Kinh Buông bỏ ý muốn hơn thua

 

Kinh Buông Bỏ Ý Muốn Hơn Thua

    (Dũng Từ Phạm Chí Kinh)
    Nghĩa Túc Kinh, kinh thứ tám, Đại Tạng Tân Tu 198
    tương đương với Pasùra Sutta, Sutta-Nipàta 824-834

     

     

    Bối cảnh

    Đây là kinh Dũng Từ Phạm Chí. Phạm Chí là một đạo sĩ Bà La Môn. Khung cảnh dựng lên: Sau khi an cư ba tháng mùa mưa ở tu viện Cấp Cô Độc, Bụt đi sang nước Đọa Sa (Tỳ Xá Li, Vaisali) để hành đạo. Ở đây có những ông nhà giàu và con cháu của họ thuê một vị Phạm Chí tên là Dũng Từ đứng ra tranh luận với Bụt, đặt những câu hỏi để Bụt không thể trả lời được. Vị Phạm Chí đã chuẩn bị trong ba tháng. Năm trăm người đã tới Cao Quán Điện (Kutagarasala), một phòng hội nghị trên bờ hồ Vườn Khỉ (Markatahrada-tire) để dự cuộc tranh luận. Phạm Chí Dũng Từ thấy Bụt với dáng vẻ uy nghi thì sinh ra sợ hãi, không có can đảm chất vấn Bụt nữa dù đã nghĩ trước sẵn năm trăm câu hỏi hóc búa. Bụt thấy vậy liền nói kinh này.

     

    1.   Tự mình cho là mình đã có pháp thanh tịnh cao nhất, kẻ khác không ai có tuệ giác lớn bằng mình. Kẹt vào cái sở tri của mình và thích thú với cái ý nghĩ là mình đã nắm được chân lý, thái độ ấy đưa người ta đến sự hành trì sai lạc.

    2.   Trong những buổi hội họp thường muốn tỏ ra rằng mình hơn người. Ai cũng cứ nói rằng kẻ kia còn là những người u tối. Lòng cứ đinh ninh là mình có chân lý, nhưng mình không thực sự biết là mình đang nói gì. Cứ thế mọi người đặt cho nhau những câu hỏi về chân lý và hy vọng là phía bên kia người ta sẽ không thể trả lời những cật vấn của mình được.

    3.   Trong đám đông, họ cật vấn nhau, họ đặt lại những câu hỏi gây khó khăn trong các buổi tranh luận. Khi bị dồn vào thế không trả lời được, người ta nổi cơn giận dữ tại vì đối với những vấn đề gọi là nan giải, ai cũng cho là mình hay nhất.

    4.   Lúc bấy giờ, trong sự thực tập của mình, mình bắt đầu có sự nghi ngờ tự cho mình là đã đi sai lạc và bắt đầu có tâm hành hối hận. Trong giọng nói của mình, bắt đầu có sự mất tự tin và không còn tin tưởng vào cái biết của mình nữa. Cuối cùng, cái thao thức muốn đặt những câu vấn nạn kia chẳng giúp ích được gì cho chính mình.

    5.   Buồn rầu, lo lắng và khổ đau khi thấy mình thua cuộc. Mình ngồi không vui mà nằm xuống cũng còn ấm ức hoặc hối hận. Cái công phu học hỏi của mình xưa nay vốn là sai lạc cho nên mới đưa tới những lời nói và những ý định như thế. Một khi thấy mình bị lép vế trong cuộc tranh luận rồi thì mình lại rơi vào mặc cảm thua kém.

    6.   Thấy điều ấy rồi thì mình ngậm miệng lại, không dám nói nữa bởi vì mình biết nếu gấp gáp nói ra một điều gì nữa thì vấn nạn lại do đó mà phát sinh. Vì có chủ ý vấn nạn cho nên mới phát sinh ra những cuộc tranh chấp, nguyên do cũng chỉ vì mình muốn được khen ngợi, được nổi bật giữa đám đông.

    7.   Những lời ngợi khen đẹp đẽ kia làm phát sinh sự thích thú cho nên ai cũng bị kẹt vào. Chính thái độ tự cao tự đại của mình làm cho mình rơi xuống thấp. Không chịu lắng nghe học hỏi thì làm sao ta có thể đi lên?

    8.   Nếu quả thực có tâm tu học thì ta sẽ không có nhu yếu tranh luận như thế. Không đi theo con đường (tranh luận) kia thì ta sẽ có cơ hội đi tới giải thoát tốt đẹp. Nếu cứ ỷ vào (cái hay, cái giỏi của mình) thì sẽ có nhu yếu năng nổ đi tìm một đối tượng mà mình muốn nạn vấn hơn thua.

    9. Tới và đi với thái độ hùng hổ, kẻ ấy không cảm thấy hổ thẹn, kẻ này bảo rằng: “ai có đủ sức nghị luận được với anh, ngoài tôi? Ôm lấy cái khối si mê của mình, rất muốn la lên rằng: “Chủ trương của quý vị toàn là sai lạc”. Mình đang tự cố thủ lấy cái sai lầm của chính mình.

      10. Thật sự là mình chỉ mới đi loanh quanh với cái hoa mà chưa bao giờ đi tới được cái quả. Những lời do chính mình nói ra mình cũng chưa hiểu được cái ý nghĩa của chúng nữa là. Phải (có can đảm) vượt khỏi những sai lầm của mình để tìm cầu sự khai minh. Giáo và nghĩa phải đi đôi với nhau, đừng để chúng chống đối và làm tổn thương nhau.

      11. Người đại diện được cái Thiện không còn nhu yếu nói năng gì nữa. Kẻ kia dù đúng hay sai, (tốt hay xấu) ta cũng không cần quan tâm lo lắng. Chủ đích của sự hành trì là tìm được cánh cửa (đi vào giải thoát). Đối tượng nào của tâm ý cũng đều phải để tâm quán chiếu cho tường tận.

        12. Cùng với vị chỉ huy trưởng tập họp và đàm luận chiến thuật với ba quân của mình, từ đốm sáng mờ mờ của con đom đóm, ta phát hiện lên ánh hào quang tỏa chiếu khắp nơi rạng rỡ.

         

        Đại ý

        Con đường tu đạo là con đường tịnh hóa. Nếu mình cho con đường của mình là cao nhất, nếu cho rằng mình đang đứng trên đỉnh cao trí tuệ thì chính mình đang bị kẹt, và sự hành trì của mình có thể là đang sai lạc. Mình có khuynh hướng muốn tranh luận và chứng tỏ là mình đúng, tất cả những kẻ khác đều sai lầm. Tranh luận mà thắng thì cảm thấy hả hê, nhưng chính cái hả hê đó sẽ làm cho mình rơi xuống hố sâu của mặc cảm. Phần lớn người ta chỉ ham chuộng lời hay ý đẹp và họ nghĩ cái ấy là đã đủ với họ. Họ không biết đó chỉ là đồ trang sức. Đó chỉ là cái thứ hoa không bao giờ kết trái. Đây là hình ảnh rất thiết thực được đưa ra trong bài thi kệ thứ chín. Nếu mình có nhu yếu tu học, nếu mình có khả năng lắng nghe và học hỏi thì mình sẽ không có nhu yếu tranh luận hơn thua.

        Trong kinh này Bụt chỉ dẫn những điều ta cần làm. Thứ nhất là phải phát tâm tìm cầu cánh cửa giải thoát. Thứ hai là những gì mình nói ra phải đi theo với pháp môn mình thực tập. Thứ ba là phải tìm cầu ánh sáng: chỉ có ánh sáng mới xua đuổi được bóng tối u minh, xua đuổi được tri giác sai lầm. Mà cách thức tìm cầu ánh sáng hay nhất là quán chiếu tất cả những đối tượng của tâm ý. Điều này được nói tới trong bài thi kệ thứ mười hai. Ánh sáng của con đom đóm không phá tan được màn vô minh, phải có ánh sáng của trí tuệ Ba La Mật.

         

        Bài kệ 1

        Tự thuyết tịnh pháp vô thượng                 自  說  淨  法  無  上
        Dư vô pháp minh cập ngã                          餘  無  法  明  及  我
        Trước sở tri cực khoái lạc                       著  所  知  極  快  樂
        Nhân duyên đế trú tà học                          因  緣  諦  住  邪  學

        Bài kệ 2
        Thường tại chúng dục nguyện thắng            常  在  眾  欲  願  勝
        Ngu phóng ngôn chuyển tướng thiêu            愚  放  言  轉  相  燒
        Ý niệm nghĩa vong bổn ngữ                         意  念  義  忘  本  語
        Chuyển thuyết nan tuệ sở ngôn                   轉  說  難  慧  所  言

        Bài kệ 3
        Ư chúng trung nan hợp nghĩa                        於  眾  中  難  合  義
        Dục nan nghĩa đương cánh cú                       欲  難  義  當  竟  句
        Tại chúng cùng tiện sân nhuế                        在  眾  窮  便  瞋  恚
        Sở nan giải chúng tất thiện                            所  難  解  眾  悉  善

        Bài kệ 4
        Tự sở hành tiện sanh nghi                               自  所  行  便  生  疑
        Tự kế phi hậu ý hối                                         自  計  非  後  意  悔
        Ngữ sảo nghi vong ý tưởng                              語  稍  疑  忘  意  想
        Dục tà nạn chánh bất trợ                                  欲  邪  難  正  不  助

        Bài kệ 5
        Bi ưu thống sở ngôn đoản                             悲  憂  痛  所  言  短
        Tọa bất lạc ngọa âm trách                             坐  不  樂  臥  喑  咋
        Bổn tà học trí từ  ý                                        本  邪  學  致  辭  意
        Ngữ bất thắng chuyển hạ ý                            語  不  勝  轉  下  意

        Bài kệ 6
        Dĩ kiến thị thượng thủ khẩu                         已  見  是  尚  守  口
        Cấp khai bế nan tùng sanh                          急  開  閉  難  從 生
        Ý tại nạn kiến đối sanh                                意  在  難  見  對  生
        Xuất thiện thanh vi chúng quang                   出  善  聲  為  眾 光

        Bài kệ 7
        Từ duyệt hảo sanh ý hỉ                                   辭  悅  好  生  意  喜
        Trước hoan hỉ bỉ tự bỉ                                    著  歡  喜  彼  自  彼
        Tự đại khả đọa lậu hành                                自  大  可  墮  漏  行
        Bỉ bất học tùng hà tăng                                  彼  不  學  從  何  增

        Bài kệ 8
        Dĩ học thị mạc không tranh                        已  學  是  莫  空  諍
        Bất tùng thị thiện giải thoát                        不  從  是  善  解  脫
        Đa ỷ sanh thống hành ti                             多  倚  生  痛  行  司
        Hành cầu bối dục dữ nạn                           行  求 輩  欲  與  難

        Bài kệ 9
        Dũng tùng lai khứ mạc tàm                          勇  從  來  去  莫  慚
        Lệnh đương thùy dữ nhữ nghị                     令  當  誰  與  汝  議
        Bão minh trụ dục nan viết                             抱  冥  柱  欲  難  曰
        Nhữ tà đế tự thủ si                                      汝  邪  諦  自  守  癡

        Bài kệ 10
        Nhữ hành hoa bất kiến quả                           汝  行  花  不  見  果
        Sở xuất ngữ đương cầu nghĩa                       所  出  語  當  求  義
        Việt tà độ chuyển cầu minh                           越  邪  度  轉  求  明
        Pháp nghĩa đồng tùng tướng thương             法  義  同  從  相  傷

        Bài kệ 11
        Ư thiện pháp dũng hà ngôn                              於  善  法  勇  何  言
        Bỉ thiện ác thọ mạc ưu                                    彼  善  惡  受  莫  憂
        Hạnh ức đáo cầu đáo môn                               行  億 到  求  到  門
        Ý sở tưởng khứ đế tư                                     意  所  想  去  諦  思

        Bài kệ 12
        Dữ đại tướng câu nghị quân                         與  大  將  俱  議  軍
        Bỉ  huỳnh hỏa thượng biến minh                   比  螢  火  上  遍  明

         

        Kinh Xa Lìa Ái Dục

         

        Kinh Xa Lìa Ái Dục

        (Di Lặc Nạn Kinh)
        Nghĩa Túc Kinh, kinh thứ bảy, Đại Tạng Tân Tu 198
        tương đương với Tissametteyya Sutta, Sutta-Nipàta 814-823

         

        Bối Cảnh

        Đây là kinh Di Lặc Nạn. Câu hỏi của thầy Di Lặc là về đề tài năng lượng tình dục. Đế Tu Di Lặc (Tissa Metteya) là một vị xuất gia trẻ, trước đó là đệ tử của một vị Phạm Chí tên là Bàvari, nhưng sau đó cả hai thầy trò đều trở thành đệ tử xuất gia của Bụt. Thầy Di Lặc đã từng đặt câu hỏi này với một vị cư sĩ trẻ tên là Xá Lợi Phất (không phải thầy Xá Lợi Phất) nhưng vị này đã không trả lời được dù đã từng nghe nhiều thầy lớn đàm luận với nhau. Cuối cùng thầy hỏi thẳng đức Thế Tôn: làm sao một người tu trẻ có thể xử lý được năng lượng tình dục để không bị thối thất trên bước đường tu học?

         

        1. Vướng mắc vào sắc dục là căn nguyên của bao nhiêu si mê lầm lỗi, những si mê lỗi lầm này ngăn không cho mình tiếp tục đi tới trên con đường Đạo rộng thênh thang. Xin đức Thế Tôn giáo giới cho chúng con, để chúng con có thể hành trì và lìa xa được mọi hệ lụy gây nên do sắc dục.

        2. Khi tâm ý đã bị ám ảnh bởi hình bóng một đối tượng ái dục thì chúng con thường quên mất lời truyền dạy của đức Thế Tôn. Chúng con đánh mất con đường chánh mà chúng con muốn đi, ngay cả những lúc chúng con ngủ nghỉ. Và chúng con cũng quên mất thứ tự trước sau trong công phu hành trì tu tập.

        3. Người xuất gia là người đi một mình với cái tâm ban đầu với chủ đích là khám phá cho ra được Chân Đế, nhưng sau đó một thời gian có thể đi ngược lại với lý tưởng của mình một khi bị vướng vào ái dục. Cũng như cỗ xe kia không còn chịu đi trên con đường thẳng mà bắt đầu lăn xuống hố, người xuất gia ấy không còn khả năng phân biệt được chánh tà.

        4. Ngày xưa vị ấy đã từng được tôn kính và yêu mến vì giá trị đạo đức của mình, nhưng bây giờ vị ấy đã đánh mất tất cả những cái tốt đẹp đó. Thấy được sự thật này, ta phải hết lòng tu tập, quyết tâm xa lìa con đường ái dục.

        5. Ta hãy nên quán chiếu về cái lợi và cái hại của sắc dục, phải thấy được một khi đã vướng vào sắc dục rồi thì ta sẽ đi về đâu. Phải lắng nghe những lời dạy tuệ giác liên hệ tới vấn đề này để đề cao cảnh giác. Phải thực tập chánh tư duy để thấy được những thống khổ và những hổ thẹn mà sắc dục có thể đem lại cho ta.

        6. Cái hành của ta phải đi theo với cái thấy của ta. Phải học phép độc cư, đừng bao giờ để xảy ra sự chung đụng trái phép. Vướng vào sắc dục sẽ sinh ra tà loạn, khiến cho kẻ hành giả đánh mất đi tất cả năng lượng dũng mãnh của chính mình.

        7. Kẻ phạm giới luôn luôn mang theo trong lòng sự sợ hãi. Giây phút giao hoan ngắn ngủi, nhưng cái sợ hãi này phải mang lấy lâu dài. Đã trót vướng vào cái lưới rồi, mình phải liên tiếp nói lên những lời gian dối không thật.

        8. Thấy được những hệ lụy gây nên do sự phạm giới, ta phải giữ mình và đừng bao giờ tự phụ là mình đã giỏi. Vị mâu ni kiên trì trên con đường sống độc cư của mình, khi đi cũng như khi về. Vị ấy hướng về nẻo sáng mà đi, không bị tập khí si mê lôi kéo.

        9. Sống một mình để đi trên con đường hướng thượng tìm cầu chân lý. Ta đã có con đường rồi nhưng ta không nên tự kiêu. Tuy chưa thực chứng được Niết Bàn, nhưng ta đã ở sát ngay bên cạnh Niết Bàn rồi.

        10. Nên phát khởi tâm nguyện vượt cao đi xa, không dừng lại ở cõi sắc và cõi vô sắc. Theo lời đức Thiện Thệ chỉ dạy, ta quyết tâm vượt ra ngoài cõi khổ. Được như thế thì bao nhiêu cám dỗ sắc dục của cuộc đời cũng sẽ không làm gì được ta.

        Đại Ý

        Kinh này gồm mười hai bài kệ. Kinh này cũng nối tiếp đề tài của kinh trước, nói về buông bỏ ân ái. Người xuất gia tuy không còn sống cuộc đời lứa đôi nữa, nhưng vẫn phải đương đầu với vấn đề ái dục, bởi vì năng lượng ái dục là năng lượng tự nhiên của con người, mình vẫn phải đối phó, dù mình đã là người xuất gia.

        Bụt dạy thầy Di Lặc phải thực tập vững chãi các giới điều và uy nghi, đừng để xảy ra sự chung đụng trái phép. Đừng tự phụ là mình đã giỏi, không cần tới những “chi tiết nhỏ nhặt” của giới luật và uy nghi. Phải phát đại nguyện vượt cao, đi xa, và tâm Bồ Đề ấy sẽ bảo hộ cho mình. Và phải luôn luôn quán chiếu để thấy những hệ lụy mà sắc dục đem lại. Vướng vào sắc dục rồi, mình sẽ như một cỗ xe không còn đi đường thẳng nữa mà bắt đầu lăn xuống hố, mình không tiếp tục được sự hành trì, mình phải chịu mất đi sự tin tưởng và quý chuộng của các bạn đồng tu, mình bắt buộc phải nói những lời gian dối, chịu đựng rất nhiều thống khổ và những hổ thẹn, tất cả đều là do sắc dục đem đến.

        Những người xuất sĩ già hay trẻ phải biết cám ơn thầy Di Lặc, vị xuất sĩ trẻ tuổi thời ấy, vì thầy đã can đảm hỏi những câu hỏi rất thật để Bụt có thể soi sáng cho tất cả những người xuất gia trẻ tuổi khác. Phép thực tập của Bụt gồm có hai điểm chính: Thứ nhất là phải thực tập giới luật và uy nghi cho vững chãi, thứ hai là phải tự nhắc nhở mình, nhắc nhở nhau và quán chiếu về những hệ lụy mà ái dục có thể mang tới.

         


        Bài kệ 1
        Dâm dục trước nữ hình                                  婬  欲  著  女  形
        Đại đạo giải si căn                                         大  道  解  癡  根
        Nguyện thọ tôn sở giới                                  願  受  尊  所  戒
        Đắc giáo hành viễn ác                                    得  教  行  遠  惡

         

        Bài kệ 2
        Ý trước dâm nữ hình                                   意  著  婬  女  形
        Vong tôn  sở giáo lệnh                                 亡  尊  所  教  令
        Vong chánh trí thùy ngọa                              亡  正  致  睡  臥
        Thị hành thất thứ đệ                                     是  行  失  次  第

        Bài kệ 3
        Bổn độc hành cầu đế                                      本  獨  行  求  諦
        Hậu phản trước sắc loạn                                後  反  著  色  亂
        Bôn xa vong chánh đạo                                  犇  車  亡  正  道
        Bất tồn xả chánh tà                                        不  存  捨  正  邪

        Bài kệ 4
        Tọa trị kiến tôn kính                                     坐  值  見  尊  敬
        Thất hành vong thiện danh                           失  行  亡  善  名
        Kiến thị đế kế học                                       見  是  諦  計  學
        Sở dâm viễn xả ly                                       所  婬  遠  捨  離

        Bài kệ 5
        Thả tư sắc thiện ác                                     且  思  色  善  惡
        Dĩ phạm đương hà trí                                   已  犯  當  何  致
        Văn tuệ sở tự giới                                       聞  慧  所  自  戒
        Thống tàm khước tự tư                               痛  慚  却  自  思

        Bài kệ 6
        Thường hành dữ tuệ hợp                               常  行  與  慧  合
        Ninh độc mạc loạn câu                                  寧  獨  莫  亂  俱
        Trước sắc sanh tà loạn                                  著  色  生  邪  亂
        Vô thế vong dũng mãnh                                   無  勢  亡  勇  猛

        Bài kệ 7
        Lậu giới hoài khủng bố                                  漏  戒  懷  恐  怖
        Thọ đoản vi bỉ phụ                                          受  短  為  彼  負
        Dĩ trước nhập la võng                                    已  著  入  羅  網
        Tiện khi xuất gian thanh                                便  欺  出  奸  聲

        Bài kệ 8
        Kiến phạm nhân duyên  ác                            見  犯  因  緣  惡
        Mạc thủ  thân tự  phụ                                   莫  取  身  自  負
        Kiên hành độc lai khứ                                   堅  行  獨  來  去
        Thủ minh mạc tập si                                      取  明  莫  習  癡

        Bài kệ 9
        Viễn khả độc tự xứ                                      遠  可  獨  自  處
        Đế kiến vi thượng hành                                 諦  見  為  上  行
        Hữu hành mạc tự kiêu                                  有  行  莫  自  憍
        Vô ỷ nê hoàn thứ                                          無  倚  泥  洹  次

        Bài kệ 10
        Viễn kế niệm trường hành                            遠  計  念  長  行
        Bất dục sắc bất sắc                                     不  欲  色  不  色
        Thiện thuyết đắc độ thống                             善  說  得  度  痛
        Tất thế dâm tự thực                                      悉  世  婬  自  食

         

        _________________________

        Mục Lục

        Lời tựa

        Phần 1

        1. Kinh Nhiếp Phục Tham Dục (Kiệt Tham Vương Kinh)
        2. Kinh Hang Động Ái Dục (Ưu Điền Vương Kinh)
        3. Kinh Buông Bỏ Sở Tri Và Ngôn Từ (Tu Đà Lợi Kinh)
        4. Kinh Buông Bỏ Khổ Lạc Và Nhiễm Tịnh (Ma Kiệt Phạm Chí Kinh)
        5. Kinh Sự Thật Đích Thực (Kính Diện Vương Kinh)
        6. Kinh Buông Bỏ Ân Ái (Lão Thiểu Câu Tử Kinh)
        7. Kinh Xa Lìa Ái Dục (Di Lặc Nạn Kinh)
        8. Kinh Buông Bỏ Ý Muốn Hơn Thua (Dũng Từ Phạm Chí Kinh)
        9. Kinh Nhân Cách Của Một Vị Mâu Ni (Ma Nhân Đề Nữ Kinh)
        10. Kinh Đạo Lý Duyên Khởi (Dị Học Giác Phi Kinh)
        11. Kinh Chấm Dứt Tranh Cãi (Mãnh Quán Phạm Chí Kinh)
        12. Kinh Buông Bỏ Nắm Bắt (Pháp Quán Phạm Chí Kinh)
        13. Kinh Công Phu Thực Tập Căn Bản (Đâu Lặc Phạm Chí Kinh)
        14. Kinh Phòng Hộ (Liên Hoa Sắc Tỳ Khưu Ni Kinh)
        15. Kinh Vị Mâu Ni Thành Đạt (Phụ Tử Cọng Hội Kinh)
        16. Kinh Chuyển Hóa Bạo Động Và Sợ Hãi (Duy Lâu Lặc Vương Kinh)
        Phần 2 (Giảng giải kinh)

        Kinh Vị Mâu Ni Thành Đạt
        Kinh Xa Lìa Ái Dục
        Kinh Chuyển Hóa Bạo Động Và Sợ Hãi

         

        Kinh Buông Bỏ Ân Ái

        Kinh Buông Bỏ Ân Ái
        (Lão Thiếu Câu Tử Kinh)
        Nghĩa Túc Kinh, kinh thứ sáu, Đại Tạng Tân Tu 198
        tương đương với Jarà Sutta, Sutta-Nipàta 804-813

         

        Bối Cảnh

        Đây là kinh Lão Thiếu Câu Tử. Lão Thiếu Câu Tử nghĩa là già cũng chết trẻ cũng chết. Khung cảnh dựng lên: Bụt đang ở nước Vatsa (cũng là Kiều Thường Di, Kausambi). Một hôm cùng với thầy A Nan vào thành phố khất thực, Bụt thấy nhiều phụ nữ xõa tóc khóc than vì người thân của họ mới qua đời. Có người một trăm hai mươi tuổi mới chết. Nhưng có em lại mới lên bảy tuổi mà đã chết. Thấy sự xót thương ấy Bụt nói kinh này.

         

        1.    Kiếp người rất ngắn ngủi
        Chưa tới một trăm năm
        Dù có hơn trăm năm
        Cũng không sao khỏi chết.

        2.   Lạc thú sinh lo lắng
        Ân ái sợ vô thường
        Yêu nhau hay ghét nhau, rốt cuộc rồi cũng phải xa
        nhau.
        Thấy vậy cho nên có người không còn ưa thích sống đời lứa đôi.

        3.   Không có gì mà cơn lũ của cái chết không cuốn theo nó. Những gì ta ham muốn ngày xưa, những gì mà ta trân quý như một cái ta, nếu lấy trí tuệ quán chiếu để tìm ra sự thật ta sẽ thấy rằng cái này không phải là ta, và ta không phải là cái này.

        4.   Những lạc thú của cuộc đời cũng giống như những gì ta thấy trong một giấc mơ. Thức dậy rồi thì không còn thấy gì nữa. Những gì mà người đời đang tham cầu cũng thế. Một khi tâm thức hết biểu hiện thì còn có gì nữa đâu?

        5.   Tên tuổi người ấy ta còn nghe, nhưng người ấy đã đi rồi. Người ấy dễ thương hay không dễ thương, bây giờ ta cũng không trông thấy nữa. Người ấy đã rời bỏ cuộc đời, người ấy đã đi về đâu? Thần thức đã đi, chỉ có cái tên còn ở lại.

        6.   Buồn giận nhau, yêu thương nhau, rồi ghen ghét nhau. Người ta không buông bỏ được cái vướng mắc vào tham ái. Bậc trí giả biết vậy cho nên buông bỏ ân ái. Lìa xa được sự sợ hãi và đạt tới cõi an lành.

        7.   Vị khất sĩ phải sống với sự thực, đừng đánh mất chánh niệm. Phải xa lìa ái dục, biết rằng hình hài này thế nào cũng có ngày hủy diệt. Phải thực tập đừng đuổi theo những đối tượng sắc dục. Phải quán chiếu tâm ý trong tâm ý. Trên con đường tìm cầu chân lý, đừng dừng lại bất cứ ở đâu.

        8.   Không dừng lại cũng là pháp môn hành trì của các bậc tôn đức. Cái thương, cái ghét, cái tỵ hiềm, cái buồn và cái lo không động được tới mình. Như những giọt nước rơi xuống không giọt nào dính vào được đóa sen.

        9.   Không vướng mắc, cũng không trông cầu. Những gì thấy và nghe có tính cách bất chính ta không ái trước. Cả đến cái giải thoát mà ta cũng không tìm cầu thì ta còn tìm cầu gì những cái ô nhiễm?

        10. Không vướng vào tham ái, (trong sáng) như một đóa sen. Tuy mọc lên từ bùn nhưng bùn không động tới được. Bậc tôn quý trên đời cũng hành xử như thế. Những gì nghe và thấy cũng giống như những gì chưa bao giờ thấy, chưa bao giờ nghe.

        Đại Ý

        Kinh này nói tới cái lo và cái sợ. Dù mình đang hưởng thọ lạc thú, mình cũng nơm nớp lo sợ không biết ngày mai mình còn giữ được cái ngày hôm nay không. Dù mình đang có ân ái, mình cũng nơm nớp lo sợ không biết ngày mai người thương của mình có còn hay không. Nhìn cho kỹ thì đối tượng của lạc thú cũng như đối tượng của yêu thương đều là vô thường, còn đó rồi mất đó như một giấc mơ. Khi người mà ta thương yêu không còn đó nữa, thì dù ta có khóc thương cách mấy người ấy cũng không sống lại được.

        Các vị khất sĩ phải buông bỏ ân ái, đi như một con người tự do, đừng để bất cứ một hình ảnh hay một âm thanh làm vướng bận. Đừng đuổi theo một đối tượng ái dục. Trên con đường đi tới giải thoát không nên dừng lại vì một đối tượng ân ái, dù chỉ là trong khoảnh khắc. Đừng để cái thương, cái ghét, cái buồn, cái lo đụng tới mình. Chính cái giải thoát mà ta cũng không bị vướng mắc vào thì tại sao ta để cho ta vướng mắc vào những cái ô nhiễm?

