Giảng Kinh Xa Lìa Ái Dục

(Di Lặc Nạn Kinh)
Nghĩa Túc Kinh, kinh thứ bảy, Đại Tạng Tân Tu 198 tương đương với Tissametteyya Sutta, Sutta-Nipàta 814-823


Phần 1

(Đây là bài pháp thoại Thiền Sư giảng vào ngày 24.1.2010 tại thiền đường Hội Ngàn Sao, Xóm Hạ, Làng Mai.)

 

Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ. Vị xuất gia trẻ này tên là Tissametteyya, dịch ra tiếng Hán là Đế Tu Di Lặc. Thầy Tissametteyya từng là đệ tử của một đạo sĩ Bà La Môn, nhưng sau khi gặp Đức Thế Tôn thì cả thầy lẫn trò đều quy y và trở thành đệ tử của Bụt. Sau đây là câu chuyện được kể lại trong Kinh Tập (Sutta Nipata) phẩm thứ Năm, gọi là phẩm Bỉ Ngạn (Para yana vagga):

Vị đạo sĩ Bà La Môn tên là Bhavari, ông đã gần 120 tuổi, rất am tường các kinh Vệ Đà và nắm vững tất cả các nghi lễ, giáo thuyết, phù chú của truyền thống Vệ Đà. Ông cũng có khá nhiều đệ tử. Hôm đó, đạo sĩ Bhavari đi hành đạo tại một thành phố ở miền Nam. Ông giảng rất hay, cuốn hút được đông đảo người nghe. Vì vậy dân chúng đã cúng dường cho ông rất nhiều tiền bạc và tặng phẩm. Được cúng dường nhiều, đạo sĩ Bhavari nghĩ tới chuyện tổ chức một buổi lễ chẩn tế lớn để phân phát tất cả những phẩm vật cúng dường cho người nghèo.

Trong buổi lễ, đạo sĩ Bhavari đã thuyết pháp và hành lễ theo truyền thống Vệ Đà. Khi buổi lễ chấm dứt, tất cả những phẩm vật cúng dường trong bao nhiêu ngày qua đều được đem đi phân phát hết. Buổi lễ hoàn mãn, đạo sĩ Bhavari ngồi trong thất thở một cách bình yên và rất lấy làm hoan hỷ. Lúc ấy có một vị đạo sĩ khác từ phương xa tới thăm, thân đầy cát bụi. Ông được tiếp đón, cho tắm gội và mời uống nước. Sau đó ông ta xin đạo sĩ Bhavari 500 đồng:
– Tôi nghe nói đạo sĩ vừa tổ chức một trai đàn chẩn tế rất lớn. Chắc là đạo sĩ có nhiều tiền lắm, vậy xin ông cho tôi 500 đồng. Tôi rất cần số tiền đó.
Đạo sĩ Bhavari nói:
– Hiện giờ tôi không còn một xu nào cả. Tất cả tiền bạc và phẩm vật cúng dường tôi đã sử dụng trong hội vô giá (1) và đã cúng dường hết, bây giờ tôi không còn một đồng nào cả.
Ông đạo sĩ kia rất giận và nói:
– Ông là người xấu! Tôi sẽ đọc một câu thần chú làm cho cái đầu của ông vỡ ra làm bảy miếng cho đáng đời cái sự keo kiệt của ông. Ông đã cúng dường cho rất nhiều người nhưng đến phiên tôi thì ông không cho một xu nào hết.

Nói xong ông ta đọc lên một câu thần chú và bỏ đi. Đạo sĩ Bhavari trước đây vốn rất tin vào phù chú và nghi lễ, nên ăn không ngon, ngủ không yên, đứng ngồi đều bất an, ngồi thiền cũng không được. Ông nghĩ phù chú của vị đạo sĩ kia có thể có kết quả và cái đầu của mình mai mốt có thể sẽ vỡ ra làm bảy miếng. Ông không có phương pháp gì để đối trị lại sự sợ hãi đó. Ông bất an trong vòng mấy ngày. Những giới cấm và những nghi lễ của truyền thống Vệ Đà rất nhiều. Chính vì mình tin vào phù phép nên khi người khác làm phù phép đối với mình thì mình cũng sợ. Hôm ấy, trong đêm khuya có một vị thiên giả hiện ra nói với đạo sĩ Bhavari:
– Đạo sĩ, tại sao ngài đau khổ như vậy? Người đạo sĩ kia chắc chắn không biết gì nhiều về cái đầu và về việc làm vỡ cái đầu đâu. Đôi khi ông ta chỉ dọa ngài thôi, tại sao ngài phải mất ăn mất ngủ vì chuyện đó?
Đạo sĩ Bhavari nói:
– Có thể ông ta biết cách trả thù. Ông ta đã đọc một câu chú với chủ ý làm vỡ cái đầu của tôi vì vậy nên tôi rất lo sợ.
Vị thiên giả nói:
– Có một người có thể giúp được ngài, người ấy có thể cắt nghĩa cho ngài thế nào là cái đầu và thế nào là việc làm cho cái đầu vỡ ra làm bảy miếng. Người ấy đang ở trong rừng tre gần thành Vương Xá. Đó là một vị thái tử con vua, từng xuất gia tu học và đã thành đạo. Nếu ngài tới tham vấn vị đó sẽ cắt nghĩa cho ngài, lúc đó ngài sẽ hết sợ.
Sau khi được vị thiên giả khai thị, đạo sĩ Bhavari rất hạnh phúc. Ông gọi các đệ tử của mình cùng đi theo làm một chuyến du hành lên miền Bắc gặp đạo sĩ Gotama, người đã tu khổ hạnh sáu năm, đã đắc đạo và đang hoằng hóa tại thành Vương Xá.

Đi theo đạo sĩ Bhavari có tất cả 16 vị đệ tử, tất cả đều còn rất trẻ, trong đó có cả Tissametteyya. Thầy trò hy vọng gặp được Gotama Sakya. Họ trèo non, vượt suối, qua bao ngày đường mới tới được Rừng Tre ở thành Vương Xá. Họ thấy Đức Thế Tôn đang ngồi, xung quanh có các thầy, rất im lặng. Câu mà họ thao thức muốn hỏi nhất là: Chuyện đọc một câu thần chú cho người ta vỡ đầu có thật hay không và mình nên đối xử với nỗi sợ hãi đó như thế nào? Đức Thế Tôn đã trả lời:
– Cái đầu tượng trưng cho khối si mê, một khối si mê rất lớn gọi là vô minh. Làm cho cái khối si mê đó vỡ ra không phải là dễ, phải có đủ năm loại năng lượng mới có thể làm cho cái đầu ấy vỡ ra và khi cái đầu vỡ ra mình sẽ có hạnh phúc. Năm loại năng lượng ấy là: Tín, tấn, niệm, định và tuệ. Nếu các vị không tu tập, không chế tác được năm loại năng lượng đó thì không thể nào làm vỡ cái đầu của chính mình được chứ đừng nói là làm vỡ cái đầu của một người khác.
Câu trả lời làm người ta ngạc nhiên. Cái đầu là gì? Cái đầu là khối si mê của chính bạn. Và vũ khí sử dụng để làm vỡ khối si mê ấy là năm lực: Tín, tấn, niệm, định và tuệ. Ta phải tu tập như thế nào để có đủ năng lượng mới có thể làm vỡ cái đầu. Nếu cái đầu si mê còn đó thì ta vẫn còn lo sợ, bồn chồn.

Sau khi câu hỏi được giải đáp, đạo sĩ Bhavari rất hạnh phúc. Mười sáu đệ tử của ông, người nào cũng có cơ hội được hỏi Đức Thế Tôn vài câu. Họ đều là những vị giáo thọ trẻ và rất hạnh phúc được gặp một vị đạo sư lớn như Bụt.
Thầy Tissametteyya cũng là một vị giáo thọ rất trẻ. Thầy đã có cơ hội được hỏi Đức Thế Tôn hai lần. Câu hỏi đầu tiên của thầy liên quan tới vấn đề ái dục. Câu hỏi này đã được Đức Thế Tôn trả lời rất cụ thể. Kinh này, tất cả những người xuất gia trẻ đều nên học thuộc lòng.

 

Bài kệ 1


Dâm dục trước nữ hình   婬欲著女形
Đại đạo giải si căn    大道解癡根
Nguyện thọ tôn sở giới   願受尊所戒
Đắc giáo hành viễn ác    得教行遠惡

Vướng mắc vào sắc dục là căn nguyên của bao si mê, lỗi lầm; những cái này ngăn, không cho mình tiếp tục đi tới trên con đường đạo rộng thênh thang. Xin Đức Thế Tôn giáo giới cho chúng con để chúng con có thể hành trì và lìa xa được mọi hệ lụy gây nên do sắc dục.

Dâm dục trước nữ hình: Chữ nữ ở đây phải được hiểu là đối tượng của sự mê đắm. Đối tượng đó, đối với người nam là người nữ, đối với người nữ là người nam, đối với người đồng tính là hoặc người nam, hoặc người nữ. Đối tượng ở đây có thể là đồng tính hay khác tính.
Đại đạo giải si căn: Vướng vào đối tượng đó là không còn cơ hội để đi tới. Đại đạo là con đường lớn. Si căn là gốc rễ của sự si mê. Vướng mắc vào ái dục là gốc rễ của bao nhiêu lỗi lầm, những vách cái ngăn không cho mình đi tới trên con đường đạo rộng thênh thang.
Nguyện thọ tôn sở giới: Xin Đức Thế Tôn giáo giới cho chúng con.
Đắc giáo hành viễn ác: Chúng con xin được tiếp nhận những lời giáo giới để có thể thực tập mà xa lìa được những hệ lụy do ái dục gây ra. Chữ ác trong văn mạch này được dịch là hệ lụy.

Một người tu khi bị vướng vào vòng ái dục thì không còn làm ăn gì được nữa, học không vào mà tu cũng không xong. Đối với người trẻ đây là một vấn đề lớn, cho nên thầy Tissametteyya đã đại diện cho tất cả các thầy và các sư cô trẻ để hỏi Bụt câu hỏi đó. Xin Ngài chỉ dạy cho chúng con cách thức tu tập để đừng bị vướng mắc vào năng lượng tình dục. Không phải chỉ vướng mắc vào người khác phái mà có thể vướng mắc vào người cùng phái. Câu hỏi rất rõ ràng và văn rất mới:

Bài kệ 2

Ý trước dâm nữ hình   意著婬女形
Vong tôn sở giáo lệnh   亡尊所教令
Vong chánh trí thùy ngọa  亡正致睡臥
Thị hành thất thứ đệ   是行失次第

Khi tâm ý đã bị ám ảnh bởi hình bóng một đối tượng ái dục rồi thì chúng con thường quên mất lời truyền dạy của Đức Thế Tôn. Chúng con đánh mất con đường chánh mà chúng con muốn đi, ngay cả những lúc còn ngủ nghỉ. Và chúng con cũng quên mất thứ tự trước sau trong công phu hành trì của chúng con.

Đức Thế Tôn dạy rất hay, nhưng một khi vướng vào ái dục con chỉ nghĩ tới đối tượng đó mà quên đi lời truyền dạy của Ngài.

Chúng con đánh mất con đường chính mà chúng con muốn đi, ngay trong lúc còn ngủ nghỉ: Khi ngủ, nghỉ mình không nghĩ tới chánh pháp, tới những lời dạy của Đức Thế Tôn, mà cứ tơ tưởng tới hình bóng đối tượng của ái dục. Và chúng con cũng quên mất thứ tự trước sau trong công phu hành trì của chúng con.
Chúng ta so sánh bản dịch từ chữ Hán này với bản dịch từ tiếng Pali.

Ý trước dâm nữ hình
Vong tôn sở giáo lệnh

Khi vướng vào hình bóng của ái dục thì mình quên đi những giáo lệnh của Đức Thế Tôn. Văn ở đây rất xưa, văn của đầu thế kỷ thứ ba. Chúng ta biết bốn bộ Kinh A Hàm chỉ bắt đầu được dịch từ thế kỷ thứ tư, thứ năm. Vong là quên mất, tôn là Đức Thế Tôn, sở giáo là những lời dạy dỗ. Vong tôn sở giáo là quên mất những lời dặn dò mà Đức Thế Tôn đã dạy.

Vong chánh trí thùy ngọa: Quên luôn những điều chánh ngay cả những lúc chúng con ngủ nghỉ, trong giấc mơ những đối tượng của ái dục cũng hiện ra.
Thị hành thất thứ đệ: đệ là thứ tự của sự hành trì. Trong khi hành trì mình quên mất trước có gì, sau có gì, quên mất thứ tự niệm-định-tuệ, giới-định-tuệ. Đây là câu hỏi của một người xuất gia trẻ có kinh nghiệm, thấy rằng khi bị vướng vào ái dục thì mình đánh mất rất nhiều. Câu hỏi này rất thực dụng và sau đây, từ bài kệ thứ ba là câu trả lời của Đức Thế Tôn:

Bài kệ 3

Bổn độc hành cầu đế    本獨行求諦
Hậu phản trước sắc loạn    後反著色亂
Bôn xa vong chánh đạo   犇車亡正道
Bất tồn xả chánh tà      不存捨正邪

Người xuất gia là người đi một mình với cái tâm ban đầu, là khám phá cho ra được Chân Đế, nhưng sau đó một thời gian có thể đi ngược lại với lý tưởng của mình một khi bị vướng vào ái dục. Cũng như cỗ xe kia không còn chịu đi trên con đường thẳng mà bắt đầu lăn xuống hố, người xuất gia ấy không còn khả năng phân biệt được chánh tà.

Mình có một cái tâm ban đầu rất đẹp, rất hùng tráng. Nhưng tâm ban đầu có thể bị sói mòn. Ta có thể đi lạc đường nếu ta để hình ảnh của ái dục len vào.
Cũng như cỗ xe kia không còn chịu đi trên con đường thẳng mà bắt đầu lăn xuống hố, người xuất gia ấy không còn khả năng phân biệt được chánh tà.
Khi có các bạn đồng tu tới nói: Này, sao mà anh bê bối vậy? Mình không nghe: Tôi có làm gì sai đâu? Tôi đâu có vướng mắc? Tôi mà vướng mắc hả? Đương sự không bao giờ chấp nhận là mình có vướng mắc, đương sự ương ngạnh.

Bổn độc hành cầu đế: Bổn là lúc ban đầu, là gốc rễ. Thuở ban đầu mình đi một mình (độc hành). Đi xuất gia là phải sống một mình như trong Kinh Người Biết Sống Một Mình. Độc hành là đi một mình. Cầu là tìm cầu, đế là sự thật. Người tu là người đi một mình để tìm sự thật, tìm chân lý. Đi một mình có nghĩa là tâm không vướng bận vào ai.

Hậu phản trước sắc loạn: Nhưng sau đó một khi đã vướng vào ái dục thì mình phản lại lý tưởng ban đầu của mình. Sắc loạn là ái dục gây ra những lộn xộn, những khó khăn hệ lụy. Trước là vướng vào, phản là đi ngược lại con đường mình đi.

Cái tâm ban đầu của ta rất đẹp, ta rất thiết tha với con đường giải thoát. Nhưng khi đã vướng vào ái dục rồi thì ta không chịu đi đường thẳng, ta đi lệch sang một bên rồi rơi tõm xuống hố. Các bạn tu có muốn kéo mình cũng không chịu lên. Khi đại chúng nhắc nhở, mình cảm thấy khó chịu nên mình đã bỏ chúng mà đi giống như chiếc xe trâu không còn đi trên con đường thẳng nữa.

Bất tồn xả chánh tà: Không còn biết phân biệt cái nào là đúng, cái nào là sai. Đại chúng nhắc nhở cho nhưng mình cứng đầu nhất định không nghe. Mình nói: Tôi biết tôi đang làm gì, anh chị đừng có xen vào. Trong trường hợp dị tính cũng thế mà trong trường hợp đồng tính cũng thế. Một sư chú với một sư chú, một sư cô với một sư cô, hay một sư chú với một sư cô cũng giống như nhau. Một khi đã vướng mắc rồi thì mình trở nên ngoan cố, nhất định không nghe lời chỉ giáo của sư anh, sư chị hay sư em. Mình có cảm tuởng những người kia dòm ngó và nói ra nói vào nhiều quá khiến cho mình bực nên mình rủ nhau đi ra ngoài ở riêng, như một chiếc xe trâu đánh mất con đường chánh, không giữ được hướng đi và không còn phân biệt được thế nào là đúng, thế nào là sai.

Đức Thế Tôn trả lời như vậy chắc hẳn vì Ngài cũng đã có một số kinh nghiệm về những đệ tử của Ngài. Những vị ấy cứng đầu quá! Khi đã vướng mắc sâu rồi thì họ cũng không nghe lời mình nữa, dù mình là thầy hay  là sư anh, sư chị của họ.

Bài kệ 4

Tọa trị kiến tôn kính   坐值見尊敬
Thất hành vong thiện danh    失行亡善名
Kiến thị đế kế học  見是諦計學
Sở dâm viễn xả ly      所婬遠捨離

Ngày xưa vị ấy đã từng được tôn kính vì giá trị đạo đức của mình, nhưng bây giờ vị ấy đã đánh mất cái tốt đẹp đó. Thấy được sự thật này, ta phải quyết tâm tu tập, quyết tâm xa lìa con đường ái dục.

Ngày xưa người ta rất thương mến, tôn kính mình tại vì mình tu tập nghiêm chỉnh, đàng hoàng. Tâm ban đầu của mình rất đẹp. Từ thầy cho đến sư anh, sư chị, sư em, và cả các vị cư sĩ, người nào cũng yêu mến, kính nể mình tại vì tâm ban đầu của mình quá đẹp, sự hành trì của mình quá hay. Bây giờ tại sao mình không còn được như thế nữa? Tại vì mình bị vướng!

Đức Thế Tôn dạy: Các con hãy nghĩ tới trường hợp của sư chú ấy, của thầy ấy, của sư cô ấy! Lúc ban đầu vị ấy thực tập đàng hoàng, được chúng thương, mọi người nể. Nhưng từ ngày bị vướng vào thì không còn ai thương, ai nể nữa vì vị ấy cứng đầu quá, nói không nghe. Người đó đã đánh mất những cái rất quí giá mà ngày xưa mình có. Thấy như vậy mình đừng đi theo vết xe của người ấy, mình đừng bắt chước người ấy.

Tọa trị kiến tôn kính: Trị là giá trị, ngày xưa mình hưởng được sự tôn kính, thương yêu của người khác. Tọa là cư trú, là có mặt, là có một giá trị nào đó.
Thất hành vong thiện danh: Nhưng bây giờ điều thiện lành ấy đã mất đi rồi
Kiến thị đế kế học: Thấy được sự thật đó thì phải tìm cách tu học và hành trì.
Sở dâm viễn xả ly: Viễn là xa lìa, tìm cách lìa bỏ con đường vướng mắc vào ái dục.

Bài kệ 5

Thả tư sắc thiện ác   且思色善惡
Dĩ phạm đương hà trí    已犯當何致
Văn tuệ sở tự giới    聞慧所自戒
Thống tàm khước tự tư  痛慚却自思

Ta hãy nên quán chiếu về cái lợi và cái hại của sắc dục, phải thấy được một khi đã vướng vào sắc dục thì ta sẽ đi về đâu. Phải lắng nghe những lời dạy tuệ giác liên hệ tới vấn đề này để đề cao cảnh giác. Phải thực tập chánh tư duy để thấy được những thống khổ và những hổ thẹn mà sắc dục có thể đem lại cho ta.

Thả tư sắc thiện ác: Chúng ta phải suy nghĩ, phải quán chiếu về cái lợi và cái hại của sắc dục. Sắc là sắc dục, thiện ác là cái lợi và cái hại của sắc dục.
Dĩ phạm đương hà trí: Phải thấy trước được rằng một khi bị vướng mắc thì mình sẽ đi về đâu? Mình đã chứng kiến có người  ngày xưa sống với tăng thân rất hạnh phúc, được đại chúng thương yêu. Bây giờ vị ấy vướng vào ái dục mà đánh mất tăng thân, bơ vơ một mình. Thấy như vậy mình không muốn bị trở thành nạn nhân của ái dục giống như người kia nữa. Đây là vấn đề quán tưởng. Mình có muốn giống thầy ấy, sư cô ấy hay không, đang đi một mình trong cuộc đời cô đơn và khốn khổ? Rất muốn trở về lại với tăng thân nhưng hổ thẹn không dám về. Sư chú, sư cô ấy đã đi mất rồi, bây giờ mỗi khi nghĩ tới những tháng ngày bình an, êm ấm khi còn được sống trong tăng thân vị ấy chỉ biết úp mặt vào gối mà khóc. Mình phải đặt mình vào địa vị của người ấy để thấy được vướng vào sắc dục sẽ đưa mình tới đâu, tự nhiên mình sẽ dừng lại.

Văn tuệ sở tu giới: Phải lắng nghe những giáo giới, những lời khuyên bảo trong hướng đi của trí tuệ để mình tự răn mình: Mình không muốn làm như sư cô ấy, như sư chú ấy. Mình không muốn đánh mất tăng thân. Mình không muốn đi đơn côi, lẻ loi một mình ngoài đời.
Thống tàm khước tự tư: Phải thực tập chánh tư duy. Tự tư là tự mình thực tập chánh tư duy, tự mình quán chiếu, suy nghĩ để thấy được niềm đau và sự hổ thẹn mà cái ấy đưa tới. Thống là niềm đau, tàm là nỗi hổ thẹn.
Bây giờ chúng ta hãy cùng nhau đọc lại năm bài kệ để lời kinh thấm sâu vào trong tàng thức:

1. Vướng mắc vào sắc dục là căn nguyên của bao si mê, lỗi lầm, những cái này ngăn  không cho mình tiếp tục đi tới trên con đường đạo rộng thênh thang. Xin Đức Thế Tôn giáo giới cho chúng con để chúng con có thể hành trì và lìa xa được mọi hệ lụy gây nên do sắc dục.
2. Khi tâm ý đã bị ám ảnh bởi hình bóng một đối tượng ái dục thì chúng con thường quên mất lời truyền dạy của Đức Thế Tôn. Chúng con đánh mất con đường chánh mà chúng con muốn đi, ngay cả những lúc còn ngủ nghỉ. Và chúng con cũng quên mất thứ tự trước sau trong công phu hành trì của chúng con.
3. Người xuất gia là người đi một mình với cái tâm ban đầu, là khám phá cho ra  được Chân Đế, nhưng sau đó một thời gian có thể đi ngược lại với lý tưởng của mình một khi bị vướng vào ái dục. Cũng như cỗ xe kia không còn chịu đi trên con đường thẳng mà bắt đầu lăn xuống hố, người xuất gia ấy không còn khả năng phân biệt được chánh tà.
4. Ngày xưa vị ấy đã từng được tôn kính vì giá trị đạo đức của mình, nhưng bây giờ vị ấy đã đánh mất cái tốt đẹp đó. Thấy được sự thật này, ta phải quyết tâm tu tập, quyết tâm xa lìa con đường ái dục.
5. Ta hãy nên quán chiếu về cái lợi và cái hại của sắc dục, phải thấy được một khi đã vướng vào sắc dục thì ta sẽ đi về đâu. Phải lắng nghe những lời dạy tuệ giác liên hệ tới vấn đề này để đề cao cảnh giác. Phải thực tập chánh tư duy để thấy được những thống khổ và những hổ thẹn mà sắc dục có thể đem lại cho ta
.

Chúng ta nên tham cứu so sánh kinh này với kinh của bản tiếng Pali. Đây là một trong những kinh Đức Thế Tôn dạy trong những năm đầu sau khi giác ngộ. Kinh rất thuần nhất và Đức Thế Tôn đang dạy cho Đức Bụt tương lai của chúng ta, Đức Di Lặc. Đức Di Lặc là ai? Đức Bụt tương lai chính là mình, là các sư cô, các sư chú trẻ. Mình phải tiếp nhận lời dạy này trực tiếp từ Đức Thế Tôn. Đức Bụt của thế kỷ chúng ta là Đức Bụt của thương yêu, mà thương yêu không phải là ái dục. Thương yêu và ái dục là hai cái khác nhau. Trong Năm giới mới mình đọc rất rõ: Tình yêu không phải là sắc dục.
Những vị cư sĩ có mặt hôm nay trong pháp hội đừng nghĩ rằng kinh này Đức Thế Tôn chỉ dạy riêng cho người xuất gia. Đức Thế Tôn đang dạy cho quí vị!

 

 

Phần 2

(Đây là bài pháp thoại Thiền Sư  giảng vào ngày thứ năm,  28.1.2010 tại thiền đường Trăng Rằm, xóm Mới, Làng Mai, trong khóa An Cư Kiết Đông 2009-2010.)

Chữ H tượng trưng cho hạnh phúc. Hơi thở H là hơi thở hạnh phúc, nó có thể thấm vào cơ thể mình như một hơi ấm. Giống như chúng ta đang đi ngoài trời giá lạnh, khi bước vào căn phòng của mình thì cảm thấy rất ấm áp. Hơi ấm trong căn phòng từ từ thấm vào cơ thể mình. Hơi thở hạnh phúc cũng giống hơi ấm. Thở vào, chúng ta để cho hạnh phúc thấm vào trong cơ thể của mình, chúng ta thầm nói: “Hạnh phúc đang thấm vào cơ thể con”. Hạnh phúc có thể đi vào được hay không là do mình có mở cơ thể ra được hay không. Nhiều khi tập khí muốn chạy, muốn vươn tới, muốn đạt được một cái gì đó, như một tấm nylon bao cơ thể chúng ta lại, không cho hạnh phúc thấm vào giống như nước chảy lá môn, không một giọt nước nào thấm vào được.

Ai cũng có ít nhiều trong mình sự bất an, sự không dừng lại được. Đó chính là năng lượng đẩy mình đi tới, nó không cho phép mình dừng lại. Mình đang hướng tới, đang chạy theo một đối tượng nào thì chính đối tượng đó ngăn cản không cho hạnh phúc thấm vào mình. Do đó, muốn hạnh phúc đi vào cơ thể mình trong khi thở vào, thở ra, thì mình phải có khả năng dừng lại và nhận diện những gì đang diễn ra trong tâm. Dừng lại được tự nhiên cơ thể mình mở ra và hạnh phúc từ từ đi vào. Lúc đó mới có thể gọi là an trú, an trú tức là ở yên. Bí quyết của sự thành công nằm ở chỗ mình có thể dừng lại được hay không. Dừng lại được thì có an, có an mới tiếp xúc được với hạnh phúc. Mỗi hơi thở vào và mỗi hơi thở ra mình như để cho hạnh phúc thấm vào:

Thở vào hạnh phúc đang thấm vào cơ thể của con.
Thở ra hạnh phúc đang thấm vào tâm hồn con.

Đó là hơi thở H – hơi thở hạnh phúc. Bây giờ chúng ta sang hơi thở thứ hai, hơi thở dừng lại và chúng ta gọi đó là hơi thở S (stop)

Thở vào, con đã dừng lại
Thở ra, con không đuổi theo gì nữa hết

Khi thở vào mình dừng lại thật sự, khi thở ra mình cũng dừng lại thật sự. Mình không đeo đuổi gì nữa cho dù đối tượng đó là niết bàn, giác ngộ hay thiên quốc. Khi thở vào, thở ra và dừng lại, ngưng sự theo đuổi, tìm cầu thì hơi thở S giúp mở thân tâm của mình ra. Đến khi thực tập hơi thở H thì hạnh phúc sẽ đi vào. Thực tập hơi thở S thành công thì hơi thở H sẽ thành công.

Nếu mình có cảm tưởng không an trú được, ngồi không yên, đi không vững, ở với chúng không yên, mình cứ nghĩ còn một tháng nữa mình đi chỗ khác thì đó chính là lúc mình cần phải thực tập dừng lại. Có thể chỗ này và thời điểm này là chỗ tốt nhất, thời điểm tốt nhất của mình. Chính ở chỗ này, chính trong thời điểm này mình có điều kiện nhiều nhất để có hạnh phúc. Nhưng vì năng luợng của thói quen cứ thúc đẩy mình, khiến mình không an trú được. Mình không nhận diện được rằng: Chính trong lúc này, chính ở nơi này mình có nhiều điều kiện hạnh phúc nhất.

Hơi thở S giúp mình dừng lại. Mình phải tự hỏi, mình đi tìm kiếm cái gì? Tại sao mình phải đi tìm kiếm? Khi dừng lại được, thấy những điều mình đi tìm kiếm có ngay trong thân tâm, có ngay trong hoàn cảnh của mình. Thấy như vậy đã là tuệ giác rồi.

Tại Làng Mai chúng ta có học phương pháp « chỉ » tức là dừng lại. Khi thở vào ta đưa tâm trở về với thân. Khi thân tâm hợp nhất ta sẽ nhận diện ra rằng mình có quá nhiều cái quý giá, có quá nhiều điều kiện để hạnh phúc. Ví dụ như mặt trăng trên bầu trời, nhiều khi mặt trăng đi theo để soi lối cho mình mà mình không hay biết. Khi mình sinh ra mặt trăng đã có sẵn đó cho mình.  Chỉ cần nhìn lên là mình thấy mặt trăng. Mặt trăng là một món quà rất quý giá cho loài người. Từ thuở còn ấu thơ cho đến bây giờ, mặt trăng luôn luôn đi theo mình. Giả dụ không có mặt trăng, ban đêm sẽ buồn lắm. Không những các thi sĩ buồn mà những người khác cũng buồn. Mặt trăng là một tặng phẩm của cuộc đời dành cho mình. Thấy được như vậy là có tuệ giác. Tuệ giác giúp mình dừng lại, thôi không kiếm tìm nữa.

Ở xóm Thượng, tôi có ba mặt trăng. Thầy Pháp Độ trồng cho tôi một mặt trăng thật tròn bên cạnh chậu trúc. Mỗi buổi chiều tôi thắp vầng trăng nhỏ của tôi lên nếu vầng trăng trên bầu trời bị che lấp. Buổi sớm, khi tôi và thị giả ngồi uống trà hay ăn sáng thì thấy gió đưa phất phơ cành trúc la đà bên trăng. Đó là mặt trăng thứ hai. Tôi còn một mặt trăng thứ ba, nhỏ hơn một chút, đó là một cây đèn thu năng lượng mặt trời để bên cửa sổ. Ban ngày nó tiếp nhận ánh sáng mặt trời, ban đêm mở lên là có ánh trăng. Ánh sáng mặt trăng cũng do mặt trời truyền tới. Mặt trăng nhỏ xíu của tôi bên cửa sổ, ban ngày cũng tiếp nhận ánh sáng mặt trời, ban đêm cháy lên soi sáng căn phòng của tôi. Tôi thức dậy bất cứ lúc nào cũng thấy có ánh trăng soi. Nhà thơ Mai Thảo từng viết:

Chế lấy mây và gầy lấy nắng
Chế lấy đừng vay mượn đất trời
Để khi nhật nguyệt còn xa vắng
Đầu hè vẫn có ánh trăng soi.

Mặt trăng trong phòng tôi là mặt trăng nhân tạo, lấy ánh sáng từ năng lượng mặt trời, tuy nhỏ xíu, nhưng đem đến cho tôi nhiều niềm vui. Mỗi khi thức dậy ban đêm tôi đều thấy có ánh trăng soi. Niềm vui luôn có đầy khắp mọi nơi. Nhìn ra ngoài trời, nếu mình không thấy trăng thì thấy sao, nếu không thấy sao thì thấy mây, không thấy mây thì thấy sương mù, không thấy sương mù thì thấy cây cối… Luôn luôn có cái gì đó cho mình biết rằng những mầu nhiệm của sự sống đang có mặt.

Trở về với giây phút hiện tại, chúng ta sẽ nhận diện ra rằng mình có quá nhiều điều kiện để hạnh phúc: Hai chân mình còn đi được, hai mắt mình còn sáng; hai lá phổi mình còn thở được, mình có thầy đang còn sống với mình, mình có anh chị em đang sống với mình, mỗi ngày mình được ngồi thiền, được thực tập… Những điều kiện hạnh phúc đã có quá nhiều. Mình còn muốn đi tìm gì nữa? Mình cứ bồn chồn đi tìm kiếm bỏ hết tất cả những cái quý giá đẹp đẽ phía sau. Cái mình đi tìm có ngay ở đây, sờ sờ ra đó, còn tìm kiếm chi nữa?

Trở về với hơi thở S mình nhận ra rằng, cái mình đi tìm vốn có sẵn đó. Thấy được như thế mình sẽ dừng lại. Khi dừng lại được hơi thở hạnh phúc sẽ đi vào trong cơ thể mình và mình thẩm thấu được hạnh phúc.

Phải để cho hạnh phúc thấm vào cơ thể để mình được nuôi dưỡng và trị liệu. Có thể mình đang có một vài đau nhức trong thân và trong tâm cần được trị liệu. Chúng ta đi tìm sự trị liệu ở đâu? Sự trị liệu có ngay khi mình dừng lại được. Dừng lại được thì thân tâm mình có khả năng thẩm thấu, và những yếu tố hạnh phúc sẽ đi vào để nuôi dưỡng và trị liệu thân tâm. Trị liệu có ngay đó, chỉ tại mình không cho phép nó đi vào thôi. Những tập khí rong ruổi tìm cầu của mình đã trở thành một tấm nylon bao phủ xung quanh ngăn cản không cho hạnh phúc được thẩm thấu.

Hơi thở H là hơi thở trị liệu và nuôi dưỡng. Nhưng nếu không có hơi thở S để dừng lại thì mình không thẩm thấu được. Sự mầu nhiệm, sự huyền diệu, phép lạ của tương tức là những điều mình có thể tiếp xúc mỗi ngày.

Hôm nay ở xóm Thượng sư chú Pháp Biểu hô canh ngồi thiền, sư chú Pháp Linh hướng dẫn địa xúc bằng tiếng Anh, sư chú Pháp Thệ hướng dẫn địa xúc bằng tiếng Pháp. Ba người làm rất hay. Trong buổi địa xúc sáng nay mình thực tập tiếp xúc với tổ tiên tâm linh và tổ tiên huyết thống, tiếp xúc với con cháu tâm linh và con cháu huyết thống. Thực tập địa xúc mình có thể tiếp cận được với sự thật vô ngã. Mình là sự tiếp nối của tổ tiên tâm linh và tổ tiên huyết thống:

“Con có tổ tiên tâm linh của con là Bụt, các vị Bồ Tát và các vị tổ sư qua các thời đại, trong đó có các bậc sư trưởng của con đã qua đời hay còn tại thế. Các vị đang có mặt trong con, các vị đã truyền trao cho con những hạt giống bình an, trí tuệ, tình thương và hạnh phúc. Trong dòng tổ tiên tâm linh của con, có những vị mà giới hạnh, trí tuệ và từ bi viên mãn, nhưng cũng có những vị mà giới hạnh, trí tuệ và từ bi còn khiếm khuyết. Tuy nhiên con cúi đầu nhận chịu tất cả là tổ tiên tâm linh và tổ tiên huyết thống của con, vì chính trong con cũng có những yếu đuối, những khiếm khuyết về giới hạnh, trí tuệ và từ bi. Và cũng vì con biết con còn có những yếu đuối và khiếm khuyết ấy cho nên con mở lòng chấp nhận tất cả các con cháu của con, trong đó có những người mà giới hạnh, trí tuệ và từ bi đáng cho con kính ngưỡng nhưng cũng có những người còn đang chật vật, khó khăn và trồi sụp không ngừng trên con đường tu đạo. Điều này cũng đúng về phương diện huyết thống. Con chấp nhận tất cả các vị tổ tiên huyết thống của con về cả hai phía nội ngoại với tất cả những đức độ, công hạnh và khiếm khuyết của các vị, cũng như con mở lòng chấp nhận tất cả các con cháu của con với những đức độ, tài năng và khiếm khuyết của từng người. Tổ tiên tâm linh và tổ tiên huyết thống của con, cũng như con cháu tâm linh và huyết thống của con đều đang có mặt trong con. Con là họ, họ là con, con không có một cái ta riêng biệt; tất cả đều có mặt trong một dòng sinh mệnh đang diễn biến mầu nhiệm.”

Khi thở vào ý thức các tổ tiên đang có trong mình, mình sẽ thoát được cái cảm giác cô độc, lẻ loi, rằng ta mình là một cái ngã tách rời.

Thở vào, con mời Bụt thở vào với con.
Thở ra, con mời Bụt ngồi với con.
Bụt đang thở nhẹ.
Bụt đang ngồi chơi.

Mình thấy rõ ràng Bụt trong mình đang thở và đang ngồi. Mình cũng thở và ngồi với Bụt; hai là một, một là hai. Bụt là Bụt, mình là mình; nhưng Bụt cũng là mình, mình cũng là Bụt. Đó gọi là bất nhị (không phải hai).

Thở được một hơi và dừng lại được, mình thấy Bụt đang thở nhẹ và mỉm cười. Mình cũng đang thở nhẹ và mỉm cười. Lúc đó hơi thở thứ hai của mình thành công. Bụt thở rất hay, Bụt chỉ thở một hơi là dừng lại được liền và Ngài trở nên thẩm thấu, những mầu nhiệm của vũ trụ thấm vào trong người của Ngài. Trong mình có Ngài, Ngài đang thở nhẹ, Ngài đang mỉm cười; mình cũng đang thở nhẹ, đang mỉm cười. Thở được vậy mình trở nên thẩm thấu và hạnh phúc sẽ đi vào được trong người mình.

Bụt đang thở nhẹ
Bụt đang ngồi chơi
Con đang thở nhẹ
Con đang ngồi chơi
Hạnh phúc đi vào trong Bụt
Hạnh phúc đi vào trong con

Mình cũng có thể thực tập cho cha:
Thở vào, con thấy cha trong con, con là sự tiếp nối của cha.

Rất dễ và rất khoa học! Cha thở với con đi, hai cha con cùng thở. Đó là sự huyền diệu của tương tức. Mình với cha tương tức, mình với cha không phải là hai. Chỉ cần một hơi thở vào độ ba bốn giây là mình có thể tiếp xúc được với cái mầu nhiệm tương tức đó. Nếu mình thấy khỏe, mình trở nên thẩm thấu thì hạnh phúc sẽ đi vào trong mình và nếu hạnh phúc đi vào trong mình được thì hạnh phúc cũng đi vào trong cha. Cha trong mình có hạnh phúc, mình thở cho mình và mình thở cho cha. Cũng như lúc nãy mình thở cho mình và cho Bụt, bây giờ mình thở cho mình và cho cha. Chuyện này không khó, ai cũng có thể làm được.

Bây giờ mình thở cho mẹ:
Thở vào, con mời mẹ thở vào với con

Mẹ không ở ngoài, mẹ ở trong mình, mình là sự tiếp nối của mẹ. Hai lá phổi này mình cho là của mình, nhưng thật ra nó cũng là của mẹ. Tấm thân này mình tưởng là của mình nhưng kỳ thực chính là do mẹ trao cho, nó được hình thành từ một phần thân thể của mẹ. Khi mình thở vào thì mẹ cũng thở vào, hai mẹ con cùng thở. Lúc đó mình tiếp xúc với cái mầu nhiệm của tương tức. Chuyện này rất đơn giản! Thở như vậy mình có tuệ giác tương tức, mình dừng lại và trở nên thẩm thấu. Vì vậy hơi thở H có hiệu lực liền:

Hơi thở của hạnh phúc đang thấm vào trong con
Hơi thở của hạnh phúc đang thấm vào trong mẹ

Mình với mẹ là một, mình thở có hạnh phúc thì mẹ trong mình cũng hạnh phúc, do đó mình là đứa con hiếu thảo nhất vì đã làm cho mẹ hạnh phúc.

Quí vị phải thành công, hơi thở H là hơi thở hạnh phúc. Nếu muốn thành công hơi thở H thì phải thành công hơi thở S, tức là hơi thở dừng lại. Người ta thường nói tới thiền minh sát (vipassyanā meditation) mà ít nói tới thiền chỉ (samatha meditation). Kỳ thực thiền chỉ rất hay, nó giúp mình dừng lại, sự dừng lại và nhìn sâu sẽ cho mình có được tuệ giác tương tức, có được tuệ giác tương tức thì mình dừng lại được dễ dàng, không còn muốn chạy nữa. Chỉ khi nào dừng lại được ta mới có hạnh phúc. Trở về với giây phút hiện tại, mình nhận diện được những cái mà lâu nay mình đi tìm, nó vốn đã có sẵn đó. Đó chính là tuệ giác. Còn nếu mình chưa biết an trú, nghĩa là mình chưa dừng lại được thì đi đâu cũng vậy, cũng không an trú được, cũng không cảm thấy yên thân.

