Áo nâu phai màu nắng

(Thầy Chân Pháp Ứng)

Ngày 11.12.2023, gia đình xuất gia Con Cá tròn 30 tuổi. Sau 30 năm, số “cá” trưởng thành còn lại hai phần ba, nghĩa là từ sáu vị còn lại bốn vị, hiện giờ đều là những trụ cột của Làng Mai. Thầy Pháp Ứng là một trong bốn “con cá” còn lại, bên cạnh sư cô Thoại Nghiêm, sư cô Định Nghiêm và sư cô Tuệ Nghiêm. Dưới đây là những chia sẻ của thầy Pháp Ứng trong buổi ngồi chơi với BBT nhân dịp này.

Hạt đậu năm xưa hé miệng cười

Trong 30 năm được Sư Ông dạy dỗ và đại chúng dưỡng nuôi, Pháp Ứng có cảm tưởng như mình đi qua gần trọn một chu kỳ. Như một năm có bốn mùa, mùa đông lá rụng, mùa xuân biểu hiện. Pháp Ứng thấy mình trải nghiệm đủ mọi đổi thay.

Trong 30 năm ấy, Pháp Ứng đã trải qua đủ loại lỗi lầm, té xuống rồi đứng dậy, trầy da tróc vảy. Có lẽ nhờ vậy mà Pháp Ứng có cảm giác hoa trái dần dần hình thành, bây giờ hoa mới chớm nở. Pháp Ứng bắt đầu nhận ra, cảm được và có niềm tin nơi vị thầy trong mình. Điều đó quý vô cùng. Nhưng thật ra, đó cũng không phải là một điều gì mới. Cái cảm giác trở về được với chính mình, giống như quay về cội nguồn để rồi tiếp tục đi tới. Có thể đó là tố chất tổ tiên đã trao truyền, bây giờ nó tiếp tục chớm nở. Giống như một chu kỳ được tiếp nối.

Khi Pháp Ứng có ý muốn xuất gia, gia đình vẫn chưa sẵn sàng. Hôm đó Pháp Ứng tủi thân, lên gác nằm khóc. Đang khóc thì bỗng thấy có một vị nét mặt hồng hào, đôn hậu hiện ra, nói: “Con yên tâm đi!”. Nghe vậy, Pháp Ứng thấy lòng lắng xuống… Sau đó không lâu, Pháp Ứng được gặp Sư Ông trong một khóa tu ở Hà Lan. Sư Ông nhìn mặt Pháp Ứng, chắc là “ngáo ngáo” kiểu sinh viên, kiểu gia đình Phật tử, hỏi: “Con muốn làm kỹ sư Phật học không?”. Pháp Ứng nghĩ thầm: “Ủa, kỹ sư Phật học là cái gì? Sư Ông hỏi gì mình không hiểu”. Pháp Ứng ngơ ngơ nhìn Sư Ông, nhưng hạt giống đã được trao truyền, được gửi gắm. Hạt đậu năm xưa hé miệng cười.

 

Gia đình Con Cá sau lễ xuất gia

Chăm sóc sinh diệt là hạnh phúc lớn nhất

Hạnh phúc lớn nhất của Pháp Ứng là chí nguyện đi tu của mình được Sư Ông đáp ứng. Ước nguyện đi tu của Pháp Ứng là tìm ra con đường để có thể vượt thoát sinh diệt. Hồi xưa Pháp Ứng nghĩ tu là để về một thế giới khác, “bye bye” sinh diệt.

Nhưng Sư Ông dạy, mình không cần “bye bye” sinh diệt, mà mình chỉ cần chăm sóc cái sinh diệt. Mình cũng không cần chạy trốn khổ đau, không cần phải đi về thế giới nào khác. Trong đời sống hằng ngày, mình có hạnh phúc, có niềm vui, có chút ít gì cống hiến, mình chế tác thêm hiểu và thương… Nhờ vậy mình chăm sóc khổ đau của mình và của thế giới này. Mình thấy đời sống của mình có ý nghĩa rất rõ ràng.

Pháp Ứng được về với chính mình, tiếp xúc được với con người của mình, hiểu được sự sống theo cái nhìn của tích môn, có sinh có diệt, có những khổ đau. Nhưng đồng thời mình cũng có thể tiếp xúc được với bản môn, không sinh không diệt.

Pháp Ứng thấy mình quá may mắn. Đây là phước đức của tổ tiên tâm linh và huyết thống không biết bao nhiêu đời.

“Gậy của thiền sư”

Trong những năm kề cận Sư Ông để học hỏi và tu tập, Pháp Ứng cũng nhiều lần hứng “gậy của thiền sư”. Thường thường Sư Ông “ra gậy” nhanh lắm, nó đi vô trong lòng mình ngọt xớt, bởi vì bất ngờ quá.

Tính của Pháp Ứng là ít muốn va chạm. Thôi, mọi chuyện hòa cho nó khỏe. Nếu cần xông pha thì mình cũng xông pha, nhưng Pháp Ứng ẩn nhiều hơn là xông pha.

Lần đó Sư Ông dùng cây gậy trong bối cảnh xây dựng tăng thân ở Việt Nam. Pháp Ứng ở Việt Nam, bên này địa cầu, Sư Ông ở bên kia. Sư Ông nói qua điện thoại (thường rất ít khi Sư Ông nói chuyện điện thoại). Sư Ông “quất” một câu! Lúc đó, Pháp Ứng tủi thân vô cùng. Nhưng sau này Pháp Ứng rất biết ơn. Sư Ông muốn cho Pháp Ứng lớn lên, nắm lấy vận mệnh, làm những gì cần làm. Sư Ông cho một gậy giúp Pháp Ứng xông pha, mạnh mẽ, tiến lên nắm chủ quyền trong tay, có tự do, chứ không phải lúc nào mình cũng hòa, kiểu đi theo người khác.

Kiên nhẫn là dấu ấn của tình thương

Hồi đó chưa có trụ trì. Mãi tới năm 1996, xóm Thượng và xóm Mới mới có trụ trì cùng một lần. Trước đó chỉ có chúng trưởng, có tri sự, … thôi. Chắc là Sư Ông muốn đào tạo hay sao mà lúc đó Pháp Ứng còn nhỏ lắm, mới là sadi, rồi tân tỳ kheo mà Sư Ông đã đưa Pháp Ứng vào Hội đồng trưởng lão gồm toàn quý ôn lớn như thầy Giác Thanh, thầy Doji, thầy Xá Lợi Phất, thầy Nguyện Hải. Rồi từ từ không biết sao mà Pháp Ứng “bị” làm chúng trưởng.

Có một lần, ở phần thông báo sau buổi ăn cơm quá đường, Sư Ông nói: “Chiều nay có vấn đáp nha!”. Pháp Ứng “tài lanh” làm chúng trưởng: “Bạch Sư Ông, để chúng con coi lại, để chúng con bàn đã”. Lúc đó cả chúng giật mình, không biết sư chú nào mà gan thế! Chị Tịnh Thủy (sau này là sư cô Quy Nghiêm) ngồi kế bên nói nhỏ với Pháp Ứng: “Sao thầy kỳ quá vậy?!”.

Sau đó Pháp Ứng mới thấm từ từ, chứ lúc thưa với Sư Ông như vậy Pháp Ứng cũng không biết mình đã làm gì sai. Bởi vì lúc đó Pháp Ứng được dạy là hội đồng tỳ kheo bàn bạc theo tinh thần dân chủ, nên Pháp Ứng áp dụng liền. Nghe Pháp Ứng nói vậy, Sư Ông lặng thinh, Sư Ông thở thôi. Bây giờ nghĩ lại thấy thương Sư Ông thiệt.

Sư Ông để im như vậy không biết bao nhiêu năm. Sư Ông rất kiên nhẫn. Phải nhiều năm sau, Sư Ông mới dạy. Anh chàng này rù rù, ngáo ngáo nên phải đợi cho nó chín rồi mới nói.

Nhân dịp hai thầy trò ngồi tại cốc Ngồi Yên, bất ngờ Sư Ông kề sát lỗ tai Pháp Ứng, hình như lỗ tai bên trái, nói một câu: “Làng mình đó con, kết hợp hai yếu tố thâm niên và dân chủ”. Câu nói đó đi thẳng vô lòng. Pháp Ứng quên tuốt chuyện hồi xưa mình lỡ lầm ra sao. Mãi sau này nghiệm lại, ủa sao Sư Ông nói như vậy với mình? Té ra nó có nhân duyên.

Phao cứu sinh

Trong 30 năm, Pháp Ứng đã đi qua nhiều thăng trầm. Những lúc trầm, cái phao cứu sinh của Pháp Ứng là niềm tin, là liên hệ thầy trò, và liên hệ tăng thân. Sở dĩ Pháp Ứng được xuất gia là có sự yểm trợ của tổ tiên chứ không phải vì mình tài giỏi. Như Sư Ông thường nói là nhờ phước đức ông bà, mà cũng là phước đức của tổ tiên tâm linh, trong đó có tăng thân.

Nhìn sâu, Pháp Ứng thấy những thăng trầm của mình xuất phát từ vết thương của gia đình huyết thống, chứ không phải ngoại cảnh làm cho mình như vậy. Khi vết thương biểu hiện, mình có những suy nghĩ này, hoang mang kia, nghi ngờ nọ. Mình không có sự vững vàng. Pháp Ứng tập chấp nhận và kiên trì tìm hiểu cách vận hành của tâm mình. Pháp Ứng biết con đường mình đang đi rất xứng đáng, đúng với ước nguyện của mình. Chính niềm tin đó giúp Pháp Ứng tiếp tục bước. Té xuống lại đứng dậy đi tiếp. Bên cạnh đó, Pháp Ứng chăm sóc vết thương của tổ tiên. Vết thương này sâu quá nên nó cứ biểu hiện từng giai đoạn, nó không dừng lại.

Pháp Ứng may mắn được học rằng không cần phải đợi cho vết thương hoàn toàn được chữa lành thì mình mới có hạnh phúc, mà mình có thể hạnh phúc trong lúc chăm sóc vết thương. Mình không cần phải đi ra ngoài để tìm lối thoát, tìm sự an ủi hay chữa lành.

Có niềm tin làm nền tảng để đi tới, Pháp Ứng thực tập chăm sóc, hiểu và chấp nhận vết thương. Niềm tin này giúp cho mình cảm thấy không đơn độc. Liên hệ thầy trò, liên hệ tăng thân, gốc rễ tâm linh, huyết thống giúp cho Pháp Ứng đứng vững trong những cơn bão. Tức là mình áp dụng được những gì mình học để đi tiếp được. Một mặt mình nuôi dưỡng, một mặt mình chữa lành.

Khi đi tu, Pháp Ứng cũng muốn giúp làm vơi bớt phần nào những khổ đau trong cuộc đời. Nhưng làm gì thì làm, ngay cả chuyện giúp gia đình huyết thống, mình phải có cộng đồng, có tăng thân chứ làm anh hùng “một mình một ngựa” thì… không làm được gì nhiều. Một vị Bụt thôi thì không đủ (One Buddha is not enough).