         

        Bài kệ 1
        Thị thân mạng thậm đoản                             是  身  命  甚  短
        Giảm bách niên diệc tử                                減  百  年  亦  死
        Tuy hữu quá bách niên                                  雖  有  過  百  年
        Lão tùng hà ly tử                                          老  從  何  離  死

        Bài kệ 2
        Tọa khả ý sanh ưu                                        坐  可  意  生  憂
        Hữu ái  tùng đắc thường                                有  愛  從  得  常
        Ái tăng tất đương biệt                                    愛  憎  悉  當  別
        Kiến thị mạc lạc gia                                        見  是  莫 樂  家

        Bài kệ 3
        Tử hải vô sở bất phiêu                                死  海  無  所  不  漂
        Túc sở tham ái hữu ngã                              宿  所  貪  愛  有  我
        Tuệ nguyện quán đế kế thị                            慧  願  觀  諦  計  是
        Thị vô ngã ngã vô thị                                     是  無  我  我  無  是

        Bài kệ 4
        Thị thế lạc như kiến mộng                            是  世  樂  如  見  夢
        Hữu thức ngụ  diệc hà kiến                           有  識  寤  亦  何  見
        Hữu tham thế tất diệc nhĩ                              有  貪  世  悉  亦  爾
        Thức chuyển diệt diệc hà kiến                      識  轉  滅  亦  何  見

        Bài kệ 5
        Văn thị bỉ tất dĩ khứ                                       聞  是  彼  悉  已  去
        Thiện diệc ác kim bất kiến                             善  亦  惡  今  不  見
        Tất xả thế đáo hà sở                                    悉  捨  世  到  何  所
        Thức thần khứ đãn danh tại                          識  神  去   但  名 在

        Bài kệ 6
        Ký bi ưu chuyển tướng tật                            既  悲  憂  轉  相  嫉
        Phục bất xả tham trước ái                              復  不  捨  貪  著  愛
        Tôn cố đoạn ái khí khả                                   尊  故  斷  愛  棄  可
        Viễn khủng bố kiến an xứ                             遠  恐  怖  見  安 處

        Bài kệ 7
        Tỳ-kheo đế mạc vọng niệm                           比  丘  諦  莫  妄  念
        Dục khả viễn thân thả hoại                            欲  可  遠  身  且  壞
        Dục hành chỉ ý quán ý                                  欲  行  止  意  觀  意
        Dĩ thùy đế vô chỉ xứ                                      已  垂  諦  無  止  處

        Bài kệ 8
        Vô chỉ giả diệc tôn hành                              無  止  者  亦  尊  行
        Ái bất ái diệc tật hành                                  愛  不  愛  亦  嫉  行
        Tại bi ưu diệc tật hành                                 在  悲  憂  亦  嫉  行
        Vô nhu triêm như liên hoa                            無  濡  沾  如  蓮  華

        Bài kệ 9
        Dĩ bất trước diệc bất vọng                             已  不  著  亦  不  望
        Kiến văn tà ngô bất ái                                    見  聞  邪  吾  不  愛
        Diệc bất tùng cầu giải thoát                           亦  不  從  求  解  脫
        Bất ô dâm diệc hà tham                                  不  污  婬  亦  何  貪

        Bài kệ 10
        Bất tướng tham như liên hoa                        不  相  貪  如  蓮  華
        Sanh tại  thủy thủy bất ô                                生  在  水  水  不  汙
        Tôn cập thế diệc nhĩ hành                              尊  及  世  亦  爾  行
        Sở văn kiến như vị sanh                                 所  聞  見  如  未  生

         

        _________________________

        Mục Lục

        Lời tựa

        Phần 1

        1. Kinh Nhiếp Phục Tham Dục (Kiệt Tham Vương Kinh)
        2. Kinh Hang Động Ái Dục (Ưu Điền Vương Kinh)
        3. Kinh Buông Bỏ Sở Tri Và Ngôn Từ (Tu Đà Lợi Kinh)
        4. Kinh Buông Bỏ Khổ Lạc Và Nhiễm Tịnh (Ma Kiệt Phạm Chí Kinh)
        5. Kinh Sự Thật Đích Thực (Kính Diện Vương Kinh)
        6. Kinh Buông Bỏ Ân Ái (Lão Thiểu Câu Tử Kinh)
        7. Kinh Xa Lìa Ái Dục (Di Lặc Nạn Kinh)
        8. Kinh Buông Bỏ Ý Muốn Hơn Thua (Dũng Từ Phạm Chí Kinh)
        9. Kinh Nhân Cách Của Một Vị Mâu Ni (Ma Nhân Đề Nữ Kinh)
        10. Kinh Đạo Lý Duyên Khởi (Dị Học Giác Phi Kinh)
        11. Kinh Chấm Dứt Tranh Cãi (Mãnh Quán Phạm Chí Kinh)
        12. Kinh Buông Bỏ Nắm Bắt (Pháp Quán Phạm Chí Kinh)
        13. Kinh Công Phu Thực Tập Căn Bản (Đâu Lặc Phạm Chí Kinh)
        14. Kinh Phòng Hộ (Liên Hoa Sắc Tỳ Khưu Ni Kinh)
        15. Kinh Vị Mâu Ni Thành Đạt (Phụ Tử Cọng Hội Kinh)
        16. Kinh Chuyển Hóa Bạo Động Và Sợ Hãi (Duy Lâu Lặc Vương Kinh)
        Phần 2 (Giảng giải kinh)

        Kinh Vị Mâu Ni Thành Đạt
        Kinh Xa Lìa Ái Dục
        Kinh Chuyển Hóa Bạo Động Và Sợ Hãi

         

        Kinh Sự Thật Đích Thực

         

         

        Kinh Sự Thật Đích Thực
        (Kính Diện Vương Kinh)
        Nghĩa Túc Kinh, kinh thứ năm, Đại Tạng Tân Tu 198
        tương đương với Paramatthaka Sutta,Sutta-Nipàta 796-803

         

        Bối Cảnh

        Các thầy khất sĩ của Bụt trước giờ khất thực có ghé qua thăm một hội trường nơi đó có nhiều giáo sĩ Bà La Môn đang tranh luận. Họ chê bai nhau, họ chỉ trích nhau, ai cũng cho cái thấy của mình là cao nhất, đúng nhất. Lời nói của họ không ái ngữ mà có tính cách độc hại và mũi nhọn. Các thầy chán quá, về thuật lại với Bụt. Bụt kể chuyện tiền thân. Kiếp đó Ngài là vua Kính Diện Vương. Một hôm vua cho mời những người mù từ khi mới lọt lòng mẹ trong vương quốc tới chơi. Trước sân điện, với sự có mặt của các nhà trí thức và đạo sĩ trong nước, vua cho dẫn ra một con voi rồi mời những người mù đến sờ voi và nói ra cái thấy của họ. Người sờ chân voi thì nói voi giống một cái cột nhà, người sờ đuôi voi thì nói voi giống một cái chổi, người sờ tai voi thì nói voi giống như một cái quạt v.v… Cố nhiên là họ không đồng ý với nhau về cái thấy của họ. Rồi Bụt dạy kinh này để khuyên các vị đệ tử buông bỏ những quan niệm của mình sẵn có về thực tại.

        1. Mình còn mờ mịt mà cứ nói rằng kẻ kia chẳng bằng mình. Vướng víu si mê, cứ để tháng ngày trôi qua, bao giờ mới có cơ hội thấy rõ chân lý? Chưa có pháp môn tu đạo mà cứ nói mình đã thực tập xong xuôi. Tâm còn loạn động, chưa biết hành trì, bao giờ mình mới có được kiến giải thực sự?

        2. Cứ nghĩ rằng người khác phải hành trì theo cái hành trì của mình. Tự cho rằng cái thấy, cái nghe và cái thực tập của mình là không ai bằng được. Chính mình đang bị sa đọa và ràng buộc vào trong năm cái hang động dục lạc của cuộc đời mà mình vẫn cứ ba hoa nói mình hơn người.

        3. Còn ôm chặt si mê và vọng tưởng mà cứ tưởng rằng mình đã đạt tới chỗ chí thiện. Cái học hỏi và sự thực tập của mình còn sai lạc mà mình lại cứ ham muốn độ đời. Những gì thấy, nghe, suy nghĩ, và cả những nghi lễ và cấm giới mà mình hành trì, mình vẫn còn bị kẹt vào đấy, chưa thoát ra khỏi.

        4. Bậc thức giả thấy người thế gian đi theo con đường ấy thì nhất quyết không chịu đi theo. Ta chỉ nên hành trì theo chánh niệm và trong khi hành trì phải hết sức thận trọng. Đừng cho rằng mình bằng người, hơn người hoặc thua người.

        5. Cái bây giờ mình không nắm bắt, cái sau này cũng tuyệt đối không làm mình vướng bận. Buông bỏ mọi chủ thuyết, mọi ý tưởng, một mình đi trong tự do. Tuy vẫn có cái biết và cái thấy, nhưng thường quán chiếu để không bị kẹt vào chúng.

        6. Không kẹt vào cái nhìn lưỡng nguyên, không kẹt vào ý niệm thọ mạng, ý niệm về đời này và đời sau, kẻ trí giả đi theo con đường trung đạo, quán chiếu các pháp để đạt tới thiền định chân chính.

        7. Phải quán chiếu về những gì thấy, nghe và cảm nhận để đừng khởi lên tà niệm và bị kẹt vào tri giác sai lầm. Dùng trí tuệ để quán chiếu tâm ý và đối tượng tâm ý để buông bỏ được tất cả, không còn bị vướng vào một pháp nào trong thế gian.

        8. Nếu các pháp đều không thực sự hiện hữu, thì còn pháp hành trì nào nữa để cho ta kẹt vào? Phải biết tìm trong pháp hành trì của mình cái đệ nhất nghĩa đế, cái sự thật đích thực. Không bị kẹt vào nghi lễ và giới cấm, không cho đó là chân lý, nhờ đó mà vượt qua được bờ bên kia, không bao giờ còn trở lại chốn sinh tử.


        Đại Ý

        Kinh này cũng chỉ có tám bài thi kệ, và cũng nối tiếp được giáo nghĩa của các kinh đi trước một cách liên tục. Khi mình ôm ấp một cái thấy, một chủ thuyết rồi cho đó là chân lý tuyệt đối thì mình sẽ có thái độ khinh mạn đối với những người khác và những cái thấy của họ. Mình không chịu tu tập mà chỉ muốn đi truyền bá cái lý thuyết của mình. Một vị khất sĩ chân chính, một vị phạm chí chân chính không thể đi theo con đường ấy. Phải buông bỏ sở tri, phải thực tập để thoát ra khỏi hang động của ham muốn, và phải đạt tới tuệ giác vô ngã để phá tan cả ba thứ mặc cảm là hơn người, thua người và bằng người.

        Còn chấp vào một cái ngã thì còn so sánh, còn so sánh thì còn mặc cảm. Những mặc cảm ấy gây khổ đau và bệnh hoạn. Theo đạo Bụt, không những mặc cảm thua người đưa tới bệnh tật và khổ đau, mà mặc cảm hơn người và bằng người cũng chứng tỏ rằng ta chưa thoát ra khỏi khổ đau và bệnh tật.

        Ta có những cái biết và cái thấy, nhưng ta không cần phải bị kẹt vào những cái ấy, thì ta mới có tự do và mới có cơ hội đi lên. Đó là giáo lý buông bỏ sở tri; sở tri là cái thấy, cái thấy ấy nếu ta bị kẹt vào là ta mất tự do, là ta không còn cơ hội đi lên.

        Bài kệ thứ sáu nói tới con đường trung đạo, vượt qua cái nhìn lưỡng nguyên (sinh diệt, có không v.v…), vượt qua ý niệm thọ mạng (kiếp này và kiếp sau) và mở cửa cho giáo lý của kinh Kim Cương Bát Nhã sau này. Bài kệ thứ tám nói về cái không của các pháp (các pháp không thực sự hiện hữu) và cái sự thật đích thực tức là đệ nhất nghĩa đế. Đây chính là hạt giống của giáo lý trí tuệ vượt qua bờ bên kia (cầu vi đế, độ vô cực chúng bất hoàn). Vị đạo sĩ đạt được cái thấy bất nhị rồi thì không còn nắm bắt cái bây giờ và vướng bận vào cái sau này, vị âý sẽ có thong dong thật sự.

        Vì kinh này có hơi hướng của Bát Nhã Ba La Mật cho nên thầy Tăng Hội đã đưa nó vào trong phần Minh Độ Vô Cực của kinh Lục Độ Tập do thầy biên dịch. Ta có thể đọc kinh này trong quyển thứ tám của Lục Độ Tập Kinh, kinh thứ 89.

        Kinh Kính Diện Vương ở Lục Độ Tập Kinh được sao chép kỹ lưỡng nên có ít sai sót hơn, và nhờ thế dễ dịch hơn. Xin mời các vị độc giả so sánh hai bản đã được giữ lại trong Hán tạng của kinh này.

         

        Bài kệ 1
        Tự minh ngôn thị bỉ bất cập                           自 冥 言 是 彼 不 及
        Trước si nhật lậu hà thời minh                       著 癡 日 漏 何 時 明
        Tự vô đạo vị học tất nhĩ                                 自 無 道 謂 學 悉 爾
        Đản loạn vô hành hà thời giải                        但 亂 無 行 何 時 解

        Trong Lục Độ Tập Kinh của thầy Tăng Hội:
        Tự minh ngôn thị bỉ bất cập                          自  冥  言  是  彼  不  及
        Trước si nhật lậu hà thời minh                      著  癡  日  漏  何  時  明
        Tự vô đạo vị học tất nhĩ                                自  無  道  謂  學  悉  爾
        Đảo loạn vô hành hà thời giải                       倒  亂  無  行  何  時  解


        Bài kệ 2
        Thường tự giác đắc tôn hành                        常  自  覺  得  尊  行
        Tự văn kiến hành vô tỉ                                   自  聞  見  行  無  比
        Dĩ đọa hệ thế ngũ trạch                                 已  墮  繫  世  五  宅
        Tự khả kỳ hành thắng bỉ                                自  可  奇  行  勝  彼

        Trong Lục Độ Tập Kinh của thầy Tăng Hội:
        Thường tự giác đắc tuân hành                      常  自  覺  得  恂  行
        Tự văn kiến hành vô tỉ                                   自  聞  見  行  無  比
        Bỉ đọa hệ thế ngũ trạch                                已  墮  繫  世  五  s宅
        Tự khả ỷ hành thắng bỉ                                 自  可  綺  行  勝  彼


        Bài kệ 3
        Bão si trú vọng trí thiện                                 抱  癡  住  妄  致  善
        Dĩ tà học mông đắc độ                                  以  邪  學  蒙  得  度
        Sở kiến văn đế thọ tư                                    所  見  聞  諦  受  思
        Tuy trì giới mạc vị khả                                    雖  持  戒  莫  謂 可

        Trong Lục Độ Tập Kinh của thầy Tăng Hội:
        Bão si trú vọng trí thiện                                   抱  癡  住  妄  致  善
        Dĩ tà học mông đắc độ                                    以  邪  學  蒙  得  度
        Sở kiến văn đế thọ tư                                      所  見  聞  諦  受  思
        Tuy trì giới mạc vị khả                                      雖  持  戒  莫  謂  可


        Bài kệ 4
        Kiến thế hành mạc tất tu                                 見  世  行  莫  悉  修
        Duy hiệt niệm diệc bỉ hành                              惟  黠  念  亦  彼  行
        Dữ hành đẳng diệc kính đãi                            與  行  等  亦  敬  待
        Mạc sanh tưởng bất cập quá                          莫  生  想  不  及  過

        Trong Lục Độ Tập Kinh c ủa thầy Tăng Hội:
        Kiến thế hành mạc tất tùy                               見  世  行  莫  悉  隨
        Duy hiệt niệm diệc bỉ hành                              惟  黠  念  亦  彼  行
        Dữ hành đẳng diệc kính trì                             與  行  等  亦  敬  持
        Mạc sanh tưởng bất cập quá                          莫  生  想  不  及  過


        Bài kệ 5
        Thị dĩ đoạn hậu diệc tận                                 是  已  斷  後  亦  盡
        Diệc khí tưởng độc hành đắc                         亦  棄  想  獨  行  得
        Mạc tự tri dĩ trí hiệt                                        莫  自  知  以  致  黠
        Tuy kiến văn đãn hành quán                         雖  見  聞  但  行  觀

        Trong Lục Độ Tập Kinh c ủa thầy Tăng Hội:
        Thị dĩ đoạn hậu diệc tận                                 是  已  斷  後  亦  盡
        Diệc khí tưởng độc hành đắc                          亦  棄  想  獨  行  得
        Mạc tự tri dĩ trí hiệt                                           莫  自  知  以  致  黠
        Tuy kiến văn đãn hành quán                           雖  見  聞  但  行  觀


        Bài kệ 6
        Tất vô nguyện ư lưỡng diện                           悉  無  願  於  兩  面
        Thai diệc thai xả viễn ly                                  胎  亦  胎  捨  遠  離
        Diệc lưỡng xứ vô sở trú                                  亦  兩  處 無  所  住
        Tất quán pháp đắc chánh chỉ                          悉  觀  法  得  正  止

        Trong Lục Độ Tập Kinh của thầy Tăng Hội:
        Tất vô nguyện ư lưỡng diện                              悉  無  願  於  兩  面
        Thai diệc thai hợp viễn ly                                   胎  亦  胎  合  遠  離
        Diệc lưỡng xứ vô sở trú                                     亦  兩  處  無  所  住
        Tất quán pháp đắc chánh chỉ                            悉  觀  法  得  正  止


        Bài kệ 7
        Ý thọ hành sở kiến văn                                  意  受  行  所  見  聞
        Sở tà niệm tiểu bất tưởng                               所  邪  念  小 不  想
        Tuệ quán pháp ý kiến ý                                  慧  觀  法  意  見  意
        Tùng thị đắc xả thế không                             從  是  得  捨  世  空

        Trong Lục Độ Tập Kinh của thầy Tăng Hội:
        Ý thọ hành sở kiến văn                                  意  受  行  所  見  聞
        Sở tà niệm tiểu bất tưởng                              所  邪  念  小  不  想
        Tuệ quán pháp ý kiến ý                                  慧  觀  法  意  見  意
        Tùng thị đắc xả thế không                              從  是  得  捨  世  空

        Bài kệ 8
        Tự vô hữu hà pháp hành                                自  無  有  何  法 行
        Bổn hành pháp cầu nghĩa đế                         本  行  法  求  義  諦
        Đãn thủ giới cầu vi đế                                    但  守  戒  求  為  諦
        Độ vô cực chúng bất hoàn                             度  無  極  眾 不  還

        Trong Lục Độ Tập Kinh của thầy Tăng Hội:
        Tự vô hữu hà sở đắc                                       自  無  有  何  所  得
        Bồn hành pháp cầu nghĩa đế                          本  行  法  求  義  諦
        Đãn thủ giới cầu vi tuệ                                    但  守  戒  求  為  慧
        Độ vô cực chung bất hoàn                              度  無  極  終  不  還

         

        _________________________

        Mục Lục

        Lời tựa

        Phần 1

        1. Kinh Nhiếp Phục Tham Dục (Kiệt Tham Vương Kinh)
        2. Kinh Hang Động Ái Dục (Ưu Điền Vương Kinh)
        3. Kinh Buông Bỏ Sở Tri Và Ngôn Từ (Tu Đà Lợi Kinh)
        4. Kinh Buông Bỏ Khổ Lạc Và Nhiễm Tịnh (Ma Kiệt Phạm Chí Kinh)
        5. Kinh Sự Thật Đích Thực (Kính Diện Vương Kinh)
        6. Kinh Buông Bỏ Ân Ái (Lão Thiểu Câu Tử Kinh)
        7. Kinh Xa Lìa Ái Dục (Di Lặc Nạn Kinh)
        8. Kinh Buông Bỏ Ý Muốn Hơn Thua (Dũng Từ Phạm Chí Kinh)
        9. Kinh Nhân Cách Của Một Vị Mâu Ni (Ma Nhân Đề Nữ Kinh)
        10. Kinh Đạo Lý Duyên Khởi (Dị Học Giác Phi Kinh)
        11. Kinh Chấm Dứt Tranh Cãi (Mãnh Quán Phạm Chí Kinh)
        12. Kinh Buông Bỏ Nắm Bắt (Pháp Quán Phạm Chí Kinh)
        13. Kinh Công Phu Thực Tập Căn Bản (Đâu Lặc Phạm Chí Kinh)
        14. Kinh Phòng Hộ (Liên Hoa Sắc Tỳ Khưu Ni Kinh)
        15. Kinh Vị Mâu Ni Thành Đạt (Phụ Tử Cọng Hội Kinh)
        16. Kinh Chuyển Hóa Bạo Động Và Sợ Hãi (Duy Lâu Lặc Vương Kinh)
        Phần 2 (Giảng giải kinh)

        Kinh Vị Mâu Ni Thành Đạt
        Kinh Xa Lìa Ái Dục
        Kinh Chuyển Hóa Bạo Động Và Sợ Hãi

         

        Kinh Buông Bỏ Khổ Lạc Và Nhiễm Tịnh

        Kinh Buông Bỏ Khổ Lạc Và Nhiễm Tịnh
        (Ma Kiệt Phạm Chí Kinh)
        Nghĩa Túc Kinh, kinh thứ tư, Đại Tạng Tân Tu 198
        (tương đương với Suddhatthaka Sutta, Sutta-Nipàta 788-795)

         

        Bối Cảnh

        Kinh này là kinh Ma Kiệt Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên: Có một vị phạm chí tên là Ma Kiệt (Màgadha) qua đời trong khi giảng dạy. Đệ tử làm tang lễ cho vị ấy, rước thi hài vị phạm chí qua các ngả đường thành phố Xá Vệ. Người ta tin rằng ai thấy được hình hài vị phạm chí ấy thì được giải thoát, dù là chỉ thấy được hình hài ấy sau khi ông ta chết. Các thầy khất sĩ của Bụt về báo cáo lại chuyện này và Bụt đã dạy kinh Ma Kiệt Phạm Chí.

        1. “Tôi đã được chuyển hóa và trị liệu.” Có kẻ tin rằng hễ thấy được (bốn) sự thật thì mình tự nhiên được tịnh hóa. Những kẻ tin rằng cái kiến thức mình có chính là cái chuyển hóa và trị liệu, những kẻ ấy chưa thực sự chứng nhập được khổ đế và tập đế.

        2. Có kẻ mới gặp được một bậc hảo nhân mà nghĩ là mình đã được tịnh hóa, đã có tuệ giác, đã hành trì xong, đã lìa xa được khổ nạn, đã trừ bỏ được xấu ác, đã thấy được con đường thanh tịnh, những người như thế cần phải đoạn trừ cái sở kiến của mình thì mới có thể thực sự đi vào được sự tịnh hóa chân chính.

        3. Giải thoát không phải là do mình tiếp nhận được một cái gì từ người khác, hoặc từ những cái mình thấy, mình nghe hoặc những giới cấm và nghi lễ mà mình tiếp thọ. Vị sa môn chân chính không bị kẹt vào ý niệm tội và phước, vị ấy đã đoạn trừ được tất cả mọi ý niệm và không bao giờ tự khen mình.

        4. Buông bỏ cái đã qua, không tưởng nhớ đến cái sắp tới. Bước đi trong hiện tại, vượt qua bốn dòng lũ lụt: dục hải, hữu hải, kiến hải và vô minh hải. Vị sa môn cứ một đường thẳng mà đi tới, không bị kẹt vào ý niệm khổ. Bởi vì biết rằng còn có sở niệm thì tâm mình còn bị ràng buộc!

        5. Vị ấy luôn đề cao cảnh giác, nắm vững giới luật mà đi, và trong khi đi, nếu ý niệm về khổ kia phát sinh thì nên lập tức buông bỏ và từ từ đi vào công phu hành trì. Hành trì ở đây có nghĩa là thực sự quán chiếu và thẩm sát, và không có nhu yếu thuyết giảng bằng những lời kiểu cách.

        6. Vị ấy đối với tất cả các pháp, không còn có nghi ngờ gì nữa. Với những gì thấy và nghe, vị ấy thường làm phát khởi chánh niệm để nhận diện. Vị ấy là kẻ đã thực sự nghe và thấy được (bốn) sự thật, là kẻ có nền tảng và năng lượng của sự hành trì, là kẻ không còn tạo tác nghiệp thế gian và không còn bị kéo theo sáu đối tượng của giác quan nữa.

        7. Không thắc mắc về những tiện nghi cho riêng mình, không thắc mắc về việc nguời ta có tôn kính mình hay không, cũng không cần thắc mắc là mình đã có sự tịnh hóa hoàn toàn hay chưa, người đạt đạo cắt đứt được mọi ý niệm về ân và về oán, không còn vướng mắc vào một chủ thuyết nào và cũng không còn theo đuổi một dự án nào nữa trong thế gian.

        8. Một người như thế là một bậc chân tu, không còn nắm giữ gì cho mình nữa cả. Những gì người ấy thấy và nghe, người ấy đều không bị vướng mắc. Người ấy không còn thấy có gì là ô nhiễm hoặc không ô nhiễm, không còn thấy có gì là tịnh hay bất tịnh.

        Đại Ý

        Kinh này cũng chỉ có tám bài kệ. Bụt dạy ta phải buông bỏ không những mọi chủ thuyết, mọi ý thức hệ mà phải buông bỏ luôn các ý niệm về khổ vui, tội phúc, ân oán và nhiễm tịnh. Kinh này nối tiếp được kinh thứ ba trước đây một cách rất liên tục và nhất trí.

        Có người mới gặp được một bậc minh sư hay nghe được giáo lý mầu nhiệm của vị ấy thì đã có cảm giác là cuộc đời mình đã thay đổi, mình đã được trị liệu và chuyển hóa. Sự thực là mình chỉ mới đi tới giai đoạn thấy đạo (kiến đạo). Mình phải đi qua các giai đoạn tu đạo và chứng đạo nữa thì mình mới thực sự có chuyển hóa và trị liệu. Nếu không mình chỉ bám lấy cái ý tưởng là mình đã có thầy, đã có con đường, và cho như vậy là đủ.

        Có những người sau khi nghe về diệu đế thứ nhất là khổ thì bị vướng vào đấy và nghĩ rằng khổ là chân lý tuyệt đối, mình phải tự nhắc đi nhắc lại “đời là khổ”. Thái độ giáo điều ấy khiến cho họ không đi tới được. Diệu đế thứ ba là diệt, nghĩa là sự vắng mặt của khổ đau, đồng thời cũng có nghĩa là sự có mặt của hạnh phúc, người ấy không thấy được như thế. Theo đúng tinh thần của kinh, không những ta phải buông bỏ ý niệm về khổ mà cũng phải buông bỏ ý niệm về hết khổ. Cái hết khổ không còn ám ảnh ta được thì cái khổ cũng không thể nào ám ảnh ta.

        Giải thoát là cái tự do mình đạt được khi có khả năng buông bỏ. Không phải là cái mình tiếp nhận từ bên ngoài hay từ một vị đạo sư. Cái thấy cái hiểu của mình về giáo lý, cả những giới cấm và nghi lễ mình đang hành trì cũng không phải là giải thoát. Và vì vậy các ý niệm tội phúc, nhiễm tịnh, ân oán mình cũng buông bỏ được. Đây đã là sự hình thành của giáo lý Bát Nhã: không nhơ không sạch, không thêm không bớt, không khổ không lạc, không tội không phước.