Đứng núi này mình nhìn sang núi nọ. Sống trong thời gian này mình mong ngóng về một thời gian khác để mình có thể là mình. Nhưng kỳ thực mình có thể là mình ngay trong giờ phút hiện tại nếu mình biết thực tập dừng lại. Muốn dừng lại phải có một chút tuệ giác, tuệ giác do sự dừng lại mà có và tuệ giác giúp cho sự dừng lại đó lớn lên. Chỉ (samatha) và quán (vipaśyanā) tuy là hai nhưng cũng là một. Chỉ là dừng lại, quán là nhìn sâu để có tuệ giác. Ban đầu nhờ chỉ mình dừng lại và mình có được một ít cái thấy – tuệ giác, rồi chính cái thấy – tuệ giác đó giúp mình thật sự dừng lại và chỉ khi nào thật sự dừng lại mình mới có hạnh phúc. Dừng lại, không tìm kiếm nữa mới có an trú, do đó mới có hạnh phúc.
Một vị mâu ni là một vị đã dừng lại, không còn tìm kiếm gì nữa, vì vậy cho nên vị đó có hạnh phúc.

Bài kệ 6

Thường hành dữ tuệ hợp     常行與慧合
Ninh độc mạc loạn câu    寧獨莫亂俱
Trước sắc sinh tà loạn    著色生邪亂
Vô thế vong dũng mãnh   無勢亡勇猛

Cái hành của ta phải đi theo với cái thấy của ta. Phải học phép độc cư, đừng bao giờ để xảy ra sự chung đụng trái phép. Vướng vào sắc dục sẽ sinh tà loạn, khiến kẻ hành giả đánh mất đi tất cả năng lượng dũng mãnh của chính mình.

Thường hành dữ tuệ hợp: Hành là sự thực tập. Tuệ là cái hiểu, cái thấy. Một bên là cái biết và một bên là cái làm, một bên là lý thuyết và một bên là thực tập, hai cái đi đôi với nhau. Vương Dương Minh – một nhà triết gia Trung Quốc có chủ trương “tri hành hợp nhất” tức cái biết và cái làm phải đi đôi với nhau. Là một người thực tập thì cái biết và cái làm của ta cũng phải đi đôi với nhau; sự thực tập và tuệ giác phải nương nhau; cái hành phải đi theo với cái thấy. Đừng để rơi vào tình trạng lý thuyết suông.

Ninh độc mạc loạn câu: Phải học phép độc cư, đừng bao giờ để xảy ra sự chung đụng trái phép. Câu là chung đụng, loạn là trái phép. Chữ nghĩa ở đây rất ngắn gọn. Người xuất gia phải học cách sống độc cư, đừng có những chung đụng không đúng phép.

Trước sắc sanh tà loạn: Vướng vào sắc dục sẽ sinh ra tà loạn. Trước là dính, là kẹt vào, sắc là sắc dục. Dính vào sắc dục thì sẽ sinh ra tà loạn, có những rắc rối, những hệ lụy và sai lầm. Tà có nghĩa là nghiêng, trái lại với chánh là thẳng.

Vô thế vong dũng mãnh: Tà dục làm cho mình mất đi năng lượng cần thiết để có được niềm vui và hạnh phúc hầu có thể hoàn thành sứ mạng, lý tưởng của mình. Khi vướng vào sắc dục, mình mất hết nguồn năng lượng quý báu đó. Sự dũng mãnh của mình cứ ngày một tàn lụi. Tà dục tàn phá thân tâm của mình khiến nó trở nên bệ rạc. Đứng về phương diện y khoa, thì tà dục đưa mình tới chỗ bệnh, chỗ chết rất mau.

Bài kệ 7

Lậu giới hoài khủng bố   漏戒懷恐怖
Thọ đoản vi bỉ phụ   受短為彼負
Dĩ trước nhập la võng   已著入羅網
Tiện khi xuất gian thanh  便欺出奸聲

Kẻ phạm giới luôn luôn mang theo trong lòng sự sợ hãi. Giây phút giao hoan ngắn ngủi nhưng cái sợ hãi này phải mang lấy lâu dài. Đã trót vướng vào cái lưới rồi, mình phải liên tiếp nói lên những lời gian dối không thật.

Lậu giới hoài khủng bố: Kẻ phạm giới tà dâm luôn luôn mang trong mình sự sợ hãi.

Thọ đoản vi bỉ phụ: Thọ là cảm thọ của giây phút chung đụng xác thịt. Giây phút giao hoan tuy ngắn ngủi nhưng mình phải mang lấy sự sợ hãi lâu dài. Phụ là gánh nặng. Phải vác gánh nặng ấy trên vai mà đi, khiêng nó mà đi, có thể phải mang gánh nặng ấy suốt đời, lầm lỡ một giây mà ân hận suốt đời.

Dĩ trước nhập la võng: Đã trót vướng vào trong lưới rồi

Tiện khi xuất gian thanh: Thì phải tiếp tục nói ra những lời gian dối, không thật. Khi là không thật, gian là gian dối, thanh là lời.

Con vi khuẩn HIV chỉ cần một, hai giây là đi vào trong người mình. Ở châu Phi hay ở những châu khác người chết vì bệnh AISD rất đông, cả triệu người. Kinh này Đức Thế Tôn không chỉ nói cho riêng người xuất gia mà Ngài nói cho tất cả chúng ta.
Trong cuốn Sám Pháp Địa Xúc” có nói:

Kính bạch Đức Thế Tôn, trong quá khứ con đã không biết xử lý năng lượng tình dục của con cho nên con đã tạo ra nhiều lầm lỡ. Con biết con người đã là một loài động vật thì năng lượng tình dục có mặt trong con là một điều tự nhiên. Nhưng tại vì trong quá khứ con chưa biết sống, chưa biết thực tập cho nên con đã để hạt giống tình dục được tưới tẩm quá nhiều, cho đến nỗi có lúc con đã lao đao và đánh mất hết sự bình an vì sự phát hiện của năng lượng tình dục.

Mình chưa biết cách thực tập nên đã coi phim, xem hình, lên internet để cho những hình ảnh kích động đi vào tưới tẩm và làm cho năng lượng tình dục phát hiện:

“Con đã đọc những sách báo, coi những phim ảnh có những hình ảnh khêu gợi và kích thích dục tình. Con biết trên thị trường người ta làm giàu bằng cách bán dâm rất nhiều, không phải chỉ bằng thân xác mà còn bằng âm thanh, hình ảnh và dụng cụ. Hình ảnh khêu gợi dục tình đâu đâu cũng có, trên sách báo, trên màn ảnh vô tuyến, nơi rạp chiếu bóng, nơi các hình quảng cáo, trong những cuốn băng và các đĩa hình, trên  mạng lưới internet. Tuổi trẻ bây giờ đang là nạn nhân của thị trường đó. Hạt giống tình dục được tưới tẩm hàng ngày nhiều lần và những thanh niên thiếu nữ từ mười ba tuổi trở đi đã sa vào lưới cám dỗ của dục tình, đã vượt quá mức báo động. Con biết đây là một thảm họa cho người trẻ tuổi, biết dục tình mà không biết thương yêu.

Những thiếu niên, thiếu nữ này, khi lớn lên sẽ không có cơ hội thấy được thế nào là tình yêu đích thực tại vì họ chỉ biết tình dục. Sự thực tập thủ dâm đưa tới những kết quả tương tự, làm khô cạn nguồn suối thân tâm mà không cho con người cơ hội biết thế nào là thương yêu đích thực.
Bạch Đức Thế Tôn, con đã được dạy về thân tâm nhất như và con biết rằng những gì xảy ra cho thân mình cũng xảy ra cho tâm mình. Con sẽ không để cho những hạt giống tình dục được tưới tẩm và không để bị lôi kéo vào thói quen của sự thủ dâm. Con nguyện từ nay trở đi không đọc sách báo, không xem phim ảnh kích động dâm tính, không nghe và không nói những câu chuyện về dâm dục, không sử dụng điện thoại và máy vi tính để tiếp xúc với những âm thanh và hình ảnh kích động dâm tính.

Con cũng nguyện góp sức để vận động thắp sáng ý thức về tai nạn của sự kích động dâm tính để có thể tạo ra môi trường sinh sống lành mạnh cho các giới trong xã hội, nhất là cho các giới trẻ.

Vì không biết phép thực tập bảo hộ thân tâm, không tạo được môi trường văn hóa và xã hội lành mạnh, chúng con đã phạm giới tà dâm, đã hiếp đáp, đã lạm dụng trẻ em và lạm dụng ngay con cháu của chúng con trong vấn đề tình dục, đã gây đổ vỡ và khổ đau kéo dài từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Bạch Đức Thế Tôn, xin Đức Thế Tôn và chư vị Bồ Tát mở lòng thương và hộ niệm cho chúng con để chúng con có đủ sức chuyển hóa được những trạng huống đen tối của xã hội hiện tại gây nên bởi năng lượng tà dục. Chúng con ý thức rằng, nếu chúng con không thực tập chánh niệm vững vàng trong lĩnh vực tiếp thọ xúc thực thì hạt giống tình dục trong chúng con sẽ bị tưới tẩm hàng ngày và mỗi khi hạt giống ấy được tưới tẩm và năng lựơng tình dục phát khởi thì thân và tâm của chúng con không còn được an ổn, chúng con sẽ bị năng lượng ấy thúc đẩy đi tìm sự thỏa mãn tà dục. Tai họa SIDA đang làm tiêu hao hàng triệu sinh mạng mỗi năm. Bất cứ ai trong chúng con, nếu không thực tập chánh niệm, cũng có thể rơi vào hiểm họa ấy ngay trong chốc lát.

Lưỡi hái của thần chết SIDA làm rơi rụng hàng trăm ngàn sinh mạng con người trong từng giờ, còn khốc hại hơn những trái bom nguyên tử. Thế giới của chúng con đang bị ngọn lửa của tà dục làm cho bốc cháy. Cúi xin Đức Thế Tôn và Đức Bồ Tát Quan Âm xót thương rải xuống trên hành tinh chúng con giọt nước thanh lương của tình thương lớn.”

Con biết tình yêu không phải là tình dục. Hành động dâm dục luôn đem lại khổ đau cho con và cho kẻ khác
Đức Bụt sắp tới của chúng ta là một vị Bụt rất trẻ tên là Metteyya (Đức Di Lặc). Đức Bụt đó là ai? Đó là một người trẻ biết thực tập thương yêu, thương yêu ở đây là từ, bi, hỷ và xả. Tình yêu ở đây không có nghĩa là tình dục. Trong giới thứ ba của Năm Giới tân tu cũng nói rất rõ: “Con biết tình dục và tình yêu là hai cái khác nhau, rằng những liên hệ tình dục do thèm khát gây nên luôn luôn mang tới hệ lụy, đổ vỡ cho con và cho kẻ khác”. Chúng ta phải thực tập giới này thật đàng hoàng để bảo vệ hạnh phúc của chính mình và của kẻ khác.

Bài kệ 8

Kiến phạm nhân duyên ác    見犯因緣惡
Mạc thủ thân tự phụ    莫取身自負
Kiên hành độc lai khứ   堅行獨來去
Thủ minh mạc tập si    取明莫習癡

Thấy được những hệ lụy gây nên do sự phạm giới, ta phải giữ mình và đừng bao giờ tự phụ là mình đã giỏi. Phải kiên trì trên con đường sống độc cư của mình, khi đi cũng như khi về. Phải hướng về nẻo sáng mà đi, đừng bị tập khí si mê lôi kéo.

Kiến phạm nhân duyên ác: Kiến là thấy, ác là sự sai lầm. Đã thấy được sự sai lầm, những đau khổ, hệ lụy khi phạm giới rồi.
Mạc thủ thân tự phụ: Mạc là đừng. Phải biết giữ mình và đừng bao giờ tự phụ. Chớ có khinh thường, đừng nghĩ rằng mình đã giỏi, tại vì trong cơ thể mình có những đợt sóng ngầm, khi gặp hoàn cảnh thuận lợi thì những đợt sóng ngầm ấy sẽ chồm lên và dìm chết mình.

Thân là đại dương sâu
Có những đợt sóng ngầm
Có những loài thủy quái
Có những trận cuồng  phong.
Thuyền ta đi trong chánh niệm
Xin nguyện nắm vững tay chèo
Để không bị đắm chìm vào trong biển xúc mênh mông.
Dùng hơi thở nhiệm mầu, tôi hộ trì thân căn.
(Thơ Sư Ông Làng Mai)

Thân của mình giống như một đại dương sâu, trong đó có những đợt sóng ngầm cho nên mình phải cẩn thận. Mình phải giữ gìn cho người kia và giữ gìn cho mình. Em phải giữ gìn cho anh, anh phải giữ gìn cho chị, chị phải giữ gìn cho em. Cả hai người đều phải giữ gìn. Người kia, mình nghĩ sẽ không bao giờ làm những chuyện như vậy. Mình tin người kia, mình nghĩ không sao đâu. Nhưng thật ra, trong người kia cũng có đại dương sâu và những đợt sóng ngầm. Tốt hơn hết là mình theo uy nghi, giới luật; đừng tự phụ là mình giỏi để vượt qua uy nghi, giới luật, vượt qua những nguyên tắc như nguyên tắc đệ nhị thân. Phải nắm cho vững sự hành trì uy nghi, đừng nói là mình đã giỏi rồi, mình không cần uy nghi nữa.

Kiên hành độc lai khứ: Phải kiên trì trong đời sống độc cư của mình, tức nếp sống của người xuất gia. Kiên là vững vàng, hành là đi. Kiên hành là đi cho vững vàng. Lai là phía trước (tương lai); khứ là phía sau (quá khứ). Nhưng ở đây ta phải hiểu và dịch là khi đi cũng như khi về. Dịch cả câu là: Phải kiên trì, vững vàng trên con đường độc cư của mình, khi đi cũng như khi về.

Thủ minh mạc tập si: Hướng về nẻo sáng mà đi, đừng để bị tập khí si mê lôi kéo. Thủ minh là hướng về nẻo sáng. Mạc tập si là đừng để si mê lôi kéo. Trong con người của chúng ta luôn luôn bị thói quen của si mê kéo đi. Mình phải biết chống lại tập khí đó, phải hướng về phía ánh sáng mà đi.

 

Phần cuối

(Đây là bài pháp thoại Thiền Sư giảng vào ngày 31.1.2010 tại thiền đường Nước Tĩnh, Xóm Thượng, Làng Mai)

Bài kệ 9:

Viễn khả độc tự xử   遠可獨自處
Đế kiến vi thượng hành    諦見為上行
Hữu hành mạc tự kiêu    有行莫自憍
Vô ỷ nê hoàn thứ    無倚泥洹次

Sống một mình trên con đường hướng thượng tìm cầu chân lý. Ta đã có con đường rồi nhưng ta không nên tự kiêu. Tuy chưa thực chứng được Niết Bàn, nhưng ta đã ở sát ngay bên cạnh Niết Bàn rồi.

 

Viễn khả độc tự xử: Sống một mình, ta có thể đi xa được trên con đường kiếm tìm chân lý.

Đế kiến vi thượng hành: Đế là sự thật, là chân đế. Thượng hành là đi lên con đường hướng thượng.

Hữu hành mạc tự kiêu: Mình có sự hành trì rồi nhưng đừng tự cho rằng như thế là mình đã giỏi.

Vô ỷ nê hoàn thứ: Nê hoàn được dịch từ chữ Nirvana, thứ là sát bên cạnh. Tuy ta chưa hoàn toàn chứng nhập được Niết Bàn nhưng Niết Bàn ở ngay sát bên cạnh ta, chỉ cần một bước nữa là đi vào được.

Bài kệ 10:

Viễn kế niệm trường hành     遠計念長行
Bất dục sắc bất sắc    不欲色不色
Thiện thuyết đắc độ thống    善說得度痛
Tất thế dâm tự thực   悉世婬自食

Nên phát khởi tâm nguyện vượt cao đi xa, không dừng lại ở cõi sắc và cõi vô sắc. Theo lời Đức Thiện Thệ chỉ dạy, ta quyết tâm vượt ra ngoài cõi khổ, được như thế thì bao nhiêu sắc dục của cuộc đời cũng sẽ không làm gì được ta.

Viễn kế niệm trường hành: Phải phát khởi tâm nguyện vượt cao đi xa. Trường là xa, hành là đi. Kế là phải suy tư. Tâm của mình phải suy tư tới chuyện vượt cao đi xa.

Bất dục sắc bất sắc: Không bị kẹt vào cõi sắc và cõi vô sắc. Dục giới thì nặng nề, sắc giới thì nhẹ nhàng hơn nhưng vẫn còn hệ lụy cho nên ta phải vượt qua cõi dục và vượt thoát cả cõi sắc.

Thiện thuyết đắc độ thống: Theo lời Đức Thiện Thệ chỉ dạy ta quyết tâm vượt ra ngoài cõi khổ. Thiện là Đức Thế Tôn, Thiện Thệ là bậc đã qua tới một cách nhiệm mầu. Thống là cõi khổ. Hành theo lời dạy dỗ của Đức Thiện Thệ, mình sẽ vượt qua được cõi khổ.

Tất thế dâm tự thực: Như thế thì những ham muốn của cuộc đời tự đổ ngã, không làm gì mình được.

Đứng trên phương diện hình thức, ta thấy như Đức Thế Tôn dạy kinh này cho người xuất gia trẻ, nhưng trong nội dung Ngài dạy cho tất cả mọi người, người xuất gia cũng như người tại gia, người lớn tuổi cũng như người trẻ tuổi. Kinh này rất quan trọng.

Thầy Di Lặc là một người trẻ, thấy vấn đề ái dục là một vấn đề quan trọng cho người tu, không phải chỉ cho người tu xuất gia mà cho cả người tu tại gia nên thầy đã tới thưa hỏi với Đức Thế Tôn không ngại ngùng. Thầy có đức tin nơi Đức Thế Tôn và Đức Thế Tôn cũng đã thẳng thắng chỉ dạy một cách rất chi tiết.

Thầy Metteyya là ai? Thầy Metteyya là mình. Metteyya có nghĩa là thương yêu, Đức Bụt của thế kỷ chúng ta là Đức Bụt của thương yêu. Định nghĩa của chữ thương yêu trong đạo Bụt rất rõ, đó là từ, đó là tình bạn. Chữ Metteyya dính với chữ metta hay maitri. Maitri (tình thương) bắt nguồn từ chữ mitra mà ra, mitra là tình bạn. Tình thương ở đây là tình bạn. Chính nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cũng nói: “Tình bạn thì lâu dài, khỏe mạnh còn tình yêu kia là lửa rơm mà thôi.”

Khi thực tập mình chế tác tình bạn, tình anh chị em. Tình bạn, tình anh chị em đem lại rất nhiều hạnh phúc và không gây đổ vỡ. Là người trẻ, mình biết sự thực tập của mình là để chế tác ra tình anh chị em, có tình anh chị em thì cuộc đời bớt khổ rất nhiều. Không có gì quý hơn tình anh chị em. Tình anh chị em được làm bằng bốn chất liệu: từ, bi, hỷ và xả. Đó là sự thực tập của đức Bụt tương lai, của những người trẻ. Hồi còn là một thầy trẻ, tôi có một ước muốn rất sâu sắc, đó là làm thế nào để có thể xây dựng được một đoàn thể trong đó có tình thương. Trong đoàn thể ấy mọi người coi nhau như anh chị em một nhà.

Năm 1954, tôi đã có cơ hội để làm việc đó. Hồi ấy, đất nước bị chia hai, một nửa là Cộng Sản, một nửa là Tư Bản chống cộng. Sự phân chia đất nước và tình trạng chính trị bấy giờ gây nên rất nhiều hoang mang cho giới trẻ trong nước. Giới xuất gia trẻ lúc ấy cũng rất hoang mang, không biết mình sẽ làm gì? Trước sự hoang mang rất lớn của những người xuất gia trẻ, các thầy trong Phật học viện không đủ sức để trấn an, lúc đó tôi đã đứng ra để chăm sóc họ. Tôi đã đề nghị thay đổi chương trình học và tu trong Phật học viện chùa Ấn Quang, mở một con đường mới để người học tăng có thể tu học và có đủ khả năng đối phó với tình trạng mới của đất nước, của dân tộc.

Tôi đã có cơ hội gần gũi với các thầy, các sư cô trẻ. Tôi đã giúp họ xây dựng tình anh chị em. Lớp ấy bây giờ đã thành hòa thượng, thành sư bà hết rồi, như hòa thượng Minh Cảnh, một học giả, người biên tập Huệ Quang Đại Tự Điển cũng thuộc về thế hệ đó. Trong thời gian ấy tôi đã đem hết sức mình để xây dựng đoàn thể của những người xuất gia trẻ và tôi đã có rất nhiều hạnh phúc.

Tôi nhớ đó là lần đầu tiên các sư cô, sư chú được hát những bài hát mới theo tân nhạc. Chính tôi đã dạy họ những bài hát ấy. Có một lần tôi đang dạy họ bài “Đêm đã đến rồi Ngài hãy chọn đường đi, đường từ bi” thì Hòa Thượng Đôn Hậu từ ngoài đi vào, Hòa Thượng đứng lại nhìn, hơi bất ngờ khi lần đầu tiên thấy các sư cô sư chú hát. Bây giờ mình thấy các sư cô, sư chú hát là chuyện thường nhưng hồi đó hát tân nhạc là chuyện rất lạ. Cũng như chuyện các thầy, các sư cô thời ấy đi xe đạp là một chuyện mới. Tôi là một trong sáu vị xuất sĩ đầu tiên ở Việt Nam đi xe đạp, rất tân thời.

Tình huynh đệ rất lâu bền. Trong những năm lưu vong ở nước ngoài, lâu lâu trong đêm tôi vẫn nằm mơ thấy mình trở về thăm anh em. Tôi đi vào cư xá chùa Ấn Quang hay các học viện khác như chùa Hải Đức. Tôi gặp các sư chú và hỏi: “Các anh em mạnh giỏi không? Lâu nay có gì vui không?” Cho đến gần đây tôi cũng còn có những giấc mơ như vậy. Tình anh chị em rất lâu bền. Cách đây độ chừng bốn năm tháng, một hôm tôi nằm mơ thấy mình thức dậy trong một trung tâm nào đó và không khí trong chùa sao mà vui quá. Tôi hỏi:

–    Gì mà vui quá vậy con?

Một thầy nói:

–    Bạch Thầy, mấy anh chị em vừa mới đi xa về. Chúng con đang nấu một nồi cơm lớn để đãi.

Chỉ có từng đó thôi mà tại sao vui quá trời! Nấu một nồi cơm để ăn chung với mấy anh chị em đi xa về thì có gì đâu? Vậy mà vui hết cả chùa. Tôi dậy, đi ra ngoài thăm mấy luống rau, luống hoa mà lòng vui phơi phới. Giấc mơ đó chỉ chừng ba bốn phút, nhưng nó làm tôi vui ngày này sang ngày khác, vui cả tuần.

Tâm thức của mình chứa đựng những kỷ niệm, những hạnh phúc và lâu lâu nó tặng cho mình một giấc mơ rất quý. Tôi biết những thành tựu hay những công tác mình làm được không có gì quan trọng nhưng tình anh chị em là cái đẹp nhất, là cái quan trọng nhất. Trong chuyến về Việt Nam đầu tiên tôi đã nói: Trong chuyến về này tôi không có thông điệp nào ngoài câu “Không có gì quý hơn tình huynh đệ”. Hồ chủ tịch nói: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, nhưng theo tôi thì “Không có gì quí hơn tình huynh đệ”. Nếu không có tình huynh đệ thì làm gì có tình bạn hữu chung với nhau để có độc lập tự do?

Cách đây độ vài tuần tôi có một giấc mơ khác cũng tương tự như vậy: Tôi đang ở trong một phòng dưới lầu, đang loay hoay với bình trà và hai chén trà thì phát hiện ra có hai huynh đệ trên lầu hình như cũng thức dậy rồi. Tôi nghĩ bây giờ đem lên cho họ một bình trà chắc là họ vui lắm. Và tôi đem lên. Giấc mơ chỉ có chừng đó thôi. Tôi không biết bối cảnh trong giấc mơ ở đâu, hình như là ở Làng Mai. Giấc mơ rất đơn sơ mà hạnh phúc lại rất sâu sắc. Thức dậy tôi thấy lạ, giấc mơ như vậy rất bổ dưỡng và tôi vui ngày này sang ngày khác. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn từng nói: Tình bạn thì bền vững và lâu dài.

Tu là chế tác loại tình thương đó. Sự thật, tu là học thương, mình có cơ hội để thương và để được thương. Đó là tình thương lành mạnh của tình anh chị em, nó nuôi dưỡng mình và đem lại hạnh phúc cho mình. Tu không có nghĩa là không thương nữa, tu là phải thương nhiều hơn nhưng thương theo nghĩa như vậy. Đó là sự thực tập mà thầy Metteyya đã học được từ Đức Thế Tôn. Mình cùng phe với thầy Metteyya, mình cũng học và thực tập như vậy. Mình thương nhau, sống với nhau, mình không tách rời khỏi tăng thân tại vì mình có tình anh chị em. Hạnh phúc của Bát Nhã cũng vậy, tuy tu viện Bát Nhã bị đánh tan tành nhưng có một cái không gì lay chuyển được, đó là tình anh chị em. Còn tình anh chị em là còn tất cả. Mình có thể thấy rất rõ, tình yêu không phải là tình dục. Tình yêu và tình dục là hai cái rất khác nhau. Mình không cần tình dục mà vẫn có thể có tình yêu. Thầy trò thương yêu nhau như vậy, anh chị em thương yêu nhau như vậy, mình giữ giới luật, uy nghi cho vững chãi và mình nuôi dưỡng tình anh chị em. Càng thực tập giới luật, uy nghi vững chãi chừng nào thì tình anh chị em càng bền vững chừng đó.

Có những người trẻ có khó khăn, tới phát lộ với tôi, xin tôi chỉ dẫn, Tôi luôn luôn nói như vầy: “Mình lỡ vướng, lỡ đau khổ, sợ hãi thì đó là cơ hội để mình học hỏi. Mình phải nương vào thầy, nương vào các sư anh, sư chị lớn để thoát khỏi tình trạng đó. Kinh dạy rất rõ, mình đã thấy có một vài trường hợp bị vướng vào ái dục rồi đánh mất tăng thân, xa lìa tăng thân. Mình không muốn chuyện đó. Đánh mất tăng thân, đánh mất đời sống lý tưởng của mình thì mình còn gì nữa? Mình không muốn đi theo vết xe đổ của người đó. Nếu có lầm lỡ, mình phải lên phát lộ với Thầy hoặc với sư anh, sư chị lớn để được chỉ dẫn. Khi có người phát lộ với tôi như vậy thì tôi thường dạy rằng: Con đã từng đau khổ vì chuyện đó, con đã từng hối hận thì con phải để năm bảy ngày để quán chiếu, để coi thử, qua đau khổ đó con đã học được gì? Nếu con thấy chuyện đó đem lại sự sợ hãi, sự đau buồn, sự bất an cho con thì sau khi quán chiếu con viết xuống, con thực tập sám pháp địa xúc một thời gian, con phát lộ và báo cáo lại với thầy, tự nhiên tâm con sẽ tịnh hóa và con sẽ lấy lại sự an lạc và hạnh phúc mà ngày xưa con có.

Trong Kinh này dạy rất đầy đủ: Ngày xưa mình đã có sự an lạc, có hạnh phúc, có sự yêu thương tôn kính. Nhưng tại vì mình vướng vào ái dục cho nên mình đã đánh mất tất cả. Khi thấy được trường hợp xảy ra nơi vài người, mình phải tự nhắc nhở mình là sẽ không đi vào con đường đó.

Giảng Kinh Vị Mâu Ni Thành Đạt

Kinh Vị Mâu Ni Thành Đạt
(Phụ Tử Cọng Hội Kinh)

Nghĩa Túc Kinh, kinh thứ 15, Đại Tạng Đại Chánh Tân Tu 198
(Purābheda Sutta- Sutta Nipāta, Attakavagga 10)

Phần 1

(Đây là bài pháp thoại Sư Ông giảng vào ngày 03.01.2010 tại chùa Cam Lộ, Xóm Hạ, Làng Mai )

 

Trong khóa tu mùa Đông này chúng ta vừa học kinh Cát Tường và kinh Mâu Ni. Hôm nay chúng ta học một kinh mới cũng với chủ đề mâu ni. Chúng ta có bản chữ Hán, mỗi thầy, mỗi sư cô, sư chú đều phải có một bản chữ Hán để theo dõi và phải học nhận diện được những chữ trong đó. Chúng ta cũng đã dịch kinh này ra tiếng Việt, tiếng Anh và tiếng Pháp.

Có nhiều kinh nói về đề tài mâu ni, đây là một kinh nằm trong đề tài đó. Kinh này có một bản bằng Hán văn và một bản bằng tiếng Pali. Khi so sánh hai bản chúng ta thấy rất vui tại vì hai bản kinh đi về hai miền, miền Bắc và miền Nam và sau 2000 năm thì lại gặp nhau để so sánh. Trong quá trình truyền thừa có thể có những sai sót vì hồi ấy kinh chưa được viết xuống giấy mà chỉ được truyền miệng nên khó tránh khỏi khuyết điểm trong khi truyền lại đời sau.

Khi học hai văn bản, văn bản chữ Hán và văn bản tiếng Pali chúng ta thấy đại ý của hai kinh giống nhau, tuyệt nhất là số bài kệ phần lớn gần giống như nhau. Bản chữ Hán mà chúng ta có ở đây được thực hiện vào khoảng thượng bán thế kỷ thứ ba nên văn rất xưa, rất khó hiểu. Nhiều khi tôi phải so sánh với văn bản tiếng Pali để có thể hiểu được trong kinh muốn nói gì.

Kinh này do cư sĩ Chi Khiêm dịch. Ông cũng đã từng dịch kinh Pháp Cú. Kinh này nằm trong một loạt kinh gọi là Nghĩa Túc Kinh 義 足 經, tiếng Phạn là Arthapada Sutra. Artha là nghĩa lý. Túc 足 là cái chân mà cũng có nghĩa là sự đầy đủ, chữ chân cũng có nghĩa là con đường. Nghĩa túc là nghĩa lý đầy đủ. Kinh Nghĩa Túc, như quí vị đã biết, được dịch vào nửa đầu thế kỷ thứ ba và là kinh thứ 198 trong Đại Tạng Tân Tu (Taisho Tripitaka). Người dịch là cư sĩ Chi Khiêm. Hồi đó có mặt với cư sĩ Chi Khiêm là một thầy tu từ Việt Nam sang, đó là thiền sư Tăng Hội. Hai người đã làm việc chung với nhau.

Hai người đã làm việc với nhau, đã dịch kinh với nhau. Cư sĩ Chi Khiêm dịch được vài chục kinh còn ghi chép lại trong Đại Tạng. Ông đã dịch những kinh tiểu thừa và cả kinh đại thừa. Có những bằng chứng cho thấy kinh Pháp Cú do Chi Khiêm dịch và kinh Nghĩa Túc này cũng do Chi Khiêm dịch. Những kinh này thuộc hệ thống tiểu thừa, nhưng Chi Khiêm cũng có dịch những kinh đại thừa như kinh Duy Ma Cật, kinh Tiểu Phẩm Bát Nhã. Thầy Tăng Hội cũng dịch nhiều kinh thiền tiểu thừa và cả kinh đại thừa. Tác phẩm lớn của thầy là Lục Độ Tập Kinh, hiện nay đã được dịch ra tiếng Pháp. Tôi có một bản Lục Độ Tập Kinh của thầy Tăng Hội bằng tiếng Pháp. Chi tiết đó tôi đọc trong sử và làm cho tôi có cảm tưởng là hai người đã làm việc chung với nhau, hai người đã chia sẻ với nhau những công trình phiên dịch.

Chi Khiêm được sinh ra ở Trung Quốc nhưng ông nội ông là người nước Nhục Chi (Indo-Scythe), vì vậy tên của ông có chữ Chi để nhớ đất nước của mình. Chi tiết đó cho chúng ta có cảm tưởng là sự liên hệ giữa thầy Tăng Hội và cư sĩ Chi Khiêm rất khắng khít. Cuối đời, Chi Khiêm đã thọ năm giới với thầy Tăng Hội và rút về một ngôi chùa để tu tập.

Trong sử có chép, khi thầy Tăng Hội qua nước Đông Ngô, đến Kiến Nghiệp, ở đó chưa có vị xuất sĩ người Ngô nào tại vì trong thời nhà Hán, nhà nước chưa cho phép người Hán xuất gia. Đến thời Tam Quốc cũng vậy và thầy Tăng Hội là người đầu tiên tổ chức đại giới đàn để truyền giới cho người Hoa. Với sự hỗ trợ của vua Ngô Tôn Quyền, thầy Tăng Hội đã lập được ngôi chùa Phật giáo đầu tiên ở nước Ngô gọi là chùa Kiến Sơ (First built). Dù sau này có khó khăn, có gặp pháp nạn, nhưng rốt cuộc ngôi chùa Kiến Sơ vẫn đứng vững. Kiến Sơ là trụ sở của đạo Bụt tại nước Ngô. Bây giờ đến Nam Kinh, chúng ta có thể tới thăm, tuy chùa không còn nữa nhưng vết tích ngày xưa vẫn còn đó. Ngày xưa, vào thế kỷ thứ ba, thầy Tăng Hội của chúng ta đã qua đó và giúp tạo dựng Phật giáo ở nơi này.

Khi thầy Tăng Hội sang Đông Ngô thì ở đó chưa có một vị xuất gia người Hoa nào. Lúc đó nhà Hán vừa tan rã, Trung Quốc chia ra làm ba nước gọi là Tam Quốc: Miền Bắc có nước Ngụy, miền Tây có nước Thục và miền Nam có nước Đông Ngô. Kinh đô của Đông Ngô là Kiến Nghiệp tức Nam Kinh bây giờ. Thầy Tăng Hội tới Kiến Nghiệp và lập ngôi chùa đầu tiên ở Đông Ngô. Vua Ngô lúc bấy giờ là Ngô Tôn Quyền.

Có một điều rất rõ là, tuy cư sĩ Chi Khiêm dịch kinh rất nhiều nhưng ông chưa thật sự thọ năm giới. Trong sử có ghi lại là vào lúc cuối đời thì cư sĩ Chi Khiêm đã thọ năm giới. Hồi đó làm gì có người xuất sĩ ở Đông Ngô để cư sĩ được thọ giới ngoài thiền sư Tăng Hội? Cho nên chúng ta có thể kết luận rằng, cư sĩ Chi Khiêm là đệ tử năm giới của thầy Tăng Hội. Đó là luận án của tôi.

Thầy Tăng Hội là con của một nhà doanh thương trẻ gốc Khương Cư (Sogdian) tới từ Ấn Độ. Cha của thầy qua tới đất Giao Châu, thấy ở đây dễ chịu nên muốn ở lại luôn. Ông cưới một cô gái Việt Nam và sinh ra thầy Tăng Hội. Vì vậy thầy Tăng Hội có cha gốc Khương Cư và mẹ gốc Việt Nam. Nhưng đến mười tuổi thì thầy mồ côi cả cha lẫn mẹ và được nhận vào chùa làm chú tiểu. Thầy rất thông minh nên học gì cũng nhanh. Thầy học tiếng Sanskrit, học chữ Hán. Khi lớn lên thầy trở thành một vị giáo thọ rất giỏi và dịch rất nhiều kinh ở Việt Nam. Khi sang nước Ngô thầy vẫn tiếp tục dịch kinh, có nhiều kinh thầy dịch hiện còn được giữ lại trong Đại Tạng Kinh chữ Hán tức Taisho Tripitaka.

Kinh Nghĩa Túc là một tập hợp của nhiều kinh nhỏ. Kinh chúng ta học ở đây có tên “Kinh Cha Con Gặp Nhau”, cha là vua Tịnh Phạn và con là Bụt Thích Ca. Theo kinh này, sau khi thành đạo Bụt không về nhà liền để thăm gia đình. Cốt lõi của kinh có mười bốn bài kệ rất nguyên thủy, rất xưa. Những bài kệ này có phần tương đương trong tạng Pali. Ngoài mười bốn bài kệ còn có một đoạn văn xuôi dẫn nhập. Các nhà nghiên cứu đồng ý với nhau, phần văn xuôi được thêm vào sau để giải thích và tạo ra khung cảnh cho phần cốt lõi của kinh. Kinh Pháp Cú được viết dưới dạng toàn là thơ, còn kinh Pháp Cú Thí Dụ có những câu chuyện thí dụ bằng văn xuôi được đưa vào để đọc cho đỡ ngán và để giúp người ta hiểu thêm về những bài kệ. Phần văn xuôi có sau, phần văn vần (thơ) là căn bản. Ở đây chúng ta chỉ học phần văn vần tức những bài kệ.

Kinh Phụ Tử Cọng Hội (kinh Cha Con Gặp Nhau) 父 子 共 會 經 miêu tả lúc Bụt về thăm gia đình lần đầu, cả dòng họ Sakya tổ chức tiếp đón Bụt rất long trọng. Chính vua Tịnh Phạn cũng đi ra tiếp đón Bụt. Thấy Bụt đi rất uy nghi giữa một số đông đảo các thầy, vua Tịnh Phạn cúi xuống đảnh lễ Bụt. Có một vài vị bị sốc: “Trời ơi! Tại sao cha mà lại đi lạy con?” Vua Tịnh Phạn nói:

– Quí vị phải biết Siddharta là con của tôi. Nhưng khi hoàng hậu có mang Siddharta thì bà nằm mơ thấy có một con voi trắng sáu ngà chui vào bụng. Siddharta lớn lên mới mấy tuổi đã biết ngồi thiền, có bóng cây che cho đến khi mặt trời lặn…

Và vua kể lại những chuyện ngày xưa. Dòng họ Thích Ca và những người thân thuộc đều rất hoan hỷ đến nghe Bụt thuyết pháp và sau đó người nào cũng thọ năm giới.

Hồi đó người ta gọi Bụt là Gotama, Sakya Gotama. Đó là những năm đầu sau khi Bụt thành đạo, người ta chưa gọi Ngài nhiều bằng danh từ Bụt. Người ta gọi Ngài là Gotama muni hay Sakya muni. Muni có nghĩa là người tĩnh lặng, một vị đạo sĩ, một ông thầy tu tĩnh lặng, không nói nhiều, không có nhu yếu tranh luận hơn thua với người khác. Trong những năm đầu người ta thích gọi Đức Thế Tôn bằng danh từ Mâu ni. Thích Ca Mâu Ni có nghĩa là ông thầy tu tĩnh lặng của dòng họ Thích Ca.

Kinh Nghĩa Túc (Arthapada Sutra) là một trong những kinh xưa nhất của Phật giáo nguyên thủy. Khi nghiên cứu kinh này, từ vấn đề bác ngữ cho đến vấn đề khảo cổ, các nhà khoa học nhận ra kinh này có sớm nhất và giọng văn cổ nhất so với tất cả các kinh khác. Các học giả đương thời đều công nhận kinh Nghĩa Túc có tính cách nguyên thủy nhất, nói lên được tinh thần của Phật giáo nguyên thủy.

Tại Làng Mai chúng ta phân biệt lịch sử đạo Bụt ra ba giai đoạn: đạo Bụt nguyên thủy (Original Buddhism, Primitive Buddhism), đạo Bụt bộ phái (Buddhism of different schools) và đạo Bụt đại thừa (Mahayana Buddhism). Sau khi đạo Bụt bộ phái có mặt được nhiều trăm năm thì bắt đầu có đạo Bụt đại thừa (Mahayana Buddhism, Buddhism of the Great Vehicle). Thường thường lâu nay chúng ta nghĩ rằng đạo Bụt nguyên thủy có mặt từ lúc Bụt thành đạo cho đến năm 140 N (N: nirvana, nhập diệt) tức cho đến 140 năm sau khi Bụt nhập diệt. Sau khi Bụt nhập diệt được 140 năm thì giáo đoàn của Ngài chia ra, ban đầu chia làm hai: Phái Thượng Tọa Bộ thiểu số, bảo thủ và phái Đại Chúng Bộ đa số, tiến bộ. Chuyện phân phái xảy ra mấy trăm năm trước Thiên Chúa giáng sinh.

