Chương 03: Hạnh phúc chân thật
BÕ LÚC PHONG TRẦN
Chiến tranh tràn tới. Không khí chiến tranh bao phủ cả một vùng.
Từ Hải đưa một đạo binh đi đón vợ. Kiều đã xuống chó, bây giờ lên voi.
Đây là đám cưới mà Từ Hải mong muốn. Lời hứa đã được thực hiện. Từ Hải đã thành công và trở về đóng binh ở gần đó.
Từ Hải thân hành ra ngoài cửa đón. Vẫn còn dáng dấp của người anh hùng đã gặp Kiều ngày xưa ở thanh lâu.
– ‘Em chẳng qua chỉ là một loại dây leo nương nhờ vào được một cây tùng mạnh khỏe mà leo lên cao.’ Cát là dây leo, thường gọi là cát đằng. Có một bộ lục tên là Cát Đằng Lục do một thiền sư sáng tác. Tác phẩm Quy Sơn Đại Viên Thiền Sư Cảnh Sách trong bộ luật Sa Di và Sa Di Ni có câu: ‘Khởi bất kiến ý tùng chi cát, thượng tủng thiên tầm, phụ thác thắng nhân, phương năng hữu ích.’ Nghĩa là: Há không thấy những dây leo nương vào cây tùng mà lên cao được cả ngàn tầm; nương tựa vào những người lớn thì mới có ích lợi trong sự tu tập.
– ‘Bây giờ thì sự vinh quang đã rõ ràng nhưng em đã thấy được nó từ ngày mới gặp nhau!’ Chứng tỏ: ‘Em là tri kỷ duy nhất của anh. Em có con mắt rất tinh.’ Trong lòng nói vậy nhưng bên ngoài thì vẫn có vẻ khiêm nhường lắm: ‘Em đâu có giá trị gì đâu!’
Đó là những ngày Kiều có danh, có lợi, có tình, có hạnh phúc. Nhưng than ôi, tình trạng này không được lâu dài!
ÂN OÁN RẠCH RÒI
Kiều muốn đền ơn và báo oán. Những hạt giống đó cũng có mặt trong ta. Chúng ta không muốn giết hay bỏ tù người làm ta khổ nhưng khi thấy người đó bây giờ khổ thì trong lòng ta cũng thấy hơi đã. Đó là hạt giống của sự báo oán. Tất cả chúng ta đều có hạt giống đó. Phải công nhận như vậy. Học Từ Bi Hỷ Xả chúng ta có thể chuyển hóa hạt giống đó. Tôi đã thực tập. Có những người làm khổ tôi rất nhiều trong quá khứ. Đôi khi thấy những người đó khổ thì ban đầu mình nói thầm thầm: ‘Cho đáng!’ Ngày xưa thì có lúc như thế, nhưng bây giờ thì khác. Tôi đã chuyển hóa. Tôi không muốn những người làm khổ mình ngày xưa khổ. Nếu quý vị đọc sáu điểm tôi đề nghị cho tương lai Phật giáo Việt Nam thì sẽ thấy một trong sáu điều là: ‘Phật giáo Việt Nam không có kẻ thù. Phật giáo Việt Nam muốn được cộng tác với tất cả những thành phần khác của dân tộc, dầu với những người ngày xưa đã từng đàn áp Phật giáo và làm cho Phật giáo điêu đứng.’ Điều này được bộc lộ rất rõ, đúng với tinh thần Đại Xả của Tứ Vô Lưọng Tâm.
Đọc truyện Kiều, chỗ nào chúng ta cũng thấy thương xót Kiều nhưng tới chỗ Thúy Kiều trả thù thì ta thấy Kiều chưa giỏi. Đã khổ nhiều như vậy mà chưa hiểu được những người kia. Tuy ác độc, gian manh nhưng họ cũng là nạn nhân của gia đình, xã hội và giáo dục của họ. Kiều chưa thấy được điều đó. Cùng tu học với nhau bây giờ, chúng ta có cơ hội làm được chuyện mà ngày xưa Thúy Kiều đã không làm được, tức là thương xót được những người đã làm khổ mình bởi vì họ cũng khổ. Ý định đền ơn thì tốt nhưng ý muốn trả thù thì không xứng đáng; nhất là mình đã từng được đi tu rồi.
Từ công nghe nói thủy chung,
Bất bình nổi trận đùng đùng sấm vang.
Anh chàng nghe nói giận lắm. Muốn trừng phạt tất cả những người đã làm cho người yêu của mình đau khổ da diết ngày xưa. Ăn thua là do người đàn bà cả. Người đàn bà cứ tỉ tê nói ra nói vào một hồi là người đàn ông xiêu lòng. Anh hùng vậy đó, nhưng nếu có một người đàn bà yếu đuối hờn ganh bên cạnh thì có thể những hạt giống vô minh sẽ nổi lên. Đó cũng là thương nhưng tình thương ở đây chưa phải là tình thương của Từ Bi Hỷ Xả. Tình thương này còn có chất liệu của vô minh, phân biệt, kỳ thị. Chưa có chất liệu Xả.
Nghiêm quân tuyển tướng sẵn sàng,143
Dưới cờ một lệnh vội vàng ruổi sao.
Ba quân chỉ ngọn cờ đào,
Đạo ra Vô Tích đạo vào Lâm Truy.
Đi bắt hết những người làm khổ Kiều và mời tất cả những người ân của Kiều về. Vô Tích và Lâm Truy là hai nơi mà Kiều đã chịu khổ rất nhiều. Lâm Truy là nơi Kiều vào thanh lâu lần đầu. Vô Tích là chỗ Kiều bị bắt làm đầy tớ. Các tướng cũng được lệnh bảo vệ cho gia đình họ Thúc (Thúc ông và người nhà) không cho quân lính và dân chúng vào phá. Như vậy là quân lính của Từ Hải có thể phạm vào những nhà khác. Đó là cảnh chiến tranh. Thật nguy hiểm.
Thệ sư là lễ tế cáo Trời Đất và Quỷ Thần và hiểu dụ tướng sĩ trước lúc xuất quân. Lễ này có mục đích nêu ra rằng đây là một cuộc hành quân có chính nghĩa, không phải là việc đi cướp bóc, tàn hại nhân dân. Đó là đạo đức chính trị và quân sự ngày xưa. Con người làm chiến tranh nhưng phải biết rằng ngoài con người còn có Trời, Đất, Quỷ, Thần. Không nên nghĩ rằng ngoài con người ra không có cái gì cả. Đó là một nét thuộc về văn minh Đông phương. Hy vọng trong tương lai những nước Tây phương mỗi khi muốn đem quân đi đánh ở đâu cũng sẽ làm lễ Thệ Sư nói cho quần chúng. Quỷ Thần, Trời Đất biết rõ lý do.
Sau khi tướng sĩ và quân lính nghe những chuyện Kiều kể thì ai nấy đều giận. Ai cũng muốn chấp hành và thực hiện cho được mục đích của cuộc ra quân.
Những người có tên điểm danh được dẫn ra trước cửa quân.
Mặt tái xanh, người run rẩy. Đúng là tướng mạo, là căn cước của anh chàng.
Dầu không sống với nhau suốt đời nhưng vẫn còn tình nghĩa cũ. Kiều biết ơn Thúc Sinh đã kéo mình ra khỏi ổ nhền nhện và cho mình gần một năm hạnh phúc. Nhưng:
Sợ quá! Xin đừng cười, bởi chàng Thúc Sinh đang có mặt trong mỗi chúng ta.
Sợ là sợ cho Hoạn Thư, mừng là mừng cho Thúy Kiều. Anh chàng được Kiều trả ơn có thể sẽ bị mất vợ.
Mụ già là bà quản gia ở nhà họ Hoạn, Sư Trưởng là sư chị Giác Duyên. Hai người vừa đến thì được Kiều mời lên trướng liền.
Kiều có hạt giống của sự biết ơn rất lớn. Nhớ mãi những điều người ta giúp mình. Chúng ta nên biết bất cứ một hạt giống tốt nào mình gieo, một cử chỉ thương yêu lân mẫn nào mình làm đều có kết quả. Kết quả trong lòng mình và trong lòng người khác.Thực tập ‘Sáng cho người thêm vui. Chiều giúp người bớt khổ,’ bảo hộ sanh mạng và thực tập Từ Bi Hỷ Xả trong đời sống hàng ngày để đầu tư cho tương lai, làm như thế không phải chỉ cho riêng mình mà cho tất cả mọi người.
Cúng dường sư chị Giác Duyên và bà quản gia mỗi người một nghìn lạng vàng. Không biết sư chị dùng vàng này để làm gì? Nhưng bà quản gia thì chắc chắc sẽ biết cách xài. Bà sẽ tìm cách thoát khỏi thân phận làm việc cho người và ra sống riêng. Ngày xưa Hàn Tín bên Tàu trong thời đói khổ gặp một bà già tên là Phiếu mẫu cho ăn cơm. Sau này làm nên, Hàn Tín trả ơn bà một nghìn lạng vàng. Những khi người ta khổ đau hoặc lỡ bước mà giúp người ta là rất quan trọng. Một bát cơm thôi nhưng đáng giá ngàn vàng. Không thể nói một bát cơm ngoài chợ chỉ bán có ba hay mười francs. Một bát cơm có khi là ba Francs nhưng có khi là một ngàn lạng vàng, có khi lại không có giá trị gì hết. Đưa một bát cơm mà nói nặng nhẹ thì bát cơm đó không có một giá trị gì. Với tấm lòng thương yêu, săn sóc, nhường cơm xẻ áo cho người thì bát cơm đó đáng giá ngàn vàng. Có những người Việt Nam trong những trường hợp khổ cực, cha trong trại học tập cải tạo (Sơn La hay Ích Khiếu), mẹ bị bịnh… bên này chúng ta nhường cơm xẻ áo gởi về giúp họ, sau này mỗi khi nhớ tới họ rất cảm ơn mình. Nhưng có người sau khi qua được bên này lại nói: ‘Gửi cho mấy chục đô la, nhằm nhò gì!’ Họ không nhớ rằng trong trường hợp khó khăn mà nhận được sự giúp đỡ là quý. Đó là họ không biết giá trị của bát cơm Phiếu mẫu. Họ nghĩ ằng bên này tiền do mình tự đúc ra, cứ việc bỏ vào bì thơ để gửi về; họ không biết rằng mình cũng phải nhịn áo, nhịn mặc, nhịn tiêu mới có thể gửi về được. Nên biết rằng trong ta có thể có những hạt giống như vậy. Chúng ta có thể có những hạt giống của Hàn Tín, Thúy Kiều và cũng có thể có hạt giống của những người không phải là Hàn Tín, Thúy Kiều.
Ghê quá! Mình là thầy tu, mình là mụ quản gia mà bây giờ phải lên tới chỗ này, toàn là quân lính và giáo dựng gươm trần. Bà này làm lớn quá! Họ không biết nói gì cả.
Chắc chắn là sư chị không muốn ngồi nhưng sư chị đã bắt buộc phải ngồi vì hơi ngại. Sư chị đâu muốn nhìn thấy những chuyện bạo động, trả thù. Chỗ này chúng ta cần quán chiếu cho kỹ. Chúng ta đọc tiếp để xem Thúy Kiều báo thù Hoạn Thư như thế nào:
– ‘Tiểu thư mà cũng tới đây nữa hả?’ Đó là lời nói mỉa mai. Hạt giống này cũng có trong ta. Thỉnh thoảng chúng ta cũng biết nói lời mỉa mai.
– ‘Từ xưa đến giờ tìm ra được một người như tiểu thư là hiếm lắm. Càng cay nghiệt lắm thì càng gặp nhiều oan trái.’
– ‘Đàn bà ai lại không ghen tương phu nhân!’ Điều này có thật. Nói như vậy không có nghĩa là đàn ông không ghen. Đàn ông cũng ghen. Nhưng đây là nói chuyện đàn bà với nhau. ‘Ghen tuông thì cũng người ta thường tình.’ Nói ra một sự thật. Bà này khôn lắm. ‘Tôi là đàn bà. Mà hễ là đàn bà thì ai là không ghen.’
Nhắc lại những công đức của mình. Rất khéo! Bà này mà đi học trường luật thì chắc cũng sẽ tốt nghiệp hạng cao. Không nói ‘đi trốn’ mà chỉ nói ‘khỏi cửa’ thôi – Người ta làm phu nhân, người ta đâu có ‘đi trốn’.
Khi chồng mình bị một người đàn bà khác tới chiếm thì tâm niệm muốn giật chồng lại là một tâm niệm phổ biến. Đó là tính người. Tự mình làm luật sư bào chữa. Rất hay. Nhưng cái hay này một phần lớn là của thi sĩ.
– ‘Lượng phu nhân lớn như biển. Bây giờ phu nhân thương được chút nào thì con nhờ chút đó.’ (Thương ít ít cũng được, miễn có thương là quý rồi.) Rất khéo.
Rất gọn mà đủ. Ghen thì ghen ghê gớm mà nói thì cũng rất khéo. Và quý hơn hết là vẫn có vài hạt giống của lòng từ bi trong tâm.
