Hành trình đến với Làng Mai qua những cuốn sách

(Hisae Matsuda & Terry Barber)

Năm 1986, sau bốn năm thành lập Làng Mai, Thầy cùng một số học trò ở Bắc Mỹ đã cho xuất bản tác phẩm Being Peace (Muốn an được an) tại Berkeley, bang California. Từ đó, Thầy trở thành người đồng sáng lập Parallax Press – nhà xuất bản của Làng Mai tại Hoa Kỳ. Parallax Press ra đời với sứ mệnh “góp phần đem lại sự tỉnh thức và tuệ giác tập thể, làm cho xã hội thêm tươi vui, lành mạnh và giàu tình thương” đồng thời đưa những pháp môn thực tập của Làng Mai đến với độc giả trên toàn cầu. Giám đốc xuất bản Hisae Matsuda và Terry Barber – tổng biên tập, một giáo thọ cư sĩ của Làng và cũng là thành viên có thâm niên nhất của Parallax – đã trò chuyện với nhau về hành trình đến với Làng Mai và về sự giàu có mà công việc biên tập, xuất bản sách của Thầy đã đem lại cho cuộc sống tinh thần của họ.

Hisae: Chị đến Làng Mai lần đầu tiên như thế nào?
Terry: Chị đã đọc sách về đạo Bụt trong nhiều năm liền. Chị rất muốn được sống trong tu viện hoặc trong một trung tâm tu học nào đó. Do vậy, sau khi kết thúc công việc và chương trình học tập vào năm 1991, chị ở trong tâm thế sẵn sàng thay đổi. Chị nhận thấy nếu muốn đi tới trong cuộc sống của mình, chị cần một cộng đồng tu học và một chương trình tu học hàng ngày. Một người bạn đã tặng chị quyển Being Peace (Muốn an được an) và nói rằng “mình đoán là cậu sẽ thích quyển này đấy”, thế là chị được biết đến Thầy. Chị nghĩ bụng “nếu được đến trung tâm của Thầy thì mình sẽ đi ngay”. Không lâu sau, chị có cơ hội nghe bài giảng của Thầy trong buổi pháp thoại công cộng ở Los Angeles và tham dự ngày quán niệm cho các nhà hoạt động vì môi trường tại Malibu. Cách Thầy chia sẻ về các vấn đề bất công xã hội đã thật sự chạm vào trái tim chị. Tại thời điểm đó, sự việc Rodney King bị cảnh sát bạo hành vẫn còn đang sôi sục trên các trang tin tức. Chị đến Làng vào tháng 4 năm 1992 và muốn sống luôn ở đó.

Còn Hisae thì sao, em gặp Thầy vào dịp nào, đến Làng như thế nào?
Hisae: Em biết đến Thầy vào những năm 90, nhờ vào sách của Thầy. Quyển đầu tiên em đọc cũng là Being Peace (Muốn an được an), tiếp theo là quyển The Miracle of Mindfulness (Phép lạ của sự tỉnh thức). Những quyển sách này đã thắp lên trong lòng em một ngọn lửa. Em biết ơn các biên tập viên đã làm những quyển sách tiếng Anh đầu tiên của Thầy. Hồi đó em sống ở Anh, và Judith Kendra của nhà xuất bản Rider Books là người có công đưa sách của Thầy đến nước Anh. Nhưng phải 25 năm sau, từ lúc đọc quyển Being Peace, em mới đặt chân đến Làng Mai.

 

 

Năm 1993, em sống ở Luân Đôn cùng ông xã và hai đứa con nhỏ, một bé ba tuổi, một bé hai tuổi. Lúc đó, em muốn tìm đến một trung tâm tu học để tìm chút bình an cho cuộc sống. Nhưng hồi ấy không có khóa tu Phật giáo nào cho phép thiếu nhi tham dự. Hầu hết các sinh hoạt ở đó đều không phù hợp cho trẻ em. Đến một ngày, em nghe nói Thầy sẽ hướng dẫn khóa tu ở ngoại ô Luân Đôn. Thật bất ngờ, trẻ em không những được phép tham dự mà còn được chào đón thực sự. Em liền đăng ký cho ba mẹ con. Đó là lần đầu tiên em và hai cháu trải nghiệm cảm giác được thiền hành bên cạnh một thiền sư. Sư cô Chân Đức làm chủ tọa nhóm pháp đàm của em. Em còn nhớ như in những gì sư cô đã chia sẻ. Chính Thầy và sư cô Chân Đức đã gây ấn tượng rất sâu đậm trong lòng em, nhưng dường như lúc ấy em cảm thấy mình chưa chạm tới được nếp sống thanh tịnh của các vị. Con đường em đi khúc khuỷu quanh co, lắm những ngã rẽ bất ngờ. Mãi đến năm 2018, sau khi tham gia vào nhà xuất bản Parallax, em mới đặt chân đến Làng. Vẻ đẹp của tu viện hệt như những gì em tưởng tượng, thậm chí còn đẹp hơn.

Ấn tượng đầu tiên và trải nghiệm đầu tiên của chị khi ở Làng như thế nào?
Terry: Chị yêu năng lượng bình an và vẻ đẹp của mảnh đất ấy, cũng như những thanh âm của đời sống tu viện. Hồi đó, tăng thân thường trú chỉ có mười hai đến mười lăm xuất sĩ và năm, sáu thiền sinh cư sĩ. Vào những bữa ăn ở xóm Hạ, tất cả mọi người ngồi vừa vặn một cái bàn vuông lớn. Thỉnh thoảng Thầy ở lại dùng bữa với mọi người. Sự có mặt của Thầy mang lại bầu không khí thật nhẹ nhàng, ấm áp như một gia đình. Ngày đầu tiên tới Làng, chị được biết chỉ có thể ở lại Làng một tuần thôi vì sắp có khóa tu 21 ngày. Nhưng cuối cùng thì chị cũng được ở lại lâu hơn, có lẽ là do chị rất nhiệt tình trong đội rửa nồi nên được mời ở lại để giúp quý sư cô chuẩn bị phòng cho thiền sinh và làm tình nguyện viên trong khóa tu đó. Được nghe những bài pháp thoại của Thầy trong khóa tu, trái tim chị hoàn toàn mở ra, cứ như thể chị đã chờ đợi cả cuộc đời mình để được nghe những lời dạy ấy.

Sau khóa 21 ngày, chị lại tiếp tục làm tình nguyện viên trong khóa tu mùa Hè. May mắn là chị được ở cùng tăng thân người Việt tại xóm Hạ (thiền sinh ngoại quốc khi ấy ở xóm Thượng). Chị sinh hoạt, ăn uống và giao lưu với người Việt rất thoải mái. Chỉ cần ngồi lại với nhau là thấy vui rồi. Sau bữa ăn tối, mọi người sẽ cùng hát vài bài, nhiều bài trong số đó là do Thầy sáng tác. Những bài hát tiếng Việt rất hay, đã thấm sâu vào tâm hồn chị nhưng chị cũng không biết dùng từ ngữ như thế nào để diễn tả.

Khóa tu mùa Hè vừa kết thúc là đến mùa hái mận. Nhóm tụi chị gồm bốn, năm thiền sinh ở lại sau khóa tu. Một nông dân trong vùng đến hướng dẫn mọi người thu hái mận. Bác nông dân này chuyên trồng nho, không giỏi chăm sóc mận nhưng bác rất tốt bụng. Làm việc mệt mà vui. Rung cây cho mận chín rơi xuống đất, rồi nhặt mận cho vào sọt, mang vào nhà bếp cho quý sư cô làm mứt. Thỉnh thoảng mình ăn vài trái mận chín cây và được thưởng thức ánh mặt trời ấm áp căng tràn trong trái mận ngọt lịm.

Muốn làm thiền sinh dài hạn cho khóa tu mùa Đông, chị phải viết thư xin phép Thầy và tăng thân. May mắn sao, chị được chấp thuận và cứ thế chị sống ở Làng hẳn sáu năm. Rồi kế đến là sống ba năm ở tu viện Thanh Sơn tại Vermont.

Chị luôn cảm động khi thấy Thầy dành hết tâm huyết của mình để tạo dựng một môi trường nơi mọi người được sống trong bình an; tiếp xúc với thiên nhiên và tu học cùng tăng thân để được trị liệu, có cơ hội nhìn sâu, học cách chuyển hóa khổ đau, và tiếp xúc với những hạt giống an lành, hạnh phúc.

Cơ duyên nào đã đưa chị đến với Parallax?
Terry: Trong thời gian sống tại Làng và tu viện Thanh Sơn, thỉnh thoảng chị về thăm gia đình ở California. Chị có ghé qua văn phòng của nhà xuất bản Parallax vài lần để tiếp tục làm phần phiên tả pháp thoại của Thầy. Mùa xuân năm 2001, cha của chị ốm nặng nên chị về nhà để chăm sóc cha. Cha mất cuối năm đó. Chị cũng phải tìm việc làm. Lúc đó, làm việc cho Parallax có vẻ là lựa chọn hợp lý nhất. Vài tháng sau, chị vào làm việc ở Parallax, bắt đầu bằng công việc đóng gói và chuyển sách theo đơn đặt hàng.

Còn em thì sao, Hisae, điều gì đã đưa em đến Parallax?
Hisae: Năm 2016, em cũng đang làm việc cho một nhà xuất bản ở Berkeley, gần Parallax. Khi có cơ hội tham dự vào đội ngũ biên tập viên của Parallax, em đã không thể từ chối. Dù cho việc rời bỏ vị trí cũ để làm việc cho Parallax là một bước nhảy của niềm tin và ý thức là mình sẽ phải đối mặt với nhiều thử thách, em vẫn không thể cưỡng lại cơ hội mà Parallax mang lại cho em. Đó là cơ hội để được sống và làm việc đúng với giá trị sống và đường hướng tâm linh của mình.

Một tháng sau khi em bắt đầu công việc mới, con trai em, Leo, đã tự tử, sau ngày bầu cử của Mỹ năm 2016. Trái tim em tan nát. Em phải sống chật vật một thời gian, không thể làm gì được nữa. Trong khoảng dừng ấy, em đã đăng ký tham dự khóa tu tại Làng Mai. Cuối cùng thì em cũng đã đặt chân đến Làng. Chính nơi này giúp em trị liệu và bắt đầu tìm lại niềm vui sống.

Em biết ơn chị nhiều lắm chị Terry ạ. Chị và các anh chị em ở Parallax đã giữ gìn một nơi như vậy để em được quay về. Không phải ở đâu cũng cho mình cảm giác tăng thân, không phải chỗ làm nào cũng đem lại cho mình cảm giác được chấp nhận và nâng đỡ nhiều đến vậy.

Chị Terry thấy Parallax đã thay đổi ra sao qua từng ấy năm tháng? Chị có nguyện vọng gì cho tương lai của Parallax?
Terry: Chị thấy ấm lòng vì Làng Mai và Parallax đã trưởng thành hơn theo năm tháng. Hơn nữa, thế hệ giáo thọ mới của Làng đã cùng hòa vào sự nghiệp làm sách, thậm chí trở thành tác giả. Parallax đã thay đổi đáng kể nhờ vào sự có mặt của em. Parallax rất cần một người phụ trách xuất bản như em, vừa giỏi chuyên môn vừa thấu hiểu được những lời dạy của Thầy và của tăng thân Làng Mai. Ngay từ khi tham gia, em đã giúp thắt chặt sự gắn kết giữa Làng Mai và ban làm sách của Parallax. Nhà xuất bản của chúng ta càng ngày càng hoạt động chuyên nghiệp và minh bạch hơn. Các thành viên hạnh phúc hơn, biết quan tâm nhau và có tinh thần hỗ trợ lẫn nhau trong công việc. Em có khả năng cảm nhận sâu sắc, hiểu được sách nào nên xuất bản, sách nào không. Em đã tìm ra và biên tập nhiều quyển sách hay. Em đã giữ vững được công việc xuất bản định kì những quyển sách có tính học thuật của Thầy. Chị rất mong nhà xuất bản chúng ta tiếp tục đường hướng này, bảo tồn được gia tài quý báu của Thầy, hợp tác với Làng Mai và phụng sự tăng thân khắp chốn bằng những quyển sách có giá trị.

 

 

Chị đã tìm thấy ở Làng Mai một truyền thống mà chị có thể gắn bó lâu dài. Nhiều người đã biết đến Thầy nhờ đọc sách và chị đã tìm thấy ở Parallax một vị trí mà trong đó chị có thể đóng góp một phần bé nhỏ của mình để lan tỏa tuệ giác của Thầy và tăng thân Làng Mai đến với nhiều người, nhiều cộng đồng trên khắp thế giới, giúp cho mọi người tìm được hướng đi trong bối cảnh đầy biến động hiện nay.

Còn em, Hisae, em có nguyện vọng gì cho Parallax?
Hisae: Khi trở thành người phụ trách xuất bản của Parallax, em mong ước là trong chương trình xuất bản sách, mình luôn thấy rõ vai trò đặc biệt của Parallax trong việc phổ biến những giáo lý của Thầy và tăng thân Làng Mai. Những giáo lý ấy rất cần thiết cho thế giới hiện nay và hiện đang được các học trò của Thầy tiếp tục lan tỏa trên nhiều phương diện. Đọc một cuốn sách là một trải nghiệm cá nhân, nó có thể tạo ảnh hưởng sâu sắc lên chúng ta trong vài ngày hoặc thậm chí thay đổi cuộc đời chúng ta. Những quyển sách do các vị xuất sĩ cũng như cư sĩ viết ra, có thể giúp ta đối diện, ôm ấp và chuyển hóa những khổ đau của thời đại chúng ta, từ những sang chấn tâm lý của mỗi cá nhân, gia đình đến tình trạng cô lập xã hội, đến chiến tranh hay sự tàn phá môi trường. Đây cũng là lúc chúng ta cần cho mọi người thấy cách tiếp cận của Thầy về hòa bình – sự thực tập bao dung, không kỳ thị – đang thay đổi thế giới ngày hôm nay theo nhiều cấp độ lớn nhỏ khác nhau.

Em muốn tiếp tục tiến trình chúng ta đang làm và xây dựng một xương sống vững chắc (nhưng uyển chuyển) mà một nhà xuất bản nhỏ như chúng ta cần có để có thể tiếp tục thành công. Khi mình có niềm tin thì dù công việc khó khăn đến chừng nào chúng ta vẫn có thể vượt qua. Không có niềm tin thì điều đơn giản nhất cũng trở thành chướng ngại. Để xây dựng được niềm tin, chúng ta cần phải thực tập.

