

trên chiếc thuyền lưu lạc?

bé không hỏi

nhưng chúng ta hãy trả lời

ai nỡ để bông sen nở nửa đêm

chìm sâu lòng đại dương

bạn ơi hãy trả lời cho chúng tôi

cng ta phải đem bé đi về hướng nào?

tôi cần bàn tay bạn.

Bài này Thầy viết hồi còn làm Giám đốc Chương trình Cứu trợ người tị nạn trên biển, văn phòng đặt tại Singapore, sau khi nghe tin em bé Nguyễn Thị Rolanda vừa sinh trên chiếc tàu cứu trợ Roland. Ba má em đặt tên em là Nguyễn Thị Roland để đánh dấu sự kiện em sinh trên chiếc tàu này, trên biển khơi, nhưng Thầy đã đề nghị chữa lại thành Rolanda cho cái tên bớt có tính cách “nam nhi” đi một chút. Hồi đó ngoài chiếc Roland, chương trình Máu Chảy Ruột Mềm của tổ chức Tôn giáo Thế giới và Hòa bình (World Conference on Religion and Peace) do Thầy điều hành còn có các chiếc Sài Gòn 200 do Allan Crandon làm thuyền trưởng và chiếc Leapdaal do Vương Hồ điều khiển nữa. Chiếc Roland do Mc Mahon làm thuyền trưởng. Chiếc này chở hai trăm tám mươi mốt người tị nạn. Chiếc Leapdal chở trên ba trăm người. Còn chiếc Saigon 200 rất nhỏ, chạy mau, dùng để khám phá sự có mặt của những thuyền tị nạn. Chương trình bắt đầu tháng Chạp năm 1976 sau khi hội nghị Tôn giáo Á châu và Hòa bình bế mạc tại Singapore ngày 30 tháng 11 năm 1976. Tuy Thầy làm giám đốc điều hành của chương trình, chức vụ giám đốc quản trị lại do Giáo sư Yoshiaki Iisaka đứng và thủ quỹ là các ông Willie Tay Kim San và Mahaver Singh. Tôi được hội nghị đánh điện mời làm phụ tá điều hành cho Thầy. Ngoài ra, trong Ủy ban còn có bác sĩ Choy Leng, có Nancy Chug, Mobi Quynh Hoa, Luc Fogarty, Diễm Trang, Bob Allan, Vương Hồ, Kirsten Roep và anh Mừng.

Hồi đó trên thế giới chưa mấy ai nghe nói đến thuyền nhân (boat people). Các tàu bè qua lại vịnh Xiêm La không dám vớt người tị nạn bởi vì không có bến nào chịu cho người tị nạn lên. Ghe đánh cá vớt người tị nạn thì bị phạt và bị tù. Tàu nào vớt người tị nạn sẽ không được phép cập bến dỡ hàng, lấy dầu, lấy nước. Nếu tàu ấy cần ghé Singapore gấp để dỡ hàng, chủ tàu sẽ phải đóng tiền thế chân là mười ngàn Mỹ kim mỗi đầu người tị nạn. Tháng 12 năm 1976 có một tàu Nhật chở hàng hóa Yokohama – Singapore lỡ vớt 92 người tị nạn. Khi cần ghé Singapore ba ngày để bốc hàng, tòa Đại sứ Nhật đã phải đóng cho chính phủ Singapore một triệu Mỹ kim tiền thế chân, phòng khi dân tị nạn lên trốn vào xứ này, chính phủ Singapore sẽ có sẵn tiền bồi thường. Những người đã vào được trại tị nạn là những người đã khôn ngoan đục chìm thuyền của họ trước khi nhà chức trách địa phương bắt được họ. Các trại tị nạn hồi đó cực khổ hơn bây giờ nhiều. Chỗ cư trú có rắn rít rất nhiều; thực phẩm và thuốc men thiếu thốn; lính địa phương đánh đập và thỉnh thoảng cũng có hãm hiếp phụ nữ tị nạn mà không ai dám làm gì cả. Có trại đêm nào cũng phải cung cấp đàn bà cho cảnh sát địa phương, nếu không thì cả trại bị đối xử tàn tệ. Chúng tôi đã phái người đi điều tra về tất cả các trại hồi đó tại các nước Nam Dương, Mã Lai Á và Thái Lan. Có nhiều thuyền tị nạn chỉ được phép neo tại gần trại mà người không được lên bờ. Họ đợi đêm về để bơi lên, vào bờ, bán bớt vật dụng để mua thực phẩm. Hồi đó hải tặc chưa có, hoặc nếu có thì ít lắm.

Đại diện Cao ủy Tị nạn hồi đó làm việc lơ lửng lắm, chớ không như bây giờ. Chiếc Sài Gòn 200 khám phá ra được hai mươi người tị nạn trên đảo Pulau Tioman. Những người này tới đây hơn một tháng rồi mà Cao ủy Tị nạn chưa bao giờ tới thăm họ hoặc gửi cho họ một hạt gạo nào cả. Sau này họ được chiếc Roland đón. Ông Samtap Kumar đại diện Cao ủy Tị nạn bắt lỗi tại sao rước người tị nạn của Liên hợp quốc bảo trợ. Thầy mỉm cười nói “Các ông chưa từng tới thăm họ, cũng chưa từng đem thực phẩm tới cho họ, vậy ông bảo trợ nỗi gì?”. Ông Kumar đáp: “Chúng tôi có tên tuổi họ trong hồ sơ do Hồng thập tự Mã Lai cho”. Thầy nói: “Nếu ông có tên của tất cả các vì sao trên trời, thì ông là chủ sở hữu của tất cả các vì sao ấy sao?”