Kiều đáp lại:
Kiều tha bổng cho một người đã từng làm cho mình đau khổ cùng cực. Đêm Hoạn Thư tổ chức tiệc rượu tẩy trần đón Thúc Sinh trở về bắt Kiều hầu rượu là đêm đau khổ nhất của Kiều. Thúc Sinh và thúy Kiều càng đau khổ bao nhiêu thì Hoạn Thư càng ‘đã’ bấy nhiêu. Nhưng bây giờ chính Kiều ra lệnh tha cho Hoạn Thư. Chuyện này sở dĩ xảy ra một phần là nhờ Hoạn Thư khôn khéo và một phần khác cũng nhờ trong tâm bà ta có hạt giống từ bi. Ngày xưa bà đã làm được hai việc quan trọng. Một là cho Kiều đi tu để thoát khỏi thân phận đầy tớ. Hai là để Kiều trốn mà không tầm nã. Nếu không có hai điều đó thì bây giờ chắc chết. Trong nguyên lục Hoạn Thư bị đánh một trăm roi trước khi tha bổng. Cụ Nguyễn Du của chúng ta không cho đánh Hoạn Thư. Nàng Kiều của cụ Nguyễn Du có lòng từ bi hơn nàng Kiều trong nguyên lục.
Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu: lưới trời lồng lộng, thưa mà khó lọt. Làm ác thì bị quả báo ác. ‘Hại nhân nhân hại’ là luật quả báo. ‘Sự nào tại ta’: vì các người ác nên bị quả báo chứ không phải tại tôi ác. Nói như vậy, đứng về phương diện pháp lý thì rất đúng nhưng đứng về phương diện đạo lý thì không đúng. Có hai phương pháp xử trị: đức trị và pháp trị. Pháp trị là lấy luật mà đối xử. Phạm lỗi đó thì bị trừng phạt, như vậy là pháp trị. Câu nói của Kiều là câu nói về pháp trị..Nhưng là người tu thì mình không được nói như Kiều. Mình không phải là pháp gia , mình là đạo gia. Mình phải nói: ‘Anh đã gây tội lỗi, đáng lý hôm nay anh bị quả báo. Nhưng tại tôi là người tu thành ra may cho anh.’ Đó là đức trị. Trị bằng đức, bằng tình thương. Thúy Kiều đã được đi tu, học đạo giải thoát mà vẫn dùng ngôn ngữ của pháp trị, đó là không giỏi. Là người tu mình không nói bằng ngôn ngữ của pháp trị; mình phải nói bằng ngôn ngữ của đức trị. Mình đừng nói: ‘Ráng chịu!’ không phải là ngôn ngữ của người tu. Đây là một trong những lỗi lớn của Thúy Kiều. Chúng ta hãy tưởng tượng trong khi Kiều đang nói bằng cái giọng sắt đá và máy móc như vậy thì sư chị Giác Duyên cũng đang ngồi phía sau lưng. Sư chị nghĩ gì?
Những người ngày xưa thề như thế nào thì bây giờ chịu quả như thế đó. Ví dụ thề: ‘Nếu mà tôi có phản bội thì tôi chết liền tức khắc!’ hay ‘Nếu tôi lừa gạt em thì cho người ta băm nát thân tôi thành từng miếng đem làm thực phẩm cho lợn ăn!’ thì Kiều bây giờ cũng cho làm y như vậy. Như vậy thời gian Kiều ở chùa Chiêu Ẩn không ích lợi gì. Có chép Kinh, tụng Kinh, thỉnh chuông, làm đủ thứ… được ở với sư chị nhưng những hạt giống của từ bi, tha thứ không được tưới tẩm nhiều. Kiều có tha cho Hoạn Thư vì thấy được hoàn cảnh và lòng tốt của Hoạn Thư. Trong Kiều cũng có cái thấy, cái hiểu và cái thương. Nhưng với những người này, Kiều hoàn toàn không thấy được rằng sở dĩ họ ác như vậy là vì họ được nuôi dưỡng và sống trong những môi trường mà ai ở trong đó cũng có thể trở thành như vậy. Vì không thấy điều đó nên Thúy Kiều đành lòng để họ bị trừng phạt. Sư chị ngồi phía sau chắc cũng đau xót vô cùng nhưng không làm gì được. Không thể ngăn cản được nữa vì đây không phải thiền môn. Đây là quân trường, đây là tòa án, đây không còn là sư em của mình nữa mà là một vị chỉ huy trưởng quân đội toàn quyền sinh sát (Từ rằng: ‘Việc ấy để cho mặc nàng.’) Hai người ơn của Kiều, bà quản gia và sư Giác Duyên ngồi phía sau mà khiếp đảm, thấy trái tim Kiều là sắt đá. Chắc sư chị đau khổ vô cùng. Lỗi một phần là của sư chị. Trong thời gian em nó ở với mình, mình đã không dạy. Sư chị có thể là người tốt nhưng sư chị không thực tập dạy em. Vì vậy tuy thương em nhưng sư chị không làm tròn bổn phận của một người chị. Tất cả những sư chị tương lai phải học những bài học này. Em mình không thể nói: ‘Hại nhân nhân hại. Ai bảo! Ráng chịu!’ Nếu sư em mình làm và nói như vậy là mình chịu trách nhiệm hoàn toàn. ‘Tôi đã nói mà nó không chịu nghe!’ Nhưng tôi đã nói làm sao để nó không chịu nghe? Hay là vì tôi nói giọng chị Hai thành ra sư em tôi không thèm nghe? Tôi phải nói bằng thứ ngôn ngữ rất ngọt ngào và thương yêu thì em tôi mới dễ dàng tiếp nhận. Còn nếu tôi nói theo kiểu mẹ chồng hay chị Hai thì em tôi sẽ ghét tôi, không chịu nghe, không chịu học với tôi. Dầu có nói đúng cách mấy đi nữa mà nói cái giọng sẵng đó thì ta sẽ không thành công và không làm được trách vụ sư chị? Các sư chị phải ăn nói như thế nào để các em thương và nghe lời mình. Sau này các em không thể nói rằng: ngày xưa sư chị chưa dạy! Sư chị có dạy và dạy bằng ngôn ngữ từ ái, không trách móc, không lý luận, không đổ lỗi. Sư chị chỉ nhẹ nhàng khuyên nhủ em thôi. Nếu sau này em không học được thì không phải là lỗi của chị nữa mà là lỗi của chính em. Tưởng tượng sư chị ngồi phía sau với tư cách thượng khách của sư em mà không làm được gì để ngăn cản sư em hết! Trễ quá rồi! Làm gì được nữa! Sư chị phải thấy trách nhiệm của mình ngày xưa đã không giúp em.
Hồn và phách là hai khía cạnh tâm lý. Người Việt phải biết chuyện này. Hồn (spiritual soul) nhẹ hơn phách (vegetative soul.) Phách cũng là hồn nhưng có dính với phần sắc thân nhiều hơn. Đối với tín ngưỡng bình dân của người Việt thì đàn ông có ba bồn bảy phách (vía), đàn bà có ba hồn chín phách (vía nhẹ thì tốt.) Hỏi tại sao thì có thể giải thích bằng nhiều cách. Chín vía có thể nặng hơn bảy vía nhưng nhờ chín vía nên mới có thể thấy, cảm được những điều mà người đàn ông không cảm được. Đứng về phương diện chi tiết, người đàn bà tiếp xúc được nhiều hơn người đàn ông. Ví dụ như gửi quà về nhà, đàn ông thường làm đại khái, còn đàn bà nghĩ tới từng chi tiết một: nghĩ tới từng đứa cháu, từng đứa chắt. Có những người đi máy bay, xe lửa không muốn đem theo nhiều món đến khi thiếu thì than. Hành lý của người đàn bà tuy nhiều một chút nhưng rất cần thiết, đủ từng chi tiết. Đến khi cần cái gì họ nói: ‘Có đem theo đây!’; người đàn ông rất hoan hỷ. Đứng về phương diện cơ thể học, con người có hai hệ thần kinh. Hệ gần với thân thể gọi là système nerveux végétatif. Phách gần với thân thể. Theo tín ngưỡng bình dân Việt Nam, khi thân thể đã chết phách vẫn còn và từ từ tan biến. Câu 115, khi thăm mộ Đạm Tiên, Kiều nói: ‘Thác là thể phách còn là tinh anh.’ Tinh anh thuộc về hồn. ‘Hồn kinh phách rời’ là khi sợ quá, phách lìa khỏi thân thể.
Hai câu này cần phải xét lại. Đây là lời luân lý để cảnh cáo người ta. Trời ở đây không phải là một đấng tạo hóa mà là luật của thiên nhiên. Muôn sự tại trời nghĩa là mọi việc đều xoay quanh luật thiên nhiên; trong đó có luật nhân quả. Trồng bắp thì được ăn bắp, trồng đậu thì được ăn đậu, gieo gió thì gặt bão. Khi mình dễ thương với một người nào đó thì mình được người đó đối xử dễ thương lại. Khi mình phản bội độc ác với một người nào đó thì mình sẽ bị đáp lại bằng sự độc ác và phản bội của chính người đó hoặc của một người nào khác. ‘Phụ người chẳng bõ khi người phụ ta’: Khi mình phụ người ta thì mình thấy không sao hết nhưng đến khi người ta phụ mình một cái thì mình mới thấy được tất cả đau khổ của một người bị tình phụ. Thấy một người mới tươi mát, tốt lành, dễ chịu nên mình đi theo, bỏ người cũ. Người cũ đau xót cách mấy mình cũng không biết. Nhưng khi cái người mình gọi là tươi mát đó đá mình một cái và bỏ đi, mình mới có cơ hội biết được người bị mình phụ đã đau khổ như thế nào. ‘Phụ người chẳng bõ khi người phụ ta’ là luật thiên nhiên, nêu ra để dạy người, nhưng trước hết là để chứng minh rằng chuyện mình trả thù cũng là chuyện tự nhiên thôi. Thái độ này không tốt. Nó chỉ tốt với những nhà pháp trị nhưng không tốt với những nhà đức trị như chúng ta.
Có chứ! Những người đứng trên phương diện đức trị nghe tiếng kêu thương vẫn có thể thương được. Ví dụ như sư chị Giác Duyên. Sư chị ngồi ở trên cảm thấy rất đau xót nhưng bất lực, biết rằng mình đã không dạy em. Tác giả nói như vậy là đứng về phía Kiều mà nói nhưng không đứng về phía sư chị mà nói. ‘Mình làm mình chịu kêu mà ai thương’ có nghĩa là ‘Đáng đời!” Kỳ thực cụ Nguyễn Du tuy nói vậy nhưng trong lòng cụ, cụ cũng cảm thấy đau. Nói là nói ngoài mặt vậy thôi. Ai thấy trường hợp những người kia bị băm, bị chém mà không thương! Câu này như để răn dạy. Có người chủ trương phải có sự trừng phạt như vậy thì người ta mới ngán không làm ác. Một phần nào đó họ cũng có lý. Ví dụ khi qua một cái đèo rất hiểm trở trên con đường Sài Gòn – Đà Lạt, từ trên xe đò nhìn xuống người ta thấy một cái miếu thờ những người từ nạn từ xe hơi rớt xuống đèo. Những người có chánh niệm đã lái xe cẩn thận, nhìn xuống thấy cái miếu lại càng cẩn thận hơn nữa. Những tay anh chị đánh người không nương tay (anh chị Cầu Muối), chửi thề, không kính trọng bất cứ ai, không tin ở đức trị, đi ngang qua miếu đó cũng phát ngán, sợ các linh hồn kia kéo mình xuống vực. Thành ra đe dọa cũng có ích lợi. Ở chùa có tượng đức Quán Thế Âm Bồ Tát hiền lành, mát mẻ như một đóa hoa nhưng cũng có ông Diện Nhiên Đại Sĩ thở ra toàn khói và lửa, cầm thanh gươm đứng để đóng vai trò Ông Ác cho người ta ngán. Anh làm cái đó sẽ bị cái này. Đó là pháp trị; pháp trị cũng đóng được vai trò của nó. Cái hay trong đạo Bụt là vị Diện Nhiên Đại Sĩ thở ra và nói toàn là khói và lửa không ai khác hơn là đức Quán Thế Âm Bồ Tát. Đức Bồ Tát cười nhẹ nhàng như cơn gió thoảng nhưng cũng phải hiện ra dữ dằn như vậy để cho người ta sợ mà xa lánh điều ác. Đó là một hình thái của tình thương. Đưa cao đánh khẽ. Nhưng Thúy Kiều có đánh khẽ không? Không. Đây không phải là đức trị mặc áo pháp trị. Có tình thương thật thì có thể sử dụng phương pháp pháp trị, nhưng đi sâu vào thì thấy toàn là đức trị. Ở các chùa có những hình vẽ cảnh địa ngục: vạc dầu, cột đồng… cũng là đọa. Nhưng đó không thật sự là ác. Đó là phương tiện để giúp những người không thể giúp được bằng những phương pháp nhẹ nhàng. Vấn đề là cứu độ chứng không phải là trừng trị.