Chúng ta thấy nhân cách của Đức Thế Tôn rất hùng mạnh. Trong thời của Ngài thì nhân cách đó giữ cho giáo đoàn được thống nhất. Đến sau khi Ngài nhập diệt rồi, trong gần một thế kỷ rưỡi nữa giáo đoàn của Ngài vẫn còn thống nhất. Mãi cho đến 140 năm sau khi Ngài nhập diệt thì giáo đoàn mới chia làm hai phái tiến bộ (Mahāsānghika) và phái bảo thủ (Sthavira). Từ hai phái đó chia ra làm hai mươi mấy phái, thời đại này gọi là thời đại Phật giáo bộ phái (Many schools Buddhism).

Đạo Bụt nguyên thủy có mặt trong khoảng 220 năm, nếu chúng ta định nghĩa Phật giáo nguyên thủy như vậy thì còn rộng rãi quá. Khi học kinh Nghĩa Túc chúng ta thấy đạo Bụt nguyên thủy chỉ có mặt chừng vài ba năm, đó là những năm đầu sau khi Bụt thành đạo. Lúc đó chưa có tu viện, Bụt còn đi du hành với các thầy. Kinh Nghĩa Túc là một trong những kinh được nói ra trong những năm đầu khi Bụt và các thầy chưa thành lập tu viện, còn đi với nhau như những đoàn du hành đây đó.

Tuy vua Tần Bà Sa La (Bimbisara) có tặng cho một vườn tre nhưng đó chưa hẳn là tu viện. Đó chỉ là chỗ ngủ, chưa có nhà cửa, chưa có quy chế của một tu viện. Bụt và các thầy theo Bụt được gọi là những nhà đạo sĩ đi lang thang giáo hóa và danh từ Mâu ni dùng để chỉ những ông thầy tu như Bụt.

Hơn một năm sau khi thành đạo, Bụt trở về thành Ca Tỳ La Vệ, người ta đón tiếp rất đông, người ta nói tới Ngài như một vị mâu ni lớn, một vị đại mâu ni (maha muni). Trong kinh “Phụ Tử Cọng Hội” người ta đặt câu hỏi: “Thưa Gotama, thế nào là một vị mâu ni, thế nào là một vị thầy tu tĩnh lặng, một người có giới đức hoàn toàn? Chúng con muốn biết. Xin Ngài định nghĩa giùm cho, thế nào là vị mâu ni?”

Bài kệ 1:

Hữu giới cụ đương hà kiến    有戒具當何見
Vân thuyết ngôn tùng uẩn khổ     云說言從陰苦   
Nguyện Cồ Đàm giải thuyết thử   願瞿曇解說此
Vấn chánh ý thế hùng sanh    問正意世雄生

Đây là bài kệ khó nhất trong kinh, chúng ta có thể dịch như sau:

Chúng con phải nhận diện như thế nào và phải nói như thế nào cho đúng về bậc toàn thiện có chánh kiến, có đầy đủ giới pháp, bậc được sinh ra như một vị anh hùng trên thế gian, bậc đó đã vượt thoát mọi ràng buộc khổ nạn? Xin Đức Gotama chỉ dạy cho chúng con.

Hữu giới cụ
: Ba chữ này có thể chỉ một con người có đầy đủ giới và hạnh.
Đương hà kiến: Phải nhận diện người đó như thế nào? Làm thế nào để nhận diện được một con người toàn thiện, một bậc mâu ni?
Vân thuyết ngôn: Chúng ta có thể nói gì về người đó?
Tùng uẩn khổ: Uẩn là ngũ uẩn, là những người lên xuống vì năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) của mình. Tùng uẩn khổ có nghĩa là người đó, khi so sánh thì nổi bật lên trong cuộc đời đầy khổ đau.
Nguyện Cồ Đàm giải thuyết thử: Cồ Đàm là phiên âm của chữ Gotama. Bậc toàn thiện có giới đức đầy đủ, làm sao nhận diện được, làm sao nói về người đó được, xin Đức Thế Tôn nói cho chúng con nghe.

Vấn chánh ý thế hùng sanh: Thế là cuộc đời, hùng là anh hùng. Có người đặt câu hỏi, đó là ý đưa ra để đặt cho một người được sinh ra trên cõi đời như một bậc anh hùng. Ở đây có ý khen ngợi Đức Thế Tôn là người sinh ra trên đời như một bậc anh hùng. Làm thế nào để có thể nhận diện được một con người toàn thiện như vậy trong số những người đang khổ đau, trầm luân trên đời.

 

Và đây là câu trả lời của Đức Thế Tôn:

Bài kệ 2:

Tiên dĩ hành khí trọng nhuế   先已行棄重恚
Diệc bất trước hậu lai nguyện    亦不著後來願
Lai hiện tại diệc bất thủ     來現在亦不取
Diệc bất thọ tôn kính không   亦不受尊敬空

Trước hết đó là một người đã buông bỏ hết tất cả những hận thù trong quá khứ, một người không còn mơ tưởng, không còn vướng mắc gì vào tương lai. Và cả chính trong hiện tại người đó cũng không vướng vào hư danh và sự tôn kính của người đời. Người đó là một bậc mâu ni, một người toàn thiện.

Đọc câu kệ này chúng ta thấy Làng Mai đi rất đúng với giáo lý nguyên thủy của Đức Thế Tôn.

Tiên dĩ hành là cái đã qua rồi.
Khí trọng nhuế: Khí là bỏ đi. Khí trọng nhuế là bỏ đi sự sân hận lặp đi lặp lại nhiều lần. Tiên dĩ hành khí trọng nhuế: Đó là người đã bỏ đi những hiềm hận về quá khứ. Trong quá khứ mình có những giận hờn, hận thù, lo lắng. Bây giờ đây mình an trú trong giây phút hiện tại, mình buông bỏ tất cả những hận thù dồn dập nhiều lần trong quá khứ.
Diệc bất trước hậu lai nguyện: Hậu lai là tương lai. Nguyện là những ước mơ, những dự án, những mong cầu. Người đó cũng không bị vướng mắc vào những mong cầu ở tương lai. Mình không bị ràng buộc bởi thù hận của quá khứ mà cũng không bị ràng buộc bởi những mong cầu trong tương lai.
Lai hiện tại diệc bất thủ: Trở về hiện tại cũng không bị vướng mắc vào những gì trong giây phút hiện tại.
Đó là tinh thần an trú trong hiện tại, không bị vướng mắc vào quá khứ và tương lai.
Diệc bất thọ tôn kính không: Cũng không bị lung lạc bởi sự tôn kính của người đời. Người đó được mọi người rất tôn trọng nhưng không bị sự sùng kính đó làm hư tại vì người đó không còn cái ngã.

Chúng ta biết, đức của người tu (người xuất sĩ) là sự khiêm nhường. Đức Thế Tôn là một người xuất phát từ dòng dõi vua chúa và trở thành một vị đạo sư, nhưng Ngài rất khiêm cung, rất lặng lẽ, không bao giờ khoe khoang nói mình là hơn người, là một người rất thong dong, giải thoát. Vì vậy nên người ta gọi người đó là một bậc mâu ni đích thực, một đại mâu ni.

Xin định nghĩa cho chúng con thế nào là một vị mâu ni đích thực, một người toàn thiện có đầy đủ giới đức? Câu trả lời đầu tiên của Đức Thế Tôn là: “Đó là người đã buông bỏ tất cả những hiềm hận về quá khứ và cũng không vướng mắc vào những ước ao, mơ tưởng về tương lai, chính trong hiện tại con người đó cũng có tự do, không bị hư danh và sự tôn kính làm cho hư hỏng”. Đó là định nghĩa đầu tiên của một vị mâu ni. Người xuất sĩ phải học cho được đức tính đó. Mình có một ít tài năng, nhưng tài năng đó so với tài năng của Đức Thế Tôn thì không bao nhiêu cả.  Ngài là người đã được sinh ra trên cõi đời như một bậc anh hùng. Mình phải học cho được đức khiêm cung, vô ngã.
Bậc mâu ni, bậc có giới đức toàn vẹn chúng con phải nhận diện người đó như thế nào? Chúng con phải nói năng về người đó như thế nào? Xin đức Cồ Đàm nói cho chúng con nghe. Đó là câu hỏi. Còn tùng ấm khổ hay tùng uẩn khổ chỉ có nghĩa là người đó so sánh nổi bật lên trong cuộc đời khổ đau. Ấm tức là ngũ uẩn, là những người lên xuống vì năm thứ: sắc, thọ, tưởng, hành, thức của mình.

Câu trả lời của Đức Thế Tôn: “Trước hết đó là người đã buông bỏ tất cả những hận thù trong quá khứ, một người không còn mơ tưởng, vướng mắc gì trong tương lai mà chính trong hiện tại người ấy cũng không vương vấn gì vào những hư danh. Đó chính là một vị mâu ni toàn thiện”. Đó là câu trả lời đầu tiên.

Bài kệ 3

Vị lai tưởng bất trước ái       未來想不著愛
Cửu viễn tưởng diệc bất ưu  久遠想亦不憂
Hành viễn khả xả tế nhuyễn    行遠可捨細軟
Tà kiến tận thiểu vô hữu    邪見盡少無有

Không tham đắm vào tương lai, không ưu sầu về quá khứ. Người ấy trên bước đường mình đi đã buông bỏ mọi tham cầu, mọi tà kiến, không giữ lại một tư kiến nào.

Vị lai tưởng là những tư duy, những ý niệm về tương lai.

Bất trước ái là không vướng mắc vào đó. Sống trên đời mọi người thường hay đặt câu hỏi: Tương lai mình sẽ ra sao?
Vị lai tưởng bất trước ái là nghĩ đến những gì sẽ xảy ra mình không cần thắc mắc, lo âu. Mình không bị kẹt, không bị vướng mắc vào những tri giác, những tưởng tượng về tương lai. Nếu tu tập ở Làng Mai mà cứ nghĩ ngày mai sẽ ra sao thì mình không an trú được trong hiện tại, mình chưa có giải thoát.

Cửu viễn tưởng là những cái đi qua lâu rồi (perceptions of the past).

Diệc bất ưu: Cũng không lo lắng về chuyện đó.

Hành viễn khả xả tế nhuyễn: Trong bước đi người đó đã buông bỏ tất cả những tư tưởng tham đắm về tương lai và những ưu sầu về quá khứ, trong bước đường hiện tại người đó cũng không ôm đồm. Tế nhuyễn là những châu báu, của cải mà mình cho là của mình, trong đó có cả ý tưởng chứ không phải chỉ có vật chất mà thôi. Chữ tế nhuyễn dùng để chỉ những sở hữu quí báu của mình như châu báu, vàng bạc, nữ trang v.v…

Tà kiến tận thiểu vô hữu: Là những cái thấy sai lạc, những nhận thức sai lầm đã  được chấm dứt, hoặc còn rất ít, coi như không còn nữa. Không tham đắm vào tương lai, không ưu sầu về quá khứ. Người ấy trên bước đường mình đi đã buông bỏ mọi tham cầu, mọi tà kiến, không giữ lại một tư kiến nào.

Chữ kiến này có nghĩa là một nhận định, một ý kiến, một chủ thuyết. Mỗi người trong chúng ta đều có một nhận định, một cái thấy, một ý kiến riêng. Chính vì sự khác nhau đó mà chúng ta chống đối nhau, chấp nhận nhau. Vì vậy, một vị mâu ni là người đã buông bỏ tất cả các kiến. Chúng ta không thể hiểu được bài kệ này nếu không hiểu được bối cảnh, tư tưởng và triết học trong thời của Bụt. Thời ấy có ít nhất là sáu giáo phái, giáo phái nào cũng đưa ra những ý thức hệ, những tư tưởng và chủ trương của mình. Họ đã đàm luận và cãi lộn nhau rất nhiều, vì vậy có người họ tự xưng là mâu ni nhưng thật ra họ không phải là mâu ni tại vì họ cãi lộn nhau nhiều quá. Trong khi đó mâu ni là người tĩnh lặng, người không có nhu yếu tranh luận. Sở dĩ mình còn cãi lộn, còn tranh luận là vì mình còn giữ ý kiến riêng của mình. Mình cho cái thấy của mình là cao hơn hết.

Chúng ta sẽ học những kinh khác thuộc loại này và sẽ thấy ý này cứ lặp đi lặp lại. Điều đó cho thấy thời của đức Thế Tôn có rất nhiều giáo phái đang tổ chức tranh luận hơn thua, trong khi Bụt khuyên mọi người đừng tranh luận nữa mà hãy tu đi, tại vì triết học và huyền học không thể nào tịnh hóa được thân tâm, chỉ có sự tu tập mới thanh lọc được con người. Vì vậy, đặc tính của một vị mâu ni là chỉ thực tập mà không tranh luận. Nếu mình chưa thấy được cái đó thì mình chưa hiểu được câu này. Nó có nghĩa là trên bước đường tu tập mình phải buông bỏ mọi thứ, buông bỏ hết những tư kiến của mình. Khi không còn chủ thuyết, không còn ý thức hệ thì sẽ không còn tranh luận.

Trong đạo Bụt, cái thấy chân chính được gọi là chánh kiến. Nhưng định nghĩa về chánh kiến trong đạo Bụt trước hết là buông bỏ tất cả các kiến. Vì vậy mình nói có những cái thấy sai lạc như cái thấy về thường, cái thấy về ngã. Sự vật vô thường mà mình tưởng là thường. Thành ra cái thấy về thường là một tà kiến. Chúng ta không thể tồn tại mãi được, người thương của chúng ta cũng vậy, không phải cứ còn mãi với chúng ta. Ai rồi cũng phải già, phải chết nhưng mình cứ nghĩ rằng mình trẻ khỏe hoài, đó là cái thấy thường (mọi thứ trường tồn). Đó là một tà kiến. Thành ra mình phải học để lấy cái tà kiến ấy ra. Phải luôn tâm niệm tôi là vô thường, người thương của tôi cũng vô thường. Ngày mai tôi sẽ rụng răng, không còn nhai được thức ăn cứng nữa, ngày kia người thân của tôi sẽ chống gậy đi lọm khọm, không dẻo dai như ngày hôm nay. Chúng ta phải thấy được như vậy, thấy về vô thường.

Để giúp mọi người vượt thoát cái thấy về thường Bụt đưa ra vô thường. Để giúp mọi người vượt thoát cái thấy về ngã, Bụt đã đưa ra vô ngã. Nhưng cái vô thường và vô ngã mà Bụt đưa ra không phải là những cái thấy, đó là những dụng cụ để đào bới, để nhổ gốc cái kia chứ không phải là một cái thấy mới để thay thế vào cái thấy cũ. Thành ra nếu mình tưởng vô thường, vô ngã cũng là những cái thấy như là những cái thấy về thường, về ngã thì mình vẫn chưa tiếp nhận được lời dạy của Bụt. Cái thấy đúng đắn là sự vắng mặt của các cái thấy.

Cái thấy về thường đã phải bỏ đi rồi nhưng cái thấy về vô thường cũng phải bỏ đi luôn. Tại vì cái thấy vô thường không phải là một cái thấy, mà nó là một dụng cụ để đào bới và nhổ bỏ cái thấy về thường mà thôi. Đạo Bụt là tự do đối với các cái thấy. Khi mình không giữ cho mình một chủ trương, một ý thức hệ, thì không có nhu yếu tranh luận nữa. Như vậy mới thật là một người tĩnh lặng. Còn tranh luận thì không phải là một vị mâu ni. Các vị đại mâu ni như vậy thì các vị tiểu mâu ni cũng phải học theo, phải im lặng, đừng tranh luận, vì tranh luận nghĩa là mình đang bảo vệ một cái thấy. Mình không có cái thấy nào để bênh vực cả, mình đã vượt thoát tất cả những cái thấy. Một vị đại mâu ni là một người đã vượt thoát tất cả mọi cái thấy. Hiểu được ý của câu này thì chúng ta mới hiểu được ý của Bụt.

Trên đường đi chúng ta phải buông bỏ tất cả, trong đó có những cái thấy của mình, đừng giữ lại một cái thấy nào.

Bài kệ 4

Dĩ khứ khủng vô úy bố    已  去  恐  無  畏  怖
Bất khả động tín vô nghi     不  可  動  信  無  疑
Vô tật tâm lạc bỉ dữ       無  嫉  心  樂  彼  與
Hành như thị ái tôn mạng     行  如  是  愛  尊  命

Đã buông bỏ mọi sợ hãi, đã trở nên vững chãi, nuôi dưỡng được chánh tín, diệt trừ được nghi nan, không tật đố, lòng hoan hỉ với những gì đang có, yêu nếp sống thảnh thơi. Buông bỏ tất cả mọi lo lắng, sợ hãi, trở nên vô úy bất bạo động. Nghĩa là người ta khiêu khích, đe dọa mình vẫn vững như đồng.

Dù ai nói ngả nói nghiêng 
Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân

Khi mình đạt tới cái đó rồi thì sẽ không còn lo lắng, sợ hãi nữa, mà trở nên rất kiên cố, vững niềm tin vào con đường mà mình đang đi.

Vô tật tâm :
tâm không ganh tị.
Lạc bỉ dữ: có hạnh phúc với tất cả những gì mình đang có. Cứ đi như vậy trong cuộc đời và tôn quý giây phút hiện tại thảnh thơi mà mình đang có. Đó là một bậc mâu ni.

 

 

Phần 2:

(Đây là bài pháp thoại Sư Ông giảng vào ngày 7.1.2010 tại chùa Từ Nghiêm, Xóm Mới, Làng Mai.)

Tuy tên của kinh là Phụ Tử Cọng Hội (Cha Con Gặp Nhau) nhưng “cha con gặp nhau” chỉ là cơ hội để Đức Thế Tôn giảng kinh còn nội dung của kinh nói về phẩm chất của một vị mâu ni. Trong kinh Mâu Ni đã học lần trước, chúng ta đã biết thế nào là phẩm chất của một vị mâu ni, một vị tu sĩ tĩnh lặng đạt tới sự bình an và không có nhu yếu nói nhiều. Trong kinh này chúng ta tiếp tục học và đi sâu hơn vào chủ đề đó.

Một vị mâu ni có nghĩa là một ông thầy tu tĩnh lặng. Thích Ca Mâu Ni có nghĩa là một ông thầy tu tĩnh lặng thuộc dòng họ Thích Ca. Trước Đức Thích Ca đã có một vị mâu ni, đó là Câu Na Hàm Mâu Ni (Kanakamuni Buddha). Lúc mới thành đạo, Bụt được người ta gọi là một vị mâu ni, một vị đại mâu ni (maha muni). Khi Bụt về thăm nhà, mọi người cũng gọi Ngài như vậy, và trong buổi hội họp đó có một người đặt câu hỏi: “Thế nào là một vị mâu ni?”

Trong tạng Pali chúng ta có kinh Purābheda Sutta nằm trong bộ Kinh Tập (Sutta Nipāta) tương đương với kinh Phụ Tử Cọng Hội này. Chữ Purābheda có nghĩa là: trước khi tan rã (before the disintegration). Tan rã cái gì? Tan rã hình hài của mình. Chúng ta có thể dịch kinh này là kinh Trước Khi Hình Hài Tan Rã hay kinh Khi Hình Hài Còn Đó. Bây giờ hình hài mình còn đây, mình đang còn sống nhưng thế nào cũng có một ngày hình hài này phải tan rã. Chúng ta cũng có thể dịch là kinh Khi Ta Còn Sống. Nhưng nội dung của kinh này nói về phẩm chất của một vị mâu ni. Vì vậy thầy trò mình sẽ đặt tên cho kinh này là kinh Vị Mâu Ni Thành Đạt.

Tập san Ulysse, tập san tiếng Pháp nói về du lịch, số tháng giêng 2010 có nhiều trang nói về đạo Bụt và Đức Thích Ca.Trong đó có nói: “Bụt không phải là một vị thần linh, Bụt là một con người đã vượt thoát tất cả mọi đam mê (Bouddha est un homme, un être humain qui a dépassé toute passion)”. Câu đầu tiên của kinh Vị Mâu Ni Thành Đạt là một câu hỏi: “Thế nào là một vị mâu ni?” Và câu trả lời đầu tiên là: “Người đã vượt thoát tất cả những đam mê”. Vì vậy kinh này được gọi là kinh Vị Mâu Ni Thành Đạt, nghĩa là tuy hình hài còn đó nhưng mọi đam mê đều không còn nữa. Đam mê là những ngọn lửa thiêu đốt thân tâm ta suốt đêm ngày, vì vậy nên khi không còn đam mê thì hạnh phúc rất lớn. Chúng ta cũng có thể đặt tên cho kinh là Phẩm Chất Của Một Vị Mâu Ni.

Chúng ta có một bản chữ Hán, một bản tiếng Pali và hiện nay chúng ta đã dịch kinh này ra tiếng Việt, tiếng Anh và tiếng Pháp.

Hồi tôi còn là một học tăng, trong Phật học viện, không có máy in hay máy photocopy, mỗi người đều phải tự chép tay, có khi phải chép tay một bài học bằng chữ Hán dài tới bảy trang. Trong một viện Phật học chỉ có một pho tự điển, cơ hội sử dụng để tra cứu rất khó. Tôi phải dồn tất cả những chữ mình thắc mắc rồi xin phép một hôm nào đó vào trong viện để tra một lượt. Bây giờ mỗi người đã có sẵn một bản in để học, kinh lại còn được dịch ra nhiều thứ tiếng và có sẵn bản gốc để tra cứu thì phải biết rằng mình rất may mắn.
Chúng ta ôn lại bốn bài kệ đã được học kỳ trước:

1. Đã tiếp nhận đầy đủ giới pháp, chúng con phải nhận diện như thế nào và phải nói như thế nào cho đúng về bậc có chánh kiến, bậc đã được sinh ra như một vị anh hùng trên thế gian, bậc đã vượt thoát mọi ràng buộc khổ nạn? Xin đức Gotama chỉ dạy.

2. Đó là người đã buông bỏ được mọi hiềm hận về quá khứ, mọi thắc mắc lo âu về tương lai. Trong giây phút hiện tại, người ấy cũng không bị hệ lụy vào bất cứ gì, cũng không bị kẹt vào hư danh và sự tôn kính của kẻ khác.

(Trong bản tiếng Pali, bài kệ thứ hai như thế này: Đó là một người tuy hình hài còn đó nhưng không còn ham muốn gì. Vì vậy nên người ta lấy câu này làm đề kinh.)

3. Không tham đắm vào tương lai, không ưu sầu về quá khứ, người ấy trên đường mình đi đã buông bỏ mọi tham cầu, mọi tà kiến, không giữ lại một tư kiến nào.

4. Đã buông bỏ mọi sợ hãi, đã trở nên vững chãi, nuôi dưỡng được chánh tín, người ấy diệt trừ được mọi nghi nan, không tật đố, lòng hoan hỷ với những gì đang có và yêu nếp sống thảnh thơi.

Bây giờ chúng ta học đến bài kệ thứ năm:

Bài kệ 5
Năng tự thủ bất đa vọng    能自守不多望
Tự đa đắc tuệ vô tật    自多得慧無嫉
Bất ác xú bất mô dã    不惡醜不嫫冶
Bất lưỡng thiệt xả hí nghi     不兩舌捨戲疑

Có khả năng tiết chế, không tham vọng, có nhiều tuệ giác, không ganh ghét ai, không nói xấu ai, không trau chuốt bên ngoài, không nói lưỡi hai chiều, người ấy buông bỏ mọi hý luận và nghi ngờ

Năng tự thủ: Có khả năng làm chủ chính mình. Mình có quyền lực, quyền lực này không do người khác đem tới mà có được nhờ vào sự thực tập của chính mình. Đó là khả năng làm chủ cuộc đời mình, không bị bất cứ thứ gì từ bên trong hay từ bên ngoài kéo đi. Chúng ta dịch là có khả năng tiết chế (self restrain).

Khi chơi, khi ngủ, khi ăn, khi làm việc, mình phải có khả năng tiết chế, phải điều độ, đừng để bị đam mê hay thói quen kéo theo. Ăn là một cơ hội để mình thực tập tự chủ. Thường thường ai cũng muốn ăn ngon, nhưng ngon hay dở cũng tùy thuộc rất nhiều vào chủ quyền của mình.

Ở Làng Mai, chúng ta khuyến khích nên ăn chậm, phải nhai ít nhất là 30 hay 50 lần trước khi nuốt. Trong khi ăn thì chú tâm vào thức ăn, chỉ ăn những thứ mình đang ăn, mà không nhai những lo lắng, ưu phiền, những dự án, những buồn khổ của mình. Điều đó phải thực tập vững vàng lắm mới làm được.

Trong khi ăn cơm, mình chỉ chú tâm vào việc ăn cơm thôi mà không suy nghĩ vẩn vơ. Khi bẻ một miếng bánh mì bỏ vào miệng nhai, mình phải ý thức rằng mình đang nhai một miếng bánh mì, mình đang tiếp xúc được với vũ trụ trong miếng bánh mì. Trong miếng bánh mì có ánh sáng mặt trời, có đám mây, có đại địa, có đủ tất cả. Khi nhai, chúng ta tiếp xúc được với tất cả vũ trụ qua miếng bánh mì dù miếng bánh mì đó có thể không lớn.

Trong một khóa tu sức khỏe chúng ta nên tổ chức bữa ăn đầu như vậy. Mỗi người được phát ba miếng bánh mì, mỗi miếng chỉ lớn bằng một đốt tay, và một phần ba ly sữa đậu nành. Ngày xưa, tôi đã hướng dẫn một khóa tu sức khỏe như vậy. Tôi phát cho mỗi người một lát bánh mì có thể bẻ thành ba hay bốn miếng. Sau khi nghe tiếng chuông và thở xong, mình bẻ bánh mì ra, nhìn sâu vào miếng bánh mì để thấy đây là một vị đại sứ mà vũ trụ đã gửi tới để nuôi mình. Chỉ cần một hay hai giây đồng hồ là mình có thể thấy được miếng bánh mì một cách rất sâu sắc. Trong miếng bánh mì có ánh sáng mặt trời, có đám mây, có hạt giống, có đất đai, có phân bón, có thời gian, có không gian, có người nông dân v.v… Với sự quán chiếu, mình không cần nhiều thời gian để có thể thấy được như vậy. Chỉ cần một giây đồng hồ thôi, với chánh niệm và chánh định, mình có thể thấy miếng bánh mì đó do vũ trụ gởi tới để nuôi mình. Đó là tuệ. Có chánh niệm và chánh định thì tự nhiên có tuệ. Có tuệ thì thấy được miếng bánh mì là tặng phẩm của đất trời và  khi thấy được như vậy rồi mình mới bỏ miếng bánh mì vào miệng.

Trong truyền thống Cơ Đốc có lễ Bí tích thánh thể (Eucharistie), là lễ bẻ miếng bánh mì ra và coi miếng bánh mì đó là cơ thể của chúa Kitô. Ăn miếng bánh mì là đưa cơ thể của chúa Kitô vào trong người của mình. Đó là một phương pháp thực tập để tiếp xúc sâu sắc với chúa Kitô. Khi làm như vậy những người bạn Cơ Đốc của mình có thể làm với tính cách hình thức cho có lệ, nhưng cũng có thể làm với tính cách thiền quán. Nếu khi tiếp nhận miếng bánh mì và thấy rằng đây là cơ thể của chúa Jesus – thầy của mình, rồi bỏ miếng bánh mì vào miệng nhai thì mình thật sự đã tiếp xúc được với chúa Kitô. Đó chính là thiền quán.

Vị linh mục hành lễ phải có niệm, có định và có tuệ. Nếu ông chỉ làm như một cái máy thì sẽ không tạo ra được năng lượng niệm-định-tuệ trong nhà thờ, mà chỉ làm hình thức, kẹt vào nghi lễ mà không có nội dung.

Trong đạo Bụt mình không nói miếng bánh mì là thân thể của chúa Kitô mà mình nói miếng bánh mì là thân thể của vũ trụ. Nhìn vào miếng bánh mì chúng ta thấy tất cả vũ trụ, từ đám mây cho đến mặt trời, trái đất v.v… Khi thấy được như vậy tức là có tuệ, lúc ấy chúng ta mới bỏ miếng bánh mì vào trong miệng và nhai. Trong khi nhai ba mươi hay năm mươi lần mình tiếp xúc sâu sắc với vũ trụ bên trong cũng như bên ngoài.

Theo tôi, khi đã bỏ miếng bánh mì vào miệng thì chúng ta nên để miếng bánh trên tay xuống. Sau khi nhai miếng bánh trong miệng ra thành nước rất ngon ngọt và nuốt xuống rồi mới cầm miếng bánh mì lên để cắn hoặc bẻ miếng thứ hai. Chúng ta đừng cầm bánh mì trên tay, vì mình có thói quen ăn chưa xong miếng này đã cắn thêm miếng khác. Đó là một tập khí mà chúng ta phải tập lâu ngày mới bỏ được. Nhất là khi thức ăn có vị ngon ngọt thì mình quên mất, để tâm bị kéo theo mà không làm chủ được mình. Đó là cái tập khí đang ăn chứ không phải mình đang ăn (You are not eating, you are being eaten by your habit energy.)

Khi cầm bát và đưa thìa xúc cơm lên quý vị hãy nhìn một giây đồng hồ để thấy được vũ trụ trong muỗng cơm, rồi quý vị mỉm cười bỏ thìa cơm vào miệng nhai. Sau đó để thìa xuống, đừng cầm thìa tại vì cầm thìa mình sẽ sẵn sàng để múc thìa thứ hai. Lúc này chưa phải là thời gian để múc thìa thứ hai, đây là vấn đề của thìa thứ nhất. Trong khi nhai mình để hết tâm ý vào thìa cơm đang nhai, nhai càng lâu càng ngon.

Quí vị nghĩ rằng, bánh mì sẽ nhạt nhẽo nếu không có phết bơ hay mứt Điều đó không đúng! Làm sao ăn sáng mà không có bơ và mứt? Xin quí vị thử ăn một miếng bánh mì không có bơ và mứt xem! Nếu quí vị nhai 30 lần thì miếng bánh mì bắt đầu trở nên ngon, nhai 50 lần thì ngon hơn gấp hai và nhai 90 lần thì ngon hơn gấp ba, không cần có bơ và mứt mà cũng rất ngon. Nước miếng của mình trộn với bánh mì làm thành chất ngọt rất ngon. Trong thời gian nhai, hệ tiêu hóa đã thực hiện được 70% và khi nuốt vào bụng thì thức ăn được tiêu hóa rất dễ dàng. Ăn như vậy trong vòng nửa giờ thì tuy ăn ít, nhưng mình cảm thấy no đủ và mãn ý, còn ăn theo kiểu ngốn hết miếng này tới miếng khác thì không những đã không ngon mà còn khó tiêu và mình sẽ ăn quá nhiều.

Trong những khóa tu sức khỏe chúng ta phải làm như vậy trong bữa ăn đầu để mọi người thấy được rằng, với một miếng bánh mì rất nhỏ mình có thể nhai đến 100 lần, mà lại rất ngon. Quí vị thử đi, thử ngay trong ngày hôm nay mà xem. Trong chùa thế nào cũng còn bánh mì cũ, bánh mì cũ ăn cũng ngon lắm. Mình để tay xuống, đừng sẵn sàng để đút miếng thứ hai vào miệng. Tay cầm thìa rất quan trọng. Vì mình có tập khí bỏ thức ăn vào miệng liên tục nên phải bỏ tay xuống để thực tập vô vi; phải nhai cho hết, cho thành công, mỉm cười một cái rồi mới đưa tay ra lấy miếng bánh mì thứ hai. Nếu thực tập được như vậy tức là chúng ta đang khôi phục lại chủ quyền của mình.

Trong khi đi cũng vậy, mình đi như thế nào để có chủ quyền về cuộc đời của mình. Mình đang đi chứ không phải bị kéo đi. Đi như một vị Bụt, đi như một vị Thế Tôn.

Chữ tự thủ có nghĩa là mình phải có chủ quyền về cuộc đời của mình. Phải biết tự chế và làm chủ mỗi giây phút của đời sống hàng ngày.
Bất đa vọng: Không trông cầu, không tham vọng nhiều. Biết sống sâu sắc trong giây phút hiện tại thì mỗi giây phút của đời sống trở thành một niềm hoan lạc, trở thành hạnh phúc. Mỗi bước chân là hạnh phúc, mỗi hơi thở là thảnh thơi. Mình thở như thế nào để mỗi hơi thở có thảnh thơi, có hạnh phúc. Mình đi như thế nào để mỗi bước chân có thảnh thơi, có hạnh phúc. Đó là tất cả bí quyết của sự tu học. Phải có niệm, có định và có tuệ. Khi hình hài còn đó chưa tan rã mà mình không biết thừa hưởng những giây phút như vậy, đến khi bệnh sắp chết rồi mới nói: “Trời ơi! Lâu nay mình không thật sự sống!”. Đó là tại vì mình không có khả năng xử lý được đời sống của mình, không biết sử dụng những giây phút mà cuộc đời đã hiến tặng cho mình. Mình phải tự chế, đừng để bị kéo đi bởi ham muốn, tham vọng và đánh mất đi sự sống trong giây phút hiện tại.

Tự đa đắc tuệ vô tật: Có nhiều tuệ giác, không ganh ghét ai. Tự đa đắc có nghĩa là chính mình đạt được rất nhiều. Tuệ là tuệ giác. Vô tật là không ganh ghét ai, chữ tật có nghĩa là ganh ghét.
Bất ác xú: Chữ xú có nghĩa là xấu. Không nói xấu ai.
Bất mô dã: Chữ dã có nghĩa là trau chuốt bên ngoài. Thiếu cái đẹp bên trong nên phải trau chuốt để có cái đẹp giả tạo bên ngoài.
Bất lưỡng thiệt: Không nói hai lưỡi, khi nói thế này, khi nói thế kia, với người này thì nói thế này, với người kia thì nói khác.
Xả hí nghi: Hí là hí luận, nghi là nghi ngờ. Buông bỏ mọi hí luận và nghi ngờ. Hí luận là đàm luận những gì không thật sự có ích lợi cho sự tu học của mình.

Bài kệ 6
Ý tất thoát vô sở trước   意悉脫無所著              
Khí tự kiến vô ỷ vọng   棄自見無綺妄
An tường hành năng giải đối  安庠行能解對
Diệc bất dục đoạn dục tưởng  亦不欲斷欲想

Tâm ý giải thoát, không đắm trước, lìa tư kiến, không thêu dệt hư vọng, bước đi an tường, người ấy có khả năng giải tỏa được mọi tranh chấp, không bị dục kéo đi, và đoạn trừ được mọi dục tưởng.

Ý tất thoát: Tâm ý được giải thoát trọn vẹn. Thoát có nghĩa là không bị ràng buộc. Có những sợi dây trói buộc niềm tự do của mình lại không cho mình cựa quậy. Đó là phược, triền phược là trói lại. Những sợi dây phiền não, những sợi dây của sự giận hờn, nghi ngờ, mê đắm cột chặt lại khiến mình cứng ngắc không có tự do. Ý tất thoát là tâm cởi mở hoàn toàn tự do.

Vô sở trước: Không bị vướng, không bị kẹt vào bất cứ một cái gì.
Khí tự kiến: Khí là buông bỏ, liệng đi, không dùng nữa. Kiến là những cái thấy của riêng mình. Mình có những quan điểm, những tư kiến và cứ khư khư giữ lấy những tư kiến đó cho là nhất trên đời. Đó là nguồn gốc của chiến tranh: Chỉ có tôi là nắm được chân lý, còn bọn họ không có chân lý. Khí tự kiến là buông bỏ những tà kiến của riêng mình.
Vô ỷ vọng: Ỷ có nghĩa là trau chuốt bên ngoài, thêu dệt ra cho đẹp. Vô ỷ vọng là không thêu dệt hư vọng.
An tường hành: bước đi một cách bình an, thảnh thơi, với những bước chân rất an lành. Đó là hình ảnh của vị mâu ni. Nhìn một người đi, mình biết người đó có phải là một vị mâu ni hay không. Dáng đi của người ấy rất an lành thảnh thơi, không hấp tấp, lật đật. Nhìn một sư cô, một sư chú hay một vị cư sĩ đi, mình biết người đó có dáng dấp của một vị mâu ni hay không, người đó có còn là một con lật đật hay không, hay là một người đã buông bỏ. Là học trò của Đức Thế Tôn mình phải học đi cho được như Đức Thế Tôn, đi những bước chân an tường, bước nào cũng rất vững giống như chiếc thuyền có thả neo xuống.

Chúng ta nên nhớ văn này là văn của thế kỷ thứ ba, rất xưa, và cư sĩ Chi Khiêm đã làm việc chung với thầy Tăng Hội.
Năng giải đối: Năng là có khả năng, giải là cởi mở, đối là những cuộc chạm trán, tranh chấp. Năng giải đối là có khả năng hòa giải được, giải quyết được những cuộc tranh chấp giữa người này với người kia.
Diệc bất dục đoạn dục tưởng: Người ấy không có ham muốn và đã cắt đứt tất cả mọi ham muốn. Những ham muốn phát sinh từ tri giác. Tri giác là tưởng. Tại vì tri giác bị sai lầm nên mới có ham muốn, nếu có tri giác đúng đắn thì sẽ không có ham muốn.

Ví dụ một con cá đang bơi lội thảnh thơi, tự nhiên thấy có một con mồi rất ngon. Con mồi này thật ra không ngon như con cá tưởng, vì nó được làm bằng nhựa và do một người câu cá vừa thả xuống, trong con mồi ấy lại có một lưỡi câu. Nếu không có tri giác đúng đắn con cá sẽ bị vọng tưởng kéo đi, nó nghĩ rằng nếu đớp được con mồi ấy thì nó sẽ hạnh phúc. Trong trường hợp này tưởng là vọng tưởng và là tri giác sai lầm. Con cá chưa thấy được sự thật là con mồi đó bằng nhựa không ăn được, và trong con mồi còn có một lưỡi câu.

Có vọng tưởng nên sinh ra dục, sinh ra đam mê, ham muốn. Nếu con cá biết rõ cắn con mồi đó nó sẽ chết, thì nó sẽ không có dục tưởng, mà không có dục tưởng thì sẽ không có dục. Học kinh Samidhi chúng ta biết rằng: dục tưởng là tri giác sai lầm đưa tới ham muốn. Nếu không có dục tưởng thì sẽ không có dục.

Chúng ta trông ngóng, chờ đợi, tìm cầu nhiều thứ. Chúng ta tưởng đạt tới những thứ đó thì mình sẽ có hạnh phúc. Phần lớn trong chúng ta đều có vọng tưởng về những thứ đó, nhất là về tiền bạc, danh vọng, quyền hành, sắc dục. Chúng ta cứ nghĩ chúng sẽ đem lại cho mình an lạc và hạnh phúc. Nhưng chúng ta không biết rằng, những thứ đó là giả trá, có lưỡi câu nằm bên trong và một khi bị vướng vào rồi mình sẽ mất hết hạnh phúc, thảnh thơi. Chúng ta phải quán chiếu để đừng bị vướng vào những tri giác sai lầm đưa tới vọng tưởng. Vọng tưởng tức dục tưởng làm cho mình bị kẹt vào những đối tượng của dục. Mình không có dục là nhờ chấm dứt được dục tưởng. Tri giác sai lầm đưa tới sự ham muốn. Nếu tri giác của mình không sai lầm thì mình có tự do. Tri giác sai lầm đưa tới dục tưởng, mà hễ có dục tưởng thì mất tự do.

Tâm ý giải thoát, không đắm trước, lìa tư kiến, không thêu dệt hư vọng, bước đi an tường, có khả năng giải tỏa được mọi cuộc tranh chấp, không bị dục kéo đi và đoạn trừ được mọi dục tưởng.

Quí vị có thể nương trên lời giảng để làm cho bản dịch được đầy đủ hơn, bản tiếng Việt cũng như bản tiếng Pháp và tiếng Anh.