Trình kệ kiến giải

Mùa thu năm 1994, Sư Ông dạy về kinh Tuổi trẻ và Hạnh phúc (kinh Tam Di Đề). Cuối khóa, Sư Ông đề nghị mỗi người làm một bài thơ, bài hát để trình kiến giải của mình. Tự nhiên Pháp Ứng được “biếu” một bài, không biết từ đâu nữa! Pháp Ứng trình cho Sư Ông và đại chúng. Sư Ông chấm điểm nữa chứ! Sau khi hát xong, thầy Pháp Đăng và Pháp Ứng phải đi khóa tu bên Đức. Khi về, Pháp Ứng nghe kể lại là mình cũng được 7 điểm (cười).

Áo nâu phai màu nắng
Người về đây với Bụt
Cành lá đi in dấu
Quê hương thoáng nhẹ bay
Em có mặt đây
Nuôi dưỡng tôi
Và tôi đang sống yểm trợ em
Từng bước chân bé nhỏ
Cùng chuyển cả đất trời
Ngược dòng và xuôi dòng
Đều nuôi hết cả Làng.

“Thầy ở sau lưng con”

Một bữa thầy trò đi trong rừng, rừng rất đẹp: “Đây là thiên đàng đó con!”. Tới một đoạn đường mòn khá hẹp, Sư Ông nói: “Con đi trước đi”. Pháp Ứng đâu dám. Sư Ông lại nói: “Con đi đi”. Mình đành vâng lời thôi. Pháp Ứng cảm được Sư Ông đang gửi gắm, là Sư Ông luôn có mặt yểm trợ sau lưng mình. Sư Ông có viết câu thư pháp “Thay is behind you” (Thầy ở sau lưng con). Có nhiều sư em chưa được tiếp xúc với Sư Ông, nhưng nếu may mắn thì bằng cách nào đó mình có thể cảm được Sư Ông luôn có mặt yểm trợ cho mình. Dù Sư Ông đã viên tịch thì nguyện của Sư Ông vẫn là “Cùng tăng thân xin nguyện ở lại, nơi cõi đời làm việc độ sinh”.

Sự thực tập của Sư Ông là an trú trong giây phút hiện tại. Hiện tại này là thiên thu, vượt thoát thời gian và không gian. Là đệ tử của Sư Ông, nếu mình chạm được giây phút đó thì mình khỏe lắm. Đã về, đã tới. Khỏe vô cùng. Giống như mình trở về được với gốc rễ. Đó là vốn liếng, là tuệ giác mà Sư Ông muốn mình chạm được.

Một trong những điều mà Pháp Ứng rất biết ơn Sư Ông, đó là khi mới xuất gia, Pháp Ứng chạm tới một nỗi khổ đau lớn, nói không ra lời, một mình mình biết, một mình mình ôm thôi. Các huynh đệ cảm nhận được, nhưng không biết là chuyện gì… May mà có Sư Ông lắng nghe, Sư Ông hiểu và thương mình. Nhờ vậy mình được chữa lành. Mình tiếp nhận tình thương làm hành trang.

Tinh thần vô úy

Phẩm chất nơi Sư Ông mà Pháp Ứng muốn tiếp nối nhất là tinh thần vô úy — không sợ hãi. Chất liệu đó rất cần thiết trong giai đoạn này của đời sống, của con người, của Trái Đất, của tất cả. Có bình an, không sợ hãi, có tinh thần dũng mãnh thì mình lại càng có niềm tin. Niềm tin mình cảm được trong máu trong xương, nó truyền lửa, truyền sức sống, giúp cho mình chăm sóc được khổ đau chứ không phải hy vọng trong tương lai. Đức vô úy, không sợ hãi này mang chất liệu của từ bi, có thể giúp mình đối diện với khổ đau của bạo lực, của sự tàn phá, cuồng loạn.

Bây giờ Sư Ông không còn trong hình tướng quen thuộc để trực tiếp hướng dẫn chúng ta nữa, cho nên bản thân mỗi người cần quay về nuôi dưỡng, chăm sóc mình để làm nền tảng. Chúng ta có chung nền tảng đó, giúp tạo nên sức mạnh. Giống như mình thở cùng một hơi thở, mình đi cùng một nhịp. Như vậy là mình có Bụt, có Tổ, có Sư Ông với mình.

 

Tại Viện Omega, New York, 1996. Nguồn: Simon Chaput

 

Điều quan trọng nữa là làm thế nào để mỗi người cảm thấy thoải mái, được là chính mình trong tăng thân. Nhu yếu đó rất thiết thực. Được là mình trong tinh thần mỗi người cần thời gian để phát triển, để hiểu, để lớn lên, cũng như cần thể hiện, cần được yểm trợ, cần được chấp nhận. Đó là những cái cần. Nhưng tự thân chúng ta cũng cần mở rộng lòng ra cho nhau, tạo chất keo kết nối trong tăng thân đa văn hóa, đa truyền thống này.

Giống như Sư Cố Thanh Quý dạy trong bài kệ truyền đăng cho Sư Ông là hành đương vô niệm diệc vô tranh, cái “vô niệm” quan trọng lắm. Ai cũng có ý niệm về đúng sai. Nhưng theo phương diện siêu đạo đức, chúng ta cần cái vô niệm đó, chấp nhận cả tay trái lẫn tay phải, cả bùn lẫn sen. Phát triển vun bồi những điều tốt đẹp, đồng thời cũng chấp nhận cái chưa tốt đẹp. Mình chăm sóc, mình thương cái chưa tốt đẹp. Yếu tố đó rất cần trong tăng thân. Mình cũng cần thực tập “vô tranh”, chăm sóc ba mặc cảm (hơn, kém, bằng) mà ai cũng có. Đây là hướng mà Pháp Ứng nghĩ chúng ta cần nuôi lớn để thực hiện sự nghiệp giác ngộ tập thể, giấc mơ của Sư Ông.

Khoá tu tháng 06/2024 “Đạo Bụt ứng dụng: Một hướng đi cho xã hội đương đại”

Trong hai tuần đầu vừa qua của tháng sáu (từ 01-15/06/2024), tại Làng Mai Pháp đã diễn ra khóa tu với chủ đề “Đạo Bụt ứng dụng: Một hướng đi cho xã hội đương đại”. Khóa tu với sự tham gia của gần 500 vị thiền sinh, trong đó có 92 vị Tiếp Hiện đến từ khắp nơi trên thế giới. 

Mở đầu khóa tu, đại chúng cùng nhau trì niệm danh hiệu bồ tát Quan Thế Âm, chế tác năng lượng bình an và từ bi trong trái tim mỗi người. Nguồn năng lượng hùng tráng, mát lành ấy được gửi đến những nơi đang bốc cháy vì ngọn lửa của bạo động, hận thù. Sự thực tập Từ bi quán được duy trì suốt khóa tu qua những buổi thiền hành, ngồi thiền hay thiền lạy. Pháp môn Im lặng hùng tráng đã đem lại rất nhiều hạnh phúc và lợi lạc, giúp tạo nên những khoảng lặng để mỗi người trở về có mặt với tự thân. 

Bên cạnh đó, những tương tác lẫn nhau qua công việc, qua những buổi ăn trưa ngoài trời và những giờ pháp đàm giúp mọi người trở nên gần gũi, xóa đi những rào cản ngăn cách của tuổi tác, quốc gia, chủng tộc để sẵn sàng trao nhau những nụ cười, những ánh mắt lấp lánh thương yêu. Càng về cuối khóa tu, mọi người càng nở ra như một bông hoa, buông bỏ được những muộn phiền, âu lo, trở thành suối nguồn hiến tặng niềm vui cho những người xung quanh.

Trong khóa tu, những vị Tiếp Hiện cư sĩ có cơ hội trình bày những tuệ giác, kinh nghiệm thực tập của mình thông qua những buổi vấn đáp, những buổi chia sẻ,… Quý thầy, quý sư cô Giáo thọ của Làng cũng có dịp ngồi lại với những vị Tiếp Hiện cư sĩ để cùng lắng nghe nhau, bàn bạc về cách thức xây dựng tăng thân, phương thức áp dụng pháp môn thực tập vào việc giải quyết những khó khăn của thời đại mới. Các vị Tiếp Hiện cư sĩ ngày càng phát huy được sứ mạng và vai trò đồng hành với chúng xuất sĩ mang đạo Bụt đi vào cuộc đời.

“Tre già hiên ngang đứng, măng non lớp lớp mọc”. Giữa khóa tu, vào ngày 9/6, với sự thành tâm hộ niệm và chứng minh của chúng xuất sĩ và các vị Tiếp Hiện lâu năm, tăng thân chào đón thêm 37 thành viên mới gia nhập vào Chúng Chủ Trì của dòng tu Tiếp Hiện…

 

(Nguồn hình ảnh: Làng Mai và Rob Walsh Media)

 

Câu trả lời là tình thương – phần 2

(Hà Vĩnh Thọ, Satish Kumar, Rehena Harilall)

Sư cô Lăng Nghiêm: Một số nhà hoạt động hồ nghi về vai trò của tâm linh trong việc giúp thay đổi xã hội. Sự chuyển hóa cá nhân và sự thay đổi xã hội liên quan với nhau như thế nào?

Bác Satish Kumar: Tại trường Cao đẳng Sinh thái Schumacher, chúng tôi cho rằng sự chuyển hóa nội tại và sự chuyển hóa ngoại tại là hai mặt của một đồng xu. Người ta không thể có sự chuyển hóa ngoại tại: hệ thống thay đổi, chế độ chính trị thay đổi, kinh tế hay xã hội thay đổi, mà nội tâm con người lại không thay đổi để vun bồi những phẩm chất như từ bi, thương yêu, bao dung và hiểu biết.

“Khi tâm thức ta bao trùm cả vũ trụ, ta sẽ cảm thấy cả vũ trụ này là quê hương, cả trái đất này là nhà của ta”

 

 “Eco” có nghĩa là nhà. Con người cũng chính là thiên nhiên, không khác gì cỏ cây, rừng núi. Trước khi tôi trở thành một Phật tử, một tín đồ của đạo Cơ Đốc, hay tín đồ của bất cứ một tôn giáo nào, thương yêu chính là đạo của tôi. Khi có cái thấy đó, ta có thể mang lại công bằng xã hội, xây dựng sự bình đẳng và biết làm cách nào để đem lại sự công bằng kinh tế. Không có sự phân biệt nào giữa ta và thế giới. Cho nên việc thay đổi thế giới và thay đổi chính bản thân là hai khía cạnh của chỉ một thực tại mà thôi.