Ông Kumar chống đối chương trình Máu Chảy Ruột Mềm vì chương trình vạch rõ cho báo chí thấy sự làm việc bê bối của tổ chức ông. Chủ đích của thầy Nhất Hạnh là gây một tiếng vang lớn trên quốc tế về thảm trạng của người tị nạn đường biển, và do đó phương pháp của Thầy rất táo bạo: cho chở chừng vài ngàn thuyền nhân tị nạn đến Úc và đến đảo Guam, địa phận Hoa Kỳ, để đặt các nước Úc và Mỹ vào thế phải chấp nhận người tị nạn và để kích thích báo chí nói nhiều về số phận người tị nạn. Chương trình này táo bạo lắm và phải được thực hành một cách nghiêm mật. Theo chương trình, người tị nạn được ba chiếc Sài Gòn 200, Roland và Leapdal vớt lên sẽ được đón về chiếc Koojara cặp bến Perth thì mới cho báo chí quốc tế biết. Ai ngờ các văn phòng tại Tokyo và New York của tổ chức World Conference on Religion and Peace không chịu giữ bí mật chương trình này và đem cho báo chí biết trước. Ông Kumar và các tòa Đại sứ Úc và Mỹ tại Singapore bèn họp nhau lại để chống. Họ gây áp lực với Homer Jack, tổng thư ký của tổ chức Tôn giáo hòa bình. Ông Jack nghe theo lời của Kumar yêu cầu thầy Nhất Hạnh hủy bỏ chuyện chở người đi Úc và đi Mỹ và nếu cần thì trao trách nhiệm điều hành chương trình cho ông Jack. Nhưng toàn ban điều hành nhất định không chịu. Cuối cùng ông Jack và ông Samp-tap Kumar của Liên hợp quốc đã khéo léo vận động để chính quyền Singapore trục xuất Thầy ra khỏi xứ này. Một đêm lúc hai giờ khuya, cảnh sát Singapore tới văn phòng, tịch thu thông hành của Thầy và ra lệnh buộc Thầy phải rời khỏi Singapore trong vòng ba mươi sáu giờ. Họ báo ngày mốt tới phi trường, họ sẽ trao thông hành lại trước khi lên máy bay. Sau đó, nhờ ông Jacques Gasseau, đại sứ Pháp tại Singapore hết lòng can thiệp, họ mới nhượng bộ để Thầy ở thêm mười ngày. Thời gian ấy chỉ đủ để sắp xếp công việc để cho tôi thay Thầy điều hành trọn Ban Điều hành. Hôm rời Singapore, Thầy rất buồn nhưng vẫn còn yên tâm vì nghĩ tôi cũng tạm quen việc và có thể thay Thầy quán xuyến mọi thứ. Nhưng không ngờ, Thầy vừa lên phi cơ thì đến phiên tôi bị chính quyền Singapore yêu cầu rời khỏi nước này trong vòng ba ngày sau đó. Tôi đành phải trao quyền điều hành cho ông Jack. Ông này quả quyết là sở dĩ ông muốn giữ quyền điều hành chương trình là vì Liên hợp quốc hứa sẽ cấp chiếu khán cho tất cả gần sáu trăm người tị nạn trên hai chiếc tàu bay đi định cư trong vòng ba tuần lễ, khỏi phải đi bằng chiếc Koojara sang tận Úc cho vất vả! Giải thích cách nào, ông Jack cũng không tin đó là những lời hứa láo. Hoặc giả có biết trước là lời hứa láo ông cũng giả đò tin để có cơ đoạt quyền điều hành chương trình và làm vừa lòng Liên hợp quốc và hai tòa Đại sứ Úc và Hoa Kỳ.

Hôm tôi bị bắt buộc rời khỏi Singapore, quả thực như giây phút tôi sắp đắm tàu. Có lẽ tôi sẽ sung sướng nếu được ở luôn trên một trong hai chiếc tàu ấy để chia sẻ gian nguy với đồng bào nằm bềnh bồng trên biển mà tương lai không biết đi về đâu. Sau khi tôi bị buộc rời Singapore, bác sĩ Choy Leng, người nước này, mà cũng bị bắt buộc rời chiếc tàu Leapdal. Mobi và Vương Hồ điều khiển chiếc Leapdal cũng bị trục xuất trong vòng hai tuần sau. Chúng tôi đi rồi, ông Jack chỉ xin được chiếu khán cho 24 người đi Pháp, 6 người đi Áo, 3 người đi Tây Đức và 3 người đi Úc. Hơn 500 người bị giữ lênh đênh trên hai chiếc tàu gần bốn tháng mới được đưa vào trại và nằm chờ tại trại cả năm mới được đi định cư…