Bài kệ 7
Bất học cầu sở lạc dục   不學求所樂欲
Tất vô hữu diệc bất ưu     悉無有亦不憂
Vô oán nhuế xả ái dục  無怨恚捨愛欲
Bất vi vị sở khả sử      不為味所可使

Không mưu toan để đạt tới một cái gì mình muốn, cũng không lo lắng khi mình không có cái kia, người ấy không oán giận, không bị vị ngọt của ái dục sai sử.

Bất học cầu: Chữ học không phải chỉ có nghĩa đi tới trường học hỏi, đọc sách hay nghe giảng. Chữ học có nghĩa là thực tập, là sự học hỏi và hành trì của mình. Ngay cả sự tu hành của mình, dù là học Phật hay hành thiền, cũng không phải là để đi tìm cái vui trong dục. Chúng ta học và tu không phải để nắm bắt một cái gì trong tương lai mà là để có tự do ngay trong giây phút hiện tại. Mình không đi tìm cái gì cả. Sự tu học không phải là một phương tiện để mình đi tìm một khác. Chính cái học, cái tu là cứu cánh.

Chúng ta thấy ở đây phương tiện và mục đích không phải là hai. Mình đi không phải để tới mà để có hạnh phúc trong khi đi. Nếu tới được thì quá tốt, còn nếu không tới được cũng không sao, đi là có hạnh phúc rồi. Thở là để có dưỡng khí, nhưng trong khi thở mình phải có hạnh phúc. Ăn là để có chất bổ, nhưng trong khi ăn mình phải có hạnh phúc. Phương tiện là một với cứu cánh chứ không phải dùng phương tiện để đạt tới cứu cánh. Đó là mục đích của mình. Ý tưởng này trong kinh rất quan trọng: Không mưu toan, không học hỏi, không thực tập để đạt tới một cái gì đó, mình phải có hạnh phúc liền bây giờ.

Không có gì mà mình phải đi tìm cầu. Ý tưởng về vô đắc (bất khả đắc) đã có sẵn trong Phật giáo nguyên thỉ. Chúng ta có bài hát: Nowhere to go, nothing to do (Không đi đâu nữa, có chi để làm) đã diễn bày được ý tưởng này.

Tất vô hữu diệc bất ưu: Mình không tìm kiếm nên không có gì để chạy theo cả. Nếu không có cái đó mình cũng vui vẻ, không lo lắng, buồn rầu; mà có cái đó cũng chưa chắc là mình đã thích. Chúng ta thấy rất rõ tư tưởng này của kinh sẽ đưa tới ý niệm vô tác về sau.

Vô tác 無  作 (apranihita) là một trong ba cánh cửa giải thoát. Không chạy theo bất cứ một cái gì; có khi được dịch là vô nguyện 無 願 (no longing) tức là không trông cầu một cái gì khác. Apranihita (aimlessness) là không đặt ra cho mình một đối tượng để chạy theo mà chỉ sống trong giây phút hiện tại, tiếng Pháp là la non-poursuite. Mình sống như thế nào để có hạnh phúc, có tự do trong mỗi giây phút của đời sống hàng ngày. Điều này rất quan trọng!

Chúng ta đang học một kinh thuộc loại kinh nguyên thỉ, nguyên thỉ của nguyên thỉ. Phật giáo nguyên thỉ kéo dài trong nhiều trăm năm, nhưng kinh này được nói trong những năm đầu sau khi Bụt thành đạo. Khi ấy Bụt và các vị xuất sĩ chưa có cơ sở, chưa có tu viện, chưa có tổ chức, còn đi như một nhóm xuất sĩ du hành trong nhân gian để thực tập và giảng dạy. Đó là thời tiền tu viện, thời rất nguyên thỉ. Sau đó, các đức vua và các vị nhà giàu mới cúng đất cho tăng đoàn xây tu viện. Tuy thời này còn được gọi là đạo Phật nguyên thỉ nhưng thật ra đã trở thành đạo Phật tu viện.

Giai đoạn thứ hai là giai đoạn tu viện và tiếp theo, giai đoạn thứ ba, đạo Bụt trở thành một tôn giáo. Trong giai đoạn du hành, các vị mâu ni đi với nhau, sống thảnh thơi. Đây là giáo lý đầu tiên. Trong mùa Đông này mình có cơ hội học được một số kinh như vậy và đây là kinh thứ ba trong số những kinh ấy.

Đạo Bụt ở Việt Nam, Trung Quốc và nhất là ở Tây Tạng, đã trình bày đức Phật như một vị thần linh có rất nhiều quyền phép. Đó là giai đoạn thứ tư của đạo Phật (legendery Buddhism). Trong giai đoạn này chúng ta thấy có những huyền thoại nói Bụt làm phép thần thông, chiếu ra những đạo hào quang. Nhưng khi đọc những kinh như kinh Vị Mâu Ni Thành Đạt này chúng ta tiếp xúc được với đức Phật nguyên thỉ, thấy được đức Phật như một con người và đây là một niềm hạnh phúc rất lớn của chúng ta.

Trong khi nghiên cứu và phiên dịch kinh này tôi thấy rất hạnh phúc vì tôi có cảm tưởng như mình đang thở được không khí trong những năm đầu của Phật giáo, khi Bụt và các thầy còn đang sống tự do, chưa có tu viện. Tất nhiên nói vậy không có nghĩa là có tu viện là mất tự do.

Giống như pha trà, khi rót nước đầu tiên vị của trà rất thơm, rất ngọt. Sau khi uống hết nước đầu sang tới nước thứ hai thì vị của trà không được ngon bằng. Ở đây cũng vậy, được học Kinh này chúng ta như được hưởng nước đầu thơm ngon của trà, chúng ta thấy được đạo Phật thật sự nguyên thỉ, rất hay.

Năm 1946-1947, các thầy, các sư chú chùa Từ Hiếu được lệnh tản cư, hồi ấy thành phố Huế sắp bị chiếm. Tưởng rằng chỉ di tản bảy hay mười ngày rồi được trở về chùa nên thầy trò chỉ mang theo có mấy chai tương. Ai dè thời gian di tản kéo dài, cuối cùng chỉ còn một phần ba lít tương mà cũng chưa được phép hồi cư. Vì vậy tôi phải đổ thêm nước muối vào lọ tương. Khi hái rau ngoài suối, ngoài đồng chấm vào nước tương này thì không còn ngon nữa. Nó không giống nước tương đầu, mà giống nước muối.
Chai tương bỏ nước muối ấy ăn hết được một nửa thì tôi lại đun nước muối đổ thêm vào, thành ra từ từ giống như là mình chấm nước muối chứ không phải là chấm tương.
Đạo Bụt mà chúng ta đang học cũng là nước đầu của đạo Bụt. Chúng ta có phước lắm nên mới được học kinh này.

Khi làm nước mắm người ta bỏ muối vào bể cá, nước đầu lấy ra được gọi là nước mắm nhĩ. Hết nước mắm nhĩ người ta đổ thêm nước muối vào làm nước thứ hai. Nước mắm thứ hai không còn giá trị như nước đầu nữa. Cũng vậy, đây là “đạo Phật nhĩ”, đạo Phật của những năm đầu, rất ngon. Thầy trò mình có cơ hội được nếm và được thở không khí thật sự nguyên thỉ của đạo Phật.

Vô oán nhuế xả ái dục: Không oán giận, không chạy theo dục, không đam mê đối tượng của dục lạc.

Bất vi vị sở khả sử: Không bị kéo theo bởi vị ngọt của dục. Không bị vị ngọt của ái dục sai sử. Câu này khi dịch tôi chịu ảnh hưởng của bản tiếng Pali. Tại sao những thứ đó không kéo mình đi được? Những thứ đó là sự giàu sang. Ai mà không muốn giàu sang? Nhưng tại sao các thầy, các sư cô, sư chú không chạy theo con đường tìm kiếm giàu sang mà lại đi tu? Tại vì mình có tuệ giác, mình thấy rằng: Chưa chắc sự giàu sang đã đem lại hạnh phúc. Sự thật là khi nhìn xung quanh, chúng ta thấy có những người quá giàu nhưng họ vẫn thấy chưa đủ giàu và vẫn muốn giàu thêm nữa. Họ không có thì giờ cho họ, cho người thương của họ và họ có nhiều đau khổ. Cho nên, tiền tài chưa chắc đã đem lại hạnh phúc. Đi xuất gia không có nghĩa là không muốn có hạnh phúc. Mình muốn có hạnh phúc nhưng mình biết hạnh phúc không phải được làm bằng chất liệu của sự giàu sang. Thi sĩ Nguyễn Bính có câu:

Người ta đi kiếm giàu sang cả
Mình chỉ lo toàn chuyện viễn vông

Đi tu không phải là một chuyện viễn vông. Mình không đi tìm niết bàn hay một thiên đường viễn vông mà mình tìm hạnh phúc có thật trong giây phút hiện tại. Trong kinh “Tuổi trẻ và hạnh phúc” (Samidhi) có một cô thiên nữ hiện ra nói với thầy Samidhi:
– Tại sao thầy còn trẻ, tóc còn xanh, mắt còn sáng, mà thầy lại cạo đầu, xoay lưng với thế tục? Tại sao thầy không hưởng hạnh phúc trong hiện tại mà lại đi tìm hạnh phúc viễn vông trong tương lai?
Đi tu có phải là đi tìm một hạnh phúc viễn vông trong tương lai không? Thầy Samidhi trả lời:
– Không phải như vậy! Tôi không đi tìm chuyện viễn vông. Chính chuyện chạy theo năm dục mới là viễn vông. Pháp môn của tôi là hiện pháp lạc trú, tôi tìm hạnh phúc chân thật có ngay trong giây phút hiện tại.
Khi đi xuất gia mình đã có lập trường rất rạch ròi. Mình biết đối tượng mình tìm cầu không phải là sự giàu sang. Chạy theo tiền bạc sẽ làm cho mình đánh mất rất nhiều tự do. Đây là vị ngọt đầu tiên mà một vị mâu ni buông bỏ. Đối tượng buông bỏ tiếp theo là sắc dục. Tiền bạc có vị ngọt của tiền bạc, sắc dục có vị ngọt của sắc dục. Nhưng sắc dục có thể làm tiêu tan cuộc đời của mình, làm hao mòn sinh lực, làm hư hại thân thể và tâm hồn mình. Nó làm cho mình bệ rạc, mất hết sự sống, mất hết niềm vui. Đi tìm hạnh phúc về phía sắc dục rất nguy hiểm. Mình thấy rõ điều đó nên không bị vị ngọt của sắc dục lôi kéo. Trong hành động quỳ xuống, xin thầy cạo đầu để được xuất gia là do các sư cô, sư chú có được tuệ giác đó. Nếu không, tại sao mình làm như vậy?

Vị ngọt thứ ba là danh. Người ta rất ham danh, nghĩ rằng có danh thì sẽ có hạnh phúc. Nhưng có những người có danh lớn mà cũng rất đau khổ. Chạy theo danh, mình có thể bị vấp ngã, phồng da, sưng trán. Vị ngọt của danh có thể kéo mình đi. Một người tu, một vị mâu ni thì không bị vị  ngọt của danh kéo theo.

Vị ngọt thứ tư là thực. Thực là muốn ăn ngon, thực cũng có vị ngọt của nó.

Vị ngọt thứ năm là thụy. Thụy là ham ngủ, ham ngủ cũng là một vị ngọt.

Còn có một vị ngọt nữa là quyền lực. Ai cũng ham quyền hành, tưởng rằng có quyền thì sẽ có hạnh phúc. Nhưng dù quyền lực có lớn đến mấy đi nữa cũng không đem lại cho mình được hạnh phúc mà mình ao ước. Có một chút quyền, mình nghĩ rằng mình có hạnh phúc. Nhưng hễ có một chút quyền rồi thì mình lại thấy cái quyền đó còn nhỏ quá, ước gì mình có được quyền cao hơn. Nếu mình may mắn có quyền lớn hơn, mình cũng thấy nó vẫn chưa đủ. Làm tổng tư lệnh của quân đội lớn nhất thế giới như tổng thống Hoa Kỳ là có một quyền hành khá lớn. Nhưng chỉ cần quán chiếu vài ba phút thì mình thấy rõ: Một vị tổng thống Hoa Kỳ có quyền hạn rất ít, muốn làm nhiều điều mà làm không được. Ngay trong đất nước của mình, với một quân đội hùng mạnh và một ngân sách khổng lồ mà cũng vẫn còn nhiều lúng túng. Ví dụ trong vấn đề về Afghanistan, rất khó giải quyết. Vì  vậy không bao giờ có cái gọi là “có đủ quyền”, mình luôn luôn thích có quyền hành lớn hơn, cũng như khi khát nước mà mình ăn muối, càng ăn thì càng khát thêm. Đã có quyền rồi, muốn có thêm nữa, đã là trung tướng thì muốn thành đại tướng.

 

Phần 3

(Đây là bài pháp thoại Sư Ông giảng vào ngày 10.1.2010 tại chùa Pháp Vân, xóm Thượng, Làng Mai.)


Bài kệ 8

Bất tự cao ngã vô đẳng    不自高我無等
Đắc đối hủy hoành thủ kính     得對毀橫取敬
Đương hành quán chỉ ý niệm 當行觀止意念
Kiến thiện ác phi thứ vọng    見善惡非次望

Không tự cao, thấy được tự tánh bình đẳng và vô ngã, không có mặc cảm thua người hay bằng người; biết quán chiếu, biết đình chỉ tâm ý, biết cái gì là thiện cái gì là ác và buông bỏ được những vọng cầu về tương lai.

 

Bất tự cao: Không cho mình là hơn người. Không có mặc cảm tự tôn.
Ngã vô đẳng: Đạt tới cái thấy vô ngã, thấy được tính bình đẳng của tất cả các pháp. Đẳng là samata, là tính bình đẳng của vạn pháp. Câu này nói về mặc cảm hơn người.
Đắc đối hủy hoành thủ kính: Không có mặc cảm tự ti. Câu này nói đến hai loại mặc cảm: Mặc cảm bằng người và mặc cảm thua người. Đắc đối hủy có nghĩa là: “Tôi không dám công nhận tôi được ngang hàng với anh”, đó là mặc cảm thua người. Hoành thủ kính có nghĩa là:  “tôi ngang hàng với anh, anh phải kính trọng tôi đúng mức”. Đó là mặc cảm bằng người.
Đương hành quán: Nên thực tập quán chiếu, nhìn kỹ để thấy được chiều sâu của sự vật.
Chỉ ý niệm: Phải biết dừng lại, biết thực tập đình chỉ tâm ý. Tâm ý của chúng ta rong ruổi như một con khỉ bỏ cành này lại nắm lấy cành kia không ngừng. Tâm ý mình hết nắm bắt cái này lại đi nắm bắt cái khác, không dừng lại được. Mình cứ bị những tâm ý của mình kéo đi mà không nắm được chủ quyền của chính mình. Ngày xưa tôi có viết cuốn sách “Nẻo về của ý”. Tâm ý của mình có một con đường quen để tìm về. Mình phải quán chiếu xem tâm ý của mình chạy như thế nào, nó đang muốn đi về đâu? Mình phải làm chủ nó, đừng để nó kéo mình đi. Bìa của cuốn sách “Nẻo về của ý” đã được họa sĩ vẽ một con khỉ đang chuyền cành.
Chỉ ý niệm là làm cho con khỉ tâm ý đứng lại. Chỉ là samatha, quán là vipaśyana. Mình phải học cách làm lắng lại tâm ý, thực tập tập trung và nhìn cho sâu.
Kiến thiện ác: Phải có khả năng thấy và phân biệt được cái thiện và cái ác, cái tốt và cái xấu.
Phi thứ vọng: Đừng đuổi bắt và trông cầu cái gì sắp xảy tới. Vọng là trông cầu, tâm ý của mình luôn hướng về tương lai, mình luôn luôn ở trong tư thế chạy để nắm bắt cái sắp tới và sẵn sàng để đi tới các dự án kế tiếp. Điều đó đã trở thành một thói quen. Vì vậy tâm mình không an trú được trong giây phút hiện tại nên không có nhiều an lạc.

Khi đọc sách, bàn tay của mình cứ sẵn sàng để lật qua trang kia. Mình không chịu tập trung hết vào trang này mà đang nghĩ tới trang khác. Khi ăn cơm cũng vậy, mình cầm thìa sẵn sàng để đút miếng sắp tới mà không chịu nhai cái đang có trong miệng cho đàng hoàng. Mình không an trú, không dừng lại, không tiếp xúc được với những gì đang thật sự xảy ra trong giây phút hiện tại. Trong khi ăn, trong khi đọc sách mình cũng có thể thực tập chỉ – dừng lại.

Bài kệ 9


Khử sở tại vô sở chỉ      在無所止
Quán hướng pháp đương hà trước    觀向法當何著
Dục sắc không diệc vô sắc      欲色空亦無色
Tùng hiệt kế bất dục thoát      從黠計不欲脫

Không kẹt vào cái đang xảy ra, không bị cột chân lại bất cứ ở đâu, người ấy biết quán chiếu, nhìn thẳng vào tương lai và không còn bị vướng mắc vào gì nữa. Dù trong cõi dục, cõi sắc hay cõi vô sắc cũng thế, người ấy luôn luôn sử dụng thông tuệ của mình, do đó không có gì mà không vượt thoát được.

Khử sở tại vô sở chỉ: Đối với cái hiện tại mình không bị vướng mắc, cái hiện tại không cột chân mình lại được.
Quán hướng pháp đương hà trước: Nhìn vào cái đang tới mình cũng không bị dính mắc vào những lo lắng về tương lai.
Dục là cõi dục, Sắc là cõi sắc. Vô sắc là cõi vô sắc.
Tùng hiệt kế bất dục thoát: Từ sự thông minh và khả năng quyết trạch của mình mà không có chướng ngại nào mà mình không vượt qua. Hiệt là sự thông minh.

Bài kệ 10

Ái dĩ diệt nãi dĩ tức      愛已滅乃已息
Tam giới không vô lạc ý     三界空無樂意
Tất giải ly hà tùng đắc    悉解離何從得
Đa tùng hải độ vô ưu      多從海度無憂

Ái đã diệt, tâm đã tĩnh, người ấy đã vượt qua những cơn lũ lụt sầu khổ để tới bến bờ vô ưu, không còn theo đuổi tìm cầu lạc thú gì nữa trong ba cõi. Đã cởi trói, đã buông bỏ tất cả, người ấy không còn có gì để gọi là sở đắc.

Ái dĩ diệt: Những tham ái đã bị cắt đứt.
Nãi dĩ tức: Chữ tức có nghĩa là dừng lại, nghỉ ngơi, lắng dịu. Chữ nãi có thể là chữ tâm viết nhầm.
Tam giới: Tam giới là ba cõi (cõi dục, cõi sắc và cõi vô sắc).
Không vô lạc ý: Không có ý đi tìm những thú vui trong ba cõi. Những thú vui không phải chỉ có trong cõi dục (kāmadhātu) mà còn có thể có trong cõi sắc (rūpadhātu) và cõi vô sắc (ārūpadhātu). Ngay trong bốn thiền định của cõi vô sắc, tuy những thú vui có nhẹ nhàng hơn nhưng mình cũng không đi tìm nó. Trong cõi vô sắc có bốn loại thiền định: Không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ và phi tưởng phi phi tưởng xứ. Ở đó không có những thú vui nặng nề như trong cõi dục hay cõi sắc nhưng mình cũng không bị vướng vào.
Tất giải ly: Đã được cởi trói và xa lìa những ái dục.
Hà tùng đắc: Không nắm bắt gì nữa, không có gì gọi là sở đắc.
Đa tùng hải độ vô ưu: Thường thường chữ hải có nghĩa là biển. Nhưng kinh này thường dùng chữ hải để nói tới các cơn lũ lụt hay những dòng nước chảy xiết. Những vô minh, những đam mê của mình giống như cơn lũ lụt cuốn mình theo. Mình phải thực tập để vượt thắng những cơn lũ lụt ấy và từ trong cơn lũ mình vượt thoát và được sang tới bờ của vô ưu. Vô ưu có nghĩa là không sợ, không lo lắng, tiếng Phạn là aśoka.

Bài kệ 11

Bất nguyện sinh kiến hữu tử   不願生見有子
Liệt địa hành nguyện bảo tăng      列地行願寶增
Lai bất sinh khứ bất đáo     來不生去不到
Dục hà sách tùng hà đắc        欲何索從何得

Không cần con trai, không cần ruộng đất, không cần trâu bò, không cần của cải châu báu càng ngày càng nhiều, người ấy không còn nhu yếu bỏ một nơi này hay tìm một nơi khác và không còn gì hoặc để nắm bắt hoặc để đuổi xua.

Bài kệ này rất buồn cười nhưng rất thật. Có những vị gọi là đạo sư quảng cáo rất ồn ào rằng mình là một ông thầy lớn, là một phạm chí, một mâu ni, nhưng họ rất ôm đồm. Họ rất giàu có, họ làm chủ sở hữu của rất nhiều cơ sở và không có vẻ gì là một vị đạo sư đích thực. Điều ấy không phải chỉ có trong quá khứ mà bây giờ cũng vậy. Có những ông thầy rất giàu có và quyền thế, họ ôm đồm hết chuyện này tới chuyện khác.

Ngày xưa, dấu hiệu của hạnh phúc là có nhiều con trai để tiếp nối và đảm đương việc nhà. Hình ảnh của một người giàu cũng là người có nhiều con trai. Ở Việt Nam cũng vậy, có con trai là một tin mừng, còn có con gái thì mừng ít hơn. Nếu sinh được nhiều con trai thì nhà có phước tại vì có con trai đồng nghĩa với có một gia sản. Con trai là người tiếp tục giữ gìn sản nghiệp của mình, còn con gái thì thế nào cũng phải đi lấy chồng. Do đó ước muốn của người xưa là có thật nhiều con trai.
Mong muốn thứ hai là có nhiều ruộng đất, làm một điền chủ lớn. Dấu hiệu của quyền lực thời bấy giờ là có nhiều đất đai, trâu bò. Chính ở Mỹ cũng vậy, mới thế kỷ trước thôi (thế kỷ 20) người ta còn nghĩ ai có nhiều bò thì người đó giàu. Vì vậy mới có các chàng cowboys giữ bò, cưỡi ngựa, bắn súng. Người giàu là người có thể đếm được hàng ngàn đầu bò. Trâu bò nhiều chừng nào thì càng hùng mạnh và giàu có chừng đó.

Ngày xưa người ta phải nhìn vào số lượng trâu bò, đất đai và nhìn vào số lượng con trai để thấy uy thế của một người. Nhưng bây giờ thì khác, quyền lực của thời  bây giờ nằm ở chỗ có nhiều cổ phần, nhiều tài khoản trong ngân hàng. Đọc kinh chúng ta thấy rất rõ hoàn cảnh ngày xưa.

Một vị đạo sư đã buông bỏ hết, không cần bất cứ một cái gì. Không còn đứng núi này trông núi nọ. Vị ấy thấy được tự tính không tới không đi. Khi còn ôm đồm, còn mang lấy nhiều thứ thì chưa phải là một vị đạo sư đích thực. Không có gì để chạy theo nắm bắt và không còn gì để phải tiêu diệt, đó là hình ảnh của một bậc đạo sư. Trong bản chữ Hán thiếu mất chỗ trâu bò, chữ trâu bò này mình lấy lại từ bản tiếng Phạn.

Sinh: trong đời này
Kiến hữu tử: Có nhiều con trai
Liệt địa hành: Có nhiều ruộng đất cò bay thẳng cánh
Nguyện bảo tăng: Muốn của cải càng ngày càng nhiều thêm
Lai bất sinh khứ bất đáo: Không ước mong đi sang một cõi hoặc rời bỏ một cõi.
Dục hà sách tùng hà đắc: Không có gì để đòi hỏi, không có gì để nắm bắt

Bài kệ 12

Tất vô năng thuyết đáo xứ    悉無能說到處
Chúng học sa môn du tâm    眾學沙門遊心
Tất lệnh cầu sở tại xứ   悉令求所在處
Như xúc mạo tri như khứ      如觸冒知如去

Dù bị người ta công kích, phỉ báng, xúc phạm và lên án một cách không có căn cứ, dù có bị các vị phạm chí và sa môn hay cả những người trong giới gọi là tu hành chê bai, người ấy vẫn ngồi yên bất động, vẫn cứ đường mình mình đi.

Khi một vị xuất sĩ được tôn sùng, quý trọng, thế nào vị ấy cũng bị những người khác ganh tị. Ông thầy này ganh tị với ông thầy kia, nói ông thầy kia chưa thật sự giác ngộ, chưa có chánh pháp, chỉ có bề ngoài thôi và tìm cách dìm ông thầy kia xuống. Chính Đức Thế Tôn ngày xưa cũng đã bị như vậy, người ta tìm đủ mọi cách để triệt tiêu uy tín của Ngài. Có khi họ lén đem xác một cô vũ nữ tới chôn trong tu viện rồi vu khống cho Bụt và các thầy là đã làm nhục rồi giết hại cô vũ nữ ấy. Đó là một hành động rất thấp hèn. Nhưng dù bị đám đông xúc phạm, phỉ báng, dù bị các vị phạm chí hay các vị sa môn khác công kích, người ấy vẫn ngồi yên bất động, vẫn cứ đường mình mình đi, không cần phải đối đáp, không cần minh oan. Đó là một vị mâu ni đích thực. Vấn đề này không phải bây giờ mới có mà ngày xưa cũng đã xảy ra rồi.
Tất vô năng thuyết đáo xứ: Tất cả những gì người ta nói sai lầm về mình.
Chúng học: Kể cả trong giới tu hành.
Sa môn: Kể cả các vị sa môn.
Du tâm: Đi qua tâm mình.

Tất lệnh cầu sở tại xứ: Tất cả những cái ấy đều không làm cho mình bỏ cái nơi mà mình đang cư trú.

Bài kệ 13

Diệc bất tật diệc vô tham      亦不嫉亦無貪
Tuy tại cao tôn bất lạc     雖在高尊不樂
Bất lạc trung hạ bất lạc   不樂中下不樂
Tùng pháp sinh phi pháp xả   從法生非法捨

Không tật đố, không xan tham, dù có được thế gian tôn kính người ấy cũng không bị vướng mắc. Người ấy không tự tôn, không tự ti, không đòi bằng người, cái gì đúng pháp thì làm, phi pháp thì bỏ.

Diệc bất tật: Không tật đố, không ganh ghét, người kia được trọng vọng, quí kính, mình cũng không ganh ghét.
Diệc vô tham: Không xan tham.
Tuy tại cao tôn bất lạc: Dù có được tôn kính và cúng dường mình cũng không bị vướng mắc, không bị hư hỏng vì sự tôn kính và cúng dường của thế gian. Đây là vấn đề muôn đời, có trong bất cứ truyền thống nào. Trong  truyền thống đạo Bụt mình thấy rõ: Khi xuất gia mặc áo thầy tu, mình trở thành biểu tượng của sự kính trọng. Nhìn vào một vị xuất gia người ta thấy đó là biểu tượng của Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng) nên họ chắp tay cung kính lạy chào. Khi trở thành người xuất gia, dù muốn hay không mình cũng đại diện cho Tam Bảo. Thấy hình dáng một người xuất gia người ta phát tâm tôn kính, nên mình trở thành đối tượng tôn kính của nhiều người, do đó nên mình có thể hư hỏng. Có biết bao thầy, biết bao sư cô bị hư hỏng vì sự tôn kính và cúng dường của quần chúng. Người xuất gia phải đề cao cảnh giác, coi đó là một hiểm nguy.

Có nhiều người mới xuất gia cảm thấy rất khó chịu khi thấy người ta tới bày tỏ sự cung kính với mình. Những vị ấy nghĩ rằng mình mới tu, đức độ chưa có là bao mà người ta tới tỏ vẻ tôn kính thì cảm thấy bất ổn. Theo khuynh hướng tự nhiên mình sẽ nói: “ Bác đừng lạy, đừng tôn kính tôi. Tôi vừa mới tu, tôi chưa có đức gì hết” rồi không cho người ta lạy. Người kia vì vậy không được tỏ bày sự tôn kính của mình đối với Tam bảo thì buồn lắm. Mình làm như vậy là không hay!

Khi có một người mới xuất gia, điều đầu tiên tôi dạy cho người đó là khi có ai muốn bày tỏ sự cung kính với mình, mình không được từ chối. Nếu từ chối sự tôn kính và cúng dường của người ta thì mình làm cho người ta mất một cơ hội để tỏ bày sự cung kính đối với Tam Bảo. Mình phải tiếp nhận sự cung kính và cúng dường đó, phải ngồi lại cho thật yên và thở để cho người ta lạy. Nhưng trong lúc ấy mình phải quán chiếu: Người ta không phải đang lạy cái ngã của mình mà đang lạy Tam Bảo qua hình tướng xuất gia của mình.

Cũng như khi chào cờ, lá cờ chẳng qua chỉ là một mảnh vải. Người ta không chào một mảnh vải có nhiều màu mà họ đang chào cả một đất nước, một dân tộc. Nếu lá cờ nghĩ người ta đang chào mình thì nó đã sai lầm. Lá cờ phải nói: Người ta đang chào mình đó, nhưng kỳ thực người ta đang chào một đất nước, một dân tộc, mình chỉ là một biểu tượng.

Một vị xuất sĩ cũng vậy, khi có người cư sĩ tới tỏ lộ sự cung kính cúng dường, mình phải quán chiếu rằng mình chỉ là biểu tượng, người này đang tỏ bày sự cung kính cúng dường đối với Tam Bảo chứ không phải với mình. Quán chiếu như vậy mình sẽ được bảo hộ, hạt giống của sự tự hào, sự kiêu căng không bị tưới tẩm và mình giữ được sự khiêm cung.

Mình thấy rất rõ sự cung kính đó hướng về đối tượng Tam Bảo chứ không phải hướng về cái ngã của mình. Khi được ai đó cúng dường riêng thì vật cúng dường đó cũng không phải cho riêng mình mà là của đại chúng, khi ấy mình phải đem trình lên cho vị trụ trì: “Con được một Phật tử cúng dường 10 euros, con xin trình lên thầy (sư cô)”. Nếu vị trụ trì nói: “Hình như áo của sư em đã rách, sư em phải may một chiếc áo khác. Sư em có thể sử dụng số tiền này” thì mình tiếp nhận, nếu không mình phải coi 10 euros đó là phẩm vật cúng dường cho đại chúng.

Khi một vị giáo thọ của Làng Mai đi hoằng pháp, kết thúc khóa tu, các vị Phật tử thường gom một số tiền để cúng dường. Các vị Phật tử có thể làm hai bì thư, một bì có một số tiền lớn và một bì có một số tiền nhỏ và thưa: “Bạch thầy hoặc bạch sư cô, bì thư lớn chúng con xin được cúng dường đại chúng, còn bì thư nhỏ là cúng dường riêng cho thầy (sư cô).” Tất nhiên, vị Phật tử này cũng biết phải cúng dường cho đại chúng, nhưng cũng muốn bày tỏ cảm tình riêng với vị giáo thọ nên đưa hai phong bì. Theo nguyên tắc, khi người ta cúng dường như vậy thì mình giữ, nhưng theo tinh thần của kinh mình phải đưa hết về cho đại chúng. Hay hơn nữa mình sẽ nói: “Thưa bác, tôi cám ơn bác đã có nhã ý đó nhưng cả hai bì thơ này tôi sẽ trao lại hết cho thầy trụ trì (sư cô trụ trì).” Lúc đó vị Phật tử sẽ kính phục mình hơn nữa.

Người xuất gia rất dễ bị hư hỏng bởi sự cung kính và cúng dường, trong Nam tông cũng như trong Bắc tông. Là người xuất gia mình cần phải cẩn thận lắm về chuyện này. Những lời dạy của Đức Thế Tôn rất rõ ràng, rất thực tế, dù đã trải qua 2600 năm mà vẫn còn phù hợp với nếp sống bây giờ.

Bài kệ 14

Thị tất không diệc vô hữu    是悉空亦無有
Tùng bất đắc diệc bất cầu   從不得亦不求
Mạc dục thế tà lạc nhân     莫欲世邪樂人
Ý dĩ chỉ tiện đáo tận     意已止便到盡

Thấy được tính không, đạt tới vô cầu, vô đắc, không còn vui cái vui phàm tục của thế gian, tâm ý đã thực sự dừng lại, vị mâu ni vượt thoát thời gian, đạt tới bản môn, đi vào kiếp ngoại.

Thị tất không: Tất cả đều là không.
Diệc vô hữu: Không thật sự có.
Mình tưởng là có nhưng kỳ thực là không. Chữ không ở đây có nghĩa là sự trống rỗng, không có gì chắc thật. Thân và tâm của mình cũng vậy. Chặt một cây chuối, bóc ra lớp vỏ để tìm cái lõi ở trong, nhưng bóc hết lớp này đến lớp khác cũng không thấy cái gì ở trong cả. Cũng như củ hành, bóc ra một lớp rồi một lớp nữa, mình tưởng bên trong có một cái lõi nhưng rốt cuộc ở trong không có gì hết. Không là sunyata, là emptiness, là không có cái gì chắc thật ở bên trong. Nói như vậy không có nghĩa là cây chuối không có đó, củ hành không có đó. Cây chuối có đó, nó làm ra quả chuối; củ hành có đó, mình có thể sử dụng. Mình không thể nói không có cây chuối và củ hành. Nó có nhưng nó rỗng. Mình phải quán chiếu để thấy tất cả các pháp đều trống rỗng, bên ngoài giống như chắc thật nhưng kỳ thực là không có gì chắc thật cả.
Tùng bất đắc diệc bất cầu: Không nắm bắt được nên không tìm cầu. Mình muốn nắm bắt cơn gió. Cơn gió không phải không có, nhưng làm sao có thể nắm bắt được một cơn gió? Những cái khác cũng giống như cơn gió và cả chính mình cũng vậy. Cơn gió rất mầu nhiệm, củ hành rất mầu nhiệm, mình rất mầu nhiệm và người yêu của mình cũng rất mầu nhiệm. Nhưng tất cả những cái đó mình không thể nắm bắt, điều này phải quán chiếu mới thấy được. Mình tưởng đó là những cái gì chắc thực có thể nắm được trong tay nhưng sự thật là mình không nắm được. Nếu mình không nắm được cơn gió thì mình cũng không nắm được chính mình, mình không nắm được Đức Như Lai, không nắm được người yêu của mình. Tuy nhiên, mình vẫn có cảm tưởng là đã nắm được rồi. Mình tưởng như vậy thôi, chứ thật ra mình không nắm được gì cả, đó gọi là bất khả đắc. Vì thấy không nắm bắt được nên mình không chạy theo. Cầu là ý định muốn đi tìm, muốn nắm bắt.

Bát Nhã Tâm Kinh có nói: Vô đắc, hay dĩ vô sở đắc, nghĩa là không nắm bắt được, tại vì không có gì để nắm bắt. Chính Đức Như Lai cũng vậy, mình không thể nào nắm bắt được Đức Như Lai. Kinh A Nậu La Độ trong Nhật Tụng Thiền Môn viết: Có một thầy tên A Nậu La Độ đang đi trên đường thì bị một nhóm thầy thuộc giáo phái khác chặn lại hỏi:
– Thầy là đệ tử của Gotama hả?
– Dạ phải.
– Thế thì xin thầy trả lời cho chúng tôi câu hỏi này: Gotama, thầy của thầy đã nói gì về bốn mệnh đề sau:
+  Sau khi chết mình vẫn còn.
+  Sau khi chết mình không còn.
+  Sau khi chết mình vừa còn vừa không còn.
+  Sau khi chết mình vừa không còn vừa không không còn.

Đó là bốn chiếc hộp ý niệm. Sau khi chết thì một là còn hay không còn, hay vừa còn vừa không còn, hay vừa không còn vừa không không còn. Chỉ có bốn trường hợp đó, ngoài ra không có trường hợp thứ năm. Qua câu chuyện này chúng ta thấy trong kinh nói rất đúng là mấy ông thầy rất thích thú về chuyện tranh luận. Thầy A Nậu La Độ chưa từng nghe Đức Thế Tôn dạy là có thể đưa sự thật vào bốn phạm trù tư tưởng đó nên thầy thưa lại với các vị kia:.
– Tôi không thể nào chọn một trong bốn trường hợp ấy vì tôi biết nếu chọn một trong bốn thứ ấy là sai lệch với lời Đức Thế Tôn dạy.
Mấy vị đạo sĩ kia nghĩ chắc ông này mới tu không biết gì, nên để cho thầy ra về. Thầy A Nậu La Độ thuật lại câu chuyện cho Bụt nghe và hỏi:
– Xin Đức Thế Tôn chỉ dạy cho con để lần sau gặp họ con có thể nói khá hơn.
Đức Thế Tôn mỉm cười và nói:
– Này thầy A Nậu La Độ, thầy hãy trả lời câu hỏi của tôi. Hình hài này có phải là Như Lai hay không? 
– Dạ không phải.
– Vậy cảm thọ vui buồn có phải là Như Lai không?
– Dạ cũng không phải.
– Đồng nhất Như Lai với sắc, thọ, tưởng, hành, thức, có được không?
– Dạ không.
– Có thể tìm Như Lai ngoài sắc, thọ, tưởng, hành, thức được không?
– Dạ cũng không.
Tìm Như Lai trong hình hài không được mà tìm Như Lai ngoài hình hài cũng không được. Tìm Như Lai trong cảm thọ không thấy mà tìm Như Lai ngoài cảm thọ cũng không thấy. Tìm Như Lai trong thức cũng không được mà tìm ngoài thức cũng không được.
– Này thầy A Nậu La Độ, tôi đang còn ngồi sờ sờ đây mà thầy còn không nắm bắt được tôi. Mai mốt sắc thân này ngưng biểu hiện thì làm sao thầy nắm bắt được tôi?
Không thể nắm bắt được gọi là vô sở đắc (upalam). Tất cả đều không có gì chắc thật bên trong. Bề ngoài dường như có hiện hữu nhưng thật ra không phải như vậy. Nhờ thấy như thế mà mình đạt tới cái thấy vô đắc và chấm dứt được mọi sự tìm cầu.

Trong một khóa tu tại Đức chúng tôi có làm lễ cưới cho một cặp vợ chồng trẻ đã có công lớn trong việc tổ chức khóa tu. Đám cưới được tổ chức ngay trong khóa tu rất vui. Ngày hôm sau, trong giờ pháp đàm, tôi đã gọi hai người lên làm một cuộc vấn đáp. Chú rể và cô dâu lên ngồi đàm thuyết về vấn đề vô thường, vô ngã và vô đắc, giống như đang diễn kịch để nói lên cái thấy, cái hiểu của mình về giáo pháp. Chú rể hỏi cô dâu:
– Này em, em có còn là người hôm qua anh cưới không hay đã là một người khác?
Khi vướng mắc vào sự tìm cầu một đối tượng, mình có cảm tưởng nếu không nắm được đối tượng đó mình sẽ đau khổ. Giả dụ có cảm tưởng nắm bắt được rồi mình cũng vẫn lo sợ, mình sợ mai mốt người kia không giữ được tấm lòng của ngày hôm nay. Kiều hỏi Kim Trọng: “Anh nói anh yêu em, nhưng cuộc đời vô thường, mai mốt anh còn giữ được cái tâm đó hay không?” Khi yêu mà có cảm tưởng người kia không chấp nhận mình thì mình đau khổ. Nhưng khi người kia đã chấp nhận mình, mình cũng lo lắng như thường tại vì mình vẫn sợ mai mốt người kia có thể bỏ mình. Sự lo sợ đó đi theo mình nên người kia mỗi ngày cứ phải lặp lại: “Em còn yêu anh, anh đừng lo!” Yêu là luôn luôn có sự lo sợ “đánh mất” tại vì mình có ý muốn tìm cầu, muốn nắm bắt, muốn làm chủ. Câu hỏi của chú rể cũng bày tỏ sự lo sợ.

Theo đúng nguyên tắc Bụt dạy thì vạn pháp đều vô thường, ngày hôm nay khác với ngày hôm qua. Dòng sông hôm qua mình tắm nước đã chảy đi hết rồi, nếu hôm nay mình xuống tắm thì đó đã là một dòng sông khác. Hỏi như vậy không sai gì mấy vì chính bản thân mình cũng là một dòng sông. Cô dâu trả lời rất hay, chứng tỏ cô đã học giáo pháp rất vững: “Anh đừng lo! Tuy em không còn hoàn toàn là người hôm qua anh cưới nhưng em cũng chưa phải là người khác” Cô trả lời như vậy rất phù hợp với chánh pháp. Đó là thuyết “phi nhất phi dị”, không phải một cũng không phải khác.