Rehena Harilall: Tôi lớn lên dưới chế độ Phân biệt chủng tộc (Apartheid) của xã hội Nam Phi. Từ khi lên bốn cho đến nay, cả cuộc đời tôi hoàn toàn tập trung vào việc đem lại công bình xã hội. Tôi đã nhận ra rằng các nhà hoạt động xã hội cần để ý đến loại năng lượng nào mà mình mang vào trong công tác đó. Có phải chúng ta đang dùng thứ năng lượng mà người ta đang dùng để tạo nên sự đàn áp, chia rẽ trong khi chúng ta muốn thay đổi những hệ thống ngoài kia hay không? Nếu như thế thì chúng ta chỉ đang thay thế hệ thống này bằng một hệ thống khác tương tự mà thôi. Chúng ta không thật sự thay đổi điều gì cả. Bởi vì chúng ta vẫn còn bám chặt vào cái thấy của mình, cho rằng nó là đúng đắn, là duy nhất, là hay nhất. Nhận thức này chính là điều quan trọng nhất trong sự nghiệp hoạt động xã hội của tôi.

Pháp môn Làng Mai giúp tôi hiểu ra rằng tôi đã bị cái ngã chi phối, tôi đã từng cho rằng phải nên theo cách của mình vì đó là cách đúng. Bây giờ tôi đã có thể buông bỏ được phần nào cái thấy đó. Khi tham gia vào công trình thay đổi xã hội, chúng ta đang đi theo hướng hành động từ bi thay vì tàn phá. Một phần của cách thay đổi xã hội là sử dụng năng lượng và ý hướng tích cực để tạo ra một cái khác hữu hiệu có thể thay thế những gì cần thay đổi.

Sự tuyệt vọng thường đến từ những suy tư tiêu cực: “Mình chẳng có thể làm thay đổi được gì. Tình trạng là vậy rồi, làm gì cũng thế thôi”.

“Trên thực tế, mỗi một nỗ lực dù nhỏ bé đến đâu cũng đem lại sự thay đổi. Mỗi hơi thở, mỗi bước chân, hay hành động đều đem lại sự thay đổi.”

 

Ý thức này đem hy vọng đến cho chúng ta, bởi vì ta luôn luôn có thể làm một điều gì đó ngay trong giây phút hiện tại.

Sư cô Lăng Nghiêm: Trong nỗ lực đem yếu tố đạo đức vào bối cảnh thời đại mới, quý vị có gặp sự chống đối nào không, và quý vị làm thế nào để đi tiếp trước sự chống đối ấy?

Bác Satish Kumar: Một điều cốt yếu cần lưu ý là sự chuyển hóa nội tâm bao gồm luôn cả sự thay đổi quan niệm của chúng ta về thế giới. Hiện giờ chúng ta cho rằng con người thống lĩnh thiên nhiên. Cho nên chúng ta cho phép mình muốn làm gì thiên nhiên tùy thích. Thiên nhiên đối với con người chỉ là một nguồn tài nguyên kinh tế, là phương tiện để đạt tới mục đích. Quan niệm của chúng ta về thiên nhiên là một vấn đề về đạo đức. Chúng ta cần chuẩn bị thay đổi quan niệm này.

“Thiên nhiên có hồn thiêng riêng của nó, thiên nhiên chính là sự sống.”

 

Thế giới quan duy vật và công nghiệp hiện đại của chúng ta không chỉ biến thiên nhiên thành nguồn tài nguyên cho nền kinh tế mà còn biến con người thành nguồn tài nguyên cho nền kinh tế nữa. Thế giới quan đó phải thay đổi. Phẩm giá con người và tính toàn vẹn của thiên nhiên là một phần thiết yếu của thế giới quan đạo đức mới. Nền kinh tế cần phải phục vụ con người và thiên nhiên chứ không phải là ngược lại.

 

 

Giáo sư Hà Vĩnh Thọ: Phần lớn những cuộc xung đột trên thế giới đều bắt nguồn từ kinh tế, từ tham vọng thống trị và quyền lực. Chúng ta hành xử cứ như việc phát triển kinh tế và làm giàu là mục tiêu tối hậu. Nhưng hệ thống kinh tế chỉ là một phần trong cấu trúc của xã hội loài người, nói cách khác, nó chỉ là một trong các hình thái của đời sống. Cho nên chúng ta cần phải viết lại câu chuyện và tập trung trở lại vào mục tiêu đích thực của chúng ta. “Hạnh phúc của mọi người và sự an lành cho tất cả mọi loài” là một trong những mục tiêu đó. Đây là một sự chọn lựa mang tính đạo đức. Chúng ta đánh giá điều gì cao nhất: sự phát triển kinh tế, cạnh tranh, … hay sự tử tế, lòng từ bi và sự rộng lượng? Đó là lý do tại sao tôi đã xây dựng chương trình Tổng Giá trị Hạnh phúc Quốc gia (Gross National Happiness program) ở Bhutan.

Theo tôi, thay đổi các hệ thống xã hội gồm ba khía cạnh. Thứ nhất, chúng ta cần một câu chuyện mới hay một “kịch bản” trong đó những giá trị đúng đắn được đặt vào vị trí chủ đạo. Thứ hai, chúng ta cần phải có những thử nghiệm nhỏ để chứng minh điều đó có thể thực thi. Thí dụ như Làng Mai là một minh chứng cho thấy việc sống đơn giản mà hạnh phúc là điều có thể làm được. Các thầy và các sư cô không có nhiều tiền mà vẫn hạnh phúc, vì vậy có thể nói là không phải càng giàu càng dễ có hạnh phúc. Điều này, đối với rất nhiều người từng đến Làng Mai, là một kinh nghiệm làm thay đổi cuộc đời. Bởi vì ở đó, họ nhận ra rằng việc một cộng đồng cùng sống chung hòa hợp trong chánh niệm và từ bi là điều có thể làm được. Cũng với tinh thần đó, chúng tôi đã thiết lập một tăng thân cư sĩ ở Việt Nam có tên là Tịnh Trúc Gia, mà thành viên bao gồm cả những người khuyết tật.

Khía cạnh thứ ba là thay đổi hệ thống từ bên trong. Đây là điều mà đề án Trường học hạnh phúc ở Việt Nam đang nỗ lực thực hiện để góp phần chuyển đổi hệ thống giáo dục từ nội tại.

Sư cô Lăng Nghiêm: Trước khi kết thúc buổi trò chuyện này, xin quý vị chia sẻ một vài điều có thể giúp thắp sáng niềm tin và hy vọng trong trái tim của mọi người.

Giáo sư Hà Vĩnh Thọ: Ba nguồn cung cấp hạnh phúc và sức khỏe thân tâm của tôi là sống hòa hợp với chính bản thân, với những người xung quanh và với thiên nhiên.

Nguồn thứ nhất là có sự hòa hợp với chính mình, cho phép mình đủ thời gian để thực tập chánh niệm, từ bi; cố gắng sống theo những giá trị mà mình trân quý và thực hiện hạnh nguyện sâu sắc nhất của mình.

Thứ hai là sống hòa hợp với những người xung quanh mà gần nhất là những thành viên trong gia đình và bạn bè, dành thời gian để có mặt với họ. Mới đây, vào cuối tuần, tôi đã dành thời gian để cùng với các con và các cháu ăn mừng người bạn đời yêu quý của tôi tròn 70 tuổi. Vun bồi mối liên hệ có ý nghĩa, trong tình thương mến và tử tế với tất cả những ai mà tôi gặp là suối nguồn mang lại hạnh phúc và sự khỏe khoắn cho thân tâm tôi.

Và thứ ba là sống hòa hợp với thiên nhiên, cho mình thời gian để thưởng thức thiên nhiên, vào rừng, lên núi, có khi chỉ cần ra dạo chơi ở khu vườn nhỏ của mình là đã đủ.

Rehena Harilall: Chúng ta cần nuôi dưỡng hy vọng. Và đối với tôi, khả năng phục hồi, sự bền bỉ, dẻo dai chính là một dấu hiệu của hy vọng. Tôi thích nhảy múa, thích âm nhạc. Vì vậy bắt đầu ngày mới bằng một điệu múa hay một bài hát là hạnh phúc lớn của tôi, giúp tôi vui vẻ cả ngày. Trong ngày, có thể đủ loại cảm xúc đến rồi đi, nhưng tôi vẫn luôn có thể nhớ lại niềm vui đầu ngày đó của mình.

Tôi cố gắng nhận diện tâm mình ở phía sau mỗi hành động. Bởi vì nếu tôi hành động với ý thức là mình không cầu lợi, nghĩa là tôi đang phụng sự, thì hành động đó sẽ đem lại lợi lạc cho người khác. Như vậy tôi đã làm việc với tinh thần mà tôi muốn nhìn thấy nơi người khác. Điều đó đem tới cho tôi hy vọng và niềm vui.

Khi cảm thấy tuyệt vọng, tôi ra ngoài đi dạo để tiếp xúc với thiên nhiên. Đôi khi tôi nằm dài trên đất và nói với đất: “Chỉ cần ôm con là được rồi”. Thiết lập được liên hệ với một cái gì đó lớn lao hơn tự thân sẽ giúp chúng ta có được cái nhìn rõ ràng hơn về mọi sự. Cuộc sống cứ tiếp diễn dù tôi có mặt ở đây để gặt hái những gì mình đã gieo trồng hay không.

 

 

Theo truyền thống của người Zulu ở Nam Phi, khi một người qua đời, họ nói người ấy đang “quỳ xuống”. Quỳ xuống để người khác có thể đứng trên hai vai họ. Nghĩa là khi chúng ta mất đi, trong giai đoạn chuyển tiếp ấy, chúng ta lót đường để làm nền tảng cho người khác đứng lên và tiếp tục công trình. Điều đó đem đến cho tôi hy vọng.

Bác Satish Kumar: Tôi bắt đầu hoạt động xã hội từ lúc 18 tuổi – tham gia vào phong trào do Thánh Gandhi và Vinoba Bhave lãnh đạo. Bây giờ tôi 86 tuổi nhưng vẫn muốn tiếp tục làm nhà hoạt động xã hội cho đến hơi thở cuối cùng. Là một người hoạt động xã hội, bạn cũng phải đồng thời là một người có tinh thần tích cực. Sự yếm thế không thể dẫn ta đến hành động được. Chuyện thế giới có thay đổi hay không, điều đó không nằm trong sự kiểm soát của tôi, nhưng tôi có thể kiểm soát được hành động của mình. Tôi hành động vì từ bi, thương yêu, lân mẫn và vì tinh thần trách nhiệm. Cho nên tôi là một người có tinh thần tích cực. Và hy vọng của tôi là một hy vọng mang tính hành động. Tôi hành động mỗi ngày để phụng sự nhân loại, phụng sự trái đất. Điều đó đem lại cho tôi sự mãn ý và niềm vui bởi vì tất cả đều là tương tức.