        Bài kệ 1
        Ngã kiến tịnh vô hữu bệnh                           我  見  淨  無  有  病
        Tín  kiến đế  cập tự tịnh                              信  見  諦  及  自  淨
        Hữu tri thị tất  khả độ                                  有  知  是  悉  可  度
        khổ đoạn tập chứng tiền phục                      苦  斷  習  證  前  服


        Bài kệ 2
        Kiến hảo nhân dĩ vi tịnh                              見  好  人  以  為  淨
        Hữu tuệ hành cập ly khổ                            有  慧  行  及  離  苦
        Hiệt trừ hung kiến tịnh kính                         黠  除  凶  見  淨  徑
        Đoạn sở kiến chứng chí tịnh                       斷  所  見  證  至  淨

        Bài kệ 3
        Tùng dị đạo vô đắc thoát                              從  異  道  無  得  脫
        Kiến văn trì giới hạnh độ                              見  聞  持  戒  行  度
        Thân bất ô tội diệc phước                            身  不  污  罪  亦  福
        Tất dĩ đoạn bất tự dự                                   悉  已  斷  不  自  譽

        Bài kệ 4
        Tất khí thượng mạc niệm hậu                       悉  棄  上  莫  念  後
        Hữu thị hành độ tứ hải                                  有  是  行  度  四  海
        Trực hành khứ mạc niệm khổ                        直  行  去  莫  念  苦
        Hữu sở niệm ý tiện phược                            有  所  念  意  便  縛


        Bài kệ 5
        Thường giác ý thủ giới hạnh                         常  覺  意  守  戒  行
        Tại thượng hành tưởng bỉ khổ                      在  上  行  想  彼  苦
        Niệm bổn niệm sảo nhập hành                     念  本  念  稍  入  行
        Bất kiểu ngôn thẩm hữu hiệt                        不  矯  言  審  有  黠

        Bài kệ 6
        Nhất thiết pháp vô hữu nghi                        一  切  法  無  有  疑
        Chí kiến văn diệc sở niệm                           至  見  聞  亦  所  念
        Đế kiến văn hành lực căn                            諦  見  聞  行  力  根
        Thùy tác thế thị lục suy                               誰  作  世  是  六  衰


        Bài kệ 7
        Bất niệm thân bất niệm tôn                           不  念  身  不  念  尊
        Diệc bất nguyện hành chí tịnh                       亦  不  願  行  至  淨
        Ân oán đoạn vô sở trước                              恩  怨  斷  無  所  著
        Đoạn thế nguyện vô sở trước                        斷  世  願  無  所  著

        Bài kệ 8
        Vô sở hữu vi phạm chí                                無  所  有  為  梵  志
        Kiến văn pháp tiện trực thủ                          見  聞  法  便  直 取
        Dâm bất dâm trước ô dâm                           婬  不  婬  著  污  婬
        Dĩ vô thị đương trước tịnh                            已  無  是  當  著  淨

         

        _________________________

        Mục Lục

        Lời tựa

        Phần 1

        1. Kinh Nhiếp Phục Tham Dục (Kiệt Tham Vương Kinh)
        2. Kinh Hang Động Ái Dục (Ưu Điền Vương Kinh)
        3. Kinh Buông Bỏ Sở Tri Và Ngôn Từ (Tu Đà Lợi Kinh)
        4. Kinh Buông Bỏ Khổ Lạc Và Nhiễm Tịnh (Ma Kiệt Phạm Chí Kinh)
        5. Kinh Sự Thật Đích Thực (Kính Diện Vương Kinh)
        6. Kinh Buông Bỏ Ân Ái (Lão Thiểu Câu Tử Kinh)
        7. Kinh Xa Lìa Ái Dục (Di Lặc Nạn Kinh)
        8. Kinh Buông Bỏ Ý Muốn Hơn Thua (Dũng Từ Phạm Chí Kinh)
        9. Kinh Nhân Cách Của Một Vị Mâu Ni (Ma Nhân Đề Nữ Kinh)
        10. Kinh Đạo Lý Duyên Khởi (Dị Học Giác Phi Kinh)
        11. Kinh Chấm Dứt Tranh Cãi (Mãnh Quán Phạm Chí Kinh)
        12. Kinh Buông Bỏ Nắm Bắt (Pháp Quán Phạm Chí Kinh)
        13. Kinh Công Phu Thực Tập Căn Bản (Đâu Lặc Phạm Chí Kinh)
        14. Kinh Phòng Hộ (Liên Hoa Sắc Tỳ Khưu Ni Kinh)
        15. Kinh Vị Mâu Ni Thành Đạt (Phụ Tử Cọng Hội Kinh)
        16. Kinh Chuyển Hóa Bạo Động Và Sợ Hãi (Duy Lâu Lặc Vương Kinh)
        Phần 2 (Giảng giải kinh)

        Kinh Vị Mâu Ni Thành Đạt
        Kinh Xa Lìa Ái Dục
        Kinh Chuyển Hóa Bạo Động Và Sợ Hãi

        Kinh Buông Bỏ Sở Tri Và Ngôn Từ

        Kinh Buông Bỏ Sở Tri Và Ngôn Từ
        (Tu Đà Lợi Kinh)
        Nghĩa Túc Kinh, kinh thứ ba, Đại Tạng Tân Tu 198
        tương đương với Dutthatthaka Sutta, Sutta-Nipàta 780-787

        Bối Cảnh

        Kinh này tên là kinh Tu Đà Lợi. Tu Đà Lợi (Sundari) là tên một cô gái trẻ đẹp, được một nhóm đạo sĩ Bà La Môn sai phái lui tới tu viện Kỳ Viên nơi Bụt và các thầy cư trú. Nhóm đạo sĩ này ganh tức với giáo đoàn của Bụt vì họ không còn được vua Ba Tư Nặc trọng đãi như trước. Sau đó, Tu Đà Lợi bị giết và thi thể được chôn giấu ở tu viện Kỳ Viên. Người ta vu oan là Bụt và các thầy đã giết cô gái và tạo dư luận là giáo đoàn của Bụt tu tập giả dối. Có nhiều thầy đi vào thành Xá Vệ khất thực bị tẩy chay. Bụt bảo trong bảy hôm sự thực sẽ bung ra và dân chúng sẽ thấy rõ là giáo đoàn của Bụt luôn luôn thanh tịnh. Quả nhiên bảy hôm sau thám tử của vua Ba Tư Nặc khám phá ra được âm mưu giết người và vu khống.

         

        1. Mình còn mang theo tà niệm mà cứ lo chỉ trích người khác (về những sai lầm thiếu sót của họ). Mình chỉ ham đề cao cái thấy của mình về sự thật. Khi gặp được một vị chân tu đích thực, thì mình thấy rằng vị ấy chẳng quan tâm gì tới chuyện thị phi và hơn thua cả.

        2. Làm sao sử dụng được công phu hành trì của mình để buông bỏ tham dục trong cuộc đời? Làm sao đạt tới được cái đức hạnh cao quý và vượt thoát mọi nhu yếu tranh cãi? Làm sao chế ngự được tham dục? Người ta sẽ đặt cho mình những câu hỏi (thực tế) như thế.

        3. Giả dụ có người, không ai hỏi mà tự khoe là mình giữ giới và thực tập giỏi, người ta sẽ nghi rằng người này không nói thật và không đi đúng vào con đường của đạo pháp. Vì vậy những ai muốn học hạnh sa môn phải biết lo tự tịnh hóa mình trước.

        4. Đã thực sự dừng lại rồi, và để không còn bị kẹt vào cuộc đời thế tục thì phải thường tự nhắc nhở là mình phải nắm giữ giới luật cho vững chắc. Phải có đức tin nơi đạo pháp, không nên chỉ ba hoa lo dạy đời.

        5. Giáo pháp nói lên không có gì bí hiểm mà cũng không bị hư nát. Khi giảng dạy đừng đưa cái ngã của mình lên, không nên vì vui mà dạy, vì giận mà không dạy. Phải thấy được trong sự hành trì của mình không có gì sai lạc và rơi rụng. Nếu mình không bị kẹt vào cái ý riêng của mình thì còn gì để mừng hoặc để giận?

        6. Những cái gì ta đã ngỡ là của ta, cần được buông bỏ. Những giáo pháp minh sát cần phải nắm lấy để hành trì. Nếu tha thiết muốn có lợi ích chân thực thì mình sẽ đạt được tuệ giác về không, bởi vì nhìn vào các pháp và thấy được tướng không của chúng cho nên mình biết tất cả vốn là không.

        7. Không nên vướng vào bất cứ một xứ nào (của bốn thiền về sắc giới), trong đó có vô sở hữu xứ. Hành trì mà không có ý định sinh về một trong ba cõi. Nếu tất cả những gì vô minh và điên đảo đã được đoạn trừ thì làm sao cái hành của mình lại còn mang tính cách xứ sở?

        8. Ý niệm về “có” được phá vỡ tan tành; ngôn ngữ để sử dụng giải bày cũng không còn bị vướng mắc. Đã không bị vướng mắc, đã có khả năng buông bỏ (mọi ý niệm) thì cái hành của mình sẽ có công năng đưa mình tới cái tuyệt đối không kỳ thị.


        Đại Ý

        Kinh này tuy cũng chỉ có tám bài kệ nhưng ý tứ rất sâu sắc. Câu nói: giáo pháp không có gì bí mật (che giấu) và không có gì hư nát là từ kinh này. Một vị mâu ni chân thực không quan tâm đến chuyện thị phi và đắc thất. Vị ấy không có nhu yếu tranh cãi và gặt hái tiếng khen. Vị ấy lo tự tu tự độ để có giải thoát trước, chứ không ba hoa lo dạy đời. Vị ấy có khả năng buông bỏ sở tri của mình, cho nên khi được khen không mừng mà khi bị chê cũng không giận.

        Kinh này đã nói tới tuệ giác không. Nhìn vào tướng trạng các pháp, thấy được tướng không của các pháp cho nên vị mâu ni vượt thoát được ý niệm về có và đồng thời cũng vượt được ý niệm về không như là ý niệm vô sở hữu xứ.

        Kinh này cũng đã nói tới sự phá vỡ các khái niệm trong đó có khái niệm có và khái niệm không, và nhất là đã đề cập tới ý niệm ngôn ngữ đạo đoạn, ta không nên bị kẹt vào ngôn từ.

        Cuối cùng kinh này cũng đã nói tới sự buông bỏ (xả) để đạt tới cái không còn kỳ thị.

         

        Bài kệ 1
        Tà  niệm thuyết bỉ đoản                  邪  念  說  彼  短
        Giải ý đế  thuyết thiện                    解  意  諦  說  善
        Khẩu trực thứ cập tôn                    口  直  次  及  尊
        Thiện ác xả bất ưu                         善  惡  捨  不  憂

        Bài kệ 2
        Dĩ hành đương na xả                       以  行  當  那  捨
        Khí thế dục tự tại                             棄  世  欲  自  在
        Bão chí đức bất loạn                        抱  至  德  不  亂
        Chế dục nhân sở cật                        制  欲  人  所  詰


        Bài kệ 3
        Như hữu thủ giới hành nhân              如  有  守  戒  行  人
        Vấn bất cập tiên cụ diễn                    問  不  及  先  具  演
        Hữu nghi chánh phi pháp đạo             有  疑  正  非  法  道
        Dục lai học thả tự tịnh                       欲  來  學  且  自  淨

        Bài kệ 4
        Dĩ chỉ bất câu thị thế                           以  止  不  拘  是  世
        Thường tự thuyết trước giới kiên         常  自  說  著  戒  堅
        Thị đạo pháp hiệt sở tín                       是  道  法  黠  所  信
        Bất trước ỷ hành giáo thế                    不  著  綺  行  教  世

        Bài kệ 5
        Pháp bất nặc bất hủ ngôn                   法  不  匿  不  朽  言
        Hủy tôn ngã bất hỉ khủng                    毀  尊  我  不  喜  恐
        Tự kiến hành vô tà lậu                        自  見  行  無  邪  漏
        Bất trước tưởng hà sân hí                  不  著  想  何  瞋  憙

        Bài kệ 6
        Sở ngã hữu dĩ chuyển xả                       所  我  有  以  轉  捨
        Tiên minh pháp chánh trước trì               鱻  明  法  正  著  持
        Cầu chánh lợi đắc tất không                   求  正  利  得  必  空
        Dĩ  tưởng không pháp bản không            以  想  空  法  本  空

        Bài kệ 7
        Bất trước dư vô sở hữu                        不  著  餘  無  所  有
        Hành bất nguyện tam giới sanh              行  不  願  三  界  生
        Khả minh minh tất dĩ đoạn                     可  瞑  冥  悉  已  斷
        Vân hà hành hữu xứ sở                         云  何  行  有  處 所

        Bài kệ 8
        Sở đương hữu tất liệt khứ                    所  當  有  悉  裂  去
        Sở đạo thuyết vô ái trước                     所  道  說  無  愛  著
        Dĩ  bất trước diệc khả ly                       已  不  著  亦  可  離
        Tùng hành bạt tất xả khứ                      從  行  拔  悉  捨  去

         

        _________________________

        Mục Lục

        Lời tựa

        Phần 1

        1. Kinh Nhiếp Phục Tham Dục (Kiệt Tham Vương Kinh)
        2. Kinh Hang Động Ái Dục (Ưu Điền Vương Kinh)
        3. Kinh Buông Bỏ Sở Tri Và Ngôn Từ (Tu Đà Lợi Kinh)
        4. Kinh Buông Bỏ Khổ Lạc Và Nhiễm Tịnh (Ma Kiệt Phạm Chí Kinh)
        5. Kinh Sự Thật Đích Thực (Kính Diện Vương Kinh)
        6. Kinh Buông Bỏ Ân Ái (Lão Thiểu Câu Tử Kinh)
        7. Kinh Xa Lìa Ái Dục (Di Lặc Nạn Kinh)
        8. Kinh Buông Bỏ Ý Muốn Hơn Thua (Dũng Từ Phạm Chí Kinh)
        9. Kinh Nhân Cách Của Một Vị Mâu Ni (Ma Nhân Đề Nữ Kinh)
        10. Kinh Đạo Lý Duyên Khởi (Dị Học Giác Phi Kinh)
        11. Kinh Chấm Dứt Tranh Cãi (Mãnh Quán Phạm Chí Kinh)
        12. Kinh Buông Bỏ Nắm Bắt (Pháp Quán Phạm Chí Kinh)
        13. Kinh Công Phu Thực Tập Căn Bản (Đâu Lặc Phạm Chí Kinh)
        14. Kinh Phòng Hộ (Liên Hoa Sắc Tỳ Khưu Ni Kinh)
        15. Kinh Vị Mâu Ni Thành Đạt (Phụ Tử Cọng Hội Kinh)
        16. Kinh Chuyển Hóa Bạo Động Và Sợ Hãi (Duy Lâu Lặc Vương Kinh)
        Phần 2 (Giảng giải kinh)

        Kinh Vị Mâu Ni Thành Đạt
        Kinh Xa Lìa Ái Dục
        Kinh Chuyển Hóa Bạo Động Và Sợ Hãi

        Kinh Hang Động Ái Dục

        Kinh Hang Động Ái Dục
        (Ưu Điền Vương Kinh)
        Nghĩa Túc Kinh, kinh thứ nhì, Đại Tạng Tân Tu 198
        tương đương với Guhatthaka Sutta, Sutta-Nipàta 772-779

         

        Bối Cảnh

        Kinh này tên là kinh Ưu Điền Vương (Phạn dịch là Udayana hay Udena). Khung cảnh dựng lên: Vua này đi chơi núi với các cung nữ. Trên núi có một vị khất sĩ sống khổ hạnh trong một cái động đá, tóc tai ra dài, áo quần tơi tả. Một cô cung nữ thấy thế sợ hãi la lên rằng có quỷ. Vua giận dữ muốn trừng phạt vị khất sĩ. Có một vị thiên giả muốn cứu mạng cho vị khất sĩ mới biến thành một con gấu lớn đi tới, vua phải bỏ chạy. Vị khất sĩ thoát chết về bạch lại với Bụt. Bụt kể chuyện tiền thân: trong kiếp trước vị khất sĩ đã làm gì đó cho nên nay mới suýt bị nạn và Bụt dạy kinh này.

         

        1. Bị nhốt vào cái hang động của đủ thứ ham muốn, bị tri giác sai lầm của mình che lấp, người ta đi tách ra khỏi con đường chánh đạo. Cái nhớ tưởng về dục vọng của mình làm cho mình khó có cơ hội thành tựu được tuệ giác.

        2. Vướng vào vòng sắc dục là vướng vào vòng sinh tử. Một khi sợi dây sắc dục đã cột vào kiên cố quá thì khó có thể tháo gỡ ra. Nếu không biết quán chiếu cái tới và cái đi của các pháp, nếu không thành tựu được tuệ giác thì không thể nào chặt đứt được gốc rễ của tham dục.

        3. Tham dục được phát sinh từ mù quáng và si mê. Người ta không biết rằng chạy theo tham dục thì cái mê lầm của mình càng ngày càng lớn, rằng sống trong tham dục thì phải gánh chịu nhiều thống khổ và bi ai, và trong khi chịu đựng, người ta chẳng biết phải nương tựa vào đâu cho bớt khổ.

        4. Con người phải thức tỉnh và trở về với giây phút hiện tại. Phải thấy rằng thế gian đang sống trong mê lầm, ta không thể nương tựa vào cấu trúc của thế gian và đi theo cái đà của nó. Phải quán niệm về buông bỏ, về sự trở về với con đường chính, về sự thoát ly vướng mắc. Phải nhớ mạng sống là ngắn ngủi và quán chiếu cái chết gần kề.

        5. Cuộc đời đi từ khổ đau này đến khổ đau khác, cái ham muốn trong cõi sinh tử đang lan tràn như một cơn lũ lụt. Khi cái chết đến, oán thù và sợ hãi phát sinh, và năng lượng của cái dục ấy sẽ kéo ta đi luân hồi.

        6. Người đang nhận chịu khổ đau cảm thấy mình như một con cá thiếu nước, dòng nước chảy vào hồ đã bị cắt đứt. Thấy như thế là có thể dừng lại được và sẽ không còn có khuynh hướng muốn đi về trong ba cõi.

        7. Đừng bị kẹt vào một trong hai cực đoan. Những gì mà ta tiếp xúc nếu biết là chúng có tính cách nguy hại thì ta phải quyết tâm buông bỏ, đừng vướng víu. Đừng làm một điều gì để sau này ta sẽ oán trách chính ta. Phải biết từ khước nhìn và nghe những gì có thể làm cho tự thân ta ô nhiễm.

        8. Phải sử dụng những giáo pháp của đạo giác ngộ để quán chiếu và vượt qua biển khổ. Vị mâu ni buông bỏ những lo toan, trau chuốt cho cái ngã và tu tập tinh chuyên để nhổ cho được mũi tên tham dục ra khỏi thân mình. Làm như thế vị ấy đạt được tới chỗ không còn nghi nan.

        Đại Ý

        Kinh Hang Động Ái Dục tiếp nối chủ đề mà kinh thứ nhất đưa ra. Kinh này cũng chỉ có tám bài kệ. Bị nhốt vào hang động ngũ dục, con người không tìm ra được con đường chánh đạo thênh thang. Ham muốn là hang động giam hãm con người và cũng là những sợi giây trói buộc  làm cho con người mất hết tự do. Nguồn gốc của tham dục là si mê, chỉ có quán chiếu mới buông bỏ được. Ham muốn là gốc của luân hồi sinh tử. Có ba hình ảnh rất sống động trong kinh này: đó là hình ảnh của một cơn lũ lụt, tượng trưng cho tham dục, kéo ta đi; hình ảnh của một con cá thiếu nước, tượng trưng cho khổ đau và hệ lụy; và hình ảnh của một mũi tên cắm vào thân thể, tượng trưng cho tham dục.

        Một trong những phương pháp thực tập là tránh nhìn và nghe những gì có thể tưới tẩm hạt giống tham dục trong ta. Phương pháp khác là quán chiếu cái tới và cái đi của các pháp. Phương pháp thứ ba là thực tập con đường trung đạo, đừng bị kẹt vào một trong hai cực đoan: hoặc kham khổ quá, hoặc hưởng thụ nhiều. Trong bài kệ thứ tám, có một chữ chép sai. Đó là chữ tiêm (尖) có nghĩa là mũi nhọn, chép nhầm thành chữ vị (未), làm cho câu kinh mất nghĩa. Hai chữ viết na ná như nhau cho nên có sự nhầm lẫn.

         

        Bài kệ 1
        Hệ xá đa sở nguyện                       繫 舍 多 所 願
        Trú kỳ tà sở giá                             住 其 邪 所 遮
        Dĩ già viễn chánh đạo                     以 遮 遠 正 道
        Dục niệm nan khả tuệ                     欲 念 難 可 慧
        Bài kệ 2
        Tọa khả hệ bào thai                        坐 可 繫 胞 胎
        Hệ sắc kiên tuy giải                        繫 色 堅 雖 解
        Bất quán  khứ lai pháp                    不 觀 去 來 法
        Tuệ  thị diệc đoạn bổn                     慧 是 亦 斷 本

        Bài kệ 3
        Tham dục dĩ si manh                      貪 欲 以 癡 盲
        Bất tri tà lợi tăng                            不 知 邪 利 增
        Tọa dục bị thống bi                         坐 欲 被 痛 悲
        Tùng thị đương hà y                       從 是 當 何 依
        Bài kệ 4
        Nhân sanh đương giác thị                 人 生 當 覺 是
        Thế tà nan khả y                               世 邪 難 可 依
        Xả chánh bất trước niệm                    捨 正 不 著 念
        Mạng đoản tử thậm cận                     命 短 死 甚 近
        Bài kệ 5
        Triển chuyển thị thế khổ                    展 轉 是 世 苦
        Sanh tử dục khê lưu                         生 死 欲 溪 流
        Tử thời nãi niệm oán                         死 時 乃 念 怨
        Tùng dục để thai cực                        從 欲 詆 胎 極
        Bài kệ 6
        Tự khả thọ thống thân                        自 可 受 痛 身
        Lưu đoạn thiểu thủy ngư                   流 斷 少 水 魚
        Dĩ  kiến đoạn thân khả                       以 見 斷 身 可
        Tam thế phục hà tăng                         三 世 復 何 增

        Bài kệ 7
        Lực dục ư lưỡng diện                         力 欲 於 兩 面
        Bỉ khả giác mạc trước                         彼 可 覺 莫 著
        Mạc hành sở tự oán                            莫 行 所 自 怨
        Kiến văn mạc tự ô                               見 聞 莫 自 污
        Bài kệ 8
        Giác tưởng quán độ hải                      覺 想 觀 度 海
        Hữu ngã tôn bất kế                             有 我 尊 不 計
        Lực hành bạt tiêm xuất                       力 行 拔 尖  出
        Trí sử nãi vô nghi                                 致 使 乃 無 疑

         

        _________________________

        Mục Lục

        Lời tựa

        Phần 1

        1. Kinh Nhiếp Phục Tham Dục (Kiệt Tham Vương Kinh)
        2. Kinh Hang Động Ái Dục (Ưu Điền Vương Kinh)
        3. Kinh Buông Bỏ Sở Tri Và Ngôn Từ (Tu Đà Lợi Kinh)
        4. Kinh Buông Bỏ Khổ Lạc Và Nhiễm Tịnh (Ma Kiệt Phạm Chí Kinh)
        5. Kinh Sự Thật Đích Thực (Kính Diện Vương Kinh)
        6. Kinh Buông Bỏ Ân Ái (Lão Thiểu Câu Tử Kinh)
        7. Kinh Xa Lìa Ái Dục (Di Lặc Nạn Kinh)
        8. Kinh Buông Bỏ Ý Muốn Hơn Thua (Dũng Từ Phạm Chí Kinh)
        9. Kinh Nhân Cách Của Một Vị Mâu Ni (Ma Nhân Đề Nữ Kinh)
        10. Kinh Đạo Lý Duyên Khởi (Dị Học Giác Phi Kinh)
        11. Kinh Chấm Dứt Tranh Cãi (Mãnh Quán Phạm Chí Kinh)
        12. Kinh Buông Bỏ Nắm Bắt (Pháp Quán Phạm Chí Kinh)
        13. Kinh Công Phu Thực Tập Căn Bản (Đâu Lặc Phạm Chí Kinh)
        14. Kinh Phòng Hộ (Liên Hoa Sắc Tỳ Khưu Ni Kinh)
        15. Kinh Vị Mâu Ni Thành Đạt (Phụ Tử Cọng Hội Kinh)
        16. Kinh Chuyển Hóa Bạo Động Và Sợ Hãi (Duy Lâu Lặc Vương Kinh)
        Phần 2 (Giảng giải kinh)

        Kinh Vị Mâu Ni Thành Đạt
        Kinh Xa Lìa Ái Dục
        Kinh Chuyển Hóa Bạo Động Và Sợ Hãi

        Kinh Nhiếp phục tham dục

        Kinh Nhiếp Phục Tham Dục
        (Kiệt Tham Vương Kinh)
        Nghĩa Túc Kinh, kinh thứ nhất, Đại Tạng Tân Tu 198
        tương đương với Kàma Sutta, Sutta-Nipàta 766-771

        Bối Cảnh
        Kinh này tên là Kinh Kiệt Tham Vương. Kiệt Tham Vương là ông vua có nhiều tham dục. Phần trường hàng kể một chuyện tiền thân: hồi ấy Bụt là một người trai trẻ tên là Uất Đa (có thể dịch từ Uttara hay Utto) đã có khả năng giảng giải một bài kệ cho vị vua đã từng khổ đau vì nhiều tham dục. Vua hài lòng và ban cho người trẻ tước hiệu là đại đức (bhadanta). Rồi Bụt dạy kinh này.

        1. Tâm còn đeo đuổi ham muốn thì dù có đạt tới cái đối tượng ham muốn rồi, mình vẫn càng ngày càng muốn có thêm nữa, vẫn chưa được hài lòng.
        2. Chạy theo dục lạc trong cuộc đời, là kẻ đang bị vướng vào tham đắm và si mê. Còn mang dục ý trong lòng thì cũng như một người đang bị trúng tên độc.
        3. Nên tránh tham dục như tránh dẫm lên đầu một con rắn độc. Phải thực tập thiền quán mới buông bỏ được những gì mà người đời thường ham muốn.
        4. Vướng vào sự tham cầu châu báu, ruộng đất, hạt giống, trâu bò, tôi tớ và thê thiếp, kẻ ngu si làm tiêu hao cuộc đời và thân thể mình.
        5. Đang khỏe mạnh cường tráng, người chạy theo dục lạc trở nên gầy gò hư hao, lại gây thêm nhiều oán hận. Trong u mê, người ấy phải gánh chịu nhiều đau nhức, giống như kẻ đang đi trên biển mà thuyền bị vỡ.
        6. Vì vậy ta phải biết nhiếp phục tâm ý, xa lìa tham dục, đừng vướng vào chúng, tinh tiến đi tới, một lòng mong cầu đưa chiếc thuyền của mình đi sang tới bờ bên kia.

        Đại Ý
        Kinh tuy chỉ có sáu bài kệ, nhưng rất hay và rất đầy đủ. Đối tượng của tham dục là giàu sang, quyền lực, danh vọng và sắc dục. Chạy theo những đối tượng ấy ta có thể làm cho thân và tâm bệ rạc. Có ba hình ảnh tuyệt đẹp trong kinh này: Mang dục ý trong lòng thì cũng như một người đang trúng tên độc, không thể nào có an lạc. Phải tránh tham dục như tránh dẫm lên đầu một con rắn độc, bởi tham dục rất nguy hiểm. U mê vì tham dục phải gánh chịu nhiều đau nhức, như người đi trên biển cả bị vỡ thuyền. Kinh dạy phải thực tập thiền quán mới buông bỏ tham dục được một cách dễ dàng. Kinh cũng đưa ra ý niệm “bờ bên kia” tức là bờ giải thoát, bờ tự do.