Sự vật vô thường, vì vô thường nên vô ngã, không có gì chắc thật. Tâm của chúng ta thường mong muốn điều tốt đẹp cứ tốt đẹp hoài, người kia cứ dễ thương hoài. Nhưng sự thật không như vậy, đời trôi chảy như một dòng sông nên mình không thể nắm bắt được. Điều này phải quán chiếu mới thấy. Nếu hai người khôn khéo hạnh phúc sẽ kéo dài, nếu không thì hạnh phúc tan vỡ rất mau chóng. Tuệ giác rất quan trọng!

Mạc dục thế tà lạc nhân: Người không còn những ham muốn của thế nhân.
Thế tà lạc: Những ham muốn sai lạc của cuộc đời đem lại khổ đau và vướng mắc. Tà lạc ngược lại với chánh lạc hay chân lạc. Chân lạc là niềm vui không gây đau khổ. Mình không còn là người chạy theo những ham muốn sai quấy của cuộc đời.
Ý dĩ chỉ: Tâm ý đã hoàn toàn dừng lại.
Tiện đáo tận: Lúc đó mình đạt tới cái cứu cánh. Tận là cứu cánh, được dịch từ chữ niết bàn tức sự an tĩnh tuyệt đối. Trong bản tiếng Pali là đã đi ra khỏi thời gian. Thời gian tiếng Phạn là kalpa, tiếng Pali là kappa. Trong bản tiếng Pali ta đọc: Vị mâu ni vượt thoát thời gian, đạt tới bản môn, đi vào kiếp ngoại. Trong bản dịch tiếng Việt mình đã phục hồi lại phần này từ bản tiếng Pali: Kappam n’eti, akppiyo.

Theo lời Phật dạy, thời gian và không gian là những ý niệm của chúng ta. Mình nghĩ thời gian và không gian là hai cái tách biệt, nhưng nếu quán chiếu mình sẽ thấy chúng tương quan mật thiết với nhau, thời gian làm ra không gian và không gian làm ra thời gian. Bây giờ ở Pháp đang là mùa đông tuyết rơi rất nhiều. Nhưng cũng thời điểm này ở bên Úc lại không phải là mùa Đông, thời tiết bên ấy đang rất nóng, có nhiều chỗ bị cháy rừng. Vì vậy không gian ôm lấy thời gian. Cũng như năm mới đón giao thừa, mình nghĩ giao thừa là 12 giờ khuya và mình ngồi chờ đến 12 giờ khuya để chúc “happy new year”. Nhưng ở bên Úc người ta đã đón giao thừa cách đây sáu giờ đồng hồ rồi. Cho nên ý niệm về thời gian và không gian là những thiết kế của tâm thức, do trong đầu mình đặt ra.

Trong khoa học lượng tử bây giờ (quantum mechanics), quan niệm về thời gian, không gian của vật thể đã hoàn toàn đổi khác. Khoa học lượng tử đang gõ cánh cửa đó và nếu làm ăn khá cũng có thể khám phá ra được tính cách phi thời gian và phi không gian của vật thể. Khoa học lượng tử đã dùng những danh từ như non-locality (phi cục bộ). Theo nguyên tắc, là vật thể thì phải có vị trí của nó trong không gian và mình phải xác định được vị trí của một lượng tử trong không gian. Nhưng các nhà khoa học đã thấy, một lượng tử có thể có mặt ở hai chỗ, ba chỗ hay ở khắp nơi trong cùng thời điểm. Ở đây thời gian đã bị phá tung và người ta bắt đầu thấy được cái gọi là non-locality (tính chất phi cục bộ). Khoa học lượng tử đang đi tới rất gần sự khám phá rằng thời gian và không gian chỉ là những sáng tạo của tâm thức và thực tại vượt thoát thời gian và không gian.

Nếu kẹt vào trong thời gian và không gian thì có luân hồi sinh tử, vượt thoát thời gian và không gian thì không còn luân hồi sinh tử nữa. Một vị mâu ni là một người đã chứng nhập được tự tánh của mọi vật, không bị lường gạt bởi hình thức bên ngoài của sự vật, thấy được tính cách không nắm bắt được của mọi vật. Vì vậy người ấy đã chấm dứt được mọi chạy đuổi tìm cầu và do đó có tự do rất nhiều. Người ấy không còn đi tìm những lạc thú của thế tục tại vì người đó đã vượt thoát thời gian, đã đi vào kiếp ngoại. Kiếp ngoại là thế giới trong đó không có thời gian. Vượt thoát thời gian là kiếp ngoại, vượt thoát không gian là phương ngoại; phương ngoại phương là space outside of space, kiếp ngoại là time outside the time. Đó là cái mà một vị mâu ni đã chứng ngộ được, đó là quả vị cao nhất, tới đó rồi thì không còn luân hồi sinh tử, không còn sợ hãi nữa.

Kinh Chuyển Hóa Bạo Động và Sợ Hãi

Kinh Chuyển Hóa Bạo Động và Sợ Hãi

(Duy Lâu Lạc Vương Kinh)
Nghĩa Túc Kinh, kinh thứ 16, Đại Tạng Tân Tu 198
tương đương với Attadanda Sutta, Sutta-Nipàta 935-954

 

 

Bối Cảnh

Đây là kinh Duy Lâu Lặc Vương. Duy Lâu Lặc Vương là tên của vua Tỳ Lưu Ly (Virudhaka), người kế vị vua Ba Tư Nặc. Khung cảnh dựng lên: Vua Tỳ Lưu Ly đem quân đánh Ca Tỳ La Vệ và tàn sát dòng họ Thích Ca vì hận thù. Ngày xưa vua Ba Tư Nặc đã rước một tỳ nữ xinh đẹp của vua Mahanam, người kế vị vua Tịnh Phạn, về làm cung phi. Vị này thuộc giai cấp thấp của xã hội. Hồi còn trẻ, Thái tử Tỳ Lưu Ly đã được gửi qua Ca Tỳ La để học về nghệ thuật bắn cung. Lúc ấy dòng họ Thích mới xây dựng được một hội trường rất đẹp để mỗi lần Bụt tới thì đón tiếp và giảng dạy ở đấy. Luật lệ đặt ra là Bụt và chư vị xuất sĩ được rước vào trước, sau đó mới tới giới chức chính quyền và các tầng lớp dân chúng. Tỳ Lưu Ly tự ý đi vào đấy với các bạn và không tôn trọng luật lệ kia. Sau khi Tỳ Lưu Ly về nước, dân chúng làm lễ tẩy tịnh hội trường cho hội trường thanh tịnh trở lại, vì nghĩ rằng Tỳ Lưu Ly, dòng dõi của một nữ tỳ, đã làm ô uế chỗ linh thiêng. Sau này Tỳ Lưu Ly biết được chuyện ấy, rất căm phẫn, nuôi ý một ngày đem quân tới trả thù.

 

Cuộc tàn sát đẫm máu của Vua Tỳ Lưu Ly đã gây bao nhiêu tang tóc và thảm thương. Bụt đã tìm mọi cách để ngăn cản nhưng cuối cùng cũng không ngăn cản được. Bụt nói kinh này về hận thù, bạo động và sợ hãi.

 

1. Hãy lắng nghe và quán sát để thấy tại sao mà từ trạng thái an lành người ta đã đưa xã hội tới tình trạng đầy khủng bố bạo động như hiện nay? Các thế hệ vừa qua đã hành xử như thế nào để tình trạng trở thành như thế? Tôi muốn nói với các vị về chuyện đau thương này và kể cho quý vị nghe làm thế nào mà tôi đã buông bỏ được tâm trạng sợ hãi của tôi.

    2. Người đời trải nghiệm từ cái khổ này đến cái khổ khác, như con cá sống trong một nơi mà ở đó càng ngày nước càng khô cạn. Trong hoàn cảnh khổ đau, ý tưởng bạo động dễ nẩy sinh và con người vì u mê cứ đi tìm sự bớt khổ bằng những phương tiện khủng bố và trừng phạt.

      3. Cả thế giới đều đang bốc cháy vì bạo lực, mười phương loạn lạc cả mười phương, không có nơi nào thực sự còn an ổn. Ai cũng cho mình là hơn người, ít ai biết buông bỏ cái đam mê của mình. Vì không thấy được sự thực ấy, cho nên con người cứ ấp ủ mãi cái tri giác sai lầm của mình.

        4. Tự trói buộc mình bằng những tri giác sai lầm ấy, người ta chỉ đem lại thêm cho mình nhiều tối tăm và thống khổ. Tôi đã nhìn sâu vào trong tâm ý của những người không có hạnh phúc và tôi đã thấy một mũi dao nhọn được che giấu dưới những niềm thống khổ của họ. Vì chính họ không trông thấy mũi dao nhọn ấy trong tâm, cho nên họ khó có khả năng chịu đựng được niềm đau.

          5. Cái niềm đau gây ra do mũi dao nhọn ấy kéo dài, không thay đổi, và vì cứ tiếp tục ôm lấy mũi dao nhọn ấy mà đi cho nên họ đã làm cho niềm đau trong họ tràn ngập thế giới. Chỉ khi nào có cơ hội nhận diện được nó và lấy nó ra khỏi trái tim thì khổ đau mới không còn và mình mới có cơ hội dừng lại.

            6. Trong số những hệ lụy của cuộc đời, mình đừng để cho tự thân vương vấn vào bất cứ một hệ lụy nào. Những gốc rễ của tà loạn phải biết cắt đứt. Phải buông bỏ đừng nương vào chúng nữa. Nếu buông bỏ được tà dục thì ta có thể vượt qua mọi khổ nạn. Kẻ hành giả phải vượt ra khỏi cái vòng khổ nạn thì mới thành tựu được sự nghiệp giải thoát cho chính mình.

              7. Kẻ hành giả chân chính phải có tâm dạ chí thành, đừng tự hành động dựa trên vọng tưởng, cứ đường thẳng mà đi, không nói lưỡi hai chiều. Phải biết cách dập tắt ngọn lửa của sự hờn giận, phải biết cách làm tan vỡ khối tham vọng của mình. Nếu biết cởi bỏ được những ràng buộc của phiền não thì mình có thể bắt đầu thấy được bến bờ giải thoát.

                8. Nên buông bỏ sự tự hào, đừng ham ngủ, đừng để chìm vào trạng thái hôn trầm. Biết sống và làm việc cho có chừng mực, đừng đánh mất mình trong đám đông. Đừng vướng vào những cái bề ngoài hào nhoáng. Phải biết từ khước chúng. Phải quán chiếu thường xuyên tự tánh không của vạn pháp để đạt tới Niết Bàn tĩnh lặng.

                  9. Đừng nhục mạ ai, cũng đừng để mình bị níu kéo và vướng mắc vào những hình sắc dối gạt bên ngoài. Đừng dấn mình trong những cuộc vui mà quên đi mục đích của sự hành trì là giải cứu khổ nạn.

                    10. Những gì thuộc về quá khứ, đừng nghĩ tới chúng nữa. Những gì thuộc về tương lai, đừng vọng tưởng đến chúng. Những gì đang xảy ra trong hiện tại phải được nhận diện để đừng bị vương vấn vào. Cứ như thế thênh thang bước một mình khắp năm châu bốn biển mà không còn bị ai ganh ghét.

                      11. Tôi nói rằng tham dục là mãnh lực gây ra tàn hại nhiều nhất. Đó là cơn lũ lụt làm tràn ngập cả thế gian. Thấy được điều đó thì mới chế phục được mọi nghi ngờ. Cần để tâm quán chiếu về lý duyên khởi. Phải thấy được rằng nếu không thoát ra được cái ô nhiễm của tham dục thì ta khó mà chấm dứt được khổ đau.

                        12. Trong đám đông, số người có năng lực buông bỏ tham dục rất ít, thời đại nào cũng thế. Nhưng một khi đã buông bỏ được rồi thì kẻ hành giả lại không cảm thấy mất mát gì, cũng không có nhu yếu di chuyển tới một nơi nào khác: cơn lũ lụt kia tự nó sẽ cáo chung và không có gì còn ràng buộc được ta nữa.

                          13. Nương vào sức mạnh của tuệ giác làm cỗ xe, vị mâu ni vượt tới bờ bên kia. Nhờ có tuệ giác, vị ấy không còn lo lắng và thấy mình đang được bảo hộ. Sinh tử, tai ách và sự ganh ghét không còn xâm phạm tới vị ấy được. Do sức mạnh của tinh tiến, vị ấy đạt được bình an thật sự.

                            14. Đã xa lìa được (tham dục) thì khổ đau không còn tồn tại, người hành giả quán chiếu về tự tánh không của vạn pháp, không còn vướng bận vào bất cứ một pháp nào. Đã trực tiếp thấy được con đường lớn đưa tới an bình rồi, người ấy không còn vướng vào bất cứ một quan điểm nào của thế gian nữa.

                              15. Khi hành giả không còn chấp rằng thân này là mình, thấy được tính cách không thể nắm bắt và không thật sự tồn tại của một cái ngã thì vị ấy không còn gì để lo lắng nữa.

                                16. Khi gốc rễ của si mê đã được nhổ lên và khi những cây non của si mê mới mọc lên cũng đã bị nhổ sạch không còn có cơ hội lớn lên, thì trong hoàn cảnh hiện tại, người hành giả không còn nắm bắt một cái gì nữa và không còn có nhu yếu phân biệt ai là đồng minh ai là kẻ thù.

                                  17. Khi đã không còn bị kẹt vào các khái niệm tâm và vật (như những gì tồn tại ngoài nhau), khi đã không còn bị kẹt vào các ý niệm, khi đã không thấy có gì có thể nắm bắt, khi đã thấy được rằng không gian và vật thể là không, thì không có gì trong thế gian còn có thể làm cho vị ấy oán than buồn giận nữa.

                                    18. Đã vượt được hoàn toàn cái ý niệm về tất cả trong đó có ý niệm về vật thể thì trong tất cả các pháp hành, không pháp nào mà mình không đạt được. Đã được học hỏi, thực tập và thuyết giảng thông thạo được giáo lý vô dục thì dù có bị bất cứ ai đến chất vấn, vị ấy cũng không còn cảm thấy e ngại trong việc ứng đối.

                                      19. Đã đạt được tuệ giác rồi, vị ấy không cần lệ thuộc vào ai nữa cả. Vì không còn mong cầu gì nữa và cũng không còn ghét bỏ gì nữa cho nên vị ấy đạt được sự bình an trong tâm hồn và thực chứng được Niết Bàn tịch tĩnh.

                                        20. Nhìn xuống không thấy hãnh diện, nhìn lên không thấy sợ hãi, vị Mâu ni an trú nơi tự tính bình đẳng, không còn bị vướng vào một kiến chấp nào. Bấy giờ tất cả mọi tranh chấp đều đã được ngưng lại, oán thù và tật đố không còn có mặt, vị ấy tuy đứng trên tuệ giác mà chẳng thấy mảy may tự hào.


                                          Đại Ý

                                          Kinh này cung cấp những câu trả lời thiết thực cho tình trạng thế giới hiện tại, đầy hận thù, bạo động, sợ hãi và khủng bố. Kinh này rất có tính cách hiện đại. Chúng ta sống trong một thời đại có quá nhiều bạo lực và hận thù, không gian thảnh thơi an lành càng ngày càng bị thu hẹp, giống như tình trạng của một con cá càng lúc càng thiếu nước. Đó là hình ảnh đưa ra trong bài thi kệ thứ hai. Bụt đã nói kinh này từ kinh nghiệm bản thân của Ngài. Ngài nói ra sự thật muôn đời mà bây giờ ai cũng thấy: trong hoàn cảnh khổ đau bức xúc, ý tưởng bạo động dễ nẩy sinh, và con người u mê cứ đi tìm sự bớt khổ bằng những phương tiện khủng bố trừng phạt.

                                          “Cả thế giới đang bốc cháy vì bạo lực, mười phương loạn lạc cả mười phương, không có nơi nào thực sự còn an ổn.” Bài kệ thứ ba nói tới hận thù, đam mê và vô minh như những yếu tố căn bản làm phát sinh bạo động.

                                          Cái ham muốn và cái sợ hãi đi đôi với nhau. Ngay từ lúc lọt lòng mẹ ta đã có sự sợ hãi về cái ham muốn ấy: sợ chết, sợ bỏ rơi, sợ không ai chăm sóc, và ham sống, ham có người để nương tựa, ham có đủ những phương tiện để sống còn, để khỏi chết. Tất cả những ham muốn và sợ hãi sau này đều đã phát sinh trên cái ham muốn và sợ hãi nguyên thủy ấy. Tham vọng, hận thù và sợ hãi là con dao nhọn trong tâm người. Chừng nào chưa lấy được con dao nhọn ấy ra thì chừng đó con người còn lo sợ, còn khổ đau và làm cho thế giới tràn ngập khổ đau. Hình ảnh lưỡi dao nhọn trong trái tim cất giấu dưới những lớp khổ đau và tham vọng là hình ảnh nổi bật nhất trong kinh. Hình ảnh ấy nằm ở bài thi kệ thứ tư và thứ năm.

                                          Các bài thi kệ thứ tám và thứ chín nhấn mạnh về sự thực tập đừng lên án ai, đừng nhục mạ ai và khi bị lên án hay nhục mạ thì phải quán chiếu để đừng bị tổn thương. Bị tổn thương thì lập tức con dao nhọn sẽ phát sinh trong tâm, đưa đến hành động hận thù và trách phạt.

                                          Muốn lấy con dao nhọn trong tâm ra, ta phải thực tập nhìn sâu. Bài thi kệ thứ mười lăm nói đến tuệ giác vô ngã như yếu tố căn bản đưa tới buông bỏ lo lắng và hận thù: Tri giác sai lầm (vô minh) là gốc rễ của mọi hiềm hận. Chứng được vô ngã thì buông bỏ được mọi mặc cảm, mọi tư kiến, do đó mọi hiềm hận sẽ bị tiêu tan. Những kẻ khủng bố không sợ chết, sẵn sàng chết là vì hai lý do: thứ nhất là họ cho họ có chân lý, và chết vì chân lý là một cái chết đẹp, thứ hai là họ rất muốn trừng phạt những kẻ đã kỳ thị họ, đã xem thường họ, những kẻ này đã làm tổn thương tự ái của họ. Buông bỏ tư kiến và tự hào là sự thực tập căn bản của kinh này, giúp ta lấy đi con dao nhọn trong trái tim ta.

                                          Tự độ xong rồi, mình mới có thể giúp được kẻ khác. Sau khi mình đã lấy được con dao nhọn trong trái tim của mình ra rồi thì mình mới có khả năng giúp kẻ khác làm như thế. Có tuệ giác, có tình thương ta mới làm được việc này. Mà khi ta đã có tuệ giác và tình thương, ta sẽ áp dụng các pháp môn ái ngữ và lắng nghe để giúp cho kẻ kia điều chỉnh những tri giác sai lầm trong họ, để họ hết bị tổn thương và tự ái, để họ không còn ý chí muốn trừng phạt, để họ lấy ra được con dao nhọn trong tâm của họ. Diệt trừ khủng bố ta không thể sử dụng đe dọa, trừng phạt và bạo động. Còn sử dụng những phương tiện ấy thì ta còn làm cho hận thù và bạo động tăng trưởng, và thế giới càng ngày càng trở nên khó sống như con cá càng ngày càng thiếu nước. Chỉ với các phương tiện ái ngữ và lắng nghe bằng tâm từ bi ta mới có thể giải trừ hận thù và bạo động.

                                          Kinh này là một pháp bảo vô giá cần được phổ biến và đem ra thực tập trong môi trường gia đình, học đường, sở làm và trên lĩnh vực ngoại giao quốc tế.

                                           

                                           

                                          Bài kệ 1
                                          Tùng vô ai trí khủng bố   從  無  哀  致  恐  怖
                                          Nhân thế thế tùng hiệt thính   人  世  世  從  黠  聽
                                          Kim dục thuyết nghĩa khả thương   今  欲  說  義  可  傷
                                          Ngã sở tùng xả uý bố    我  所  從  捨  畏  怖

                                          Bài kệ 2
                                          Triển chuyển khổ giai thế nhân    展  轉  苦  皆  世  人
                                          Như càn thủy đoạn lưu ngư     如  乾  水  斷  流  魚
                                          Tại khổ sinh dục hại ý   在  苦  生  欲  害  意
                                          Đại bỉ khủng si minh lạc     代  彼  恐  癡  冥  樂

                                          Bài kệ 3
                                          Nhất thiết thế tất nhiên thiêu  一  切  世  悉  然  燒
                                          Tất thập phương loạn vô an    悉  十  方  亂  無  安
                                          Tự cống cao bất xả ái   自  貢  高  不  捨  愛
                                          Bất kiến cố trì si ý   不  見  故  持  癡  意

                                          Bài kệ 4
                                          Mạc tác phược cầu minh khổ 莫  作  縛  求  冥  苦
                                          Ngã tất quán ý bất lạc  我  悉  觀  意  不  樂
                                          Bỉ trí khổ thống kiến thích  彼  致  苦  痛  見  刺
                                          Dĩ chỉ kiến nan khả nhẫn   以  止 見  難  可  忍

                                          Bài kệ 5
                                          Tùng thích thống kiên bất di   從  刺  痛  堅  不  遺
                                          Hoài thích tẩu tất biến thế    懷  刺  走  悉 遍  世
                                          Tôn thích kiến bạt thống thích  尊  適  見  拔  痛  刺
                                          Khổ bất niệm bất phục tẩu   苦  不  念 不  復  走

                                          Bài kệ 6
                                          Thế diệc hữu tất mạc thọ   世  亦  有  悉  莫  受
                                          Tà loạn bổn xả mạc y      邪  亂  本  捨  莫  依
                                          Dục khả yểm nhất thiết độ   欲  可  厭 一  切  度
                                          Học tị khổ việt tự thành      學  避  苦  越  自  成

                                          Bài kệ 7
                                          Trú chí thành mạc vọng cử   住  至  誠  莫  妄  舉
                                          Trì trực hành không lưỡng thiệt   持  直  行  空  兩  舌
                                          Diệt nhuế hỏa hoại tán tham  滅  恚  火  壞  散  貪
                                          Xả não giải hiệt kiến độ   捨  惱  解  黠  見  度

                                          Bài kệ 8
                                          Xả mông mông mạc thùy ngọa     捨  瞢  瞢  莫  睡  臥
                                          Viễn vô độ mạc dữ câu   遠  無  度  莫  與  俱
                                          Kỷ khả ố mạc thủ trú    奇  可  惡  莫  取  住
                                          Trước không niệm đương tận diệt   著  空  念  當  盡  滅

                                          Bài kệ 9
                                          Mạc vi khi khả khiên vãn   莫  為  欺  可  牽  挽
                                          Kiến sắc đối mạc vi phục      見  色  對  莫  為  服
                                          Bỉ ỷ thân tri mạc trước     彼  綺  身  知  莫  著
                                          Hí trước âm cầu giải nạn    戲  著  陰  求  解 難

                                          Bài kệ 10
                                          Cửu cố niệm xả mạc tư   久  故  念  捨  莫  思
                                          Diệc vô vọng đương lai thân   亦  無  望  當  來  親
                                          Kiến tại vong bất trước ưu   見  在  亡  不  著  憂
                                          Ly tứ hải tật sự tẩu    離  四  海  疾  事  走

                                          Bài kệ 11
                                          Ngã thuyết tham đại mãnh tệ   我  說  貪  大  猛  弊
                                          Kiến lưu nhập nãi chế nghi  見  流  入  乃  制  疑
                                          Tùng nhân duyên ý niệm hệ    從  因  緣  意  念  繫
                                          Dục nhiễm hoại nạn đắc ly    欲  染  壞  難  得  離

                                          Bài kệ 12
                                          Xả dục lực kỳ bối quả    捨  欲  力  其  輩  寡
                                          Tất sổ thế kỳ chung thiểu   悉  數  世  其  終  少
                                          Xả bất một diệc bất tẩu    捨  不  沒  亦  不  走
                                          Lưu dĩ đoạn vô phược kết  流  已  斷  無  縛  結

                                          Bài kệ 13
                                          Thừa đế lực hiệt dĩ giá   乘  諦  力  黠  已 駕
                                          Lập đáo bỉ tuệ vô ưu   立  到  彼  慧  無  憂
                                          Thị thai nguy tật sự hộ    是  胎  危  疾  事  護
                                          Cần lực thủ khả chí an     勤  力  守  可  至  安

                                          Bài kệ 14
                                          Dĩ kế viễn thị thống khứ      已 計 遠 是 痛 去
                                          Quán không pháp vô sở trước   觀 空 法 無 所 著
                                          Tùng trực kiến quảng bình đạo    從 直 見 廣 平 道
                                          Tất bất trước thế sở kiến        悉 不 著 世 所 見

                                          Bài kệ 15
                                          Tự bất kế kiến thiểu thân     自  不  計  見  少  身
                                          Bỉ vô hữu đương hà kế     彼  無  有  當  何  計
                                          Dĩ bất khả diệc bất tại       以  不  可  亦  不  在
                                          Phi ngã hữu đương hà ưu     非  我  有  當  何  憂

                                          Bài kệ 16
                                          Bổn si căn bạt vi tịnh    本  癡  根  拔  為  淨
                                          Hậu tải chí diệc vô dưỡng   後  栽  至  亦  無  養
                                          Dĩ tại trung tất mạc thủ    已  在  中  悉  莫  取
                                          Bất tu bạn dĩ khí cừu       不  須  伴  以  棄  仇

                                          Bài kệ 17
                                          Nhất thiết dĩ khí danh sắc   一  切  已  棄  名  色
                                          Bất trước niệm hữu sở thâu    不  著  念  有  所  收
                                          Dĩ vô hữu diệc vô xứ     已  無  有  亦  無  處
                                          Nhất thiết thế vô dữ oán   一  切  世  無  與  怨


                                          Bài kệ 18
                                          Tất dĩ đoạn vô tưởng sắc    悉  已  斷  無  想  色
                                          Nhất thiết thiện tất dữ đẳng   一  切  善  悉  與  等
                                          Dĩ tùng học thuyết kỳ giáo    已  從  學  說  其  教
                                          Sở lai vấn bất khủng đối    所  來  問  不  恐  對

                                          Bài kệ 19
                                          Bất tùng nhất trí thị tuệ  不  從  一  致  是  慧
                                          Sở cầu thị vô khả học  所  求  是  無  可  學
                                          Dĩ yếm xả vô nhân duyên   已  厭  捨  無  因  緣
                                          An ổn chí kiến diệt tận  安  隱  至  見  滅  盡

                                          Bài kệ 20
                                          Thượng bất kiêu hạ bất cụ    上  不  憍  下  不  懼
                                          Trụ tại bình vô sở kiến  住  在  平  無  所  見
                                          Chỉ tịnh xứ vô oán tật    止  淨  處  無  怨  嫉
                                          Tuy thừa kiến cố bất kiêu   雖  乘  見  故  不  憍

                                           

                                          _________________________

                                          Mục Lục

                                          Lời tựa

                                          Phần 1

                                          1. Kinh Nhiếp Phục Tham Dục (Kiệt Tham Vương Kinh)
                                          2. Kinh Hang Động Ái Dục (Ưu Điền Vương Kinh)
                                          3. Kinh Buông Bỏ Sở Tri Và Ngôn Từ (Tu Đà Lợi Kinh)
                                          4. Kinh Buông Bỏ Khổ Lạc Và Nhiễm Tịnh (Ma Kiệt Phạm Chí Kinh)
                                          5. Kinh Sự Thật Đích Thực (Kính Diện Vương Kinh)
                                          6. Kinh Buông Bỏ Ân Ái (Lão Thiểu Câu Tử Kinh)
                                          7. Kinh Xa Lìa Ái Dục (Di Lặc Nạn Kinh)
                                          8. Kinh Buông Bỏ Ý Muốn Hơn Thua (Dũng Từ Phạm Chí Kinh)
                                          9. Kinh Nhân Cách Của Một Vị Mâu Ni (Ma Nhân Đề Nữ Kinh)
                                          10. Kinh Đạo Lý Duyên Khởi (Dị Học Giác Phi Kinh)
                                          11. Kinh Chấm Dứt Tranh Cãi (Mãnh Quán Phạm Chí Kinh)
                                          12. Kinh Buông Bỏ Nắm Bắt (Pháp Quán Phạm Chí Kinh)
                                          13. Kinh Công Phu Thực Tập Căn Bản (Đâu Lặc Phạm Chí Kinh)
                                          14. Kinh Phòng Hộ (Liên Hoa Sắc Tỳ Khưu Ni Kinh)
                                          15. Kinh Vị Mâu Ni Thành Đạt (Phụ Tử Cọng Hội Kinh)
                                          16. Kinh Chuyển Hóa Bạo Động Và Sợ Hãi (Duy Lâu Lặc Vương Kinh)
                                          Phần 2 (Giảng giải kinh)

                                          Kinh Vị Mâu Ni Thành Đạt
                                          Kinh Xa Lìa Ái Dục
                                          Kinh Chuyển Hóa Bạo Động Và Sợ Hãi

                                           

                                          Kinh Vị Mâu Ni Thành Đạt

                                          Kinh Vị Mâu Ni Thành Đạt

                                          (Phụ Tử Cọng Hội Kinh)
                                          Nghĩa Túc Kinh, kinh thứ 15, Đại Tạng Tân Tu 198
                                          tương đương với Puràbheda Sutta, Sutta-Nipàta 848-861

                                           

                                           

                                          Bối Cảnh

                                          Đây là kinh Phụ Tử Cọng Hội. Phụ Tử Cọng Hội nghĩa là cha con gặp nhau. Khung cảnh dựng lên: Thái tử Tất Đạt Đa thuộc bộ tộc Thích Ca sau khi thành đạo, dựng lên Tăng đoàn, đã về thăm gia đình và có dịp giáo hóa cho hoàng gia cũng như cho dân chúng trong nước Ca Tỳ La. Bụt độ được cho vua Tịnh Phạn. Vua Tịnh Phạn tỏ thái độ rất cung kính đối với Bụt. Dân chúng lấy làm ngạc nhiên tại sao vua cha lại phải cung kính đứa con mình đến mức ấy. Vua mới nói cho mọi người biết nhân cách vĩ đại của con mình, ngay từ khi còn bé. Giới phụ nữ thuộc dòng họ Thích Ca tới quy y học đạo rất đông. Sau khi mọi người tiếp nhận giới pháp, Bụt dạy kinh này.

                                          1. Đã tiếp nhận đầy đủ giới pháp, chúng con phải nhận diện như thế nào và phải nói như thế nào cho đúng về bậc có chánh kiến, bậc đã được sinh ra như một vị anh hùng trên thế gian, bậc đã vượt thoát mọi ràng buộc khổ nạn? Xin đức Gotam chỉ dạy.

                                            2. Đó là người đã buông bỏ được mọi hiềm hận về quá khứ, mọi thắc mắc lo âu về tương lai. Trong giây phút hiện tại, người ấy cũng không bị hệ lụy vào bất cứ gì, cũng không bị kẹt vào hư danh và sự tôn kính của kẻ khác.

                                              3. Không tham đắm vào tương lai, không ưu sầu về quá khứ, người ấy trên đường mình đi đã buông bỏ mọi tham cầu, mọi tà kiến, không giữ lại một tư kiến nào.

                                                4. Đã buông bỏ mọi sợ hãi, đã trở nên vững chãi, nuôi dưỡng được chánh tín, người ấy diệt trừ được mọi nghi nan, không tật đố, lòng hoan hỷ với những gì đang có và yêu nếp sống thảnh thơi.

                                                  5. Có khả năng tiết chế, không tham vọng, có nhiều tuệ giác, không ganh ghét ai, không nói xấu ai, không trau chuốt bên ngoài, không nói lưỡi hai chiều, người ấy buông bỏ mọi hý luận và nghi ngờ.

                                                    6. Tâm ý giải thoát, không đắm trước, lìa tư kiến, không thêu dệt hư vọng, bước đi an tường, người ấy có khả năng giải tỏa được mọi tranh chấp, không bị dục kéo đi, và đoạn trừ được mọi dục tưởng.

                                                      7. Không mưu toan để đạt tới một cái gì mình muốn, cũng không lo lắng khi mình không có cái kia, người ấy không oán giận, không bị vị ngọt của ái dục sai sử.

                                                        8. Không tự cao, thấy được tự tánh bình đẳng và vô ngã, không có mặc cảm thua người hay bằng người, biết quán chiếu, biết đình chỉ tâm ý, người ấy thấy được cái gì là thiện cái gì là ác và buông bỏ được những vọng cầu về tương lai.

                                                          9. Không kẹt vào cái đang xảy ra, không bị cột chân lại bất cứ ở đâu, người ấy biết quán chiếu, nhìn thẳng vào các pháp và không còn bị vướng mắc vào gì nữa. Dù trong cõi dục, cõi sắc hay cõi vô sắc cũng thế, người ấy luôn luôn sử dụng thông tuệ của mình, do đó không có gì mà không vượt thoát được.

                                                            10. Ái đã diệt, tâm đã tĩnh, người ấy đã vượt qua những cơn lũ lụt sầu khổ để tới bến bờ vô ưu, không còn theo đuổi tìm cầu lạc thú gì nữa trong ba cõi. Đã cởi trói, đã buông bỏ tất cả, người ấy không còn có gì để gọi là sở đắc.

                                                              11. Không cần con trai, không cần ruộng đất, không cần trâu bò, không cần của cải, người ấy không còn gì để nắm bắt hoặc để đuổi xua.

                                                                12. Dù bị đám đông công kích, phỉ báng, xúc phạm, dù có bị các vị phạm chí và sa môn chê bai, người ấy vẫn ngồi yên bất động, vẫn cứ đường mình mình đi.

                                                                  13. Không tật đố, không xan tham, dù có được thế gian tôn kính người ấy cũng không bị vướng mắc. Người ấy không tự tôn, không tự ti, không đòi bằng người, cái gì đúng pháp thì làm, phi pháp thì bỏ.

                                                                    14. Thấy được tự tính không, đạt tới vô cầu, vô đắc, không còn vui cái vui phàm tục của thế gian, tâm ý đã thực sự dừng lại, vị mâu ni vượt thoát thời gian, đạt tới bản môn, đi vào kiếp ngoại.

                                                                       

                                                                       

                                                                      Đại Ý

                                                                      Kinh này nói về một con người xuất gia lý tưởng. Đây là một vị mâu ni, một người thành đạt trên con đường tâm linh và trở thành một bậc thầy, một người gương mẫu cho tất cả những ai muốn sống một cuộc đời xuất trần thượng sĩ. Mâu Ni có nghĩa là người tĩnh lặng (tịch mịch), người đã đạt tới bình an, không còn nắm bắt, không còn trông ngóng, hoàn toàn thảnh thơi, không có nhu yếu phô trương.

                                                                       

                                                                      • Bài kệ đầu là câu hỏi về hạnh đức của một vị mâu ni.
                                                                      • Bài kệ thứ hai: Người ấy không bị kẹt vào hư danh.
                                                                      • Bài kệ thứ ba: Người ấy đã buông bỏ được mọi tham cầu.
                                                                      • Bài kệ thứ tư: Người ấy biết sống tri túc, hạnh phúc, không còn sợ hãi, không còn tật đố; có khả năng sống thảnh thơi.
                                                                      • Bài kệ thứ năm: Người ấy đã hết nghi ngờ, không còn nhu yếu lý luận.
                                                                      • Bài kệ thứ sáu: Người ấy tâm ý giải thoát, không còn kẹt vào tư kiến, không bị ái dục lôi kéo.
                                                                      • Bài kệ thứ bảy: Không còn trông cầu mong ước.
                                                                      • Bài kệ thứ tám: Nắm vững được chỉ và quán, thấy được bình đẳng và vô ngã. Không còn mặc cảm.
                                                                      • Bài kệ thứ chín: Không bị vướng vào hiện tại, không bị kẹt vào trong tam giới.
                                                                      • Bài kệ thứ mười: Đạt tới chỗ vô ưu, giải thoát, viễn ly.
                                                                      • Bài kệ thứ mười một: Không có nhu yếu làm sở hữu chủ của bất cứ một cơ sở nào, dù là chùa hay tu viện.
                                                                      • Bài kệ thứ mười hai: Bất động trước mọi công kích và phỉ báng.
                                                                      • Bài kệ thứ mười ba: Không bị sự cung kính của thế gian làm lay chuyển tâm ý.
                                                                      • Bài kệ thứ mười bốn: Thấy được tự tính không, đã thực sự dừng lại, đã đạt tới vô đắc, đã vượt thoát thời gian, đi vào kiếp ngoại.