Em mong Parallax trở thành một công ty xuất bản đúng như những gì Thầy đã trao truyền trong một buổi gặp mặt với các thành viên từ hồi trước khi em gia nhập Parallax. Đó là làm việc trong tinh thần hòa hợp như những chú ong và đưa sự thực tập chánh niệm đích thực đến với độc giả khắp nơi thông qua những cuốn sách. Ban làm sách của Làng Mai đã hỗ trợ và đóng góp cho Parallax rất nhiều tuệ giác. Em rất vui khi sư cô Chân Đức cùng nhiều quý thầy, quý sư cô trong ban làm sách đã nỗ lực giúp Palm Leaves Press (một nhánh của NXB Parallax) xuất bản những tác phẩm chưa được phát hành của Thầy. Quả thật, độc giả luôn thích những quyển sách mới và có nhu cầu tìm hiểu sâu hơn về sự thực tập chánh niệm.

Hiện nay có nhiều người tu học theo Làng Mai nhưng chưa hề được gặp Thầy. Họ thẩm thấu giáo lý thông qua những phương tiện truyền thông khác nhau của Làng Mai. Các vị giáo thọ xuất sĩ và cư sĩ cũng đang tiếp tục trao truyền nguồn tuệ giác với tất cả tình thương, lòng can đảm của mình. Em thấy rất vui khi chị em mình được là một phần của tăng thân và được ăn mừng kỉ niệm 40 năm thành lập Làng Mai trong năm 2022 này.

Con đường tình thương

(Thầy Chân Trời Đạo Bi)

Thầy Chân Trời Đạo Bi, người Indonesia, thọ giới lớn với Sư Ông Làng Mai trong Đại giới đàn “Bây giờ – Ở đây” tháng 2 năm 2019 và hiện đang tu tập tại xóm Thượng, Làng Mai. Bài viết được BBT chuyển ngữ từ tiếng Anh.

Khi còn trẻ, tôi không biết mình thật sự muốn làm gì cho cuộc đời mình. Tôi không có một hướng đi. Năm 2010, khi biết Thầy sẽ đến Indonesia mở khóa tu, tôi không hề do dự, lập tức ghi danh tham dự. Sau vài ngày tu học, tôi nhận ra rằng tôi muốn bước đi trên con đường của một người xuất sĩ. Lúc đầu ba mẹ tôi không tán thành, nhưng thấy đời sống của tôi có nhiều thay đổi tích cực nên ba mẹ cũng dần nhận ra con đường này sẽ mang lại hạnh phúc cho con trai mình. Ba mẹ khuyên tôi nên hoàn tất việc học dang dở ở trường rồi hãy tính tiếp. Cũng hay, tôi có thời gian nhìn lại rõ hơn tâm nguyện của mình và hiểu sâu sắc hơn ý nghĩa của con đường xuất gia.

Chúng tôi thành lập nhóm Wake Up Indonesia sau khóa tu 2010. Nhờ chương trình này mà rất nhiều bạn trẻ tìm lại được chính mình. Năm 2013, tôi cùng vài người bạn đến Thái Lan tham dự khóa tu Wake Up do chính Thầy hướng dẫn. Trong buổi sinh hoạt cuối cùng, tôi thấy trên màn hình máy chiếu có dòng thư pháp “Đã có đường đi rồi, con không còn lo sợ” lướt qua. Tôi như nghe được lời Thầy đang khích lệ, vỗ về: không phải thấy Thầy trong hình hài này đâu, quan trọng là con phải thấy được con đường. Có lẽ tôi đã sợ một ngày nào đó Thầy sẽ không còn bên tôi nữa. Thông điệp trong bức thư pháp đã làm tôi rúng động và hai dòng nước mắt cứ thế lăn dài trên má.

Con đường của tình thương

Thầy đặt cho tôi pháp tự Chân Trời Đạo Bi. Bi trong chữ từ bi, nghĩa là tình thương sâu. Pháp tự này nhắc cho tôi nhớ thực tập để giúp mình thấy được con đường của tình thương sâu. Trong tác phẩm Đường xưa mây trắng có một chương như thế. Tôi đã đọc đi đọc lại không biết bao nhiêu lần và nó trở thành chương yêu thích nhất của tôi. Chuyện kể về Siddharta và Yasodhara khi còn làm công tác xã hội. Yasodhara đã tận tình chăm sóc cho em bé bị ốm hơn một tuần mà đứa trẻ vẫn không qua khỏi, nàng đau xót vô hạn. Những lời an ủi của Siddharta cũng không thể nào xoa dịu được nỗi buồn trong lòng nàng. Cả hai người dù có giúp được dân chúng phần nào về vật chất, nhưng nỗi khổ niềm đau trong trái tim họ không vì thế mà nguôi ngoai. Không có ai chỉ cho họ cách vượt qua những cảm xúc đang giằng xé trong lòng. Siddharta chưa tìm ra con đường thoát khổ. Chỉ đến khi trở thành một bậc giác ngộ thì chàng mới giúp được người khác thoát khỏi những khổ đau trong tâm hồn.

 

 

Trước khi xuất gia, tôi cũng là một tác viên xã hội, cũng chất chứa trong lòng khá nhiều thương tích. Những thương tích ấy đang trên đường được trị liệu. Thầy đã dạy khổ đau là chất liệu làm nên hạnh phúc. Nhờ đó, tôi đã thấy được chính những tổn thương trong quá khứ đang nuôi dưỡng hiểu biết và thương yêu trong tôi ngày một lớn hơn. Chỉ cần ý thức mình đang bước đi trên con đường ấy, ngay lập tức tôi cảm thấy mình thật may mắn. Khi tình thương có mặt thì hạnh phúc có mặt và mình sẽ không còn sợ hãi nữa. Câu thần chú của tôi là: “Thở vào, đã có đường đi rồi. Thở ra, con không còn lo sợ”.

Nhìn Thầy bằng con mắt vô tướng

Tôi cứ tiếc sao mình không đến Làng sớm hơn, sao mình không xuất gia lúc Thầy còn khỏe để được nghe những lời khuyên nhủ, sách tấn trực tiếp từ Thầy. Khi tôi đến Làng, Thầy không còn dùng lời nói mà chỉ dùng thân giáo. Trên chiếc xe lăn, Thầy vẫn tham dự thiền hành cùng tăng thân. Thầy chỉ tay lên trời, chỉ vào một thân cây, một nụ hoa ven đường – những nhiệm mầu của sự sống quanh đây. Thầy nâng một chiếc lá với cử chỉ tinh nghịch, khiến cho mọi người cười vang. Thầy xoa mái đầu của một đệ tử rồi ôm đệ tử vào lòng. Chúng tôi đứng nhìn hình ảnh ấy mà cảm thấy như Thầy đang xoa mái đầu mình, thấy ấm áp trong vòng tay Thầy. Thầy không còn dùng ngôn từ thế gian nữa, nhưng chỉ cần Thầy có mặt ở đó là đủ để chúng tôi hạnh phúc. Thỉnh thoảng, trong giấc mơ, tôi còn được thưa chuyện với Thầy. Được làm đệ tử của Thầy, được sinh ra trong đại gia đình tâm linh Làng Mai là một diễm phúc quá lớn.

Trong một buổi thiền hành tại xóm Hạ, Thầy ngồi bên kia hồ sen còn tôi ở phía bên này. Cành cây che mất Thầy, tôi bước qua bên trái rồi nhích sang bên phải cũng không nhìn rõ được Thầy. Ủa, Thầy đâu rồi? A, hóa ra tôi vẫn kẹt vào hình tướng mà chưa thấy Thầy ngoài hình hài này.

Thầy đã viết rất nhiều thư cho đệ tử. Trong một lá thư Thầy có nói: “Thầy trò chúng ta ngày nào mà không có Bụt cùng ngồi, cùng ăn cơm và cùng đi thiền hành? Bụt của chúng ta không phải là một hình ảnh xa xôi mà là một thực tại linh động. Có con mắt vô tướng là thấy được”. Tôi cũng thấy điều tương tự. Mỗi khi tôi quay về với hơi thở, thì Thầy vẫn đang có mặt ở Làng, vẫn thiền hành, ngồi thiền, ăn cơm cùng đại chúng. Khi tôi không có mặt thì Thầy sẽ ở một nơi thật xa.

“Mình thấy được con đường chưa?” là một công án vẫn theo tôi trên suốt chặng đường. Thỉnh thoảng tôi tự hỏi bản thân nhưng cũng không chắc câu trả lời. Tôi biết mình còn lắm niềm đau, buồn phiền và sợ hãi. Tuy vậy, mỗi khi tiếng chuông vang lên, tôi thầm niệm “nghe chuông phiền não tan mây khói”, tôi biết nỗi sợ cùng niềm đau trong tôi đang dần được chuyển hóa.

Ban chăm sóc nhóm Wake Up châu Âu

Năm 2018, khóa tu Đại sứ Wake Up (Wake Up Ambassadors retreat) đầu tiên được tổ chức tại Làng Mai. Trong khóa này, để được vui chơi, gắn kết và học hỏi lẫn nhau, chúng tôi đã thành lập nhóm nòng cốt cho Wake Up châu Âu với tên gọi mới là ‘Oomph” (viết tắt của Organism for Optimising Many People’s Happiness, nghĩa là một cơ thể có nhiệm vụ làm cho nhiều người hạnh phúc).

Oomph không phải là một tổ chức mà là một cơ thể. Khi các thành viên nòng cốt của tăng thân Wake Up (Wake Up Ambassadors – các vị đại sứ của tăng thân Wake Up) có một nơi để trở về nương tựa, các bạn sẽ có cơ hội nuôi dưỡng hạnh phúc trong tự thân. Và khi có đủ hạnh phúc, các bạn mới có thể giúp các thành viên khác trong tăng thân cũng như giúp cho mọi người được hạnh phúc.

 

 

Hiện tại Oomph có các thành viên: Annica Bauer, Verena Böttcher, Toos Vergote, Arlind Reuter, Fransisco Vogel, Jan-Jitze Hees, quý sư cô Tảo Nghiêm, Xương Nghiêm, Trăng Lộc Uyển, thầy Trời Đức Niệm và tôi. Hằng tháng, các thành viên gặp nhau một lần qua Zoom. Đến cuối năm 2019 chúng tôi thành lập nhóm điều phối quốc tế của Wake Up (Wake Up International Co-ordinators). Mỗi nhóm Wake Up trên thế giới sẽ cử một liên lạc viên, trong đó có bạn Jazz đại diện nhóm châu Úc, bạn Lewis đại diện nhóm Bắc Mỹ và bạn Annica đại diện nhóm châu Âu.

Ba tháng một lần, vào tối thứ Năm hoặc Chủ nhật, chúng tôi gặp trực tuyến với đại diện của các nhóm Wake Up tại châu Âu. Các anh chị em xuất sĩ tại Làng Mai sử dụng tối làm biếng của mình để sinh hoạt với các bạn. Có khi tôi hơi mệt sau một ngày quán niệm nhưng khi tham gia cùng mọi người tôi lại cảm thấy như mình đang trở về nhà, gặp người thân trong phòng khách rồi thăm hỏi lẫn nhau “Chị khỏe không? Em vui không? Công việc ổn định không?” Các bạn chia sẻ những khó khăn trong cuộc sống và ngược lại, quý thầy, quý sư cô cũng cởi mở sẻ chia những trở ngại mà xuất sĩ gặp phải trong môi trường tu viện. Có khi chúng tôi còn ngẫu hứng cùng hát múa, nghe đàn hoặc bày ra vài trò chơi nho nhỏ để thay đổi không khí. Cứ như vậy, tình anh chị em giữa chúng tôi ngày thêm gắn bó, bền chặt.

Nhóm Wake Up Trì Địa (Wake Up Earth Holder)

Tháng 5 năm 2020, Làng Mai tổ chức khóa tu Wake Up trực tuyến. Đề tài bảo vệ môi trường trở thành mối quan tâm chính của 250 bạn trẻ tham dự khóa tu. Ý thức được nhu yếu đó, quý thầy, quý sư cô đã thành lập tăng thân Trì Địa cho các bạn sống tại châu Âu. Khởi đầu, nhóm nòng cốt có sự góp mặt của thầy Trời Đức Niệm, quý sư cô Tảo Nghiêm, Trăng Lộc Uyển, Trăng Giác Hòa, Trăng Khương Định cùng các bạn Simona Coayla-Duba, Aoise, Gijs, Alex và tôi. Các thành viên gặp nhau trực tuyến mỗi tháng một lần. Dần dà còn có thêm các bạn trẻ trong các nhóm Wake Up châu Âu, châu Mỹ, châu Á cùng tham gia. Mỗi lần gặp mặt là mỗi lần niềm vui và nước mắt được sẻ chia, cũng từ đó mà chúng tôi tìm ra cách nâng đỡ nhau trong khả năng có thể. Cứ thế, tình thương dành cho đất Mẹ trở nên sâu đậm hơn trong trái tim mỗi người.

Xây dựng Wake Up là xây dựng tình huynh đệ

Những anh chị em xuất sĩ phụ trách nhóm Wake Up vẫn thường nhắc nhở nhau rằng dù chúng tôi có làm gì cho Wake Up hay phụ trách công việc nào trong tăng thân thì việc đó cũng chỉ nhằm xây dựng tình huynh đệ. Sư cô Trăng Lộc Uyển có lần chia sẻ: nếu các thành viên trong nhóm thương mến nhau như anh chị em một nhà, có khả năng làm việc hài hòa với nhau thì việc gì mình cũng làm được. Các bạn trẻ sẽ có cảm hứng và niềm tin để thực tập theo mình.

Tôi chưa tới 35 tuổi nên vẫn còn được sinh hoạt với nhóm Wake Up. Tuy vậy có những xuất sĩ hoặc thiền sinh đã trên 35 rồi mà vẫn thích tu học cùng nhóm Wake Up. Trái tim họ không già, tâm hồn họ tươi trẻ. Tôi đã được học hỏi từ những con người tràn đầy nhiệt huyết ấy. Sư em Trời Thiện Ý có tặng tôi câu thư pháp tiếng Anh “The path of compassion is endless, but together it’s a lot of fun!” (Con đường của tình thương dài vô tận, nhưng cùng đi với nhau ta sẽ có nhiều niềm vui). Tôi thích lắm!

Trong bài kệ chúc tán, tôi vô cùng tâm đắc câu:

Hiện tiền đại chúng
Tu tập tinh chuyên
Biết thương yêu nhau như ruột thịt…

Mỗi lần đọc tụng đến câu này thì lòng tôi lại xúc động. Bởi đó cũng chính là tâm nguyện của tôi khi bước trên con đường này – tu học thật hạnh phúc cùng với người trẻ, hết lòng thương yêu và nâng đỡ mọi người xung quanh. Tôi muốn các bạn trẻ thấy rằng sự thực tập có thể rất vui, chứ không cần phải quá nghiêm túc như các bạn vẫn nghĩ. Tu học khá là vui!