        Bài kệ 1
        Tăng niệm tùy dục                          增  念  隨  欲
        Dĩ hữu phục nguyện                       已  有  復  願
        Nhật tăng vi hỷ                               日  增  為  喜
        Tùng đắc tự tại                               從  得  自  在

        Bài kệ 2
        Hữu tham thế dục                          有  貪  世  欲
        Tọa tham si nhân                           坐  貪  癡  人
        Ký vong dục nguyện                       既  亡  欲  願
        Độc tiễn trước thân                        毒  箭  著  身

        Bài kệ 3
        Thị dục đương viễn                        是  欲  當 遠
        Như phụ xà đầu                             如  附  蛇  頭
        Vi thế sở lạc                                 違  世  所  樂
        Đương định hành thiền                   當  定  行  禪

        Bài kệ 4
        Điền chủng trân bảo                        田  種  珍  寶
        Ngưu mã dưỡng giả                        牛  馬  養  者
        Tọa nữ hệ dục                                坐  女  繫  欲
        Si hành phạm thân                          癡  行  犯  身

        Bài kệ 5
        Đảo luy vi cường                           倒  羸  為  強
        Tọa phục thậm oán                        坐  服  甚  怨
        Thứ minh thọ thống                        次  冥  受  痛
        Thuyền phá hải trung                      船  破  海  中

        Bài kệ 6
        Cố thuyết nhiếp ý                            故  說  攝  意
        Viễn dục vật phạm                          遠  欲  勿  犯
        Tinh tấn cầu độ                             精  進  求  度
        Tải thuyền chí ngạn                         載  船  至  岸

         

        _________________________

        Mục Lục

        Lời tựa

        Phần 1

        1. Kinh Nhiếp Phục Tham Dục (Kiệt Tham Vương Kinh)
        2. Kinh Hang Động Ái Dục (Ưu Điền Vương Kinh)
        3. Kinh Buông Bỏ Sở Tri Và Ngôn Từ (Tu Đà Lợi Kinh)
        4. Kinh Buông Bỏ Khổ Lạc Và Nhiễm Tịnh (Ma Kiệt Phạm Chí Kinh)
        5. Kinh Sự Thật Đích Thực (Kính Diện Vương Kinh)
        6. Kinh Buông Bỏ Ân Ái (Lão Thiểu Câu Tử Kinh)
        7. Kinh Xa Lìa Ái Dục (Di Lặc Nạn Kinh)
        8. Kinh Buông Bỏ Ý Muốn Hơn Thua (Dũng Từ Phạm Chí Kinh)
        9. Kinh Nhân Cách Của Một Vị Mâu Ni (Ma Nhân Đề Nữ Kinh)
        10. Kinh Đạo Lý Duyên Khởi (Dị Học Giác Phi Kinh)
        11. Kinh Chấm Dứt Tranh Cãi (Mãnh Quán Phạm Chí Kinh)
        12. Kinh Buông Bỏ Nắm Bắt (Pháp Quán Phạm Chí Kinh)
        13. Kinh Công Phu Thực Tập Căn Bản (Đâu Lặc Phạm Chí Kinh)
        14. Kinh Phòng Hộ (Liên Hoa Sắc Tỳ Khưu Ni Kinh)
        15. Kinh Vị Mâu Ni Thành Đạt (Phụ Tử Cọng Hội Kinh)
        16. Kinh Chuyển Hóa Bạo Động Và Sợ Hãi (Duy Lâu Lặc Vương Kinh)
        Phần 2 (Giảng giải kinh)

        Kinh Vị Mâu Ni Thành Đạt
        Kinh Xa Lìa Ái Dục
        Kinh Chuyển Hóa Bạo Động Và Sợ Hãi

        Kinh Nghĩa Túc – Đạo Bụt nguyên chất

        Đạo Bụt Nguyên Chất là một cuốn sách gồm có 16 bài kinh rất nguyên chất, rất cổ xưa về văn và về nghĩa, được Bụt nói vào những năm đầu khi Ngài mới thành đạo. Những kinh này được dịch từ kinh Nghĩa Túc phẩm thứ tư của kinh tập (Sutta- Nipàta).

        Nghĩa là ý nghĩa. Ý nghĩa ở đây là ý nghĩa của giáo lý Bụt dạy. Túc nghĩa là bàn chân, bước chân hay những câu thi kệ. Tiếng Phạn là Arthapada. Artha (Pali: Attha) là nghĩa. Pada (Pali cũng là Pada) là bàn chân, bước chân, hay câu thi kệ. Ta có thể định nghĩa: Nghĩa Túc là bước chân giáo nghĩa hoặc những câu thi kệ chuyên chở giáo nghĩa.

        Kinh Nghĩa Túc hiện có mặt trong tạng kinh Pali và cũng có mặt trong tạng Hán. Năm 1916, một học giả tên A.F. Rudolf Hoernk khai quật được năm tờ kinh bằng tiếng Phạn của kinh Nghĩa Túc. Nơi mà giáo sư Hoernk khám phá được năm tờ kinh Nghĩa Túc bằng tiếng Phạn ấy là di tích một kiến trúc ở Khadalik bị chôn vùi trong cát của miền Đông Thổ Nhĩ Kỳ (Eastern Turkestan). Các kinh điển lưu truyền dưới dạng thi kệ như kinh Pháp Cú và kinh Nghĩa Túc thường ngắn gọn súc tích, đòi hỏi công phu học hỏi và nghiên cứu. Vì muốn cho các kinh này bớt vẻ khô khan, các nhà dịch giả đã dịch và đưa vào những tài liệu và kinh điển xuất hiện sau đó để dựng nên bối cảnh cho các bài thi kệ. Những câu chuyện tiền thân hoặc những câu chuyện liên hệ tới cuộc đời Bụt đã được sử dụng dưới hình thức văn trường hàng (văn xuôi) để tạo thêm sự thích thú về phía người đọc kinh. Trong cả hai truyền thống Nam Tông và Bắc Tông, chuyện này đều đã xảy ra. Đó là trường hợp của các kinh Pháp Cú Thí Dụ và kinh Nghĩa Túc. Khi nghiên cứu và học hỏi ta phải thấy được sự ráp nối này thì ta mới tiếp thu được nghĩa lý của phần thi kệ mà không bị màu sắc truyền thuyết và tôn giáo của phần trường hàng ảnh hưởng. Có thể bản tiếng Phạn đã được dịch từ bản tiếng Prakrit. Và kinh Nghĩa Túc chữ Hán mà ta hiện có có thể đã được dịch từ bản tiếng Phạn này.

        Bản dịch chữ Hán là công trình của một vị Phật tử cư sĩ tên là Chi Khiêm, thực hiện trong nửa đầu của thế kỷ thứ ba, có thể là tại chùa Kiến Sơ ở Kiến Nghiệp, tức là Nam Kinh ngày nay. Chùa Kiến Sơ là ngôi chùa Phật giáo đầu tiên được thiết lập tại nước Ngô, do một vị thiền sư người Việt tên là Tăng Hội. Thầy Tăng Hội sinh ở Giao Châu, cha là thương gia gốc nước Khương Cư miền bắc Ấn Độ, mẹ là người Việt. Đi xuất gia từ hồi 11 tuổi. Thành tài, thầy Tăng Hội đã tổ chức dịch kinh và hoằng pháp ở Luy Lâu (Giao Châu) trước khi qua nước Ngô để truyền bá chánh pháp. Thầy qua tới kinh đô Kiến Nghiệp năm 247.

        Chùa Kiến Sơ được thiết lập với sự yểm trợ của vua Ngô Tôn Quyền. Khi thầy Tăng Hội qua tới thì chưa có vị xuất gia nào ở nước Ngô cả, và thầy là vị xuất gia đầu tiên xuất hiện ở nước Ngô. Cư sĩ Chi Khiêm lúc đó đang được vua Ngô Tôn Quyền mời làm thầy dạy học của Thái tử. Chi Khiêm là người gốc nước Nhục Chi (Indo-Scythe). Thầy Tăng Hội chắc chắn đã được vua Ngô Tôn Quyền giới thiệu với cư sĩ Chi Khiêm và hai người chắc hẳn đã làm việc tương đắc với nhau tại chùa Kiến Sơ, vì cả hai đều có ý nguyện dịch thêm kinh tiếng Phạn ra tiếng Hán. Trong kinh Lục Độ Tập của thầy Tăng Hội, có một chương của kinh Nghĩa Túc do cư sĩ Chi Khiêm dịch. Đây là một trong những bằng cớ về sự cộng tác thân thiết giữa hai người. Và ngôi chùa Kiến Sơ đã có thể là nơi mà hai người đã để rất nhiều thì giờ để đàm đạo và làm công việc dịch thuật.

        Hồi ấy, bốn bộ kinh A Hàm còn chưa được dịch ra chữ Hán. Thầy Tăng Hội đến Kiến Nghiệp vào năm 247 mà mãi đến năm 397 nghĩa là 128 năm sau thầy Tăng Già Đề Bà (Sanghadeva) mới dịch các kinh Trung A Hàm và Tăng Nhất A Hàm. Sau đó đến năm 413 thì hai thầy Phật Đà Gia Xá (Buddhayasas) và Trúc Phật Niệm (Buddhasmrti) mới dịch kinh Trường A Hàm, và đến năm 435 thầy Cầu Na Bạt Đà La (Gunabhadra) mới dịch kinh Tạp A Hàm.

        Bốn bộ A Hàm dịch xong thì từ ngữ mới bắt đầu được chuẩn định. Nhưng trước đó, khi dịch các kinh như Lục Độ Tập và Nghĩa Túc, hai vị Khương Tăng Hội và Chi Khiêm chắc phải bàn luận với nhau nhiều về cách thức dùng chữ để dịch. Trước đó hai vị đã từng dịch kinh, nhưng trong thời gian làm việc với nhau, cả hai vị đều đã thay đổi cách dịch, và bắt đầu dịch nghĩa nhiều danh từ chung cũng như riêng chứ không dịch bằng cách phiên âm nhiều như trước. Cả hai vị đều thoải mái sử dụng những danh từ tôn giáo và triết học có sẵn từ đời Hán để dịch những danh từ Phật học bằng tiếng Phạn, vì vậy cho nên lời văn của cả hai người đều đã trở nên tự nhiên và điển nhã hơn trước đó rất nhiều.

        Kinh Nghĩa Túc có một phần rất cổ và một phần mới biên tập sau đó nhiều trăm năm. Phần rất cổ ấy tương đương với phẩm Attha Vagga, phẩm thứ tư của Kinh Tập (Sutta-Nipàta) trong văn hệ Pali, được lưu truyền dưới hình thức các câu thi kệ, cho nên mới gọi là Túc (pada). Phần mới biên tập là phần trường hàng (văn xuôi) có mục đích là dựng lên khung cảnh cho phần thi kệ. Kinh điển truyền khẩu được bảo tồn dễ dàng hơn dưới dạng thi kệ (pada) vì dễ thuộc, dễ nhớ. Cho nên phần thi kệ trong các kinh thường là phần cổ nhất. Theo các công phu nghiên cứu cận đại thì kinh Nghĩa Túc là một kinh thuộc loại xưa nhất trong các kinh, đứng về phương diện văn cú cũng như đứng về phương diện giáo lý và hành trì. Đây là những giáo nghĩa Bụt dạy trong những năm đầu của sự nghiệp hoằng pháp của Ngài, khi Tăng đoàn còn thuần túy là những vị du sĩ không có chỗ ở nhất định. Sau đó nhiều năm mới bắt đầu có các tu viện Trúc Lâm, Kỳ Viên, v.v. Tuy Bụt và các thầy vẫn tiếp tục du hành để hóa độ và chỉ về cư trú tại các tu viện này mỗi năm ba tháng mùa mưa. Các học giả thường hay phân lịch sử Phật giáo thành ba thời kỳ: Phật Giáo Nguyên Thủy, Phật Giáo Bộ Phái và Phật Giáo Đại Thừa. Phật Giáo Nguyên Thủy bắt đầu từ khi Bụt thành đạo cho đến khi Tăng đoàn phân chia thành nhiều bộ phái. Chuyện này xảy ra vào khoảng dưới hai trăm năm sau ngày Bụt nhập diệt. Kinh Nghĩa Túc được nói ra trong những năm đầu sau khi Bụt thành đạo, có thể nói rằng kinh ấy đại diện cho giai đoạn đầu của đạo Bụt Nguyên Thủy, ta có thể gọi đó là Nguyên Thủy của Nguyên Thủy.

        Những bài thi kệ của kinh Nghĩa Túc chữ Hán có số lượng và nghĩa lý tương đương với Attha Vagga, phẩm thứ tư của kinh Tập (Sutta Nipàta). Bản Hán văn này có thể đã được dịch từ một bản tiếng Phạn của bộ phái Sarvastivada (Hữu Bộ) hay một bản tiếng Pali của bộ phái Tamrasatiya (Xích Đồng Diệp Bộ). Xích Đồng Diệp Bộ là bộ phái đã gửi một phái đoàn hoằng pháp xuống tận Tích Lan, sau này không sử dụng tên Đồng Diệp Bộ nữa mà lấy lại tên gốc ngày xưa là Thượng Tọa Bộ (Theravada). Ngoài kinh Nghĩa Túc, cư sĩ Chi Khiêm cũng còn dịch kinh Pháp Cú của Xích Đồng Diệp Bộ, một ít kinh trong các bộ A Hàm, và một số kinh Đại Thừa như kinh Duy Ma Cật, kinh Quán Vô Lượng Thọ và kinh Tiểu Phẩm Bát Nhã.

        Đạo Bụt của kinh Nghĩa Túc, nghĩa là thời Nguyên Thủy của Nguyên Thủy, không phải là một tôn giáo, không mang tính chất tín mộ, không vướng vào nghi lễ và giới cấm, tuy nhiên sự hành trì rất nghiêm túc. Đây là đạo lý của sự buông bỏ: buông bỏ ái dục, buông bỏ giáo điều, buông bỏ lý luận, buông bỏ tranh chấp, buông bỏ nhận thức lưỡng nguyên, buông bỏ lễ nghi và cấm giới, buông bỏ mọi kiến thức, mọi chủ nghĩa, mọi ý thức hệ, buông bỏ mọi tìm cầu và mọi dự án. Buông bỏ như vậy để đạt tới thảnh thơi và an lạc.

        Đức Phật của kinh Nghĩa Túc không phải là một vị giáo chủ, một vị thần linh, mà chỉ là một bậc đạo sĩ tĩnh lặng, gọi là mâu ni. Mâu ni có nghĩa là một ông thầy tu tĩnh lặng, không có cơ sở, không có sự nghiệp, không có tổ chức, không có giáo quyền. Nếu có ai muốn theo học với vị ấy có thể thấy nơi vị mâu ni ấy một người anh, một người thầy trên con đường tu tập, trên con đường tâm linh. Nếu nói đến quyền lực thì vị mâu ni không có quyền lực gì cả, hiểu theo nghĩa cơ sở, sự nghiệp và giáo quyền. Nếu có quyền lực thì đó là đức độ, đó là từ bi, là trí tuệ tỏa chiếu từ vị mâu ni. Đó là thứ quyền lực xuất thế gian, một quyền lực thuần túy tâm linh. Kinh Nghĩa Túc có rất nhiều bài thi kệ nói về bản chất, giá trị và cách hành trì của một vị mâu ni, một người xuất sĩ tĩnh lặng. Một vị xuất sĩ là một người đã từ bỏ nếp sống thế gian, nếp sống gia đình để trở thành một vị đạo sư tĩnh lặng.

        Kinh Nghĩa Túc dạy về sự thực tập chánh niệm, về sự thực tập giới định và tuệ nhưng luôn luôn nhắc ta đừng bị vướng vào lễ nghi, giới cấm, cái thấy cái hiểu của mình và nhất là cái nhìn lưỡng nguyên về tâm và vật, về thế giới và con người. Kinh Nghĩa Túc có nói tới Niết Bàn, nhưng chưa phân biệt Niết Bàn hữu dư y và vô dư y. Kinh Nghĩa Túc có nói tới Bờ Bên Kia, nhưng chưa nói tới lục Ba La Mật hay thập Ba La Mật. Kinh Nghĩa Túc nói tới nhân duyên, danh sắc, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, nhưng chỉ đề cập tới sáu nhân duyên chứ chưa đi tới mười hai nhân duyên.

        Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyện và bất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt. Một bông sen không dính bùn, một con thiên nga bay cao, một dòng nước trong sáng, một làn gió không bị bất cứ một chiếc lưới nào bắt giữ được, một con sư tử không biết sợ hãi một âm thanh nào. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất cụ thể về tình trạng của những người đang bị hệ lụy: hình ảnh của ái dục như một cơn lũ lụt có thể kéo ta đi, hình ảnh của hận thù như một mũi dao nhọn nằm sâu trong tâm ý, hình ảnh của khổ đau ràng buộc như một con cá sống trong tình trạng càng ngày nước càng khô cạn, hình ảnh của tai nạn do ái dục đem tới như một chiếc thuyền vỡ trên đại dương.

        Giáo nghĩa của kinh Nghĩa Túc có lúc đi tới chỗ rất uyên thâm, uyên thâm đến độ có những học giả đã nói tới tính cách thần bí (mysterious) trong kinh Nghĩa Túc. Nếu ta biết bỏ cái nhìn nhị nguyên, nếu ta tập nhìn theo cái thấy phá chấp, phi giáo điều, bất khả đắc và bất nhị, nếu ta thấy được sự nối kết liên tục giữa thế tục đế và đệ nhất nghĩa đế, nếu ta không bị kẹt vào khái niệm và chữ nghĩa thì ta có thể đi vào những chỗ thâm uyên ấy không khó khăn gì. Chính trong kinh Nghĩa Túc Bụt đã nói: giáo pháp này không có gì là bí hiểm, không có gì là sứt mẻ… Không sứt mẻ có nghĩa là toàn vẹn, không mâu thuẫn, nhưng đi sâu vào thì ta sẽ thấy được tính cách nhất trí. Giữ giới mà không bị kẹt vào giới điều là một ví dụ. Hành cái vô hành là một ví dụ khác. Mong cầu cái không mong cầu lại là một ví dụ khác nữa.

        Kinh Nghĩa Túc được nói trong thời gian Bụt còn dưới 40 tuổi. Những người theo học với Bụt hồi đó đã khá đông, mà phần lớn là những người trẻ. Chỉ có vài người lớn tuổi hơn Bụt, đó là ba anh em thầy Ca Diếp. Năm vị đã từng tu khổ hạnh với Bụt trong đó có thầy Kiều Trần Như và thầy Mã Thắng tuổi suýt soát của Bụt. Hai thầy Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên cũng còn dưới tuổi 40. Tất cả còn lại đều là những người trẻ. Họ đều có ước muốn làm những vị mâu ni, những người xuất sĩ tĩnh lặng. Họ có niềm vui khi sống đời du hóa, ăn mỗi ngày một bữa, bước đi những bước chân tĩnh lặng, chỉ giữ có ba y và một bát, có thể nghỉ đêm bất cứ ở nơi nào.

        Đọc kinh Nghĩa Túc, ta có cơ hội thở được không khí lành mạnh và thông thoáng của nếp sống tâm linh không giáo điều, không cấm giới, không tế lễ, không phù chú, không pháp thuật, không giáo quyền, không giáo phẩm. Chỉ có tình thầy trò, chỉ có tình huynh đệ, chỉ có sự thực tập bi trí, chỉ có chí nguyện giúp đời bằng sự thực tập và giáo hóa của mình. Không có dự án tổ chức, xây cất, lập hội, gây vây cánh, tạo ảnh hưởng. Trong sách Đường Xưa Mây Trắng, ta thở được một phần nào cái không khí lành mạnh đó. Đây chính là đạo Bụt thuần túy, là tình yêu đầu, là nước đầu của thang thuốc bổ mới sắc, là nước rượu đầu mới cất, là nước mắm nhĩ, là nước trà được rót ra chén trà lần đầu. Giáo lý của kinh Nghĩa Túc đủ để cho ta thực tập cả đời. Và ta có thể tiếp tục đọc thiên kinh vạn quyển khác mà vẫn thấy tất cả đều là những dòng sông bắt nguồn từ con suối Nghĩa Túc.

        Kinh Nghĩa Túc được truyền thừa bởi cả hai dòng Bắc Tông và Nam Tông, và trong thời gian truyền thừa, trước là khẩu tụng sau là nghi chép, thế nào cũng có sự rơi rụng và sai sót. So sánh hai bản Pali và Hán, ta thấy mỗi truyền thống đều có rơi rụng và sai sót. Một số những rơi rụng của truyền thống này lại không bị rơi rụng trong truyền thống kia, đó là một sự may mắn, và nhờ đó ta có cơ hội tái tạo được một văn bản gần với văn bản nguyên thủy nhất. Đó là niềm vui mà sự so sánh nghiên cứu hai văn bản có thể đem lại cho ta.

        Ngay trong việc sao chép cũng đã có những rơi rụng đáng kể. Trong Bộ Lục Độ Tập kinh của thiền sư Tăng Hội, có một chương của kinh Nghĩa Túc, đó là kinh Kính Diện Vương. Trong tạng Pali, đó là kinh Chân Đế (Paramatthaka Sutta). Đó là kinh thứ năm của Nghĩa Túc kinh chữ Hán và cũng là kinh thứ năm của phẩm Atthakavagga, phần thứ tư của Kinh Tập (Sutta-Nipàta) chữ Pali. Cả hai truyền bản, mỗi truyền bản đều có tám bài kệ. Trong tạng kinh chữ Hán, như vậy là có hai bản kinh Kính Diện Vương, một bản trong kinh Nghĩa Túc, một bản trong kinh Lục Độ Tập. Đem so sánh hai bản chữ Hán, ta thấy bản của Nghĩa Túc Kinh có nhiều chữ chép sai hơn bản của Lục Độ Tập kinh. Có thể là các đệ tử của thiền sư Tăng Hội sao chép cẩn thận hơn những người sao chép kinh Nghĩa Túc. Chỉ có tám bài thi kệ mà đã có tới trên mười chữ chép sai. Như chữ ý (意) thì chép thành chữ cảnh (境), chữ chúng (衆) thì chép thành chữ chung (终), chữ trì (持) thì chép thành chữ đãi (待), chữ vọng (望) thì chép thành chữ dâm (婬), v.v. Đã thế cách dùng chữ lại rất xưa và rất vắn tắt, thành ra nếu không tham cứu kinh bản Pali thì có nhiều lúc không biết làm sao mà dịch cho đúng chân nghĩa của kinh.

        Như ta đã biết, kinh Nghĩa Túc có phần thi kệ rất cổ và phần trường hàng biên tập sau đó nhiều trăm năm để tạo ra một bối cảnh cho phần thi kệ. Phần trường hàng, có nhiều màu sắc tôn giáo và thần thoại, bởi vì đã được trích dẫn từ những kinh nghiệm xuất hiện sau đó có thể là nhiều trăm năm. Sự khác biệt của hai phần được nhận thức dễ dàng. Có khi phần trường hàng có vẻ ăn khớp với phần thi kệ, nhưng có khi cũng có vẻ rời rạc và giả tạo. Điều này không làm hại đến nghĩa lý của kinh văn nếu ta đã có ý thức lịch sử về kinh văn. Ta đừng để cho phần trường hàng bao phủ lấy phần thi kệ, vốn là tinh yếu của kinh.

        Các kinh điển lưu truyền dưới dạng thi kệ như kinh Pháp Cú vì kinh Nghĩa Túc thường ngắn gọn súc tích, đòi hỏi công phu học hỏi và nghiên cứu. Vì muốn cho các kinh này bớt vẻ khô khan, các nhà dịch giả đã dịch và đưa vào những tài liệu và kinh điển xuất hiện sau đó để dựng nên bối cảnh cho các bài thi kệ. Những câu chuyện tiền thân hoặc những câu chuyện liên hệ tới cuộc đời Bụt đã được sử dụng dưới hình thức văn trường hàng để tạo thêm sự thích thú về phía người đọc kinh. Trong cả hai truyền thống Nam Tông và Bắc Tông, chuyện này đều có xảy ra. Đó là trường hợp của các kinh Pháp Cú Thí Dụ và kinh Nghĩa Túc. Khi nghiên cứu và học hỏi ta phải thấy được sự ráp nối này, thì ta mới tiếp thu được nghĩa lý của phần thi kệ mà không bị màu sắc truyền thuyết và tôn giáo của phần trường hàng ảnh hưởng. Tuy gọi là phần trường hàng, nhưng kỳ thực ngoài những bài thi kệ của kinh Nghĩa Túc, phần trường hàng kia cũng có trích dẫn một số thi kệ khác từ các nguồn Pháp Cú, Vô Vấn Tự Thuyết, Như Thi Ngữ, Bản Sinh v.v. Những truyện tích trong kinh Lục Độ Tập của thầy Tăng Hội cũng lấy từ cùng một nguồn tài liệu ấy. Ở đây chúng ta chỉ có bản dịch đầy đủ của các thi kệ thuộc kinh Nghĩa Túc, tương đương với phẩm Attha Vagga của Kinh Tập (Sutta-Nipàta).

        Trong sách này, phần trường hàng chỉ được tóm tắt, chỉ có phần thi kệ là được dịch đầy đủ. Phần thi kệ là trái tim của kinh. Vì vậy ta có thể đặt tên kinh này là Trái Tim Nghĩa Túc. Hoặc kinh Đạo Bụt Nguyên Chất. Đọc kinh, xin nhớ là phần trường hàng đã được thêm vào nhiều trăm năm sau. Chúng ta cũng có thể dịch Arthapada Sutra (Nghĩa Túc Kinh) bằng những cái tên khác. Artha (Attha) nghĩa chính là ý nghĩa, (the meaning). Nhưng Artha cũng có nghĩa là lợi ích, là nhu yếu, và có khi cũng có nghĩa là quê nhà. Như mặt trời ban ngày đi ngang không gian bao la nhưng buổi chiều lúc nào cũng về ngủ ở chân trời phương Tây. Phương Tây là nhà của mặt trời. Vậy ta cũng có thể dịch Arthapada là Kinh Về Nhà cũng được.

        Thiền sư Nhất Hạnh

         

        _________________________

        Mục Lục

        Lời tựa

        Phần 1

        1. Kinh Nhiếp Phục Tham Dục (Kiệt Tham Vương Kinh)
        2. Kinh Hang Động Ái Dục (Ưu Điền Vương Kinh)
        3. Kinh Buông Bỏ Sở Tri Và Ngôn Từ (Tu Đà Lợi Kinh)
        4. Kinh Buông Bỏ Khổ Lạc Và Nhiễm Tịnh (Ma Kiệt Phạm Chí Kinh)
        5. Kinh Sự Thật Đích Thực (Kính Diện Vương Kinh)
        6. Kinh Buông Bỏ Ân Ái (Lão Thiểu Câu Tử Kinh)
        7. Kinh Xa Lìa Ái Dục (Di Lặc Nạn Kinh)
        8. Kinh Buông Bỏ Ý Muốn Hơn Thua (Dũng Từ Phạm Chí Kinh)
        9. Kinh Nhân Cách Của Một Vị Mâu Ni (Ma Nhân Đề Nữ Kinh)
        10. Kinh Đạo Lý Duyên Khởi (Dị Học Giác Phi Kinh)
        11. Kinh Chấm Dứt Tranh Cãi (Mãnh Quán Phạm Chí Kinh)
        12. Kinh Buông Bỏ Nắm Bắt (Pháp Quán Phạm Chí Kinh)
        13. Kinh Công Phu Thực Tập Căn Bản (Đâu Lặc Phạm Chí Kinh)
        14. Kinh Phòng Hộ (Liên Hoa Sắc Tỳ Khưu Ni Kinh)
        15. Kinh Vị Mâu Ni Thành Đạt (Phụ Tử Cọng Hội Kinh)
        16. Kinh Chuyển Hóa Bạo Động Và Sợ Hãi (Duy Lâu Lặc Vương Kinh)
        Phần 2 (Giảng giải kinh)

        Kinh Vị Mâu Ni Thành Đạt
        Kinh Xa Lìa Ái Dục
        Kinh Chuyển Hóa Bạo Động Và Sợ Hãi

         

        Chương 13: Phái đoàn hòa bình tại Paris

        52 năm theo thầy học đạo và phụng sự – Hồi kí của Sư cô Chân Không


        Cầu nguyện Hòa Bình ngay trong Trung Tâm Paris

        Cuộc Họp Mặt của những người tranh đấu cho Hòa Bình Việt Nam tại Fontainebleau
        để ủng hộ sự ra mắt Phái Đoàn Hòa Bình của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tại Hòa Đàm Paris

        Năm 1968, cuộc Hòa Đàm tìm giải pháp cho Việt Nam khởi xướng tại Paris, kéo dài mãi đến năm 1973 thì chấm dứt bằng một Hiệp Ước Hòa Bình. Trong bàn Hội Nghị tìm giải pháp cho Việt Nam có bốn phái đoàn chính:

        1/ Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa (Miền Nam);

        2/ Chính Phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Miền Bắc) lãnh đạo bởi đảng Cộng Sản Việt Nam;

        3/ Chính Phủ Lâm Thời Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam mà phần đông là người Miền Nam bất đồng ý kiến với Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa nhưng có sự chuẩn bị trước của Chính Quyền Cộng Sản Miền Bắc đặt để nội công miền Nam;

        4/ Các nước có can thiệp trực tiếp vào Việt Nam là Chính Phủ Hoa Kỳ, Cộng Hòa Liên Bang Xô Viết, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa.

        Riêng Cộng Hòa Pháp và Liên Hiệp Anh là hai nước đồng bảo trợ và chứng minh cho cuộc hòa đàm.