Câu trả lời là tình thương – phần 1

(Hà Vĩnh Thọ, Satish Kumar, Rehena Harilall)

Trong khóa tu về chủ đề giữ gìn đất Mẹ (Earth retreat) vào tháng sáu năm 2023 tại Làng Mai, Pháp, sư cô Lăng Nghiêm đã có buổi trò chuyện với ba nhà hoạt động xã hội và môi trường là bác Satish Kumar, Giáo sư Hà Vĩnh Thọ và Rehena Harilall. Bài chia sẻ dưới đây được trích từ buổi trò chuyện này.

Bác Satish Kumar là người đồng sáng lập trường Cao đẳng Sinh thái Schumacher tại Devon, Vương quốc Anh. Năm 1962, ông đã thực hiện hành trình đi bộ cho hòa bình dài hơn 8.000 dặm trong hai năm rưỡi, từ New Delhi qua Moscow, Paris, London và Washington D.C. Ông là tác giả cuốn sách “Radical Love” (tạm dịch “Tình thương cấp tiến”) mới xuất bản.

Rehena Harilall là một vị Tiếp hiện của Làng Mai từ năm 2016. Cô là thành viên của tăng thân Trái tim London (The Heart of London) và tăng thân Những sắc màu từ bi (Colors of Compassion). Cô rất tích cực trong cả hai phong trào hoạt động vì công bằng chủng tộc và công bằng trong việc ứng phó với biến đổi khí hậu. Cô đã thành lập cộng đồng “Phật tử xuyên truyền thống” (Buddhists Across Traditions), một đoàn thể thực tập đạo Bụt do người da màu chủ đạo.

Giáo sư Hà Vĩnh Thọ (Chân Đại Tuệ) là một vị giáo thọ của Làng Mai, nhận truyền đăng năm 2001. Ông từng là giám đốc của Trung tâm Tổng chỉ số hạnh phúc quốc gia (GNH-Gross National Happiness) tại Bhutan và cũng là tác giả của tác phẩm “Văn hóa hạnh phúc” (A Culture of Happiness).

 

 

Sư cô Lăng Nghiêm: Trước tình trạng thế giới hiện nay, nhiều người trở nên tuyệt vọng, giận dữ, trách móc, chán nản và mất niềm tin. Làm thế nào để chúng ta có thể tiếp tục hành động với tình thương?

Bác Satish Kumar: Điều trước tiên là tôi tự hỏi: Sự giận dữ, trách móc, lo lắng có ảnh hưởng lên chính bản thân mình như thế nào?

Tôi nhìn sâu để thấy rõ những điều làm cho cả con người mình buồn bực, bức xúc và không hạnh phúc. Rồi tôi tự hỏi: Có phải đó là điều mình muốn chọn lựa hay không?

“Tình thương cần bắt đầu nơi chính bản thân mình, thấy rằng mình là một thực thể tâm linh, có khả năng yêu thương.”

 

Thương chính mình không phải là vì cái ngã, là ích kỷ. Đó là điểm khởi đầu để nhận ra cơn giận, sự lo lắng… ảnh hưởng đến bản thân mình nghiêm trọng hơn nhiều so với ảnh hưởng lên đối tượng của cơn giận. Cho nên tôi bắt đầu từ mình, để bảo vệ mình.

Chúng ta có thể học bất cứ điều gì, thí dụ như học ngoại ngữ, học chơi piano, học thiền. Thế nên ta cũng có thể học thương yêu, học từ bi. Đó là những kỹ năng ta có thể huân tập.

Khi còn nhỏ, tôi xuất gia theo Kỳ na giáo (Jainism) trong chín năm. Hàng ngày tôi huân tập cách nhìn thế giới với tâm tích cực, xem mình có thể phụng sự cho thế giới bằng cách nào và học cách xử lý các cảm thọ giận dữ, sợ hãi, nghi ngờ và tâm phán xét.

Gần đây tôi có viết một quyển sách với tựa đề Tình thương cấp tiến (Radical Love). Có hai loại tình thương: tình thương chừng mực (moderate love) và tình thương cấp tiến (radical love). Tình thương chừng mực là thương một người mà mình đồng tình với họ và người đó thương mình trở lại. Đó là một tình thương tốt đẹp và cần thiết. Nhưng tình thương cấp tiến còn tiến thêm một bước nữa. Tình thương cấp tiến là thương vô điều kiện – thương nhưng không cần được đáp lại. Tôi thương bởi vì thương yêu là con đường đúng đắn mà tôi muốn đi theo. Tình thương cấp tiến cũng có nghĩa là tình thương một chiều, bạn thương cả những người không thương bạn, cả những người mà bạn không đồng tình hay không thích.

Thật là một đặc ân và vinh hạnh lớn lao khi tôi được gặp Mục sư Martin Luther King, trong chuyến đi bộ vì hòa bình từ Ấn Độ đến Mỹ. Ông nói với tôi: “Tôi chống phân biệt chủng tộc, tôi chống lại sự bất công, nhưng tôi không ghét ai cả”.

Ông nói rằng hận thù là một gánh nặng rất đỗi khó nhọc để mang theo, bởi vì sự giận dữ đến rồi đi, nhưng hận thù thì đọng lại. Tôi đã thấy ở ông một nhà hoạt động cấp tiến vĩ đại, đấu tranh chống lại sự bất công và phân biệt chủng tộc nhưng vẫn có thể là hiện thân của tình thương. Đối với tôi, ông quả là một tấm gương đẹp tuyệt vời.

Từ đó trở đi, tôi bắt đầu thực tập tình thương cấp tiến. Hận thù, giận dữ và sợ hãi đã tạo ra chiến tranh. Chúng ta đã có chiến tranh Afghanistan, chiến tranh Iraq, chiến tranh Việt Nam, chiến tranh thế giới thứ nhất và thứ hai, tất cả đều bắt nguồn từ thù hận. Chúng ta đã làm cho hận thù trở thành tập quán.

Chúng ta phải tìm cách giải quyết vấn đề này. Và câu trả lời là tình thương. Ta cần tập thương ngay cả những người mình không thích.

“Hận thù, ghét bỏ không đem tới sự chuyển hóa, nó có thể giết người, nhưng tình thương thì có thể đem tới sự cảm hóa.”

 

Hận thù, ghét bỏ bắt đầu khi bạn thấy có sự ngăn cách giữa mình và người khác. Nhưng chúng ta không tách biệt, chúng ta tương tức. Không hề có sự chia cách nào giữa con người với thiên nhiên, giữa người theo đạo Bụt và đạo Cơ Đốc, giữa người da đen và da trắng, giữa nam và nữ, giữa người già và người trẻ, người của quá khứ và người của hiện tại. Tất cả là một dòng chảy liên tục, là cả một mối liên hệ đan xen chằng chịt. Nhận thức được sự thật muôn đời đó, chúng ta có thể đi theo con đường của thương yêu.

 

 

Sư cô Lăng Nghiêm: Làm thế nào để chúng ta có thể tránh rơi vào tình trạng nổi giận, tuyệt vọng, thù ghét hay đổ lỗi cho người khác?

Rehena Harilall: Tôi nghĩ mình không thể nào tránh được cơn giận. Đó là một cảm xúc đến rồi đi. Tôi bắt đầu cuộc hành trình của mình với tư cách là nhà hoạt động cho công bằng xã hội chính từ cơn giận. Khi thực tập chánh niệm, tôi nhận ra rằng giận có thể là một nguồn tuệ giác giúp tôi phân biệt cái gì đang kích hoạt trong cơ thể của mình, điều gì đã làm tôi phản ứng như vậy.

Thầy có dạy cách chăm sóc cơn giận. Nếu tôi phản ứng bằng sự giận dữ thì tác động của nó là gì? Tôi có đang giúp cho năng lượng chia rẽ, giận dữ và căm thù mà người kia trút lên tôi tiếp tục biểu hiện hay không? Chúng ta có thể luyện tập thương yêu tương tự như luyện tập cơ bắp của mình. Nếu ta luyện tập mỗi ngày thì cơ bắp sẽ nở nang.

“Chánh niệm giúp tôi lắng nghe để thấy, để hiểu tôi là ai. Và tình thương luôn đến từ hiểu biết.”

 

Hành trình thương yêu là một hành trình vừa hướng ngoại vừa hướng nội. Giả sử người kia có những quan điểm hoàn toàn ngược lại với quan điểm của tôi, người đó vẫn là một con người, có liên hệ tới tôi. Cuộc đời của người đó đã định hình cho hạnh phúc và khổ đau của họ, người ấy đang cố gắng làm theo những gì mà họ tin là đúng đắn. Tôi tập nhìn để không đánh đồng hành động của một người với cá nhân người ấy. Bởi vì, tất cả chúng ta ai cũng có hạt giống giận, đồng thời cũng có khả năng thương yêu và có lòng từ bi. Điều quan trọng là mỗi ngày ta đang làm gì để tăng trưởng lòng từ bi, niềm vui và mở lòng ra với tất cả mọi người?

Tôi nghĩ rằng thương yêu đồng nghĩa với phụng sự. Một người mà trong tâm tràn ngập từ bi, và nếu lòng từ bi ấy đi đôi với một hạnh nguyện đẹp, người đó sẽ không bao giờ bị kiệt sức vì lòng từ bi của mình.

Sư cô Lăng Nghiêm: Khi hành động của ta phát xuất từ thương yêu thay cho sự hờn giận thì thực chất chúng ta đang chuyển hóa cơn giận. Và khi được công nhận, không bị đè nén, cơn giận có thể trở thành suối nguồn của tình thương và lòng từ bi. Xin Giáo sư Hà Vĩnh Thọ cho biết điều gì đã giúp Giáo sư duy trì sự dấn thân phụng sự mà không bị mệt mỏi?

Giáo sư Hà Vĩnh Thọ: Chúng ta có thể cùng nhìn vào giáo lý Bốn sự thật mầu nhiệm (Tứ diệu đế) mà Bụt đã dạy. Chúng ta biết gốc rễ của khổ đau là cái nhìn nhị nguyên, phân biệt. Và trong những lời dạy của mình, Thầy luôn nhấn mạnh về tự tính tương tức của vạn vật.

Bác Satish Kumar đã giải thích rất hay rằng tình thương đích thực và cấp tiến là vô điều kiện. Thương không phải là một cảm xúc hay là một ý thích. Nếu ta có thể tiếp xúc với tính nhân bản, với phần sâu thẳm nhất trong tâm hồn mình, ta có thể nhận ra rằng những cái đó cũng hiện diện trong bất kỳ một chúng sanh nào mà ta gặp, dù đó là con người hay bất cứ hình thái nào của sự sống. Khi ta thương yêu thật sự, ta sẽ trở thành một với đối tượng thương yêu, vượt thoát lưỡng nguyên và chia cách, nhờ đó ta có thể chuyển hóa sự cô đơn bên trong mình.