                                                                       

                                                                       

                                                                      Bài kệ 1
                                                                      Hữu giới cụ đương hà kiến                         有  戒  具  當  何  見
                                                                      Vân thuyết ngôn tùng ấm khổ                      云  說  言  從  陰  苦
                                                                      Nguyện Cồ Đàm giải thuyết thử                 願  瞿  曇  解  說  此
                                                                      Vấn chánh ý thế hùng sanh                           問  正  意  世  雄  生

                                                                      Bài kệ 2
                                                                      Tiên dĩ hành khí trọng nhuế                         先  已  行  棄  重  恚
                                                                      Diệc bất trước hậu lai nguyện                       亦  不  著  後  來  願
                                                                      Lai hiện tại diệc bất thủ                                  來  現  在  亦  不  取
                                                                      Diệc bất thọ tôn kính không                            亦  不  受  尊  敬  空

                                                                      Bài kệ 3
                                                                      Vị lai tưởng bất trước ái                                    未  來  想  不  著  愛
                                                                      Cửu viễn tưởng diệc bất ưu                              久  遠  想  亦  不  憂
                                                                      Hành viễn khả xả tế nhuyễn                             行  遠  可  捨  細  軟
                                                                      Tà kiến tận thiểu vô hữu                                    邪  見  盡  少  無  有

                                                                      Bài kệ 4
                                                                      Dĩ khứ khủng vô úy bố                                      已  去  恐  無  畏  怖
                                                                      Bất khả động tín vô nghi                                   不  可  動  信  無  疑
                                                                      Vô tật tâm lạc bỉ dữ                                            無  嫉  心  樂  彼  與
                                                                      Hành như thị ái tôn mạng                                 行  如  是  愛  尊  命

                                                                      Bài kệ 5
                                                                      Năng tự thủ bất đa vọng                                    能  自  守  不  多  望
                                                                      Tự đa đắc tuệ vô tật                                          自  多  得  慧  無  嫉
                                                                      Bất ác xú bất mô dã                                           不  惡   醜  不 嫫  冶
                                                                      Bất lưỡng thiệt xả hí nghi                              不  兩  舌  捨  戲   疑

                                                                      Bài kệ 6
                                                                      Ý tất thoát vô sở trước                                    意  悉  脫  無  所  著
                                                                      Khí tự kiến vô ỷ vọng                                    棄  自  見  無  綺  妄
                                                                      An tường hành năng giải đối                        安  庠  行  能  解  對
                                                                      Diệc bất dục đoạn dục tưởng                         亦  不 欲  斷  欲  想

                                                                      Bài kệ 7
                                                                      Bất học cầu sở lạc dục                                      不  學   求  所  樂  欲
                                                                      Tất vô hữu diệc bất ưu                                   悉  無  有  亦  不  憂
                                                                      Vô oán nhuế xả ái dục                                    無  怨  恚  捨  愛  欲
                                                                      Bất vi vị sở khả sử                                           不  為  味  所  可  使

                                                                      Bài kệ 8
                                                                      Bất tự cao ngã vô đẳng                                   不 自  高  我  無  等
                                                                      Đắc đối hủy hoành thủ kính                          得  對 毀  橫  取  敬
                                                                      Đương hành quán chỉ ý niệm                           當  行  觀  止  意  念
                                                                      Kiến thiện ác phi thứ vọng                                見  善  惡  非  次  望

                                                                      Bài kệ 9
                                                                      Khứ sở tại vô sở chỉ                                            去  所  在  無  所  止
                                                                      Quán hướng pháp đương hà trước                  觀  向  法  當  何  著
                                                                      Dục sắc không diệc vô sắc                                  欲  色  空  亦  無  色
                                                                      Tùng hiệt kế bất dục thoát                                 從  黠  計  不  欲  脫


                                                                      Bài kệ 10
                                                                      Ái dĩ diệt nãi dĩ tức                                             愛  已  滅  乃  已  息
                                                                      Tam giới không vô lạc ý                                    三  界  空  無  樂  意
                                                                      Tất giải ly hà tùng đắc                                        悉  解  離  何  從  得
                                                                      Đa tùng hải độ vô ưu                                          多  從  海  度  無  憂

                                                                      Bài kệ 11
                                                                      Bất nguyện sinh kiến hữu tử                             不  願  生  見  有  子
                                                                      Liệt địa hành nguyện bảo tăng                         列  地  行  願  寶  增
                                                                      Lai bất sinh khứ bất đáo                                    來  不  生  去  不  到
                                                                      Dục hà sách tùng hà đắc                                     欲  何  索  從  何  得

                                                                      Bài kệ 12
                                                                      Tất vô năng thuyết đáo xứ                             悉  無  能  說  到  處
                                                                      Chúng học sa môn du tâm                             眾  學  沙  門  遊  心
                                                                      Tất lệnh cầu sở tại xứ                                      悉  令  求  所  在  處
                                                                      Như xúc mạo tri như khứ                              如  觸  冒  知  如  去

                                                                      Bài kệ 13
                                                                      Diệc bất tật diệc vô tham                               亦  不  嫉  亦  無  貪
                                                                      Tuy tại cao tôn bất lạc                                     雖  在  高  尊  不  樂
                                                                      Bất lạc trung hạ bất lạc                                   不  樂  中  下  不  樂
                                                                      Tùng pháp sinh phi pháp xả                          從  法  生  非  法  捨

                                                                      Bài kệ 14
                                                                      Thị tất không diệc vô hữu                             是  悉  空  亦  無  有
                                                                      Tùng bất đắc diệc bất cầu                               從  不  得  亦  不  求
                                                                      Mạc dục thế tà lạc nhân                                  莫  欲  世  邪  樂  人
                                                                      Ý dĩ chỉ tiện đáo tận                                        意  已  止  便  到  盡

                                                                      _________________________

                                                                      Mục Lục

                                                                      Lời tựa

                                                                      Phần 1

                                                                      1. Kinh Nhiếp Phục Tham Dục (Kiệt Tham Vương Kinh)
                                                                      2. Kinh Hang Động Ái Dục (Ưu Điền Vương Kinh)
                                                                      3. Kinh Buông Bỏ Sở Tri Và Ngôn Từ (Tu Đà Lợi Kinh)
                                                                      4. Kinh Buông Bỏ Khổ Lạc Và Nhiễm Tịnh (Ma Kiệt Phạm Chí Kinh)
                                                                      5. Kinh Sự Thật Đích Thực (Kính Diện Vương Kinh)
                                                                      6. Kinh Buông Bỏ Ân Ái (Lão Thiểu Câu Tử Kinh)
                                                                      7. Kinh Xa Lìa Ái Dục (Di Lặc Nạn Kinh)
                                                                      8. Kinh Buông Bỏ Ý Muốn Hơn Thua (Dũng Từ Phạm Chí Kinh)
                                                                      9. Kinh Nhân Cách Của Một Vị Mâu Ni (Ma Nhân Đề Nữ Kinh)
                                                                      10. Kinh Đạo Lý Duyên Khởi (Dị Học Giác Phi Kinh)
                                                                      11. Kinh Chấm Dứt Tranh Cãi (Mãnh Quán Phạm Chí Kinh)
                                                                      12. Kinh Buông Bỏ Nắm Bắt (Pháp Quán Phạm Chí Kinh)
                                                                      13. Kinh Công Phu Thực Tập Căn Bản (Đâu Lặc Phạm Chí Kinh)
                                                                      14. Kinh Phòng Hộ (Liên Hoa Sắc Tỳ Khưu Ni Kinh)
                                                                      15. Kinh Vị Mâu Ni Thành Đạt (Phụ Tử Cọng Hội Kinh)
                                                                      16. Kinh Chuyển Hóa Bạo Động Và Sợ Hãi (Duy Lâu Lặc Vương Kinh)
                                                                      Phần 2 (Giảng giải kinh)

                                                                      Kinh Vị Mâu Ni Thành Đạt
                                                                      Kinh Xa Lìa Ái Dục
                                                                      Kinh Chuyển Hóa Bạo Động Và Sợ Hãi

                                                                       

                                                                      Kinh Phòng Hộ

                                                                      Kinh Phòng Hộ
                                                                      (Tỳ Khưu Ni Liên Hoa Sắc Kinh)
                                                                      Nghĩa Túc Kinh, kinh thứ 14, Đại Tạng Tân Tu 198
                                                                      tương đương với Sàriputta Sutta, Sutta-Nipàta 955-975

                                                                      Bối Cảnh

                                                                      Đây là kinh Liên Hoa Sắc Tỳ Khưu Ni. Tỳ Khưu Ni Liên Hoa Sắc là một sư cô đã tu chứng, đã đắc quả a la hán và đã có thần thông. Khung cảnh dựng lên: Bụt lên cung trời Đao Lợi để thăm mẹ là phu nhân Mahamaya và dạy đạo cho Ngài. Chư thiên nhân dịp này được thừa hưởng sự giáo hóa của Bụt đầy đủ. Bụt ở trên ấy ba tháng. Dưới này thầy Mục Kiền Liên hướng dẫn tứ chúng tu tập. Sau ba tháng, thầy Mục Kiền Liên được tứ chúng khẩn cầu đi mời Bụt về. Bụt về đại chúng đi đón tiếp rất đông đảo. Hai giới trời và người quy tụ lại để được nghe Bụt giảng dạy và hướng dẫn thực tập. Sư cô Liên Hoa Sắc cũng có mặt tại đây. Cùng các vị hiền giả khác, sư cô đọc lên những lời tán thán đức Thế Tôn. Thầy Xá Lợi Phất cũng có dịp tán dương Bụt và sau đó đặt những câu hỏi về những khó khăn và hiểm nguy mà một vị xuất gia có thể gặp phải trên bước đường tu học. Và Bụt đã trả lời bằng kinh này.

                                                                       

                                                                      1.   Chưa từng thấy ai (sáng rỡ) như Bụt. Chưa từng nghe ai nói lời (tuyệt diệu) như Ngài. Từ cung trời Đao Lợi đi xuống, Đức Thế Tôn là bậc có uy lực tuyệt vời.

                                                                      2.   Được cả hai cõi thiên và nhân ngưỡng mộ, Ngài là hiện thân của một cái thấy có khả năng soi sáng cho cõi đời đầy tục lụy và tham đắm này. Cái bình an vĩ đại của Ngài không có gì có thể lay chuyển được. Mang niềm vui, một mình Ngài đi giữa cõi thế gian.

                                                                      3.   Con đã may mắn tìm tới được với Ngài, bậc giác ngộ, bậc vô ưu. Bậc đã lên tới đỉnh cao của sự giác ngộ và đã trở về cõi trần thế để giáo hóa. Ngài là người đã để ra bao nhiêu công phu tâm ý để đạt tới giải thoát. Đã đánh tan được dục vọng, đã thoát ra khỏi được cuộc đời ác trược. Xin Ngài ban cho chúng con một ít những giáo nghĩa tốt đẹp của Ngài.

                                                                      4, 5.   Nếu một vị khất sĩ quyết tâm từ bỏ cuộc sống trần lụy, can đảm đi tìm tới một chỗ vắng người, dưới một gốc cây, một vùng khoáng dã, nơi rừng sâu, hoặc trong một am thất. Hoặc ở trên núi cao, tìm một chỗ để ngồi và để nghỉ lưng thì vị ấy sẽ có thể gặp những tai nạn hiểm nguy nào? Làm sao để vị ấy đừng có sợ hãi? Làm sao để vị ấy có thể thực tập mà đạt tới chỗ thoát ly sinh tử?

                                                                      6.   Có bao nhiêu loại tai nạn và hiểm nguy của cuộc đời đang chờ đợi vị ấy? Có những dấu hiệu và âm thanh nào báo cho vị ấy biết những tai nạn và hiểm nguy kia?
                                                                      Làm sao khi qua lại, khi nghỉ ngơi vị khất sĩ được vắng yên, không bị xáo động bởi những âm thanh vọng tới?

                                                                      7.   Vị khất sĩ muốn đạt tới an lành cần phải nói gì? Phải làm gì cho đúng?
                                                                      Phải trì giới như thế nào? Phải thực tập làm sao để đừng nửa chừng đánh mất sự hành trì của mình?

                                                                      8.   Tu tập như thế nào để giới thân không bị sứt mẻ? Làm sao để khi đi thì đi một mình, không đàn đúm với ai? Làm sao để có ý chí gột sạch được u mê, để tìm cầu tuệ nhãn, giống như một người thợ rèn luyện thép, loại ra được những chất quặng dơ bên trong?

                                                                      9.   Bụt dạy có năm cái hiểm nguy: ác thú bốn chân, sâu, muỗi, rắn rết và những con người có ý đồ không tốt. Nhưng nếu biết sống có chánh niệm và tinh cần thì vị khất sĩ sẽ không bị những thứ ấy làm hại. Vị ấy phải hết lòng tu tập, quyết tâm đừng chạy theo những cái khả ái.

                                                                      10. Thấy những người ngoại đạo đừng để tâm tới họ. Đừng xuất hiện, đừng nói nhiều, đừng phô trương hình thức. Nếu biết quán chiếu lý vô ngã một cách sâu sắc thì có thể nhẫn xả được tất cả. Đừng ham tới lui chốn phố xá đông người.

                                                                      11.  Đau nhức, bệnh tật, đói lạnh, những cái ấy hãy học cách chịu đựng cho quen, đừng sợ hãi chúng. Hãy sử dụng chánh tinh tiến để chống cự lại và để tự bảo hộ mình.

                                                                      12.  Đừng chạy theo những cái vỏ quyến rũ bên ngoài. Diệt tận gốc những mầm mống của cái ác, đừng cho chúng tiếp tục. Đừng nắm bắt những cái không thể nắm bắt và cả những cái có thể nắm bắt. Đừng vướng mắc vào quá khứ, đừng trông ngóng về tương lai.

                                                                      13.  Duy trì tâm bồ đề, nuôi lớn thiện tâm. Vượt qua hàng rào thị phi, không bao giờ nói lời thô ác. Nhẫn nhịn được những điều bất như ý. Khi đi cũng như khi ngồi thực tập bốn phép nhẫn nhục để vượt qua nhu yếu than trách.

                                                                      14.  “Đêm nay ta sẽ ngủ ở đâu? Sáng nay ta sẽ đi khất thực ở xóm nào? Khi trong người có bệnh, làm sao cho hết bệnh, hết đau nhức?” Nếu cả ngày chỉ cứ suy nghĩ về những chuyện như thế thì thật là đáng thương. Phải biết học hỏi cách thức buông bỏ, phải biết hành trì để có thể đạt tới viễn ly.

                                                                      15.  (Khi được cúng dường thức ăn và y dược), đừng nghĩ tới chuyện ngon hay dở, nhiều hay ít. Phải biết tiếp nhận có điều độ. Phải biết dừng lại khi nên dừng lại. Trong khi bước đi giữa thôn làng nếu nghe tiếng người chửi bới thì hãy giữ im lặng, đừng nói lời thô ác để đáp lại.

                                                                      16.  Vị khất sĩ bước đi, hai mắt nhìn xuống, không láo liêng. Dùng thì giờ mà thực tập thiền quán, đừng ham ngủ. Quán duyên khởi, làm cho tâm ý an lành. Đình chỉ vọng niệm, đoạn trừ mọi mối nghi ngờ.

                                                                      17.  Đừng nhận những gì không đáng nhận. Không cho những gì không đáng cho. Phải biết nhìn kẻ khác bằng con mắt từ bi, đừng nạt nộ ai. Nếu có xảy ra chuyện tranh chấp, thì biết đối xử với tâm bình đẳng. Đừng quan trọng hóa chuyện ai đúng ai sai.

                                                                      18.  Mỗi khi bị chửi mắng, đừng nổi cơn thịnh nộ. Đừng nói nặng lời với các bạn đồng tu. Lời nói dịu dàng sẽ thấm dần vào được như nước. Đừng có ý tìm cách dìm người khác xuống.

                                                                      19.  Nếu có ai muốn tỏ bày sự cung kính phải thực tập để đừng bị sự tôn kính ấy chạm đến mình. Sắc đẹp, tiếng hay, vị ngọt, hương thơm, cảm xúc dễ chịu, đừng để cho những cái ấy làm tổn hại đến tự thân.

                                                                      20.  Đối với những cám dỗ, đừng để bị đắm trước. Phải biết điều phục tâm ý mới không bị vướng vào chúng. Vị khất sĩ biết sử dụng giới pháp và thiền quán để đạt tới minh tuệ. Đưa tâm chuyên về một mối để phá cho vỡ được khối vô minh đã được chứa chất từ lâu đời.

                                                                      Đại Ý

                                                                      Kinh này bổ túc cho kinh đi trước, nói thêm về Công Phu Thực Tập Căn Bản của người xuất sĩ. Ta thấy rất rõ ràng là thầy Xá Lợi Phất đang đặt những câu hỏi để Bụt trả lời không phải là cho thầy mà cho tất cả các vị khất sĩ đang có mặt trong lúc ấy. Ngay chính những câu hỏi này đã là những lời dạy dỗ của một vị huynh trưởng cho đàn em rồi. Ví dụ những câu hỏi trong các bài thi kệ thứ bảy và thứ tám: vị khất sĩ muốn được an ổn, cần phải nói gì? Không nên nói gì? Phải làm gì cho đúng? Phải trì giới thế nào? Làm sao để đừng bỏ cuộc nửa chừng? Làm thế nào cho giới thân không bị sứt mẻ? Làm sao để mỗi khi bước đi thì đi một mình, đừng đàn đúm với ai? Làm thế nào để loại trừ các chất độc phiền não nội tâm?

                                                                      Những câu trả lời của Bụt rất thiết thực. Cố nhiên các loài dã thú bốn chân, rắn, rết, sâu, muỗi v.v… có thể làm hại mình, nhưng nếu có chánh niệm thì mình sẽ không bị những thứ ấy làm hại. Nhưng còn một hiểm nguy khác: đó là loài người hai chân. Có những người có ý đồ không tốt, họ không muốn cho mình tu học. Lại có những người cũng ở trong giới tu tập nhưng vì ganh tỵ, vì sợ hãi cũng muốn loại trừ mình. Đối với những tai nạn do giới “hai chân” này gây ra, thì cách thức hay nhất là đừng tranh dành với họ, “Đừng xuất hiện, đừng nói nhiều, đừng phô trương hình thức. Đừng ham tới lui chốn phố xá đông người.” Đó là lời dặn dò của Bụt trong bài thi kệ thứ mười.

                                                                      Đã đi xuất gia thì đừng lo lắng về chuyện tối nay ngủ ở đâu, sáng mai ăn ở đâu, khi có bệnh thì ai săn sóc cho mình, khi đói lạnh thì ai lo lắng cho mình. Nếu nương vào Tăng thân và hết lòng tu tập thì mọi việc sẽ được sắp xếp, mình không cần lo lắng về những thứ ấy.

                                                                      Đừng nắm bắt những cái không thể nắm bắt và ngay cả những thứ có thể nắm bắt. Đừng tiếc thương quá khứ, đừng trông ngóng tương lai. Đừng chạy theo cái vỏ hào nhoáng bên ngoài. Nội lời nhắn nhủ này trong bài thi kệ thứ mười hai cũng đã làm kim chỉ nam cho sự thực tập suốt đời của một vị khất sĩ.

                                                                      Bài kệ thứ mười lăm dặn ta tiêu thụ cho có chừng mực. Phải biết dừng lại khi cần dừng lại. Gặp người chửi bới thì giữ im lặng đừng đáp lại. Như vậy sẽ có an ninh.

                                                                      Bài kệ thứ mười sáu dặn vị khất sĩ khi bước đi hai mắt phải nhìn xuống, đừng láo liêng.

                                                                      Bài kệ thứ bảy dạy về cách cho và cách nhận. Chỉ nhận những gì đáng nhận, cho những gì đáng cho. Phải đối xử bình đẳng, không thiên vị. Phải tập nhìn bằng mắt từ bi. Từ nhãn thị chúng sanh.

                                                                      Bài kệ thứ mười chín dạy ta thực tập khiêm cung đừng để sự cung kính của người khác làm hại đến pháp thân của mình. Phải phòng hộ sáu căn, đừng để sắc đẹp, tiếng hay, vị ngọt, hương thơm, lạc xúc và tiếng khen kéo mình đi về nẻo hưởng thụ.

                                                                      Cuối cùng bài kệ thứ hai mươi nhắc ta phải thực tập thiền quán để đạt tới minh tuệ, phá vỡ vô minh.

                                                                       

                                                                      Bài kệ 1
                                                                      Vị thường kiến hữu thị giả        未 嘗 見 有 是 者
                                                                      Vị thường văn hữu thuyết giả     未 嘗 聞 有 說 者
                                                                      Tôn như thị uy thần Thiên          尊 如 是 威 神 天
                                                                      Tùng đâu thuật lai chí thị         從 兜 術 來 至 是

                                                                      Bài kệ 2
                                                                      Thiên Nhân thế tất ủng hộ        天 人 世 悉 擁 護
                                                                      Trọng ái tục như thân nhãn     重 愛 俗 如 身 眼
                                                                      Nhất thiết an bất vi chuyển        一 切 安 不 為 轉
                                                                      Lạc độc hành trước trung ương    樂 獨 行 著 中 央

                                                                      Bài kệ 3
                                                                      Vô ưu giác ngã thiện hành       無憂 覺 我 善 行
                                                                      Đáo thượng giáo phục hoàn thế    到 上 教 復 還 世
                                                                      Nhiêu tâm giải hoại dục thân      饒 心 解 壞 欲 身
                                                                      Ác hành xuất hữu thiện nghĩa       惡 行 出 有 善 義

                                                                      Bài kệ 4
                                                                      Nhược Tỳ-kheo hữu yểm tâm     若 比 丘 有 厭 心
                                                                      Hành hữu bại  hữu không sanh      行 有 敗 有 空  生
                                                                      Tại thụ hạ nhược khoáng dã      在 樹 下 若 曠 野
                                                                      Tại thâm sơn vu thất trung        在 深 山 于 室 中

                                                                      Bài kệ 5
                                                                      Nhược cao xứ hạ sàng ngọa     若 高 處 下 床 臥
                                                                      Lai  khủng bố phàm kỷ bối     來 恐 怖 凡 幾 輩
                                                                      Hành hà tùng chí  bất úy     行 何 從 志 不 畏
                                                                      Hoặc cửu hậu sở hành xứ     或 久 後 所 行 處

                                                                      Bài kệ 6
                                                                      Thế kỷ bối bỉ lai thanh    世 幾 輩 彼 來 聲
                                                                      Nhược vãng lai tại phương diện      若 往 來 在 方 面
                                                                      Tỳ-kheo xứ bất trước ý      比 丘 處 不 著 意
                                                                      Sở chỉ xứ  tịch vô hướng      所 止 處 寂 無 嚮

                                                                      Bài kệ 7
                                                                      Khẩu dĩ xuất thiện ác hưởng     口 已 出 善 惡 響
                                                                      Tại  hành xứ đương hà tác   在 行 處 當 何 作
                                                                      Trì giới trú hành bất xả       持 戒 住 行 不 捨
                                                                      Tỳ-kheo học cầu an tường      比 丘 學 求 安 祥

                                                                      Bài kệ 8
                                                                      Vân hà học giới bất lậu     云 何 學 戒 不 漏
                                                                      Độc tại hành thường vô bạn     獨 在 行 常 無 伴
                                                                      Dục tẩy minh  cầu  minh  mục    欲 洗 冥 求 明  目
                                                                      Dục  cổ  mân xuy nội cấu      欲 鼓 岷 吹 內 垢

                                                                      Bài kệ 9
                                                                      Ngũ khủng bố tuệ bất úy     五 恐 怖 慧 不 畏
                                                                      Chí tâm  học viễn khả dục    至 心 學 遠 可 欲
                                                                      Cần trách mãnh diệc thuế trùng    勤 蚱 蜢 亦 蛻 蟲
                                                                      Nhân ác thanh tứ túc thú   人 惡 聲 四 足 獸

                                                                      Bài kệ 10
                                                                      Phi thân Pháp ý mạc thức    非 身 法 意 莫 識
                                                                      Vô sắc thanh  quang vô hình    無 色 聲 光 無 形
                                                                      Tất phi ngã tất nhẫn xả   悉 非 我 悉 忍 捨
                                                                      Mạc văn thiện tham phụ huyền   莫  聞 善 貪 婦 縣

                                                                      Bài kệ 11
                                                                      Sở bị thống bất khả thân    所 被 痛 不 可 身
                                                                      Khủng nhược các tất thọ hành     恐 若 各 悉 受 行
                                                                      Thị  tào khổ thống nan nhẫn     是 曹 苦 痛 難 忍
                                                                      Dĩ tinh tấn tác cự  hãn    以 精 進 作 拒 扞


                                                                      Bài kệ 12
                                                                      Nguyện ỷ tưởng niệm mạc tùy    願 綺 想 念 莫 隨
                                                                      Quật ác tài căn bạt chỉ    掘 惡 栽 根 拔 止
                                                                      Trước ái khả nhược bất khả     著 愛 可 若 不 可
                                                                      Hữu dĩ quá hậu mạc vọng     有 已 過 後 莫 望

                                                                      Bài kệ 13
                                                                      Tồn hiệt tưởng thục thành thiện     存  黠  想  熟  成  善
                                                                      Việt thị khứ tị thô thanh    越  是  去  避  麤  聲
                                                                      Nhẫn bất lạc tọa tại hành   忍  不  樂  坐  在  行
                                                                      Tứ khả nhẫn ai bi pháp   四  可  忍  哀  悲  法

                                                                      Bài kệ 14
                                                                      Thường hà chỉ  tại hà thực    常 何 止 在 何 食
                                                                      Khủng hữu thống vân hà chỉ      恐 有 痛 云 何 止
                                                                      Hữu thị tưởng thậm khả bi      有 是 想 甚 可 悲
                                                                      Học tạo khí hành viễn khả      學 造 棄 行 遠 可

                                                                      Bài kệ 15
                                                                      Hữu vị hữu khổ lạc khổ   有 未 有 苦 樂 苦
                                                                      Tri kỳ độ thủ  khả chỉ        知 其 度 取 可 止
                                                                      Văn quan bế huyền quốc hành   聞 關 閉 縣 國 行
                                                                      Thô ác thanh ưng mạc nguyện     麤 惡 聲 應 莫 願

                                                                      Bài kệ 16
                                                                      Cử  nhãn nhân mạc vọng chiêm      舉 眼 人 莫 妄 瞻
                                                                      Dữ thiền hội đa mạc ngọa      與 禪 會 多 莫 臥
                                                                      Quán nhân duyên ý an tường    觀 因 緣 意 安 祥
                                                                      Chỉ an niệm nghi tưởng đoạn     止 安 念 疑 想 斷

                                                                      Bài kệ 17
                                                                      Thủ  mạc tà dữ vô khi   取 莫 邪 與 無 欺
                                                                      Từ ai thị  mạc khủng khí       慈 哀 視 莫 恐 氣
                                                                      Như đối kiến đẳng tâm hành      如 對 見 等 心 行
                                                                      Minh vô minh tùng cầu  tiên    冥 無 明 從 求 鮮

                                                                      Bài kệ 18
                                                                      Bị ác ngữ mạc tăng ý   被 惡 語 莫 增 意
                                                                      Cố oán ngữ ư đồng học     故 怨 語 於 同  學
                                                                      Phóng thanh ngôn nhu nhược thủy     放 聲 言 濡 若 水
                                                                      Quý tàm pháp thức mạc tưởng      媿 慚 法 識 莫 想

                                                                      Bài kệ 19
                                                                      Nhược vi bỉ kiến tôn  kính     若 為 彼 見 尊 敬
                                                                      Hữu  hành ý ly mạc thọ      有 行 意 離 莫 受
                                                                      Nhược sắc thanh nhược hảo vị   若 色 聲 若 好 味
                                                                      Hương tế hoạt thị dục quyên    香 細 滑 是 欲 捐

                                                                      Bài kệ 20
                                                                      Ư thị pháp mạc tiết trước    於 是 法 莫 媟 著
                                                                      Học chế ý thiện khả thoát    學 制 意 善 可 脫
                                                                      Giới biến quán đẳng minh pháp  戒 遍 觀 等 明 法
                                                                      Hành hữu nhất cựu khí minh      行 有 一 舊 棄 冥

                                                                      _________________________

                                                                      Mục Lục

                                                                      Lời tựa

                                                                      Phần 1

                                                                      1. Kinh Nhiếp Phục Tham Dục (Kiệt Tham Vương Kinh)
                                                                      2. Kinh Hang Động Ái Dục (Ưu Điền Vương Kinh)
                                                                      3. Kinh Buông Bỏ Sở Tri Và Ngôn Từ (Tu Đà Lợi Kinh)
                                                                      4. Kinh Buông Bỏ Khổ Lạc Và Nhiễm Tịnh (Ma Kiệt Phạm Chí Kinh)
                                                                      5. Kinh Sự Thật Đích Thực (Kính Diện Vương Kinh)
                                                                      6. Kinh Buông Bỏ Ân Ái (Lão Thiểu Câu Tử Kinh)
                                                                      7. Kinh Xa Lìa Ái Dục (Di Lặc Nạn Kinh)
                                                                      8. Kinh Buông Bỏ Ý Muốn Hơn Thua (Dũng Từ Phạm Chí Kinh)
                                                                      9. Kinh Nhân Cách Của Một Vị Mâu Ni (Ma Nhân Đề Nữ Kinh)
                                                                      10. Kinh Đạo Lý Duyên Khởi (Dị Học Giác Phi Kinh)
                                                                      11. Kinh Chấm Dứt Tranh Cãi (Mãnh Quán Phạm Chí Kinh)
                                                                      12. Kinh Buông Bỏ Nắm Bắt (Pháp Quán Phạm Chí Kinh)
                                                                      13. Kinh Công Phu Thực Tập Căn Bản (Đâu Lặc Phạm Chí Kinh)
                                                                      14. Kinh Phòng Hộ (Liên Hoa Sắc Tỳ Khưu Ni Kinh)
                                                                      15. Kinh Vị Mâu Ni Thành Đạt (Phụ Tử Cọng Hội Kinh)
                                                                      16. Kinh Chuyển Hóa Bạo Động Và Sợ Hãi (Duy Lâu Lặc Vương Kinh)
                                                                      Phần 2 (Giảng giải kinh)

                                                                      Kinh Vị Mâu Ni Thành Đạt
                                                                      Kinh Xa Lìa Ái Dục
                                                                      Kinh Chuyển Hóa Bạo Động Và Sợ Hãi

                                                                       

                                                                      Kinh Công Phu Thực Tập Căn Bản

                                                                      Kinh Công Phu Thực Tập Căn Bản
                                                                      (Đâu Lặc Phạm Chí Kinh)
                                                                      Nghĩa Túc Kinh, kinh thứ 13, Đại Tạng Tân Tu 198
                                                                      tương đương với Tuvatake Sutta, Sutta-Nipàta 915-934

                                                                      Bối Cảnh

                                                                      Đây là kinh Đâu Lặc Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên: Tại thành Xá Vệ, trên đỉnh núi Lê Sơn, có hai vị quỷ vương tên là Thất Đầu Tướng Quân và Ô Ma Việt Tướng Quân, mỗi vị thống lãnh một phần đất đai. Hai vị cam kết với nhau rằng nếu vị nào khám phá ra được một cái gì có thể gọi là trân quý thì phải báo cho vị kia. Ô Ma Việt phát hiện một bông sen ngàn cánh lớn như bánh xe màu hoàng kim. Cùng với năm trăm thuộc hạ, vị này tới báo tin cho Thất Đầu. Trong khi đó Thất Đầu đã phát hiện ra được sự có mặt của Bụt. Ông ta đọc một bài kệ dài trên sáu mươi câu để ca tụng Bụt rồi mời Ô Ma Việt với thuộc hạ cùng đi với mình tới thăm Bụt. Trong khi gặp gỡ, có một vị Phạm Chí tên là Đâu Lặc còn chưa rõ về giáo lý và sự thực tập của Bụt. Bụt liền nói kinh này.

                                                                       

                                                                      1. Con xin hỏi bậc thiền giả, bậc thầy tâm linh: Một vị khất sĩ làm sao đạt tới sự lặng lẽ? Làm sao để có được sự mãn nguyện và niềm vui lớn?  Vị ấy học hỏi, tu tập như thế nào để chứng nhập được niết bàn và hoàn toàn không còn nắm bắt gì nữa trong cuộc đời?

                                                                      2.   Người ấy trước hết phải thấy rằng gốc rễ của mọi ham muốn là tin tưởng vào sự hiện hữu của một cái bản ngã. Từ tri giác sai lầm về bản ngã ấy mà biết bao nhiêu loạn động phát sinh. Nếu trong tâm ái dục đang còn thì bên ngoài còn có nhiều đổ vỡ. Phải luôn luôn thực tập cảnh giác chánh niệm về điều này.


                                                                      3.   Đừng thấy mình hơn người, thua người hoặc bằng người. Mỗi khi được thiên hạ xưng tụng và khen ngợi, đừng để cho tâm ngạo mạn cống cao phát sinh.

                                                                      4.   Đừng kẹt vào cái sở tri và cái mình đã học hỏi. Phải quán chiếu cả bên trong lẫn bên ngoài. Cần nỗ lực tinh tiến hành trì. Không nắm bắt gì, và không thấy có gì cần nắm bắt.

                                                                      5.  Phải làm chủ được mình, phải thực hiện cho được sự bình an nội tâm. Cái bình an ấy không thể tiếp nhận được từ kẻ khác. Do sự thực tập quán chiếu bên trong mà tâm ý yên tĩnh lại được. Cái yên tĩnh ấy không tới từ bên ngoài.

                                                                      6.   Nên an trú trong hiện tại như an trú trong chiều sâu của biển cả. Ở đó có sự bình an, không hề có sóng gió. Sống tĩnh lặng, tất cả năm uẩn đều được làm cho lắng dịu. Đừng để cho tâm ý và các giác quan bị kích động.

                                                                      7.   Phải phát tâm cầu mong chứng đạt cho được con mắt của trí tuệ lớn. Tự mình chứng đạt và giúp cho kẻ khác chứng đạt. Phải nuôi dưỡng, chế tác đức từ bi và bao dung. Phải thực tập, quán chiếu và tập trung cho tới mức vững chãi.

                                                                      8.  Con mắt đừng nhìn láo liêng bên này bên kia. Không ham nói nhiều, không mất thì giờ nghe những câu chuyện đàm tiếu. Không chạy theo vị ngọt của tham dục. Không có nhu yếu làm sở hữu chủ của bất cứ một cái gì trong cuộc đời.

                                                                      9.  Phải có chánh niệm về những xúc tiếp của cảm quan. Đừng để nẩy sinh ra tâm ý đau buồn. Đừng để nẩy sinh ra tâm ý ham muốn. Đừng để nẩy sinh tâm giận hờn và tâm sợ hãi.

                                                                      10. Khi được cúng dường thức ăn, thức uống và những vật dụng khác như quần áo, thuốc men… phải tiếp nhận vừa đủ nhu cầu của mình, đừng có tâm chất chứa để dành cho mai sau. Phải biết dừng lại, đừng để cho lòng tham kéo đi.

                                                                      11. Phải siêng năng thực tập thiền định, ưa ngồi trong rừng cây. Đừng đi vào những nơi đám đông tụ họp, vào chốn hý trường tiêu khiển. Khi ngồi cũng như khi nằm, chọn nơi yên tĩnh và đem hết tâm lực mà hành trì.

                                                                      12. Đừng ngủ nhiều, phải học hỏi và tu tập cho nghiêm túc. Đừng lơ là, cũng không nên bi quan. Không đánh mất thì giờ trong các cuộc vui rộn ràng. Những gì mà kẻ thế gian ưa chuộng và chạy theo, mình đều buông bỏ.

                                                                      13. Không thực tập phù phép, bùa chú, đoán mộng. Không bói toán, chấm số tử vi, đoán vận mạng, đoán điềm tốt xấu. Không cầu tự, không làm thầy địa lý, không kết nghĩa với người thế gian.

                                                                      14. Không mua bán, không tạo lãi. Không hùn vốn để kiếm lợi tức. Gặp gỡ người trong xóm làng, đừng đi theo họ với mục đích mưu cầu lợi dưỡng.

                                                                      15. Đừng vừa đi vừa nói chuyện. Không được nói lưỡi hai chiều. Suốt một đời tu chỉ nhắm tới sự nghiệp tuệ giác. Hành trì giới luật đừng để sơ suất, kể cả những giới điều nhỏ nhặt.

                                                                      16. Có ai cật vấn, đừng ngại ngùng. Có ai tôn kính, đừng nói lời đại ngôn. Đừng tham lam, đừng tật đố. Đừng nói lưỡi hai chiều, đừng giận dữ hoặc buồn phiền.

                                                                      17. Không nói những lời thô, lậu, tà vọng. Đừng làm điều gì có thể gây ra thù oán. Những điều sai quấy đừng bắt chước làm theo. Phải biết hổ thẹn, phải đừng tự hào.

                                                                      18. Khi nghe những lời thô ác, không dễ thương của những bạn đồng tu hoặc của người thế tục nên giữ im lặng. Đừng tham dự vào. Cũng đừng phản ứng bằng những lời nói tương tự.

                                                                      19. Đã có cơ duyên gặp được chánh pháp của bậc Như Lai thì phải để hết tâm ý hành trì, đừng ham vui nữa. Nên thực tập hết lòng theo lời Gotama chỉ dạy để đạt tới cái yên tĩnh của niết bàn.

                                                                      20. Nuôi lớn tuệ giác, chánh pháp không bao giờ lãng quên. Phải tập thấy được chân lý bằng con mắt của chính mình. Vị khất sĩ luôn luôn thực tập theo tuệ giác của đức Như Lai mà không chạy theo những cái hào nhoáng bên ngoài của thế gian nữa.

                                                                      Đại Ý

                                                                      Kinh này là một kinh rất quý đối với người xuất gia vì trong kinh Bụt chỉ dạy rất cặn kẽ và rất thiết thực về công phu thực tập hằng ngày của một vị xuất gia chân chính. Mỗi bài thi kệ là một viên ngọc bích. Có cả thảy là hai mươi bài thi kệ. Kinh này đáng để cho tất cả mọi người xuất gia học thuộc lòng. Kinh này đích thực là cẩm nang của người xuất gia.

                                                                      • Bài thi kệ thứ nhất là câu hỏi. Tu tập như thế nào để buông bỏ được mọi nắm bắt và thực chứng được niết bàn?
                                                                      • Bài thứ hai: Phải thực tập chánh niệm để thực chứng được vô ngã, và do đó mới nhổ được gốc rễ của ái dục.
                                                                      • Bài thứ ba: Đã thấy được vô ngã thì ba loại mặc cảm hơn người thua người và bằng người sẽ được tiêu tán.
                                                                      • Bài thứ tư: Vượt sở tri chướng, đừng ôm chặt kiến thức mình có.
                                                                      • Bài thứ năm: Phải có an mới có lạc. Bình an thật sự đến từ bên trong.
                                                                      • Bài thứ sáu: Phải an trú trong hiện tại mới thật sự có bình an. Phải biết cách thực tập chỉ và quán để làm lắng dịu thân và tâm.
                                                                      • Bài thứ bảy: Trái tim của sự thực tập là giới, định và tuệ. Tam học chế tác và nuôi dưỡng tình thương.
                                                                      • Bài thứ tám: Mắt đừng nhìn láo liêng, miệng đừng ham nói nhiều, không chạy theo vị ngọt của tham dục, đừng tìm cách làm sở hữu chủ của bất cứ một cái gì (như một cái hội hay một cái chùa).
                                                                      • Bài thứ chín: Hộ trì sáu căn, đừng để phát sinh tâm hành đau buồn, đam mê và sợ hãi.
                                                                      • Bài thứ mười: Tiêu thụ vừa đủ, có chừng mực.
                                                                      • Bài thứ mười một: Đừng tìm tới những đám đông, những nơi náo nhiệt.
                                                                      • Bài thứ mười hai: Đừng ngủ nhiều, để thì giờ mà học hỏi tu tập. Đừng đánh mất thì giờ trong những cuộc vui rộn ràng.
                                                                      • Bài thứ mười ba và mười bốn: Không sống bằng tà mạng.
                                                                      • Bài thứ mười lăm: Phải thực tập chánh ngữ, ái ngữ.
                                                                      • Bài thứ mười sáu, mười bảy và mười tám: Phải thực tập khiêm cung, tàm quý.
                                                                      • Bài thứ mười chín và hai mươi: Phải tiếp cận chân lý bằng kinh nghiệm của mình chứ không nên vay mượn kiến thức của kẻ khác.