Bạc tức là (đức) mỏng. Người có nhiều đức độ, tình thương trong lòng, biết nghĩ tới tương lai gọi là người có hậu hay đức dày. Không ăn xổi ở thì, không phải chỉ biết ngày hôm nay không lo gì đến tương lai. Như cưa củi mà chỉ cưa một chút xíu để xài ngày hôm nay thôi, ngày mai mặc kệ thì gọi là mỏng; cưa nhiều để dành cho ngày mai gọi là dày. Đó là đứng về phương diện vật chất. Phương diện tinh thần cũng vậy. Thương người, giúp người, chất chứa công đức và tình thương nhiều gọi là hậu (dày). Ngược lại với mỏng, không lo cho hạnh phúc của mình và người trong tương lai. Bạc cũng có nghĩa là phụ bạc, phản bội. Đoạn này chúng ta thấy cụ Ngụyễn Du cũng có đức dày. Cụ nói như vậy cốt để dọa. Nếu đứng ra xét xử chắc hẳn cụ sẽ dùng đức trị, dơ cao đánh khẽ, để cảm hóa họ: ‘Bữa nay ta tha đó nghe. May mà gặp tui chứ gặp người khác là chết rồi!’
Trời trong, giữa ban ngày, không ai không thấy được luật nhân quả rõ ràng.
Kiều đã tha cho Hoạn Thư là một việc đáng mừng, nhưng Kiều đã trừng phạt những người còn lại đó là một việc không hay. Nếu Kiều biết tu tập thì đã có thể hướng dẫn cho họ thở, nhìn kỹ, nhìn sâu để thấy rõ những đau khổ của hai bên và tìm cách giáo dục cho họ, cho họ những cơ hội và điều kiện để làm lại cuộc đời.
TRỜI PHƯƠNG NGOẠI
Sư chị ngán quá! Muốn về liền lập tức, không muốn ở thêm một giờ nào nữa trong chốn quân sự hãi hùng này. Chúng ta phải đi vào trong da thịt của sư chị để thấy. Sư chị bây giờ e ngại lắm, tuy rất thương sư em; không biết sư em sẽ đi về đâu nếu sư chị cứ tiếp tục như vậy. Nó đã rất đau khổ trong quá khứ, bây giờ báo thù được thì nó thấy nhẹ trong lòng. Đó là cái thấy của người đời. Nhưng người tu thì phải khác. Bây giờ sư chị đi, phải khiêng theo một ngàn lạng vàng và tất cả những tâm tư nặng nề tạo ra vì khung cảnh vừa rồi. Sư chị là người tu, dùng vàng để làm gì? Tu chỉnh Chiêu Ẩn Am? Một ngàn lạng vàng nặng lắm! Rồi thì ăn cướp, ăn trộm, làm sao? Khiêng một ngàn lạng vàng đi cũng khổ lắm! Không biết mình sẽ làm chuyện gì với số vàng này, và sư chị cảm thấy mất hết tất cả những an ninh của mình. Và nhất là lại mang theo niềm hoảng sợ và xót thương cho đứa em đồng đạo ngày xưa. Hãy dể cho trí tưởng tượng của chúng ta đi theo để thấy sư chị rời khỏi trung tâm quân sự đó với tâm trạng nào.
Đây là những câu thơ rất hay. Bèo hợp mây tan là lý vô thường. Ngày hôm nay mình sống chung với nhạu là ‘bèo hợp’, biết đâu mai này mỗi người đi một ngã là ‘mây tan’. Vì vậy phải biết trân trọng những giờ phút của ngày hôm nay, phải có hạnh phúc trong giờ phút này. Hai chị em gặp được nhau là điều hiếm có, xa nhau rồi thì không biết bao giờ mới được gặp lại, ngồi chung, uống trà đàm đạo với nhau. ‘Thúy Kiều thấy được điều đó.
– ‘Không lâu đâu! Trong năm năm nữa chị em mình sẽ được gặp nhau lại.’ Giống như là sư chị đã biết trước. Biết trước, không phải là do sư chị có tài bấm quẻ mà vì sư chị có quen với một đạo cô tu theo đạo Lão tiên đoán sự hội ngộ của hai chị em trong năm nay và trong năm năm nữa. Và vì đã gặp Thúy Kiều lần này đúng theo tiên đoán của đạo cô Tam Hợp nên sư chị tin rằng tiên đoán về lần hội ngộ thứ hai cũng sẽ đúng.
‘Hành cước’ (đi bộ) là sự thực tập của nhà tu. Nếu cái học của mình chưa tới, thì mình phải tìm thầy học đạo. Hành cước có khi gọi là đi vân thủy. Vân là mây, thủy là nước. Mây, nước luôn luôn đi. Người tu hành nếu chưa tìm được thầy, được pháp môn thì phải làm phận sự của mây và nước. Phải đi và đi bằng hai chân (hành cước) của mình chứ không đi ngựa, đi xe.
Những câu thơ này chứng tỏ sư chị Giác Duyên thương sư em Trạc Tuyền rất sâu sắc. Không biết có hiểu nhiều không nhưng có thương và muốn thương. Tình thương cao nhất là tình thương làm bằng cái hiểu. Biết sư em cần gì thì dạy sư em cái đó. Sư chị không biết sư em cần học kinh An Ban Thủ Ý, ru và chuyển hóa nội kết, nên đã không dạy. Sư chị chưa hiểu sư em bao nhiêu.
– ‘Nếu sư chị có gặp lại đạo cô thì xin hỏi dùm về tương lai của em. Em không biết mình sẽ đi về đâu.’ Tiền lộ mang mang bất tri hà vãng là một câu trong Cảnh Sách. Bốn cuốn Luật Tiểu (luật nhỏ) của người tập sự đi tu gồm có: Tỳ Ni Nhật Dụng Thiết Yếu, Mười Giới Sa Di và Sa Di Ni, Uy Nghi và Cảnh Sách. Tỳ Ni Nhật Dụng Thiết Yếu là năm sáu chục bài thi kệ thực tập chánh niệm trong mọi động tác hàng ngày. Bất cứ đi, đứng, nằm, ngồi, rửa tay, đi cầu, giặt áo… làm gì cũng có một bài kệ để thực tập thở ra, thở vào trong khi làm việc đó. Tỳ Ni Nhật Dụng thiết Yếu bản in mới có tên là Từng Bước Nở Hoa Sen. Mười Giới của Sa Di và Sa Di Ni bắt đầu bằng giới không sát sanh. Uy Nghi là phong thái của một nhà tu trong khi đi, đứng, nằm, ngồi, hành xử. Ví dụ sử dụng phòng tắm, lên chánh điện, vào nhà bếp, đến nhà cư sĩ… phải làm như thế nào cho đúng phong thái một nàh tu. Sách xưa có 24 thiên uy nghi. Sách mới (Bước Tới Thảnh Thơi) có tới 39 chương, vì điều kiện sống và tiếp xúc có khác (ví dụ nghe điện thoại, vào siêu thị…) Cảnh Sách là những lời nhắc nhở của thiền sư Quy Sơn. Bài văn rat hay. Tất cả các sư cô, sư chú ngày xưa đều học thuộc lòng bằng chữ Nho. Tiền lộ mang mang bất tri hà vãng là một câu trong Cảnh Sách, có nghĩa là: đường trước mờ mờ, không biết sẽ đi về đâu. Thúy Kiều cảm biết rằng cuộc đời mình còn nhiều sóng gió lắm, sau này không biết sẽ đi về đâu, vì vậy muốn nhờ sư chị Giác Duyên hỏi đạo cô Tam Hợp giúp mình. Muốn có một cái nhìn tổng quát về tương lai. Đó là nhu yếu của Thúy Kiều và cũng là nhu yếu của tất cả chúng ta. Ai cũng muốn biết tương lai cả cho nên mấy ông thầy chấm số tử vi túi mới có tiền. Nhưng mấy ông liệu có giỏi bằng đạo cô Tam Hợp không? Hay là tiền mất mà mình vẫn không có được cái nhìn rõ ràng nào về tương lai! Trong đạo Bụt, có những điều mình biết nhờ tu học có chánh niệm. Nếu nắm được thân tâm mình thì đi về đâu mình cũng làm chủ được thân tâm, không đánh mất mình và mình không cần đến đạo cô Tam Hợp hay mấy ông thầy chấm số tử vi nữa. Vừa đỡ tốn tiền, vừa khỏi bị mang tiếng mê tín. Chỉ những ngươờ yếu bóng vía mới cần tới đạo cô và mấy ông thầy tướng số mà thôi.
Sư chị Giác Duyên nhận lời Kiều và đi. Càng đi càng mau ra khỏi cõi này càng tốt. Cõi ngoài không phải cõi này. Có lẽ cụ Nguyễn Du đã dịch từ chữ phương ngoại: một không gian ở ngoài. Đọc thơ Nguyễn Du mà không biết về Phật học thì đôi khi cũng thiếu. Phương ngoại phương (space outside of space), trời phương ngoại. Đó là không gian nhưng cũng là loại không gian nằm ngoài không gian, vượt ra khỏi không gian thường của người đời. Chúng ta tìm tới cái không gian nằm ngoài không gian, thực tập tiếp xúc được với Tích Môn (historical dimension.) Người tu phải tiếp xúc với Bản Môn (utimate dimension.) ‘Cõi ngoài’ ở đây có nghĩa là phương ngoại phương, một phương trời không có những chuyện lên-xuống, ra-vào, ân-oán, tử-sinh, trong-ngoài, nhiều-một,… Sư chị biết chỉ ở trong cái khung trời phương ngoại đó, sư chị mới thật sự thoải mái mà thôi.
‘Chống gậy rong chơi chừ phương ngoại phương’ là một câu thơ của Tuệ Trung Thượng Sĩ; có nghĩa là: ta chống gậy đi chơi ở trong khung trời phương ngoại chứ không đi chơi trong khung trời của thế gian. Tuệ Trung Thượng Sĩ, anh ruột của đại tướng Trần Hưng Đạo, là một thiền sư rất nổi tiếng của đời Trần. Trong khi Trần Hưng Đạo thành công về quân sự thì Tuệ Trung Thượng Sĩ thành công về thiền tập. Ngài có một thiền phong rất hùng vĩ. Khí văn, khí thơ và đạo lực của Tuệ Trung tương đương với thiền sư Lâm Tế bên Tàu. ‘Chống gậy rong chơi chừ phương ngoại phương.’ Khung trời phương ngoại là cái chúng ta có thể bước vào bất cứ lúc nào chúng ta muốn. Đó là khung trời thỏai mái của giải thoát, của niết bàn. Phải đi trong không gian của phương ngoại thì mới thật sự có hạnh phúc. Còn nếu tu mà vẫn đi ở phương nội thì chưa có hạnh phúc.
Rất hay! Mà đâu có cần chữ nghĩa nhiều! ‘Tạ từ thót đã dời chân cõi ngoài.’ Chỉ cần đưa tay nói ‘goodbye’ một cái là tự nhiên từ cõi của sầu đau và tranh chấp ta đi ngay được vào cõi của thênh thang, nhẹ nhàng, giải thoát. Câu này là một câu chúng ta có thể viết treo ở thiền viện. Tạ từ: thôi, không ăn thua nữa trong cuộc đời! Thoát đã dời chân cõi ngoài: giải thoát có thể thực hiện được trong một cái búng tay. Giã biệt tất cả những phiền não, tranh chấp trong cuộc đời để được có tự do. Và chỉ khi nào mình giải thoát tự do mình mới giúp được người mà thôi.