Bụt và Thầy đã chỉ cho ta một con đường

Thầy và tăng thân đã làm mới đạo Bụt, làm cho đạo Bụt gần gũi hơn với người trẻ. Phong trào Wake Up là một phần của cuộc cách mạng ấy. Wake Up đã trở thành nơi nương tựa tinh thần, là sân chơi tâm linh, thu hút rất nhiều người trẻ khắp nơi trên thế giới. Wake Up là viên ngọc của truyền thống Làng Mai. Những buổi pháp đàm với các bạn trẻ trong nhóm Wake Up là những giây phút hết sức quý báu. Tôi được lắng nghe những kinh nghiệm của mọi người, học cách các bạn áp dụng sự thực tập vào đời sống hàng ngày, được chia sẻ sự tu tập của mình. Và đó cũng là cơ hội cho những cái thấy mới nảy mầm.

 

 

Trong tác phẩm Đường xưa mây trắng, có đoạn nói về tôn giả Ananda. Tôn giả vẫn chưa giác ngộ mà Bụt thì không còn trụ thế được bao lâu nữa. Thấy Anada sụt sùi, Bụt ân cần căn dặn: “Ananda, đừng buồn khổ nữa, Như Lai đã từng nhắc thầy là vạn pháp vô thường, có sinh thì có diệt, có thành thì có hoại, có hợp thì có tan. Làm sao có sinh mà không có diệt cho được? Làm sao có thành mà không có hoại cho được? Làm sao có hợp mà không có tan cho được? Ananda, mấy mươi năm nay thầy đã thân cận Như Lai, săn sóc Như Lai với tất cả tấm lòng thương mến của thầy. Thầy đã đem hết lòng hết sức để giúp đỡ Như Lai, Như Lai rất cám ơn thầy, công đức của thầy rất lớn nhưng Ananda, thầy có thể đi xa hơn, nếu thầy cố gắng thêm chút nữa thì thầy sẽ thoát được sinh tử, đạt tới tự do, vượt thoát mọi sầu khổ, bi ai”.

Đọc những dòng này, tôi càng vững tâm, rằng chúng ta vẫn có thể đạt được giải thoát dù không được các bậc đạo sư giác ngộ trực tiếp dìu dắt. Tôn giả Ananda đạt ngộ sau khi Bụt nhập Niết Bàn thì có lẽ chúng ta cũng có thể vượt thoát sinh tử dù Thầy không còn ở đây trong hình hài này nữa. Thầy đã chỉ cho chúng ta con đường hiểu và thương, đã khai mở tâm trí cho biết bao nhiêu người trên khắp năm châu. Tôi đã nguyện với lòng sẽ tiếp tục bước đi trên con đường này và giúp cho người khác nếm được an vui. Tôi biết hạnh phúc lớn nhất của Thầy là thấy đệ tử của mình thực hiện được mong mỏi ấy. Thầy đã đặt niềm tin vào tất cả chúng ta.

 

Giấc mơ đại đồng

Phạm Minh Hương (Chân Thu Lâm)

Cuộc đời là một hành trình trải nghiệm và chế tác hạnh phúc hay khổ đau là tùy thuộc vào chính mình. Mãi khi đến Làng Mai con mới kinh nghiệm được điều đó.

Tuổi thơ của con lớn lên thường trực với những tiếng còi báo động máy bay Mỹ ném bom; với niềm vui rất hiếm của bữa cơm có thịt mặc dù chỉ là một mẩu bé xíu, mỏng tang; với những bài học dạy làm người rất nghiêm khắc của ông bà và bố mẹ mà những đứa trẻ như chúng con không thể cảm nhận được tình yêu thương vô bờ bến trong đó. Sự sợ hãi chiến tranh, nỗi lo thiếu ăn, sự cô đơn của những đứa trẻ luôn bị phạt vì những lỗi lầm mà chúng không thể hiểu theo cách của người lớn, đã làm nên một thế hệ chúng con.

Nhưng điều đó không làm mất đi những tuệ giác của tổ tiên mà ông bà, bố mẹ đã truyền trao cho chúng con trong nếp sống và những bài học hàng ngày. Khi lớn lên, được đi du học ở nước ngoài, được tiếp xúc với các nền văn minh của thế giới, con vẫn thấy thiếu một cái gì đó. Con vẫn luôn tìm cầu những kiến giải cho các xung đột giá trị giữa những chuẩn mực của nền kinh tế vật chất và những giá trị đẹp ngày xưa. Mãi cho tới khi đến Làng Mai Thái Lan vào mùa xuân năm 2017, con mới thấy được ký ức tuổi thơ một thời vẫn còn nguyên ở đó, trọn vẹn. Con nhận ra nếp sống của người Việt mà con được tiếp xúc và lớn lên, những hạt giống được gieo trồng bên trong mà con đã để chúng ngủ vùi từ lâu. Con thấy một quê hương thân thương trong lòng đang trình hiện vào mùa xuân năm đó, nhưng lại không phải ở Việt Nam mà tại nước láng giềng Thái Lan.

Sư Ông thường nhắc tới di sản của tổ tiên và sự nghiệp hoằng pháp của Sư Ông là một minh chứng của sự tiếp nối di sản đó. Con thấy cốt tủy lời Bụt dạy được Sư Ông làm mới để thế hệ chúng con có thể dễ dàng tiếp nhận. Và những đóng góp của Sư Ông cho nhân loại mang theo trong đó gia tài tâm linh của người Việt. Một đất nước nhỏ bé, luôn phải chịu sức ép của các cuộc chiến tranh, những thách thức của thiên tai và sự đa dạng sắc tộc đã làm nên một tuệ giác dân tộc, tuệ giác của sự bao dung, chấp nhận, kiên nhẫn và bền bỉ vượt qua khó khăn. Chính tuệ giác ấy đã tạo nên sức mạnh dân tộc để đứng vững trước mọi thử thách. Tuy vậy, chúng con, những đứa trẻ được sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh ngoại xâm đang làm mờ đi những giá trị tâm linh của tổ tiên nên luôn bị đối diện với những xung đột nội tâm về các giá trị và chuẩn mực. May mắn thay, hạt giống tổ tiên trao truyền vẫn còn nguyên đó. Chỉ khi đến Làng Mai, đọc câu thư pháp Đã có đường đi rồi, con không còn lo sợ con mới nhớ lại ngày xưa bà ngoại con luôn dạy: “Con phải sống nếp sống của một người có Đạo: đói cho sạch, rách cho thơm; giữ khí phách của một người quân tử, nói là làm và tự chịu trách nhiệm với kết quả; có phẩm chất của một người làm nghề chân chính; luôn tích lũy phước đức để phụng sự đất nước”. Phước là phận sự ở đời, đức là điều kiện để thực hiện được phận sự đó. Phước đức của con cháu là do tổ tiên trao truyền lại. Con chợt nhận ra mình thật may mắn khi có được phước đức đó. Phước đức của một người con đất Việt, phước đức được trải nghiệm chiến tranh và sự thay đổi của dân tộc để có thể hiểu về vô thường và trân quý những gì mình đang có, phước đức của một doanh nhân có cơ hội được tham gia đóng góp vào huyết mạch tài chính quốc gia. Và con cần tiếp nối, làm tròn bổn phận đó.

Trước đây, con đã chạy trốn khỏi cuộc đời mình trong một thời gian dài vì không thể đối diện được với những áp lực trách nhiệm từ công việc và cuộc sống cá nhân. Con đã có những hiểu lầm đáng tiếc khi tiếp nhận những lời dạy của Phật. Con hiểu cuộc đời này là tạm và không thật. Muốn tu thì phải buông và, hay quá, mình chỉ cần buông là tu được. Con buông hết trách nhiệm mình đang đảm trách, buông cả những tài sản mình được giao gìn giữ và bắt đầu con đường tìm thầy học đạo. Bảy năm “buông ”, con đi tất cả các nơi có di tích Phật giáo, tham dự các bài giảng của các đạo sư và các khóa thiền của các trường phái Phật giáo, được gặp gỡ các vị cao tăng nổi tiếng. Vậy mà con vẫn thấy bế tắc và không thể kiến giải những gì đã xảy ra với mình để có khả năng đối diện được với nó.

Đối với Làng Mai, ban đầu con chỉ đến với cái tâm tìm gặp thêm một người thầy nổi tiếng, làm đầy thêm kho kiến thức Phật học của mình. Con chưa từng được diện kiến Sư Ông. Đọc sách Sư Ông, con không thể nhận ra những lời dạy rất đỗi thâm thúy bởi vì chúng quá đơn giản. Con chưa buông được cái muốn được biết thêm. Con cũng chưa buông được nỗi sợ hãi, cô đơn bên trong. Còn những tài sản bên ngoài, con biết, nếu có buông được cũng chẳng giúp con thấu hiểu những phước đức tổ tiên trao truyền cho mình để tu tập và trưởng thành.

 

 

Thế rồi, dần dần, con thấy mình bắt đầu thấm sự thực tập của Làng Mai. Sư Ông có chia sẻ: tu tập là để mình trở nên đẹp hơn chứ không phải để trở thành một thầy tu trong gia đình hay một thầy tu trong công ty. Mình phải là một chủ tịch công ty có hiểu và có thương để thực hiện bổn phận mà cuộc đời đã trao tặng cho mình. Con thấy Sư Ông trong từng lời dạy, từng lời chia sẻ của quý thầy, quý sư cô; trong những câu kinh bằng tiếng Việt trong sáng; trong lời mỗi bài thiền ca; trong nếp thực tập chánh niệm của cuộc sống hàng ngày ở Làng. Những câu thư pháp bên con đường thiền hành đã đánh thức những hạt giống trong con. Con chợt nhận ra hạnh phúc từ những điều thật đơn giản nhưng vô cùng mầu nhiệm. Con có hỏi thầy Pháp Niệm: “Thưa thầy, điều gì là vĩ đại nhất ở Sư Ông? Thầy trả lời: “Di sản lớn nhất Sư Ông để lại là tăng thân. Sư Ông có một giấc mơ đại đồng, giấc mơ về hạnh phúc cho muôn loài và giấc mơ về sự giác ngộ tập thể.”

Con đã hiểu được sứ mệnh của con, sứ mệnh được tổ tiên trao truyền, sứ mệnh được Sư Ông đánh thức. Lúc đó ở Việt Nam, con thấy chưa có nhiều người hiểu được tầm vóc của Sư Ông và những gia tài tâm linh mà Sư Ông cùng Tăng thân đang gìn giữ cho đất nước. Con quay về Việt Nam và liên tục tổ chức các chuyến đi đến Làng Mai Thái Lan cùng với những người bạn, những doanh nhân đang tìm cầu một con đường để có thể làm đẹp bổn phận của mình. Từ một người muốn chạy trốn khỏi cuộc sống và trách nhiệm công việc, con đã tìm thấy con đường. Đó là con đường tiếp nối Sư Ông xây dựng một giấc mơ đại đồng. Giấc mơ trong đó các doanh nghiệp đều biết thực tập, phụng sự cho đất nước đi lên. Những vướng mắc trong con tự nhiên được cởi trói, những câu hỏi trong con tự được trả lời. Con không còn cần bất cứ lời giải đáp nào nữa.

Những ngày đầu tiên quay lại làm việc sau khi bỏ công ty quá lâu, con gặp vô vàn khó khăn. Câu thư pháp Đã về đã tới của Sư Ông luôn là lời hướng dẫn giúp con thực tập. Để xây dựng một doanh nghiệp với sứ mệnh phụng sự, chúng con phải thay đổi lại toàn bộ nguyên tắc và triết lý kinh doanh của công ty. Điều này gây ảnh hưởng khá lớn tới VNDIRECT. Con đã phải chấp nhận sự ra đi của 70% nhân sự trong vòng hai năm đầu. Con thực tập quan sát để giữ chánh kiến, thực tập lắng nghe sâu để kiên trì giữ truyền thông với từng người và kết nối mọi người lại với nhau. Con nhận ra rằng con đường chúng con thực hiện đang tiếp nhận phước đức cao quý từ tổ tiên và VNDIRECT cũng chính là một tăng thân. Sự nghiệp mà chúng con đang đảm trách thật cao quý. Đó cũng là sự nghiệp của trí tuệ – Wisdom to Success. Mọi người trong VNDIRECT dần thay đổi và thấy được lý tưởng phụng sự đất nước trong mỗi công việc mình làm. Đó là động lực to lớn cho mỗi chúng con đối diện được với mọi khó khăn thách thức, sẵn sàng dấn thân học hỏi và hoàn thiện bản thân, toàn tâm toàn ý với trách nhiệm mình đang được giao phó. Nhờ vậy, chúng con đã đáp ứng được mọi nhu cầu, góp phần kiến tạo và đảm bảo thịnh vượng tài chính cho mọi khách hàng thông qua những phẩm chất của người làm nghề trung thực cũng như thông qua năng lực đồng sự và trí tuệ tập thể.

 

 

Với con, mỗi người trong công ty như một người em, người cháu, người con của mình. Và niềm vui của một người lãnh đạo, đúng như Sư Ông dạy, là niềm vui của người làm vườn: liên tục chăm sóc vun bồi, thấy được sự trưởng thành của những cây khác nhau và nếm được hạnh phúc của quá trình đó. Kết quả của mỗi ngày làm việc là la bàn định hướng cho công việc của ngày tiếp theo. Kế hoạch làm việc được tập trung toàn tâm toàn ý ở hiện tại thay vì mong muốn ở tương lai xa xôi. Sự thành công của công ty đến với con cũng rất bất ngờ vì chúng con không cần phải đặt ra kế hoạch kinh doanh tham vọng mà chỉ liên tục nhận diện những điểm cần khắc phục và hoàn thiện ở hiện tại để tạo được một môi trường làm việc có nhiều niềm vui cho những ai có cùng lý tưởng phụng sự. Chúng con thực tập dừng lại khi có lo lắng, an trú ở hiện tại để biết đủ, chế tác được niềm vui từ cả những bài học thất bại hay thành công, và nhận diện được thách thức vướng mắc để chuyển hóa. Tình đồng nghiệp là tài sản của mỗi chúng con trên con đường phụng sự. Đó là thức ăn để chúng con có đủ năng lực làm không biết mệt với tinh thần “Vô sự”.

Từ năm 2016, nhiều khóa tu Doanh nhân hạnh phúc được tổ chức. Rất nhiều lãnh đạo doanh nghiệp đã đưa thực tập chánh niệm vào công ty và con cũng học được rất nhiều từ những chia sẻ của họ. Trong các khóa tu, mọi người ai cũng rạng ngời hạnh phúc, biết ơn Bụt Tổ, biết ơn Sư Ông và quý thầy, quý sư cô Làng Mai đã mang đến cho doanh nhân sản phẩm của hạnh phúc đích thực.