        Vâng lời Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất mà Viện Trưởng Viện Hóa Đạo là Hòa Thượng Thích Thiện Hoa, Thượng Tọa Thích Nhất Hạnh, người đại diện duy nhất cho Giáo Hội tại hải ngoại để nói lên tiếng nói của những người dân chạy dưới đạn bom và của Phật tử Việt Nam, đã đứng ra thành lập Phái Đoàn Hòa Bình của GHPGVNTN tại Hòa Đàm Paris để kêu gọi thế giới giúp Việt Nam có ngay một cuộc ngưng bắn.

        Cách làm việc của Phái Đoàn là cứ mỗi lần bên Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) có những điểm đề nghị đưa tới chấm dứt chiến tranh mà Chính Phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) không đồng ý và phản hồi bằng đề nghị những điểm khác thì Phái Đoàn Hòa Bình của GHPGVNTN lại họp báo và phân tích cho dư luận thế giới biết điểm nào của VNCH, điểm nào của VNDCCH gần với thực tế, gần với lòng dân hơn, điểm nào còn xa thực tế. Nhờ thế lần đề nghị sau, VNCH lại đưa những điểm gần với những đề nghị của Phái Đoàn Phật Giáo hơn, phái đoàn VNDCCH cũng đưa ra những điểm gần với Phật Giáo hơn để cuối cùng đưa đến các bên đồng ý ký Hòa Ước 1973 tại Paris.

        Để làm lễ ra mắt Phái Đoàn ngày 9 tháng 6 năm 1969, chúng tôi trong hay ngoài Hội Phật Tử Việt Kiều đều đứng ra góp một tay giúp Thầy tổ chức một Buổi Cu Nguyện cho Hòa Bình tại Phòng Họp Lớn của Khách Sạn Quai d’Orsay sát bên Bộ Ngoại Giao Pháp. Ban đầu Bộ Ngoại Giao Pháp không đồng ý vì sợ làm phiền các phe lâm chiến, nhưng chúng tôi đã trình bày là thế nào chúng tôi cũng thành lập Phái Đoàn Hòa Bình của GHPGVNTN, một Phái Đoàn do Giáo Hội lãnh đạo, đại diện cho những người dân Việt Nam chạy dưới bom đạn, và Phái Đoàn phải hiện diện quanh bàn hòa đàm về Việt Nam. Nếu Pháp không cho phép lập Văn Phòng Phái Đoàn tại Pháp thì chúng tôi sẽ lập văn phòng tại một nước khác như Bỉ hoặc Hà Lan hay Tây Đức và nếu báo chí hỏi tại sao không làm tại Paris thì chúng tôi phải nói là vì Pháp không cho phép. Nghe thế Bộ Ngoại Giao Pháp đành đồng ý giúp cho chúng tôi đặt trụ sở tại Pháp nhưng đề nghị phải làm cuộc Họp Mặt Ra Mắt Phái Đoàn Hòa Bình của GHPGVNTN tại Fontainebleau – cách Paris 60km – để các phe lâm chiến trong Bàn Hòa Đàm không trách chính quyền Pháp. Ông Henri Bolle, Giám Đốc về Việt Nam của Bộ Ngoại Giao đã giúp đỡ chúng tôi bằng cách cấp thị thực cho các thầy tu của GHPGVNTN tới Pháp dễ dàng.

        Ngày 8 tháng 6 năm 1969, một ngày trước Buổi Họp Mặt ra mắt Phái Đoàn Phật Giáo Việt Nam tại Hòa Đàm Paris, chúng tôi mời được khoảng 600 người, trong đó có đồng bào Phật tử Việt Nam, các chính khách Việt Nam lưu vong ở hải ngoại và rất đông những đồng bào Phật tử Việt Nam bình dân theo chồng Pháp về nước Pháp nhưng thương vẫn rất nặng lòng nhớ quê hương, tới dự buổi lễ cầu nguyện ra mắt Phái Đoàn. Buổi Cầu Nguyện được mở đầu bằng ba hồi chuông trống Bát Nhã thật trầm hùng vang lên làm chấn ­động con tim bao người con Việt Nam xa quê hương. Lúc đó không có tiệm bán chuông trống mõ như ở Việt Nam, không có chùa Việt Nam, không có chùa Trung Quốc, làm sao mà có được chuông trống? Đó là nhờ Thầy có đem theo một băng nhựa (hồi này chưa có cassette) và để băng Ba Hồi Chuông Trống Bát Nhã phát ngay trước micro nên nghe thật trầm hùng như có chuông trống thật vậy. Mọi người ai cũng rưng rưng giọt lệ khi nghe tiếng chuông trống xoáy mạnh vào tâm hồn. Mỗi người được phát Bài Kinh Cầu Nguyện và tất cả đều tụng lớn theo sự hướng dẫn của quý thầy trong Phái Đoàn:

        Trang nghiêm đài sen ngự tọa
        Đại hùng từ phụ Thích Ca
        Đệ tử đem lòng thành kính
        Bàn tay chắp thành liên hoa,
        Cung kính hướng về Điều Ngự
        Dâng lời thỉnh nguyện thiết tha.

        Kính lạy mười phương chư Phật
        Từ bi trí tuệ chan hòa
        Xin thương Việt Nam khốn khổ
        Hai mươi năm lẻ can qua
        Đất nước hai Miền chia cắt
        Máu xương rơi rụng trẻ già

        Mẹ khóc khô dòng nước mắt
        Con phơi thây chiến trường xa
        Rách nát non sông gấm vóc
        Khóc thương máu lệ chan hòa
        Huynh đệ tương tàn tương sát
        Theo lời xúi xiểm gần xa.

        Kính lạy mười phương chư Phật
        Xót thương dân Việt hiếu hòa
        Xin cho Việt Nam mở mắt
        Nhìn ra Nam Bắc một nhà
        Xin cho từ bi khơi dậy
        Trong tình huynh đệ bao la
        Xin cho lợi quyền chủ nghĩa
        Biến thành thương cảm xót xa.

        Lạy đức Từ Bi run rủi
        Để cho thù hận xóa nhòa
        Lạy đức Quan Âm cứu khổ
        Cho lòng đất Việt nở hoa.

        Tín thành tâm hương một nén
        Cầu xin chuyển nghiệp ta bà
        Hoa tâm linh bừng nở khắp
        Đuốc trí tuệ rọi muôn nhà.

        Cung kính hướng về Phật tổ
        Đại bi đại nguyện Thích Ca
        Đệ tử tâm thành phát nguyện
        “Nghĩ điều thương yêu đùm bọc
        Làm điều cảm thông đoàn kết
        Nói điều xây dựng thuận hòa“

        Hồi hướng vô biên công đức
        Cầu cho nước Việt thái hòa
        Cầu cho tất cả chúng con
        Viên thành đại nguyện.

        Bà Hoàng Xuân Hãn rưng rưng nước mắt và cứ tấm tắc khen “kinh gì mà hay quá! Nghe y như là một bài thơ tuyệt tác”. Tôi tủm tỉm cười im lặng không dám bật mí cho bà biết là Thầy chúng tôi viết đó!

        Những người tổ chức Buổi Lễ Cầu Nguyện đại hội ra mắt Phái Đoàn gồm có: tiến sĩ Nguyễn Văn Hướng, ông bà Võ Văn Ái, tiến sĩ Tạ Huệ Châu, ông Chinh Ba, anh Cao Thái Nghiệp và tôi. Cô Marie Emmeny, cô Penelope Faulkner và anh Raphael Ruiz giúp chúng tôi những hỗ trợ cần thiết khác.

        Những vị Đại Đức tham dự gồm quý Đại Đức Thích Minh Tâm, Thích Thiện Thắng, Thích Pháp Kiên, Thích Thiện Quả, Thích Thế Tịnh, Thích Chơn Hòa và Thích Trí Quảng. Người xướng ngôn viên và hướng dẫn toàn buổi lễ là đại đức Thích Thế Tịnh.

        Sau bài cầu nguyện chúng tôi thấy mắt mọi người đều đỏ.

        Bên Phái Đoàn những nhân sĩ thế giới thì có: tiến sĩ Heinz Kloppenburg, một nhân vật tiến bộ lúc nào cũng cất cao tiếng kêu gọi Hòa Bình cho Việt Nam tại Tây Đức, chủ tịch Hội Hilfe Vietnam; ông Alfred Hassler, vừa là Tổng Thư Ký Hội Thân Hữu Hòa Giải (Fellowship of Reconciliation hay F.O.R.) – một hội chỉ gồm những người Ky Tô Giáo nổi tiếng hiền đức, đạo hạnh cao làm việc cho Hòa Bình từ hồi thế chiến thứ nhất và thứ nhì cho đến nay với 46 nước chi nhánh trên thế giới, vừa là Chủ Tịch Lương Tâm Quốc Tế về chiến tranh Việt Nam (International Conscience of Vietnam); ông Danilo Dolci, một nhà tranh đấu cho quyền sống của trẻ em đói kém vùng Sicilia và rất nổi danh vì dám chống lại tập đoàn Mafia ghê gớm của Ý Đại Lợi; Lord Philip Noel-Baker, người đã được giải thưởng Nobel Hòa Bình, tới từ Anh Quốc, cũng thuộc FOR Anh; ông Hannes De Graaf, học giả thần học người Hà Lan; ông Jean Goss-Mayr, nhà tranh đấu Hòa Bình lừng danh Nam Mỹ; ông Devi Prasad của Hội War Resistance International (Quốc Tế Chống Chiến Tranh) gồm 37 nước trên thế giới; và khoảng 600 đồng bào Phật Tử Việt Nam tới từ nhiều tỉnh trong nước Pháp.

        Để tránh đụng chạm với các phe lâm chiến nên ngày đầu chính quyền Pháp yêu cầu chúng tôi không họp báo. Nhưng nhiều ngày sau, chúng tôi đã lần lượt được đài truyền hình Hà Lan, báo chí Đức, Bỉ phỏng vấn. Nhiều bài báo nói rất nghiêm minh và cảm động về tiếng nói của Phái Đoàn Hòa Bình của GHPGVNTN. Phái Đoàn đã nói lên tiếng kêu tuyệt vọng của người dân vô tội chạy dưới bom đạn, và tiếng nói chính thức của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất bao gồm những điểm rõ ràng sau đây:

        Thứ nhất: Làm sao để ngưng oanh tạc, ngưng chiến ngay tại chỗ càng sớm càng tốt.

        Thứ hai: Yêu cầu Hoa Kỳ công bố và cam kết với thế giới lịch trình rút quân đội Hoa Kỳ và đồng minh ra khỏi Việt Nam.

        Thứ Ba: Làm thế nào để anh em người Việt Nam không cầm vũ khí của Hoa Kỳ, vũ khí của Trung Quốc và của Cộng Hòa Liên Bang Xô Viết mà chém giết nhau.

        Thứ Tư: Thế giới giúp Việt Nam có cuộc bầu cử tự do để chọn những nhà lãnh đạo cho toàn dân.

         

        Một Văn Phòng rất khiêm tốn của Phái Đoàn Hòa Bình của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất

        Bắt đầu từ tháng 5 năm 1970, sau 6 tuần lễ đi du thuyết kêu gọi hòa bình bên Anh về, tôi được Thầy dạy lập ngay một Văn Phòng cho Phái Đoàn Phật Giáo. Tiến sĩ Nguyễn Văn Hướng giúp đỡ chúng tôi về mặt tài chính khi cần phải mướn những cơ sở. Chúng tôi thuê một phòng nhỏ ở số 11 rue de la Goutte d’Or quận 18 Paris, văn phòng sát đường Metro Porte Clignancourt trong một khu nghèo gồm rất nhiều di dân Maroc, Ả Rập. Tám giờ rưỡi sáng tôi đã có mặt ở đây và sáu giờ chiều tôi mới rời văn phòng, lái xe về lại căn hộ số 88 rue Gambetta, Maison Alfort, nơi Thầy ở, để cùng ăn chiều với Thầy và hai sư chú Thanh Hương và Chơn Hòa. Chú Thanh Hương rửa rau và luộc rau rất xanh và ngon hết xảy. Thầy kho tàu hũ thì tuyệt vời nhưng mỗi hai ba tuần chúng tôi mới được ăn tàu hũ một lần vì chúng tôi ở ngoại ô, muốn mua tàu hũ phải ra tận Paris mới có tiệm thực phẩm Á Đông. Chiều, tôi và bà Ethelwyn Best lái xe về thì mệt lả, đã có cơm rau do chú Thanh Hương nấu sẵn, tôi chỉ cần kho nấm và xào rau cải, cà rốt mà ăn thôi. Cơm thì nấu từ gạo gãy mà chú Thanh Hương mua ở các grainetterie Pháp, loại gạo chỉ dành cho chim ăn. Thấy chú Hương mua gạo cho chim ăn mà sao nhiều quá, bà bán hàng tiệm Graineterie hỏi: Chắc vườn nhà ông có nhiều chim đến ăn lắm hả? Chú Hương cười thật xinh mà không nói năng gì…!

        Cơm nước xong, sau khi nghe chúng tôi trình bày công việc văn phòng trong ngày, Thầy thường cho chúng tôi ngồi yên nghe một bài thơ rồi thầy trò cùng ngồi thiền hai mươi phút trước khi tôi và bà Ethelwyn Best chào Thầy và quý sư chú để lui về căn hộ 97 cùng đường Gambetta.

        Khi anh thư ký trước của Thầy xin từ chức để ra lập nhà in riêng từ tháng 3 năm 1970, anh đã “cẩn thận” giữ hết địa chỉ của tất cả các bạn hữu và các đoàn thể mà thầy chúng tôi đã mắc những đường dây thân hữu từ năm 1966 và không bao giờ trả lại cho văn phòng. Mất hết mấy trăm địa chỉ của những người hết lòng giúp đỡ, những bạn bè tranh đấu cho hòa bình của Thầy, nhưng may mắn cho tôi lúc đó còn trẻ tuổi, trí nhớ còn khá tốt, nên tuy chỉ ở chung làm việc văn phòng có mấy tháng nhưng tôi đã nhớ và ghi lại đầy đủ những địa chỉ quan trọng mà trong thời gian làm việc với anh tôi đã đọc qua tên Hội Đoàn đó, tên ông chủ tịch đó, số văn phòng, tên đường, tên thành phố và tên nước. Anh cũng viết thư về nước gửi cho Viện Hóa Đạo những hình ảnh cắt ráp xấu xa hoàn toàn không có thiệt, nói những điều không dễ thương về Thầy, đặt câu hỏi Thượng Tọa Nhất Hạnh có phải là Đại Diện của Giáo Hội, được Giáo Hội đề cử đứng ra lập Phái Đoàn Hòa Bình của GHPGVNTN không? Anh cũng hỏi thầy Thanh Văn, Giám Đốc trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội là thầy chúng tôi có gửi tiền mà chúng tôi lạc quyên được từ hải ngoại về hay không? Nhờ thế nên Hòa Thượng Thích Thiện Hoa mới gửi cho thầy Nhất Hạnh bức thư nói rõ thầy Nhất Hạnh là đại diện duy nhất của Giáo Hội ở hải ngoại bằng bức thư đính kèm (* theo Bức Thư đề cử của GHPGVNTN số 0476-VHĐ/VP ngày 9 tháng 9 năm 1970 của Hòa Thượng Thiện Hoa) và Trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội mới báo cáo rõ ràng ngày tháng nào nhận bao nhiêu tiền.

        Nhờ anh tung tin sai mà lại giúp cho Phái Đoàn Hòa Bình của GHPGVNTN có dịp nhận giấy tờ báo cáo chính thức, còn các hội đoàn quốc tế thì mất niềm tin với anh ấy ngay khi đến gặp tôi và được tôi đưa giấy của Hòa Thượng Thiện Hoa cùng tất cả những biên nhận, hình ảnh từ trong nước về công tác của chúng tôi. Vậy là nhờ anh ấy thải ra một khối bùn mà chúng tôi có thêm hoa sen đẹp đẽ. Bạn của Phái Đoàn Hòa Bình ngày càng đông và có thêm niềm tin. Thầy chúng tôi luôn dạy: “Các con phải giữ tâm thật trong sáng, liêm trực và từ bi. Những vu cáo oan ức rồi cũng có ngày sáng tỏ. Khi các con thốt ra lời nào, phải ý thức là cả tam thiên đại thiên thế giới đều nghe câu nói của con, dù nói sau lưng hay nói trước mặt thì cũng phải ý thức là người đó và tam thiên thế giới đều nghe câu nói ấy, đừng nói trước mặt người ta câu A và nói sau lưng thì câu B, phải nói bằng tấm lòng chơn chất của mình. Cũng có trường hợp mà nhìn sâu mình thấy chưa nói được sự thật trong thời điểm đó thì khoan nói. Đừng nói với người A như vầy và nói với người B khác.“ Và câu nói dễ thương nhất của Thầy dạy tôi là “trước sau gì anh chàng này cũng sẽ dừng lại, tiếp xúc với tánh Bụt của anh, không để cái tâm bất thiện đó kéo đi mãi được đâu, rồi anh ta cũng sẽ tu thôi! Hiện tại anh ấy càng bóp méo, nói điều không thật thì chúng ta càng phải giữ gìn mỗi bước chân, mỗi hành động cho chánh niệm, cho chân thật, giữ gìn từng tư duy, từng hơi thở cho hoàn toàn từ bi để giữ quân bình cho cuộc đời. Đời có bên phải thì phải có bên trái, có ông ác thì phải có ông thiện. Đừng làm một ông ác thứ hai để chống ông ác kia. Bên kia nói sai thì mình cứ im lặng và chỉ từ từ chứng minh bằng hành động chân thật và từ bi của mình thôi.“

        Phái Đoàn có ra tờ Le Lotus, Lá Thư của Phật Giáo và tiếng nói của người dân chạy dưới đạn bom, với những tin tức từ trong nước, bằng ba thứ tiếng Việt, Anh và Pháp. Mỗi lần chỉ in: 400 bản bằng tiếng Anh để gửi cho bạn bè, cho các ký giả đã từng phỏng vấn Thầy hay chúng tôi và có cảm tình với Phái Đoàn Hòa Bình của GHPGVNTN, các dân biểu đã từng gặp Thầy hay gặp chúng tôi, các hội đoàn tranh đấu cho hòa bình ở các nước Bắc Âu, Úc Châu – Tân Tây Lan và Á Châu; 200 bản tiếng Pháp cho bạn bè báo chí Pháp và các nước như Ý Đại Lợi, Thụy Sĩ, Tây Ban Nha cùng vài bạn ở Phi Châu; 200 bản tiếng Việt cho đồng bào hải ngoại.

        Le Lotus của PĐPGVNTN

         

        Tại Anh Quốc, nhóm Third Way in Vietnam gồm các giáo viên tại Anh đã cho in lại 300 bản để gửi cho bạn bè ủng hộ các chương trình của Phái Đoàn, rồi khi số người ủng hộ tăng thành năm trăm, bảy trăm hay một ngàn người thì họ in lại 1.000 bản Le Lotus tại Anh.

        Ở Hoa Kỳ đã có nhóm Fellowship of Reconciliation (FOR) do Alfred Hassler làm Tổng Thư Ký đã đăng lại những tin quan trọng, nhưng nhóm của tiến sĩ Richard Murray đã in lại tới hàng ngàn bản mỗi khi nhận được một Lá Thư Le Lotus của Phái Đoàn. Họa sĩ Võ Đình đã thu gọn những bài quan trọng nhất và cũng in lại vài trăm bản tiếng Anh.

        Tôi học tiếng Anh

        Khi ở Trung Học Marie Curie, tôi học bên cổ ngữ, mỗi tuần học 5 giờ tiếng Latin mà chỉ có 2 giờ Anh Văn nên dù khi nào cũng điểm cao, tháng nào cũng có bảng danh dự tableau d’honneur, là một trong 5 người học trò nhất lớp, nhưng tôi chỉ giỏi văn phạm, có thể viết đúng chính tả, còn khi nghe thiên hạ nói tiếng Anh thì tôi chẳng hiểu chi cả. Tuy nhiên, nhờ tập nói lõm bõm với Masako, một người Nhật sinh ở Hoa Kỳ, khi cô sang Việt Nam làm việc và tập nói chuyện với bà Ethelwyn Best khi Thầy nhờ bà về Việt Nam liên lạc với tôi, nên tôi cũng bập bẹ được những câu nói cần thiết. Vậy mà khi có khách tới chơi tôi chỉ hiểu phân nửa câu chuyện. Vì thế trước khi đi Anh, Thầy đưa cho tôi ba bài báo trong tờ nhật báo The International Herald Tribune để tôi học. Thầy dạy: Con nên chép ra tiếng Việt nghĩa của từng câu tiếng Anh. Chữ nào không biết thì tra tự điển. Khi nào hiểu rõ tất cả nghĩa các từ nhưng nhìn trọn một câu có cách hành văn lạ lùng, ráp nghĩa rồi mà vẫn không hiểu thì mới nên hỏi Thầy. Sau một buổi sáng loay hoay, cuối cùng tôi cũng dịch được một bài báo bốn cột. Tôi che bên tiếng Anh và chỉ nhìn vào bản tiếng Việt của mình để dịch lại ra tiếng Anh từng câu. Dịch xong một câu, lại mở tiếng Anh ra xem dịch đúng không. Nhờ thế tôi biết luôn cách hành văn. Sau động từ go thì tôi biết dùng trạng từ to để chỉ chuyện đi (chợ). Với động từ khác thì có khi dùng trạng từ at, có khi dùng for hay toward hay forward to. Mất hết một ngày tôi mới dịch ra tiếng Anh trọn bài báo, nhưng sau đó tôi dần dần quen cách ráp một câu tiếng Anh nên dịch nhanh hơn và khi dịch đến bài thứ hai thì tôi có thể diễn tả vài ý nghĩ bằng tiếng Anh. Công việc của Phái Đoàn Phật Giáo nhiều quá. Mới học được nửa bài thứ ba thì có tin từ Việt Nam cho hay phi cơ mới oanh tạc nát tan vùng Trà Lộc Quảng Trị, ngay trên cái trường học mà các em tác viên trường TNPSXH đã cùng với dân làng đứng ra đóng góp, tự xây với tất cả tình thương; ba người tác viên suýt chết. Vì thế tôi không có giờ học hết bài thứ ba thì đã tới ngày đi Anh quốc để chia sẻ những khổ đau của đồng bào.

        Lần đầu tiên tôi “ra trận” bằng tiếng Anh, chia sẻ những cái thấy của mình về chiến tranh Việt Nam với các bạn là ở tại Luân Đôn. Mục Sư David Harding rất dễ thương, đưa tôi đi gặp đức Giám Mục, đức Hồng Y ở Coventry, đưa tôi đến nói chuyện với các nhóm Quakers ở Luân Đôn, ở Birmingham, ở Leeds… toàn là những tăng thân gặp nhau hàng tuần để cầu nguyện, đưa tôi đến trường Trung Học để chia sẻ cho học sinh biết chiến tranh là gì, thăm Lord Philip Noel-Baker để ông giới thiệu tôi đi gặp luôn năm Dân Biểu Quốc Hội Anh. Mục Sư David Harding biết tiếng Anh của tôi rất yếu nên khi người kia nói gì mà tôi không hiểu, ông lại lặp lại với tiếng Anh đơn giản của ông. Có khi chỉ vì phát âm lạ lẫm với tôi quá khiến tôi vẫn không hiểu thì ông viết xuống, nhìn mặt chữ tôi nhận ra ngay nghĩa của nó. Khi nào có mặt chữ mà tôi vẫn chưa hiểu thì tôi sử dụng quyển tự điển Anh-Pháp cầm tay đem theo để tìm cho đúng nghĩa. (Hồi này tôi không có quyển tự điển Anh-Việt nào đem theo từ Sài Gòn). Sau lần đi Anh, tôi đi tiếp sang Hà Lan rồi Đan Mạch, Na Uy, Thụy Điển. Những nước này tuy cũng nói tiếng Anh nhưng tiếng Anh tại Đan Mạch khác với tiếng Anh Anh! Tiếng Anh Na Uy, khác tiếng Anh Anh và cũng khác tiếng Anh Đan Mạch, tới Thụy Điển lại cũng một loại tiếng Anh khác!!! Cho tới khi Thầy cho tôi đi Hoa Kỳ hai tháng rưỡi viếng thăm và nói chuyện về chiến tranh Việt Nam với 37 tiểu bang Hiệp Chủng Quốc, mỗi tiểu bang một loại phát âm tiếng Anh khác nhưng dần dà tôi phải tập nghe quen. Có khi thiếu chữ, không diễn tả được bằng Anh văn, tôi cứ dùng chữ Pháp đọc trài trại theo tiếng Anh, mười lần cũng đúng được năm! Có vài người Hoa Kỳ khen tiếng Anh của tôi sao văn chương cổ kính quá. Thì ra đó là tiếng Pháp đọc trại ra tiếng Anh mà mấy người lập quốc Hoa Kỳ đầu tiên vốn gồm một số người Pháp cũng đã dùng những danh từ đó.

        Chương trình của tôi mỗi ngày trong chuyến đi Hoa Kỳ thường gồm như vầy: Sáng 5 giờ, tôi cùng các bạn của Hội Thân Hữu Hòa Giải (FOR), hội đoàn bảo trợ cho chuyến đi của tôi, thức dậy và cả đoàn lên phi cơ bay sang tiểu bang khác. Tới phi trường lúc 8h30 sáng tôi gặp ngay báo chí ở phi trường, phỏng vấn chớp nhoáng 15 phút bởi Đài Truyền Hình địa phương để họ cho vào bản tin buổi trưa và chiều, bản news khoảng 2 phút thôi (mục đích là để có thể mời thiên hạ tới nghe tôi nói chuyện tại một giảng đường lớn của thành phố hay tại nhà thờ hoặc một Trường Đại Học lúc 20 giờ). Sau đó cũng tại phi trường, tôi họp báo nói chuyện với vài nhật báo địa phương. Xong, lên đường tới đài truyền hình địa phương để nói chuyện trong mục Trả lời những câu hỏi của khán thính giả. Khán giả đặt câu hỏi với tiếng Anh địa phương khiến tôi không hiểu gì cả. Nhưng có anh Allan Brick, bác Alfred Hassler hay anh Ronald Young người của FOR lặp lại câu hỏi bằng thứ tiếng Anh đơn giản để tôi hiểu được và tôi trả lời dễ thương, đơn giản mà hết lòng. Vì thương đồng bào mà cầu mong họ sớm dứt được nạn bom đạn đao binh, tôi yêu cầu chính phủ Hoa Kỳ sớm giúp Việt Nam ngưng bắn càng sớm càng tốt, đừng gửi binh sĩ Hoa Kỳ sang Việt Nam nữa. Tôi thường mời họ hình dung cảnh thím Tư nhà cháy hai lần vì bom lửa nhưng may mà không chết. Lần nào cũng tiêu tan sự nghiệp nhưng nhờ có vợ, có chồng hai người đi mót tre, mót lá về xây căn chòi mới ở một nơi tương đối an ninh hơn, nhưng lần thứ ba thì anh Tư chết cháy cùng với cả ba đứa con. Thím ngồi im lặng nhìn vào khoảng không, thảng thốt thốt lên: “con, con đâu rồi? Con lại đây cho mẹ ôm! Ôi con tôi! Xí ơi!” Rồi thím lại ôm mặt khóc, rồi lại ngồi im ngơ ngác… Có khi là hình ảnh chú Hai ngồi nhìn trừng trừng vào không gian và những giọt nước mắt chảy dài trên má, vợ và 7 đứa con chú vừa chết hết trong trận oanh tạc vừa qua. Những hình ảnh đó đi theo tôi suốt những ngày làm việc không ngừng nghỉ và tôi không hề biết mệt.