                                                                       

                                                                       

                                                                      Bài k 1
                                                                      Nguyện vấn hiền Thần du viết   願 問 賢  神  俞 曰
                                                                      Viễn khả tĩnh đại  hỉ túc    遠 可 靖 大 喜 足
                                                                      Tùng hà kiến học đắc diệt   從 何 見 學 得 滅
                                                                      Tất bất thọ thế sở hữu   悉 不 受 世 所 有

                                                                      Bài kệ 2
                                                                      Bổn thị dục đa hiện ngã     本  是  欲  多  現  我
                                                                      Tùng nhất ỷ tiện tất loạn     從  一  綺  便  悉  亂
                                                                      Sở khả hữu nội ái dục        所  可  有  內  愛  欲
                                                                      Tùng hóa  hoại  thường giác thức    從  化  壞  常  覺  識

                                                                      Bài kệ 3
                                                                      Mạc dụng thị tiện tự kiến     莫 用 是 便 自 見
                                                                      Bất cập giảm nhược dữ đẳng   不 及 減 若 與 等
                                                                      Tuy kiến dự chúng sở xưng      雖 見 譽 眾 所 稱
                                                                      Mạc cống cao quyết bỉ trú      莫 貢 高 蹶 彼 住

                                                                      Bài kệ 4
                                                                      Như sở Pháp vi dĩ tri      如 所 法 為 已 知
                                                                      Nhược tại nội nhược tại ngoại      若 在 內 若 在 外
                                                                      Cường lực tiến sở tại tác     強 力 進 所 在 作
                                                                      Vô sở đắc thủ vô hữu    無 所 得 取 無 有

                                                                      Bài kệ 5
                                                                      Thả tự thủ hành cầu diệt   且  自  守  行  求  滅
                                                                      Học mạc tùng bỉ cầu diệt    學  莫  從  彼  求  滅
                                                                      Dĩ nội hành ý trước diệt      以  內  行  意  著  滅
                                                                      Diệc bất nhập tùng hà hữu   亦  不  入  從  何  有

                                                                      Bài kệ 6
                                                                      Tại xứ như hải trung ương   在  處  如  海  中  央
                                                                      Vô triều ba an bình chánh      無  潮  波  安 平  正
                                                                      Nhất thiết chỉ trụ diệc nhĩ    一  切  止  住  亦  爾
                                                                      Giác mạc tăng thức dữ  ý      覺  莫  增  識  與  意

                                                                      Bài kệ 7
                                                                      Nguyện tác Đại Tuệ nhãn thị    願 作 大 慧 眼 視
                                                                      Dĩ chứng Pháp phục hiện bỉ     已 證 法 復 現 彼
                                                                      Nguyện tác quang nhân thiện  thứ   願 作 光 仁 善 恕
                                                                      Chư kiểm thức tùng trí định    諸 撿 式 從 致 定

                                                                      Bài kệ 8
                                                                      Thả  nhiếp nhãn tả hữu trước    且 攝 眼 左 右 著
                                                                      Bất thọ ngôn quan bế thính   不 受 言 關 閉 聽
                                                                      Giới sở vị  mạc tham trước    戒 所 味 莫 貪 著
                                                                      Ngã vô sở thế sở hữu     我 無 所 世 所 有

                                                                      Bài kệ 9
                                                                      Thân sở hữu nhược thô tế    身 所 有 若 麤 細
                                                                      Mạc hoàn niệm tác bi tư      莫 還 念 作 悲 思
                                                                      Sở khả niệm tiện sanh nguyện     所 可 念 便 生 願
                                                                      Hữu lai khủng tuệ mạc úy      有 來 恐 慧 莫 畏


                                                                      Bài kệ 10
                                                                      Sở đắc lương cập ẩm  tương    所 得 糧 及 飲 漿
                                                                      Sở đương dụng nhược y bị     所 當 用 若 衣 被
                                                                      Thủ túc chỉ mạc lự hậu       取 足 止 莫 慮 後
                                                                      Tùng thị chỉ dư mạc tham     從 是 止 餘 莫 貪

                                                                      Bài kệ 11
                                                                      Thường hành định lạc thọ gian   常 行 定 樂 樹 間
                                                                      Xả thị lý vô hí phạm    捨 是 理 無 戲 犯
                                                                      Nhược tại tọa nhược tại ngọa     若 在 坐 若 在 臥
                                                                      Nhàn tĩnh xứ học lực hành     閑 靜 處 學 力 行

                                                                      Bài kệ 12
                                                                      Mạc tự oán quyên thùy ngọa    莫 自 怨 捐 睡 臥
                                                                      Tại  học hành thường nghiêm sự   在 學 行 常 嚴 事
                                                                      Khí ám hốt cập hí hư   棄 晻 忽 及 戲 譃
                                                                      Dục thế hảo tất viễn ly     欲 世 好 悉 遠 離

                                                                      Bài kệ 13
                                                                      Xả binh tạc hiểu giải mộng    捨  兵  鑿  曉  解  夢
                                                                      Mạc quán túc thiện ác hiện   莫  觀  宿  善  惡  現
                                                                      Mạc hiện tuệ ư bào thai      莫  現  慧  於  胞  胎
                                                                      Tất mạc tạc khả thiên thân   悉  莫  鑿  可  天  親

                                                                      Bài kệ 14
                                                                      Mạc tạo tác ư mại  mãi    莫 造 作 於 賣 買
                                                                      Mạc ư bỉ hành khi lợi    莫 於 彼 行 欺 利
                                                                      Mạc tác tham chỉ huyền quốc  莫 作 貪 止 縣 國
                                                                      Mạc tùng bỉ cầu dục lợi   莫 從 彼 求 欲 利

                                                                      Bài kệ 15
                                                                      Mạc lạc hành bất thành thuyết   莫 樂 行 不 誠 說
                                                                      Tất mạc hành lưỡng diện từ    悉 莫 行 兩 面 辭
                                                                      Tận thọ cầu tuệ sở hành   盡 壽 求 慧 所 行
                                                                      Cụ trì giới mạc khinh lậu    具 持 戒 莫 輕 漏

                                                                      Bài kệ 16
                                                                      Hoành lai cật mạc khởi khủng   橫 來 詰 莫 起 恐
                                                                      Kiến tôn kính mạc đại  ngữ   見 尊 敬 莫 大 語
                                                                      Sở tham khí bất khả tật       所 貪 棄 不 可 嫉
                                                                      Xả lưỡng thiệt nhuế bi Pháp    捨 兩 舌 恚 悲 法

                                                                      Bài kệ 17
                                                                      Sở dục ngôn học tham trước   所 欲 言 學 貪 著
                                                                      Mạc xuất thanh thô tà lậu     莫 出 聲 麤 邪 漏
                                                                      Vô tu tàm mạc tùng học     無 羞 慚 莫 從 學
                                                                      Sở thí hành mạc thủ oán    所 施 行 莫 取 怨

                                                                      Bài kệ 18
                                                                      Văn thô ác bất thiện thanh     聞 麤 惡 不 善 聲
                                                                      Tùng đồng học nhược phàm nhân     從 同 學 若 凡 人
                                                                      Thiện quan bế mạc dữ đồng     善 關 閉 莫 與 同
                                                                      Tuệ phản ưng bất quá thân         慧 反 應 不 過 身

                                                                      Bài kệ 19
                                                                      Tri Như Lai đế dĩ chánh   知 如 來 諦 已 正
                                                                      Bất hí tác trước ý tác     不 戲 作 著 意 作
                                                                      Tùng yến tịnh kiến dĩ diệt    從 宴 淨 見 已 滅
                                                                      Bất hí nghi Cồ Đàm giáo      不 戲 疑 瞿 曇 教

                                                                      Bài kệ 20
                                                                      Tự trí tuệ bất vong Pháp  自 致 慧 不 忘 法
                                                                      Chứng Pháp vô số dĩ kiến  證 法 無 數 已 見
                                                                      Thường tùng tuệ Như Lai học 常 從 慧 如 來 學
                                                                      Hảo bất trước tùng thị tuệ   好 不 著 從 是 慧

                                                                      _________________________

                                                                      Mục Lục

                                                                      Lời tựa

                                                                      Phần 1

                                                                      1. Kinh Nhiếp Phục Tham Dục (Kiệt Tham Vương Kinh)
                                                                      2. Kinh Hang Động Ái Dục (Ưu Điền Vương Kinh)
                                                                      3. Kinh Buông Bỏ Sở Tri Và Ngôn Từ (Tu Đà Lợi Kinh)
                                                                      4. Kinh Buông Bỏ Khổ Lạc Và Nhiễm Tịnh (Ma Kiệt Phạm Chí Kinh)
                                                                      5. Kinh Sự Thật Đích Thực (Kính Diện Vương Kinh)
                                                                      6. Kinh Buông Bỏ Ân Ái (Lão Thiểu Câu Tử Kinh)
                                                                      7. Kinh Xa Lìa Ái Dục (Di Lặc Nạn Kinh)
                                                                      8. Kinh Buông Bỏ Ý Muốn Hơn Thua (Dũng Từ Phạm Chí Kinh)
                                                                      9. Kinh Nhân Cách Của Một Vị Mâu Ni (Ma Nhân Đề Nữ Kinh)
                                                                      10. Kinh Đạo Lý Duyên Khởi (Dị Học Giác Phi Kinh)
                                                                      11. Kinh Chấm Dứt Tranh Cãi (Mãnh Quán Phạm Chí Kinh)
                                                                      12. Kinh Buông Bỏ Nắm Bắt (Pháp Quán Phạm Chí Kinh)
                                                                      13. Kinh Công Phu Thực Tập Căn Bản (Đâu Lặc Phạm Chí Kinh)
                                                                      14. Kinh Phòng Hộ (Liên Hoa Sắc Tỳ Khưu Ni Kinh)
                                                                      15. Kinh Vị Mâu Ni Thành Đạt (Phụ Tử Cọng Hội Kinh)
                                                                      16. Kinh Chuyển Hóa Bạo Động Và Sợ Hãi (Duy Lâu Lặc Vương Kinh)
                                                                      Phần 2 (Giảng giải kinh)

                                                                      Kinh Vị Mâu Ni Thành Đạt
                                                                      Kinh Xa Lìa Ái Dục
                                                                      Kinh Chuyển Hóa Bạo Động Và Sợ Hãi

                                                                       

                                                                      Kinh Buông Bỏ Nắm Bắt

                                                                      Kinh Buông Bỏ Nắm Bắt
                                                                      (Pháp Quán Phạm Chí Kinh)

                                                                      Nghĩa Túc Kinh, Kinh thứ 12, Đại Tạng Tân Tu 198
                                                                      (tương đương với
                                                                      Mahàviyùha Sutta,Sutta-Nipàta 895-914)

                                                                       

                                                                      Bối cảnh

                                                                      Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một: Trong pháp hội lớn tại thành Ca Tỳ La Vệ có 500 vị khất sĩ tham dự, có cả sự có mặt của các thiên thần, địa thần mười phương, và bốn vị thiên vương, vị Phạm Chí Pháp Quán có mặt đang nghi ngờ về đạo lý duyên khởi, cho nên nhân đó Bụt nói kinh này.

                                                                      1.   Khi đã bị kẹt vào cái thấy của mình rồi thì người ta ưa tuyên bố: “đây mới thật là chân lý.” Cái xảy ra sau đó hoặc là bị mọi người chống đối, hoặc được mọi người khen ngợi.


                                                                      2.  Ít ai biết hổ thẹn về cái thấy còn thiếu sót của mình. Ít ai thấy rằng tranh cãi thường đưa tới một trong hai hậu quả ấy (một là hơn, một là thua). Vậy ta nên nhổ tận gốc cái ý muốn tranh cãi để thực tập mà đạt cho tới cái bình an, nơi đó không còn (nhu yếu) tranh cãi nữa.


                                                                      3.  Tất cả các pháp đều có thể tính bình đẳng, giống như mặt đất. Chưa nếm trải được điều đó thì phải tìm cách thực chứng cho được. Nếu không thấy được cái nền tảng bình đẳng ấy thì làm sao có thể sống chung an lạc với nhau? Và làm sao để những gì mình thấy, nghe và nói không đem lại tranh chấp?

                                                                      4.  Ham được người ta khen ngợi là nguyên nhân khiến cho kẻ khác không ưa thích mình. Kẹt vào những gì mình thấy và nghe, vướng vào nhận thức và lề thói tranh chấp lưỡng nguyên, những kẻ này ai có thể giúp cho họ sáng mắt ra được? Ái dục chưa được đoạn trừ, những kẻ ấy sẽ phải còn tiếp tục trong vòng luân hồi sinh tử.


                                                                      5.  Nghĩ rằng sử dụng những cấm giới và nghi lễ mà mình đang hành trì sẽ đem lại cho mình sự thanh tịnh, nghĩ rằng mình đã khám phá và nắm được chân lý, người kia chưa thực sự đạt tới tịnh hóa, người ấy chỉ có chủ tâm gặt hái tiếng ngợi khen của thế gian


                                                                      6.  Không có tuệ giác mà đi tìm sự hành trì, đó là nguyên nhân đưa tới bao lầm lỡ, cũng như đi tìm sự thanh tịnh nơi sự học hỏi các chủ thuyết thì tự mình đánh mất giáo nghĩa chân thật và tiếp tục đi vào cái khổ của sinh tử.

                                                                      7. Không nỗ lực trong công phu hành trì thật sự, khi mà cái hiểu và cái làm chỉ còn nằm trong phạm vi tư duy, thì người ta không thể chấm dứt được sinh tử luân hồi. Tuệ giác đối với người ấy chỉ là những lý thuyết.

                                                                      8. Buông bỏ tất cả những lễ nghi và cấm giới, buông bỏ tất cả mọi ý niệm về tội và phúc, thanh tịnh và ô nhiễm, lúc đó vị hành giả mới không còn bị vướng vào những lo lắng u sầu về vấn đề thanh tịnh và nhiễm ô.

                                                                      9.  Nói rằng tu theo phép này là tốt nhất, và ai không tu tập theo phép này đều là những người đang lầm đường, những người đã đi lạc quá xa, nói như thế thì sẽ gây tranh chấp biến loạn. Ai cũng chỉ nhân danh chân lý để đi tìm kiếm chút lợi danh trong cuộc đời.

                                                                      10.  Cho giáo lý của mình là toàn hảo, và các giáo lý khác đều còn thô lậu và có nhiều khiếm khuyết, không có giáo lý nào so được với giáo lý của mình, đó là lý do sinh ra tranh chấp và thù oán. Ai cũng có khuynh hướng muốn nói rằng cái thấy và cái hành trì của mình là cách thức duy nhất giữ cho mình không bị sa đọa vào ô nhiễm.


                                                                      11.  Ai cũng cho chủ thuyết của mình là hay nhất, không có giáo pháp nào có lợi lạc bằng, không có nguồn tuệ giác nào khác có thể đem tới sự tịnh hóa như nguồn tuệ giác của mình. Chính vì thế mà người ta bị kẹt cứng vào cái chủ thuyết của chính mình không thoát ra được.

                                                                      12.  Mỗi người tự tôn sùng cái chủ thuyết của mình, cho đó là điểm cao nhất của sự học hỏi, đã từng được chính bậc đạo sư đích thân diễn giải. Sự thật là chủ thuyết kia chỉ là một lý thuyết suông, không phải là một pháp môn thực tập. Trong khi đó, sự tịnh hóa chỉ có thể xảy ra khi người ta hết lòng hành trì.


                                                                      13.  Kẻ này nói sự thật là cái này, kẻ kia nói sự thật là cái kia, và cái thấy nào cũng có thể là đúng, cũng có thể là sai. Nhưng một khi đã bị kẹt vào cái thấy của mình rồi thì người ta dễ gây thù oán với kẻ khác. Lý do là khi mình đã cố chấp cho cái thấy của mình là cao nhất thì mình luôn luôn nói giọng tự cao tự đại.

                                                                      14.Chấp nhận và vướng vào một chủ thuyết, cho rằng nhờ đó mà mình đã được giải thoát, tâm ý tuy có tin tưởng vào điều này nhưng trên thực tế chẳng có cái giải thoát thực sự nào xảy ra cả. Lý do là tại mình chỉ biết nói cho hay, và cái chủ thuyết kia chưa bao giờ đem lại sự giải thoát cho mình cả.


                                                                      15.  Hãy quán sát người đời đang kẹt vào tâm (ý niệm) và vật, đang lấy trí năng của họ để tìm hiểu về hai cái ấy. Dù ta có tìm hiểu được bao nhiêu về hai cái ấy thì cũng không phải nhờ thế mà ta được thanh tịnh và chuyển hóa.

                                                                      16.  Có được một pháp môn thực tập có công năng đưa tới tuệ giác thì mình không còn bị hệ lụy (vào bất cứ một chủ thuyết nào). Cái thấy và cái biết (của mình), mình cũng không bị vướng mắc vào đó. Không đi tìm cái khuyết điểm của người, chỉ lo hành trì cho đúng pháp, người hành giả vượt qua mọi tranh cãi, không chấp nhận tham dự vào bất cứ một cuộc tranh cãi nào.

                                                                      17.  Thực tập quán chiếu cho đến nơi đến chốn, không đi theo một học thuyết nào, không chấp chặt một ý thức hệ nào, như đóng chặt tất cả các cánh cửa để phòng ngự mọi tham đắm, người hành giả chỉ thực tập quán chiếu mà không đi tìm những lý thuyết hấp dẫn kỳ lạ.  

                                                                      18.  Bậc Mâu Ni đã buông bỏ được tất cả những gì mà người đời thường hay nắm bắt, không còn lận đận với sở thủ và sở sinh (đối tượng nắm bắt và đối tượng trở thành). Vị ấy không chọn lựa một quan điểm hay đi theo một phe phái nào trong những cuộc tranh chấp và cảm thấy thanh thản tự tại giữa đám quần chúng phàm tục đang buồn khổ và oán ghét nhau.

                                                                      19.  Đã buông bỏ những ham muốn ngày xưa, và không đang xây dựng một ham muốn mới nào, vị ấy không còn cầu mong gì nữa, và do đó sẽ không còn vướng bận gì nữa. Vị ấy đã thoát ra khỏi mọi tín ngưỡng sai lạc, đã dũng mãnh bước qua, đã vượt thoát thời gian, đi vào kiếp ngoại.

                                                                      20.  Vị ấy không còn nghi nan gì nữa đối với tất cả các chủ thuyết, không còn bị kẹt vào bất cứ một cái gì đã nghe, đã thấy và đã nghĩ. Sau khi buông bỏ được gánh nặng, vị Mâu Ni đã thực sự giải thoát, không còn mong mỏi một cái gì nữa cả, hoặc cho quá khứ hoặc cho tương lai.

                                                                      Đại Ý

                                                                      Kinh này nối tiếp đề tài kinh thứ mười một và cũng nói về những tai hại do sự nắm bắt chân lý gây ra. Nhưng kinh cũng đưa ta đi xa hơn.

                                                                      Người xuất sĩ phải quyết tâm diệt trừ ái dục, đừng để vướng vào nhận thức lưỡng nguyên và tranh chấp lưỡng nguyên. Đừng để thì giờ đi tìm và gặt hái tiếng khen ngợi của thế gian. Đó là tinh yếu của các bài thi kệ thứ tư và thứ năm của kinh. Muốn vượt thoát cái thấy nhị nguyên, phải quán chiếu về tính bình đẳng của vạn pháp để thấy được ta trong người, người trong ta, cái này trong cái kia, cái kia trong cái này. Chứng nghiệm được thể tính bình đẳng của vạn pháp sẽ không còn nhu yếu tự hào và tranh cãi. Đừng vướng vào bất cứ một chủ thuyết nào, một tư kiến nào, vì tất cả đều là lý thuyết suông, không phải là pháp môn thực tập. Không có công năng giúp ta chuyển hóa và trị liệu. Đó là thông điệp của bài thi kệ thứ mười hai.

                                                                      Vị mâu ni là người buông bỏ được mọi nắm bắt bởi vì vị ấy thấy được chân lý không phải là một đối tượng có thể nắm bắt. Vị mâu ni cũng không mong cầu trở thành, bởi vì thấy được rằng không có đối tượng trở thành. Cũng như sóng đã là nước, sóng không cần đi tìm để nắm bắt nước, để trở thành nước. Vị mâu ni buông bỏ mọi trông cầu, dù là trông cầu vượt thoát sinh tử. Bởi vì vị ấy đã thoát ra khỏi mọi tín ngưỡng sai lạc, trong đó có ý niệm kiếp này và kiếp sau. Bởi vì vị ấy đã thoát ra được ý niệm thời gian, đi vào kiếp ngoại. Đây là chất liệu của giáo lý buông bỏ bốn ý niệm ngã, nhân, chúng sinh và thọ giả của kinh Kim Cương và giáo lý thọ mạng vô lượng của kinh Pháp Hoa  sau này.

                                                                      Vị mâu ni là người đã buông bỏ được mọi gánh nặng, nhất là gánh nặng trông cầu.

                                                                       

                                                                      Bài kệ 1
                                                                      Như nhân duyên kiến hữu ngôn    如  因  緣  見  有  言
                                                                      Như dĩ thủ tất thuyết thiện    如  已  取  悉  說  善
                                                                      Nhất thiết bỉ ngã diệc khinh    一 切 彼 我 亦 輕
                                                                      Diệc hoặc trí tại thiện duyên    亦 或 致 在 善 緣

                                                                      Bài kệ 2
                                                                      Thiểu tự tri hữu tàm tu   少  自  知  有  慚  羞
                                                                      Tranh biến bổn thuyết lưỡng quả   諍  變  本  說  兩  果
                                                                      Kiến như thị xả  biến bổn   見 如 是 捨 變 本
                                                                      Nguyện  quán an  vô biến    xứ 願 觀 安 無 變 處

                                                                      Bài kệ 3
                                                                      Nhất thiết bình diệc như địa    一 切 平 亦 如 地
                                                                      Thị vị thường đương kiến đẳng    是 未 嘗 當 見 等
                                                                      Bổn bất đẳng tùng hà đồng    本  不  等  從  何  同
                                                                      Kiến văn thuyết mạc tác biến    見  聞  說  莫  作  變

                                                                      Bài kệ 4
                                                                      Ỷ trước thị chúng khả ác    猗 著 是 眾 可 惡
                                                                      Khả kiến văn diệc sở niệm    可 見 聞 亦 所 念
                                                                      Vũ xuất tịnh thùy vi minh    雨 出 淨 誰 為 明
                                                                      Ái vị trừ thân phục thân    愛 未 除 身 復 身

                                                                      Bài kệ 5
                                                                      Dĩ giới nhiếp sở phạm tịnh    以 戒 攝 所 犯 淨
                                                                      Hành đế tường dĩ cụ trú    行  諦  祥  已  具  住
                                                                      Ư thị ninh kinh chí tịnh    於  是  寧  經  至  淨
                                                                      Khả khủng thế tại thiện thuyết    可 恐 世 在 善 說

                                                                      Bài kệ 6
                                                                      Dĩ ly đế cánh cầu hành    已  離  諦  更  求  行
                                                                      Tất tùng tội nhân duyên thọ    悉  從  罪  因  緣  受
                                                                      Diệc như thuyết lực cầu tịnh    亦 如 說 力 求 淨
                                                                      Tự nghĩa  thất sanh tử khổ    自 義 失 生 死 苦

                                                                      Bài kệ 7
                                                                      Hành lực cầu diệc bất thuyết    行 力 求 亦 不 說
                                                                      Nhãn như hành diệc tư duy    眼 如 行 亦 思 惟
                                                                      Tử sanh vô tận tùng thị    死 生 無 盡 從 是
                                                                      Như thị tuệ  diệc như thuyết    如 是 慧 亦 如 說

                                                                      Bài kệ 8
                                                                      Giới bỉ hành nhất thiết xả    戒  彼  行  一  切  捨
                                                                      Tội diệc phước xả viễn khứ    罪 亦 福 捨 遠 去
                                                                      Tịnh diệc cấu bất niệm giác    淨  亦  垢  不  念  覺
                                                                      Vô triêm ô tịnh ai  thọ    無 沾 污 淨 哀 受

                                                                      Bài kệ 9
                                                                      Tu thị pháp độ bỉ nhất    修  是  法  度  彼  一
                                                                      Thuyết vô hành vi viễn khi    說  無  行  為  遠  欺
                                                                      Thọ như thị tiện tăng biến    受  如  是  便  增  變
                                                                      Các nhân đế thế tà lợi    各 因 諦 世 邪 利

                                                                      Bài kệ 10
                                                                      Tự sở Pháp tiện xưng cụ   自  所  法  便  稱  具
                                                                      Kiến bỉ Pháp cật vi lậu    見  彼  法  詰  為  漏
                                                                      Vô đẳng hành chuyển tướng oán    無  等 行  轉  相   怨
                                                                      Tự kiến  hành bất tùy ô    自  見  行  不  隨  污

                                                                      Bài kệ 11
                                                                      Phàm sở thuyết hiệt đại khủng    凡 所 說 黠 代 恐
                                                                      Vô ư pháp hữu sở ích    無 於 法 有 所 益
                                                                      Vô tuệ chúng  dị thuyết  tịnh    無 慧 眾 異 說 淨
                                                                      Sở  hệ  trước trú các kiên    所 繫 著 住 各 堅

                                                                      Bài kệ 12
                                                                      Các tôn Pháp như văn chỉ    各  尊  法  如  聞  止
                                                                      Diễn như giải tự sư thuyết    演  如  解  自  師  說
                                                                      Vô Pháp hành đãn hữu ngôn    無  法  行  但  有  言
                                                                      Bỉ sở tịnh nhân nhất tâm    彼  所  淨  因  一  心

                                                                      Bài kệ 13
                                                                      Ngôn như thị bỉ diệc thuyết    言  如  是  彼  亦  說
                                                                      Nhất sở kiến tùng tịnh đọa    一  所  見  從  淨  墮
                                                                      Tiện tự kiến oán sở tác    便 自 見 怨 所 作
                                                                      Tọa  thắng  tuệ  tự đại thuyết   坐 勝 慧 自 大 說

                                                                      Bài kệ 14
                                                                      Sở nhiếp trước cầu tiện thoát     所 攝 著 求 便 脫
                                                                      Niệm sở tín vô sở trú    念 所 信 無 所 住
                                                                      Bổn sở nhân  tại  hảo  thuyết    本 所 因 在 好 說
                                                                      Tịnh hạnh tại  bỉ vị trừ    淨 行 在 彼 未 除

                                                                      Bài kệ 15
                                                                      Quán thế nhân kiến danh sắc    觀  世  人  見  名  色
                                                                      Dĩ kỳ trí như thọ tri    以  其  智  如 受  知
                                                                      Dục kiến đa thiểu ngã hữu    欲 見 多 少 我 有
                                                                      Bất tùng thị  thiện tịnh  hữu    不 從 是 善 淨 有

                                                                      Bài kệ 16
                                                                      Hữu tuệ hành lụy vô hữu    有 慧 行 累 無 有
                                                                      Tri diệc kiến chánh dĩ thủ    知  亦  見  正  以  取
                                                                      Kiến vô quá thị pháp hành    見 無 過 是 法 行
                                                                      Độ thị loạn bất cánh thọ    度 是 亂 不 更 受

                                                                      Bài kệ 17
                                                                      Tuệ ý đáo vô sở chí    慧 意 到 無 所 至
                                                                      Bất kiến kiên thức sở giác    不 見 堅 識 所 覺
                                                                      Như quan bế chế sở trước    如 關 閉 制 所 著
                                                                      Đãn hành  quán vô thủ dị    但 行 觀 無 取 異

                                                                      Bài kệ 18
                                                                      Tôn đoạn thế sở thọ thủ    尊  斷  世  所  受  取
                                                                      Thủ dữ sanh bất ưng kiên    取  與  生  不  應  堅
                                                                      Tĩnh diệc loạn tại quán xả    靜 亦 亂 在 觀 捨
                                                                      Tại thị ác ai phàm  nhân    在 是 惡 哀 凡 人

                                                                      Bài kệ 19
                                                                      Khí cố thành tân  bất tạo    棄  故  成  新  不  造
                                                                      Vô sở dục  hà sở trước    無  所  欲  何  所  著
                                                                      Thoát tà tín dũng mãnh độ    脫 邪 信 勇 猛 度
                                                                      Tất dĩ thoát thế phi thế    悉 已 脫 世 非 世

                                                                      Bài kệ 20
                                                                      Nhất thiết pháp vô sở nghi    一  切  法  無  所 疑
                                                                      Tất kiến văn diệc hà niệm    悉  見  聞  亦  何  念
                                                                      Xả  trọng đảm tôn chánh thoát    捨 重 擔 尊 正 脫
                                                                      Bất nguyện quá thường lai kiến    不 願 過 常 來 見

                                                                       

                                                                      _________________________

                                                                      Mục Lục

                                                                      Lời tựa

                                                                      Phần 1

                                                                      1. Kinh Nhiếp Phục Tham Dục (Kiệt Tham Vương Kinh)
                                                                      2. Kinh Hang Động Ái Dục (Ưu Điền Vương Kinh)
                                                                      3. Kinh Buông Bỏ Sở Tri Và Ngôn Từ (Tu Đà Lợi Kinh)
                                                                      4. Kinh Buông Bỏ Khổ Lạc Và Nhiễm Tịnh (Ma Kiệt Phạm Chí Kinh)
                                                                      5. Kinh Sự Thật Đích Thực (Kính Diện Vương Kinh)
                                                                      6. Kinh Buông Bỏ Ân Ái (Lão Thiểu Câu Tử Kinh)
                                                                      7. Kinh Xa Lìa Ái Dục (Di Lặc Nạn Kinh)
                                                                      8. Kinh Buông Bỏ Ý Muốn Hơn Thua (Dũng Từ Phạm Chí Kinh)
                                                                      9. Kinh Nhân Cách Của Một Vị Mâu Ni (Ma Nhân Đề Nữ Kinh)
                                                                      10. Kinh Đạo Lý Duyên Khởi (Dị Học Giác Phi Kinh)
                                                                      11. Kinh Chấm Dứt Tranh Cãi (Mãnh Quán Phạm Chí Kinh)
                                                                      12. Kinh Buông Bỏ Nắm Bắt (Pháp Quán Phạm Chí Kinh)
                                                                      13. Kinh Công Phu Thực Tập Căn Bản (Đâu Lặc Phạm Chí Kinh)
                                                                      14. Kinh Phòng Hộ (Liên Hoa Sắc Tỳ Khưu Ni Kinh)
                                                                      15. Kinh Vị Mâu Ni Thành Đạt (Phụ Tử Cọng Hội Kinh)
                                                                      16. Kinh Chuyển Hóa Bạo Động Và Sợ Hãi (Duy Lâu Lặc Vương Kinh)
                                                                      Phần 2 (Giảng giải kinh)

                                                                      Kinh Vị Mâu Ni Thành Đạt
                                                                      Kinh Xa Lìa Ái Dục
                                                                      Kinh Chuyển Hóa Bạo Động Và Sợ Hãi

                                                                       

                                                                      Kinh Chấm Dứt Tranh Cãi

                                                                      Kinh Chấm Dứt Tranh Cãi
                                                                      (Mãnh Quán Phạm Chí Kinh)
                                                                      Nghĩa Túc Kinh, kinh thứ 11, Đại Tạng Tân Tu 198
                                                                      tương đương với Cùlaviyùha Sutta, Sutta-Nipàta 878-894

                                                                       

                                                                      Bối Cảnh

                                                                      Đây là kinh Mãnh Quán Phạm Chí. Trong một pháp hội có tới năm trăm vị la hán và rất nhiều nhân vật quan trọng, trong đó có bốn vị thiên vương từ bốn phương về nghe pháp. Vị Phạm Chí tên là Mãnh Quán vẫn nghi ngờ rằng không chắc vị đạo sư này (Bụt) là người đã nắm được chân lý tuyệt đối. Do đó Bụt nói kinh này. Khung cảnh dựng lên từ kinh Tạp A Hàm số 11 92 và kinh Trường A Hàm thứ 19.

                                                                       

                                                                      1. Ai cũng có quan điểm của mình về chân lý, và đối phương cũng thế. Ai cũng nghĩ là mình có cái thấy cao nhất và muốn diễn bày cái thấy ấy ra. Ai có được cái thấy ấy thì người ấy mới thấy được Pháp. Còn những kẻ khác (vì chưa thấy được sự thật này thì) dù đi khắp nơi cũng không thấy được một góc nhỏ nào của sự thật.

                                                                      2. Vì thiên hạ chấp thủ như vậy nên mới sinh ra tranh cãi loạn xị. Ai cũng nói rằng kẻ kia si mê; ta mới thật sự là người có trí tuệ. Vậy thì trong tất cả các sự thật ấy, cái nào mới thực sự là sự thật? Bởi vì ai cũng nói chỉ có mình là đang nắm được chân lý?

                                                                      3. Kẻ nào không biết rằng người khác cũng có quan điểm của họ về sự thật thì kẻ ấy vẫn còn mờ ám, vẫn còn thiếu trí tuệ và vẫn còn kẹt vào trong quan điểm của chính mình.

                                                                      4. Có cái quan điểm rồi thì mới có cái nói và cái làm. Người ta nghĩ rằng nhờ cái thấy đó của họ mà thân họ đã được tịnh hóa và tâm họ được thánh hóa. Nếu ai cũng đúng thì còn có ai sai lầm nữa? Bởi vì ai cũng đang có và cũng đang kẹt vào cái ý của họ?

                                                                      5. “Đây là sự thật cao nhất, là đỉnh cao trí tuệ.” Người ngu si có thể suy nghĩ và hành xử như thế, và tìm cách dìm kẻ khác xuống. Mình tự cho mình là người duy nhất đã thấy được sự thật. Tự mình còn là kẻ ngu si mà mình cứ nói là người ta ngu si.

                                                                      6. Hỏi: Ai cũng nói pháp của họ là không ai bằng, rằng kẻ khác vốn chẳng có tuệ giác gì, chỉ biết vay mượn cái thấy của người khác rồi đi vào tranh chấp với người khác. Tại sao bậc đạo sư lại không đưa ra một chân lý duy nhất để tất cả mọi người có thể đi theo?

                                                                      7. Trả lời: Chân lý chỉ là một, chứ không thể là hai. Nhưng chân lý chỉ có thể tự mình thực chứng. Một khi chứng thực được chân lý ấy rồi thì ta sẽ không còn bị một ai lung lạc được nữa. Nhưng vì đã có bao nhiêu ý tưởng cho nên đã có bấy nhiêu chân lý. Vì vậy bậc sa môn không cần phải nêu ra thêm một học thuyết về chân lý của riêng mình.

                                                                      8. Có chân lý nào mà người khác chưa nói lên? Nên tin vào ai và vào chủ thuyết nào mà thiên hạ đang rao giảng? Những chủ thuyết được đưa ra là do đâu, hay cũng là chỉ do sự suy nghĩ riêng của từng người mà có?

                                                                      9. Sự thực là một, nhưng cách diễn bày của tâm ý thì nhiều. Từ những góc độ tri giác khác nhau cho nên có những sự phân biệt lựa chọn khác nhau. Những gì mà con mắt nhận biết, nếu ta bị vướng mắc vào, sẽ làm nẩy sinh ra ý tưởng: cái này đúng và cái này sai.

                                                                      10. Những gì ta nghe, ta thấy, và cả những giới điều cấm kỵ mà ta đang hành trì cũng đều bắt nguồn từ tâm ý ta. Nếu bị kẹt vào chúng thì ta sẽ dấn thân đi vào vòng tranh luận về những cái thấy khác nhau. Phải chấm dứt lại sự đối chiếu, so sánh, và quán sát xem có chỗ nào sai lầm (nơi tri giác ta) không, nếu không thì sự thực là chính mình sai lầm mà mình lại nói người khác sai lầm.

                                                                      11. Mình sai lầm mà mình lại nói người khác sai lầm, kẻ kia cũng tự cho họ là đẹp là lành và muốn mình đi theo họ. Ai cũng tự khen mình là hay là giỏi, vì vậy cho nên mới sinh ra tranh cãi và oán thù.

                                                                      12. Giữ chặt tà kiến, chỉ muốn làm thầy thiên hạ, người ta mãn ý tự cho là cái thấy của người ta là chí thiện, tin rằng cái thấy và cái hành của mình là ở ngôi cao nhất, tôi e rằng một người ba hoa như thế tự mình chưa đạt tới đâu cả.

                                                                      13. Nếu mình cho cái hiểu biết của kẻ kia là sai lạc, là đáng hổ thẹn, thì kẻ kia cũng sẽ cho cái hiểu biết của mình là sai lạc, là đáng hổ thẹn. Nếu tất cả mọi người đều phân biệt và kỳ thị như thế thì trong đời còn ai không phải là kẻ si mê?

                                                                      14. “Chỉ khi nào bạn chứng nghiệm được chân lý này thì bạn mới có thể nói rằng bạn được tịnh hóa.” Nói như thế thì dễ gây ra biến loạn; đó là nguyên nhân làm phát sinh ra độc đoán, cố chấp và oán hận.

                                                                      15. Đi theo hành trì một cách khác người, có những kiến giải và những phương pháp thanh lọc khác người, đó không có nghĩa là mình đã đạt tới chân lý tối hậu. Đó là thái độ dẫm chân tại chỗ, làm cho người ta càng ngày càng bị kẹt cứng vào tư kiến của mình.

                                                                      16. Nếu ai cũng khư khư nắm chặt tư kiến, cho mình là minh triết, thì còn có ai là si mê nữa? Còn có ai để mình chê trách nữa? Nói rằng pháp của kẻ kia không có khả năng tịnh hóa, mình đang sử dụng cái kế đạt của mình để tự cho mình là cao diệu bậc nhất.

                                                                      17. Kẹt vào cái thấy của mình, tự cho mình là tự tại, kẻ kia dấn thân vào các cuộc tranh chấp loạn xị trong đời. Buông bỏ mọi ý niệm về sở tác, bậc hiền giả đạt tới sự mầu nhiệm của cái vô tác và cái vô sở tác.

                                                                      Đại Ý

                                                                      Kinh này nói về thái độ độc quyền về chân lý và những tai hại do thái độ ấy gây ra. Khi ta tin rằng cái thấy của ta là chân lý thì ta cũng tin rằng con đường ta đi là con đường duy nhất đưa tới chân lý. Đây là gốc rễ của độc tài, của bạo động.

                                                                      Có người đi tìm chân lý bằng cách học hỏi, suy tư, hay đi vay mượn cái thấy của người khác. Cái chân lý ấy không phải là chân lý vì đó chỉ là sản phẩm của trí năng mà không phải là một kinh nghiệm tâm linh  mình đã trực tiếp thân chứng. Có bao nhiêu ý tưởng về chân lý là có bấy nhiêu chân lý. Thực ra chân lý chỉ có thể là một, và không thể có hai chân lý chống đối nhau. Kẹt vào cái thấy của mình, điều đó chứng tỏ mình chưa thực chứng được chân lý. Những chủ thuyết được đưa ra là do sự suy nghĩ riêng của từng người. Bài thi kệ thứ chín nói rõ: sự thật là một, những cái thấy về sự thật thì nhiều. Cái thấy là kiến, là tư kiến của từng người. Còn tư kiến là còn tà kiến. Chân lý vượt thoát mọi kiến, mọi tư kiến, mọi tà kiến. Chân lý vượt thoát mọi ý niệm. Ngôn ngữ và ý niệm không có khả năng chuyên chở chân lý. Cho nên người đạt đạo không đưa ra một chủ thuyết về chân lý. Cái quan trọng nhất không phải là một chủ trương về chân lý. Cho nên kẻ thành đạo không có nhu yếu thuyết giảng về chân lý, mà chỉ muốn cung cấp những phương pháp giúp người ta đi tới trên con đường chuyển hóa và tịnh hóa. Nghĩa là diệt trừ vô minh và phiền não. Chân lý không phải là một đối tượng có thể nắm bắt, cho nên người đạt đạo buông bỏ mọi sự nắm bắt và có tự do lớn. Không nắm bắt, bởi vì làm gì có đối tượng nắm bắt, đây là sự hình thành giáo lý vô nguyện, vô đắc, vô sở đắc sau này. Ta có thể thấy được sự khai thị này ở bài thi kệ thứ mười bảy.