Tháng 1974, trong khi làm việc cho hòa bình và gây quỹ giúp các cô nhi ở Việt Nam, tôi có bài thơ Trời Phương Ngoại:
TẨY OAN VÀ GIẢI THOÁT
Không những đã không xót mà còn thấy khỏe trong người vì đã trả thù được! ‘Ân oán rạch ròi’ là phải phân biệt ai là bạn, ai là thù. Đó là đường lối chánh trị. Người có tinh thần phe đảng nói: Ta phải phân biệt; người nào nói và làm có lợi cho đường lối và chủ nghĩa ta thì ta nhận làm bạn; những người mà tư tưởng, hành động hoặc văn chương khộng có lợi cho chủ nghĩa ta, dù họ không nói động tới ta, ta cũng liệt họ vào hàng kẻ thù. Nghĩa là phải rõ ràng, rạch ròi ai là bạn, ai là thù. Trong khi đó nhận thức của người tu học đạo Bụt là không có kẻ thù. Tất cả đều là những người mà mình phải thương, phải chuyển hóa, giúp đỡ. Thái độ đó, người có phe đảng không chấp nhận được. Họ nói những ai không phân biệt bạn-thù, không có lập trường, là họ không bao giờ chơi với được. Lập trường của chúng ta là không có thù. Chỉ có bạn thôi, bạn thân hoặc bạn chưa thân, và phải làm cho tất cả mọi người đều thành bạn cả. Đó cũng là một thứ lập trường, không thể nói là không phải lập trường. Kẻ thù chúng ta không phải là con người; kẻ thù chúng ta là tham, sân, si, mạn, nghi, kiến. Mà tham, sân, si, mạn, nghi, kiến cũng không phải là kẻ thù ta, bởi đó là rác mà chúng ta cần để chuyển thành hoa. Cái nhìn của đạo Bụt là như vậy. Những người theo một chủ thuyết, một ý thức hệ không thể đồng ý với chúng ta. Họ nói ân oán phải rạch ròi, thù bạn phải phân minh. Thúy Kiều, cựu ni cô Trạc Tuyền, cũng đang suy nghĩ theo kiểu đó. ‘Nàng từ ân oán rạch ròi, Bể oan dường đã vơi vơi cạnh lòng.’ Những oan ức dường như đã nhẹ đi sau khi trả thù được. Mà chưa chắc đã nhẹ; bởi vì Kiều vừa giết hoạc hành hạ một số người. Giai đoạn này là một vết đen trong đời Kiều. Kiều đã không có đợc con mắt của người tu (chúng ta gọi là mắt thương, từ nhãn.) Không có con mắt đó nên Kiều không thương được người đã làm mình đau khổ. Kiều vẫn áp dụng đường lối pháp trị. Trước khi từ biệt, sư chị đã không nói với em điều đó. Sư chị muốn thoát ra khỏi một cách mau chóng, nói bye-bye càng sớm càng tốt. Đó là một cái lỗi của sư chị. Đáng lý, sư chị phải ngồi lại và nói: ‘Em đã giải quyết xong việc ân oán rồi; bây giờ em không còn là em trong giới xuất gia của chị nữa, nhưng chị có thể nói cho em như thế này…’ Sư chị đã không làm điều đó. Chúng ta phải học được bài học này. Đừng hấp tấp như sư chị Giác Duyên. Muốn cho khỏe, muốn thoát ra cho mau mà không làm tròn bổn phận của một người thương. Sư chị nói: ‘Còn nhiều ân ái với nhau.’ Nhưng ân ái đó là nghĩ tới chuyện tương lai thôi. Còn nếu thực tập ân ái (thương) thì phải ngồi lại, dạy cho em nói: cái điều mà em vừa làm, chị thấy không xứng đáng với người đã học đạo từ bi. Đây có thể là lần đầu tiên trong hai trăm mấy chục năm lịch sử truyện Kiều chúng ta mổ xẻ chuyện này. Thương Kiều vì Kiều khổ, nhưng chúng ta phải nhìn rõ để thấy những gốc rễ khổ đau của Kiều. Không phải chỉ thương, chỉ tội nghiệp thôi là đủ. Phải thấy được những lầm lỗi của Kiều để chúng ta và các sư em của chúng ta đừng tiếp tục làm thêm những lầm lỗi đó.
Kiều cảm ơn Từ Hải đã giúp mình làm được việc trả thù. Không trả thù mà hay hơn. Chắc chắn là như vậy. Như có cơ hội, bắt những người gây chuyện ác tới, nói cho họ biết rằng họ ác độc và họ cần phải thay đổi. Bắt học phải phục vụ cho những người đau khổ dưới quyền kiểm soát của mình cũng có thể là một hình thái học hỏi để giúp họ sáng mắt ra. Lấy công chuộc tội là việc các nhà chính trị xưa đã làm. Thay vì giết, phạt, bỏ tù những người có tội thì yêu cầu họ lo cho những cô nhi viện, đắp cầu, làm đường và làm một số việc cụ thể để chuộc lại lỗi lầm. Ngày xưa ở Việt Nam chuyện này đã được thực hiện tương đối phổ biến. Các thầy có liên hệ tốt với triều đình thường xin lãnh các tù phạm ra để làm việc cho chùa, bảo đảm trong thời gian phục vụ tại chùa họ sẽ không ăn trộm, giết người.. Trong vòng mười, mười hai năm nếu họ chứng tỏ đã hoàn lương thì nhà chùa xin cho họ được trở về đời sống bình thường, cho họ ruộng, giúp họ làm nhà và cưới vợ. Ngày xưa các chùa Việt Nam đã làm như vậy. Rất hay! Nàng Kiều, cựu sư cô Trach Tuyền, đã không học được điều đó và đã trả thù. Những oan ức ngày xưa như một gánh nặng đè lên làm mình đau khổ, bây giờ trả thù được thì nhẹ đi. Đó là suy nghĩ của người đời, không phải của người tu. Người tu không làm nhẹ bằng cách đó. Làm cách đó không nhẹ được. Những gánh nặng trong tâm mình (nội kết) phải được chuyển hóa thì tâm mình mới thật sự nhẹ nhàng.
Sau khi được cảm ơn, Từ Hải nói ra những lời rất có tình có nghĩa, rất hay. Từ còn nói thêm rất dễ thương:
‘Anh còn muốn làm sao để em có thể đoàn tụ được với gia đình nữa thì anh mới thỏa mãn.’ Điều này chứng tỏ Từ Hải là người có khả năng hiểu. Vì vậy Từ có thể thương Kiều được một cách sâu sắc. Từ biết Kiều muốn trả ơn những người ơn của mình và có nhu yếu gặp lại cha mẹ và các em. Ngày trước khi Kiều yêu cầu, Từ Hải đã nói rõ: ‘Anh biết em muốn như vậy. Chừng nào anh chưa làm được chuyện này thì chừng đó anh chưa thỏa mãn.’ Nói như vậy làm cho người thương của mình được an ủi rất nhiều. Thương là phải hiểu nhu yếu của người mình thương.
Tiệc tẩy oan có mục đích gột rửa tất cả những niềm oan ức, được bày ra trong quân ngũ. Ai cũng tham dự vào việc ăn mừng đó. Đây là một chiến dịch tâm lý chiến rất hay. Nhân cơ hội, tổ chức ăn tiệc phủ phê, gọi là ăn mừng việc mình đã có thể thiết lập công bình xã hội va giải quyết những oan ức trong đời mình; khiến mọi người đều thấy rằng mình cũng đang được tẩy oan chứ không chỉ có riêng Kiều. Một chiến dịch tâm lý trong khung cảnh quân sự. Anh chàng này giỏi lắm!
Trong đạo Bụt, chúng ta không dùng chữ ‘tẩy oan’ mà dùng chữ ‘giải oan’. Ngoài đời người ta tẩy oan bằng rượu. Trong chùa, chúng ta biết rượu đã không những tẩy oan không được mà còn gây thêm những oan ức khác. Uống rượu rất nguy hại. Rượu gây oan ức cho lá gan của mình rất nhiều. Hơn nữa, muốn làm một lít rượu thì phải có cả một thùng lúa nếp; lấy một thùng lúa nếp để làm một chai rượu thì tội nghiệp cho những người đói lắm! Người ta đói không có gạo ăn mà mìn lại lấy gạo làm rượu! Tẩy oan như vậy thì lại càng gây oan thêm. Phương pháp của người tu là giải oan chứ không phải là tẩy oan. Giải là mở ra, không buộc lại. Tẩy oan theo kiểu người đời thì lại cột thêm. Ví dụ: giết những người đã làm cho mình khổ là tạo ra oan hồn trong giới con cháu những người đó; họ sẽ tìm cách trả thù. Không giải được oan mà lại kết oán. Sau này Từ Hải và Thúy Kiều sẽ chết vì cái đó! Phương pháp là giải (mở) chứ không phải là kết (buộc vào.)
Nhân cơ hội binh sĩ đang nức lòng như vậy, Từ Hải tổ chức những cuộc hành quân lớn. Đánh đâu thắng đó và thiết lập một triều đình độc lập ở phương Nam:
Đoạn văn rất mạnh! Tuy là thơ lục bát nhưng hơi văn đi như gió nói lên được khí thế của quân lực Từ Hải. Liên tiếp thắng hết trận này đến khác như ‘trúc chẻ ngói tan.’ Quý vị đã từng chẻ tre chưa? Khi chẻ tre người ta đặt cây tre nằm thế ngang, để mũi rựa giữa thân tre và dùng dùi cui đánh vào cán rựa. Rựa đi vào thân tre làm thành những đường nứt rất tự nhiên, ‘dễ như chẻ tre.’ ‘Ngói tan’ cũng vậy; khi những viên gạch ở lớp dưới của mái nói rớt ra, rơi xuống thì những lớp ngói phía trên tiếp tục rơi, rơi cho đến hết mái ngói thì thôi. Chiến thắng này dễ dẫn đến những chiến thắng khác. Thua một trận rồi thì có thể thua những trận kế tiếp rất mau.
Trong mấy ngày thôi quân binh của Từ Hải đã chiếm được năm quận huyện thuộc vùng biển (hải tần) của nước Minh. Cố nhiên vùng này có rất nhiều dân đánh cá. Nghe nói Từ Hải cũng xuất thân từ giới anh chị của làng đánh cá. Từ thiết lập một quốc gia độc lập trong suốt năm năm, quan quân nhà Minh không làm gì nổi. Thúy Kiều, như vậy, được Từ Hải che chở, sống với chức vị hoàng hậu trong năm năm. Khổ thì khổ nhưng cũng có những giai đoạn được che chở và có quyền hành. Tuy vậy, Từ Hải không gọi Kiều là hoàng hậu mà luôn gọi là phu nhân; Kiều thì gọi Từ Hải là Đại Vương. Họ không hành quân thêm, chỉ giữ vững vùng đất này trong suốt năm năm. Trong năm năm đó cô nàng có hạnh phúc hay không? Ta có thể tự trả lời được. Chúng ta không nghe nói hai vợ chồng có giận nhau, có cãi nhau, có hóa giải nội kết không, nhưng chắc chắc đó là năm năm tương đối yên ổn của Thúy Kiều. Có những chi tiết cho ta biết Từ Hải rất kính Thúy Kiều, biết nghe những lời khuyên nhủ của Kiều và coi Kiều là một trong những cố vấn chính trị quan trọng nhất của ông. Trong những cuộc luận đàm về phương diện quân sự và chính trị với các tướng, dù là đàn bà Kiều vẫn được tham dự. Tiếng nói của Kiều luôn luôn là một tiếng nói rất quan trọng.
HẠNH PHÚC LÀ TỰ DO
Trong một quốc gia mà lại có một quốc gia tự trị, đó là một cái gai lớn cho triều đình. Bao phen triều đình nhà Minh đã đi tìm những phương pháp để dẹp đi sự nổi loạn đó nhưng không thành công. Chính trị gia Hồ Tôn Hiến xuất hiện. Vị tổng đốc có địa vị quan trọng trong triều đình này được vua nhà Minh giao phó trách nhiệm dẹp trừ cái quốc gia nhỏ bé này. Chấm dứt giai đoạn năm năm yên ổn của Thúy Kiều. Đây là tai nạn lớn nhất, đưa Thúy Kiều đến chỗ tận cùng đến chỗ tận cùng của đau khổ trong đời cô và dẫn cô đến chổ phải tự tử. Chỉ khi nào chết rồi mới có thể tái sanh được. Cố nhiên Thúy Kiều tự tử không chết, cô sẽ được cứu. Nhưng trong kiếp người thế nào chúng ta cũng phải chết một lần, và phải chết thật thì chúng ta mới có thể sinh ra lại được với sự an lạc. Cái đau khổ cùng cực mới đem lại sự tái sinh của chúng ta. Mới đau khổ sơ sơ thì chưa nhằm nhò gì! Phải đau khổ cho cùng cực. Và khi đụng tới cái đáy của khổ đau, chết đi, sống lại thì mới thấy được niềm an lạc chân thật nảy sinh ra. Ngôn ngữ này rất quen thuộc trong nhà thiền. Nếu không chết, chỉ mới ngất ngư thôi, thì không thể nào tái sinh được Phải chết trong tâm hồn, trong đau khổ của mình. Luân hồi có chết thì giải thoát mới sinh ra được.
Thám tử triều đinh làm việc rất giỏi. Họ biết Từ Hải không phải là một tay anh chị Cầu Muối tầm thường. Từ là một người có nhân cách, chí khí, có tư cách anh hùng. Không thể dùng phương pháp dọa nạt và bạo lực mà có thể thành công. Họ cũng biết Thúy Kiều được tham dự vào những buổi bàn luận bí mật về quân sự và chính trị. Rất khó giải quyết vấn đề nếu ta không biết rõ tình trạng và tâm lý những người trong cuộc.
Hồ Tôn Hiến lập ra chước chiêu an, gửi sứ giả sang kêu gọi Từ Hải ra hàng và hứa sẽ phong cho chức tước lớn. Một mặt khác họ chuẩn bị quà cáp riêng cho Kiều:
Theo nguyên lục, ban đầu Hồ Tôn Hiến gửi một viên quan nhỏ tên là Hoa Nhâm tới để dò hỏi. Từ Hải giận nói: ‘Ta đang có thanh thế. Tuy không có mở mang bờ cõi dựng nước, nhưng ai có thể cấm ta xưng Vương, xưng Đế, xưng Cô, xưng Quả? Ngươi muốn ta về hàng để làm con chó, con trâu của người khác sao?’ và tính đem Hoa Nhâm ra chém. Kiều can; Từ nghe lời tha cho Hoa Nhâm. Tiếp đó, Hồ Tôn Hiến sai một viên quan lớn hơn, tên La Trung Quân, đem lễ vật rất hậu tới. Trong đó, có một trăm ngàn lạng bạc, ba ngàn lạng vàng, gấm vóc, đan ngọc và hai người thế nữ gốc gác từ Kinh đô (những cô thế nữ vùng ven biển không thể so sánh với những phụ nữ từ Kinh đô) làm quà riêng cho phu nhân Vương Thị (Vương Thúy Kiều.) Khi tiếp đón La Trung Quân, Từ Hải không muốn nhận lễ, trái lại muốn đuổi về vì trong lòng ông đã có niềm nghi:
Nguyên lục nói: Một người đã tự do quen rồi mà bị đưa về câu thúc một chỗ thì rất khó chịu; không những lúng túng khó chịu mà chức phận cũng không ra gì (nhiều lắm là chức Tổng Binh). Mất hết cả tự do, nhân cách. Là quan võ thì thế nào cũng bị các quan văn lấn ép, đàn hạch (chỉ trích, kết tội). Sống như vậy khổ lắm nên Từ Hải nhất định không hàng. Từ Hải rất tự tin vào khả năng của mình và rất trân quý cái tự do của một chàng hiệp sĩ.