        Trưa tôi được ăn cơm với một nhóm Laymen and Clergymen of Concerns. Họ thì ăn, mình cũng được mời một đĩa thức ăn nhưng họ chỉ có giờ để vừa ăn vừa nghe tôi thôi, nếu tôi cùng ăn (mà tôi thì ăn trong chánh niệm, đâu có nói chuyện được) thì khi tôi ăn xong họ cũng ăn vừa xong và sẽ đi ngay nên tôi đành nhịn ăn, chỉ nói về niềm đau của đồng bào, về chết chóc và sau đó tôi cũng không muốn ăn luôn. Một giờ trưa tôi được nghỉ vài mươi phút, rồi đi tới một trường trung học hay giảng đường một trường đại học để nói chuyện cho sinh viên học sinh và giáo chức nghe từ 14 giờ đến 16 giờ. Tôi được ăn chiều thong thả rồi nghỉ ngơi chờ đến 19 giờ 30 mới đi đến Thính Đường lớn của thành phố cho buổi diễn thuyết chính thức. Nếu may mắn mà truyền hình ra kịp, bài báo ra kịp trước chiều đó thì Thính Đường sẽ chật người, nhưng cũng chỉ khoảng hơn bảy tám trăm người nghe thôi, nhiều lắm là một nghìn người. Nghĩ đến 200 triệu dân Hoa Kỳ ủng hộ chính phủ họ gửi quân qua Việt Nam để “cứu dân Việt Nam”, tôi rất nản lòng. Nhất là mỗi lần được vào gặp State Department là nơi chính sách đã định sẵn, có khi sau cả tiếng đồng hồ tôi mở lòng ra giải thích rằng bên Việt Nam Cộng Hòa thiếu chính nghĩa vì có quân đội Hoa Kỳ tham chiến trong khi bên Cộng Sản chỉ lấy súng đạn của Nga Xô và Trung Quốc thôi mà không có binh sĩ Trung Hoa và binh sĩ Liên Bang Xô Viết…, các ông làm việc ở State Department chỉ có một câu trả lời như cái máy đã thu thanh sẵn: “Chúng tôi phải gửi quân đội và súng ống qua giúp dân Việt thoát khỏi ách nạn Cộng Sản, vì mất miền Nam Việt Nam là mất luôn các nước ở Đông Nam Á!” Dĩ nhiên tôi không được gặp ông Robert McNamara như Thầy nên các nhân viên làm sao mà dám trái lệnh Trung Ương.

        Các bạn Hoa Kỳ cùng vận động hòa bình như tôi thấy tôi làm việc không ngừng nghỉ ngày này sang ngày khác thì ai cũng ái ngại muốn bớt chương trình lại, nhưng tôi căn dặn các bạn cứ tổ chức nhiều nhiều, càng nhiều càng tốt bởi vì làm sao mà tôi biết mệt được khi nghĩ tới hình ảnh thím Tư mất chồng con thảng thốt như kể trên, khi thì hình ảnh chú Hai ngồi nhìn trừng trừng vào không gian và những giọt nước mắt chảy dài trên má, vợ và 7 đứa con chú vừa chết hết trong trận oanh tạc vừa qua, khi mà chị Mai của tôi hiến cả tuổi thanh xuân và sự sống của chị để thiêu thân kêu gọi mọi người ngưng chiến.

        Sử dụng tiền trong chánh niệm

        Sau những chuyến đi du thuyết chúng tôi lạc quyên được kha khá tiền nhưng tôi biết rõ mỗi mỹ kim, mỗi quan Pháp là tấm lòng của những người có tâm vị tha, nên không bao giờ tôi dám xài trên số tiền người ta gửi cho nạn nhân chiến cuộc. Tôi nhận dạy kèm cho con của các gia đình khá giả tại Paris đang học Trung Học và còn yếu toán. Tôi mua các sách toán mới, toàn là loại toán mà ngày xưa tôi chưa học, ví dụ như ngày xưa tôi học các đơn vị là 10 nhưng cách học bây giờ có khi đơn vị là 5 hay 7 hay 9… nhưng tôi đọc trước và dạy sau, các em cũng có tiến bộ. Thầy thì nhận làm giảng viên tại Đại Học Sorbonne, Ecole des Hautes Etudes để có chút tiền trả tiền điện nước và mua gạo ăn. Thầy trò chỉ ăn gạo gãy mà các tiệm bán thực phẩm cho thú vật (Grainetterie) bán cho chim ăn. Thấy tôi mỗi lần mua ba bốn bịch gạo năm ký, bà bán thức ăn cho thú vật bèn hỏi: Nhà cô nuôi nhiều thú vật lắm sao? Tôi muốn nói là nhà chúng tôi có hai con cọp (là cọp Thầy và cọp tôi nhỏ hơn thầy 12 tuổi), một con khỉ (là chú Thanh Hương), một con gà (là chú Chơn Hòa) và một con khỉ (là bà Ethelwyn Best lớn hơn Thầy 18 tuổi), nhưng tôi chỉ mỉm cười không nói.

        Nhiều bạn Âu Châu đến thăm văn phòng chúng tôi ở 11 rue de la Goutte d’Or, 75018 Paris và khuyên tôi nên đổi văn phòng đến một nơi trang trọng hơn vì ở đây phải leo lên năm tầng lầu không thang máy giữa một khu nghèo của thành phố Paris thì có vẻ như không đàng hoàng. Tôi mỉm cười nói, chúng tôi đại diện cho những người chạy dưới bom đạn thì văn phòng chúng tôi nghèo cũng phải thôi. Tiền để dành cho người thiếu ăn còn Văn Phòng không cần sang trọng. Báo chí viết bài khen rất nhiều và bảo đảm là gửi tiền giúp Việt Nam qua Phái Đoàn thì không mất 10% hay 20% như ở các hội đoàn khác.

        Nhật báo Le Monde và ký giả Jacques De Cornoye

        Trước khi tôi đến Pháp, thầy chúng tôi có làm việc với Hội Phật Tử Việt Kiều Hải Ngoại, nhưng báo chí Pháp hoàn toàn không chịu đăng những tin của Hội PTVKHN gửi tới dù là những tin rất thật về tiếng nói của GHPGVNTN từ trong nước gửi ra. Họ tin tưởng ở Tòa Đại Sứ Hà Nội và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam hơn. Hôm đó tôi quyết định đến tận văn phòng nhật báo Le Monde xin gặp ông giám đốc đặc trách về tin tức Á Châu và Việt Nam – ông Jacques De Cornoye. Tôi rụt rè bước vào văn phòng ông. Vì quá bận nên ông định từ chối nhưng thấy một cô gái Việt Nam mặc áo dài trắng, tóc dài như nữ sinh đứng tần ngần trong văn phòng bận rộn của thành phố Paris, ông hơi ngỡ ngàng không nỡ từ chối và đã quyết định tiếp tôi vài phút. Biết trước ông không có thì giờ, tôi trao cho ông một tập sách mỏng đánh máy bằng tiếng Pháp và cho ông biết đó là những ghi chép ngắn gọn của tôi về phong trào sinh viên học sinh tranh đấu cho hòa bình ở Miền Nam Việt Nam mà tôi là một trong những nhân vật ấy ở trong nước mới ra, rồi chào ông ra về. Hình như buổi gặp mặt ngắn ngủi ấy có gây chút ấn tượng nơi ông. Tôi chẳng quảng cáo gì về cái tập 30 trang giấy đánh máy với tiếng Pháp không văn chương gì mấy của tôi. Nhưng một tuần sau, ngay sau khi đọc xong, ông điện thoại cho tôi, khen bài viết rất chân thật và có nhiều tin mà xưa nay ông mù tịt. Ông xin phép tôi cho ông nhuận Pháp văn của tôi lại và cho đăng trên bán nguyệt san Esprit hai lần liên tiếp, vì những gì tôi viết đã cô đọng lắm rồi nên ông không muốn cắt bớt đoạn nào. Dĩ nhiên là tôi quá mừng và từ đó về sau, mỗi khi có tin gì từ Việt Nam gửi qua, tôi thông báo là ông đăng đầy đủ hết. Những phê bình của Thầy chúng tôi về tám điểm, bảy điểm của các phe lâm chiến, ông đều có đăng, dù chỉ một cột ngắn nhưng cũng khiến thầy trò chúng tôi tri ân và có niềm tin là những gì mình làm với tấm lòng chân thật, với trái tim tinh khiết thì khó khăn mấy cũng sẽ động lòng trời đất, nhất là phá vỡ được bức trường thành nhật báo Le Monde, tờ báo rất quan trọng mà trước đó tin tức của Thầy gửi tới không bao giờ được đăng.

        Ethelwyn Best là một tác viên xã hội lâu năm của Hội FOR. Bà rất hãnh diện là Hội này đã làm việc chống chiến tranh từ hồi thế chiến thứ nhất rồi thứ hai. Ngoài ra bà còn tình nguyện đi công tác không lương cho Hội FOR khi hội nhờ bà đi Việt Nam giúp Thầy. Bà cũng là thành viên Hội International Civil Service chuyên đi làm công tác từ thiện như xây trường học, mẫu giáo, bệnh xá không công cho các nước nghèo.

        Tôi quen bà năm 1967, khi hội FOR nhờ bà đi đi về về Hồng Kông, Sài Gòn để vận động thuốc men cho chúng tôi đi cứu trợ hay đem vào các Làng Tự Nguyện. Khi mướn xong văn phòng ở 11 rue de la Goutte d’Or Paris 18 thì tôi biên thư năn nỉ bà qua giúp tôi một tay. Bà nhận lời ngay và tới Maison Alfort sống với tôi liền. Thường thì bà sửa dùm những bức thư tiếng Anh mà tôi viết cho các hội đoàn với cái thứ tiếng Anh Trung Học ở Việt Nam, dở ẹc của tôi. Bà sửa cho tôi cách nói những câu tiếng Anh rất thanh tao của người trí thức. Tôi đã ăn no thì bà không cho nói I am full mà phải nói I have eaten enough! Bà leo một lèo năm tầng lầu lên văn phòng của chúng tôi không thang máy mà không cần nghỉ giữa chừng. Món ăn gì tôi nấu bà cũng thích, rất dễ nuôi. Chồng bà chết khi bà 25 tuổi, bà ở vậy suốt đời và đi làm việc thiện nguyện cho tới tuổi này là đã 76 mà vẫn tin tưởng rằng khi bà chết sẽ lên thiên đàng đoàn tụ với ông ngay. Có một hôm Thiền Sư (thầy chúng tôi) hỏi một câu khiến bà lúng túng lần đầu trong đời: Này Ethelwyn bà nghĩ rằng khi bà về thiên đàng thì ông mấy tuổi và bà mấy tuổi? Ngày ông chết ông mới 25 tuổi và là một thanh niên trẻ đẹp tuấn tú, còn bà bây giờ đã 76 tuổi, da đã nhăn, thế hai người tính sao đây khi gặp nhau? Đó là một công án thiền cho bà!

        Các bạn bè khác trong phái đoàn có chị Marthe De Venoge là một dịch giả chuyên nghiệp, chỉ cần bỏ ra một buổi chiều là chị dịch xong 15 hay 20 trang tiếng Anh Le Lotus mà Thầy vừa viết xong. Tôi thì dịch ra tiếng Việt cho bạn bè người Việt ở năm Châu được đọc. Ngoài ra còn có: bác sĩ Cao Thị Dung và tiến sĩ Tạ Huệ Châu là bạn cùng học với tôi hồi trung học Marie Curie; tiến sĩ Nguyễn Văn Hướng được cử làm Tổng Thư Ký hội Phật Tử Việt Kiều, đặc trách giúp quý thầy trong Phái Đoàn lo chuyện tín ngưỡng cho đồng bào, ví dụ như đi tìm mướn một appartement nhỏ để làm Niệm Phật Đường cho thầy Minh Tâm bắt đầu làm việc vì thầy lo chuyện cầu siêu cầu an cho đồng bào ở vùng Paris và ngoại ô; anh Trần Quang Hải, con trai giáo sư Trần Văn Khê; chị Trần Thị Hằng, anh Thái Quang Trung, Nguyễn Văn Liêm, Trần Thị Tuyết và anh tôi là Cao Thái Nghiệp thì đóng góp được nhiều trong việc dịch hồ sơ cô nhi vì chiến tranh. Mỗi tuần chúng tôi nhận được mấy trăm hồ sơ cô nhi và thầy trò đều chia nhau dịch.

        Sau này có thêm em Bùi Thị Hương, tác viên Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội, từ Nhật sang Pháp cùng làm việc. Rồi lại có Mobi Warren từ Hoa Kỳ sang, có cả Kim Thoa và Lợi sang Pháp học nữa. Khi gia đình Thoa nhờ tôi tìm nhà cho các em thì Thầy dạy chúng tôi mời anh Cao Thái và gia đình Kim Thoa mướn luôn căn hộ thứ hai cùng số 69 đường Bd Desgranges 92330 Sceaux, Phái Đoàn thì ở tòa nhà A còn anh Cao Thái và Thoa, Lợi thì ở tòa nhà B ngay sau chung cư chúng tôi để cùng làm việc cho gần.

        Hai mười bốn giờ tinh khôi, một bài hát chánh niệm cho người bận rộn

        Thức dậy hôm nay em thấy trời xanh,

        chắp tay em cám ơn đời mầu nhiệm

        Cho em hai mươi bốn giờ tinh khôi, cho em bầu trời bao la

        Mặt trời lên cao rừng cây ý thức

        Mặt trời lên cao, rừng cây vươn nắng chan hòa

        Điệp khúc

        Em đi ngang qua đồng hoa hướng dương

        Hàng vạn bông hoa ngoảnh nhìn về phương Đông chói sáng

        Ý thức em mặt trời tỏ rạng

        Bàn tay em gieo hạt cho mùa sang năm

        Biển động tai em nghe tiếng triều dâng

        Xôn xao mây bốn phương trời lồng lộng

        Quê hương thân yêu ngát hồ sen thơm

        Quê hương hàng dừa ven sông

        Ruộng đồng vươn vai cười theo bông lúa,

        Ruộng đồng vươn vai cười mưa vui nắng trăm mùa

        Điệp khúc

        Em đi ngang qua đồng hoa hướng dương

        Hàng vạn bông hoa ngoảnh nhìn về phương Đông chói sáng

        Ý thức em mặt trời tỏ rạng

        Bàn tay em gieo hạt cho mùa sang năm

        Đất mẹ cho em hương quế tần ô

        Tía tô rau húng rau ngò mầu nhiệm

        Mai đây xanh tươi núi đồi quê hương

        Mai đây lộc đời lên nhanh

        Ngọt lời ca dao trần gian ca hát

        Ngọt lời ca dao, cười mưa vui nắng trăm mùa

        Đây là bài hát nhạc và lời do Thầy sáng tác cho chúng tôi hát để không bực bội mỗi sáng phải lái xe từ nam Paris sang tới văn phòng làm việc tận bắc Paris, và cũng tập tiếp xúc với sự mát mẻ an tịnh tâm hành khi nghe tin bom đạn chỗ này, chết chóc làng xã kia, có nơi có những tác viên Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội đang làm việc.

        Pierre Marchand và Uỷ Ban Giúp Trẻ Em Việt Nam

        Một hôm tôi được mời tới Hội Đoàn Mouvement International de Réconciliation (MIR, tên tiếng Pháp của FOR) để nói chuyện về Việt Nam. Có khoảng 80 người ngồi nghe và đặt câu hỏi là họ có thể giúp được gì. Một thanh niên Pháp mới 17 tuổi mặt mày sáng sủa đã đến bên tôi và cho tôi biết em rất cảm động nghe những gì tôi nói và quyết sẽ đến giúp tôi dù em chưa biết là bằng cách nào. Em ấy xin đến văn phòng của tôi để gặp Thầy và các bạn khác. Lúc này Thầy có lương của Đại Học Sorbonne nên quyết định tìm một appartement lớn để tất cả thầy trò cùng ở và làm việc nguyên ngày đêm tại một chỗ, khỏi phải lái xe băng qua Paris hằng ngày, chính là appartement ở tòa nhà A số 69 đường Desgranges, Sceaux. Em người Pháp đó tên là Pierre Marchand. Hôm sau em đến thăm tôi với một đóa hồng đỏ để tặng tôi, em nói em cảm động lắm và rất thương chị Nhất Chi Mai khi nghe tôi kể chị đã tự thiêu cho hòa bình. Pierre muốn làm đủ cách để có thể giúp Việt Nam và xin được giúp bất cứ việc gì ở Văn Phòng Phái Đoàn như xếp tờ Le Lotus, ghi địa chỉ dán tem, và ngồi chép tên tuổi từng em sẵn vào bản dịch tiếng Pháp để khi nào chúng tôi – người Việt – rảnh thì ngồi dịch ngay tiểu sử của các em mà khỏi cần chép lại tên tuổi. Tôi cho Pierre xem hình các bé mồ côi mà chúng tôi nhận từ Việt Nam và nhờ Pierre tìm người bảo trợ. Pierre cứ ngồi ngắm hình từng em và rưng rưng muốn khóc. Sau này tôi mới biết Pierre làm sao mà tìm ra người bảo trợ vì cậu bé mới 17 tuổi. Em không thích đi học nữa, chỉ muốn đi làm từ thiện giúp trẻ em thiếu ăn. Ba của Pierre là một đại thương gia rất giàu có (điều này tôi chỉ mới biết sau này) đã rất giận em bỏ học đi theo tôi. Pierre yêu cầu tôi để em tổ chức một Đại Nhạc Hội để lạc quyên cho trẻ em Việt Nam. Pierre đưa tôi xem một danh sách các danh ca nổi tiếng nước Pháp đương thời như Graeme Allwright, Claude Nougaro, Nana Mouskouri… Tôi thì mù tịt về những danh ca đương thời nhưng đã tùy hỷ công đức, tôi bảo em cứ làm đi, giúp được gì thì tôi sẽ giúp nhưng tôi không đứng ra lo được vì rất bận. Sau một tuần vắng mặt Pierre trở lại báo tin là đã có được sự đồng thuận của Greame Allwright và Pierre định đi mướn Đại Sảnh Đường 2.000 chỗ của Palais de la Mutualité Maubert, tốn 3.000 Francs một đêm. Pierre bảo tôi cho em mượn tiền đặt cọc để mướn rạp và nhờ tôi trình bày quảng cáo để em gửi đăng báo chí với đài phát thanh và làm những áp phích đi dán các nơi công cộng tại Paris cho mọi người biết. Cũng chính Pierre định giá 10 Francs mỗi người. Thường thì vé vào cửa đêm hát của những tài tử danh tiếng như vậy phải 30 Francs. Nhưng Pierre nghĩ đến túi tiền của những thanh niên như em, nên tính giá quá rẻ. Tôi có giới thiệu Pierre với anh Hướng, chị Dung, bảo Pierre mượn tiền họ rồi bán vé xong sẽ trả lại sau nhưng những người này không nghĩ đó là một chuyện nên làm nên không giúp. Tôi thương tấm lòng một người trẻ nên làm liều lấy quỹ trẻ em mồ côi mà chưa gửi về Việt Nam cho Pierre mượn đi đóng tiền cho Hội Trường Palais de la Mutualité. Đưa 3.000 Francs cho Pierre xong thì tôi sợ mất tiền vì nếu đến ngày nhạc hội mà không ai mua vé thì sẽ không đủ tiền trả nợ và có chút lời cho trẻ em mồ côi vì chiến tranh. Vì thế đã phóng lao tôi phải theo lao, tối nào khi mọi người đã đi ngủ, đường phố không kẹt xe tôi cũng chở Pierre đi dán áp phích (affiches) trên các cột quảng cáo của đường phố Paris. Mới dán tối hôm trước, tối sau trở ra để dán chỗ khác thì thấy áp phích của chúng tôi ở chỗ cũ đã bị dán chồng lên. Thật là nản! Nhưng tôi vẫn phải dán lại và thức đêm thêm để đi dán nhiều chỗ, nhiều khu phố những nơi gần các trường đại học v.v..

        Đến ngày Nhạc Hội, ngày 27 tháng 06 năm 1973, anh chị em chúng tôi đứng soát vé vào cửa, nhưng không ai trong Phái Đoàn có thể ngờ thiên hạ đến đông như thế. Đúng là một nước Pháp khác với những người Pháp đã đến với chúng tôi vì hòa bình. Toàn là người trẻ, trí thức, ưa nếp sống tâm linh, thích những bản nhạc của The Beatles. Họ đến vì Graeme Allwright là một ca sĩ Pháp dịch các bài ca của The Beattles để hát và người trẻ “mê” anh dễ sợ. Người trẻ đòi vào cửa nhưng hết vé, hết chỗ, may mà hồi này nước Pháp chưa nghiêm ngặt lắm về tiêu chuẩn an ninh hỏa hoạn nên cho chúng tôi mở toang các cửa để khán giả vào ngồi chật cả các lối giữa các hàng ghế, rồi cũng hết chỗ nên họ leo luôn lên cả trên khán đài với ca sĩ. Ca sĩ Graeme Allwright chịu chơi, anh hát trước, rồi sau đó mời mọi người hát theo luôn. Vui ơi là vui. Hết vé, thanh niên vào cửa cứ xòe ra 10 Francs, chúng tôi lấy tiền mặt đủ 10 Francs rồi cho vào không có vé! Sau buổi Nhạc Hội, chúng tôi trả hết nợ 3.000 Francs và còn dư ra 17.000 Francs cho trẻ em mồ côi vì chiến tranh Việt Nam, số tiền lớn nhất xưa nay. Tôi cám ơn Pierre và viết một bức thư cho ba của Pierre để cám ơn ông có người con trai rất xứng đáng, đã hy sinh hết lòng cho trẻ em mồ côi vì chiến tranh Việt Nam. Ông trả lời bằng một bức thư gửi bảo đảm, báo tin là ông sẽ kiện tôi ra tòa vì tội dụ dỗ vị thành niên! Và ông định làm thật. Pierre hay tin này thì buồn lắm, bỏ ăn cả ngày. Thấy vậy Thầy bèn lấy cho Pierre cái huy chương mà đức Giáo Hoàng Paul VI đã tặng Thầy. Mẹ của Pierre là người Công Giáo nhưng mất sớm, nên Pierre cảm động lắm, ôm cái huy chương của Giáo Hoàng và phát một lời nguyện là từ rày về sau em sẽ hết lòng lo cho trẻ em Việt Nam. May mắn cho tôi và cho Pierre, tháng đó Pierre đúng 18 tuổi và chính phủ Giscard D’Estaing mới lên, Tổng Thống Pháp ra quyết định hạ tuổi thành niên xuống 18 thay vì 21 như xưa. Thế là hai chị em tôi thoát nạn, ba của Pierre không kiện tôi được. Đúng 18 tuổi Pierre quyết định đứng ra thành lập một hội chính thức lo cho Trẻ Em Việt Nam, khai báo với chính quyền Pháp hẳn hoi. Thế là Comité Pour Les Enfants du Việt Nam ra đời, có trương mục ở ngân hàng đàng hoàng và Pierre bắt đầu gõ cửa từng tờ báo xin đăng tin miễn phí! Chú Pierre này có phước nên xin gì cũng được. Ban đầu là tờ báo rơi Télérama (hồi này nhỏ lắm), chỉ đăng lời kêu gọi của Pierre một lần, thế mà chúng tôi nhận được 200 bức thư xin bảo trợ trẻ mồ côi Việt Nam, mỗi thư xin đơn và hình một em bé mồ côi. Thế rồi báo này kéo báo khác, dần dần Hội của Pierre bảo trợ đến 3.000 em. Lúc đó Neige Achiary là bạn cũ của Pierre từ Maroc sang Pháp cũng xin tới ở làm việc chung với Pierre và tôi ở Phái Đoàn. Neige cũng làm việc hết lòng, dịch xong ra tiếng Pháp quyển Phép Lạ của sự tỉnh thức từ bản tiếng Anh mà Mobi Warren đã dịch từ Việt ra. Sau này Pierre cưới Neige và hai người dọn ra riêng, đặt trụ sở Hội về Compiègne nhưng vẫn thường xuyên đến với Phái Đoàn. Hội của Pierre sau 1975 đổi thành Partage avec les Enfants du Tiers Monde và sau này lại đổi tên thêm lần nữa là Partage. Năm 1992 Hội Partage có rất đông người ủng hộ và tiền thu hằng năm lên đến 62 triệu quan. Tôi nghĩ đó là nhờ tài khéo tổ chức của Pierre vì hưởng được cái tài giỏi của cha và tình thương người của người mẹ Công giáo. Hội này chỉ giúp Việt Nam một phần nhỏ. Lúc sau này, khi tôi ngưng giúp Việt Nam, Pierre trang trải tình thương ra hơn mười nước nghèo đói khác. Vì Hội có nhiều tiền quá nên kẻ tham tiền và tham quyền chen vào. Tôi cố gắng giúp Pierre nhưng không được nên Pierre đành rút lui, giao hội lại cho nhóm người rất dữ dằn vì tham quyền tham danh.

        Alfred Hassler và Hội Fellowship of Reconciliation (viết tắt FOR)

        Hội FOR là một Hội do các đạo hữu Ky Tô thành lập năm 1914 từ thế chiến thứ nhất và tiếp tục tranh đấu cho Hòa Bình qua thế chiến thứ hai 1945. Khi đó Hội có chi nhánh trên 31 nước và nhánh nào cũng chỉ gồm tín hữu Ky Tô. Nhưng từ khi gặp Thầy, ông Alfred Hassler, Tổng Thư Ký FOR Hoa Kỳ và là chủ tịch của FOR thế giới, thương quý Thầy, thương Việt Nam và thương đạo Bụt lắm nên ông mời Thầy làm Phó Chủ Tịch FOR Hoa Kỳ cùng với Mục Sư Martin Luther King Jr. Ông tổ chức thêm một chi lấy tên là Buddhist Peace Fellowship (BPF) – Phật tử thân hữu tranh đấu cho hòa bình – để người Phật Tử có chỗ đứng trong Hội FOR và nhờ đó mà có thêm đồng minh tranh đấu cho hòa bình.

        Nhờ FOR bảo trợ những chuyến du thuyết kêu gọi hòa bình cho Việt Nam mà Thầy chúng tôi đã gióng lên được tiếng kêu của người dân chạy dưới đạn bom, những người không quen biết ai bên này và không thể nhờ cậy những phe thân với các chính phủ lâm chiến nói giúp để thế giới hiểu cho thảm trạng của họ. Thầy mong làm được một việc quá khó, tưởng như không thể nếu ở Việt Nam, đó là: hồi giữa năm 1966, Thầy đang ở trên đất nước Hoa Kỳ mà muốn chống đối chính sách chủ chiến của chính phủ Hoa Kỳ. Nhưng sang đây, nhờ thể chế thật tình dân chủ của đất nước này mà ai cũng có quyền lập hội. Nhìn danh sách các hội viên hay vị chủ tịch, các vị đồng phó chủ tịch hội FOR trong các nước, Thầy đã biết đây là một hội đoàn có đạo đức và tin tưởng được. Thầy mới tới xứ lạ quê người nên muốn nhờ một tổ chức có tiếng là liêm khiết đã từng tranh đấu cho hòa bình qua hai cuộc thế chiến.

        Ngược lại, nhờ bảo trợ những chuyến du thuyết kêu gọi hòa bình cho Việt Nam của Thầy và chúng tôi mà Hội FOR được kính nể và càng ngày càng đông thành viên. Đó là vì người đến nghe thầy Nhất Hạnh diễn thuyết, mến mộ Thầy và trở nên thành viên FOR.