Bây giờ, mỗi lần cùng quý thầy, quý sư cô tổ chức khóa tu Doanh nhân hạnh phúc, con đều được nếm niềm vui khôn tả khi thấy những người tham gia khóa tu thấy được những điều con đã thấy, hiểu được những điều Sư Ông dạy để chế tác niềm vui, đối diện và chuyển hóa được khổ đau. Tăng thân doanh nhân chúng con mỗi năm lại đón thêm những thành viên mới, có thêm gia đình tăng thân mới và hạt giống giác ngộ đã được lan tỏa ở chính quê hương tâm linh Việt Nam nơi Sư Ông đã luôn hướng về và dành trọn cuộc đời gìn giữ. Con đã có con đường. Con đường cùng tăng thân xây dựng giấc mơ đại đồng, cùng thực tập để hướng tới hạnh phúc và giác ngộ cho tất cả mọi người.

Những ngôi trường tỉnh thức

(Thầy Chân Pháp Lưu và Orlaith O’Sullivan)

Thầy Chân Pháp Lưu, người Mỹ, là một vị giáo thọ của Làng Mai đã có nhiều năm gắn bó với chương trình đem chánh niệm vào giáo dục (còn được gọi là Wake Up Schools). Trong bài viết này, thầy cùng Orlaith O’Sullivan – một thành viên Tiếp Hiện và cũng là điều phối viên của chương trình Wake Up Schools – chia sẻ với chúng ta hoài bão của Thầy về những ngôi trường tỉnh thức cũng như sự phát triển của chương trình này trong những năm qua. Bài viết được BBT chuyển ngữ từ tiếng Anh.

Là một trong những vị thầy Phật giáo đầu tiên đưa yếu tố khoa học và tâm lí học Tây phương vào chương trình tu học dành cho các vị xuất sĩ, Thầy luôn quan tâm đến cách chúng ta học tập cũng như cách chúng ta có thể chung sống với nhau.

Khởi nguồn từ Việt Nam trong những năm tháng chiến tranh

Vào những năm 1960 trong thời kỳ chiến tranh, Thầy đã thành lập trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội (TNPSXH) để đào tạo các tác viên làm công tác xã hội, trong đó có việc dạy học cho trẻ em ở vùng nông thôn Việt Nam. Những tác viên này, tay không về làng, trước tiên là chơi với các em nhỏ rồi dần dần dạy cho các em bài học vỡ lòng và cho mỗi em một cốc sữa đậu nành vào buổi trưa. Các tác viên không thuyết phục người dân theo một chủ thuyết nào, phe phái nào, chỉ đơn thuần là giúp đỡ người dân trong làng. Từ từ người dân tin tưởng, có người còn cho mượn nhà để làm phòng học, rồi dân làng cùng đóng góp vật liệu để dựng nhà lá đơn sơ làm phòng học cho các em.

Phong trào này khởi đầu trong chiến tranh và tiếp tục cho đến ngày nay với tên gọi Chương trình Hiểu và Thương. Sư Cô Chân Không cùng rất nhiều tấm lòng trợ giúp, trong đó có Quỹ Thích Nhất Hạnh (Thich Nhat Hanh Foundation), đã hỗ trợ các thầy cô giáo và trẻ em tại các vùng nông thôn hẻo lánh của Việt Nam.

 

 

Chúng ta có thể thấy rằng từ lúc còn là một giáo thọ trẻ, Thầy đã bắt đầu công trình đào tạo giáo viên. Điểm khởi đầu ấy chính là gốc rễ của phong trào Wake Up Schools (Trường học Tỉnh thức) ngày nay.

Du nhập qua Phương Tây

Sau khi bị chính quyền Việt Nam vô hiệu hóa hộ chiếu, Thầy được chấp nhận định cư tại Pháp. Cùng với sự trợ giúp của sư cô Chân Không, Thầy thành lập một cộng đồng tu học nhỏ ở ngoại ô Paris. Năm 1982, trung tâm được dời về vùng quê Dordogne (Tây Nam nước Pháp) và trở thành Làng Mai. Trong những ngày đầu, đây không chỉ là một trung tâm dạy thiền tập mà còn là nơi giữ gìn và trao truyền những giá trị văn hóa cho người Việt sống xa quê hương. Đến những năm 1990, khi cộng đồng xuất sĩ đã lớn mạnh tại Làng Mai, Thầy muốn đưa những kinh nghiệm giáo dục này ra với quần chúng. Chính Thầy đã gợi ý giáo viên mang chánh niệm vào trường học, nổi bật trong số đó là Richard Brady, một thầy giáo dạy toán tại một trường dòng gần Washington, D.C. Thầy Richard Brady nay là giáo thọ kì cựu của Làng Mai. Richard đã khởi đầu một mạng lưới giáo dục với tên gọi “Chánh niệm trong giáo dục.” Mạng lưới này vẫn còn hoạt động đến tận ngày nay, hiện đang kết nối trực tuyến với các giáo viên ở nhiều nơi trên thế giới và mỗi năm đều có một buổi gặp mặt. Nhờ hoạt động này mà phong trào đem chánh niệm vào giáo dục dần được hình thành. (Xin đọc thêm bài viết “Hành trình đem chánh niệm vào lớp học” của Richard Brady trong số báo này)

Năm 2008, Thầy có chuyến du hóa tại Ấn Độ. Anh Shantum, một giáo thọ cư sĩ của Làng Mai, khi tổ chức chuyến đi này đã hỏi Thầy về chủ đề của chuyến đi. Thầy trả lời rằng Thầy muốn tập trung vào lĩnh vực giáo dục, cụ thể là: “Chúng ta có thể đóng góp được gì để giúp các giáo viên và học sinh biết cách chăm sóc cảm xúc, đặc biệt là cảm xúc mạnh.” Đây là một điều vẫn còn thiếu sót trong nền giáo dục hiện nay. Theo tuệ giác của Thầy, hơi thở chánh niệm sẽ mang lại hiệu quả. Năm đó, anh Shantum đã tổ chức một khóa tu cho giáo viên từ khắp đất nước Ấn Độ để được nghe Thầy giảng về chánh niệm trong lớp học.

 

 

Cũng vào thời điểm đó, Tổng thống Pháp cũng đang kêu gọi các trường học đưa môn Đạo đức vào thời khóa chính thức nhưng có rất nhiều tranh cãi về nội dung cho bộ môn này. Thầy dạy, ý của Thầy là khi các em học được cách thở trong chánh niệm, học dừng lại và trở về để nhận diện những gì đang diễn ra trong thân và trong tâm mình, các em sẽ chạm đến được những phẩm chất tốt đẹp vốn có trong tự thân và học cách để tưới tẩm những phẩm chất này. Các em cũng có cơ hội nhìn sâu để thấy những cảm xúc giận dữ, buồn bã, sợ hãi được nuôi dưỡng bằng những lối tư duy nào trong mình. Chỉ cần nhìn sâu, chúng ta đã có thể sống một cuộc sống có đạo đức hơn. Thầy gọi đó là Đạo đức học Ứng dụng (Applied Ethics). Đó chính là nền tảng cho phong trào Wake Up Schools hiện nay.

Mở rộng đào tạo cho nhiều giáo viên

Trên căn bản đó, chúng ta đã tổ chức nhiều khóa tu cho giáo chức tại châu Á, châu Âu, Canada và Mỹ. Chúng ta đã đóng góp đáng kể cho các trường học tại Anh, Mỹ, Ấn Độ, Indonesia và nhiều nơi khác trên thế giới. Nhưng trên hết, chúng tôi nhận thấy rằng chính sự chuyển hóa trong tự thân các thầy cô giáo khi tham dự khóa tu mới tạo được ảnh hưởng to lớn đến học sinh và môi trường giảng dạy của họ. Chỉ cần các thầy cô giáo tham dự một khóa tu năm hoặc bảy ngày là đã có được kinh nghiệm chuyển hóa. Sau khi tham dự vài khóa tu, nhiều vị hỏi chúng tôi làm cách nào để tiếp tục nuôi dưỡng và đào sâu vào sự thực tập trong đời sống và trong công việc hằng ngày. Do đó, chúng tôi bắt đầu nghĩ đến vấn đề phát triển công cụ hỗ trợ để đáp ứng nhu cầu học hỏi trong lĩnh vực này.

Thầy Pháp Dung, sư cô Châu Nghiêm, thầy Pháp Lai, thầy Pháp Lưu, thầy Pháp Linh, cùng với nhiều vị xuất sĩ khác, đã làm việc trong mấy năm với Giáo sư Katherine Weare, Elli Weisbaum, Yvonne Mazurek… nhằm khai triển sự thực tập căn bản của Làng Mai thành tài liệu hướng dẫn cho giáo viên. Tài liệu này đã được xuất bản thành sách Happy Teachers Change the World: A Guide for Cultivating Mindfulness in Education (sách đã được dịch sang tiếng Việt: Thầy cô giáo hạnh phúc sẽ thay đổi thế giới). Cuốn sách này đang được dùng như một quyển cẩm nang dành cho giáo viên trong hệ thống Wake Up Schools. Đây không phải là loại sách giáo khoa dạy lý thuyết thuần túy mà là hoa trái thực tập từ hàng trăm giáo viên khi tham dự các khóa tu và kinh nghiệm áp dụng chánh niệm trong đời sống hàng ngày và trong môi trường giảng dạy thực tế.

Không dừng lại ở việc tổ chức các khóa tu cho giáo viên, chúng tôi còn xây dựng chương trình đào tạo một năm dành cho các giáo viên, dựa trên chương trình dành cho các thành viên nòng cốt của dòng tu Tiếp Hiện. Chúng tôi gọi đó là Chương trình đào tạo thầy cô giáo hạnh phúc. Tham gia chương trình này, các thành viên sẽ được hướng dẫn bởi quý thầy, quý sư cô giáo thọ của Làng Mai và một số thầy cô giáo đã có kinh nghiệm với chương trình. Chương trình cũng nhận được sự hỗ trợ của tăng thân Tiếp Hiện tại mỗi nước. Ngày nay khi chương trình đã phát triển, với định hướng xây dựng tăng thân trong lĩnh vực giáo dục, các giáo viên tham dự chương trình đào tạo này sẽ tự tìm tới nhau, tạo thành một tăng thân để hỗ trợ và chia sẻ kinh nghiệm với nhau. Sáu năm qua, chương trình đã nhận được sự hưởng ứng từ nhiều giáo viên ở các nước Bắc Mỹ cũng như từ Pháp, Ý, Đức và Tây Ban Nha.

Khi dùng từ “thầy cô giáo hạnh phúc”, Thầy muốn nói rằng giáo viên cần biết chăm sóc bản thân để chế tác hạnh phúc, không phải với ý nghĩa là giáo viên đó lúc nào cũng hạnh phúc. Thầy vẽ một vòng tròn cùng với mũi tên hướng vào tâm vòng tròn và chỉ cho chúng ta: “Lối ra tùy thuộc đường vào nội tâm” (The way out is in). Nếu giáo viên biết chăm sóc bản thân thì sẽ có khả năng chăm sóc được gia đình, đồng nghiệp, học trò, thậm chí là phụ huynh của học sinh. Như vậy, vòng tròn sẽ mở rộng thành một vòng lớn hơn.

Một người không có khả năng chăm sóc bản thân thì không thể giúp người khác làm được điều đó. Chính vì vậy, chương trình Wake Up Schools, các giáo viên tham dự được nghe chúng tôi nhắc đi nhắc lại: sự thực tập phải bắt đầu từ tự thân mỗi người. Giáo viên phải là người thay đổi trước tiên.

Ba trụ cột của chương trình Wake Up Schools

Trụ cột thứ nhất: Thân giáo. Chúng ta phải là hiện thân của sự thực tập. Trong một khóa tu, chúng tôi bắt đầu bằng cách mời thầy cô giáo tiếp xúc với sự thảnh thơi, niềm vui và hạnh phúc. Nếu một giáo viên tiếp xúc được với khung trời tự do thênh thang trong lòng họ và có chuyển hóa thì họ sẽ muốn đem kinh nghiệm của mình chia sẻ với người khác. Rất có thể khi trở về nhà sau khóa tu, đồng nghiệp sẽ hỏi giáo viên ấy: “Dạo này chị làm gì mà vui hơn vậy?” hay gia đình của vị ấy sẽ hỏi: “Trông em nhẹ nhàng hơn trước. Em đã làm gì vậy?”

Nhờ niềm vui trong tu học mà người đó sẽ nuôi dưỡng được tâm phụng sự – trụ cột thứ hai. Phụng sự có nghĩa là đưa chánh niệm vào cuộc sống để giúp thay đổi xã hội theo hướng tích cực hơn, chứ không có nghĩa là sử dụng các phương pháp chánh niệm để kinh doanh kiếm lợi cho bản thân. Các phương pháp thực tập đã được hiến tặng với tinh thần không vụ lợi và tinh thần đó có mặt trong mọi khía cạnh của Wake Up Schools. Chúng tôi hướng đến sự thay đổi toàn diện trong cộng đồng trường học. Bắt đầu bằng sự chuyển hóa tự thân của mỗi giáo viên rồi mở rộng đến gia đình, đồng nghiệp, học trò và các vị giáo chức trong ngành. Từ sự thay đổi trong nhà trường chúng ta có thể đạt tới sự thay đổi ở mức độ xã hội.

 

 

Điều này tạo cơ hội cho trụ cột thứ ba: xây dựng đoàn thể tu học. Đây là điều mà chúng ta đã và đang thực hiện khá tốt. Các trung tâm tu học của Làng Mai trên khắp thế giới là những cộng đồng sống chánh niệm. Đối với chúng tôi, chánh niệm là con đường, không phải là phương tiện. Chúng tôi có mặt không phải để trao truyền những kỹ năng. Đây là một con đường, một lối sống mà chúng tôi cùng đi với nhau chứ không phải đi riêng lẻ. Chúng tôi đang xây dựng một tăng thân quốc tế với những con người có nguồn gốc xuất thân và văn hóa khác nhau. Đến từ châu Á, châu Âu, Bắc Mỹ,… tất cả chúng tôi cùng chung sống, cùng ngồi thiền, đi thiền, ăn cơm im lặng, tháng này qua năm nọ. Đời sống tăng thân đã ăn sâu vào trong mỗi tế bào mỗi chúng tôi. Việc mở rộng đời sống này đến giáo viên, học sinh và gia đình của các vị là điều diễn ra hết sức tự nhiên.