Vua Minh Mạng rất mê truyện Kiều. Một hôm, trong khi tiếp các quan, vua gọi thi sĩ Nguyễn Du (hồi đó đang làm quan dưới triều Nguyễn) nói: ‘Khanh viết như vậy là không được! ‘Chọc trời quấy nước mặc dầu, Dọc ngang nào biết trên đầu có ai!’ viết như vậy là không có lễ phép gì với trẫm cả! Trên đầu phải có vua chứ! Vì vậy ta phạt khanh.’ Vua bảo quân hầu mang rượu ra và phạt thi sĩ uống ba chén. Ngày xưa người ta phạt nhau bằng rượu. Nhiều người ưa ‘được’ phạt lắm! Sau này khi thi sĩ uống ba chén rượu rồi, vua lại bảo: ‘Nhưng mà hay! Phạt thì phạt nhưng thơ rất hay! Vì vậy trẫm thưởng cho khanh.’ Và vua truyền quân hầu mang ba tấm lụa tặng thi sĩ về may áo mặc cho ấm. Giai thoại này được truyền tụng đến ngày nay. Vua Minh Mạng cũng chịu chơi lắm!
Điều chúng ta muốn nhắc ở đây là Từ Hải biết hạnh phúc của mình nằm ở chỗ tự do nhưng vì lời nói của Kiều rất ‘mặn mà’ cho nên Từ không thấy được điều đó nữa và chuyển sang một quan niệm khác về hạnh phúc; cái hạnh phúc không tự do! Là những người tu hành, chúng ta nên suy ngẫm. Chúng ta đi xuất gia để có tự do, Hạnh phúc của chúng ta là có tự do. Tự do với độc lập đi chung. Có độc lập, có tự do thì mới có hạnh phúc. Ta đừng nên quên điều đó. Cạo đầu, mặc áo thầy tu, đi xuất gia là cũng như Từ Hải, biết rằng hạnh phúc của mình hoàn toàn được căn cứ trên sự tự do của mình. Đôi khi có những tiếng mời gọi, những điều hấp dẫn, đôi khi thấy tự do lớn quá, ta không sử dụng nổi tự do của ta, ta nói: ‘Thôi, tự do mệt quá! Bây giờ tôi chỉ muốn làm nô lệ!’ Làm nô lệ cho một người, làm nô lệ cho một gia đình… Điều này có thật. Hạt giống của sự nô lệ có mặt trong tất cả mọi người. Trên phương diện trí tuệ, chúng ta biết tự do thênh thang là nền tảng của hạnh phúc. Nhưng đôi khi, thấy tự do thênh thang, ta mệt quá, ta muốn làm nô lệ, muốn chui vào hoàn cảnh nô lệ. Trong mỗi chúng ta đều có anh chàng Từ Hải và cô nàng Thúy Kiều. Chúng ta phải cẩn thận. Có bao nhiêu thầy và sư cô trẻ đang có tự do thênh thang của người xuất gia: ‘Nhất bát thiên gia phạn, Cô thân vạn lý du’ vậy mà tự nhiên đầu hàng, chui vào chỗ mất tự do. Sau một vài năm thì mới thấy rõ mình đã đi lún quá sâu trong con đường mất tự do. Lúc đó đã quá trễ rồi! Một đã luân hồi thành bốn, thành năm, thành sáu rồi! Làm sao có tự do được nữa! Trong khi đang còn là người xuất gia, đang có sự tự do mà có người không thấy được sự quý báu của tự do, không thấy được hạnh phúc của chính mình! Ta nghĩ: ‘Ôi, hạnh phúc thay nếu ta được làm nô lệ!’ Nô lệ cho một người, cho một nhóm người. Đó không phải là chuyện của một ngày. Hạt giống nô lệ có sẵn trong lòng mọi người. Có sẵn trong Từ Hải, có sẵn trong Thúy Kiều. Vì vậy chúng ta phải lòng tự xét lòng: ta phải biết. Chúng ta thường đứng núi này trông núi nọ mà không thấy được những hạnh phúc và những mầu nhiệm của giờ phút hiện tại.Ta cứ nghĩ đứng núi bên kia chắc sướng hơn đứng núi bên này. Có một sư cô ra đời, cùng với người kia sản xuất ra bốn trự. Một mà luân hồi thành sáu! Lúc ấy mới thấy cuộc đời trầm luân, nặng nề quá cỡ! Đến khi vượt biên họ viết thư cho tôi nói: ‘Thầy ơi! Chúng con bây giờ là sáu đứa lận. Làm sao khi chúng con qua bên đó Thầy cho chúng con đi xuất gia lại hết thảy sáu người!’ Sức mấy! Một người mà còn chưa nắm vững vận mệnh được, bây giờ sáu người… rất khó! Đọc bài Phóng Cuồng Ca của Tuệ Trung Thượng Sĩ chúng ta mối thấy tự do là cái quý nhất trên đời. Tự do đó đưa chúng ta tới hạnh phúc chân thật. Và khi chúng ta có hạnh phúc, chúng ta mới có thể ban phát hạnh phúc cho những người khác. Còn nếu chúng ta không có tự do, không có hạnh phúc thì chúng ta không làm hạnh phúc được cho bất cứ một ai. Chúng ta chết chìm và kéo những người khác chết chìm theo chúng ta.
LÝ LUẬN CỦA TRÁI TIM
Đây là tâm lý của người đàn bà. Trong nguyên lục có những chi tiết có thể làm sáng thêm hai câu thơ này: Hai cô thế nữ rất khôn khéo, được huấn luyện rất kỹ để đóng vai trò dẫn dụ. Về phương diện hình thức thì là hai cô tỳ nữ với tất cả tài năng để phụng sự một vị đại phu nhân; về nội dung họ là hai tay gián điệp của triều đình. Ban đầu Từ Hải muốn trả về tất cả lễ vật rồi đuổi sứ về. Thúy Kiều nói: ‘Người ta có lễ độ, có lòng tốt, đem tới những tặng vật như vậy thì tại sao mình lại từ chối?’ Từ nghe lời, nhận lễ. Chính sự chấp nhận lễ vật đó mà phòng tuyến bị vỡ. Hai cô gián điệp lọt được vào tư thất của Kiều, đem tất cả sự khôn ngoan, miệng lưỡi của những người gián điệp để thuyết phục Kiều: ‘Phu nhân là một người con có hiếu. Ai cũng biết thành tích hiếu thảo của phu nhân, bán mình để chuộc cha. Một người có hiếu lại có Trung là một người hoàn hảo. Trung là trung thành với đất nước, triều đình. Các vị thánh đế đã khai sáng đất nước này. Đất nước đang hòa bình, lương dân đang sinh sống an ổn; vậy mà bây giờ vì chiến tranh loạn lạc, đất nước phải chia hai, người dân chết trong năm năm qua đã nhiều. Nếu phu nhân chấp nhận khuyên Đại Vương ra hàng là Trung với đất nước, là giải phóng cho lương dân khỏi nạn đao binh. Đại Vương sẽ được phong quan tước, còn phu nhân thì sẽ có cơ hội về đoàn tụ gia đình.’ Đoàn tụ với cha mẹ và hai em là một ao ước thâm sâu của Thúy Kiều. Mười lăm năm lưu lạc mà bây giờ lại có một cơ hội đoàn tụ gia đình. Bỏ qua thì uổng! Hai cô gián điệp đã động tới được ước muốn sâu sắc nhất trong lòng Kiều. Hai cô còn nói: ‘Khi công việc thành rồi thì quan Tổng Đốc sẽ dâng biểu xin vua ban hiệu Trung Hiếu Khả Phong cho phu nhân vì phu nhân đã cứu cho bao nhiêu sinh linh khỏi chết. Nếu phu nhân về thăm gia đình với danh hiệu đó thì chắc chắn gia đình sẽ hạnh phúc lắm!’ Hai cô nói rất khéo! Khiến cho Kiều hoàn toàn chấp nhận.
Ta nên biết rằng ta vốn có trí tuệ và khả năng xét đoán. Nhưng một khi ta đã để cho cái ước muốn trong lòng ta thắng rồi thì ta sẽ dùng mọi cách để lý luận theo ước muốn đó. Đôi khi lý luận rất hay, nghe xuôi tai hợp lý giống như ta đã tìm ra con đường của trí tuệ rồi nhưng kỳ thực, tất cả những lý luận đó đều vâng theo một ước muốn sâu sắc ở trong lòng. Khi ta đã ước muốn cái đó, nghĩ rằng ta chỉ có thể sung sướng thật sự khi đi theo con đường đó thì tất cả những lý luận của chúng ta sẽ được dùng để phục vụ cho ước muốn đó. Có vẻ như ta vừa có tình, vừa có trí nhưng kỳ thực chính là cái tình, cái ước muốn ở trong ta đóng vai trò chủ động. Lý luận của chúng ta đang làm vai trò biện hộ mà thôi. Chúng ta lý luận ngàn cách để chứng tỏ rằng lý luận của chúng ta là đúng. Lý luận đó không còn khách quan nữa. Đây là điều mà hầu hết chúng ta đều mắc phải. Khi tâm ta đã hướng về một hướng nào đó rồi ta quên hết mọi chuyện ở hướng đối diện. Đã muốn rồi thì lý luận đủ cách. Nghĩ rằng mình đã có trí tuệ, kỳ thật mình mất trí tuệ. Mầm mống của sự thất bại không phát sinh từ Từ Hải mà phát sinh từ Thúy Kiều. Thúy Kiều rất quan trọng với Từ Hải, hai người là một, cho nên một khi mầm mống ấy đã chiếm cứ được Thúy Kiều rồi thì nó lang sang Từ Hải rất dễ dàng. Cụ Nguyễn Du nói rằng Kiều ‘thật dạ, tin người’, bị lễ vật làm tối mắt và những lời nói ngon ngọt chinh phục. Nhưng cụ chưa thấy rằng ước muốn rất chính đáng của Thúy Kiều là được đoàn tụ với gia đình chính là động cơ thúc đẩy Kiều khuyên Từ Hải ra hàng. Trong chúng ta cso biết bao nhiêu người xa quê, lưu đày. Chúng ta có hạt giống mong ước trở về quê hương, đoàn tụ với cha mẹ, con cái, thấy được mồ mả của tổ tiên… Ai cũng có hạt giống đó. Thúy Kiều ngày xưa cũng vậy. Chúng ta hãy cẩn thận. Trong Từ Hải có trí tuệ nhưng cũng có tình cảm. phần tình cảm đã bị trấn ngự bởi Thúy Kiều. Ta nên biết phần tình cảm nhiều khi mạnh hơn phần trí tuệ rất nhiều. Những suy nghĩ, phản ứng của Từ Hải ban đầu rất rõ ràng, minh bạch nhưng vì ảnh hưởng của Thúy Kiều mà những đám mây đen bắt đầu giăng phủ. Từ Hải bắt đầu không thấy được sự thật một cách rõ ràng và khách quan nữa.
Kiều tự dùng những lý luận của trí tuệ để che lấp cái ước muốn sâu sắc của mình: ‘Bây giờ ta phải đi con đường của chánh đạo. Ta đã là con gái Hiếu. Bây giờ ta cũng muốn trung nữa (vì theo đạo lý Khổng Mạnh phải vừa Hiếu vừa là Trung thì mới là một con người toàn vẹn.) Hơn nữa, đây là con đường bất bạo động. Tôn trọng sự sống của sinh dân. Chấm dứt chiến tranh. Đi theo con đường này thì không những ta hạnh phúc mà bao nhiêu dân chúng trong nước cũng được hạnh phúc. Không còn cảnh nhà tan, cửa nát.’ Lý luận rất đúng, rất hoàn hảo. Nhưng dầu sao đó cũng là lý luận phát sinh từ ước muốn của cô là được đoàn tụ gia đình. Đó không phải là một ước muốn bậy. Chúng ta không lên án ước muốn đó. Chúng ta chỉ nhìn kỹ để thấy rằng tất cả những lý luận coi như tuyệt hảo đó phát xuất từ một ước muốn mà thôi. Ta chỉ cần thấy điều đó. Và ta cũng sẽ thấy được những tai họa và hiểm nguy đang chờ ta. Có những trường hợp ước muốn thúc đẩy không được chính đáng. Nếu là người khôn khéo, chúng ta tìm những lý luận tuyệt vời, đến các luật sư cũng đều phải bó tay, chấp nhận lý luận của chúng ta; vì đó là lý luận của trái tim: ‘Le coeur a ses raisons que le raison ignore!’