Sau đó về Paris, với sự hỗ trợ của hội International Boat People, trụ sở đặt tại Hòa Lan, Thầy tổ chức một chương trình cứu trợ nhỏ chỉ dùng một chiếc thuyền đánh cá Thái để ra biển, không mang biểu ngữ cứu trợ nhưng trên thuyền có đủ thực phẩm, nước ngọt, hải bàn, dầu và hải đồ để hướng dẫn ghe đồng bào đến gần các trại tị nạn hầu tránh việc bị đuổi xua. Chiếc thuyền này tên là Shantisuk. Chương trình đó tôi điều hành và anh Lục làm thuyền trưởng. Chúng tôi chỉ hoạt động được tám tháng. Sau đó vì hải tặc phát sinh nhiều quá, thấy nguy hiểm cho nhân viên cho nên Thầy ra lệnh chấm dứt chương trình.

Chương trình Máu Chảy Ruột Mềm không thành công ở chỗ chiếc Koojara không chở người tị nạn sang được tới Úc và tới Guam, nhưng đã gây khá nhiều chấn động trên quốc tế. Chương trình này được phát khởi bằng một bài thơ Thầy đọc ở hội nghị Tôn giáo Á châu và Hòa bình họp tại Singapore. Bài thơ này Thầy viết bằng Anh ngữ; sau khi nó được hội nghị chấp thuận, hãng thông tấn Agence France Presse đã đánh trọn nguyên văn bài thơ bằng Anh văn đi các nơi:

The Boat People

you stay up late tonight my brothers-this I know

because these boat people

on the high seas

never dare to go to sleep

I hear the cry of the winds

around me

total darkness

yesterday they threw the dead bodies

of their babies and children

in the water.

their tears once again fill up

the ocean of suffering.

in what direction are their boats drifting

at this moment?

you stay up very late tonight, brothers

because these boat people

on the high seas

are not certain at all that mankind exists

because their loneliness

is just immense.

the darkness has become one with the ocean

and the ocean, an immense desert

you stay up all night, brothers

and the whole universe

clings to your being awake.

Có điều buồn cười là AFP lại ghi rằng tác giả bài thơ là ông Isaka, người mà được Thầy trao cho bài thơ trước tiên.

Bé Rolanda năm nay (1979) đã hơn ba tuổi, không biết đã được định cư nước nào. Tôi có gặp ba má bé ở trên chiếc Roland, có trao tận tay anh chị bài thơ của Thầy và có chụp hình chung với bé và mẹ bé. Tấm hình đó tôi còn giữ. Bài Chúng ta hãy trả lời cũng viết bằng tiếng Anh để gửi cho các tổ chức từng ủng hộ chương trình Máu chảy ruột mềm. Bản tiếng Anh như sau:

a lotus just bloomed on the ocean

a baby is born

on the waves.

at mid-night of this January the 30th

two hundred and eighty one people onboard

(their eyes on the ocean)

silently prayed.

an eight member crew

directed the Roland towards the south

the water supplies are out

and the boat is heading to tioman island

hoping to refill the tank.

 

the tapping of the waves on the sides

punctuated their prayers

the moon had already disappeared

only the light of the stars

shone the way for you to come to life, little one.

down there, the waves were shaking their silvery heads.

the mother, lying on the bare deck,

did not have a private room

to welcome her new born

and the doctor

is also one of the wandering people on boats.

the cries of the baby entering life

were swept away by the winds.

the mother smiled faintly

and the doctor stood up to address the people

announcing the news that was good.

281 people clapped their hands,

the captain announced aloud:

“we are heading south.

our population is now 282

let us address our thanks to Buddha, to God”

the small radio linked the ship with the shore

and transmitted the good news to the continent

the human race is still there

tonight, on the solid land, they learned of the

coming into life

of Rolanda Nguyen Thi

where do you come from, little one,

and where are you heading to?

why did you choose to come to life

on this wandering boat?

she does not ask the questions

but we have to give the answers

who has the heart of letting the tiny lotus flower

blooming at mid-night on the waves

to perish in the depth of the ocean?

brother

sister

tell me

where should we bring her to

we need you to help.

Chỗ đứng

quê hương tôi là đây

chỉ có dòng sông, hàng cau, bụi tre, vườn chuối

mặt trái đất dù mang đầy cát bụi

nhưng trăng sao vẫn đẹp những đêm Rằm.

Bài này đã được Thầy phổ nhạc.

Giao cảm

lặng lẽ chiên đàn nhả khói thơm

đỉnh trần xông ngát ý thiền môn

lung linh nến ngọc, ngời sao điểm,

thanh tịnh, trần gian sạch tủi hờn

nhè nhẹ xuân về, lòng đất chuyển

nhạc trời thanh thoát rộn muôn phương

tâm linh một thoáng bừng giao cảm

lặng hết bao nhiêu lớp sóng cồn

trời đất hân hoan mừng nắng dậy

một đàn em nhỏ rộn yêu thương

quần điều áo lục theo chân mẹ

hái lộc mùa xuân chật nẻo đường.