Những sáng kiến từ tăng thân

Khi thực tập, chúng tôi cũng thực tập như một đoàn thể. Tăng thân Giáo viên Hạnh phúc (Happy Teachers Sangha) bao gồm nhiều thành viên đến từ các quốc gia khác nhau – Nhật, Nga, Pháp, Đức, Mỹ, Philipin, Hà Lan, Kenya và Brazil – chính là sự biểu hiện cụ thể của tinh thần tăng thân. Các giáo viên họp mặt trực tuyến, chia sẻ niềm vui và nỗi buồn cho nhau, để từ đó thêm thấu hiểu và tìm cách nâng đỡ nhau tốt hơn. Chúng ta hiện có một tăng thân Giáo viên Hạnh phúc vùng Bắc Mỹ và một tăng thân Giáo viên Hạnh phúc toàn cầu.

Trong bối cảnh xã hội hiện nay, một giáo viên chánh niệm cũng đồng thời là một nhà hoạt động giúp chuyển hóa xã hội tận gốc rễ. Để yểm trợ điều này, chúng tôi đã tổ chức một khóa tu Wake Up Schools quốc tế trực tuyến, từ ngày 25 đến 27 tháng 2 năm 2022. Đây là cơ hội cho các giáo viên cùng thực tập chung với nhau, kết nối với các thành viên khác và cùng nhau lên chương trình hướng dẫn cho học sinh. Bên cạnh đó, khóa tu còn là một khoảng nghỉ cuối tuần cần thiết để mỗi người dừng lại và nhìn sâu vào những yếu tố làm nên một người giáo viên chánh niệm. Khi các trung tâm của Làng Mai được phép mở cửa trở lại sau đại dịch, chúng tôi sẽ tiếp tục tổ chức những khóa tu cho giáo viên ngay tại tu viện. Chúng tôi muốn các thầy cô giáo biết rằng họ luôn luôn có một nơi để trở về, một nơi nương tựa. Trở về để được nghỉ ngơi sau bao mỏi mệt của đời sống. Trở về để thấy đời sống tăng thân vẫn đang tiếp diễn.

Gần đây, sự thực tập của Wake Up Schools được trình bày lại trong một phiên bản mới. Giáo sư Katherine Weare cùng với Adrian Bethune đã viết một cuốn sách hướng dẫn tổng quát với tựa đề “Implementing Mindfulness in Schools: An Evidence-Based Guide” (Ứng dụng chánh niệm trong trường học: Hướng dẫn dựa trên thực nghiệm). Sách được tổ chức The Mindfulness Initiative (Sáng kiến Chánh Niệm) của Vương quốc Anh xuất bản. Hai tác giả đã tham khảo rộng rãi với những chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực giáo dục, trong đó có điều phối viên quốc tế của hệ thống Wake Up Schools, Tiến sĩ Orlaith O’Sullivan. Cuốn sách nhấn mạnh tầm quan trọng khi toàn trường đều tham gia thực hành chánh niệm, và có một hướng tiếp cận lâu dài để sự thực tập chánh niệm có thể thấm sâu vào nếp sinh hoạt của trường.

Những hoạt động của Wake Up Schools ngay trước và trong thời gian đại dịch

Vào tháng Một năm 2019, thầy Pháp Dung, sư cô Hiền Hạnh, sư cô Thanh Nghiêm, thầy Pháp Lưu, sư cô Thao Nghiêm, thầy Bảo Tạng và thầy Phạm Hạnh đã mang Wake Up Schools đến Uganda. Trong số 250 giáo viên tham dự, phần lớn là người Công giáo, và mỗi ngày trong khóa tu họ vẫn có lễ cầu nguyện. Đây là một điều khá mới mẻ đối với chúng tôi. Nhưng thực ra, trong khóa tu không hề xảy ra một trở ngại nào. Chúng tôi ở đó để chia sẻ về sự thực tập chánh niệm, về sự vận hành của tâm, cách nhận diện trực tiếp những cảm xúc tiêu cực và giúp họ thấy được những loại thực phẩm nào đã làm xuất hiện những cảm xúc đó.

Các thầy cô giáo trong khóa tu nhận ra rằng người dân Uganda đang rất cần sự thực tập này, một phương pháp mà mỗi con người đều cần thực tập để giúp họ sống an lành và hạnh phúc. Những giáo viên này hiện đang mang những kinh nghiệm chuyển hóa của tự thân về lại trường học, chia sẻ với học trò và đồng nghiệp của mình. Chuyến đi đã được anh Wouter Verhoeven thuộc hãng truyền thông Evermind Media ghi lại và dựng thành một bộ phim tài liệu.

 

Trong đại dịch Covid, nhóm cộng sự của hệ thống Wake Up Schools đã dùng nền tảng đào tạo trực tuyến Webinar hỗ trợ các cán bộ y tế tuyến đầu chống dịch ở Việt Nam, trong đó có một hội thảo kết hợp với Trung tâm Nghiên cứu Cải thiện Sức Khỏe (Center for Healthcare Improvement) và Đơn vị Nghiên cứu Lâm sàng thuộc Đại học Oxford (OUCRU). Hai tuyến đầu cam go nhất trong việc cứu chữa và điều trị Covid tại Việt Nam là Bệnh viện Nhiệt đới Trung ương Hà Nội và Bệnh viện Chợ Rẫy Tp. Hồ Chí Minh. Các y bác sĩ và cán bộ y tế của hai bệnh viện đã tham dự các chương trình trên.

Vào thời điểm các trường học chuẩn bị mở cửa trở lại, chúng tôi đã tổ chức hai buổi đào tạo qua webinar và một chương trình trực tuyến “2020 Noble Semester – Học kỳ cao quý” vào Chủ nhật, ngày 03.05.2020 dành cho giáo viên và phụ huynh ở Việt Nam. Chương trình có phần chia sẻ của sư cô Bội Nghiêm từ tu viện Mộc Lan, Mỹ.

Ngày 12.5.2020, nhóm cộng sự Wake Up Schools đã tổ chức một cuộc hội thảo cho giới giáo chức Việt Nam. Hơn một ngàn giáo viên, giáo chức của các trường đại học, cao đẳng, trung học phổ thông (THPT) và mẫu giáo tại Việt Nam đã tham gia. Diễn giả khách mời bao gồm nhiều giảng viên đại học, cố vấn tâm lý và ban giám hiệu các trường THPT. Nội dung chia sẻ xoay quanh những thách thức và cơ hội trong học đường thời đại dịch Covid-19. Trong buổi hội thảo này, cô Orla O’Sullivan và chị Lê Thị Mỹ Hằng trong nhóm Wake Up Schools đã giới thiệu về thực tập chánh niệm, hướng dẫn các học viên cách chăm sóc cảm xúc mạnh và tiếp xúc với năng lượng bình an bên trong mỗi người.

Ngày 20.5.2021, Wake Up Schools được nhận giải thưởng giáo dục Laureate năm 2021 do Quỹ Hạnh Phúc Thế Giới (WHF) và Đại học Liên Hiệp Quốc vì Hòa Bình (UPEACE) trao tặng. Giải thưởng được công bố trong Tuần lễ vì Hạnh phúc Thế giới (World Happiness Week) – một lễ hội quốc tế kéo dài một tuần lễ với mục đích hướng mọi người đến một đời sống an lành và hạnh phúc hơn. Đây là giải thưởng vinh danh những tập thể có nhiều đóng góp cải thiện môi trường giáo dục nhằm nuôi lớn hạnh phúc, sự lành mạnh cho học sinh và phụ huynh. Ông Luis Gallardo – nhà sáng lập, nguyên chủ tịch Quỹ Hạnh phúc Thế giới (WHF) đã trao giải thưởng này. Ông phát biểu: “Wake Up Schools và những điều các bạn đang làm thực sự rất ấn tượng. Các bạn thực sự là một tấm gương, giúp cho chúng tôi thấy rõ việc xây dựng một thế giới hạnh phúc hơn, tỉnh thức hơn và tự do hơn cho tất cả mọi người có ý nghĩa như thế nào.”

Ông cũng bày tỏ sự trân trọng đối với công trình xây dựng tăng thân của Làng Mai: “Cách các bạn giúp các thầy cô giáo có mặt cho nhau, tạo nên một môi trường an toàn là điều rất quan trọng đối với các giáo viên. Các bạn thực sự là những bậc thầy về điều này”. Trước ngày nhận giải thưởng, tăng thân Thầy cô giáo Hạnh phúcđã gặp mặt nhau. Đây là dịp để chúng tôi thăm hỏi, thực tập cùng nhau và giao lưu với các thầy cô giáo từ nhiều quốc gia. Niềm vui gặp mặt đó là một phần của Tuần lễ Hạnh phúc Thế giới.

Thứ Ba, ngày 20.5.2021, nhóm Wake Up Schools đã tham dự chương trình truyền hình Tâm hồn và Cuộc sống châu Âu (Mind and Life Europe), trong khuôn khổ của một sê-ri chương trình khám phá chánh niệm trong giáo dục.

Trong tất cả những sự kiện này chúng tôi luôn nhắc các thầy cô giáo rằng: Hạnh phúc là điều có thể! Chúng tôi phải nói lên vì rất nhiều người không tin vào điều này. Hạnh phúc là điều có thể. Ngay trong giây phút này!

 

 

Công trình nối đuốc

Tiến sĩ Elli Weisbaum (Chân Thanh Tuyền)

Bài viết được BBT chuyển ngữ từ Tiếng Anh

 

Khóa tu chánh niệm đầu tiên năm 10 tuổi

Vào năm 1998, lúc tôi lên mười tuổi, cha mẹ đã cho tôi tham dự khóa tu gia đình đầu tiên với Thầy và tăng thân ở Viện OMEGA, tiểu bang New York, Hoa Kỳ. Trước khi tới dự khóa tu này, mẹ đã đọc sách của Thầy và bắt đầu đem một vài giáo lý Thầy dạy áp dụng vào công việc. Cả nhà tôi đều quan tâm tới chánh niệm.

Ấn tượng đầu tiên của chúng tôi về tăng thân xuất sĩ thật đáng nhớ. Khi vừa lái xe đến trung tâm nơi tổ chức khóa tu, chúng tôi thấy một số quý sư cô đang đi bộ dọc theo bãi cỏ gần hồ nước. Trước đó, chúng tôi chưa từng nhìn thấy hay gặp gỡ một tu sĩ nào theo đạo Bụt. Hình ảnh lúc ấy mới đẹp làm sao! Một cơn gió dịu dàng thổi qua làm tà áo các sư cô bay nhẹ và họ vừa mỉm cười vừa bước từng bước khoan thai. Rồi bỗng dưng mấy con ngỗng gần đó bắt đầu kêu to và lao về phía họ. Các sư cô bỏ chạy ngay, nhưng thay vì hoảng sợ hay kinh khiếp thì họ lại vừa chạy vừa cười rộ lên thích thú. Cha mẹ và tôi cũng cười theo. Mẹ quay sang nói với tôi: “Mẹ nghĩ là chúng ta về đến nhà rồi”.

Từ đó, năm nào cả nhà chúng tôi cũng về tham dự khóa tu gia đình mỗi khi Thầy và tăng thân đến Bắc Mỹ. Vì vậy mà tôi có niềm hạnh phúc được lớn lên trong chiếc nôi của Làng. Tôi được tham gia từ chương trình trẻ em đến chương trình dành cho thiếu niên. May mắn là không lâu sau khi tôi “tốt nghiệp” chương trình thiếu niên, Thầy và tăng thân bắt đầu tổ chức chương trình Wake Up dành cho người trẻ. Tôi tham gia trong chương trình Wake Up Tour vùng Bờ Đông năm 2011. Trong chuyến đi này, một nhóm quý thầy, quý sư cô và các bạn thiền sinh trẻ ở tuổi 20 – 30 đã đến sinh hoạt với các trường đại học dọc bờ Đông Hoa Kỳ (kể cả các trường Yale, Harvard và Brown). Tiếp tục tu tập, sinh hoạt rất thường xuyên và gần gũi với tăng thân, tôi thọ giới Tiếp Hiện năm 2015. Hiện tôi đang là một trong các thành viên sáng lập của tăng thân Wake Up ở Toronto và thành viên Ban chăm sóc của Wake Up Bắc Mỹ.

Nguồn cảm hứng mới

Mười lăm tuổi, tôi phải nhập viện sau khi bị một số virus kích hoạt phản ứng tự miễn dịch, rồi làm cho hệ miễn nhiễm của tôi hoạt động quá mức. Đêm đầu tiên ở bệnh viện, các bác sĩ cho biết họ không chắc là tôi có thể qua nổi đêm đó. Trong suốt quá trình nằm viện, kể cả trong những lúc phải chịu không biết bao nhiêu lần xét nghiệm liên tục, cả nhà tôi đã nương tựa rất nhiều vào pháp môn thực tập của Làng Mai.

Trong những buổi trị liệu, chúng tôi hát các bài thiền ca của Làng và quay về với hơi thở. Mỗi sáng trong giờ thăm khám, tôi được bác sĩ hỏi về những phần trong cơ thể đang bị đau nhức. Sau giờ đó, mẹ thường hướng dẫn tôi thực tập thiền buông thư, nhờ đó mà sáng nào tôi cũng dành thì giờ gửi tình thương và niềm biết ơn đến cơ thể mình. Thực tập thiền buông thư cũng giúp tôi dần nhận diện được những phần nào trong cơ thể không còn bị đau nhức, dù đôi khi đó chỉ là ngón chân áp út. Ngay khi biết mình bị bệnh, tôi bắt đầu thực tập chánh niệm và tôi thấy dù đang bị bệnh nhưng sự trị liệu đã bắt đầu xảy ra.

Cha tôi là bác sĩ. Còn mẹ tôi thường được mời dạy vẽ tại các trường tiểu học và trung học nên từ nhỏ tôi đã được gần gũi với nhiều thầy cô giáo. Từ những nhân duyên đó cùng với trải nghiệm về bệnh tật, tôi trở nên quan tâm đến việc chăm sóc sức khỏe cho những người đang làm các công việc phụng sự cộng đồng như giáo viên, bác sĩ,… Những yếu tố này đã tạo cảm hứng cho tôi trong việc tìm hiểu và nghiên cứu cách thức áp dụng sự thực tập chánh niệm vào lĩnh vực y tế.

 

từ trái sang: Sc. Châu Nghiêm, Thầy và Elli, năm 2013

 

Niềm cảm hứng trong tôi lớn thêm trong quá trình tôi học thạc sĩ. Thời gian đó, bên cạnh tập trung nghiên cứu về việc lồng ghép chánh niệm vào lĩnh vực giáo dục, tôi còn giữ vai trò điều phối viên của chương trình Wake Up Schools – một chương trình được Thầy và tăng thân khởi xướng nhằm hỗ trợ việc đem chánh niệm vào giáo dục. Trong quá trình học sau đại học, tôi được biết đến các nghiên cứu khoa học về tình trạng kiệt sức vì quá tải của những người làm việc trong lĩnh vực phụng sự cộng đồng, đặc biệt là giáo viên và y bác sĩ.