        Hội thì vì thương Thầy và thương lý tưởng của Thầy nên có thêm hội viên, còn Thầy thì từ là một ông thầy tu Việt Nam chưa quen biết ai, nay bỗng nhiên có cả một cơ cấu nhân sự ở mỗi thành phố đứng ra lo cho mình. Họ viết tiểu sử Thầy, yêu cầu hội viên đóng góp tài chính để tổ chức một cuộc du thuyết cho Thầy đi từng tiểu bang Hoa Kỳ, gặp những nhân vật có đạo đức được kính nể ở mỗi tiểu bang đó hay trên toàn lãnh thổ Hoa Kỳ. Khi gặp được Thầy thì ai cũng thương Thầy và phục đạo Phật nên số người ghi tên vào Hội FOR và mua nguyệt san tăng gấp 3 rồi gấp 5 lần. Ngày chưa có thầy Nhất Hạnh làm Phó Chủ Tịch, Hội FOR Hoa Kỳ chỉ có khoảng 3.000 hội viên. Sau chuyến du thuyết đầu của Thầy, FOR Hoa Kỳ đã có trên 20.000 hội viên rồi 30.000 hội viên. Chi nhánh FOR tại các nước như Pháp, Anh, Hà Lan, Tây Đức dù cũng có những nhân vật cao đức được người dân trong nước kính nể nhưng có lẽ do sự tổ chức yếu hơn nên số hội viên chỉ vài ngàn người thôi. Nhưng sau khi Thầy đi kêu gọi hòa bình ở các nước Anh, Đức, Na U, Đan Mạch, Thụy Điển và Hà Lan thì Hội lớn nhanh như thổi. Có khi một vị linh mục ngồi dưới thính đường nghe Thầy mà nước mắt lưng tròng, sau đó ông rụt rè chia sẻ ông đi theo nhà dòng 25 năm mà không ai dạy ông cái nhìn sâu sắc về chúa Ky Tô như Thầy dạy. Thầy dùng cái nhìn chánh niệm để chia sẻ cái thấy của Thầy khi người tin Chúa sắp rước mình bánh thánh: người rước bánh thánh nên đem tâm về với thân, tâm thân thanh tịnh, bạn mở miệng ra đón nhận tặng phẩm của đất trời và công phu lao tác như rước Thượng Đế – nền tảng của sự sống – vào người. Ý của Ky Tô là muốn bạn sống cho sâu sắc phút giây hiện tại. Lịch sử của chuyện rước bánh thánh là trong buổi ăn chiều cuối cùng của Ky Tô với 12 người tông đồ, ngài nhận thấy các bạn ấy chỉ ăn uống trò chuyện rất hời hợt, không trân quý phút giây quý báu bên nhau. Chúa Ky Tô mới bẻ bánh mì và nói: Đây là da thịt ta đó, tỉnh dậy và ăn đi, để có sự sống đời đời! Ngài đưa ly rượu vang ngài đang cầm trong tay lên, đánh thức 12 tông đồ bằng câu: Đây là máu ta, mấy người hãy tỉnh dậy, uống đi cho sâu sắc để ta có bên nhau đời đời. Theo Thiền Sư thì đây là để đánh thức các đệ tử sống trong quên lãng trở về phút giây hiện tại đang được ngồi chơi vài giờ với Chúa Ky Tô. Các vị đệ tử Chúa Ky Tô nghe thế thì thương và phục Thầy quá đi, mà Alfred Hassler là số một. Những gì Thầy đề nghị ông đều làm theo rất trung kiên và thương quý. Thầy bảo ông đi Việt Nam gặp thầy Trí Quang để xin lời dạy bảo. Ông đến Việt Nam vào tháng 7 năm 1966. Vào lúc đó, Thượng Tọa Trí Quang vừa chấm dứt 100 ngày tuyệt thực sau khi thấy Hoa Kỳ chỉ ủng hộ ông Nguyễn Cao Kỳ đem xe tăng xuống đường bắt Phật tử Huế và Đà Nẵng. Thầy Trí Quang rất ghét Mỹ, không tiếp bất cứ ký giả Hoa Kỳ nào. Tôi đưa ông vào gặp Thượng Tọa ở chùa Ấn Quang. Thầy Trí Quang gặp tôi nhưng từ chối “tau không gặp bọn Mỹ phản phúc” nên không tiếp Alfred. Alfred tự ý biên một tờ giấy nhét vào khe cửa của thầy Trí Quang trong đó ông tuyên bố: “Thưa thầy, người Mỹ có người phản phúc nhưng có người trung kiên, có người đủ liêm khiết và muốn tôn trọng tự do dân chủ của nước mình và các nước Hoa Kỳ giúp, thực hiện đúng kỳ vọng mà tổ tiên lập quốc chúng tôi đã phát nguyện là quyết chí làm hướng đi cho nhân loại, giúp nhân dân Việt Nam phục hồi tự do và dân chủ. Tôi là loại người Mỹ thứ hai. Thầy mà không tiếp tôi, tôi xin phép ngồi thiền và tuyệt thực cho tới khi thầy hiểu được và tiếp để tôi thưa chuyện thì tôi mới về.” Thế là Alfred ngồi thiền thật, trước cửa phòng thầy Trí Quang ở chùa Ấn Quang. Gần hai giờ sau thầy ngủ trưa dậy, mở cửa ra, thấy ông vẫn ngồi thiền tại đó nên cười thật tươi, mời vào. Sau chuyến đi Việt Nam được thăm thầy Trí Quang, Alfred Hassler rất lên tinh thần và xin tôi cho tên 300 vị thầy tu đang tuyệt thực ở khám Chí Hòa vì bị bắt lính và thuyết phục Heidi Vacarro, chi nhánh Ý Đại Lợi của FOR đi mời 300 vị linh mục Công Giáo chịu đi diễn hành một ngày chủ nhật, mỗi vị mang tên một tu sĩ PGVN để thiền hành im lặng qua các đường phố Rome. Báo chí Ý Đại Lợi đăng hình và tin rất hồ hởi và tiếng nói của Phái Đoàn được thế giới chú ý nhiều thêm.

        Alfred Hassler và Ủy Ban Lương Tâm Quốc Tế về Việt Nam và chương trình Đại Đồng Thế Giới – Great Togetherness

        Như đã nói, Alfred Hassler là người bạn Hoa Kỳ trung kiên nhất, hết lòng ủng hộ phong trào kêu gọi Hòa Bình Việt Nam trong tinh thần bất bạo động do Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất chủ xướng mà người đại diện ở hải ngoại là thầy Nhất Hạnh. Sau khi nghe thầy Nhất Hạnh nói chuyện lần đầu ở Đại Học Cornell, ông như tìm ra viên ngọc quý. Ông làm mọi cách để đưa Thầy đi gặp các nhà đạo đức lớn như Mục Sư Martin Luther King Jr., Thomas Merton, Arthur Miller… để Thầy thuyết phục các vị lãnh đạo nhân quyền này chịu dấn thân cho Việt Nam. Trước khi gặp thầy Nhất Hạnh, Mục Sư Martin Luther King chỉ đấu tranh cho quyền công dân của người da màu bị da trắng kỳ thị nặng. Nhiều cố vấn trong phong trào tranh đấu cho dân quyền Hoa Kỳ đã khuyên ngài không nên đụng tới chuyện chiến tranh Việt Nam vì nếu Mục Sư nói đụng tới những điều mà ngài không nắm vững về tình hình Việt Nam thì có thể làm cho cuộc tranh đấu của ngài cho dân quyền tại Hoa Kỳ bị mất nhiều người ủng hộ. Nhưng sau khi gặp thầy Nhất Hạnh chỉ trong vòng một giờ, ngài đã rất cảm mến, có niềm tin lớn nơi Thầy và quyết định họp báo lên tiếng ủng hộ Lời kêu gọi ngưng chiến tại Việt Nam do thầy Nhất Hạnh đề xướng qua năm điểm đề nghị.

        Alfred đã rất hứng thú khi nghe thầy Nhất Hạnh quyết định cô đọng ngay những gì Thầy diễn tả về chiến tranh Việt Nam thành một cuốn sách rõ ràng vì người đến nghe Thầy thuyết giảng chỉ bằng một phần ngàn số lượng độc giả có thể đọc sách và hiểu tình hình hơn. Nhờ thế Thầy đã viết ngay cuốn Hoa Sen Trong Biển Lửa. Alfred liền tìm ngay một nhà xuất bản lớn của Hoa Kỳ – nhà Hill &Wang thuộc hệ xuất bản lớn Doubleday – để in cuốn này và họ đã phổ biến 40.000 cuốn chỉ trong vòng mấy tháng. Nhiều nhà nhân bản, nhiều chính khách, nhiều chính trị gia đánh giá cuốn sách rất có giá trị lịch sử, khoa học mà lại giúp họ thấy chiều sâu của một đạo Phật mà xưa nay họ hiểu rất hời hợt, thật là cuốn sách giá trị nhất mà họ đọc được trong chiến tranh Việt Nam, giá trị về cả phương diện lịch sử tôn giáo đến văn hóa Việt Nam và cả đến tình người. Alfred cũng là người quan trọng giúp Thầy đi du thuyết cùng khắp nước Mỹ và nhờ hội FOR trong 46 nước tổ chức cho Thầy đi nói chuyện với các nhà nhân bản tại các nước này để ảnh hưởng tới cuộc ngưng chiến tại Việt Nam. Alfred đã viết cuốn Saigon USA và thành lập Ủy Ban Lương Tâm Quốc Tế về Việt Nam – International Committee of Conscience on Vietnam (ICCV) để kêu gọi 10.000 nhà nhân bản trên thế giới ký thư kêu gọi ngưng chiến tại Việt Nam và 10.000 tên tuổi này đã được đăng trên báo New York Times và nhiều nhật báo quan trọng của các nước như International Herald Tribune, Le Monde (Pháp), Trouw (Hà Lan), Tribune de Geneve (Thụy Sĩ), v.v… Đa số công việc của Ủy Ban này là: chi nhánh các nước đi vận động các nhà nhân bản địa phương đứng ra kêu gọi chính phủ và dân nước họ nghỉ chơi với các nước dính líu đến chiến tranh Việt Nam.

        Alfred cũng hiểu sâu sắc những ưu tư của Thầy và cùng Thầy tìm cách khuyến thỉnh mọi người lưu ý che chở trái đất, kêu gọi các nước trên toàn cầu giảm lãng phí tài nguyên địa cầu như điện, dầu hỏa, giảm đốn rừng để lấy đất chăn nuôi…

        Affred Hassler và chương trình Đại Đồng Thế Giới

        Để bắt đầu thực hiện chương trình cứu trái đất của Thầy, Alfred Hassler đã khéo léo thực hiện đề nghị của Thầy là mời được sáu khoa học gia có tiếng tăm trên thế giới họp buổi họp đầu để nghe thầy Nhất Hạnh trình bày ý tưởng đại đồng, để mọi người thấy chúng ta chỉ có một quả địa cầu làm ngôi nhà chung cho toàn thể nhân loại, cho toàn thể mọi loài sinh vật, cỏ cây và đất đá thôi. Thầy đề nghị những nhà khoa học có tên tuổi này tìm cách kêu gọi để các nước đừng vì cái lợi cục bộ, chỉ vì muốn phát triển để làm lợi cho riêng cơ sở cá nhân mình hay cho riêng đất nước mình mà không đếm xỉa gì đến việc tôn trọng sinh thái của núi, của rừng, của biển, của sự hài hòa giữa các loài, quên đi đường dài khổ đau của đất mẹ thì toàn thế giới sẽ lâm nguy. Lúc này là năm 1970, Liên Hiệp Quốc chưa hề có buổi họp nào về tôn trọng sinh môi. Buổi họp đầu tiên là tại căn phòng nhỏ xíu, chỗ Thầy cư ngụ với hai chú Thanh Hương và Chơn Hòa tại số 88 Avenue Gambetta, ở Maisons Alfort ngoại ô Paris, gồm có Thầy, Alfred Hassler, thư ký của Alfred là Dorothy Murphy, Ethelwyn Best và tôi. Thầy chia sẻ ưu tư của Thầy và đề nghị thành lập ngay chương trình Đại Đồng Thế Giới dịch là The Great Togetherness. Alfred đồng ý ngay và năm người đã đồng ý nhờ họa sĩ trình bày biểu tượng của Đại Đồng Thế Giới (xem kèm hình Đại Đồng) là hình năm em nhỏ đại diện cho năm Châu của địa cầu cùng nắm tay nhau bao quanh trái đất. Lần thứ hai là buổi họp với sáu khoa học gia nổi tiếng tại Menton gần thành phố Nice miền đông nam nước Pháp. Tiến sĩ Pierre Lépine, khoa trưởng Viện Pasteur Paris và là tác giả nhiều chương trình khảo cứu về vi trùng học đã được những người trong buổi họp đề nghị thảo ngay bản kêu gọi toàn thế giới lắng nghe tiếng gọi của địa cầu vì Pierre Lepine rất sâu sắc và phát biểu nhiều tư tưởng độc đáo. Chúng tôi cũng quyết định gửi bản tuyên ngôn kêu gọi này đi các nước để mời những khoa học gia lỗi lạc của từng nước cùng ký tên. Bản tuyên ngôn này có tên là Menton Statement, the Calling for help from the Mother Earth.

        Năm 1971, bản Tuyên Ngôn từ Menton – lời kêu cứu của địa cầu do Đại Đồng Thế Giới đề xướng cùng với chữ ký của hơn năm nghìn khoa học gia các nước Anh, Hoa Kỳ, Pháp, Đức, Hà Lan, Thụy Sĩ, Đan Mạch, Na Uy và Thụy Điển được đăng trên các tờ báo lớn như đã kể trên đã đánh động những người có cùng ưu tư trên thế giới. Vì vậy nên ngay sau đó Liên Hiệp Quốc đã quyết định có buổi họp mặt Liên Hiệp Quốc đầu tiên về bảo vệ địa cầu tại Stockholm vào tháng 6 năm 1972.

        Các khoa học gia cho Thầy biết là họ rất ngại rằng Liên Hiệp Quốc, xưa nay vốn hay bị áp lực của các nước lớn, sẽ họp bàn lấy lệ chứ cuối cùng có thể sẽ không chịu ghi rõ ra những điều mà các nhà bảo vệ sinh môi thật tình lên án các nước lớn đã vì quyền lợi riêng tư mà tàn phá trái đất. Biết trước thế nên vào tháng 6 năm 1972, nhóm Đại Đồng Thế Giới quyết định mở ngay một đại hội lo cho địa cầu, cũng họp mặt tại Stockholm cùng thời gian đó, cũng mời các khoa học gia bảo vệ sinh môi nổi tiếng và thuộc giới tiến bộ, đồng thời cũng mời luôn các khoa học gia bảo vệ địa cầu được Liên Hiệp Quốc mời mà dám thẳng thắn lên tiếng. Hơn phân nửa các nhà bảo vệ sinh môi vừa đi họp bên LHQ vừa đi họp bên Đại Đồng Thế Giới. Những vị này quyết định nếu tiếng nói của họ không được tôn trọng trong đại hội của LHQ, nếu LHQ không nói rõ, không nêu tên thẳng những nước lớn đang vì những hành động như phát triển kỹ nghệ chăn nuôi, sản xuất nhiều thịt bò heo gà… mà phá rừng, tàn phá trái đất thì đại hội bên Đại Đồng sẽ nói.

        Nhưng niềm vui của Thầy và chúng tôi khi tham dự đại hội Stockholm này bị gián đoạn khi hay tin thầy Thanh Văn, Giám Đốc điều hành trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội ở Việt Nam vừa viên tịch vì bị một binh sĩ Hoa Kỳ say rượu lái xe đụng chết. Chưa bao giờ tôi thấy Thầy khổ đau như chiều hôm ấy khi cầm tấm điện báo trong tay và gọi tôi đến cùng đọc lại điện thư. Thầy Thanh Văn không chỉ là người học trò yêu quý, xứng đáng, can đảm băng qua bom đạn để thương thuyết hầu che chở cứu mười một nghìn đồng bào mà còn là người đang lãnh đạo phong trào Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội, đại diện cho thế hệ trẻ đang đương đầu với bom đạn để đem tình thương đến cho đồng bào bất hạnh chạy dưới lửa đạn. Dẫu biết rằng con chim đầu đàn ngã thì đàn chim vẫn tiếp tục cuộc hành trình, dẫu biết rằng thầy Thanh Văn sẽ xuất hiện trong hàng trăm người trẻ Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội khác dù thầy Thanh Văn vì thiếu nhân duyên mà bắt buộc bị ẩn tàng hôm nay… nhưng thầy Nhất Hạnh lúc ấy vẫn là một người đang tập sự quán chiếu về sinh tử nên Thầy vẫn xanh xao im lặng luôn mấy tuần. Bây giờ thì Thầy hiểu hơn, Thầy nói cộng nghiệp của toàn dân Việt Nam còn nặng quá, không đủ lành để che chở một người trẻ xứng đáng như thầy Thanh Văn thoát khỏi cánh tay say rượu của người lính Hoa Kỳ.

        Nhắc đến Alfred Hassler, chúng tôi nhớ một câu chuyện vui mà Alfred và Thầy vẫn nhắc lại và cười thích thú với nhau. Số là hôm ấy để giúp cho chương trình Đại Đồng Thế Giới có chút ít tiền cho ban tổ chức có thể đi tới nhiều nước vận động những người có tiếng tăm để họ kêu gọi thế giới chú tâm che chở địa cầu, Alfred đã lấy được cái hẹn với nhà tỷ phú Chester Carlson, người sáng chế ra máy Xerox photocopy và hứa hẹn có thể tặng một triệu dollars cho một chương trình lớn của Đại Đồng Thế Giới dạy về sự tương tức, hầu thể hiện lòng từ lớn. Alfred tin là với tuệ giác của Thầy, Thầy sẽ cảm hóa vợ chồng nhà tỷ phú này và bà vợ ông Chester Carlson sẽ tặng một triệu dollars cho chương trình. Bà tỷ phú hỏi Thầy một câu về tái sinh và chắc mẩm Thầy sẽ xác nhận cái thấy của bà về chuyện đầu thai kiếp sau sẽ tiếp tục làm nhà tỷ phú. Mục đích của Thầy là dạy đạo nên không “ngoại giao” xác nhận bà sẽ sinh ra làm người giàu như kiếp này mà chỉ dùng một công án thiền để hỏi vặn lại bà, hầu giúp bà thức tỉnh về cái thấy nhị nguyên rất cạn ấy: “Này bà, nếu đạo Bụt dạy vô ngã thì “ai” sẽ tái sinh? Ai sẽ đầu thai đây? Bà nên tập nhìn sâu hơn về giáo lý vô ngã và sự tái sinh, bà sẽ khám phá ra nhiều điều kỳ diệu lắm. Đạo Phật không đơn giản như vậy đâu”. Bà tỷ phú ngạc nhiên nhưng chắc không tỉnh dậy bởi công án ấy nên chương trình Đại Đồng Thế Giới cứu địa cầu mất dịp có được một triệu mỹ kim của bà tỷ phú Phật tử. Thầy và Alfred thỉnh thoảng nhắc lại để cười thích thú về tư cách của thiền sư đối với tài chính!

        Laura Hassler and Jim Forest

        Con gái của Alfred là Laura Hassler xinh đẹp và quý phái. Tóc em vàng và đôi mắt thật xanh, tâm hồn đôn hậu và tiến bộ. Laura đã đến làm việc thiện nguyện với Phái Đoàn Hòa Bình của GHPGVNTN từ đầu năm 1971 khi cô 24 tuổi. Em như một con chim tươi mát, cùng làm việc với chúng tôi từ 8h sáng đến khi ăn chiều lúc 20h. Cơm nước xong Thầy không cho làm việc nữa, anh chị em chúng tôi ngồi quây quần bên Thầy nói chuyện văn hóa Việt Nam, văn hóa Hoa Kỳ và Laura dạy cho chúng tôi các bài dân ca Hoa Kỳ. Jim Forest, một thanh niên Hoa Kỳ, là ký giả khá nổi tiếng và là nhân viên trong phong trào tranh đấu cho Hòa Bình FOR cùng làm việc với Alfred Hassler, cha của Laura. Các em dạy tôi rất nhiều dân ca Hoa Kỳ và hay thuật những mẩu chuyện nhỏ trong đời các sinh viên Hoa Kỳ cho tôi nghe. Các em Laura, Jim và Raphael Ruiz, Marie Emmeny… quả thật là những thiên thần sẵn sàng có mặt, sẵn sàng lắng nghe khi thầy trò chúng tôi nhận được những tin đau buồn từ trong nước hay từ các bạn ngoại quốc hiểu lầm đường lối của Giáo Hội, tin về quần chúng đang chạy dưới bom đạn ở Việt Nam. Chỉ cần nhìn vào đôi mắt tha thiết lắng nghe của Jim và Laura là thầy trò chúng tôi sẵn sàng mở lòng ra chia sẻ hết những khó khăn, những uẩn khúc, mặc cảm của từng hoàn cảnh. Tối tối Thầy thường dạy Laura, Jim, Pierre, Neige, Raphael, Marie Emmeny và cả chính những người Việt như tôi, chú Thanh Hương, Bùi Thị Hương, anh Sáu Cao Thái, Trung, Hằng, Liêm, Tuyết, Thoa và Lợi nhiều về văn hóa và phong tục Việt. Jim và Laura đã lắng nghe, đã hiểu và đã viết bài rất khéo để chuyển tải những uẩn khúc ấy cho độc giả của họ. Jim Forest vốn là chủ bút tờ bán nguyệt san Fellowship của FOR và hay viết nhiều bài đăng ở các tờ báo của các nhóm tranh đấu hòa bình. Nhân được Thầy dạy về câu ca dao Việt Nam “chỉ có cơm thương mình thôi”, anh đã viết một tiểu luận in thành cuốn sách nhỏ “Only the Rice loves you” rất dễ thương. Sau đó nhà xuất bản Hòa Bình Press của anh đã in cuốn sách mỏng Nẻo Về Tiếp Nối Đường Đi của Thầy, cuốn sách viết về tuệ giác của Thầy về cái chết và sự “tái sinh” của chị Nhất Chi Mai và của bốn Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội Hy, Tuấn, Thơ, Lành bị ám sát bên bờ sông Bình Phước khi đi công tác ở đó.

        Jim đưa Linh Mục Daniel Berrigan đến Văn Phòng Phái Đoàn Hòa Bình, Cha đã xin ở lại luôn một tháng để cùng Thầy viết cuốn sách “The Raft is not the shore” (Chiếc bè không phải là bờ bên kia) ghi lại cuộc đối thoại của Thầy và cha Berrigan về những tương đồng giữa đạo Bụt và đạo Chúa. Trong những tháng chót của cuộc hòa đàm cho Việt Nam tại Paris, các bên lâm chiến tranh đấu rất ráo riết, bên chính quyền Hà Nội và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam sẵn sàng chụp mũ rằng Giáo Hội Phật Giáo Thống Nhất trụ sở ở Chùa Ấn Quang là hủ hóa, đã bị tình báo Hoa Kỳ mua, rằng Phái Đoàn Hòa Bình của Giáo Hội là thân phe chủ chiến. Vì thế sau khi nghe giải thích cặn kẽ, Laura và Jim thay nhau viết những bài rất sâu sắc để nói lên chỗ đứng văn hóa và tinh thần của Phật Giáo Việt Nam. Văn phong của Jim rất nhẹ nhàng có khi khá hài hước. Ví dụ như sau 1975, chúng tôi được tin hàng trăm ngàn sĩ quan quân đội Việt Nam Cộng Hòa bị đi tù, bị “học tập cải tạo” rất vất vả và khốn đốn, thế nhưng các nhóm Hoa Kỳ thân với chính quyền Hà Nội xưa nay như anh Doug Hostetter nói và viết nhiều bài rằng: “Ở Việt Nam không có nhà tù nào cả. Sau khi Việt Nam được giải phóng, ở nước này chỉ có Trường học để huấn luyện cải tạo lại những người có tư tưởng lệch lạc thôi”. Nghe vậy Jim đã trả lời: “Tôi vốn là người bình dân, không ưa dùng những từ ngữ hoa mỹ để che dấu một sự thật phũ phàng. Khi các ông cai ngục cầm súng dí vào mặt người ta, bắt buộc người ta làm việc quần quật, cho ăn rất ít gần như bỏ đói, đánh đập khi không nghe lời, và dí súng vào lưng dọa bắn nếu bất tuân, thì tôi, Jim Forest, cho đó là bị ở tù, không phải trường học, không có học hành gì hết.”

        Khi phong trào hòa bình rất lớn, có số theo Phái Đoàn Phật Giáo, theo Thầy nhưng cũng có một số kêu gọi hòa bình lâu quá mà chưa thấy kết quả gì thì nản lòng nghĩ rằng bất bạo động như Thầy quá lý tưởng, thôi thì ủng hộ chính quyền Hà Nội để cho quân đội Hoa Kỳ thua càng sớm càng tốt, để chính phủ Hoa Kỳ học một bài học. Họ chỉ muốn Việt Nam Cộng Hòa và quân đội Hoa Kỳ thua trận cho thật đậm, thật đau thôi, không có kêu gọi ngưng chiến và rút quân theo lịch trình xếp đặt trước (cease-fire and withdrawal of American troops according to the calendar) như Thầy đề nghị.

        Tóm lại, phía bên Hoa Kỳ Jim và Laura là những chiến sĩ hòa bình giỏi nhất. Chính họ đem vô số hội đoàn, những nhà nhân bản lớn đến để được Thầy khai thị về tình hình Việt Nam.

        Hòa Ước được ký tháng 3 năm 1973

        Ngày hay tin Hòa Ước về Việt Nam vừa được ký tại Paris, thầy Nhất Hạnh đang ở Bangkok để gặp quý tôn đức từ Việt Nam sang là Hòa Thượng Thích Thiện Minh và Thích Huyền Quang để bàn hướng đi tiếp tục. Laura mang đến cho tôi một bó hoa thật to và ôm chầm lấy tôi, mắt hai chị em đẫm đầy lệ. Hai chị em quyết định đi tới đường Kléber ở Paris 16, chỗ hòa đàm, để tặng hoa cho bốn phái đoàn. Nhưng đến nơi phố phường đông nghẹt, chúng tôi đành ra về và tôi nhân danh Phái Đoàn Hòa Bình của GHPGVNTN viết cho bốn phái đoàn: Việt Nam Cộng Hòa (Sài Gòn), Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Hà Nội), Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và Hoa Kỳ lời tri ơn đã ký Hòa Ước chấm dứt chiến tranh. Từ Bangkok, Thầy đứng tại bưu điện sáng tác một bài thơ trên giấy vàng bạc rất mỹ thuật. Bài thơ Bé đã sinh ra rồi. Bé đây là bé hòa bình vừa sơ sinh:

        Bé đã sinh ra rồi,

        Chân trời xôn xao dâng ánh sáng

        Hoa cỏ ơi sống dậy

        Núi rừng ơi sống dậy

        Thật đã qua rồi

        Đêm tối hãi hùng

        Ánh sáng dồn trên cánh bướm mong manh

        Hoa cải rực vàng trên lối cũ

        Cành mai ấy (tưởng nhớ chị Nhất Chi Mai, người đã cúng dường tuổi trẻ và sự sống cho hòa bình)

        Ngày tôi về trước ngõ

        Có rưng rưng giọt ngọc nhìn tôi cười.

        Đất tái sinh cho sắc hương đoàn tụ

        Cho nước non này lại thành cẩm tú

        Hãy cho hết hai bàn tay anh

        Cơ hội muôn thuở một lần

        Níu sự sống trên vành nôi ươm biếc.

        Laura và Jim yêu nhau, đến khi Hòa Ước về Việt Nam ký xong năm 1973 cô bay về Hoa Kỳ làm đám cưới với Jim. Sau vài tuần Laura đã tìm được người thay cho cô làm thư ký. Đó là một cô sinh viên người Texas mới 20 tuổi, ưa hát mà cũng sẵn sàng học tiếng Việt và giúp văn phòng Phái Đoàn, em tên là Mobi.

        Văn Phòng mới ở Sceaux

        Tháng 3 năm l973, chúng tôi dọn văn phòng về Sceaux, trả lại ba cái studios ở Maisons Alfort. Sceaux cũng là vùng ngoại ô Paris nhưng Tây Nam thay vì Đông Nam như Maisons Alfort, nơi Thầy, sư chú Thanh Hương, sư chú Chơn Hòa, Ethelwyn Best, Laura Hassler và tôi sống và làm việc. Sau khi dọn về Sceaux thì Chơn Hòa ra đời và có gia đình, chúng tôi có thêm Bùi Thị Hương, Mobi Warren, Pierre Marchand, Neige Achiary và những người thường xuyên tới ở cả ngày nhưng không ngủ lại là Charles, Trần Thị Hằng, Thái Quang Trung, Nguyễn Văn Liêm, Trần Thị Tuyết, Nguyễn Thị Nguyệt,… Những ngày được ở chung cùng Thầy và tất cả Phái Đoàn vui lắm. Căn hộ chỉ có ba phòng, một WC, một gian bếp nhỏ xíu 1,50X3mét và một phòng tắm có bồn tắm và lavabo. Thầy bỏ cái máy roneo in tài liệu cho Phái Đoàn vào phòng tắm này, thế là phòng tắm trở thành nhà in sách tài liệu. Thầy ở phòng sau cùng bên kia “nhà in” với ba hàng kệ ba phía tường chất đầy những hồ sơ tài liệu, sách đi dạy của Thầy và những thư từ riêng của Giáo Hội gửi qua về với Thầy. Phòng khách vừa làm chỗ thờ Phật, ngồi thiền, tiếp khách, sinh viên tới làm việc thiện nguyện chung, ăn điểm tâm, ăn trưa ăn chiều chung. Khi mọi việc đều xong, các sinh viên về hết thì phòng này là chỗ ngủ của chú Thanh Hương và Pierre Marchand. Phòng kế bên vừa là văn phòng của tôi vừa là phòng ngủ của bốn hay năm cô gái là tôi, Mobi, Neige, Hương và có khi thêm Hằng. Vách phòng tôi kệ đóng từng hàng từng hàng từ dưới đất cao lên tận trần nhà, chứa hồ sơ cô nhi chiến tranh Việt Nam gồm: hồ sơ mới nhận được, hồ sơ mới dịch ra tiếng Pháp và Anh, hồ sơ đã có người bảo trợ. Mobi Warren đánh máy những thư của Thầy hay của tôi cho các hội đoàn. Phòng này cũng là chỗ Hương, tôi và Neige Achiary ngồi dịch hồ sơ cô nhi. Tối đến thì dẹp giấy tờ lên kệ, chúng tôi kéo túi ngủ ra làm giường và mền ngủ cho bốn chị em gái. Sau khi ngồi thiền sáng, thầy trò ngồi uống trà chung, Thầy hay chia sẻ một trong những bài thơ của Thầy với những ý nghĩa thâm sâu của bài đó. Sau buổi cơm chiều cũng thế. Thầy hay bảo Laura hát các bài dân ca Hoa Kỳ và dạy cho chúng tôi hát. Có khi Pierre hát bài hát em vừa đặt nhạc xong như bài thơ Dặn dò của Thầy mà chị Nhất Chi Mai đã đọc trước khi tự thiêu kêu gọi ngưng chiến. Khoảng 10h tối, chúng tôi ngồi thiền cùng với Thầy rồi im lặng xếp đồ đi ngủ.