Bài này chắc là một bài khai bút giao thừa Tết Bính Thân. Nó được đăng lần đầu ở báo Pht go Vit Nam số Tết Đinh Dậu (1956).

Đề Thiền Duyệt thất

gối nhẹ mây đầu núi

nghe gió thoảng hương trà

thiền duyệt tâm bất động

rừng cây dâng hương hoa

một sáng ta thức dậy

sương lam phủ mái nhà

hồn nhiên cười tiễn biệt

chim chóc vang lời ca

đời đi về muôn lối

quan san mộng hải hà

chút lửa hồng bếp cũ

ấm áp bóng chiều sa

đời vô thường vô ngã

người khẩu Phật tâm xà

niềm tin còn gửi gắm

ta vui lòng đi xa

thế sự như đại mộng

quên tuế nguyệt ta đà

tan biến dòng sinh tử:

duy còn Ngươi với Ta.

Thiền Duyệt Thất là thảo am của thầy Thanh Từ xây cất trên đất Phương Bối Am cách nhà Thượng không xa. Tháng 9 năm 1961, trước khi đi xa, Thầy đã để lại bài thơ này tại Thiền Duyệt Thất cho thầy Thanh Từ. Theo Nẻo về của Ý, tên Thiền Duyệt Thất là tên Thầy đề nghị đặt cho thảo am nơi thầy Thanh Từ tọa thiền và thầy Thanh Từ rất ưa tên ấy.

Sáu chiếc chèo tay

thuyền đi từ bến sông lầm lạc

gió cuốn mang xa một cánh buồm

sáu chiếc chèo tay khua nước bạc

đi từ mấy nước gọi hoàng hôn

 

mưa rơi từng hạt trên mui vắng

như tiếng than van của mọi trời

sóng nở thành hoa trên mặt nước

sắc hoàng hôn, tím, ngã chơi vơi

u chiếc chèo tay mang nhịp sống

đưa thuyền tách khỏi bến mê mờ

qua ngàn lớp sóng trần xô đẩy

hướng thẳng về nơi bản thể xưa

đây rồi: tràn lan trên đất yêu

ngàn bông hoa lạ nở trong chiều

hương thơm lúa chín say mùi rạ

sắc thắm mây hồng quyện tiếng tiêu

thuyền đến bến sông: ngừng nhịp nước

quay nhìn bến cũ lúc ra đi

thì đâu? Nơi cõi xa xăm ấy

là cả mênh mông chẳng thấy gì!

đã xa ngun ngút bờ mê vọng

sóng gió trần gian cũng lặng rồi

phương xa ngây ngất trời hương khói

bến bờ giải thoát hiện ngàn nơi.

Theo Chắp tay nguyện cầu, bài này được viết từ năm 1950. Anh Tam Ích, trong cuốn Lời văn, ý văn của anh (Lá Bối, 1967) có đề cập tới bài này. Anh rất ưa câu:

“sắc hoàng hôn, tím, ngã chơi vơi”.

Tôi sẽ xin rằng tất cả

nếu hỏi rằng “người muốn bao nhiêu”

tôi sẽ xin rằng “tất cả”

i tham lam hơn ngày xưa, tham lam tột độ,

cả ngài, cả tôi

cả người thiên hạ

xuôi về, sáng hôm nay, trong duy nhất nhiệm mầu.

ôi những mảnh rời nhau, khổ đau.

tách rời ngoài đại thế!

đã từ lâu, ngàn vạn đời,

cng tôi tự tìm, sờ soạng, trong ngục tù giả trá an vui

sáng hôm nay em tôi trở về quỳ dưới Phật đài

mắt đầm đìa lệ,

ôi những linh hồn đi tìm bến đỗ

(hình bóng của tôi xưa

phiêu lưu ngàn năm, một hôm sầu khổ,

khao khát bến bờ)

hãy để yên cho em quỳ lâu trên điện Phật

cho lệ em thầm lặng chảy

cho lệ em mặc sức tràn trề

y để yên cho quỳ lâu thêm nữa

đủ thì giờ cho lệ em khô ráo

bởi vì người ơi, một sáng mai kia,

tôi sẽ đến châm lửa vào túp lều nho nhỏ của em

ở ven đồi

p lều duy nhất còn lại của đời em

cho lửa cháy lên cao

cho tan hoang tất cả

cho chỗ nương tựa cuối cùng tan rã

ng như chiếc bè, trên đại dương, tan rã

để vỏ cứng hồn em, trong hỗn độn nhiệm mầu,

sẽ vỡ toang, tràn trề ánh sáng!

i sẽ gặp em, bên ánh lửa hồng cháy rực của túp lều

nước mắt sung sướng chan hòa

tôi nhìn em

và khi cầm tay em, tôi hỏi rằng: “em muốn bao nhiêu”

tt nhiên em sẽ cười và sẽ xin rằng “tất cả”.