Những kinh nghiệm sống khác nhau đã khiến tôi quan tâm tìm hiểu làm cách nào để môi trường y tế trở nên lành mạnh, nuôi dưỡng, giúp các bác sĩ và nhân viên y tế được phát triển vững mạnh, thay vì phải rơi vào tình trạng kiệt sức vì công việc quá tải. Tôi nhớ trong buổi nói chuyện với vị hiệu trưởng trường Y tế cộng đồng thuộc đại học Harvard, Thầy đã đề nghị mỗi thành viên của một cộng đồng y tế phải học cách sống như thế nào để góp phần tạo nên một môi trường làm việc lành mạnh. Thầy cho rằng cách các nhân viên y tế ăn uống, đi đứng, và làm việc cũng có thể tạo nên một môi trường đầy an vui, để rồi bản thân cộng đồng đó sẽ trở thành một yếu tố mang lại sự thay đổi lành mạnh. Một môi trường như thế sẽ mang lại lợi lạc về sức khỏe cho mọi thành viên của cộng đồng, bao gồm cả bệnh nhân, gia đình, y bác sĩ và các nhân viên quản lý trong ngành y tế.

Tôi lớn lên với những lời dạy của Thầy, rồi trải qua quá trình nghiên cứu tìm cách kết hợp giáo pháp vào lĩnh vực giáo dục. Tiếp theo, tôi bắt đầu nghiên cứu phương pháp kết nối những dòng kiến thức khoa học với giáo pháp đạo Bụt. Tôi nhận thấy hai dòng kiến thức này có tiềm năng bổ túc cho nhau. Dù vậy, vẫn luôn có những khó khăn, thử thách về cách trình bày, diễn đạt như thế nào để giáo pháp có thể được chấp nhận trong môi trường thực nghiệm của ngành y tế. Kinh nghiệm mới mẻ của tôi trong vai trò một nhà nghiên cứu khoa học và một thiền sinh dài hạn của Làng Mai đã cho tôi một góc nhìn rất độc đáo, cũng như cơ hội để khai thác những pháp môn mà tôi cho là có thể ứng dụng được cho cả cộng đồng y khoa quốc tế lẫn tăng thân Làng Mai. Vậy là tôi quyết định nộp hồ sơ nghiên cứu sinh tiến sĩ ở trường đại học Toronto với mục tiêu nghiên cứu ảnh hưởng của chánh niệm đối với sức khỏe thân tâm của các bác sĩ và chuyên viên y tế.

Thử thách

Hiện đang có một mối quan tâm ngày càng lớn ngay trong ngành y tế về việc đối trị những vấn đề mang tính hệ thống như vấn nạn kiệt sức vì quá tải trong công việc. Chánh niệm đã được đề cập đến trên khắp các tạp chí khoa học như là một mô hình có tiềm năng giải quyết một cách hữu hiệu các vấn đề này. Trong khi đó, nỗ lực ứng dụng chánh niệm để giải quyết những thay đổi mang tính hệ thống trong ngành y tế lại tồn tại nhiều thử thách đáng kể. Những thử thách này bao gồm các mối quan ngại và nghi ngờ đối với những kiến thức nằm ngoài hệ thống y học chính thống. Cũng có những chướng ngại đi lên từ những yếu tố văn hóa và xã hội lâu đời vốn đã ăn sâu vào trong ngành y.

Để vượt qua những thử thách này, về phía khoa học, tôi dựa trên truyền thống thực chứng và tính chặt chẽ trong lý luận làm cơ sở xây dựng nên một nghiên cứu khoa học có chất lượng cao, có thể được chấp nhận bởi cộng đồng khoa học. Đồng thời, tôi nương tựa vào Thầy, tăng thân và sự thực tập của chính tôi. Trong suốt quá trình làm luận án tiến sĩ, tôi đã liên tục quay về lấy thêm cảm hứng từ những bài viết và pháp thoại của Thầy. Trong lúc viết luận án, có đôi lần tôi hình dung Thầy đang nhìn tôi, động viên tôi tiếp tục đi tới dù cho lúc ấy tôi đang mệt mỏi hay đang gặp những thử thách lớn. Chính trong tinh thần này mà bài luận án của tôi đã được mở đầu bằng lời của Thầy:

“Người thiền tập xưa nay vẫn biết nhìn bằng con mắt của mình và sử dụng ngôn ngữ của thế kỷ mình. Sở dĩ như vậy vì tuệ giác là một dòng sống linh động chứ không phải một cổ vật được cất giữ ở viện bảo tàng. Bằng sự sống của chính mình, người thiền giả khơi nối được dòng tuệ giác và làm cho nó tuôn chảy về những thế hệ tương lai. Công trình nối đuốc là công trình của tất cả chúng ta, tất cả những ai biết khai phá để mà đi tới.”Trái tim mặt trời, Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Những lời này của Thầy đã mang lại cho tôi niềm khích lệ không ngừng trong suốt hành trình nghiên cứu luận án tiến sĩ.

Chánh niệm trong ngành y tế – Sơ lược về bối cảnh

Chánh niệm đang ngày càng trở nên phổ biến và được ứng dụng nhiều hơn trong bối cảnh hiện nay ở nhiều lĩnh vực khác nhau, như y tế, giáo dục, luật pháp… Trong các tài liệu khoa học, chánh niệm được công nhận là có tiềm năng mang lại nhiều lợi ích khác nhau về sức khỏe, bao gồm: làm giảm lo lắng và căng thẳng; giúp làm tăng trưởng hạnh phúc và các khả năng như tự điều hòa, ý thức, điều chỉnh cảm xúc, vận động, học tập, thấu cảm… cũng như giúp làm sâu sắc hơn mối liên hệ giữa các vùng não bộ có liên quan đến những “hành vi có ích cho xã hội” (prosocial behaviors) như là lòng từ bi.

Trong lĩnh vực y khoa, các chương trình được gọi là Những can thiệp dựa trên chánh niệm (Mindfulness-Based Interventions – viết tắt là MBIs), đã được nghiên cứu để áp dụng cho các nhóm đối tượng bệnh nhân khác nhau: bệnh nhân đang bị các chứng đau nhức kinh niên, các chứng trầm cảm tái phát, bệnh nhân ung thư, những nhóm trẻ vị thành niên mắc phải các chứng bệnh mãn tính và những trường hợp hồi phục sau cai nghiện. Cho đến nay, trong số các chương trình can thiệp dựa trên chánh niệm đã công bố, chưa có chương trình nào chính thức được xây dựng dựa trên những phương pháp thực tập chánh niệm của Thầy. Vì vậy mà luận án tiến sĩ của tôi mong ước được đóng góp một phương pháp tiếp cận sáng tạo và mới mẻ cho lĩnh vực y tế, đồng thời góp phần tiếp nối công trình của Thầy và tăng thân Làng Mai.

 

Tóm lược công trình nghiên cứu

Công trình nghiên cứu tiến sĩ của tôi đã được tổ chức với sự tham gia của 45 bác sĩ trong các chuyên khoa khác nhau như phẫu thuật, cấp cứu, y tế gia đình,… Các vị này đã tham gia vào một chương trình thực tập chánh niệm năm tuần, được tổ chức tại một bệnh viện ở Toronto, Canada với tên gọi “Ứng dụng chánh niệm dành cho nhân viên y tế” (Applied Mindfulness training Program for Medical Personnel – viết tắt là AMP-MP). Tôi đã phát triển chương trình này dựa trên quá trình tôi thực tập với Thầy và tăng thân Làng Mai. Chương trình được hướng dẫn bởi David Viafora và Dagmara Urbanowicz – hai vị thiền sinh dài hạn của Làng Mai. Họ là các bác sĩ có nhiều kinh nghiệm.

Tôi đã tổ chức hai buổi phỏng vấn các bác sĩ sau khi họ tham gia chương trình nghiên cứu. Dưới đây là một số chia sẻ của họ:

“Tôi cảm thấy hơi thở ý thức thực sự rất hữu ích. Tháng vừa qua, hầu như ngày nào tôi cũng làm phẫu thuật và càng lúc càng bị căng thẳng. Ngày làm việc nào cũng dài và với tốc độ quá chóng mặt, chúng tôi chẳng lúc nào dừng được dù chỉ để ăn một miếng gì hay làm một cái gì khác. Giữa các ca phẫu thuật thường chỉ có được vài phút – tôi thấy rằng chỉ cần dành mấy phút đó để thực tập thở là có một sự chuyển giao tốt lắm. Chỉ cần giữ cho đầu óc minh mẫn tỉnh táo để nhanh chóng đi tiếp qua một ca bệnh khác.”
Bác sĩ khoa mắt

“Tôi nghĩ là chắc chắn tôi sẽ tiếp tục thực tập bởi vì tôi phát hiện ra rằng trong ngày, tôi thấy mọi thứ diễn ra suôn sẻ hơn và một ngày của tôi mà suôn sẻ hơn thì cuối ngày tôi cảm thấy hạnh phúc hơn khi về nhà. Nhờ vậy tôi không mang về nhà những bực bội, khó chịu đã diễn ra trong ngày. Tôi nghĩ, những hơi thở sâu lắng giữa các ca bệnh, những bước chân chánh niệm mà tôi thực tập có tác dụng rất tuyệt vời.”
Bác sĩ chuyên về thấp khớp

“Hơi thở chánh niệm giúp tôi đối mặt với hầu hết tình huống khó khăn. Trong những lúc tương tác với bệnh nhân, nhờ hơi thở, tôi có thể lựa chọn: phản ứng ngay hay có thể dừng lại (dù chỉ trong một giây thôi). Khi thực sự được buông thư, ngay lập tức ta có thể lựa chọn để hành động khác đi, tốt đẹp hơn.”
Bác sĩ Phẫu thuật

Tôi vô cùng biết ơn mỗi thành viên trong chương trình đã chia sẻ những trải nghiệm và câu chuyện riêng của họ. Khi viết xuống những dòng này, tôi nhớ đến một chuyên viên phẫu thuật. Ngay buổi đầu tiên của chương trình, vị ấy đã phát biểu rất thẳng thừng là không tin vào “mấy cái thứ chánh niệm” này. Và rồi trong buổi phỏng vấn sau khi chương trình kết thúc, chính vị ấy lại khẳng định rằng mình đã cảm thấy “phải lòng tiếng chuông” và dự tính cuối chương trình sẽ “trộm chuông mang về” để thỉnh cho các đồng nghiệp thực tập trước mỗi buổi phẫu thuật.

Không bắt đầu, không kết thúc

Trong phạm vi bài viết, tôi không thể chia sẻ hết được công việc mang pháp môn thực tập của Thầy vào lĩnh vực y tế. Nhưng Thầy cũng dạy rằng nếu biết nhìn sâu thì ta sẽ không thấy có điểm khởi đầu và điểm kết thúc. Cho nên trong tích môn, dù bài viết đang được khép lại, nhưng khát khao được tiếp nối công trình này, được phối hợp với cộng đồng xuất sĩ và cư sĩ của Làng Mai mang thực tập chánh niệm đến với ngành y tế để góp phần xây dựng một xã hội lành mạnh, đầy tình thương, vẫn đang được tiếp tục nuôi lớn trong tôi.

 

WakeUp Toronto, năm 2018

Cuộc cách mạng vẫn đang tiếp diễn

(Thầy Chân Trời Đại Đạo)

Bài viết được BBT chuyển ngữ từ tiếng Anh.

Con rất thương đất Mẹ. Chẳng khi nào xem những bộ phim tài liệu về các vấn đề khủng hoảng môi sinh mà con không cảm thấy bất lực và tuyệt vọng. Chính trong hoàn cảnh đó, một loạt các sự kiện diễn ra đã truyền cho con động lực để không đánh mất hy vọng mà hướng tới làm những gì mình có thể, ngay tại nơi mình sống, với những gì sẵn có, để giúp đất Mẹ thân yêu. Đất Mẹ có thể không chỉ là một danh từ mà còn là một động từ. Đất Mẹ thương yêu chúng ta và cũng cần được chúng ta trân quý, nuôi dưỡng và chăm sóc.

Mùa an cư năm 2019, đại chúng đã được tham gia một chuỗi các buổi sinh hoạt về chủ đề môi trường nhằm tìm cách giảm thiểu dư lượng carbon và rác tái chế. Sự kiện này đã khiến con thay đổi hoàn toàn cách nhìn nhận về rác thải. Trong một buổi sinh hoạt, đại chúng được xem phim tài liệu về một thành phố ở Nhật Bản, nơi đã hiện thực hóa mục tiêu không rác thải thông qua nỗ lực tập thể của toàn bộ dân chúng. Thành phố đó đã lập nên một trung tâm tái chế rác nhằm cố gắng tái sử dụng tất cả mọi thứ.

Từ lúc đó, con bắt đầu nhìn lại vấn đề thải rác ở tu viện và thử tìm xem có cách nào giảm thiểu dư lượng carbon cũng như lượng rác mà chúng ta thải ra. Hiện giờ, lối tư duy thông thường của chúng ta là chở hết những thứ bỏ đi ra trung tâm tái chế. Chúng ta chẳng nghĩ gì nhiều tới chuyện xảy ra sau đó với đống rác thải. Đấy là vấn đề của người khác.

 

 

Những buổi sinh hoạt đã cho chúng con biết chuyện gì diễn ra sau đó. Chúng con đã thấy lượng rác khổng lồ không được tái chế. Có những thứ được tái chế nhưng không phải tại chỗ mà được vận chuyển tới những khu xử lý rác lớn. Quá trình vận chuyển tất nhiên sẽ thải ra thêm lượng khí carbon. Chúng con đã thấy rõ là tìm cách xử lý rác ngay tại chỗ có thể giúp giảm thiểu không chỉ nhiên liệu chạy xe mà cả lượng rác bị chôn xuống đất.

Khi học về duyên khởi, ta thấy rằng bởi vì vô minh mà ta nhìn mọi thứ như những hiện tượng hiện hành riêng biệt, và ta không thể thấy được mối liên hệ qua lại giữa chúng. Nhìn một thanh củi cháy trong lò ta không thấy được lưỡi cưa đã cắt xẻ vào thân cây, ta không thấy được bao nhiêu lượng nhiên liệu hóa thạch đã bị đốt cháy để phục vụ quá trình cưa xẻ gỗ. Nhìn chiếc áo thun ta không thấy được bao nhiêu nước đã được dùng để làm ra chiếc áo ấy. Chuyện vứt bỏ một món đồ ra khỏi tu viện đối với ta khá dễ dàng và ta không hề quan tâm đến chuyện món đồ bị vứt bỏ đó sẽ trở thành cái gì, hay chuyện gì sẽ xảy ra với hành tinh chúng ta do hành động thải rác này. Liệu chúng ta có thấy được tương lai của các loại bao bì chứa mỗi món đồ chúng ta mua về không? Thật khó để tính đến điều này khi chúng ta chọn đồ.