 

 

Tình thương cần phải dựa trên sự hiểu biết. Cô Rehena đã giải nghĩa rất hay về điều ấy. Khi ai đó có ý tưởng, tri giác hoặc quan niệm hoàn toàn khác với tôi, nếu tôi cố gắng để hiểu họ, thì không còn sự phân biệt (lưỡng nguyên) giữa tôi và họ nữa, không còn cảm giác trái chống nhau hay giận dữ nữa. Nhờ có niềm tin sâu sắc về tính nhất như giữa tôi và thế giới, tôi có thể duy trì công việc dấn thân mà không bị mệt mỏi hay kiệt sức.

Chúng ta dễ dàng đổ lỗi cho một nền kinh tế hoặc một chế độ chính trị. Tuy nhiên chế độ chính trị là sự biểu hiện tâm thức cộng đồng của chính chúng ta, là sự biểu hiện của cách chúng ta suy tư, cảm nhận, hành động và liên hệ. Đó là lý do tại sao bằng cách chuyển hóa tâm thức của mình, dù chỉ ở một mức độ khiêm tốn, chúng ta đã có thể giúp chuyển hóa những chế độ kia.

Sự thực tập chánh niệm cho ta sức mạnh để vun bồi lòng từ bi, sự hào phóng và tâm bao dung; giúp chúng ta có được một nguồn năng lượng dồi dào.

(Đọc tiếp phần 2)

Trân quý và nâng niu cuộc đời ta

(Trích pháp thoại của Sư Ông Làng Mai ngày 08/11/1990)

Các vị còn trẻ tuổi thường có một ảo tưởng là đời sống của mình kéo dài tới vô biên, tức là mình còn rất nhiều năm tháng để sống. Chính Bụt ngày xưa cũng đã nói như vậy. Bụt nói rằng, khi còn thiếu niên, ta có sự tự hào về sức khỏe và về tuổi trẻ của ta. Ta không thấy được cuộc đời là vô thường và ta cũng bị sanh lão bệnh tử rình rập như bất cứ một người nào khác. Quý vị đang còn trẻ nên nhớ lời nói đó của Bụt. Tuổi trẻ đi qua rất mau và có khi tuổi trẻ của chúng ta bị tàn phá, tiêu hoại tuổi trẻ bằng những thao thức, bằng các dự án, bằng những hoạt động không thực sự đem lại hạnh phúc và an lạc cho chúng ta. Những người lớn tuổi nhìn lại thời thiếu niên của mình thì thấy rằng: trong thời gian còn trẻ mình có dạ dục, mình không biết dừng lại để sống một cách sâu sắc những giờ phút của mình. Những năm tháng của tuổi trẻ đã đi qua như là một giấc mộng và năm tháng đó đã đi qua một cách oan uổng. Chúng ta đã làm gì với năm tháng của chúng ta, chúng ta đã làm gì với đời của chúng ta?

Bây giờ chúng ta đã lớn tuổi, khi nhận ra được điều đó mình có một khuynh hướng muốn trân quý những tháng ngày còn lại của mình. Không biết mình còn sống được bao nhiêu năm nữa, có thể là 5 năm, có thể là 7 năm, có thể là 10 năm và cũng có thể là 2 năm. Tại vì cuộc đời vô thường và vì vậy sự tu học bắt đầu từ một hành động tỉnh thức. Tỉnh thức và biết rằng mình đã xài phí những năm tháng của đời mình một cách oan uổng, mình đã không sống một cách sâu sắc những năm tháng đó, những giờ phút đó. Mình phát tâm làm lại cuộc đời và sống cho thật đàng hoàng những năm tháng còn lại.

 

 

Tôi còn nhớ Tino Rossi – một ca sĩ nổi tiếng của Pháp. Năm 60 tuổi, ông làm một bài hát và đặt tên là “La vie commence à 60 ans” – đời sống bắt đầu từ năm 60 tuổi. Khi nghe tên của bài hát, mình biết rằng ông đã giác ngộ và ông biết rằng, mình đã tiêu phí tuổi trẻ một cách oan uổng. Ông nhất định bắt đầu sống đàng hoàng từ năm 60 tuổi. Bây giờ ông ta đã thích và đã quyết tâm sống ngày tháng của ông ta một cách rất đàng hoàng. Một điều hơi tiếc là ông ta thức tỉnh như vậy nhưng ông ta không được trao truyền một phương pháp quán niệm hơi thở, phương pháp thiền hành, thiền tọa. Cho nên ông ta đã không thể sống một cách sâu sắc những giờ phút còn lại của ông ta, như chúng ta may mắn là những người trong truyền thống đạo Bụt.

Tôi viết lên bản hai chữ là “trân quý” và hai chữ nữa là “nâng niu”. Tôi muốn quý vị trân quý những ngày tháng còn lại của quý vị. Chúng ta đừng tiêu phí ngày tháng của chúng ta một cách oan uổng như trong quá khứ. Chúng ta phải nâng niu từng giờ từng phút của đời sống. Cuộc đời chúng ta đừng vì tương lai, đừng vì quá khứ, đừng vì lý tưởng mà tàn phá cuộc sống của chúng ta. Tại vì nếu cuộc sống của chúng ta đích thực là một cuộc sống có an lạc, có hạnh phúc thì cuộc sống đó là nền tảng của lý tưởng.

Bụt sống 45 năm sau khi thành đạo và 45 năm đó của Bụt là 45 năm có hạnh phúc. Mỗi bước chân, mỗi cái nhìn, mỗi hơi thở đều mang theo chất liệu của hạnh phúc. Cho nên biết bao nhiêu người được thừa hưởng sự hạnh phúc và tuệ giác của Bụt. Nếu Bụt chỉ có một lý thuyết, dầu là lý thuyết cao siêu mà không có hạnh phúc đó, không có 45 năm hạnh phúc và an lạc đó thì giáo lý của Bụt sẽ không có tầm quan trọng như đã có và đang có.

Hạnh phúc là điều căn bản của lý tưởng. Nếu quý vị có lý tưởng giúp người thì lý tưởng đó chỉ có thể thực hiện được với hạnh phúc của quý vị, phải sống ngày hôm nay cho hạnh phúc. Nếu bước những bước chân mà không có hạnh phúc, nếu nâng một chén trà lên uống không có hạnh phúc, nếu đi thiền hành không có hạnh phúc, nếu ôm người bạn của mình trong hai tay mà không có hạnh phúc thì mình biết rằng mình không có tự do, mình đang bị ràng buộc bởi những nỗi đau buồn tiếc thương của quá khứ hoặc là những sự phóng tưởng về tương lai hoặc là những hối hận, những giận hờn. Tất cả những điều đó, mình phải nhận diện chúng để trân quý và nâng niu cuộc đời của chúng ta và không để chúng trôi qua một cách oan uổng.

Phật Đản 2024

“Giờ phút linh thiêng
Gió lặng chim ngừng
Trái đất rung động bảy lần
Khi bất diệt đi ngang dòng sinh diệt
Bàn tay chuyển Pháp
Trong hương đêm tinh khiết
Ấn cát tường nở trắng một bông hoa
Thế giới ba ngàn đồng thanh ca ngợi Văn Phật Thích Ca”

Trong những ngày Rằm tháng tư, tất cả những người con Bụt đều hân hoan, chào đón ngày Bụt Đản sanh. Người đã đem sự tỉnh thức, sự hiểu biết và thương yêu khai sáng cho chúng ta. Niềm hạnh phúc hơn là khi mỗi người trong chúng ta đều có tính Bụt trong lòng. 

Lễ Tắm Bụt sơ sinh là cơ hội làm tưới mát, thức tỉnh em bé Bụt trong mình. Những hạt giống của tình thương, bao dung và tha thứ,… được nở hoa mỗi ngày để cho sự buồn phiền, lo âu được lắng dịu và ngủ yên.

Ngày 19/05/2024 quý Thầy, quý Sư cô và Tứ chúng đạo tràng Mai Thôn đã vân tập tại thiền đường Trăng Rằm, chùa Từ Nghiêm, xóm Mới để mừng ngày Bụt Đản sanh và làm lễ Tắm Bụt sơ sinh. Trong không khí ấm áp và trang nghiêm, ai ai cũng thắp lên ý thức và phát nguyện tiếp nối con đường của Bụt bằng cách chế tác và vun trồng thêm những chất liệu bình an cho tự thân và lan toả đến tất cả mọi người.

Xin mời đại chúng cùng thưởng thức những khoảnh khắc bình an đó qua một vài bức hình dưới đây:

Đức Bụt tương lai đã có mặt rồi

(Sư cô Chân Uyển Nghiêm)

Tình thương của Thầy

Nhắc đến tình thương, tôi không khỏi nghĩ đến Thầy. Mỗi lần nhắc đến Thầy hay tăng thân, tôi cũng như nhiều quý thầy và quý sư cô đều dễ xúc động. Tôi nhớ có lần tôi được làm thị giả cho Thầy. Lúc đó Thầy chuẩn bị đi khóa tu ở Anh. Tôi còn rất mới và tu tập chưa giỏi nên chưa biết cách quan sát. Thời gian ấy, Thầy nghỉ ngơi và làm việc ở Sơn Cốc. Sáng ngày đưa Thầy ra sân bay đi Anh, sư cô Chân Không làm tài xế lái xe. Trước khi rời khỏi Sơn Cốc, Thầy gọi tôi vào thư viện để giúp cho Thầy vài việc. Sau đó, hai thầy trò đi kiểm tra một vòng xung quanh để chắc chắn đèn đã tắt, cửa đã khóa, gas đã được khóa lại,… Khi thấy mọi thứ đã ổn, hai thầy trò ra xe để đi.

 

 

Trên đường đi ra sân bay, Thầy nói với tôi: “Ồ, con kể chuyện cho Thầy nghe đi. Dạo này con tu học có vui không? Các anh chị em sống với nhau như thế nào?”. Vâng lời Thầy, tôi ngồi líu lo kể hết chuyện này sang chuyện kia và thầy trò cười với nhau rất vui. Cứ như vậy, đi được hơn nửa đường, Thầy chợt hỏi tôi: “Lúc nãy đi ra, con có cầm cái đãy (túi vải) của Thầy không?”. Tôi hết hồn, trả lời Thầy: “Dạ không”.

Trong đãy của Thầy có máy ghi âm. Những lúc Thầy đi dạy ở ngoài, những bài pháp thoại có lúc được quay phim, có lúc không, nhưng thường thì Thầy có đem theo máy ghi âm để tự thâu lại những bài giảng. Thứ nhất là để lưu lại làm tư liệu, thứ hai là Thầy biết đó là tài sản mà Thầy để lại cho thế hệ tương lai. Đi chung với Thầy vui quá nên tôi hoàn toàn không nhớ và cũng không biết là mình cần đem theo cái gì cho Thầy.