Đó là giấc mơ mà Kiều muốn thực hiện. Bây giờ Kiều đem lý luận ra để chinh phục Từ Hải:
Kiều hỏi: ‘Đại Vương nghĩ sao? ‘Từ Hải nói: ‘Không hàng thì có ba điều lợi. Một là muốn hành quân, đánh phá đâu cũng được, không có ai ngăn cản mình. Hai là muốn có thêm ngân quỹ, vàng bạc, lụa là gì cũng được dễ dàng. Ba là nếu thắng trận thì mình có khả năng tiến tới, không tiến được thì đóng binh rút về căn cứ, mình ở trong tư thế chủ động. Đó là ba điều thuận lợi của lập trường không hàng. Nếu hàng thì có năm điều hại. Thứ nhất là nhận sắc phong của vua, nếu quan hơi có lỗi lầm một chút thì bị vua trừng phạt. Thứ hai là sẽ bị các quan, nhất là phía quan văn, sai khiến, đàn hạch. Thứ ba là mình có thể sẽ bị dời đi nơi khác, bị cô lập hóa; khi đó thế mạnh nằm trong tay triều đình, mình có thể bị bắt giết bất cứ lúc nào. Thứ tư là một khi mình không nắm quyền bính trong tay thì chỉ cần được một vị quan văn sai khiến, bất cứ một tên lực sĩ nào cũng có thể nữa đêm tới gõ cửa nhà là bắt mình được mình. Thứ năm là dân chúng trong vùng biển này thế nào thế nào cũng có người khổ vì chiến tranh do mình gây ra, thừa lúc mình không có thế lực và binh quyền sẽ tìm cách trả thù báo oán. Đó là năm điều hại.’ Từ Hải lý luận khá rõ ràng. Nhưng Kiều đã bị ước muốn kia trấn ngự nên lý luận rất hay (theo nguyên lục); ‘Nếu mình nhận sắc phong của vua mà không tiếp nhận một chức quan thì làm sao có thể phạm lỗi được? Thứ hai là nếu nhận chức quan có tính cách chức vị (nominal), ngồi chơi xơi nước thôi, không chịu sự sai khiến thì làm sao đàn hạch, hỏi tội được? Thứ ba là nếu hàng nhưng ra điều kiện là vẫn được ở chỗ hiểm yếu của mình, không bị dời căn cứ, không phải đi vào chầu trong triều thì làm sao lính vua có thể bắt được mình? Thứ tư mình có thể chấp nhận không gây chiến tranh, quy thuận triều đình, theo lệnh của vua nhưng vẫn giữ quyền bính của mình. Mình án binh bất động nhưng thế mạnh vẫn thuộc về mình. Thứ năm là mình vẫn có quyền bính, không chống triều đình, những kẻ sĩ dân trong vùng có trả thù muốn báo cũng không làm gì được. Hàng không những không có năm điều hại mà có năm điều lợi.’ Rất có biện tài. – Và hơn nữa là vợ của Từ, (điều này cô ta không nói), sẽ có thể được về thăm gia đình với bảng hiệu ‘Trung Hiếu Khả Phong’, cờ lọng đầy đủ! Đó là giấc mơ của Thúy Kiều. – Từ Hải nghe lọt tai.
– ‘Chúng ta đã giết hại sinh linh nhiều rồi! Và trên nguyên tắc: ‘Được làm vua, thua làm giặc’, nếu Đại Vương chiếm hết được cả nước thì Đại Vương mới làm vua, còn chiếm một phần của nước thì đến khi chết người ta vẫn gọi mình là giặc, như Hoàng Sào. Chi bằng ta tiếp nhận chức tước của triều đình. Công danh của chúng ta mấy ai có thể qua mặt được?’ – Đứng về phương diện Nhân, Nghĩa, Hạnh Phúc, tất cả lý luận của Thúy Kiều đều tuyệt hảo cả. Chỉ có một điều ta cần nhớ là tất cả những lý luận đó đều đến từ ước muốn của cô nàng chứ không phải từ nhận thức khách quan.
Từ Hải đã biết rõ hạnh phúc của mình nằm ở chỗ tự do, rằng: ‘Bỏ thân về với triều đình, Hàng thần lơ láo phận mình ra đâu! Áo xiêm ràng buộc lấy nhau, Vào luồn ra cúi công hầu mà chi!’ Vậy mà:
Trong nguyên lục không nói chuyện giải binh mà nói hàng với điều kiện không giải binh. Khi Hồ Tôn Hiến gửi một vị phụ tá có tài ngoại giao lớn tên là Lợi Triện sang thương thuyết nữa, Từ Hải nói: ‘Nếu tôi hàng thì quý vị cho tôi chức Tổng Binh là cùng chức gì! Chức tước trong triều nhiều lắm là lên tới nhị phẩm. Các quan văn trong triều sẽ coi tôi ra gì đâu! Tôi là dân nhà binh, tự do quen rồi, làm sao nép phục dưới mấy ông đó!’ Lợi Triện đáp: ‘Một khi Đại Vương quy thuận triều đình thì sẽ được phong tước Hầu. Hai là được trấn tại đây, không bị đổi đi nơi khác. Ba là không giải binh, không buông quyền bính, được dùng quân trong vùng này.’ Lợi Triện hứa: ‘Ba điều kiện đó chắc chắn được chấp nhận!’ và về báo cáo lại với Hồ Tôn Hiến. Hồ Tôn Hiến nói: ‘Như vậy thì nên tổ chức uống máu ăn thề với Từ Hải rồi quyết định ngày giờ thực hiện việc quay về với triều đình ngay tại đại bản doanh của Từ Hải (không bắt Từ Hải ra khỏi vùng của mình.)’ Người thân tín của Hồ Tôn Hiến là quan Lợi Triện cùng Từ Hải lập bàn thờ uống máu ăn thề, hứa sẽ thi hành hiệp ước đó, làm không đúng lời sẽ bị trời tru đất diệt. (Ngày xưa chuyện thề thốt quan trọng lắm!)
BẤT Ý THƯA CƠ
Sau khi Lợi Triện và Từ Hải đã uống máu ăn thề, định ngày chính thức ra hàng rồi, Từ Hải thấy viễn tượng tương lai của mình là được phong tước Hầu, nắm giữ binh quyền và được triều đình chấp nhận. Tất cả những chàng lính trong quân đội Từ Hải đều thấy viễn tượng được về thăm gia đình. Ý chí chiến đấu không còn. Tác giả dùng tám chữ: ‘Ngọn cờ ngơ ngác trống canh trễ tràng.’ Rất hay! Chỉ cần tám chữ là thấy được tình trạng bê hối của quân ngũ Từ Hải. Và cố nhiên, điều này không lọt qua mắt của thám báo triều đình:
Đây là câu lục bát toàn chữ Hán, không có chữ Nôm.
Theo nguyên lục, Hồ Tôn Hiến mặc áo mão triều đinh, đi dưới những cây lọng, phía trên có một lá cờ lớn thêu bốn chữ ‘Đại thiên chiêu phủ’. Hồ dẫn theo ba đạo binh đi phía Bắc, phía Nam và tập hậu. Đoàn quân phía trước hoàn toàn không có khí giới, chỉ có nghi lễ và âm nhạc.
Từ Hải mặc lễ phục của đại quan đi bộ ra đầu hàng, trong tay hoàn toàn không có một tấc sắt.
Khi nghe tiếng pháo lệnh và thấy địch quân reo hò ập lại từ ba phía, Từ Hải biết mình đã trúng kế. Không có ngựa để chạy trốn. Từ quay lui, cướp giáo của một địch quân, tả xung hữu đột, giết hàng chục quân sĩ và một viên tùy tướng của triều đình. Thấy Từ ghê gớm quá, phía triều đình nới vây, không dám đánh trực tiếp với Từ nữa mà dùng cung tên. Từ Hải bị tên nhắm bắn từ bốn phía, toàn thân bị tên cắm đầy như một trái chôm chôm.
Nỗi oan ức của Từ Hải lớn quá. Thác rồi mà khí uất vẫn còn khiến thân Từ đứng sững như một pho tượng đồng, không chịu ngã ra. Trước khi chết Từ Hải la lên: ‘Phu nhân làm ta lầm!’
Quân triều đình thừa thế đuổi theo, chém giết, tiêu diệt những đạo quân còn lại của Từ Hải. Rất tội nghiệp! Người ta đã chịu hàng rồi mà lại giết người ta và giết tất cả quân lính của người ta. Nói cái giọng: ‘để tránh chuyện binh đao, tôn trọng sự sống của dân chúng’ chẳng qua chỉ là nói dối mà thôi. Người ta đã hàng rồi mà không cho người ta cơ hội để hàng.
Một số binh sĩ dắt Kiều tới chỗ Từ Hải vừa chết.
Tương triền là quấn quít lấy nhau. Trong Từ Hải có oan khí, trong nàng Kiều cũng có oan khí đó. Và vì vậy, Từ Hải ngã xuống như một người chết bình thường khi Kiều tới gieo đầu xuống chân Từ Hải tự tử.
Hồ Tôn Hiến nói: ‘Đã đành sự thành công này là do kế hoạch của triều đình, nhưng nói về công trạng thì không có nàng việc lớn không thành. Nàng có công, vậy nàng muốn được thưởng như thế nào?’
‘Kiểu táng’ (hay cáo táng) là bọc cỏ mà chôn, nghĩa là chôn một cách sơ sài, dối trá.
HẾT KIẾP ĐOẠN TRÀNG
Bị bắt chơi đàn góp vui cho quân thắng trận, đây cũng là một trong những giờ phút đau khổ nhất của đời Kiều.
Cứ lâu lâu, thi sĩ lại cho ra một câu thần sầu quỷ khốc! Tất cả những đau khổ cùng cực của Thúy Kiều biểu lộ hết trong bản đàn.
Đang say, đang vui mà nghe khúc dạo nhạc đó Hồ Tôn Hiến cũng phải khóc!
Ngày xưa Kiều sáng tác khúc Bạc Mệnh. Cái bạc mệnh ấy trong giờ phút này được phát hiện quá rõ ràng!
Nhìn vào người đàn bà đang đau khổ cùng cực ấy Hồ Tôn Hiến vẫn thấy nàng rất đẹp. Đẹp một cách não nùng! Bị nhan sắc của Kiều chinh phục, Hồ Tôn Hiến nói: ‘Thôi đừng khóc nữa! Tôi sẽ cưới cô làm vợ lẽ.’ Ông quan lớn này đã say lắm rồi! Say vì rượu, say vì sắc đẹp não nùng của Kiều. Quan lớn là người chiến thắng nhưng trong tiệc rượu này ông lại thua trận rát thảm hại. Giữa mặt quan quân đông đảo hàng ngàn người, Hồ Tôn Hiến đã khoác vai Thúy Kiều múa, trong tay cầm một ly rượu. Đó là những chi tiết đọc thấy trong nguyên lục mà truyện Kiều của cụ Nguyễn Du không có.
Đó là hai câu lên án quan lớn đại diện cho triều đình. Đã chiến thắng nhưng nhân cách lại không ra gì.
Kiều từ chối, bày tỏ sự đau khổ của mình và chỉ có một thỉnh nguyện duy nhất là được về đoàn tụ với gia đình. Nhưng quan lớn đâu có nghe được điều đó. Quan lớn đâu có để ý tới khía cạnh nhân đạo nữa. Quan đã say lắm rồi! Say rượu và say sắc dục. Quan lớn đâu có thể nghe được tiếng kêu cứu của Thúy Kiều và ước vọng duy nhất còn lại của Kiều là được trở về với cha mẹ.
Sáng tỉnh dậy, nhớ lại những chuyện xảy ra tối hôm trước, Những chuyện mà nhìn vào người ta có thể đánh giá mình rất thấp. Hồ Tôn Hiến biết mình đã đi quá mức của một vị quan lớn đại diện cho triều đình. Sợ bị khiển trách và chê cười, Hồ đi tới một giải pháp rất mãnh liệt và chớp nhoáng:
Ép gả Thúy Kiều cho một viên quan địa phương (từ thổ quan dùng để chỉ cho các quan người địa phương, cai trị những vùng dân tộc ít người.)
Thấy con đường trước mặt của mình mờ ảo và hứa hẹn nhiều khổ đau, Kiều thấy mình hoàn toàn lạc hướng, không biết sẽ di về đâu. Không còn có một năng lượng, một trí tuệ nào để dẫn mình đi trên con đường đời nữa hết!
Đây là tâm trạng của những người sắp tự tử. Kiều thấy đời sống không còn có ý nghĩa nào nữa cả, sống không có niềm vui, chết là khỏe hơn. Trong truyện Ngu Sơ Tân Chí, bức thư của nàng Tiểu Thanh có câu: ‘Vị tri sanh lạc, yên tri tử bi.’ (Nếu ta không thấy niềm vui trong khi sống thì làm sao ta có thể biết rằng chết là đau khổ?) Đối với những người dã thấy được niềm vui trong sự sống thì họ có thể nghĩ rằng cái chết là khổ đau; nhưng đối với những người mà trong cuộc sống không bao giờ thấy niềm vui cả thì cái chết đôi khi lại là một con đường giải thoát. Đó là tâm trạng người sắp tự tử. Khi nào chúng ta lâm vào sự suy nghĩ như vậy thì chúng ta biết ý định tự tử đã được nhen nhúm trong con người mình.