Tận dụng nước mưa

Trong những buổi sinh hoạt, có một nhóm thảo luận sâu về vấn đề nước nói chung và vấn đề lãng phí nước sinh hoạt nói riêng. Một sự thay đổi có tính cách mạng bắt đầu diễn ra từ ngày đó. Dần dà con phát hiện ra có vài thùng trữ nước mưa nằm đây đó không được dùng đến. Chúng con đã mang từng thùng một đến để gắn nối với các hệ thống máng xối và, nhanh đến không ngờ, chúng ta đã có tới năm thùng trữ nước mưa được đưa vào sử dụng và trữ được tổng cộng 2,500 lít. Chẳng tốn một đồng xu nào vì chúng con tận dụng những ống nước bỏ ra từ các công trình sửa chữa nhà cửa, chỉ mất chút công sức của anh em. Khi sắp đặt lại hệ thống này, chúng con nhận ra rằng khi những bể chứa nước mưa đã đầy thì dù trời mưa mình cũng không thể trữ thêm nước được. Nhưng vào cùng khoảng thời gian đó, đại chúng bắt đầu mua dầu ăn đựng trong các thùng 20 lít. Sau khi dùng hết dầu, các thùng nhựa này sẽ được đem đi tái chế. Thấy vậy, chúng con đem chúng đi rửa sạch và dùng chứa nước mưa. Các bể chứa nước đã trở thành một đàn bò sữa mang lại cho đại chúng vô vàn sữa-nước-mưa.

Chúng con đã tận dụng nước mưa có được vào những việc gì? Khi chúng con trồng cây, thật tiện lợi khi có những thùng chứa nước di động. Sơn Hạ nằm dưới chân đồi và thường rất dễ bị sình lầy mỗi khi trời mưa nên chúng con đặt một thùng chứa nước mưa để rửa giày dép thay vì dùng nước máy. Hai thùng chứa khác được thiết kế để hứng và trữ nước mưa từ mái nhà kho. Chúng con sử dụng nước mưa ở đây để ngâm và xử lý giấy carton cũng như để tưới cây trong vườn.

Giảm thiểu sử dụng nhiên liệu hóa thạch

Khi nhìn lại các loại rác thải được chở trên các xe đổ rác đi đến khu tập trung rác tái chế của địa phương (các xe này vốn chạy bằng nhiên liệu hóa thạch là xăng hoặc dầu), chúng con thấy rằng nguồn rác chủ yếu là bìa carton và thủy tinh. Không những mình phải tiêu hao bao nhiêu là nhiên liệu hóa thạch để chở rác đến khu tập trung rác tái chế, mà ở đó thứ rác này cũng chưa được xử lý ngay. Chúng sẽ được chở đi tiếp, trên những hành trình xa hơn, và cần phải dùng thêm nhiều nhiên liệu nữa mới đến được những khu vực tập trung rác lớn hơn để được xử lý. Con thích đạp xe đạp và đã quyết định đạp xe chở tất cả rác thải thủy tinh đến nơi nhận xử lý loại rác này ở đỉnh đồi khu Puyguilhem. Làm vậy vừa tốt cho sức khỏe của con, vừa có ích lợi cho môi trường, và cũng truyền thêm cho con động lực, cho con thấy mình đang đóng góp phần của mình vào việc giải quyết vấn đề môi trường.

Làm phân hữu cơ và củi đốt từ bìa cứng (carton)

Hiện giờ chúng con đang thực hiện việc xé vụn các loại bìa carton và trộn thêm với rác cỏ cắt trong vườn để chuyển hóa chúng thành một loại phân hữu cơ (compost) rất tốt cho đất. Chúng con trữ lượng phân này trong các vỏ bao đựng gạo được nhà bếp cung cấp khá thường xuyên. Thật mãn nguyện khi chứng kiến quá trình chuyển biến từ việc đảo đều cỏ và vụn bìa cứng để giữ cho hỗn hợp này được thông thoáng đến việc nhìn thấy các chú giun xuất hiện và rồi cả đống rác chuyển thành compost màu nâu sẫm giàu dinh dưỡng.

 

 

Các loại rác thải giấy khác và các loại bìa carton thô được xén nhỏ và ngâm trong nước mưa trước khi được dằm ra và trộn với mạt cưa thu từ khu vực xưởng gỗ, rồi được nén lại thành các thanh củi để đốt lò. Chúng con tự chế ra máy làm củi ép đó từ một cái kích nâng xe cũ và một số đồ kim loại phế thải.

Lúc đầu, các thanh củi ép quá dài nên chúng hay bị cong lại hoặc rã ra trong quá trình làm khô. Thực ra trước đó, con đã làm các thanh củi ép ngắn hơn, nhưng làm như vậy tốn nhiều công sức quá. Bởi thế, con đã làm chúng dài ra, và khi còn ướt chúng rất mềm nên con đã làm vỡ rất nhiều trong quá trình đảo chúng cho khô. Dần dần, chúng con đã tìm ra được tỉ lệ độ dài và đường kính lý tưởng nhất cho các thanh củi ép, khiến việc sản xuất và sấy khô chúng một cách tự nhiên bằng gió, nắng hiệu quả và dễ dàng hơn hẳn. Trong quá trình học hỏi và cải tiến cách làm những thanh củi ép này, có những lúc thật là nản nhưng cũng đem lại cho chúng con rất nhiều động lực.

Việc có đồng loạt các hoạt động tái chế từ việc trữ nước mưa tới xử lý giấy carton, tận dụng mạt cưa và rác từ vườn rau đã biến rất nhiều loại rác thải trở nên những thứ hữu ích, vừa giúp chúng con giữ ấm trong mùa đông, vừa giúp thêm trong việc trồng trọt. Nó cũng giúp giảm thiểu việc sử dụng lượng củi đốt lò mua từ các xưởng cưa phải dùng tới nhiên liệu hóa thạch để cưa đốt, và giảm bớt khói bụi thải ra từ ống khói lò sưởi.

Chậu trồng cây Tetrapot

Trong hai năm qua chúng con cũng đã chật vật tìm kiếm giải pháp cho vấn đề tái chế một lượng lớn vỏ hộp đựng sữa thực vật. Các vỏ hộp sữa do Tetrapak sản xuất này chiếm đến một phần ba các thùng đựng rác tái chế màu vàng. Mình không thể ép mỏng các hộp này vì khu tập trung rác tái chế chỉ xử lý được chúng khi chúng còn nguyên vẹn. Chúng là một loại hỗn hợp cán bồi giấy – nhựa – nhôm rất khó để tái chế. Lâu lâu, con lại cố gắng tìm giải pháp cho vấn đề này. Đôi khi con tìm ra những ý tưởng rất hài hước nhưng không thực sự có ích lợi gì. Con tiếp tục giữ chuyện này trong tâm trí và đợi câu trả lời xuất hiện.

Một ngày nọ chúng con được rủ đi giúp gieo hạt bí ở vườn rau hữu cơ. Chúng con gieo hạt bí vào các chậu đen nhỏ làm bằng một loại nhựa rất mỏng manh mà lại không thể tái chế được. Mấy chậu này cứ liên tục nứt vỡ mỗi khi dồn thêm đất hay phân hữu cơ vào. Chúng con nhận ra là mình có thể cắt mấy cái hộp nhựa tetrapak đó làm đôi và có thể làm thành hai cái chậu nhỏ để trồng cây vào thay vì đi mua. Các bạn làm ở Nông trại Hạnh phúc (Happy Farm) đã rất hạnh phúc khi thử nghiệm cách mới này. Từ đó, hàng ngàn hộp nhựa tetrapak mà chúng con thải ra mỗi năm lại có được một đời sống mới. Chúng bền hơn rất nhiều so với mấy cái chậu nhựa nhỏ phải đi mua bên ngoài. Vậy là chậu cây Tetrapot được ra đời.

Bất cứ dự án nào cũng gặp phải những khó khăn nho nhỏ lúc ban đầu. Chúng con phải rửa kỹ các hộp sữa vì các bạn chuột, bị thu hút bởi chút sữa dính lại trên hộp, sẽ rất hào hứng cắn vỏ hộp tạo thành những cái lỗ thật to. Chúng con cũng phải nhắc mọi người nhớ không ép mỏng hộp. Còn những cái nắp hộp sẽ là chủ đề của một dự án tái chế rác khác trong tương lai!

Từ rác thải tới nguồn vật liệu hữu ích

Điều chúng con đã khám phá ra là một khi mình bắt đầu nhìn một đồ vật không là rác, mà là một nguồn tiềm năng hữu ích thì mình sẽ tạo ra những điều kiện để nguồn vật liệu đó trở nên hữu ích. Chúng con được tiếp thêm rất nhiều sức mạnh khi nhận ra tăng thân mình, dù chỉ là một cộng đồng nhỏ, có thể làm được gì để giúp ích cho môi trường, chỉ với những gì có sẵn trong tay. Cuộc cách mạng còn đang tiếp diễn.

Hiện giờ con thấy rõ là chúng ta cần phải phân loại rác kỹ hơn. Khả năng tái sử dụng rác thải xoay quanh việc chúng được phân loại. Điều này có nghĩa là chúng ta phải suy tính nhiều hơn về chỗ chứa từng loại rác thải. Nhưng đó là cách duy nhất để thực hiện tái chế và tái sử dụng. Ví dụ, cửa hàng trực tuyến của Làng phải gửi sản phẩm qua đường bưu điện. Vì vậy, chúng con bắt đầu đặt một thùng rác mới chỉ dành cho phong bì bìa cứng và phong bì có lót xốp bong bóng (bubblewrap). Tất cả các loại phong bì này đều được đưa đến cửa hàng trực tuyến để được sử dụng lại. Không đặt thêm thùng đựng rác tái chế mới thì khó có thể làm điều này.

Thật may mắn là trong tăng thân có khá nhiều công việc khác nhau: trang trại, văn phòng, cửa hàng… và dù chúng ta sống ở đâu, chúng ta cũng là một phần của một cộng đồng rộng lớn hơn. Ví dụ như việc dùng lại các sọt đựng rau củ bằng gỗ mà mình hay có khi đi chợ về. Ban đầu con chặt nhỏ chúng ra để nhen lửa lò sưởi. Sau đó, một thầy đề xuất mang chúng đến cho người trồng rau ở gần đây. Và bây giờ thì chúng con đưa chúng đến một khu chợ địa phương để sử dụng lại. Bằng cách đó, người ta ít mua những cái mới hơn. Vậy là một số thứ được tái sử dụng ngay trong tu viện, một số thứ khác ở bên ngoài. Chúng con chỉ cần tiếp tục tìm kiếm cơ hội và tinh thần tái chế rác phát triển một cách tự nhiên.

Xuân yêu thương ngập tràn năm tháng

Kính thưa quý vị đạo hữu và ân nhân!

                     Sắc xuân rực rỡ trời phương ngoại

                     Thơ hát yêu thương rộng tháng ngày

   Một mùa Xuân mới đang về, luân chuyển cùng mạch sống tinh khôi của đất trời. Mùa yêu thương, mùa đoàn tụ, mùa tỉnh thức của vạn loài sau một mùa đông giá lạnh ẩn mình. Chân Không nhớ lại ngày nào năm 1964, trong chuyến đi cùng Thầy hướng về miền Trung, ngược dòng sông Thu Bồn cứu trợ bão lụt cho đồng bào trong cơn hoạn nạn, giữa cảnh đau thương ly tan, Thầy đã chạm vào tột cùng nỗi đau của nhân loại, nhỏ chín giọt máu đào vào hồn thiêng đất nước với lời khấn nguyện: “Bàn tay tôi đây xin các anh nắm lấy, xin các em nắm lấy. Tôi muốn nói cùng các anh và các chị. Dù sao thì chúng ta cũng phải can đảm để mà lo lắng cho trẻ thơ, cho ngày mai” (Bài thơ Ruột đau chín khúc, báo Thiện Mỹ, số 13 ra ngày 09.02.1965). Đôi bàn tay ấy nhỏ bé mà kiên trì, bền bỉ. Đôi bàn tay ấy ấm áp tình thương. Đôi bàn tay ấy trọn vẹn 60 năm. Bây Giờ Và Ở Đây, hàng ngàn đôi bàn tay tiếp nối, âm thầm và lặng lẽ trao gửi bao giọt nước từ bi thanh lương đến với đồng bào khắp chốn.

 

 

        Kính thưa quý vị!

      Trong những năm qua, những biến động kinh tế thế giới và ảnh hưởng của đại dịch Covid phần nào đã làm hạn chế hoạt động của chương trình Hiểu và Thương, và trên thực tế, một số chương trình thiện nguyện đã phải cắt giảm bớt so với những năm trước. Tuy nhiên, nhờ bao trái tim yêu thương, bao tấm lòng san sẻ tới những mảnh đời còn khó khăn, nhờ sự dấn thân không ngừng của quý vị Tiếp hiện trong hoạt động phụng sự xã hội cũng như của hàng ngàn đôi bàn tay của đức Bồ tát Quán Thế Âm, Chương trình vẫn cố gắng tiếp tục thực hiện những công tác thiện nguyện trong tinh thần lan tỏa tình đồng bào tương thân tương ái. Dưới đây là những công tác mà Chương trình đã thực hiện được trong năm qua:

 Chương trình hỗ trợ các trường mầm non bao gồm:

  1. Hỗ trợ tiền ăn bán trú cho hơn 3.000 trẻ ở các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, và một số tỉnh miền Nam như Bình Thuận, Đồng Nai, Đồng Tháp, Bến Tre. Với tình hình khó khăn hiện nay, Chương trình chỉ có thể hỗ trợ tiền ăn trưa với số tiền 66.000đ/trẻ/tháng ở Quảng Trị, Huế và 80.000 đ/ trẻ/ tháng ở miền Nam. Tuy số tiền không đáng là bao nhưng phần nào hỗ trợ thêm một chút dinh dưỡng vào khẩu phần ăn của các cháu nhằm khuyến khích gia đình yên tâm cho các cháu đến trường. Và niềm vui vào mỗi năm học mới, các cháu đều được nhận những bộ đồng phục Hiểu và Thương.