Bài thơ này được in lần đầu trong tạp chí Phật giáo Việt Nam (số 13, rằm tháng 8 Đinh Dậu, 1956), cơ quan ngôn luận chính thức của Tổng hội Phật giáo Việt Nam do hòa thượng Huệ Quang làm chủ nhiệm và Thầy làm chủ bút. Trong Phật giáo Việt Nam (số 16 rằm tháng 11 Đinh Dậu, 1956) có một bài ký tên Thiều Chi đàm luận về bài thơ này. Xin mạn phép trích ra đây một đoạn:

“Chúng ta từ lúc sinh ra, ai nấy cũng đều mang theo một thứ trực giác sai lầm (nhà Phật gọi là tợ hiện tượng): đó là trực giác ngã chấp. Chúng ta tự tách riêng ra khỏi đại thể bao la, tự xem mình là một cá thể biệt lập, một cái Ta trường cửu bất biến. Thứ trực giác sai lầm ấy là nguyên nhân cho tất cả những tham vọng, ích kỷ và khổ đau. Đã có một cái Ta biệt lập (ngã) cố nhiên cũng phải có những vật sở thuộc của cái Ta ấy (phi ngã). Thế là đã có một ranh giới phân biệt cái này và cái kia, ta và người. Ta tham cầu, là tham cầu cho cái Ta nhỏ bé. Ta vui buồn, thương, ghét cũng là vì cái Ta nhỏ bé. Ta khổ đau cũng vì cái Ta nhỏ bé. Nếu nhận thức được (một cách thực nghiệm) rằng cái Ta nhỏ bé chỉ là giả ảnh, ta sẽ thể nhập vào cái Ta rộng lớn tức là cái đại thể.

nếu hỏi rằng “người muốn bao nhiêu”

tôi sẽ xin rằng “tất cả”.

Đó là lối diễn tả. Nếu không muốn “tất cả”, tức là đã muốn một phần. Mà muốn một phần, tức là còn chấp có Ta và những cái thuộc về Ta, nghĩa là còn phân biệt những ranh giới ảo vọng. “Xin rằng ‘tất cả’” có nghĩa là nhận thấy mối liên lạc mật thiết giữa mình và muôn loài, hơn nữa là nhận thấy vạn vật là những hiện tượng diệu dụng cùng chung bản thể nhiệm mầu:

tôi tham lam hơn ngày xưa, tham lam tột độ,

cả ngài, cả tôi, cả người thiên hạ,

núi sông, cây cỏ,

xuôi về sáng hôm nay, trong duy nhất nhiệm mầu.

“Tham lam” ở đây không còn có nghĩa là tham lam nữa. Bởi vì trong đại thể duy nhất làm gì còn có Ta và cái phụ thuộc vào Ta để mà tham lam. Cực độ của sự tham lam chính lại là sự chấm dứt của tham lam vậy. Tất cả đều là cái Ta rộng lớn thì ngoài ra còn có gì nữa mà để tham lam? Cái tiểu ngã đã về hợp nhất với đại ngã. Nếu chưa trở về thì vẫn còn là những mảnh riêng biệt, khổ đau:

ôi những mảnh rời nhau, khổ đau

tách ra ngoài đại thể!

đã từ lâu, ngàn vạn đời

chúng tôi tự tìm, sờ soạng, trong ngục tù giả trá an vui

Có phải cháu đã thắc mắc nhiều về những tiếng “ngục tù giả trá an vui” không? Cháu nên nhớ rằng chúng ta, bất cứ là ai, bao giờ cũng muốn có một chỗ nương tựa, về tinh thần cũng như về vật chất. Về tinh thần, chúng ta mong muốn có một tình yêu bền chặt, một uy thế, một cái danh. Nhưng tất cả đều phờ phỉnh, đều vô thường, đều phản bội ta. Chính chỗ nương tựa cuối cùng của bao nhiêu người sự nương tựa vào một đấng Tạo Hóa cũng lại là mong manh, dễ đổ. V ì sao? V ì tất cả đều được xây dựng trên tư dục, trên ước mong. Về vật chất, ta lại càng thấy rõ. Tiền tài, sắc đẹp, là những thứ không thể nương tựa. Tất cả đều là những vô thường, phờ phỉnh, dối gạt. Ta nương tựa trên nó (nghĩa là nương tựa ngay trên dục vọng của chính ta) thì có ngày ta sẽ khổ đau, vì tất cả những thứ mà ta dựa nương đó, dù là tinh thần hay vật chất, đều là những thứ phải có ngày tan vỡ.

Bao nhiêu đời, bao nhiêu kiếp, chúng ta đã đi tìm một chỗ nương tựa cho bản thân ta. Bao nhiêu lần chỗ nương tựa tan rã là bấy nhiêu lần ta khổ đau sầu hận. Chỉ vì một nguyên nhân duy nhất: đó là vọng chấp hữu ngã. Ta đã đi tìm toàn những chỗ nương tựa giả trá phờ phỉnh và tưởng rằng đó là những chỗ an vui của ta. Cứ như thế, ta loanh quanh luẩn quẩn mải với cuộc đời tư dục, không thoát ra ngoài được. Đó là một chốn ngục tù: ngục tù của dục giới. Lại cũng là ngục tù của bản ngã: cái vỏ cứng mà ta tự bọc mình vào chính là cái vỏ tự ngã ngăn cách ta với thế giới đại thể. Bao giờ ta thoát được vỏ cứng ấy, bao giờ ta không còn tìm những chỗ nương tựa an vui giả trá nữa, ta sẽ hòa mình vào với đại thể bao la.

sáng hôm nay, em tôi trở về quỳ dưới Phật đài

mắt đầm đìa lệ.