Trăng đã sắp lặn rồi mà chuyện ‘chết hay không chết’ (to die or not to die) vẫn còn lẩn quẩn trong Kiều. Đi, dứng, nằm, ngồi. Kiều đều bị tư tưởng đó khuấy động.
Nghe hai chữ ‘Tiền Đường’ Thúy Kiều nghĩ ngay tới Đạm Tiên. Mười lăm năm trước, trong một lần tự tử không chết, Kiều nằm mơ thấy Đạm Tiên và được Đạm Tiên hẹn sẽ gặp lại ở sông Tiền Đường. Kiều không còn suy nghĩ gì nữa, nghĩ rằng đây là lúc mình phải chết. Trước đó: Mảnh trăng đã gác non đoài, Một mình luống những đứng ngồi không yên’ là chưa giải quyết được vấn đề “chết hay không chết?’ Nhưng khi nghe tiếng sóng và biết đây là sông Tiền Đường rồi thì không còn vấn đề suy nghĩ nữa. Chắc chắn là chết vì đây là một điều tiền định!
Ở đây chúng ta nên nhớ rằng: đứng về phương diện tâm lý, khi con người sa vào thế giới của bi quan và đen tối rồi thì họ quên tất cả những điều ngược lại. Cách đó năm năm, Kiều gặp sư chị Giác Duyên cho biết Tam Hợp đọa cô tiên đoán trong năm năm tới hai chị em sẽ được gặp lại. Kiều tin chắc điều này sẽ xảy ra; ‘Đã tin điều trước ắt nhằm việc sau.’, ‘Lời sư đã dạy ắt là chẳng sai.’ Nhưng trong giờ phút này Kiều chỉ nghĩ đến chuyện gặp Đạm Tiên (nghĩa là chuyện chết) thôi, còn chuyện sẽ được gặp Giác Duyên thì cô quên hẳn. Trong những lúc lâm vào tình trạng đen tối, ta chỉ tiếp xúc được với những hạt giống và chất liệu đen tối bên trong và xung quanh ta thôi. Còn tất cả những hạt giống đẹp đẽ, tươi mát, tích cực ở trong và xung quanh thì ta không thấy. Cái hoa tươi đẹp vậy mà mình không thấy. Màu trời xanh mầu nhiệm như vậy mà mình không thấy. Đối với mình cái gì cũng đen tối hết. Đen từ bên trong đen ra. Lâm vào tình trạng đen tối của tâm hồn ta thấy người nào cũng xấu, cũng dễ ghét. Trời đất cũng dễ ghét luôn! Không có gì tích cực, không có gì tươi mát, không có gì đáng sống hết! Chỉ có cái đen trong mình là có thật thôi! Đây là điều đang xảy ra cho Thúy Kiều. Là người tu, khi lâm vào tình trạng đen tối, ta phải tự nhắc mình rằng đây chỉ là tình trạng chốc lát, nhất thời. Trong bản thân ta và xung quanh ta vẫn có những cái rất mầu nhiệm mà ta không tiếp xúc được trong giây phút này. Ta phải nhờ những người anh, người chị, người em kéo ta ra khỏi tâm trạng đen tối đó. Vì vậy tu là phải tu với tăng thân. Bất cứ người nào trong chúng ta cũng thỉnh thoảng rơi vào tình trạng đen tối. Nếu ta không có một sư anh, sư chị, sư em giúp ta vượt thì ta có thể lún rất sâu vào tâm trạng này. ‘Con về nương tựa Tăng’ là chỗ đó. Tu mà không có tăng thân thì không thể thành công được. Và ngược lại, khi thấy một người sư anh, sư chị, sư em mình đang ở trong tình trạng đen tối, ta phải tìm cách kéo người ấy ra khỏi. Đó là bổn phận của chúng ta, một phần từ trong tăng thân. Đừng để người kia lún sâu vào tình trạng đen tối. Người đó có thể đang bệnh, thể xác yếu đuối. Thể xác yếu đuối đưa tới những tư tưởng đen tối. Ta phải làm thế nào để gần gũi, ưu ái, giúp người ấy thoát ra khỏi tình trạng ốm yếu của thể xác và tinh thần. ‘Con về nương tựa Tăng’ rất quan trọng. Ta phải tu với tăng thân, có anh, có chị, có em để nương tựa.
Đáng lý lúc đó Kiều phải nghĩ tới Giác Duyên, và phải nói: ‘Sư chị ơi! Sư chị hẹn gặp lại em mà bây giờ sư chị ở đâu? Sư chị Giác Duyên là người Kiều rất thương và tin cậy. Sự thật, lúc đó Giác Duyên đang đi tìm Thúy Kiều. Nhưng Thúy Kiều đâu đi tìm Giác Duyên! Thúy Kiều chỉ muốn đi kiếm một con ma thôi! (ma Đạm Tiên.) Trong Kinh Lăng Nghiêm Bụt dạy: ‘Thập phương Như lai lân niệm chúng sanh như mẫu ức tử. Nhược thử đào thệ tuy ức hà vi? Tử nhược ức mẫu như mẫu ức thời, tử mẫu lịch sanh bất tương vi viễn. Nhược chúng sanh tâm ức Phật niệm Phật, hiện tiền đương lai tất định kiến Phật, khứ Phật bất viễn.’ Nghĩa là: Các đức Như Lai mười phương thương nhớ chúng sanh như mẹ nhớ con. Nếu con bỏ mẹ chạy trốn thì mẹ có nhớ cũng không đi đến đâu. Trong khi đó, nếu con cũng nhớ mẹ như mẹ nhớ con thì thế nào mẹ con cũng được gặp nhau. Nếu tâm chúng sanh nhớ Bụt, niệm Bụt, hướng về Bụt thì bây giờ và trong tương lai chắc chắc chúng sanh và Bụt sẽ được đoàn tụ. Ở đây, trong tâm trạng đen tối, Kiều chỉ nhớ tới ma Đạm Tiên và sự chết mà thôi. Không nhớ tới sư chị Giác Duyên và tất cả sự nhẹ nhàng, an tịnh, giải thoát mà sư chị biểu lộ. Chỉ ‘tìm những chốn đoạn tràng mà đi’, không tìm những chỗ thanh thản. Đó là trường hợp của nhiều người.
Trước khi tự tử Kiều vẫn có thói quen của thi sĩ, muốn làm một bài thơ để lại. Cụ Nguyễn Du không viết bài thơ ấy, nhưng trong nguyên lục đó là một bài thơ sáu câu sáu chữ:
Những người có sắc có tài là những người dễ bị đau khổ nhiều nhất! Đây là những giọt nước mắt của cụ Nguyễn Du nhỏ xuống để khóc cho Thúy Kiều mà cũng để khóc cho bản thân tác giả. Cụ Nguyễn Du là người có tài. Cụ đã từng thờ nhà Lê, sau này bắt buộc lại phải làm quan cho nhà Nguyễn. Cảm tưởng mình đã phụ bạc nhà Lê là một niềm đau trong lòng thi sĩ.
Thúy Kiều đã chết. ‘Trong cơ âm cực dương hồi khôn hay’ tức là khi cái âm (yin) đến chỗ sâu nhất thì cái dương (yang) bắt đầu sinh ra. Cái lạnh lẽo của mùa Đông từ từ hết thì cái ấm áp của mùa xuân từ từ sinh ra. sẽ có sự thay đổi!
– Quá trình tu học của chúng ta là quá trình chết đi để sống lại. Những đau khổ của kiếp người rất quan trọng. Đi tu không phải là để trốn tránh đau khổ. Đi tu có nghĩa là sử dụng tất cả những đau khổ của mình để chuyển rác thành hoa. Sự sống chân thật được làm bằng chất liệu của sự chết. Hạnh phúc chân thật được làm bằng chất liệu khổ đau. Những người nào trong chúng ta đã từng đau khổ thì đừng vì vậy mà buồn phiền. những đau khổ đó chính là chất liệu cần thiết để chúng ta có thể tạo dựng ra hạnh phúc và giải thoát, như những người làm vườn biết sử dụng rác để làm phân, biến rác thành hoa. Những người chưa đau khổ thì khó thành công hơn những người dã từng đau khổ. Nhưng khổ đau nhiều, tiếp tục chất chứa phiền não mà không biết phương pháp biến rác thành hoa thì mình có thể chết chìm trong đau khổ. Nếu thông minh, có thầy, có bạn thì với số lượng đau khổ mình có, mình có thể chuyển rác thành hoa dễ dàng. Và mình có thể thành công mau hơn những người chưa từng đau khổ hoặc chỉ mới đau khổ sơ sơ. Sự thực tập của chúng ta là mỗi ngày phải tập chết. Chết đi những vô minh, tham đắm, khổ đau để an lạc và giải thoát được bùng nổ. Đức thế tôn cũng đã trải qua chuyện chết đi sống lại này bao nhiêu lần trước khi thành đạo. Là học trò của Ngài, chúng ta cũng phải học chết. Mỗi khi ngồi thiền, chúng ta phải chết. Hãy để cho chúng ta chết để chúng ta có thể sống dậy được.
Thúy Kiều đã chết. Đây là một tin mừng của Thúy Kiều. Vì nếu không chết như vậy thì không sống trở lại được. Trong Thánh Kinh của Cơ Đốc Giáo cũng có tư tưởng này: ‘… si le grain de blé qui est tombé en terre ne meurt, il reste seul; mais s’il meurt, ol porte beaucoup de fruit.’ Hạt cây mà không chết thì cái cây không thể sanh ra được. Khi một hạt lúa được gieo xuống đất, hạt phải chết, nứt ra, tàn hoại thì mộng cây mới có thể trở thành cây con được. Tu hành ta đừng nên sợ chết. Trái lại, ta phải học chết mỗi ngày để cho sinh mệnh của giải thoát có thể thoát thai ra từ những đau khổ của chúng ta.
Ở CHO YÊN NGỒI CHO VỮNG
Bầu là bầu cam lộ; níp là cái túi để đựng Kinh Kim Cương. Hành lý của người tu chỉ có một cái bình đựng cam lộ và một túi đựng Kinh Kim Cương thôi. Vân du là vân thủy. Người tu là phải có tự do. Tìm về chỗ có mây nước, giải thoát và an lạc mà tới. Không chui đầu vào làm nô lệ. Hồi còn bé, tôi có được nghe giai thoại của một anh học trò nghèo và một vị xuất gia gặp nhau trên một chuyến đò. Ông thầy hình như vừa mới đi cúng về. Trong túi ông không biết có trăng gió hay không nhưng chắc chắn là có chuối có xôi (có oản). Anh học trò nghèo kiết xác mồng tơi than đói. Ông thầy lấy xôi, chuối mời. Anh ta rất mừng. Ăn xong, ông thầy hỏi: ‘Anh là học trò thiệt không mà ăn xôi, ăn chuối của tôi?’ -‘Dạ con là học trò thiệt mà, thưa thầy!’ – ‘Vậy anh làm cho tôi một bài thơ đi!’ Đây là bài thơ của anh học trò:
Tôi còn nhớ bài thơ này chỉ vì trong bài thơ có chữ ‘níp Kim Cương.’
Đạo cô Tam Hợp là người theo Lão giáo, có thể biết chuyện quá khứ và tương lai. Sư chị nói chuyện về Trạc Tuyền và hỏi về vận mệnh của cô. Chứng tỏ sư chị rất còn thương sư em.
‘Cỗi nguồn cũng ở lòng người mà ra’ là tư tưởng của Kinh Hoa Nghiêm: ‘Nhất thiết duy tâm tạo.’ Trời là cộng nghiệp; ta là biệt nghiệp. Chúng ta bị ảnh hưởng của cộng nghiệp nhưng chúng ta cũng chịu trách nhiệm với tư cách cá nhân. Nếu biết tu tập thì ta tọa ra phước đức; còn bị ràng buộc vào trong tình cảm thì ta tạo ra những oan nghiệp cho mình và cho người khác. Đó là lời thốt ra từ miệng một đạo cô.
Và bây giờ nhà đạo học đưa ra một sự phân tích về bản án của cuộc đời Thúy Kiều:
Thúy Kiều có sắc đẹp và thông minh nhưng lại thiếu những nhân tốt của cuộc đời. Vô duyên là không có duyên may mắn, trong quá khứ đã không gieo trồng những hạt giống tốt. Người ta thành công được không phải do tài năng của mình mà do sự may mắn. Sự may mắn không phải ngẫu nhiên mà đến. May mắn có nghĩa là những nhân duyên do mình hoặc cha mẹ ông bà mình đã gieo trồng trong quá khứ. Nếu chúng ta đã có duyên lành rồi tức là chúng ta may mắn hơn Thúy Kiều.