2.   Hỗ trợ lương cho các cô giáo tại các nhóm trường:

* Ở Bình Thuận là nhóm trường do chương trình Hiểu và Thương xây dựng và quản lý, có khoảng 40 cô giáo được hỗ trợ với mức lương 1.200.000đ/người/ tháng.

* Ở Thừa Thiên Huế, nhóm trường do các chùa quản lý có 15 cô giáo và bảo mẫu được hỗ trợ với mức lương 1.000.000đ/người/ tháng và 43 cô giáo thuộc nhóm trường công lập cũng được hỗ trợ thêm 400.000đ/ người/ tháng.

* Ở Quảng Trị, chương trình hỗ trợ cho 130 cô giáo đang công tác tại nhóm trường công lập 380.000đ/ người/ tháng.

  Với hoạt động “GIÚP EM ĐẾN TRƯỜNG”, chương trình đã trao tặng học bổng cho 650 em học sinh với giá trị 1.200.000đ/em/năm và 260 sinh viên với hỗ trợ 2.000.000đ/em/năm.

 

Sư cô Chân Không cùng các bé

   Đồng thời, chương trình vẫn tiếp tục quan tâm hỗ trợ đến 618 người già neo đơn, tàn tật, khó khăn với quà tặng 130.000đ/người/tháng.

   Riêng ở các tỉnh khu vực miền Nam, chương trình có yểm trợ thêm mái tôn cho 30 gia đình nghèo và 10 giếng tưới nước cho những hộ nông dân nghèo, giúp cho bà con có thêm điều kiện canh tác sinh sống.

   Chương trình vẫn duy trì hoạt động thường niên vào mỗi cuối năm như Trao tặng quà Tết cho các hộ nghèo, ở Quảng Trị có 400 phần quà với trị giá 300.000đ/ phần, ở Thừa Thiên Huế có 500 phần quà, và có 1440 phần quà với trị giá 350.000đ/ phần ở các tỉnh miền Nam. Tổng số có 2.340 phần quà được trao gửi đến đồng bào khó khăn như một chút yêu thương sẻ chia, đón Tết thêm ấm áp.

   Bên cạnh đó, vào những tháng 10, 11 năm 2023, nhờ sự hỗ trợ kịp thời từ quý vị ân nhân và sự quan tâm, chia sẻ, động viên trực tiếp từ quý thầy, quý sư cô ở tu viện Từ Hiếu – Diệu Trạm đại diện cùng với các bác trong Tăng thân Tiếp hiện Huế và Quảng Trị, 1.200 phần quà đã được cấp tốc san sẻ đến với bà con miền Trung sau đợt thiên tai bão lụt nặng nề. Và đây là một trích đoạn ngắn từ chia sẻ của một bác Tiếp hiện: “Sư cô ơi, chuyến đi tuy quá vội vàng vì vừa nhận được thông tin chiều hôm kia thì đến chiều hôm qua, đoàn đã triển khai đi liền để kịp thời cứu trợ bão lụt ở các xã Quảng Thành, Quảng An và Quảng Thọ, thuộc huyện Quảng Điền, TT Huế, những nơi bị ngập lụt rất nặng. Nhưng đi đến đâu cũng được sư cô Như Hiếu chia sẻ và quý sư cô hướng dẫn hát những bài thiền ca cho bà con, ai cũng hạnh phúc lắm! Đi đến đâu cũng nhận được ánh mắt trông chờ và ngời sáng của bà con nên chúng con hết mỏi mệt luôn.” Những món quà tinh thần vẫn không ngừng tiếp bước trên những nẻo đường lan tỏa yêu thương.

   Đầu năm nay, nhân dịp lễ Đại Tường của Sư Ông, Chân Không mong muốn tiếp tục hạnh nguyện “Giọt nước cánh chim” để dâng lên cúng dường Thầy và cũng ý thức rằng Thầy vẫn luôn đồng hành cùng chúng con trên con đường thiện nguyện hướng về đồng bào, hướng về quê hương đất nước Việt Nam. Từ chuyến cứu trợ bão lụt dọc sông Thu Bồn năm Giáp Thìn 1964 cùng Thầy đến 2024, 60 năm hành trình vẫn còn tiếp nối. Vào ngày 19.01 vừa qua, Sư Cô Chân Không và các vị thiện nguyện lại tiếp tục lên đường với sứ mệnh trao gửi yêu thương. Có 400 phần quà với trị giá 500.000 đ/phần đã được trao tặng đến bà con có hoàn cảnh khó khăn ở các làng xã quanh khu vực sông Thu Bồn, 200 phần quà ở các xã Quế Sơn, Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam cùng 100 phần quà dành cho đồng bào ở xã Hòa Phú, Hòa Vang, vùng miền núi phía Tây thuộc Tp. Đà Nẵng.

 

Sư cô Chân Không niệm danh hiệu Bồ tát trên sông Thu Bồn

   Kính thưa quý vị ân nhân!

   Vẫn Xuân đoàn tụ, vẫn còn bên nhau!

   Một mùa Xuân mới đang đến, chúng ta vẫn còn có nhau. Đó là tin vui nhất. Kính chúc quý cô bác, quý anh chị và gia quyến một năm mới với thật nhiều an lành và hạnh phúc!

  Chân Không vẫn luôn tin rằng chỉ cần có trái tim thì mọi hành động sẽ trở nên hành động của thương yêu chân thật. Ngọn lửa của trái tim khi được sẻ chia không làm mất đi ánh sáng của ngọn lửa mà ngược lại, càng làm cho không gian của ánh sáng càng lan rộng, càng ấm áp trên khắp địa cầu. Lời cảm ơn chân thành đến quý vị ân nhân đã luôn chung tay, góp sức để cho Xuân yêu thương ngập tràn năm tháng!

  Kính quý và biết ơn,

  Sư cô Chân Không.

 

Kệ truyền đăng năm 2023 – tại Úc

Vào ngày 11/4/2023 tại Bringelly, Úc, thầy Pháp Hải và sư cô Lương Nghiêm đã thay mặt tăng thân truyền đăng cho:

Thầy Thích Chân Trời Bình Minh
(Thế danh: Trương Văn Sen
Pháp danh: Tâm Đức Lượng)

Tâm tạo trời bình minh
Toả sáng khắp mười phương
Xuyên suốt qua ba cõi
Hiện tại là quê hương
Đức căn dày muôn kiếp
Thành quả bậc trượng phu
Được hương gió lan toả

 

 

Chân Hỷ Tạng
( Thế danh: Faye Nhi Nguyen
Pháp danh: Tâm Hướng Dương)

By seeing the nature of affinities planted since beginningless  time
The authentic fruit of insight reveals itself as a storehouse of joy
Walking this ancient path suddenly we realise that there was never a time when we were not wonderful together
Sunflowers waving in the gentle breeze quietly reveal the wondrous Dharma Body

 

 

Chân Minh Hải
(Thế danh: Daya Heather Jepsen
Pháp danh: Peaceful Courage of the Heart)

The Ocean of Wisdom is our ancient and true inheritance 
The bright eyes of the Awakened One contemplate the nature of all things and see no coming and no going
On her path of return, she carries the peaceful light of the moon
As a gracious offering to each living being

 

 

 

 

Một lời nói chửa kịp thưa

(trích bói Kiều trong dịp Tết Giáp Ngọ 2014 tại Làng Mai)

Con kính bạch Sư ông! Con tới từ Thiền đường Hơi Thở Nhẹ, Paris. Cách đây 15 năm, nhờ ba mẹ dẫn con tới đây, con mới có ngày hôm nay. Nhờ pháp môn của Sư Ông con đã vượt qua rất nhiều đau khổ cho nên con muốn chia sẻ với những người trẻ và giúp đỡ họ. Con mong có sức khoẻ, bình an và xin cụ Nguyễn Du chỉ dẫn cho con để con tiếp tục đi trên con đường tâm linh này.

Cụ Nguyễn Du cho chị quẻ 38:

“Một lời nói chửa kịp thưa

Trầm bay nhạt khói, gió đưa lay rèm”

 

Sư Ông giải Kiều:

“Một lời nói chửa kịp thưa”

Trong văn mạch của truyện Kiều, hôm đó ba chị em đi chơi xuân và gặp một nấm mộ không có ai thắp hương, Kiều mới hỏi: “Tại sao hôm nay là tiết Thanh minh mà chỗ này không có ai tới thắp hương, để lạnh lẽo như thế?”. Vương Quan nói: “Đây là nấm mộ của một người ca sĩ rất nổi danh, ngày xưa biết bao nhiêu người tìm tới; nhưng khi chết rồi thì không có ai để ý tới nữa.” Kiều rất cảm động và nghĩ rằng: “Hồi còn sống thì ai cũng muốn tới, nhưng bây giờ chết rồi thì hoàn toàn cô đơn”.  Tương tự như số phận của những ngôi sao điện ảnh, ca sĩ nổi tiếng trên thế giới được hâm mộ trong đời sống, nhưng khi chết thì rất cô đơn.

Khi Kiều nghe như vậy thì Kiều khóc, bởi vì Kiều rất nhạy cảm và Kiều nghĩ sau này mình sẽ thành như vậy. Mấy em Vương Quan và Thúy Vân mới nói: Chị thật là tức cười, khi không mà khóc cho những người đã chết từ bao nhiêu năm rồi. Kiều mới nói rằng: “Những người tài hoa, khi mà họ chết thì họ chết thân xác thôi, còn tài hoa của họ thì vẫn còn. Bây giờ chị mới làm một bài thơ để tặng cho Đạm Tiên và nếu mình ngồi chờ một chút thì sẽ thấy có sự đáp ứng.” Vừa nói xong thì có một cơn gió chợt tới.

“Một lời nói chửa kịp thưa”,  nghĩa là vừa mới nói ra thì người kia đã đáp ứng liền lập tức, không có chờ đợi gì hết. Ở trong văn mạch này, câu hỏi vừa đặt ra thì câu trả lời tới liền lập tức. Câu trả lời tới liền lập tức thì không tốt lắm. Bởi vì như vậy là câu trả lời của mình giống như một phản ứng tức thời. Mình có những kiến thức, những kiến thức có sẵn và khi mình nghe câu hỏi thì mình trả lời liền, mình chưa để cho câu hỏi đi vào trong lòng để có cái thấy sâu sắc về câu hỏi đó mà đã vội vã trả lời, giống như chuyên viên thì không tốt. Cho nên Cụ nói rằng: Nếu sau này có các em hay có người cần mình giúp, hỏi câu gì thì mình phải lắng nghe, khoan trả lời, đừng vội vã trả lời liền lập tức, thì không tốt. Đó là nghệ thuật của những nhà tâm lý. Phải học theo cụ Nguyễn Du, “một lời nói” đừng trả lời liền, hãy đón nhận câu hỏi để cho nó thấm vào lòng, cho người kia có cảm tưởng là đang được lắng nghe, đó là điều rất quan trọng. Mình làm nghề này thì mình phải tu mới làm được, nếu mình không lắng nghe được chính mình thì mình không lắng nghe được những người kia. Những người trẻ có những nỗi khổ niềm đau của họ, họ tới cầu mình mà nếu mình không lắng nghe, không hiểu được mình thì mình không thể lắng nghe được họ. Câu này rất quan trọng, phải thực tập lắng nghe, đừng vội vã trả lời bằng kiến thức của mình. Đó là lời khuyên rất cụ thể của thi sĩ.

 

 

Ngày xưa Thầy có xuất bản thơ vào năm 1949. Trong tập thơ đó có một hoạ sĩ vẽ bức tranh “Trầm bay nhạt khói, gió đưa lay rèm” rất là đẹp. Có một cái rèm và có một bình hương dâng khói lên, cái khói đó làm cho bức rèm kia rất là hay. Cảnh tượng đó là một cảnh tượng rất nhẹ nhàng, rất đẹp. Mình có sự thanh thản, mình có sự tươi mát, mình có nếp sống tâm linh. Tại vì hình ảnh khói hương xông lên diễn tả một cái gì rất là tinh khiết, rất là nhẹ nhàng, rất là thoải mái. Khói trầm xông lên và có bức rèm che gió, che sương, nó có sự ấm áp, có sự nhẹ nhàng, có sự thanh thoát. Trước tiên mình phải có được cái đó. Tức là mình phải tu sao để buông bỏ những căng thẳng, sầu khổ trong lòng mình. Mình phải có trạng thái nhẹ nhàng đó thì mình mới giúp được người khác. Khi người khác tới ngồi với mình, mình chưa nói gì hết, chưa dạy gì hết mà họ đã thấy khoẻ rồi. Cái đó phải từ mình đi ra, đó gọi là vô hành. Mình chỉ cần ngồi đó thôi, rất là tinh, rất là nhẹ, đây là từ bi. Khi người ta tới ngồi gần mình thì năng lượng của mình đã bắt đầu làm cho người ta khoẻ, nhẹ rồi. Chưa giúp gì hết mà người kia đã được giúp rồi. Đó là phẩm chất của nhà tâm lý trị liệu.

Ở trên đời có rất nhiều nhà tâm lý trị liệu, họ học nhiều năm về những kiến thức tâm lý, về kỹ thuật, nhưng họ không có được cái đó, lòng họ đầy những khổ đau, bức xúc không xử lý được. Người ta tới tuần này, tuần khác và tuần khác nữa để họ tư vấn, người ta trả tiền cho họ rất nhiều nhưng họ không giúp được nhiều, không hiệu quả, vì trong họ không có sự bình an.

Cho nên nếu mình muốn giúp cho những người tới với mình thì mình phải có sự bình an. Sự bình an có được do thực tập chánh niệm hằng ngày. Mỗi bước chân, mỗi hơi thở làm sao để có bình an, có hạnh phúc thì lúc đó mình mới thiệt, còn không là mình giả. Mình là tâm lý trị liệu giả hiệu, chỉ để ăn tiền người ta thôi. Thầy đã tổ chức những khoá tu cho các nhà tâm lý trị liệu, hàng ngàn người tới nhưng phần đông đều đau khổ rất nhiều. Không tự giúp được mình thì làm sao giúp được người khác. Cho nên cụ Nguyễn Du dạy trước hết, mình phải có được sự thoải mái, nhẹ nhàng, tự do trong hình hài mình, trong tâm hồn mình. Cái đó mình phải tu mới có được, phải thực tập, phải ở Làng Mai mấy tháng mới đủ, rồi về nhà mình tiếp tục tu. Ví dụ mình đi bộ từ bãi đậu xe tới phòng làm việc, mình đi sao cho có an, có lạc, có hạnh phúc; đó là một thách thức mình phải làm cho được. Mình làm cho được thì khi mình ngồi là mình đã khoẻ rồi, người kia vô thấy mình, người đó cũng khoẻ, đó là bí quyết của sự thực tập.