ôi một linh hồn đi tìm bến đỗ

(nhìn bóng của tôi xưa

phiêu lưu ngàn năm, một hôm sầu khổ,

khao khát bến bờ)

Hình ảnh của “người em” tức là hình ảnh của một con người đã bao nhiêu phen khổ đau vì cuộc thế vô thường. Đó là một con người, như muôn triệu con người khác, đã buồn đau sau bao nhiêu cuộc biến thiên, đã luống công tìm một nơi nương tựa lâu dài. Tất cả những nơi nương tựa căn cứ trên dục vọng mê lầm đều đã theo luật vô thường tan rã. Trong sự khổ đau vô biên của tâm hồn, con người chỉ biết quay về tìm sự an ủi vỗ về của tín ngưỡng. Hình bóng của một con người mắt đầm đìa lệ trở về quỳ dưới Phật đài, cũng là hình bóng của một chiếc thuyền rã rời đi tìm bến đỗ. Đó cũng có thể là hình bóng của chính chúng ta, và của tác giả ngày xưa:

hình bóng của tôi xưa

phiêu lưu ngàn năm, một hôm sầu khổ,

khao khát bến bờ!

Chúng ta hãy để yên cho người ta khóc! Nước mắt sẽ làm dịu bớt nỗi khổ trong lòng. Tín ngưỡng, tuy chưa phải là yếu tố tối hậu của giải thoát, nhưng là một thứ thuốc nhiệm mầu làm dịu bớt khổ đau:

y để yên cho em quỳ lâu rất lâu

trên Phật điện.

cho lệ em thầm lặng, cho lệ em mặtc sức tràn trề.

cứ để yên cho quỳ lâu thêm nữa

đủ thì giờ cho lệ em khô ráo.

Biết bao nhiêu người đã tìm được sự an tĩnh của tâm hồn trong tín ngưỡng. Nhưng dù sao, tín ngưỡng vẫn là một phương tiện. Ở những tôn giáo thần truyền, tín ngưỡng đóng vai trò giải phóng con người. Ở đạo Phật, tín ngưỡng chỉ là tín ngưỡng. Tín ngưỡng cần thiết cho mọi chúng ta, những con người yếu đuối. Tín ngưỡng để bớt khổ đau, để chữa lành những vết thương tâm hồn mà ta đã mang lấy từ muôn ngàn kiếp khổ. Nhưng một ngày kia ta sẽ lành mạnh. Và có thể ta lại nối kiếp phiêu lãng tử sinh.

Nếu đã nhận thức được cái khổ của cuộc sống bồng bềnh phiêu dạt, ta sẽ không còn muốn trở về với kiếp đau khổ luân hồi. Ta sẽ tìm đường giải thoát. Nhưng giải thoát không phải chỉ là tìm kiếm sự an tĩnh của tâm hồn trong tín ngưỡng. Không, nếu tín ngưỡng là một phương tiện thì mãi mãi nó vẫn là một phương tiện. Không thể để cho người ta an tâm trú ẩn trong túp lều phương tiện đó:

bởi vì, người ơi, một sáng mai kia

tôi sẽ đến châm lửa vào túp lều nho nhỏ của em

ở ven đồi

p lều duy nhất còn lại của đời em.

Đấy, bao nhiêu kiếp khổ đau, rốt cuộc người ta đã rời bỏ tất cả những nơi nương tựa phỉnh phờ; chỗ nương tựa cuối cùng chỉ là một túp lều tín ngưỡng. Nhưng không lẽ để người ta an trú mãi trong túp lều nghèo khổ và tiêu cực đó. Cuộc đời đại ngã, không khổ đau, không ước vọng. Thời gian ẩn náu trong túp lều tín ngưỡng đã giúp người lành mạnh. Người đã đủ sức trở về. Chỉ cần một biến động cuối cùng, một sự khai ngộ để đưa người về cuộc sống. Túp lều sáng nay đã cháy và chỗ nương tựa cuối cùng tan rã.

cho lửa cháy lên cao

cho tan hoang tất cả,

cho chỗ nương tựa cuối cùng tan rã,   

ng như chiếc bè trong đại dương tan rã.

để vỏ cứng của hồn em, trong hỗn độn nhiệm mầu

sẽ vỡ toang. Tràn trề ánh sáng.

Nếu cháu có đọc những sách thiền học, cháu sẽ thấy lối khai thị nhiệm mầu của các vị tổ sư khi truyền tâm ấn. Còn gì hoảng hốt cho bằng khi thấy chiếc bè chở mình tan rã giữa đại dương? Còn gì khổ đau bằng khi chỗ nương tựa cuối cùng của mình tan rã? Sự hỗn độn ấy gây nên một trạng thái khủng hoảng. Ở đây không phải là một sự khủng hoảng thất bại mà là một sự khủng hoảng trưởng thành, một sự khủng hoảng vỡ da (crise de croissance), một sự thoát hình. Sự hỗn độn ở đây, vì vậy, là một sự hỗn độn nhiệm mầu. Và chính trong sự ấy, vỏ cứng của bản ngã tan vỡ.