        Văn phòng mới của tôi và 4 cư sĩ nữ

        Sau khi mọi người tắt đèn đi ngủ, tôi vào “nhà in”, tức là nhà tắm mà Thầy đã đặt máy in ronéo của Thầy, để làm việc tiếp: dịch hồ sơ cô nhi, viết dự án này gửi cho Thụy Điển, dự án kia gửi cho Third Way Vietnam, viết thư giải thích cho các bạn ở Việt Nam biết cách làm việc của mình, biết tiền mà mình có được không phải từ những cơ sở giàu có như Asia Foundation ngày xưa dụ mình để lái mình theo đường chính trị của họ, mà từ những gia đình khiêm tốn cũng không dư dả gì nhưng có nhiều tình thương. Họ gửi cho mình 25 Francs nhưng có được bức hình một cháu mất mẹ cha, để họ có thể dạy các con họ biết sống tử tế, biết chia sẻ, biết sống cho có đạo đức. Ban ngày tôi ngồi với Thầy và các bạn, người nào cũng dễ thương. Tôi có mặt, ý thức sự hiện diện của Thầy, ý thức sự có mặt của từng người bạn, ý thức tâm bồ đề của họ và nhờ họ làm chuyện này hay theo dõi cách họ làm chuyện kia, đâu có thời giờ cho một khung trời bình yên lắng đọng để mời các bạn ở Việt Nam tham dự con đường lý tưởng của tôi ở bên này. Tôi nhớ một câu thơ của Thầy tặng cho chị Helen người Mỹ, vợ một họa sĩ Việt Nam mà rất tận tụy lo cho bên chồng ở Việt Nam: Trời bên ấy sáng chưa? Để bên này tôi ngủ

        Xong, tôi đi ngủ vào khoảng 1 hay 2 giờ sáng và thức dậy ngồi thiền với mọi người lúc 6 giờ. Quá đủ cho một người đang lo cho đồng bào chạy dưới bom trong một đất nước như Việt Nam. Đôi khi thấy sống thanh bạch làm việc nhiều như vậy vẫn chưa xứng đáng nên tôi tự ý nhịn ăn ngày thứ Bảy để nhớ tới đồng bào đói khát chạy tránh bom. Ban đầu chỉ mình tôi nhịn âm thầm, không cho ai biết nhưng dần dần mọi người đều biết và sau đó Thầy cũng nhịn, rồi ba tuần sau các em khác cũng nhịn luôn. Thấy mọi người đói, nhất là Neige Achiary và Pierre Marchand, tội nghiệp quá nên Thầy khuyên tôi cùng để cả nhà nhịn bữa cơm chiều thứ Bảy thôi.

        Mobi Warren là một thiếu nữ hai mươi tuổi cực kỳ thông minh về ngôn ngữ. Em đến từ Texas và là con gái bác sĩ Warren. Em học tiếng Việt bằng cách dịch hồ sơ cô nhi, tập hát và học nghĩa từng chữ của từng bài hát Việt. Em bắt đầu dịch thử quyển Phép Lạ của Sự Tỉnh Thức sang tiếng Anh. Sách này là một bức thư thật dài Thầy viết cho anh Thiều, một tác viên xã hội để chỉ nhiều cách giữ chánh niệm khi làm việc. Sau khi Mobi dịch xong quyển sách này, Thầy phải sửa lại rất nhiều vì em hiểu sai, nhưng Thầy kiên nhẫn sửa. Thầy nói sửa như vầy có khi cực và mất thì giờ hơn là Thầy viết trực tiếp nhưng việc làm này rất cần thiết để khuyến khích em tiếp tục dịch quyển khác. Và cuốn sách thứ hai sẽ khá hơn cuốn thứ nhất. Quyển thứ hai là Tình Người với nhiều chuyện ngắn của Thầy viết dưới tên Tâm Quán. Quyển này dịch ra Anh ngữ lấy tựa đề “My Master’s Robe”

        Jim Forest vừa là nhà hoạt động xã hội social activist vừa là nhà văn nên khi tóm được quyển Miracle of being awake của Mobi dịch, anh mừng như bắt được của quý bèn đem nhuận văn lại và in ngay trong Hòa Bình Press của anh. Quyển này đúng là của quý cho những người quá bận rộn với nhiều trách nhiệm mà vẫn muốn giữ được sự bình an, bình tĩnh trong công việc. Vì vậy mà ngay sau khi tờ Fellowship magazine in một chương đầu và quảng cáo là ai cần mua nguyên quyển thì tới tòa soạn, nhiều vị mục sư, linh mục thành viên của FOR đọc và thích, muốn có ngay vài chục quyển tặng bạn, đã lái xe đến tận New York để mua sách. Nhận thấy nhà xuất bản Hòa Bình nhỏ quá không xứng với quyển sách quan trọng như vậy nên Jim Forest đã đem tới Beacon Press đề nghị họ mua bản quyền cuốn này. Nhà Beacon Press xin sửa tựa thành The Miracle of Mindfulness.

        Vào lúc ấy, năm 1968, Ủy Ban Nobel đã tặng cho ông Henri Kissinger và ông Lê Đức Thọ giải Nobel Hòa Bình vì bên Hoa Kỳ và chính quyền miền Bắc Việt Nam đang thương thuyết trên bàn Hội Nghị Hòa Đàm và họ nghĩ giải hòa bình đó sẽ giúp cho hai bên nhượng bộ nhau để Việt Nam sớm có hòa bình. Thấy thế, một buổi sáng mùa thu đẹp trời khi nhìn cây bạch dương óng ánh lá vàng Thầy bèn nói: “Các con có thấy cây bạch dương nhà mình tuyệt vời không? Mà Linh Mục Daniel Berrigan cũng tuyệt vời như cây bạch dương. Mình phải tặng cha Berrigan giải Hòa Bình Bạch Dương mới được!”

        Bên cửa sổ căn phòng mà Thầy nhường cho Cha Daniel có cây bạch dương rất đẹp. Mùa Xuân lá cây non màu xanh trong vắt khiến cho không gian bên dưới như nhuộm màu bích ngọc; mùa Hè cây xanh rờn, râm mát; mùa Thu lá cây ửng đỏ vàng óng ả và mùa Đông gan lì trụi lá, cang cường đón tuyết. Quý trọng nếp sống thanh bạch đẹp đẽ của cha Daniel Berrigan cho lý tưởng hòa bình – ngài và một số đệ tử của ngài làm một buổi lễ long trọng đem đốt mấy trăm thẻ trưng binh của một số binh sĩ Hoa Kỳ và sau đó bị bắt vào tù; ngài hiểu rất nhanh những thao thức chấm dứt chiến tranh của thầy Nhất Hạnh là ngưng chiến tức khắc và thương thuyết rút quân Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam ngay theo lịch trình hai bên đồng ý – nên Phái Đoàn Hòa Bình của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam chúng tôi quyết định tặng Linh Mục Daniel Berrigan giải Hòa Bình Bạch Dương. Buổi tặng huy chương có chiếu trải dưới cây bạch dương, có trà rất ngon do Thầy pha, có bánh ngọt, có Thầy đọc diễn văn và có Pierre Marchand, Hương, Thoa, Lợi, Mobi và tôi hát tặng cha. Sau đó cả nhóm đi thiền hành trong Công Viên Sceaux rất vui.

        Tôi đang thông dịch cho Thầy Huyền Quang và Thầy Thiện Minh tại Đại Hội Tôn Giáo và Hòa Bình Thế Giới họp tại Louvain, Vương Quốc Bỉ.

        Hòa Thượng Thích Thiện Minh và Hòa Thượng Thích Huyền Quang của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất

        Năm 1973, Hội Đồng Tôn Giáo Thế Giới họp tại Louvain, nước Bỉ mời hai Hòa Thượng lớn Thích Thiện Minh và Thích Huyền Quang của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất sang tham dự đại hội. Phái Đoàn Hòa Bình GHPGVNTN chỉ có chiếc xe Citroen hai ngựa Diane nhỏ xíu nên chú Thanh Hương, anh Cao Thái, Chơn Hòa và Bùi Thị Hương phải đi bằng xe của anh Cao Thái trước, còn Mobi và tôi chở Thầy đi đón hai vị Hòa Thượng tận phi trường Bruxelles và đưa hai vị vào dự đại hội tại Louvain. Thầy trò chúng tôi không có đồ đạc gì nhưng các vị trong Ủy Ban Kiến Thiết và Phát Triển của GHPGVNTN ở Việt Nam đã nhờ quý Hòa Thượng mang sang cả trăm ký lô hồ sơ cô nhi và vô số là dự án của Giáo Hội. Tôi ngồi đằng trước lái xe với Mobi. Đằng sau là Hòa Thượng Thiện Minh, Huyền Quang và thầy Nhất Hạnh. Quý thầy nhẹ xìu nhưng cái hòm xe phía sau chứa quá nhiều hồ sơ nạn nhân chiến cuộc nên chiếc xe Hquá tải, chịu không nổi đã rên siết kêu két…két…két. Chúng tôi phải dừng xe lại, khiêng bớt hồ sơ từ phía sau xe đưa ra trước, bỏ dưới ghế ngồi băng trước của hai chị em thì xe mới chịu ngưng kêu rên! Nhóm sinh viên Việt Nam ở Bỉ và nhóm nhạc sĩ, ca sĩ từ Pháp như ca sĩ Cao Thái, nhạc sĩ Trần Quang Hải và rất nhiều sinh viên Việt Nam được mời lên cùng trình diễn dân ca và giải thích về văn hóa Việt Nam cho đại hội trước khi quý Hòa Thượng trình bày lập trường Giáo Hội. Ai cũng trân quý Phái Đoàn Việt Nam. Khi Phái Đoàn các nước khác lên trình bày thì tôi thông dịch cho hai vị Hòa Thượng. Tôi không ngờ đó là lần chót tôi được hầu cận hai vị tôn đức kính yêu.

        Hòa thượng Thiện Minh thật là viên ngọc quý của ngôi nhà Phật Giáo Việt Nam. Người rất bình tĩnh và biết lắng nghe để biết lúc nào nói thì người ta nghe và lúc nào không nên nói. Vì thế trong cuộc tranh đấu chống chế độ độc tài Ngô Đình Diệm năm 1963, hai lần thương thuyết với ông Nguyễn Ngọc Thơ, phó thủ tướng chánh phủ này, Ủy Ban Liên Phái Phật Giáo lúc nào cũng nhờ thầy Thiện Minh hướng dẫn cuộc hòa đàm. Lần nào Hòa Thượng cũng đem thắng lợi về cho Ủy Ban Liên Phái Phật Giáo, nhưng ngay sau đó thì chính quyền Ngô Đình Diệm, qua miệng bà Ngô Đình Nhu, lại nuốt lời. Không biện luận được với thầy, những thế lực đen tối đã dùng nhiều cách xấu xa để ám hại tánh mạng thầy. Ba năm sau, vào năm 1966, có một cuộc tranh đấu của Phật giáo để đòi tự do bầu cử Quốc Hội Lập Hiến. Cuộc tranh đấu sắp thành công, quân đội Vùng Một Chiến Thuật sẵn sàng lật đổ chính phủ quân sự Nguyễn Cao Kỳ để tổ chức bầu cử Quốc Hội Lập Hiến, thì quý Hòa Thượng Trí Quang và Tâm Châu duyệt binh khuyên quân sĩ Phật tử nên dừng tranh đấu để chờ chính phủ thực thi lời hứa là sẽ tổ chức bầu cử quốc hội lập hiến và dĩ nhiên là mỗi tôn giáo, mỗi đảng phái đều có quyền công cử ứng cử viên của mình. Nhưng khi mọi người ngưng tranh đấu và ngày bầu cử quốc hội lập hiến sắp được ấn định thì bất thình lình giữa đêm, ông Nguyễn Cao Kỳ cho Công An Cảnh Sát đến bắt hết các ứng cử viên Phật tử có khả năng vào Quốc Hội và ngay sau đó ông vẫn ngang nhiên tuyên bố ngày bầu cử, lập danh sách ứng cử viên của ông. Khi nhận được tin sét đánh đó (các ứng cử viên Phật Giáo đều bị vào tù) thì quý Hòa Thượng và Thượng Tọa lãnh tụ ở Huế vô cùng bồi hồi bức xúc. Một mặt thì muốn tôn trọng tinh thần bất bạo động Bụt dạy, một mặt thì muốn ngăn chặn cuộc bạo động sắp xảy ra vì dân chúng uất ức đứng dậy biểu tình mà nhà nước thì ra lệnh cho xe tăng xuống cán chết dân biểu tình, nên quý ngài đã kêu gọi các Phật tử Thừa Thiên đem bàn thờ dựng giữa đường để ngăn đoàn xe tăng tiến vào đàn áp. Ngồi yên và nhìn sâu tôi thấy được tiếng kêu trầm thống phát xuất từ trái tim dân tộc của chư tôn đức. Không còn gì nữa để chống đỡ trước sự tráo trở đàn áp của chính quyền ngoài gia tài văn hóa linh thiêng nhất của dân tộc là chiếc bàn thờ. Quý ngài bảo Phật tử dọn bàn thờ ra giữa đường để chặn đoàn xe tăng ông Nguyễn Cao Kỳ cho tiến vào đàn áp dân biểu tình ở Huế (lúc đó nhạc sĩ Trịnh Công Sơn mới đặt bản nhạc “Ghế đá công viên, dời ra đường phố, người già co ro…”. Ghế đá đây là bàn thờ!) Và sự tranh đấu bằng trái tim dân tộc đó đã thành công, đoàn xe tăng ngừng lại không dám cán lên bàn thờ. Vài tuần sau cũng năm 1966, từ Sài Gòn, xe hơi chở Hòa Thượng Thiện Minh bị kẻ gian đặt mìn dưới gầm xe. Xe chạy, mìn nổ nhưng nhờ Phật độ thầy vẫn không chết. Thầy bị bể hết xương hông, phải điều trị hơn một năm và từ đó thầy phải đi bằng gậy. Năm 1969 ông Nguyễn Văn Thiệu bắt thầy không có lý do và tự đặt chuyện giả mạo để kết án thầy 20 năm tù. Từ bên ngoài, Phái Đoàn Hòa Bình làm áp lực ráo riết với thế giới nên cuối cùng họ chịu thả thầy ra năm 1973 không có án gì hết!!! Cũng vì thế mà chúng tôi nhất định đưa thầy đi ra ngoài nước cho được để tiếng nói của thầy mạnh hơn.

        Sau khi kết thúc hội nghị, thầy trò chúng tôi đã đưa hai Hòa Thượng đi thăm núi Alpes ở Chamonix, thăm đỉnh trượt tuyết rất đẹp, cao nhất Âu Châu. Hai vị cũng về thăm Phương Vân Am, nơi ẩn tu của thầy chúng tôi mỗi khi Thầy cần có chỗ yên tĩnh để viết lách, đi thăm những lâu đài cổ rất đẹp dọc bờ sông Loire. Anh Hướng đưa hai thầy đi thăm Chateau de Versailles gần Paris. Chú Thanh Hương nấu cơm rau rất ngon để đãi hai thầy sau những ngày bị ăn cơm Tây chỉ toàn khoai tây chiên suốt các chuyến du hành.

        Tháng 4 năm 1977, chính quyền Cộng Sản bắt Hòa Thượng và tháng 10 năm 1977 chúng tôi được điện thư của ni sư Trí Hải báo hung tin bằng mật mã là ngài vừa bị bức tử chết ở khám Chí Hòa ngày 17 tháng 10 năm 1977. Lúc đó thầy trò chúng tôi đang ở Phương Vân Am, chúng tôi đã cho ra Urgent Press Release (Khẩn Báo) ngày 19/10/1977 báo tin Hòa Thượng Thích Thiện Minh đã chết ở khám Chí Hòa Sài Gòn ngày 17/10/1977 vì bị bức tử. Nhiều hãng thông tấn nghe tin đến hỏi ngay chính quyền Hà Nội thì chính quyền cho biết ngài chết ngày 18 ở Hàm Tân chứ không phải ngày 17 ở Sài Gòn và do đứt mạch máu não thôi. Sự thật là khi nghe tin thầy bị bức tử, họ cho lệnh chở ngay Hòa Thượng về Hàm Tân và cho báo chí biết Hòa Thượng chết hôm 18 tháng 10 vì bị đứt mạch máu não tại Hàm Tân Phan Thiết. Nhiều dấu tích cho thấy rõ là thầy chết ở Sài Gòn vì bị bức tử. Chánh quyền sợ Phật tử ở Sài Gòn lấy cớ đám tang ngài mà biểu tình nên đưa ra Hàm Tâm gấp để không ai đi đám tang được vì Hàm Tân lúc ấy đường xá rất xa xôi khó đi. Hòa Thượng Trí Thủ cũng xác nhận là khi đến thăm Hòa Thượng Thiện Minh tại Hàm Tân, Hòa Thượng thấy mặt Hòa Thượng Thiện Minh đỏ bầm như bị ép uống thuốc độc. Thầy chúng tôi đã viết tặng Hòa Thượng bài thơ Mây Trắng Thong Dong thật bi hùng:

        Nhớ thuở xưa – khi ngươi còn là đám bạch vân bay thong dong

        Ta theo nguồn múa ca đi về đại dương mênh mông

        Ngươi lưu luyến chốn đỉnh cao, lắng tiếng reo cười ngàn thông

        Ta nhấp nhô trên sóng bạc, lên xuống vào ra muôn trùng

        Kịp đến khi thấy trần gian quằn quại lệ chảy thành dòng

        Thì ngươi biến thành mưa, nhỏ giọt tuôn tràn đêm đông

        Mây đen mịt mờ một phương chừ, mặt trời hấp hối

        Ngươi gọi ta về, cùng nhau giăng tay nổi trận cuồng phong.

        Lòng thảnh thơi đâu, khi hoa ngàn cỏ núi còn rên siết hận bất công,

        Ngươi đưa hai tay thiên thần, quyết tâm tháo bỏ cùm gông

        Trong bóng tối phủ đầy, họng súng đen ngòm bạo lực

        Xương dồn thành gò cao chừ, trong khi máu đã chảy dài thành sông

        Hai bàn tay ngươi dập nát, thương ôi, xích xiềng vẫn chưa tháo được,

        Ta gọi sấm sét về bên ngươi, quyết cùng bạo lực mở cuộc thư hùng.

        Gan dạ hơn người, trong đêm ngươi hóa thành Sư Vương rng lớn

        Hàng vạn loài ma quái nghe ngươi, đã cầm cập run trong đêm sương.

        Hiên ngang không lùi bước chừ, dù phía trước dày đặc hầm chông

        Ngươi thản nhiên đưa mắt nhìn bạo lực chừ, như nhìn vào khoảng không

        Sống Chết là chi chừ, ép uổng nhau sao được

        Ngươi gọi tên ta mà cười chừ, không một lời rên siết dù tra tấn cùm gông

        Bây giờ thoát đi xiềng xích chẳng còn buộc nổi chân thân,

        Ngươi trở về kiếp xưa mây trắng, thảnh thơi trên bầu trời mênh mông.

        Đến, Đi, tự ngươi – đỉnh cao nào thích thú thì ngươi dừng lại,

        Cưỡi trên sóng bạc đầu chừ, ta hát ru ngươi khúc hát bi hùng.

        Thầy Huyền Quang là Tổng Thư Ký Viện Hóa Đạo. Thầy rất giỏi về hành chánh, quán xuyến trong ngoài rất khéo. Thầy trực tánh và rất mẫu mực. Không thích thì thầy nói ngay, không dừng lại, nhìn kỹ nhìn sâu nói khéo như thầy Thiện Minh. Thầy bị bắt năm 1977 sau khi gửi cho Thủ Tướng Phạm Văn Đồng bức thư trình lên 86 vụ vi phạm nhân quyền của chính phủ Phạm Văn Đồng.

        Trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội sau khi bị tách rời ra khỏi Viện Đại Học Vạn Hạnh đã sống “không có giấy phép của nhà nước Việt Nam đương thời từ 1966 đến giữa 1973”. Trường này chỉ được hợp thức hóa sau khi hai vị Hòa Thượng Thiện Minh và Huyền Quang gặp thầy chúng tôi tại Thái Lan tháng 3 năm 1973, khi Giáo Hội chịu đứng ra thành lập Ủy Ban Tái Thiết và Phát Triển Xã Hội của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (UBTTPTXH của GHPGVNTH) vào giữa năm 1973. Hòa Thượng Thích Thiện Hòa làm Chủ Tịch Điều Hành, Thượng Tọa Thích Châu Toàn làm Tổng Thư Ký Ủy Ban vừa là Giám Đốc Trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội, Hòa Thượng Thích Thiện Minh và Thích Huyền Quang làm thanh tra điều hành Ủy Ban.

        Song song với việc phát triển xã hội những vùng bị tan nát hoàn toàn, Ủy Ban cũng hỗ trợ hết lòng các công tác từ thiện của các tỉnh giáo hội Phật Giáo như tìm người đỡ đầu cho hàng chục ngàn cô nhi tại gia, nạn nhân chiến cuộc. Tuy cha mẹ các cháu đã chết nhưng các cháu còn được sống với ông bà hay cô dì hay anh chị ruột. Từ Bangkok, Thầy chúng tôi đã cùng với hai vị tôn đức hòa thượng soạn thảo bức thư tha thiết kêu gọi các thượng tọa, đại đức và các ni sư, sư cô chịu khó đứng ra lập những nhà giữ trẻ, trông coi dạy dỗ cho các cháu mất cha mẹ trong chiến tranh để người lớn yên tâm đi làm suốt ngày kiếm tiền nuôi các cháu và để các cháu có nơi nương tựa bình an. Con số các nhà trẻ ở Miền Nam sau một năm đã tăng lên rất nhanh. Năm 1973 chỉ có mười bảy nhà trẻ trong toàn quốc mà đến năm 1975 đã lên đến hơn 300. Phần lớn các nhà trẻ này không cần sự giúp đỡ từ hải ngoại. Các ni sư, sư cô đầy tình thương chỉ cần đứng lên là có những nhà hảo tâm tại chỗ đóng góp. Chúng tôi giật mình thấy sự phát triển từ thiện gia tăng quá nhanh và chừng đó mới thấy rõ sức mạnh của một bức thư thống thiết tới từ cấp trung ương Giáo Hội.

        Phát triển xã hội của Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội trong Ủy Ban Tái Thiết và Phát Triển của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.

        Giáo Hội PGVNTN hồi này có 42 tỉnh giáo hội, mỗi tỉnh có từ 200 đến 300 tu sĩ và chừng 150 đến 500 đoàn sinh Gia Đình Phật Tử. Có tỉnh như Thừa Thiên, Quảng Trị thì nhiều hơn nhưng Cà Mau, Bạc Liêu thì ít hơn. Thể thức phát triển xã hội là tất cả mọi dự án đều do từ 5 đến 15 tác viên TNPSXH đến từng vùng, từng tỉnh hay từng huyện tham khảo, lắng nghe, học hỏi và mời giáo hội địa phương gồm huynh trưởng Gia Đình Phật Tử hay các bác trong các khuôn hội Phật giáo của từng thôn, từng xã, từng huyện, từng vùng cùng điều nghiên những gì cần phải làm cho địa phương đó: ví dụ như thiết lập một nhà giữ trẻ do vài sư cô đứng ra, thành lập một trạm y tế dân tộc châm cứu, bấm huyệt, bốc thuốc nam, lập hồ sơ các cháu mồ côi cha hay mẹ hay cả cha lẫn mẹ. Nếu hải ngoại có người bảo trợ thì tiền được gửi qua tỉnh Giáo Hội rồi chuyển đến nhà trẻ để sư cô giám đốc trao tiền và theo dõi sự chăm sóc các cháu qua bà nội, hay dì, hay cậu của cháu. Sư cô cũng nhận thư cám ơn của các cháu sau khi phát tiền bảo trợ mỗi ba tháng.

        Về phát triển cộng đồng thì Ủy Ban chỉ làm có mươi dự án. Dự án nào cũng phải điều động chung với vài mươi vị huynh trưởng Gia Đình Phật Tử hay Thanh Niên Phật Tử, hay Tiểu Thương Phật Tử địa phương. Dự án làm chung với địa phương xong thì đưa lên Khối Công Tác Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội duyệt xét lại vừa về kỹ thuật vừa về dự chi rồi mới gửi lên Hòa Thượng Thiện Hòa là chủ tịch. Ngài đưa qua cho Hòa Thượng Huyền Quang và Hòa Thượng Thiện Minh với toàn nhóm của chư Hòa Thượng là ban Thanh Tra duyệt xét từng dự án. Khi chư tôn đức đồng ý rồi, tiền mới được chi ra thành nhiều đợt, thực hiện đến đâu chi tiền đến đó. Có tất cả ba dự án thật lớn cần phải dùng tiền của chính phủ Thụy Điển, một nước trung lập không tham gia vào chiến tranh Việt Nam, là ba Trung Tâm Định Cư cho dân thật nghèo ở các vùng xa xôi bị bom đạn. Ủy Ban địa phương chọn một vùng khá an ninh để khai quang rừng, chia cho mỗi hộ một lô đất cất nhà, một lô đất trồng trọt riêng cho từng gia đình và dành một lô đất lớn để cùng canh tác chung và chia phần lời chung cho toàn Trung Tâm. Dự án thứ nhất là Trung Tâm Phát Triển Cộng Đồng ở Tánh Linh Quảng Phước do Khối Công Tác của TNPSXH phụ trách. Trung Tâm Phát Triển Cộng Đồng thứ hai là ở Quảng Nam do Thượng Tọa Long Trí phụ trách và trung tâm thứ ba ở Quảng Trị do Thượng Tọa Chánh Trực phụ trách.

        Suốt những năm 1973, 1974 cho đến tháng 5 năm 1975, Phái Đoàn Hòa Bình GHPGVNTN đã gửi qua Ủy Ban Tái Thiết và Phát Triển Xã Hội của Giáo Hội đều đặn mỗi ba tháng tiền bảo trợ cho 860 rồi 1.770 rồi 2.310 rồi 9.764 cô nhi nạn nhân chiến cuộc Việt Nam qua 42 tỉnh Giáo Hội. Tiền gửi qua trương mục của Ủy Ban do Hòa Thượng Thích Thiện Hòa đứng tên (Hòa Thượng là chủ tịch kiêm thủ quỹ Ủy Ban). Sau đó Ủy Ban sẽ chuyển tiền về từng tỉnh Giáo Hội và tỉnh Giáo Hội chuyển đến từng nhà giữ trẻ từng huyện, từng làng xã xa xôi của tỉnh mình. Hòa Thượng Huyền Quang đặc trách theo dõi văn phòng của Hòa Thượng Thiện Hòa. Chúng tôi gửi tiền thì qua Giáo Hội trung ương, nhưng tin tức của các cháu, thư cám ơn, thưa chuyện hoàn cảnh từng nơi thì liên lạc trực tiếp với địa phương. Nhờ vậy mà sự truyền thông rất tâm đắc. Nhờ có liên lạc trực tiếp mà Phái Đoàn tiếp xúc trực tiếp được với gia đình các cháu mồ côi và khuyến khích họ gần gũi chia sẻ với các vị xuất sĩ giám đốc các Ký Nhi Viện để gửi thư các cháu trực tiếp cho chúng tôi. Các vị xuất sĩ địa phương đã như những vị bồ tát sống lo cho các cháu như quý sư bà Như Huyền ở Quảng Ngãi, Cát Tường ở Huế, Viên Minh ở Nha Trang, Thể Thanh ở Cam Ranh, nên ba tháng đầu mới có 860 người bảo trợ mà 3 tháng kế đã có 1.770, và tăng rất nhanh lên tới 9.764 vào tháng tư 1975.