Giây phút nghe Thầy hỏi, tôi từ trạng thái vui vẻ, hạnh phúc chuyển sang trạng thái hối hận, ray rứt và sợ hãi. Tôi sợ đến nỗi không dám nói xin lỗi Thầy. Đặc biệt là khi nghe sư cô Chân Không nói rằng bây giờ đã gần đến sân bay rồi, nếu quay lại lấy sẽ trễ giờ. Tôi run rẩy và chỉ biết ngồi im thôi. Lúc đó, từ băng ghế trước, Thầy đưa tay lại phía sau và hỏi: “Tay con đâu?”. Thời điểm ấy, tay tôi run và lạnh ngắt. Tôi đưa tay ra và Thầy nắm lấy tay tôi. Bàn tay Thầy rất mềm và ấm. Thầy nói với tôi: “Không sao đâu con. Chắc thầy thị giả có đem một cái sơ-cua. Mà nếu không đem cũng không sao, không có gì quan trọng cả”. Nghe Thầy nói như vậy, tôi cảm thấy nhẹ hẳn. Tôi không bao giờ quên khoảnh khắc đó. Tôi cảm nhận rằng đối với Thầy, lưu lại bài giảng tuy quan trọng nhưng nuôi dưỡng tâm hồn người đệ tử vẫn quan trọng hơn. Thầy không muốn tôi có cảm giác ray rứt và tội lỗi. Thầy luôn muốn đệ tử mình có những kí ức đẹp.

Thầy dạy bằng tình thương. Tình thương của Thầy khiến tôi nhớ và biết rằng mình sẽ không bao giờ phạm lại những lỗi như vậy. Tôi cũng hứa với lòng sau này làm một người thầy, tôi cũng sẽ cố gắng thương đệ tử của mình, thương em của mình như Thầy thương. Nhưng thật sự điều này rất khó bởi tôi tu còn yếu. Tuy rằng rất muốn thương, nhưng vì vẫn còn đang trên đường thực tập, nhiều khi tôi vẫn làm em mình tổn thương như thường. Tuy vậy, đã có con đường và phương pháp, tôi có niềm tin rằng chỉ cần cố gắng tu tập, mọi việc rồi sẽ ổn.

Có một người lớn chưa trưởng thành

Lúc còn nhỏ tôi thường mơ ước mình mau lớn, tôi thích được làm người lớn. “Ăn rau sẽ mau lớn”, bà vẫn thường dỗ tôi ăn rau bằng cách này vì tôi không thích ăn rau.

Năm mười sáu tuổi, khi đi làm thẻ căn cước công dân, tôi có cảm giác rằng mình đã lớn rồi nên việc đầu tiên tôi làm là…trốn nhà đi tu. Thế nhưng tôi đã nhầm. Khi ba mẹ lên chùa tìm, Sư bà đã bảo tôi về đi học lại vì chưa đủ mười tám tuổi, ba mẹ có thể kiện nếu Sư bà nhận tôi. Lúc đó tôi nghĩ, “Vậy là mười tám tuổi mới lớn, mới được gọi là trưởng thành”.

Tùy theo mỗi quốc gia mà độ tuổi trưởng thành được quy định khác nhau. Thông thường trưởng thành nghĩa là ta có quyền đi bầu cử, tự lo cho bản thân mình, chịu trách nhiệm trước pháp luật và không cần đến sự trợ giúp của gia đình nữa. Nhưng đến năm ba mươi tuổi, khi đi tu cũng được khá lâu rồi, tôi mới hiểu được ý nghĩa thật sự của hai từ “trưởng thành”.

Thời điểm ấy, tôi rất giận một sư em. Trong cơn giận đó, tôi muốn tới và la sư em một trận. Tôi đã chuẩn bị sẵn một “bài la” rất bài bản. Lúc đi đến cửa phòng sư em, tôi bỗng xoay người và trở về lại bàn học của mình, ngồi đó rất lâu và khóc. Sau đó tôi lấy ra một mảnh giấy và viết:

“Có một đứa trẻ không chịu lớn và có một người lớn chưa trưởng thành.”

Tôi khóc cho sư em và cũng khóc cho chính mình. Khóc cho sư em vì tôi thấy sư em có đủ tất cả những điều kiện để lớn lên: được dạy dỗ, được chăm sóc và nhắc nhở rất nhiều nhưng em không muốn lớn. Em chỉ muốn nương tựa vào người khác mà không chịu đứng trên đôi chân của mình. Dù mọi người có thương bao nhiêu, sư em cũng không thấy đủ. Khóc cho bản thân vì đã tu bao nhiêu năm rồi mà vẫn còn sân si quá, không chăm sóc được cảm xúc của chính mình, muốn đi la sư em. Một cái thấy bất chợt xuất hiện: “La sư em thì có ích gì, la xong thì sư em cũng đâu thể lớn lên ngay được mà mình cũng khổ luôn”. Giây phút đó tôi nhận ra là mình vẫn chưa trưởng thành.

Đó cũng là lần đầu tiên tôi hiểu được trưởng thành nghĩa là mình có khả năng thấu hiểu mình và người khác, chăm sóc được cảm xúc, tri giác cũng như tâm hành của mình. Chỉ khi làm được như vậy tôi mới trưởng thành. Có thể năm mươi, sáu mươi tuổi nhưng mình vẫn hành xử như một đứa trẻ và làm tổn thương những người xung quanh.

Trưởng thành là cả một quá trình mà người làm con hay làm cha mẹ, ông bà đều phải học. Không có ai hoàn hảo, chỉ nhờ rèn luyện mà làm tốt hơn mỗi ngày.

Sư bạn

Trong tu viện, chúng tôi gọi những thầy, những sư cô lớn là sư cha, sư mẹ. Đó là những vị tuổi đạo cao, sống lâu trong chúng, có tình thương và dành sự chăm sóc cho những người nhỏ. Tuy là anh, là chị mà cũng là cha, là mẹ. Rồi có những “sư em”, tuy là em nhưng cũng là những người thầy của mình. Dù cho mới xuất gia, sự thực tập vững chãi và tươi mát của sư em giúp tôi tỉnh ra những lúc đắm chìm trong phiền não. Lúc đó, sư em trở thành một vị thầy dạy tôi dừng lại, trở về thực tập.

 

 

Ngoài ra còn có thêm một danh từ nữa, đó là “sư bạn”. Những người bạn đến tu cùng cũng là những người thầy của mình. Khi sống trong tăng thân, ai cũng là bạn của mình. Mỗi người đều dạy cho mình một bài học nào đó. Người nào khiến mình nổi giận, họ là người thầy dạy mình rằng mình chưa đủ kiên nhẫn. Tôi cảm ơn vị thầy ấy đã cho tôi một bài trắc nghiệm về lòng từ và sự kiên nhẫn. Còn người cho tôi sự bao dung, tha thứ, tôi cảm ơn vị đó đã cho tôi hiểu thế nào là tình thương đích thực. Vậy nên trong tăng thân, chúng ta có thể gọi nhau là sư bạn. Mỗi lần gặp huynh đệ, tôi hay chắp tay chào và gọi người đó là “sư bạn”.

Đức Bụt tương lai đã có mặt rồi

Ai trong chúng ta cũng có khả năng hiểu biết và thương yêu, khả năng hiến tặng tình thương của mình. Ai cũng có phẩm chất của một vị Bụt. Thời buổi hiện nay, mọi người nói rất nhiều về “self love” (thương yêu chính mình). Thương yêu chính mình không có nghĩa là tích trữ thật nhiều thứ như áo quần, phải có nhà đẹp, xe đẹp. Yêu bản thân mình có nghĩa là mỗi người biết quay về, chăm sóc tốt cho tự thân. Từ nền tảng của việc thương yêu chính mình, chúng ta sẽ có khả năng hiến tặng tình thương cho những người xung quanh.

Bụt Sakya là đức Bụt của quá khứ, đức Bụt tương lai là Bụt Maitreya (Từ Thị), biểu hiện cho tình thương. Nhiều người hay đặt câu hỏi với Thầy rằng bao giờ thì đức Bụt Từ Thị sẽ xuất hiện để cứu khổ cho chúng sanh. Tình hình thế giới hiện nay ngày càng có nhiều bạo động, giận dữ; những vấn đề như bất công xã hội cũng càng ngày càng leo thang.

Thầy trả lời rằng đức Bụt tương lai đã có mặt rồi. Tại vì mình không thật sự có mặt nên mình mới không thấy mà thôi. Đức Bụt của tương lai không phải là một cá nhân dù đó là một cá nhân xuất sắc. Đức Bụt tương lai là một đoàn thể tu học. Chỉ có sức mạnh của cộng đồng mới đủ khả năng, đủ trí tuệ và tình thương để chữa lành cho thế giới. Tất cả chúng ta đều có cơ hội là một phần của cộng đồng đó, cùng đóng góp vào sự nghiệp chung đó.

Sen búp xin tặng người. Một vị Bụt tương lai.

 

Khoá tu Bồi đắp gốc rễ (03.05-10.05.2024)

Xóm Hạ đang ở trong những ngày cuối cùng của khoá tu Asian, khoá tu có tên “Bồi đắp gốc rễ” dành cho các bạn thiền sinh người gốc châu Á sinh ra lớn lên hoặc đang sống và làm việc tại các nước Tây phương.

Khoá tu diễn ra trong không khí bình yên của những cơn mưa tháng Năm. Tiếng mưa rơi lộp độp trên mái thiền đường. Những dòng mưa trắng xoá nối nhau khi nhìn qua ô cửa kính. Những chiếc ô sắc màu dưới cơn mưa với những bước chân thiền hành trên đất Mẹ. Đất trời có lẽ cũng muốn giúp làm dịu mát những tâm hồn tìm về với nơi đây. Gần một tuần trôi qua, đã có biết bao nhiêu nụ cười dưới những cơn mưa!

Khoá tu diễn ra từ ngày 3-10/5. Ngày đầu khoá tu, Xóm Hạ chào đón những nụ cười hân hoan, háo hức của các bạn thiền sinh. Vào buổi tối, các bạn được đi vào phần thực tập đầu tiên là thiền buông thư, cơ hội để các bạn bắt đầu trở về, tiếp xúc lại với thân thể của mình một cách sâu sắc, sẵn sàng dành một tuần lễ để học cách hiểu và thương mình nhiều hơn.