                                                                       

                                                                      Bài kệ 1
                                                                      Nhân các niệm bỉ diệc tri      人  各  念  彼  亦  知    
                                                                      Các dục thắng tuệ khả thuyết     各  欲  勝  慧  可  說
                                                                      Hữu năng tri tận thị pháp     有  能  知  盡  是  法
                                                                      Biến hành cầu mạc ngung giải      遍  行  求  莫  隅  解

                                                                      Bài kệ 2
                                                                      Thủ như thị tiện sanh biến   取  如  是  便  生  變
                                                                      Si kế bỉ ngã thiện tuệ   癡  計  彼  我  善  慧
                                                                      Chí thành ngôn vân vi đẳng    至  誠  言  云  為  等
                                                                      Nhất thiết thị  thiện ngôn thuyết     一  切  是  善  言  說

                                                                      Bài kệ 3
                                                                      Bất tri bỉ hữu pháp vô   不  知  彼  有  法  無
                                                                      Minh vô tuệ tùy bỉ hiệt     冥  無  慧  隨  彼  黠
                                                                      Minh nhất thiết thống viễn hiệt       冥  一  切  痛  遠  黠
                                                                      Sở niệm hành tất bỉ hữu       所  念  行  悉  彼  有

                                                                      Bài kệ 4
                                                                      Tiên kế niệm khước hành thuyết   先  計  念  却  行  說
                                                                      Tuệ dĩ tịnh ý thiện niệm     慧  已  淨  意  善  念
                                                                      Thị tất bất vọng hiệt giảm    是  悉  不  望  黠  減
                                                                      Tất sở niệm trước ý chỉ        悉  所  念  著  意  止

                                                                      Bài kệ 5
                                                                      Ngã  bất cư thị tất thượng    我  不  据  是  悉  上
                                                                      Ngu  khả hành chuyển tướng khiên   愚  可  行  轉  相  牽
                                                                      Tự kiến cẩn vị khả đế   自  見  謹  謂  可  諦
                                                                      Tự kỷ si phục thọ bỉ     自  己  癡  復  受  彼

                                                                      Bài kệ 6
                                                                      Tự thuyết pháp độ vô cập    自  說  法  度  無  及
                                                                      Dĩ  tự không tham lai đạo      以  自  空  貪  來  盜
                                                                      Dĩ bát minh chuyển tướng minh     已  八  冥  轉  相  冥
                                                                      Học hà cố nhất bất đạo     學  何  故  一 不  道

                                                                      Bài kệ 7
                                                                      Nhất đế tận nhị hữu vô       一  諦  盡  二  有  無
                                                                      Tri thị đế bất điên đảo     知  是  諦  不  顛  倒
                                                                      Vị  bất tận đế tùy ý     謂  不  盡  諦  隨  意
                                                                      Dĩ cố học nhất bất thuyết      以  故  學  一  不  說

                                                                      Bài kệ 8
                                                                      Hà đế thị dư bất thuyết     何  諦  是  餘  不  說
                                                                      Đương tín thùy tận dư thuyết    當  信  誰  盡  餘  說
                                                                      Nhiêu dư đế đương hà tùng       饒  餘  諦  當  何  從
                                                                      Tùng hà hữu sanh ý thức        從  何  有  生  意  識

                                                                      Bài kệ 9
                                                                      Thức vô dư hà thuyết dư    識  無  餘  何  說  餘
                                                                      Tùng dị tưởng phân biệt trạch      從  異  想  分  別  擇
                                                                      Nhãn sở kiến vi trước  khả    眼  所  見  為  著  可
                                                                      Thức nhược khi tận nhị Pháp     識  若  欺  盡  二  法

                                                                      Bài kệ 10
                                                                      Văn kiến giới tại ý hành     聞  見  戒  在  意  行
                                                                      Trước dục hiệt biến tụng kiến     著  欲 黠  變  訟  見
                                                                      Chỉ giáo kế quán hà tu     止  校 計  觀  何  羞
                                                                      Thị dĩ si phục thọ bỉ      是  以  癡  復  授  彼

                                                                      Bài kệ 11
                                                                      Si hà tùng thụ dữ bỉ      癡  何  從  授  與  彼
                                                                      Bỉ ỷ khả thiện hiệt ngã      彼  綺  可  善  黠  我
                                                                      Tiện tự thự thiện thuyết dĩ       便  自  署  善  說  已
                                                                      Hữu tụng bỉ tiện sanh oán   有  訟  彼  便  生  怨

                                                                      Bài kệ 12
                                                                      Kiên tà kiến vọng sư sự    堅  邪 見  望  師  事
                                                                      Tà hiệt khốc mãn ỷ cụ      邪  黠  酷  滿  綺 具
                                                                      Thường tự khủng ngữ bất đáo    常  自  恐  語  不  到
                                                                      Ngã thường giới kiến thị tịch      我  常  戒  見  是  辟

                                                                      Bài kệ 13
                                                                      Kiến bỉ đế tà tàm tạng   見  彼  諦  邪  慚  藏
                                                                      Bổn tự hữu tàm tạng hiệt       本  自  有  慚  藏  黠
                                                                      Dĩ tất tri hiệt phân biệt      以  悉  知  黠  分  別
                                                                      Si tất vô hợp hiệt hành       癡  悉  無  合  黠  行

                                                                      Bài kệ 14
                                                                      Thị vi đế trụ nãi thuyết    是  為  諦  住  乃  說
                                                                      Tất khả  tịnh tự sở Pháp     悉  可  淨  自  所  法
                                                                      Như thị thủ  tiện loạn biến      如  是  取  便  亂  變
                                                                      Tự  nhân duyên thống trước ô     自  因  緣  痛  著  污

                                                                      Bài kệ 15
                                                                      Tùng dị hành đắc giải tịnh      從  異  行  得  解  淨
                                                                      Bỉ tuy tịnh bất chí tận    彼  雖  淨  不  至  盡
                                                                      Thị dị học văn tọa an        是  異  學  聞  坐  安
                                                                      Tự tham câu ngã kiên thịnh     自  貪  俱  我  堅  盛

                                                                      Bài kệ 16
                                                                      Tự kỷ thịnh kiên phòng tham      自  己  盛  堅  防  貪
                                                                      Hữu hà si vi bỉ thuyết      有  何  癡  為  彼  說
                                                                      Tuy giáo bỉ Pháp vị tịnh      雖  教  彼  法  未  淨
                                                                      Sanh kế độ tự cao diệu         生  計  度  自  高  妙

                                                                      Bài kệ 17
                                                                      Đế trú thích tự tại tác     諦  住  釋  自  在  作
                                                                      Tuy thượng thế diệc hữu loạn      雖  上  世  亦  有  亂
                                                                      Khí nhất thiết sở tác niệm       棄  一  切  所  作  念
                                                                      Diệu bất tác hữu sở tác          妙  不  作  有  所  作

                                                                      _________________________

                                                                      Mục Lục

                                                                      Lời tựa

                                                                      Phần 1

                                                                      1. Kinh Nhiếp Phục Tham Dục (Kiệt Tham Vương Kinh)
                                                                      2. Kinh Hang Động Ái Dục (Ưu Điền Vương Kinh)
                                                                      3. Kinh Buông Bỏ Sở Tri Và Ngôn Từ (Tu Đà Lợi Kinh)
                                                                      4. Kinh Buông Bỏ Khổ Lạc Và Nhiễm Tịnh (Ma Kiệt Phạm Chí Kinh)
                                                                      5. Kinh Sự Thật Đích Thực (Kính Diện Vương Kinh)
                                                                      6. Kinh Buông Bỏ Ân Ái (Lão Thiểu Câu Tử Kinh)
                                                                      7. Kinh Xa Lìa Ái Dục (Di Lặc Nạn Kinh)
                                                                      8. Kinh Buông Bỏ Ý Muốn Hơn Thua (Dũng Từ Phạm Chí Kinh)
                                                                      9. Kinh Nhân Cách Của Một Vị Mâu Ni (Ma Nhân Đề Nữ Kinh)
                                                                      10. Kinh Đạo Lý Duyên Khởi (Dị Học Giác Phi Kinh)
                                                                      11. Kinh Chấm Dứt Tranh Cãi (Mãnh Quán Phạm Chí Kinh)
                                                                      12. Kinh Buông Bỏ Nắm Bắt (Pháp Quán Phạm Chí Kinh)
                                                                      13. Kinh Công Phu Thực Tập Căn Bản (Đâu Lặc Phạm Chí Kinh)
                                                                      14. Kinh Phòng Hộ (Liên Hoa Sắc Tỳ Khưu Ni Kinh)
                                                                      15. Kinh Vị Mâu Ni Thành Đạt (Phụ Tử Cọng Hội Kinh)
                                                                      16. Kinh Chuyển Hóa Bạo Động Và Sợ Hãi (Duy Lâu Lặc Vương Kinh)
                                                                      Phần 2 (Giảng giải kinh)

                                                                      Kinh Vị Mâu Ni Thành Đạt
                                                                      Kinh Xa Lìa Ái Dục
                                                                      Kinh Chuyển Hóa Bạo Động Và Sợ Hãi

                                                                       

                                                                      Kinh Đạo Lý Duyên Khởi

                                                                      Kinh Đạo Lý Duyên Khởi
                                                                      (Dị Học Giác Phi Kinh)
                                                                      Nghĩa Túc Kinh, kinh thứ mười, Đại Tạng Tân Tu 198
                                                                      tương đương với Kalahavivàda Sutta,

                                                                      Sutta-Nipàta 862-877

                                                                       

                                                                      Bối Cảnh

                                                                      Đây là kinh Dị Học Giác Phi. Dị Học Giác Phi là các giáo phái ngoại đạo muốn thi đua về pháp thuật với Bụt. Khung cảnh dựng lên: Bụt còn trẻ mà được vua Tần Bà Xa La mến mộ, trong khi ấy các vị lãnh đạo trưởng thượng của sáu giáo phái nổi tiếng kia thì bị thất sủng. Họ đề nghị với Vua Tần Bà Xa La tổ chức thi đua pháp thuật xem bên nào đạo lực cao cường hơn. Vua không chấp nhận. Họ sang nước Xá Vệ đề nghị với vua Ba Tư Nặc. Vua Ba Tư Nặc tuy cũng rất sùng mến Bụt, nhưng chấp nhận cho tổ chức cuộc thi tài này. Cuối cùng pháp thuật của Bụt cao cường hơn. Và trong khung cảnh ấy Bụt nói kinh này. Khung cảnh này thật sự không ăn khớp gì nhiều với nội dung.

                                                                       

                                                                      1. Vì đâu mà có tranh cãi đấu tụng? Vì đâu mà người ta làm khổ nhau, gây sầu thương cho nhau và ganh ghét nhau? Vì lý do gì mà người đời thường sử dụng ác ngữ để hủy báng nhau? Xin Bụt giảng cho chúng con về gốc rễ của vấn đề này.

                                                                      2. Cái khả ái là nguồn gốc của mọi tranh tụng. Nó gây ra ganh tỵ, tật đố, ưu sầu, khổ não. Vì muốn hủy báng nhau cho nên người ta mới sử dụng vọng ngữ. Chính nó là gốc rễ đưa tới mọi hủy báng chống đối nhau.

                                                                      3. Nhưng cái khả ái ấy ở đời do đâu mà có? Từ đâu mà ái phát sinh trong cuộc đời? Bỏ cái gì đi thì ái mới không còn và lúc ấy thì con người mới không đau khổ?

                                                                      4. Chính ham muốn của mình làm cho mình vướng vào cái khả ái của thế gian. Và khi cái ham muốn lớn mạnh sẽ tạo ra nhiều khổ đau. Không buông bỏ được cái hữu cũng là do nó. Và vì có cái hữu này cho nên mới có những cái hữu tới sau.

                                                                      5. Cái gì làm phát sinh ra cái ham muốn bắt ta chạy theo dục lạc trong cuộc đời? Do đâu mà phân biệt được cái lành, dữ, xấu, tốt? Do đâu mà có cái bắt đầu và cái chung cuộc? Xin bậc đại sa môn chỉ dạy: chúng con phải tuân thủ theo các pháp môn hành trì nào?

                                                                      6. Cái ham muốn ấy phát sinh từ chuyện mình thích ý hay không thích ý. Dục cũng từ nhân duyên mà sinh khởi. Chỉ khi nào thấy được lý do sắc thân vì sao từ hưng thịnh lại đi đến tàn hoại thì người đời mới bắt đầu biết phân biệt quán chiếu.

                                                                      7. Khi biết rằng mình đang bị dối gạt (bởi cái vỏ bên ngoài của các pháp) thì con người mới biết hoài nghi. Lúc bấy giờ ta mới nhận diện được hai mặt đối nghịch của các pháp. Thực tập quán niệm như thế nào để khám phá ra được con đường dẫn về tuệ giác. Phải có tâm mong cầu hiểu được giáo pháp ta mới thấy rõ được phép hành trì.

                                                                      8. Cái có và cái không từ đâu tới? Tại sao người thân và người không thân một ngày kia cũng đều phải chết? Còn vấn đề cái thêm và cái bớt nữa. Xin đức Thế Tôn thuyết giảng cho chúng con về gốc rễ của hiện pháp?

                                                                      9. Cái ái và cái không ái là do sự xúc chạm mà sinh khởi. Chúng tới rồi chúng đi, chúng sinh rồi chúng diệt, chúng không thể có mặt (nếu không có xúc chạm). Cái có và cái không, cái thịnh và cái suy cũng cùng trong một ý nghĩa đó. Bậc hiền giả giải thích về gốc rễ của hiện pháp một cách tường tận như thế.

                                                                      10. Nhưng sự xúc chạm kia từ đâu mà đến? Vì nguyên do nào mà người ta lại bị vướng vào sắc dục của thế gian? Phải thực tập quán niệm như thế nào để không còn phân biệt chấp trước? Tại sao lại có sự vướng mắc vào sắc dục?

                                                                      11. Do có tâm và vật (danh sắc) mà có xúc chạm. Vì có cái có nên danh và sắc mới khởi dậy. Phải vượt qua vô minh mới đạt được giải thoát. Phải thấy được rằng danh và sắc là nền tảng của xúc chạm.

                                                                      12. Làm thế nào để buông bỏ được sự ham muốn về danh và sắc? Vì lý do gì mà phát sinh các loại tham ái? Làm sao cho tâm đắm trước tham ái được tiêu diệt tận cùng? Phải biết và hành trì theo giáo lý (bốn) sự thật như thế nào mới có thể đạt tới giải thoát?

                                                                      13. Phải lìa bỏ ý niệm về tưởng, về sắc, về cái vô tưởng và về cái bất hành tưởng. Phải đoạn trừ tất cả và không vướng mắc vào ý niệm nào. Bởi tưởng là gốc rễ của mọi hý luận đem tới nhiều đau khổ.

                                                                      14. Những điều con thưa hỏi đều đã được giải đáp. Nay xin đức Thế Tôn thuyết giải thêm cho chúng con: hành trì như thế nào để có thể trở nên một bậc toàn thiện? Còn có con đường nào khác hơn con đường mà bậc tôn đức đã chỉ bày hay không?

                                                                      15. Đã biết là mình đang đi trên con đường (bát) chánh thì còn sợ gì bị sai lạc? Đó là con đường dẫn tới quả vị tuệ giác. Vị mâu ni thiền định dưới một gốc cây trong rừng. Không có con đường nào đẹp hơn thế.

                                                                      16. Hiểu như thế rồi thì các vị phải một lòng hướng về (sự thực tập). Một bậc tôn đức được giải thoát thì không còn bị ràng buộc vào nghi lễ và giới cấm nữa. Một người như thế có thể vượt qua mọi phiền não một cách mau chóng trong cuộc đời. Vị ấy vượt thoát được thời gian và không còn trở về luân hồi nữa.

                                                                      Đại Ý

                                                                      Kinh này là dấu hiệu của sự bắt đầu hình thành giáo lý mười hai nhân duyên. Kinh nói tới tám nhân duyên: thức, danh sắc, xúc, thọ, dục, ái, thủ, hữu. Lúc này dục và ái còn là hai cái khác nhau. Chưa nói tới vô minh, thì đã bắt đầu đề cập tới hành. Khi nói về thức, chưa có sinh và lão tử, nhưng sinh và lão tử đã nằm sẵn trong hữu. “Vì có cái hữu này nên có những cái hữu tới sau.” Câu này nằm trong bài thi kệ thứ tư.

                                                                      Trong bài thi kệ thứ nhất, thủ là nắm chặt ý kiến của mình. Trong bài kệ thứ ba, sở dĩ mình nắm chặt nó, tại vì nó là đối tượng của sự yêu thích của mình. Nó là cái khả ái. Trong bài thứ tư, dục (ham muốn) là nguyên do của ái, và ái cũng là nguồn gốc của cái hữu bây giờ và những cái hữu tới sau.

                                                                      Bài thứ sáu đề cập tới thọ, cảm thọ dễ chịu (thích ý) hay khó chịu (không thích ý). Chưa nói đến xả thọ. Cái thích ý làm phát sinh cái dục. Bài thứ chín nói về xúc. Bài thứ mười một nói về danh sắc. Và bài thứ mười ba nói tới tưởng. Tưởng là tri giác, là thức, là chủ thể và đối tượng nhận thức. Vọng tưởng là tri giác sai lầm của thức. Vọng tưởng là vô minh, vọng tưởng làm cho thức là thức, nếu không thì nó đã là trí. Vọng tưởng là gốc rễ của mọi suy tư và ngôn ngữ có công năng đem tới khổ đau. Đây chính là bản chất của hành.

                                                                      Kinh này không những trình bày được sự liên hệ giữa tâm vật và nguyên do của luân hồi sinh tử mà còn cung cấp được những chỉ dẫn thực tập.

                                                                      Bài thi kệ thứ bảy và thứ tám đề nghị quán chiếu về hai mặt đối nghịch của các hiện tượng: có và không, tới và đi, thêm và bớt. Tư tưởng này đi tiên phong cho tư tưởng Trung Đạo và Bát Nhã Ba La Mật. Bài thứ 13 cho biết rằng nếu tinh cần quán chiếu về đối tượng tâm ý để đừng bị vướng mắc vào bất cứ ý niệm nào, dù là ý niệm vô tưởng và bất hành tưởng, thì ta có thể đạt tới giải thoát thật sự, chấm dứt mọi vọng tưởng. Bài thứ 15 khuyến khích ta nắm cho được con đường Bát Chánh Đạo mà đi.

                                                                      Hình ảnh một người ngồi thiền định dưới một gốc cây trong rừng là hình ảnh đẹp nhất. Đó là hình ảnh của một vị mâu ni.

                                                                      Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.

                                                                       

                                                                      Bài kệ 1
                                                                      Đấu tụng biến hà tùng khởi                          鬪  訟  變  何  從  起
                                                                      Trí ưu  thống chuyển tướng tật                    致  憂  痛  轉  相  疾
                                                                      Khởi vọng ngữ chuyển tướng hủy               起  妄  語  轉  相  毀
                                                                      Bổn tùng khởi nguyện thuyết Phật              本  從  起  願  說  佛


                                                                      Bài kệ 2
                                                                      Tọa ưu khả khởi biến tụng                           坐  憂  可  起  變  訟
                                                                      Chuyển tướng tật trí ưu thống                     轉  相  嫉  致  憂  痛
                                                                      Dục tướng hủy khởi vọng ngữ                     欲  相  毀  起  妄  語
                                                                      Dĩ tướng hủy đấu tụng bổn                          以  相  毀  鬪  訟  本

                                                                      Bài kệ 3
                                                                      Thế khả ái hà tùng khởi                                 世  可  愛  何 從 起
                                                                      Chuyển thế gian hà sở tham                         轉  世  間  何  所 貪
                                                                      Tùng trí hữu bất phục dục                             從  置  有  不  復 欲
                                                                      Tùng bất phục chuyển hành thọ                      從 不 復  轉 行 受

                                                                      Bài kệ 4
                                                                      Bổn sở dục trước thế ái                               本  所  欲  著  世  愛
                                                                      Dĩ lợi thị chuyển hành khổ                            以  利  是  轉  行  苦
                                                                      Bất xả hữu tùng thị khởi                               不  捨  有  從  是  起
                                                                      Dĩ cố chuyển hậu phục hữu                          以  故  轉  後  復  有

                                                                      Bài kệ 5
                                                                      Tùy thế dục bổn hà khởi                                隨  世  欲  本  何  起
                                                                      Tùng hà đắc biệt thiện ác                               從  何  得  別  善  惡
                                                                      Tùng hà hữu khởi bản mạt                            從  何  有  起  本  末
                                                                      Sở chế Pháp Sa Môn thuyết                         所  制  法  沙  門  說

                                                                      Bài kệ 6
                                                                      Diệc thị thế sở hữu vô                                    亦  是  世  所  有  無
                                                                      Thị nhân duyên tiện dục sanh                          是  因  緣  便  欲  生
                                                                      Kiến thịnh sắc tùng hà tận                              見  盛  色  從  何  盡
                                                                      Thế nhân tất phân biệt tác                              世  人  悉  分  別  作

                                                                      Bài kệ 7
                                                                      Sở tùng khi hữu nghi ý                                  所  從  欺  有  疑  意
                                                                      Diệc thị pháp vũ diện thọ                               亦  是  法  雨  面  受
                                                                      Niệm tùng hà học tuệ tích                             念  從  何  學  慧  跡
                                                                      Nguyện giải pháp minh học thuyết                  願  解  法  明  學  說


                                                                      Bài kệ 8
                                                                      Sở hữu vô bổn tùng hà                                   所  有  無  本  從  何
                                                                      Vô sở thân tùng hà diệt                                  無  所  親  從  何  滅
                                                                      Thịnh diệc giảm tất nhất nghĩa                         盛  亦  減  悉  一  義
                                                                      Nguyện thuyết thị giải hiện bổn                       願  說  是  解  現  本

                                                                      Bài kệ 9
                                                                      Hữu diệc vô trước tế nhu                               有  亦  無  著  細  濡
                                                                      Khứ lai diệt vô sở hữu                                   去  來  滅  無  所  有
                                                                      Thịnh diệc diệt nghĩa tùng thị                          盛  亦  滅  義  從  是
                                                                      Giải hiện hiền bổn tận thị                               解  現  賢  本  盡  是

                                                                      Bài kệ 10
                                                                      Thế tế nhu bổn tùng hà                                  世  細  濡  本  從 何
                                                                      Trước thế sắc tùng hà  khởi                           著  世  色  從  何  起
                                                                      Tùng hà niệm bất kế trước                            從  何  念  不  計  著
                                                                      Hà nhân duyên trước khả sắc                        何  因  緣  著  可  色


                                                                      Bài kệ 11
                                                                      Danh sắc thọ trước tế nhu                            名  色  授  著  細  濡
                                                                      Bản hữu hữu sắc tiện khởi                            本  有  有  色  便  起
                                                                      Ninh độ si đắc giải thoát                                寧  度  癡  得  解  脫
                                                                      Nhân duyên sắc trước tế nhu                        因  緣  色  著  細  濡

                                                                      Bài kệ 12
                                                                      Tùng hà đắc xả hảo sắc                                  從  何  得  捨  好  色
                                                                      Tùng chúng ái tùng hà khởi                             從  眾  愛  從  何  起
                                                                      Sở  trước tâm ninh tất tận                              所  著  心  寧  悉  盡
                                                                      Đế hành tri như giải thoát                                諦  行  知  如  解  脫

                                                                      Bài kệ 13
                                                                      Bất tưởng tưởng bất sắc tưởng                     不  想  想  不  色  想
                                                                      Phi vô tưởng bất hành tưởng                        非  無  想  不  行  想
                                                                      Nhất thiết đoạn bất trước giả                        一  切  斷  不  著  者
                                                                      Nhân tưởng bổn hí  tùy khổ                         因 想 本 戲 隨 苦


                                                                      Bài kệ 14
                                                                      Ngã sở vấn tất dĩ giải                                       我 所 問 悉 已 解
                                                                      Kim cánh vấn nguyện phục thuyết                    今 更 問 願 復 說
                                                                      Hành địch tất thành cụ túc                               行 糴 悉 成 具 足
                                                                      Thiết vô bất thắng tôn  đức                               設 無 不 勝 尊 德

                                                                      Bài kệ 15
                                                                      Thị cực chánh hữu hà tà                             是  極  正  有  何  邪
                                                                      Hướng kính thần đắc quả tuệ                       向  徑  神  得  果  慧
                                                                      Tôn  hành định thụ lâm gian                         尊  行  定  樹  林  間
                                                                      Vô hữu dư tối thiện thuyết                           無  有  餘  最  善  說

                                                                      Bài k 16
                                                                      Tri như thị nhất tâm hướng                            知  如  是  一  心  向
                                                                      Tôn dĩ trước bất giới hạnh                             尊  已  著  不  戒  行
                                                                      Tật hành vấn độ thế gian                               疾  行  問  度  世  間
                                                                      Đoạn thế xả thị bỉ thân                                   斷  世 捨  是  彼  身

                                                                       

                                                                      _________________________

                                                                      Mục Lục

                                                                      Lời tựa

                                                                      Phần 1

                                                                      1. Kinh Nhiếp Phục Tham Dục (Kiệt Tham Vương Kinh)
                                                                      2. Kinh Hang Động Ái Dục (Ưu Điền Vương Kinh)
                                                                      3. Kinh Buông Bỏ Sở Tri Và Ngôn Từ (Tu Đà Lợi Kinh)
                                                                      4. Kinh Buông Bỏ Khổ Lạc Và Nhiễm Tịnh (Ma Kiệt Phạm Chí Kinh)
                                                                      5. Kinh Sự Thật Đích Thực (Kính Diện Vương Kinh)
                                                                      6. Kinh Buông Bỏ Ân Ái (Lão Thiểu Câu Tử Kinh)
                                                                      7. Kinh Xa Lìa Ái Dục (Di Lặc Nạn Kinh)
                                                                      8. Kinh Buông Bỏ Ý Muốn Hơn Thua (Dũng Từ Phạm Chí Kinh)
                                                                      9. Kinh Nhân Cách Của Một Vị Mâu Ni (Ma Nhân Đề Nữ Kinh)
                                                                      10. Kinh Đạo Lý Duyên Khởi (Dị Học Giác Phi Kinh)
                                                                      11. Kinh Chấm Dứt Tranh Cãi (Mãnh Quán Phạm Chí Kinh)
                                                                      12. Kinh Buông Bỏ Nắm Bắt (Pháp Quán Phạm Chí Kinh)
                                                                      13. Kinh Công Phu Thực Tập Căn Bản (Đâu Lặc Phạm Chí Kinh)
                                                                      14. Kinh Phòng Hộ (Liên Hoa Sắc Tỳ Khưu Ni Kinh)
                                                                      15. Kinh Vị Mâu Ni Thành Đạt (Phụ Tử Cọng Hội Kinh)
                                                                      16. Kinh Chuyển Hóa Bạo Động Và Sợ Hãi (Duy Lâu Lặc Vương Kinh)
                                                                      Phần 2 (Giảng giải kinh)

                                                                      Kinh Vị Mâu Ni Thành Đạt
                                                                      Kinh Xa Lìa Ái Dục
                                                                      Kinh Chuyển Hóa Bạo Động Và Sợ Hãi

                                                                       

                                                                      Kinh Nhân Cách Của Một Vị Mâu Ni

                                                                       

                                                                       

                                                                      Kinh Nhân Cách Của Một Vị Mâu Ni
                                                                      (Ma Nhân Đề Nữ Kinh)
                                                                      Nghĩa Túc Kinh, kinh thứ chín, Đại Tạng Tân Tu 198
                                                                      tương đương với Màgandiya Sutta, Sutta-Nipàta 835-847

                                                                      Bối Cảnh

                                                                      Đây là kinh Ma Nhân Đề Nữ. Ma Nhân Đề Nữ là cô con gái của một vị Phạm Chí tên là Nhân Đề (Màkandika). Khung cảnh dựng lên: Phạm Chí Ma Nhân Đề có một cô con gái đẹp tuyệt trần, nhiều vị vua chúa và hoàng tử cầu hôn mà ông bố vẫn không chịu, cho rằng chưa ai xứng đáng làm chồng của cô con gái. Câu chuyện xảy ra ở xứ Câu Lưu (Karu). Lần đầu tiên thấy Bụt, ông ta nghĩ rằng đây là người rể lý tưởng của mình, bởi vì dung quang của Bụt đẹp đẽ và uy nghi quá. Ông đem cô con gái đến gặp Bụt và đề nghị gả cô này cho Bụt. Bụt mỉm cười không nhận. Trong khi nói chuyện, hai cha con khám phá ra được nhân cách và giá trị của một bậc mâu ni, của một vị đạo sĩ tĩnh lặng.

                                                                       

                                                                      1.   Ngày xưa có ba cô con gái (của Ma Vương Ba Tuần) đến cám dỗ nhưng tôi đã chẳng mảy may động lòng. Bây giờ nếu thấy được (đối tượng ái dục chỉ là) những cái túi đựng đầy máu, mỡ, phân và nước tiểu thì mình đâu còn muốn đụng tới, dù là với bàn chân của mình?

                                                                      2.   Tôi đã từng nói rằng một khi đã bị vướng vào vòng ái dục thì mình không còn tâm ý để hành trì được pháp môn, và để thực tập được nội quán. Tuy có nghe và tuy có biết rằng chạy theo ái dục là chuyện không nên làm nhưng mình vẫn chưa nhàm chán được. Một khi bên trong tâm mình chưa dừng lại được thì bên ngoài mình vẫn đi tới để tiếp tục gây thêm khổ đau.

                                                                      3.   Cái vẻ xinh tươi mượt mà ấy chỉ có ở ngoài da, bậc trí giả không bị nó lừa dối. Ta phải quán chiếu cả bên trong lẫn bên ngoài. Có một chút thông minh mình sẽ thấy rằng (đắm say như thế) đó là một lối hành xử u mê.

                                                                      4.   Những gì mình học và mình thấy chưa hẳn đã là tuệ giác. Hành trì giới cấm và lễ nghi chưa hẳn đã làm cho mình thanh tịnh. Dù không học gì, không thấy gì, nhưng mà không khư khư giữ ý riêng của mình và không xao lãng công phu hành trì của mình, thì người ta mới có khả năng tự tịnh.

                                                                      5.   Những kiến thức bây giờ đang có, nên buông bỏ đi, đừng ôm chặt lấy, mặc người ta có nói ra nói vào gì thì nói, mình cứ im lặng mà đi. Những gì mình nghe và thấy qua năm giác quan có tác dụng gây phiền não thì mình phải biết dẹp qua một bên. Tuy thực tập giới, định và tuệ nhưng đừng nghĩ lầm rằng nghi lễ và cấm giới đủ đem lại cho mình sự thanh tịnh.

                                                                      6.   Những lý thuyết ngoài đời đừng tiếp thu một cách u mê. Nghi lễ và giới cấm không đem lại sự tịnh hóa như người ta tưởng. Khi còn kẹt vào sự có mặt của một cái ngã thì người ta vẫn còn bị rơi vào chỗ u tối. Những chủ thuyết mà mình được nghe đâu có khả năng làm cho mình thanh tịnh?

                                                                      7.   Người ta có thể nói rằng những cái mà người ta nghe và thấy về chân lý, nếu nắm bắt được chúng bằng tâm ý thì có thể đạt Đạo. Đi qua tới được bờ chân lý bằng cách ấy, là chuyện khó tưởng tượng được. Và như thế thì làm sao mà khỏi phạm vào cái lỗi xem thường các bậc tôn đức chân chính?

                                                                      8.  Bằng người, hơn người hoặc thua người, hễ còn có một trong các mặc cảm ấy thì người ta vẫn còn kẹt vào cái phân biệt (chấp ngã). Nếu vượt thoát được cả ba mặc cảm kia thì đâu còn có nhu yếu tranh luận hơn thua? Lúc ấy ta đã đoạn trừ được tất cả mọi tranh luận, thị phi và không còn bị vướng vào những lo toan vô ích.

                                                                      9.   Người đã đạt được tuệ giác thì không có nhu yếu nói nhiều. Đã biết các pháp đều có bản tính không tịch, thì làm gì cần phải tranh cãi nữa? Đối với bậc ấy, hoàn toàn không còn có chuyện thị phi, tà chính. Làm sao có thể nói rằng một người như thế còn có thiếu sót sai lầm?

                                                                      10. Rời bỏ cơn lũ ái dục, không còn nghĩ tới các đối tượng ham muốn, kẻ thức giả đi vững chãi và kiên trì trong cuộc đời. Ái dục không còn, tâm ý đã dừng lại, thì những gì tà độc của cuộc đời đều đã bị nhiếp phục, không bao giờ còn sinh khởi trở lại trong ta.

                                                                      11. Nếu muốn xa lìa thế tục, muốn chiến thắng khổ đau thì ta phải nghe lời các bậc tôn đức, phải biết cách lánh xa đừng chung đụng (với những gì xấu ác). Như đóa sen kia trong sạch mọc lên ở dưới hồ, bùn đất và bụi bặm không làm nhiễm ô và hư hoại nó được.

                                                                      12. Bậc tôn đức sống an ổn, không ham muốn gì, không còn vướng bận vào bất cứ một cái gì trong trần thế, cũng không bị lay chuyển bởi những đối tượng của ký ức và tri giác. Bậc ấy tuy đang hành động và độ đời nhưng không bị kẹt vào bất cứ một lý thuyết nào.

                                                                      13. Giữ gìn ba nghiệp thanh tịnh, vị ấy bước đi không còn nhu yếu bàn luận gì về chuyện đời, kể cả chuyện quá khứ, vị lai và hiện tại, không còn bị vướng vào một tư kiến nào nữa. Đi theo tuệ giác vững chãi của mình, vị ấy đạt tới thảnh thơi, nhưng không bao giờ giải đãi. Điều phục được tâm ý, không bị vướng mắc vào các chủ thuyết, trong ba cõi, vị ấy đi từng bước thảnh thơi và không có nhu yếu nói năng gì.

                                                                       

                                                                      Đại Ý

                                                                      Kinh này nối tiếp kinh thứ bảy, kinh Xa Lìa Ái Dục, và đưa ta đi xa hơn. Dấu hiệu đầu tiên của một vị xuất gia chân chính là xa lìa ái dục, không bị cái vẻ xinh tươi mặn mà ở ngoài da đánh lừa, không bị cuốn theo ái dục, như thế mới có thể đi tới trên đường sự nghiệp giác ngộ. Dấu hiệu thứ hai là vị ấy không bị kẹt vào giới cấm, lễ nghi và những gì mình đã học hỏi, kể cả giáo thuyết. Những cái ấy có thể là một phần hành trì của mình nhưng chúng chưa phải là tuệ giác, là giải thoát, là sự tịnh hóa đích thực. Qua được bờ chân lý không phải bằng sự thực tập chuyển hóa mà chỉ bằng sự học hỏi lý thuyết, chuyện này không thể xảy ra. Đó là ý của bài thi kệ thứ bảy. Dấu hiệu thứ ba của một vị khất sĩ thành công là vị ấy không còn phân biệt chấp ngã, do đó không còn mặc cảm hơn người, thua người hay bằng người. Dấu hiệu thứ tư là vị ấy không có nhu yếu tranh cãi hơn thua. Dấu hiệu thứ năm là vị ấy tuy sống trong cuộc đời mà không bị những ô nhiễm của cuộc đời động tới, như hoa sen mọc dưới hồ không bị bùn lầy làm ô nhiễm và hư hoại. Hình ảnh này được trình bày trong thi kệ thứ mười một. Dấu hiệu thứ sáu là vị ấy rất thảnh thơi, không vướng bận quá khứ và tương lai ; ba nghiệp thanh tịnh, vị ấy bước đi từng bước thảnh thơi và im lặng tuyệt đối, không có nhu yếu khoe khoang và tranh cãi.

                                                                       

                                                                       

                                                                       

                                                                      Bài kệ 1
                                                                      Ngã bổn kiến tà tam  nữ                                我  本  見  邪  三  女
                                                                      Thượng bất dục trước tà dâm                        尚  不  欲  著  邪  婬
                                                                      Kim nại hà bão thỉ niệu                                 今  奈  何  抱  屎  尿
                                                                      Dĩ túc xúc thượng bất khả                             以  足  觸  尚  不  可

                                                                      Bài kệ 2
                                                                      Ngã sở thuyết dâm bất dục                            我  所  說  婬  不  欲
                                                                      Vô pháp hành bất nội quán                             無  法  行  不  內  觀
                                                                      Tuy văn ác bất thọ yểm                                  雖  聞  惡  不  受  厭
                                                                      Nội bất chỉ bất kế khổ                                    內  不  止  不  計  苦

                                                                      Bài kệ 3
                                                                      Kiến ngoại hảo cân bì khỏa                           見  外  好  筋  皮  裹
                                                                      Tôn vân hà đương thọ thị                              尊  云  何  當  受  是
                                                                      Nội ngoại hành giác quán thị                         內  外  行  覺  觀  是
                                                                      Ư hiệt biên thuyết si hành                             於  黠  邊  說  癡  行

                                                                      Bài kệ 4
                                                                      Diệc kiến văn bất vi hiệt                                亦  見  聞  不  為  黠
                                                                      Giới hành cụ vị vi tịnh                                   戒  行  具  未  為 淨
                                                                      Bất kiến văn diệc bất si                                不  見  聞  亦  不  癡
                                                                      Bất ly hành khả tự tịnh                                 不  離  行  可  自  淨

                                                                      Bài kệ 5
                                                                      Hữu thị tưởng khí mạc thọ                           有  是  想  棄  莫  受
                                                                      Hữu mạc thuyết thủ khẩu hành                     有  莫  說  守  口  行
                                                                      Bỉ ngũ não văn kiến khí                                彼  五  惱  聞  見  棄
                                                                      Tuệ giới hành mạc dâm tịnh                         慧  戒  行  莫  婬  淨

                                                                      Bài kệ 6
                                                                      Thế sở kiến mạc hành si                              世  所  見  莫  行  癡
                                                                      Vô giới hạnh bỉ tưởng hữu                           無  戒  行  彼  想  有
                                                                      Khả ngã hữu đọa minh pháp                        可  我  有  墮  冥  法
                                                                      Dĩ kiến khả thùy hữu tịnh                             以  見  可  誰  有  淨

                                                                      Bài kệ 7
                                                                      Đế kiến văn nhĩ khả vị                                   諦  見  聞  爾  可  謂
                                                                      Đế ý thủ khả hướng đạo                                諦  意  取  可  向  道
                                                                      Vãng đáo bỉ thiểu bất tưởng                         往  到  彼  少 不  想
                                                                      Kim nại hà khẩu khi tôn                                今  奈  何  口  欺  尊

                                                                      Bài kệ 8
                                                                      Đẳng diệc quá diệc bất cập                           等  亦  過  亦  不  及
                                                                      Dĩ trước tưởng tiện phân biệt                       已  著  想  便  分  別
                                                                      Bất đẳng tam đương hà tránh                       不  等  三  當  何  諍
                                                                      Tất dĩ đoạn bất không kế                               悉  已  斷  不  空  計

                                                                      Bài kệ 9
                                                                      Hữu đế nhân đương hà ngôn                       有  諦  人  當  何  言
                                                                      Dĩ trước không thùy hữu tránh                    已  著  空  誰  有  諍
                                                                      Tà  diệc chánh tất vô hữu                            邪  亦  正  悉  無  有
                                                                      Tùng hà ngôn đắc kỳ đoản                          從  何  言  得  其  短

                                                                      Bài kệ 10
                                                                      Xả dục hải độ mạc niệm                              捨  欲  海  度 莫 念
                                                                      Ư phụ huyền nhẫn hành hiệt                        於  婦 縣 忍 行  黠
                                                                      Dục dĩ không chỉ niệm tưởng                       欲  已  空  止 念 想
                                                                      Thế tà độc phục bất sanh                            世  邪  毒  伏 不 生

                                                                      Bài kệ 11
                                                                      Tất viễn thế cầu bại khổ                                 悉  遠  世  求  敗  苦
                                                                      Tôn ngôn ly mạc dữ câu                                 尊  言  離  莫  與  俱
                                                                      Như thủy hoa tịnh vô nê                               如  水  華  淨  無  泥
                                                                      Trọng trần độ bất vi nuy                                重  塵  土  不  為  萎

                                                                      Bài kệ 12
                                                                      Tôn an nhĩ vô sở tham                                    尊  安  爾  無  所  貪
                                                                      Ư thế tục vô sở trước                                      於  世  俗  無  所  著
                                                                      Diệc bất chuyển sở niệm tưởng                    亦  不  轉  所  念  想
                                                                      Hành như độ bất tùy thức                             行  如  度  不  隨  識

                                                                      Bài kệ 13
                                                                      Tam bất tác đọa hành khứ                             三  不  作  墮  行  去
                                                                      Xả bất giáo tam thế sự                                    捨  不  教  三  世  事
                                                                      Xả bất tưởng vô hữu phược                          捨  不  想  無  有  縛
                                                                      Tùng hiệt giải chung bất giải                        從  黠  解  終  不  懈
                                                                      Chế kiến tưởng dư bất thủ                            制  見  想  餘  不  取
                                                                      Tiện yểm thanh bộ tam giới                          便  厭  聲  步  三  界

                                                                       

                                                                      _________________________

                                                                      Mục Lục

                                                                      Lời tựa

                                                                      Phần 1

                                                                      1. Kinh Nhiếp Phục Tham Dục (Kiệt Tham Vương Kinh)
                                                                      2. Kinh Hang Động Ái Dục (Ưu Điền Vương Kinh)
                                                                      3. Kinh Buông Bỏ Sở Tri Và Ngôn Từ (Tu Đà Lợi Kinh)
                                                                      4. Kinh Buông Bỏ Khổ Lạc Và Nhiễm Tịnh (Ma Kiệt Phạm Chí Kinh)
                                                                      5. Kinh Sự Thật Đích Thực (Kính Diện Vương Kinh)
                                                                      6. Kinh Buông Bỏ Ân Ái (Lão Thiểu Câu Tử Kinh)
                                                                      7. Kinh Xa Lìa Ái Dục (Di Lặc Nạn Kinh)
                                                                      8. Kinh Buông Bỏ Ý Muốn Hơn Thua (Dũng Từ Phạm Chí Kinh)
                                                                      9. Kinh Nhân Cách Của Một Vị Mâu Ni (Ma Nhân Đề Nữ Kinh)
                                                                      10. Kinh Đạo Lý Duyên Khởi (Dị Học Giác Phi Kinh)
                                                                      11. Kinh Chấm Dứt Tranh Cãi (Mãnh Quán Phạm Chí Kinh)
                                                                      12. Kinh Buông Bỏ Nắm Bắt (Pháp Quán Phạm Chí Kinh)
                                                                      13. Kinh Công Phu Thực Tập Căn Bản (Đâu Lặc Phạm Chí Kinh)
                                                                      14. Kinh Phòng Hộ (Liên Hoa Sắc Tỳ Khưu Ni Kinh)
                                                                      15. Kinh Vị Mâu Ni Thành Đạt (Phụ Tử Cọng Hội Kinh)
                                                                      16. Kinh Chuyển Hóa Bạo Động Và Sợ Hãi (Duy Lâu Lặc Vương Kinh)
                                                                      Phần 2 (Giảng giải kinh)

                                                                      Kinh Vị Mâu Ni Thành Đạt
                                                                      Kinh Xa Lìa Ái Dục
                                                                      Kinh Chuyển Hóa Bạo Động Và Sợ Hãi