Dấu chấm sau chữ “toang” diễn tả sự đột biến một cách rõ rệt. Tiếp ngay đó là một kết quả rực rỡ tràn trề ánh sáng.

Bây giờ đây là một cảnh tượng đẹp đẽ, oai hùng và cảm động, cảnh tượng của thành công:

i sẽ đợi em, bên ánh lửa hồng cháy rực của túp lều,

nước mắt sung sướng chan hòa,

tôi nhìn em

Những con người vừa được cởi mở bỗng nhiên đẹp hẳn lên bên ánh lửa hồng rực rỡ của chiếc lều bừng cháy. Hình ảnh tàn tích của bao nhiêu kiếp sống vô minh như đang bị thiêu đốt tan tành theo túp lều tranh cùng với những mảnh vỏ vỡ toang của bản ngã. Nước mắt ở đây không còn là thứ nước mắt sầu đau. Cái nhìn ở đây không còn có lời gì mô tả. Còn nói năng gì được trong cảnh tượng hùng vĩ của giờ giải phóng. Cái nhìn ở đây cô đọng và mênh mang, chứa đầy những ý nghĩa mà ngàn vạn lời nói đi nữa cũng không thể nào diễn tả cho được:

nước mắt sung sướng chan hòa,

tôi nhìn em

Đến đây, ta trở về với ý tưởng đoạn đầu, ý tưởng của sự trực nhận đại ngã:

và khi cầm tay em, tôi hỏi rằng: “em muốn bao nhiêu”

tất nhiên em sẽ cười mà xin rằng “tất cả”.

Lẽ đương nhiên như thế; con người đã trở về với đại ngã, làm gì còn có ý tưởng phân biệt ra những biên giới mê mờ”.

Rừng không

rừng

ngàn thân cây

một thân người

lá cành đưa tay vẫy

tai nghe tiếng suối gọi

mắt mở toang trời tâm

nụ cười hàm tiếu kia

nở trên từng chiếc lá

có rừng cây ở đây

vì có thế gian đó

nhưng tâm đã theo rừng

khoác áo mới mầu xanh.

Tại lớp thực tập thiền học ở Centre Quaker International Paris, Thầy đã giảng bài thơ này cho các thiền sinh. Bài thơ được làm trong rừng Othe. Hai câu:

có rừng cây ở đây

vì có thế gian đó

Là hình ảnh trong kinh Trung A Hàm (kinh Cùlasunnata) dạy về phép Không Quán. Khi người hành giả bỏ làng mạc và chợ búa vào ngồi tịnh trong rừng, thì người ấy thấy không có làng mạc và chợ búa mà chỉ còn có rừng. Nhờ xa làng mạc chợ búa mà những phiền não về làng mạc chợ búa không còn, và rừng cây cho người hành giả một ít thanh tịnh. Nhưng hành giả phải biết rằng: tuy hành giả chỉ nhận thức rừng cây, không nhận thức làng mạc và chợ búa, nhưng không phải như vậy mà làng mạc và chợ búa không hiện hữu. “Tôi biết rừng cây có đây, vì làng mạc chợ búa có đó”. Khi hành giả bỏ rừng cây để chỉ còn giữ lại đất. Bỏ đất để chỉ còn giữ lại không gian, bỏ không gian để chỉ còn giữ lại Nhận thức, bỏ Nhận thức để chỉ còn giữ lại Không, bỏ Không để chỉ còn giữ lại Phi tưởng và Phi phi tưởng… Thì hành giả cũng vẫn quán chiếu theo luật “cái này có vì cái kia có”, và do đó hành giả nhận được chân được rằng Không quán không phải là phủ nhận hiện hữu mà chỉ là nhận thức hiện hữu trên nguyên lý duyên sanh mà thôi.

Từ bi quán

tịnh thủy trong bình

từ trên tay Bồ tát

rót trên sa mạc

thành biển xanh

mông mênh.

Bài này văn phòng chúng tôi đã dùng làm thiệp chúc Xuân năm 1977 với hai chữ Đại Bi viết theo lối cổ tự.

Những hàng đậu mới

tôi là tôi của đất

đt là đất của tôi

tôi gửi tôi cho đất

đt gửi đất cho tôi

nhng hạt đậu sáng nay

ny mầm thành những hàng dài

hai chiếc lá non chắp tay trên đầu

chào ánh sáng.