Khoá tu có chủ đề “Bồi đắp gốc rễ”, nên xuyên suốt những ngày qua các bạn được nghe những bài pháp thoại xoay quanh đến việc kết nối trở lại với gốc rễ tổ tiên bên trong mình, học cách hiểu và chấp nhận để yêu thương và chuyển hóa hay tiếp nối những hạt giống từ gia tài mà tổ tiên trao truyền. Các buổi pháp đàm cũng như những buổi ngồi ăn cơm thân mật cùng nhau cũng diễn ra những chia sẻ rất sôi nổi. Những đề tài đưa ra được mọi người quan tâm, từ những đề tài rất thú vị và gần gũi như trở về thiết lập liên lạc với khu vườn tuổi thơ để nhận diện trở lại những điều kiện hạnh phúc, đến những vấn đề phức tạp gây nhiều cảm xúc như những khó khăn trong việc thiết lập kết nối với hai gốc rễ, hố ngăn cách thế hệ, hố ngăn cách văn hóa tạo nên sự mất truyền thông trong gia đình, hay những vấn đề liên quan đến mặc cảm tự ti tự tôn, những sự phân biệt kỳ thị màu da chủng tộc mà các bạn phải đối diện trong tâm thức cộng đồng. Những băn khoăn trăn trở này cũng được các bạn đặt ra trong buổi vấn đáp cùng những câu hỏi liên quan đến cách thiết lập bình an trong nội tâm, và mối liên hệ giữa bình an trong nội tâm và hoà bình cho thế giới xung quanh. Đa phần các bạn thiền sinh trong khoá tu là những người trẻ nên trong trái tim các bạn có rất nhiều nhiệt huyết và thao thức đóng góp cho cộng đồng và nỗi quan tâm đến các vấn đề xã hội. Đồng thời, năng lượng trẻ trung, sáng tạo của các bạn cũng làm cho năng lượng khoá tu thêm phần sôi nổi và tươi vui.

Đăng ký khóa tu lần này chiếm đến 80% các bạn có gốc là người Việt. Nên quý Sư cô trong các đội nấu ăn cũng rất để tâm và nấu rất nhiều món ăn quê hương. Từ bún măng, mỳ quảng, bún thì là, bún riêu đến các loại rau mang những mùi hương đặc trưng như rau húng, rau răm, diếp cá, ngò rí, thì là,… Đến các hủ chao, mắm măng, muối sả, muối đậu phộng, tất cả đều “ưu tiên” cho các bạn. Có bạn rưng rưng khi chia sẻ rằng, bên trong như có tiếng gào thét lên vì sung sướng khi ăn vào một muỗng cơm trắng với món cà tím kho nước tương hình ảnh cô bé ấu thơ trong em trở về.

Khoá tu không chỉ rạng rỡ với những nụ cười mà còn lung linh theo những giọt nước mắt. Những tiếng nức nở trong buổi ngồi thiền với bài hướng dẫn thiết lập truyền thông với em bé 5 tuổi. Hay những giọt nước mắt trong những buổi pháp đàm,  chia sẻ khi các bạn được lắng nghe, được thấu hiểu, được kết nối, được cảm thông. Hay những giọt nước mắt vỡ òa khi vừa khai mở, sáng ra một điều gì đó. Những giọt nước mắt sung sướng và hạnh phúc bởi cảm giác linh thiêng, xúc động của buổi lễ truyền năm giới. Và đâu đó có những giọt nước mắt luyến tiếc khi bắt đầu có cảm giác muốn gọi đây là nhà.

Buổi be-in của  khoá tu khép lại với lời đồng tâm nguyện cầu hướng đến chư vị tổ tiên. Những câu kệ trong bài hồi hướng quyện hòa trong tiếng dìu dặt, tĩnh lặng của những phím dương cầm còn để lại đây bao nhiêu dư âm cho những tâm hồn khát khao tìm về gốc rễ…..

Xin mời đại chúng thưởng thức vài khoảnh khắc được lưu lại trong khóa tu vừa qua.

 

 
 
 
 
 
 
 

Về Làng

(Thầy Chân Pháp Khả)

Khi về Làng nhớ mang theo thơ nhé
Góc bình yên cứ nối nhịp gieo vần
Tôi cứ vậy, viết, trà, rồi lại viết…
Trưa đến rồi dù sáng mới long lanh
 
Khi về Làng hồn bé thơ sống lại 
Nét anh nhi gặp nét đạo vui mừng 
Khi tựa gối đầu hoa bên mép suối 
Lúc cúi đầu lên vai ngọc rưng rưng
 
Khi về Làng ngữ ngôn im bặt hết 
Để tình Không may vá một niềm đau
Dòng nước mát tụng ca bài chuyển hóa 
Ta về đâu nơi đại thể lao xao
 
Khi về Làng dựng thước phim hiện tại 
Mỗi góc quay chứa sự sống nhiệm màu
Tua lại cảnh khi lòng không suy nghĩ
Thấy ba thời lặng lẽ đến bên nhau
 
Khi về Làng cứ để Làng nuôi nấng
Hồn quê hương ai gọi lại mà sâu
Mưa cuối ngõ chở hương hoa diệu lý
Nắng đầu đường soi tỏ dáng thiên thâu.
 
 
 
 
 
 

Đức Bụt của thế kỷ chúng ta

(Trích pháp thoại của Sư Ông Làng Mai ngày 13.02.2005 tại Chùa Hoằng Pháp, Việt Nam)

Kính thưa Ðại chúng! Hôm nay là ngày 13 tháng 2 năm 2005. Chúng ta đang vào ngày thứ ba của khóa tu dành cho người cư sĩ, được tổ chức tại chùa Hoằng Pháp, hôm nay chúng ta nghe bài pháp thoại cuối của khóa tu. Đề tài của bài pháp thoại là Đức Phật của thế kỷ chúng ta, Đức Phật của thương yêu. Theo cái thấy của tôi thì Đức Từ Thị, Đức Di Lặc đã giáng sanh rồi, Ngài đã hạ sanh và Ngài hiện bây giờ chắc khoảng năm hay sáu tuổi. Khi quý vị nghe như vậy thì quý vị muốn hỏi rất nhiều câu hỏi.

Ngài Giáng Sanh rồi hả? Thiệt không thầy? Con trai hay con gái và sinh ra ở nước nào?  Con có thể gửi phẩm vật tới cúng dường được hay không? Con có thể tới thăm Ngài hay không? Cố nhiên là quý vị sẽ có những câu hỏi như vậy và tôi sẽ tìm cách trả lời những câu hỏi của quý vị.

 

 

Trước hết tôi muốn nói rằng, kỳ này Đức Như Lai giáng sanh có thể không phải là trong hình thức của một cá nhân mà hình thức của một tập thể, một tập đoàn, một cộng đồng, một tăng thân. Thế kỷ thứ 20 là thế kỷ của chủ nghĩa cá nhân, individualism và chủ nghĩa cá nhân đã lộng hành tạo ra biết bao nhiêu chia rẽ, bao nhiêu hận thù, một thế kỷ đẫm máu. Và chúng ta biết rằng nếu thế kỷ thứ 21 vẫn tiếp tục theo chủ nghĩa cá nhân thì chúng ta sẽ có sự tiêu diệt. Vì vậy cho nên thế kỷ thứ 21 phải là thế kỷ tâm linh, thế kỷ của tình thương, nếu không thì sẽ có sự hoại diệt của trái đất này. Sự Giáng Sinh của Bụt Di Lặc, Bụt Từ Thị trong thế kỷ này là một điều rất thiết yếu, nếu Ngài không giáng sinh trong thế kỷ này thì chắc chắn trái đất này sẽ tan tành vì chiến tranh, vì hận thù, vì chủ nghĩa cá nhân. Ngài đã giáng sinh không phải dưới hình thức của một cá nhân mà Ngài sẽ giáng sinh dưới hình thức của một cộng đồng tu tập. Một tứ chúng trong đó có người xuất gia nam, người xuất gia nữ, người tại gia nam và người tại gia nữ. Nếu chúng ta biết chuẩn bị thì chúng ta sẽ trở thành một thành phần của tứ chúng đó. Mỗi chúng ta sẽ là một tế bào trong cơ thể của Đức Bụt tương lai. Bụt Từ Thị tên là Maitreya, Maitreya ta dịch là Di Lặc hay là Từ Thị, mà “Từ” tức là thương yêu, cho nên Đức Bụt của thế giới chúng ta là Đức Bụt của thương yêu.

Hôm nay bài giảng này nói về bản chất của thương yêu để cho chúng ta có thể chuẩn bị thực tập. Thực tập thương yêu tức là chuẩn bị để đón tiếp Đức Bụt của thế kỷ chúng ta, Bụt Từ Thị. Bụt Di Lặc là một sự nối tiếp của Bụt Thích Ca tại vì Ngài cũng đã là đệ tử của Đức Thích Ca.

Ngày xưa có một chàng trai tên là Maitreya. Trong thời Đức Thế Tôn còn tại thế có một chàng trai tên là Maitreya cùng tới thăm Đức Thế Tôn với một số các nhà triết học và đạo học khác. Sau khi những nhà triết học và đạo học khác đặt những câu hỏi cho Đức Thế Tôn thì chàng trai Maitreya cũng đặt những câu hỏi. Chàng trai Maitreya đã đặt những câu hỏi rất thông minh. Sau này Bụt của chúng ta, thầy của chúng ta, tức là Bụt Thích Ca đã tiên đoán rằng Maitreya sẽ là Đức Bụt kế tiếp. Vì vậy Maitreya cũng là đệ tử của Đức Thích Ca và cũng là sự tiếp nối của Đức Thích Ca.

 

 

Maitreya dịch là con người của thương yêu, Đức Bụt của tình thương. Chữ Maitreya phát sinh ra từ gốc chữ Maitri. Maitri có nghĩa là Từ, Từ tức là khả năng ban phát hiến tặng hạnh phúc. Đức Thích Ca đã giảng dạy về phương pháp thương yêu và Ngài đã nói tới Từ, Bi, Hỷ và Xả, đó là bốn chất liệu, bốn khía cạnh của tình thương đích thực. Maitreya, Từ Thị từ chữ Maitri mà ra, mà chữ Maitri có nghĩa là Từ, và chữ Maitri cũng có gốc từ chữ Mitra. Mitra tức là bạn, tức là tình huynh đệ. Đức Bụt mới của chúng ta là Đức Bụt của tình huynh đệ. Tại vì chữ Maitri cũng nghĩa là tình huynh đệ. Chúng ta không có thể nhân danh một tôn giáo hay một chủ nghĩa nào để giẫm nát tình huynh đệ. Tình huynh đệ là cái cao quý nhất. Vì vậy chúng ta đừng nhân danh một công trình nào, một sự nghiệp nào, một tôn giáo nào hay một chủ thuyết nào để làm tan nát tình huynh đệ. Tại vì tình huynh đệ là cao nhất, đó là tự thân của Bụt Thích Ca.

Trong bài thơ Lửa Từ Bi của Vũ Hoàng Chương, ca ngợi Hòa Thượng Thích Quảng Ðức, có hai câu mà tôi rất là thích, hai câu đó như thế này:

“Muôn vạn khối sân si vừa mở mắt

  Ta nhìn nhau tình huynh đệ bao la.”

Những khối sân si ở trên thế gian nó gây chiến tranh, gây đau khổ, gây kỳ thị, gây chia rẽ. Và khi Đức Bụt Di Lặc xuất hiện thì tất cả những khối sân si đó đều mở mắt và đều có khả năng thấy được tình huynh đệ. Ngọn lửa của thầy Quảng Ðức là ánh sáng giúp cho những khối sân si hay muôn vạn khối sân si mở mắt ra để thấy được tình huynh đệ bao la. Thấy được tình huynh đệ bao la tức là thấy được Bụt Di Lặc.