Phương Vân Am là nơi tĩnh cư của Thầy. Am này được tạo dựng từ năm 1970. Hồi đó Phái đoàn Phật giáo còn đặt trụ sở tại số 11 Rue de la Goutte d’Or, Paris, còn Thầy cư trú tại Maisons-Alfort. Một hôm ở tại văn phòng đường Goutte d’Or, tôi kể chuyện chuyến đi hội thảo của tôi tại vùng Massif Central do một nhóm trẻ bất bạo động người Pháp tổ chức, và nói đến cái nông trại của họ mới mua làm trụ sở mà giá tiền chỉ là năm ngàn quan Pháp hồi đó. Thầy nghe nói thì rất ưa, bởi vì lâu nay tại Maisons-Alfort Thầy chỉ trồng được rau thơm trong những chiếc chậu để ở cửa sổ. Một hôm, Thầy, chú Thanh Hương và tôi để trọn cả ngày đi về phương Nam phía rừng Othe để tiếp xúc với các văn phòng chuyển nhượng bất động sản, nhờ họ đi tìm giùm một nông trại nhỏ bỏ hoang mà chủ nhân muốn bán. Chúng tôi đi thăm khoảng mười bốn cái nông trại như thế, nhưng không ưng ý lắm; cái thì đắt, cái thì cuộc đất không được thanh thoát lắm. Cuối cùng, khi trời đã gần tối, chúng tôi tìm được Phương Vân Am trên một triền đồi, phong cảnh có vẻ thanh tú. Phía trước và phía sau đều có đồi núi, và vị trí không xa quốc lộ 60. Đó là một nông trại bỏ hoang từ lâu, mái đã dột, một phía tường của chuồng bò đã bị sập. Có chừng ba ngàn thước vuông đất, mỗi thước tính ra chỉ độ một quan. Cửa sổ và cửa chính hư hết, các bức tường đều phải làm lại. Cái nhà đã được xây dựng cách đó khoảng một trăm năm chục năm. Ông thân sinh của bác chủ garage trong làng, năm ấy bảy mươi mấy tuổi nói rằng ông đã được sinh ra trong nhà ấy. Chúng tôi mua nông trại với cách thức trả góp. Ở đây thường có sương mù, nhất là vào mùa thu và mùa đông. Có vẻ một vân thâm xứ, Thầy hay nói như vậy. Phương Vân cách Paris chưa đầy một trăm sáu mươi cây số về phía đông nam. Mỗi lần về đây, chúng tôi lo xây lại những bức tường, sửa lại cửa và cuốc đất trồng rau. Tham dự vào việc xây dựng lại Phương Vân có chú Thành, chú Hòa, chú Hương, anh Hải, Văn Phát, Laura và tôi. Ai cũng học trộn hồ và cầm bay. Năm 1972, thầy Huyền Quang có về ngủ một đêm tại đây, khi chúng tôi chưa có lò sưởi và giường ngủ. Thầy ngủ trên một tấm ván trải mền cho bớt lạnh. Thầy Nhất Hạnh rất ưa cuốc đất trồng rau; bác Sâm cứ ngỡ là Thầy chỉ làm đất theo lối tài tử, nhưng thật ra Thầy làm vườn giỏi lắm. Thầy đã học làm vườn từ hồi còn làm điệu ở Chùa Từ Hiếu. Thầy chỉ thua có chú Thành (Thiện Thắng) mà thôi, bởi vì chú Thành khỏe nhất trong đám chúng tôi. Ngò và cải của năm đầu lên rất tốt mà không cần bỏ phân gì hết. Tôi còn nhớ vẻ mặt hớn hở của mọi người khi hái hàng giỏ rau to tướng đầy những rau tần (cải cúc) và cải bẹ xanh bụ bẫm rồi hăm hở đi Paris định “bỏ mối” cho các hiệu thực phẩm Việt Nam. Thỉnh thoảng tôi vẫn ghé các hiệu này mua rau tần hay bẹ xanh. Một bó nhỏ xíu cũng phải ba quan. Chúng tôi nghĩ họ trả ít nhất cũng được một quan rưỡi tiền mua vào. Nhưng bà chủ hiệu săm soi bó rau và bảo chỉ có thể trả bảy mươi lăm xu một bó chúng tôi đã quyết định không bán nữa. Các bạn của phái đoàn tuy đông nhưng ở rải rác quá, làm sao mà đem tặng cho kịp trong ngày? Sau cùng chúng tôi quyết định ghé tất cả các nhà Việt Nam, các quán ăn Việt Nam nằm trên con đường về văn phòng, tặng mỗi nơi năm bó rau. Nét mặt của người nào cũng hớn hở khi nhìn những bó rau bụ bẫm, mơn mởn của Phương Vân. Nhà nào, quán nào cũng nài nỉ mời chúng tôi ở lại ăn cơm với họ. Laura cười quá mỗi khi nhắc đến lối “đầu tư” mới này, bởi vì nếu chúng tôi có giờ ngồi lại ăn cơm mỗi nhà, mỗi quán, thì chắc là tiền cơm mấy chị em đã cao hơn tiền bán rau nhiều.

Bài thơ trên đây là một trong những bài Thầy làm về chuyện trồng rau. Sáng hôm ấy, ra thăm vườn Thầy thấy những hàng đậu gieo đã lên và những hạt đậu đưa những chiếc lá non, chắp tay trên đầu sửa soạn chào ánh sáng. Có lần đi hội nghị xa trong mùa hè, uống cốc nước lọc, Thầy nhớ tới những luống rau ở Phương Vân và viết:

cốc nước lọc trên tay

nắng đã mấy hôm

ngoài ngàn dặm

my luống rau thơm

đi tôi về

tưới mát.