Hôm trước tôi có viết thư cho Ủy ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, tôi có đề nghị thành phố nên xây một cái tháp chín tầng để kỷ niệm Hòa Thượng Thích Quảng Ðức. Ngày xưa tôi rất thân quen với Hòa Thượng Quảng Ðức từ Nha Trang cho tới chùa Long Vĩnh ở Sài Gòn. Khi tôi đi ngang qua ngã tư Phan Đình Phùng thì thấy có một cái tháp rất là nhỏ, không xứng đáng với tầm vóc vĩ đại của Hòa Thượng Quảng Ðức. Cho nên tôi đã viết thư cho ông Chủ tịch Ủy ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh yêu cầu nghĩ tới chuyện nên xây một toà tháp chín tầng để kỷ niệm một vĩ nhân của đất nước Việt Nam. Hòa Thượng Thích Quảng Ðức không phải chỉ là người của đạo Phật, Hòa Thượng là người của dân tộc Việt Nam và ánh sáng của Hòa Thượng đã làm lay chuyển, đã mở mắt cho không biết bao nhiêu khối sân si trên thế giới. Câu chót của bài thơ Lửa Từ Bi của Vũ Hoàng Chương là câu:

“Đồng loại chúng con nắm tay nhau tràn nước mắt

Tình thương hiện tháp chín tầng xây”

Tình thương hiện thành một bảo tháp có chín tầng, vì vậy tôi đã đề nghị với ông Chủ tịch là phải xây một cái tháp chín tầng cho Hòa Thượng Quảng Ðức. Ở tầng trệt chúng ta sẽ có một tấm bia khắc bài thơ đó của Vũ Hoàng Chương.

Nhạc sĩ Phạm Duy cũng có làm một bài thơ để ca tụng Hòa Thượng Quảng Ðức. Bài này là một bài Âu Ca, chỉ sáu hay bảy dòng thôi và đó là bài kết thúc của trường ca “Mẹ Việt Nam”. Phạm Duy viết như thế này:

 “Việt Nam trên đường tương lai

Lửa thiêng soi toàn thế giới,

Việt Nam ta nguyện tranh đấu cho người.

Tình yêu đây là khí giới,

Tình thương đang về muôn nơi.”

Việt Nam đây tiếng nói đi xây tình người.

Câu lửa thiên soi toàn thế giới tức là nói về ngọn lửa của Hòa Thượng Thích Quảng Ðức.

Ta tranh đấu cho thế giới, không phải bằng võ khí nguyên tử, võ khí hạt nhân mà ta tranh đấu bằng khí giới của tình yêu. Đó là sứ mạng của Bụt Di Lặc. Chúng ta phải có bổn phận yểm trợ Đức Di Lặc và giúp cho Ngài thành lập, tạo dựng một Tăng thân gồm có Tứ Chúng, biểu lộ được tình thương trong tinh thần Từ, Bi, Hỷ và Xả.

 

 

Trước hết tôi xin nói về “Từ”. Từ tức là ước muốn và khả năng hiến tặng hạnh phúc. Thương yêu nghĩa là hiến tặng hạnh phúc, nếu không hiến tặng được hạnh phúc thì tình thương đó không phải là tình thương đích thực. Theo tinh thần Phật giáo, ta phải hiến tặng hạnh phúc cho cha và cho mẹ trong đời sống hàng ngày. Đôi khi ta có ý chí muốn làm cho cha mẹ hạnh phúc nhưng trên thực tế ta không có khả năng làm cho cha mẹ ta có hạnh phúc. Ý chí đó, ước muốn đó chưa phải là tình thương. Cho nên phải học các phương pháp làm thế nào để cha mẹ có hạnh phúc. Nếu ta yêu con trai hay con gái thì ta phải làm sao cho ngày hôm nay con ta có hạnh phúc. Ta nói thương con thôi thì chưa đủ, ta tin rằng ta thương con, ta tin rằng trong trái tim ta có rất nhiều tình thương dành cho con. Nhưng nếu ta không biết cách thì con ta vẫn đau khổ như thường. Khả năng có thể dâng tặng hạnh phúc mới gọi là Từ, mới gọi là thương yêu. Chúng ta phải thực tập làm thế nào để cho mỗi ngày ta có thể hiến tặng được hạnh phúc cho người ta thương.

Chúng ta muốn hiến tặng hạnh phúc cho người ta thương trước hết ta phải có sự tươi mát. Nếu ta không có tươi mát thì sự có mặt của ta không làm cho người kia hạnh phúc được. Trước hết ta phải thực tập như thế nào để ta có sự tươi mát. Ở Làng Mai có một bài thực tập là hoa tươi mát. Mỗi người trong chúng ta đều có hạt giống của sự tươi mát, dễ chịu, dễ thương trong mỗi người. Nhưng nếu chúng ta không sống theo phương pháp Bụt dạy thì sự tươi mát của chúng ta càng ngày càng ít đi và chúng ta trở thành khô cằn, héo hon, bực bội và chúng ta không có gì để hiến tặng cho người chúng ta thương yêu. Phải thực tập thở, thực tập mỉm cười, thực tập thư giãn, thực tập như thế nào để phục hồi sự tươi mát cho cơ thể  và tâm hồn ta.

Chúng ta biết rằng con người khi sinh ra đẹp như một bông hoa. Con người là một bông hoa trong vườn hoa nhân loại. Nhưng có những người trong chúng ta mất đi sự tươi mát đẹp đẽ, tại vì chúng ta không biết cách nuôi dưỡng bông hoa tươi mát ở trong chúng ta. Ta vốn có tính tươi mát của bông hoa. Ta vốn có tính đẹp đẽ của một bông hoa. Nhưng tại vì ta giận hờn, ta trách móc, ta sầu thương, ta lo lắng nhiều quá cho nên tính hoa của chúng ta càng ngày càng khô cằn và ta không có được sự tươi mát, sự đẹp đẽ đó để hiến tặng cho người ta thương. Trong bài thơ gửi cho chị Trúc, thi sĩ Nguyễn Bính có hứa với chị rằng sang năm mới em sẽ không than nữa, không rầu nữa, không khóc nữa. Và em hy vọng nếu em làm được như vậy thì hai mắt của em sẽ trong và sẽ tươi ra.

“Em không khóc nữa, không than nữa.

Đây một bài thơ hận cuối cùng

Không than chắc hẳn hồn tươi lại,

Không khóc tha hồ đôi mắt trong.”

Cho nên ta phải thực tập như thế nào để phục hồi tính tươi mát, tính trong sáng của thân thể và của tâm hồn ta. Đó là món quà quý giá nhất mà ta có thể tặng cho người thương của ta. Và là món quà quý nhất mà chúng ta có thể tặng cho cha, cho mẹ, cho con của ta.

 

 

Tôi đã từng nói chuyện với những người trẻ. Một trong những hạnh phúc lớn của đời tôi là chưa bao giờ bị xa cách với người trẻ, người trẻ rất tin tôi và tôi rất tin người trẻ. Cho nên không có cái hố ngăn cách về tuổi tác cũng như về văn hóa giữa tôi với người trẻ tuổi, dù là người trẻ tuổi xuất gia hay là người trẻ tuổi tại gia. Tôi đã viết rất là nhiều sách cho người trẻ tuổi, như là nói với tuổi 20, tuổi trẻ tình yêu và lý tưởng… nếu quý vị muốn đọc thì quý vị lên mạng của Làng Mai và quý vị sẽ đọc được những lời thương yêu đó, những lời tâm tình đó với tuổi trẻ. Đối với người xuất gia tôi đã viết quyển nói với người xuất gia trẻ với giọng điệu rất là thương yêu, rất là tâm tình. Tôi đã nói chuyện với những người trẻ và họ đồng ý với tôi một điểm rằng món quà quý nhất mà cha mẹ có thể để lại cho con cháu là sự hạnh phúc của cha mẹ. Cha mẹ thương nhau, cha mẹ hiến tặng cho con cháu niềm vui hạnh phúc. Những người trẻ không cần cha mẹ để lại cho họ tiền bạc, nhà cửa, xe hơi. Họ chỉ muốn cha mẹ sống với nhau hạnh phúc. Đó là gia tài quý nhất của cha mẹ có thể tặng cho con cái. “Từ” tức là maitri, còn “Bi” là karuna. “Bi” có nghĩa là ước muốn và khả năng lấy đi nỗi khổ niềm đau trong người ta thương. Người ta thương có những nỗi đau, những nỗi khổ, những khó khăn. Nếu ta là một người thương đích thực, có khả năng thì ta có thể  giúp chuyển hóa được những nỗi khổ niềm đau, những bế tắc, những mắc kẹt của người ta thương, đây mới thiệt là thương. Người nào mà không có những khó khăn, người nào mà không có những bức xúc trong lòng, người nào mà không có những khổ đau, người nào mà không có ước vọng. Chúng ta là người thương đích thực thì phải nhìn sâu vào người đó để thấy những nỗi khổ đau của người đó. Đôi khi những khổ đau đó chồng chất từ hồi ta còn ấu thơ mà chưa có ai lắng nghe cả, ta giúp cho người kia nói ra được tất cả những khổ đau mà người kia chưa có dịp nói với ai hết, thì đó gọi là Bi. “Bi” tức là làm cho nhẹ những nỗi khổ niềm đau của người ta thương. Cho nên trong khi thực tập Từ cũng như thực tập Bi, chúng ta phải nhìn sâu vào đối tượng thương yêu của ta. Đối tượng đó có thể là con trai hay con gái của ta. Ta phải thực sự có mặt một cách tươi mát để lắng nghe, để hiểu và đó là Từ và Bi. Người nào cũng có thể thực tập được Từ và Bi mỗi ngày. Người xuất gia cũng vậy, người tại gia cũng vậy. Quý vị đừng nói là quý vị không thực tập Từ và Bi được, tại vì mỗi vị ngồi ở đây đều có hạt giống của Từ và Bi. Hạt giống đó có thể còn nhỏ nhưng nó luôn có mặt đó. Nếu mỗi ngày ta thực tập Từ và thực tập Bi thì hạt giống đó sẽ lớn lên. Khi hạt giống Từ và Bi trở thành quan trọng, lớn mạnh thì hạnh phúc của ta sẽ nhiều lắm. Người hạnh phúc là nhờ có nhiều Từ và Bi. Sở dĩ tôi có hạnh phúc nhiều là tại vì tôi có rất nhiều Từ, tôi có rất là nhiều Bi. Tôi có thì giờ để hiến tặng sự có mặt của tôi cho những người thương của tôi, những người đang gặp khó khăn, những người đang có những cái bức xúc trong lòng, có những khổ đau, có những ước vọng chưa thành tựu.