Nếu chỉ vô duyên thôi thì không đến nỗi gì. Thúy Kiều đã vô duyên mà lại còn thêm tội đa tình nữa! ‘Lại mang lấy mọt chữ tình. Khăng khăng mình buộc lấy mình vào trong.’ Mình tự buộc chứ có ai buộc mình đâu! ‘Xin cho tôi làm nô lệ! Tôi phát nguyện được làm nô lệ cho người suốt đời, đời này sang đời khác!’ Tự do không muốn, chỉ muốn làm nô lệ! Không ai buộc được mình hết, chỉ có một người có thể buộc được mình thôi: chính mình!
Hai nguyên do tọa nên bi kịch của Thúy Kiều: Thứ nhát, không có những hạt giống phước đức của kiếp trước. Thứ hai, mình tự cột mình vào trong vòng tình ái. Hai cái đó sẽ đưa Kiều tới đâu?
Dầu có được cơ hội đi vào những chốn tự do và thong dong thì Kiều cũng ở không yên ngồi không vững. ‘Vậy nên những chốn thong dong’ có nghĩa là Kiều đã có cơ hội đi vào những chốn thong dong. Chốn thong dong là chốn nào? Chốn thong dong là chốn có những người có thể bước những bước chân thảnh thơi, ngồi uống trà, ăn cơm có hạnh phúc, có thể ngồi yên từ giờ này sang giờ khác mà không cần phải bôn ba chạy đi đâu hết. Đã có duyên đi tới những chốn thong dong đó nhưng vẫn không thong dong được. Vẫn đi thì như ‘chó đạp phải lửa’189, vẫn ngồi như ngồi trên than hồng. Không tiếp xúc được với sự thong dong ở trong lòng mình và xung quanh mình. Cứ nhìn Làng Mai là chúng ta biết. Ở Làng Mai có những người an trú được. Họ ngồi yên được, uống trà được, nhìn mây, nhìn trời được. Họ nhận đó là quê hương của họ. Mỗi giờ phút họ có htể an an lạc và hạnh phúc. Nhưng có những người khác không làm như vậy. Không có khả năng ngồi, không có khả năng đi. Thấy chỗ này chưa phải là chỗ của mình. Chỗ của mình là chỗ khác, chỗ nào? Chỗ đoạn trường. Những lời của đạo cô Tam Hợp hay lắm!
Ở tức là trú (dwelling.) Ở không yên ổn’ tức là không an trú. Ngồi trên xe lửa mà không yên, ngồi trong thiền đường cũng không yên, ngồi trên bãi cỏ cũng không yên, ngồi ở cốc Ngồi Yên cũng không yên. Không có chỗ nào mà ngồi yên được. Ngồi trên than hồng thì làm sao vững vàng được! Chúng ta học: ‘Ngồi đây ngồi cội Bồ Đề, Vững thân chánh niệm không hề lãng xao.’ Sự thực tập của chúng ta là ở cho yên và ngồi cho yên. Chỉ có chừng đó thôi. Chúng ta học Kinh Hoa Nghiêm, giới luật, thở, thiền hành… là cốt để đi tới một cái đó: ngồi cho yên, ở cho yên và có hạnh phúc. Vì bất an nên chúng ta rong ruổi. Rong ruổi về quá khứ, rong ruổi về tương lai. Điều này không cần phải ai nói, chúng ta chỉ cần nhìn lại tâm chúng ta để thấy. Chúng ta có ngồi yên không? Chúng ta có khả năng uống trà, ăn cơm, nắm tay một người bạn, nhìn trời xanh, mây trắng, bước những bước chân thảnh thơi trên con đường thiền hành hay không? Chúng ta có chất liệu bất an của Thúy Kiều không? Nhiều hay ít, chúng ta đều có chất liệu ấy của Thúy Kiều. Tu tức là chuyển hóa chất liệu để có thể ở cho an ổn, ngồi cho vững vàng.
‘Vậy nên những chốn thong dong. Ở không an ổn ngồi không vững vàng’ là câu thơ tả được tâm trạng của nhiều người. Không có hạnh phúc vì không an trú được trong giây phút hiện tại: bây giờ và ở đây. Đi đâu cũng bất an: về Việt Nam cũng bất an, qua Mỹ cũng bất an, về Làng Mai cũng bất an… Nếu tâm ta an thì chỗ nào cũng là chỗ thong dong, chỗ nào cũng là tịnh độ, chỗ nào cũng là an lạc cả.
Tâm không an trú, không có khả năng ngồi ở Thiền Đường hay Tịnh độ thì phải đứng dậy để đi. Đi đâu? Đi vào những thế giới của đoạn tràng. Đoạn tràng là đứt ruột, đau khổ, ngũ thú, lục đạo. Ai dắt chúng ta vào những con đường u mê, những chốn đoạn tràng đó? ‘Ma đưa lối quỷ dẫn đàng.’ Ma quỷ này là những tâm hành tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến. La Hán có nghĩa là người phá ma. Ma ở đâu? Ở trong tâm chúng ta. Chính vì chúng ta không thể an trú được nên những con ma trong tâm xuất hiện, xui bảo chúng ta: ‘Mình ở chỗ này không được, phải đi tìm hoàn cảnh khác.’ Càng suy nghĩ càng bấn loạn trong tâm và tâm hành bất an xui hai chân ta phải chạy. Đó là những con ma đưa chúng ta vào những hoàn cảnh đen tối, đoạn tràng. Ta hãy đọc lại những câu này và phản chiếu lại nội tâm mình:
Dễ sợ! Những câu thơ như lột hết tâm can mình ra, chỉ cho mình thấy bản chất luân hồi, khổ đau và địa ngục nằm ngay trong chính con người mình.
Cố nhiên không có khả năng an trú được trong những chốn thong dong thì thế nào mình cũng gặp tai nạn. Tai nạn xảy ra ngay ở chỗ mà mọi người đang sống thong dong. Trong chỗ thong dong đó, người khác sống thong dong nhưng mình đâu có thong dong! Đạo cô tóm tắt cuộc đời đau khổ của Kiều, chung cục phải tự tử dưới sông trong cô đơn, im lặng (vắng tanh). Những đau khổ của mình, mình không thể nói cho ai nghe được.
Có tám chữ mà hay đến nước như vậy! Tất cả những khổ đau của mình không ai có thể hiểu được, chỉ có mình mới thấm thía được mà thôi; vì người khác không ở trong da thịt mình thì làm sao hiểu được!
Sống thì rơi xuống (đọa), chết cũng là bị đày. ‘Làm cho sống đọa thác đây’ là vì hai điều đã nói: vô duyên với Phật pháp, với sự an lạc và lại tự mình buộc lấy mình trong con đường của tình ái.
THẢ MỘT BÈ LAU
Nhưng đạo cô không nói một đời. Chỉ nói kiếp sống từ khi Thúy Kiều sinh ra cho đến khi Kiều chạm vào đáy đau khổ (hitting the bottom) phải tự tử ở sông Tiền Đường thôi.
Tuy bị ràng buộc trong vòng tình ái nhưng Kiều không phạm lỗi tà dâm. Đây là nói tới đêm đầu tiên Thúy Kiều được gần Kim Trọng. Hai người rất mê nhau nhưng Thúy Kiều nhất định không phạm giới thứ ba. Chính nhờ Thúy Kiều mà Kim Trọng không bị phạm giới tà dâm. ‘Giữ gìn cho tôi và giữ gìn cho anh. Để cho ngày hôm nay còn tươi sáng và để ngày mai chúng ta vẫn sẽ còn có nhau.’ Đó là một câu trong bài hát Hộ Trì Sáu Căn. Trong suốt mười năm lưu lạc, Thúy Kiều nhớ mãi hình ảnh đêm đó. Đó là một sự nâng đỡ rất lớn cho Thúy Kiều trong những lúc đau khổ. Nếu hai người phạm giới thứ ba trong đêm hôm đó thì Thúy Kiều đã mất một hình ảnh rất đẹp, không thể đem theo trong suốt mười lăm năm để chống đỡ với những đau khổ. Hành động bán mình chuộc cha của Kiều cũng là một hành động chuyển nghiệp rất tốt.
Hai câu này nói đến chuyện Từ Hải chết và cứu được muôn dân khỏi nạn đao binh. Chỗ này gượng ép vì Kiều đâu có muốn hại Từ Hải!
Đạo cô khuyên ni sư Giác Duyên làm một chiếc bè lau để đợi vớt Kiều ở sông Tiền Đường. Trong thời gian 1965-1966, đất nước Việt Nam đau khổ cùng cực vì chiến tranh. Tôi có cho đăng một đoạn Kiều này trong tờ báo Giữ Thơm Quê Mẹ mà tôi đang chủ trương lúc đó, lấy tên là Thả Một Bè Lau. Thân phận Việt Nam chua xót, đau khổ giống hệt thân phận Thúy Kiều. Khi thì phải đi với Pháp, khi thì đi với Nhật, với Mỹ… như một cô gái giang hồ. Đau khổ cùng cực! Từ tấm thân làm nô lệ đến tấm thân đi vào chiến tranh, không có gì khác nàng Kiều hết. ‘Thanh lâu hai lượt thanh y hai lần.’ Thanh y là bị làm đầy tớ, nô lệ cho nước ngoài. Thanh lâu là làm gái giang hồ. Mối tình với những chủ thuyết Đại Đông Á, Mác-Xít, Tư Bản… là mình buộc lấy mình. Tự nhiên, khi không mà tự buộc mình trong những chủ thuyết như vậy để khổ. Vương vấn vào những mối tình như vậy thì chỉ làm lớn thêm khổ nhau. Chiến tranh là do đâu? Do chỗ mình quấn mình vào những hoàn cảnh đó, đi đôi với những thế lực ngoại quốc đó. Mời quý vị đọc lại mà xem:
Đó không phải là số phận của riêng nàng Kiều. Đó là số phận của nước Việt Nam! Con đường thoát là con đường nào? Là phải tu. Không tu thì không thoát ra được. Phải nghe lời Tam Hợp đạo cô thả một bè lau. Cái bè lau cứu được số mạng nước Việt Nam là sự tu học. Nếu không tu thì không thể đưa đất nước ra khỏi tình trạng của Thúy Kiều. Hồi đó tôi đã thấy được rất rõ rằng chỉ có sự tu học theo con đường của chánh pháp mới có thể cứu được đất nước ra khỏi con đường khổ đau. Và tôi đã đăng đoạn thơ này lên báo Giữ Thơm Quê Mẹ với tên là Thả Một Bè Lau. Tất cả công việc chúng tôi làm trong thời gian đó là kêu gọi mọi người thương nhau, chấp nhận lẫn nhau, đi theo con đường của từ bi, xóa bỏ hận thù. Nhưng tiếng súng đã át tiếng thuyết pháp. Biết bao nhiêu người đi trên con đường của từ bi xóa bỏ hận thù đã bị giam cầm, tra tấn và áp bức.
Nếu quý vị thấy được tình trạng của đất nước và dân tộc và thấy được rằng chỉ có con đường tu học, từ bi hóa giải hận thù mới đưa đất nước ra khỏi giai đoạn đau khổ hiện tại thì quý vị biết mình phải làm gì và không nên làm gì. Công việc của chúng ta là thả một bè lau, đưa thuyền Từ của đạo Bụt ra để tế độ đất nước. Phải tu mới được. Không có con đường nào khác. Tu với bản thân mình, thành lập tăng thân. Đem đọa lý Từ Bi như một chiếc bè để cứu Việt Nam ra khỏi giai đoạn đen tối mấy chục năm. Đó là con đường thoát. Con đường thoát đó đã được chỉ rõ trong lời phán quyết của đạo cô Tam Hợp. Không cần tìm đâu xa, ngay trong truyện Kiều ta đã có thể thấy được con đường giải t hoát của đất nước.
GIÓ TRĂNG MẮT MẶT MUỐI DƯA CHAY LÒNG
Sư chị thương sư em lắm cho nên đã tìm tới bên sông Tiền Đường lợp một am tranh và ở lại đó để chờ Thúy Kiều. Có ai thương sư em bằng sư chị đâu! Chỗ sư chị ở, tuy nhỏ nhưng rất đẹp: Một gian nước biếc mây vàng chia đôi.
Biết Thúy Kiều sẽ tự tử ở đây nên sư chị thuê hai người ngư dân giăng lưới chực sẵn. Tiền đâu mà thuê? Có lẽ vàng ngày xưa Thúy Kiều đã cho sư chị. Hai người ngư dân trọn năm không đánh cá nữa, chỉ ‘đánh người’ thôi. Thấy cá thì phải theo lời sư chị bỏ ra ngoài.
Chuyện gặp lại sư em giống như có sự chuyển vận luân hồi, đã định trước.
Cô này kể công quá! Đã nói mười lăm năm sau mới gặp mà tại sao phải chờ tới mười lăm năm ở đây? Đi chơi trong thời gian ấy phải hay hơn không! Cái cô Đạm Tiên này cũng không có tự do và thảnh thơi gì hết!
Cán cân đã già về phía hạnh phúc, non về phía đau khổ. Lấy bớt bên phía khổ đau thì phía hạnh phúc chĩu xuống.
– ‘Tên chị đã được rút ra khỏi sổ đoạn trường, vì đức chị đã nhiều, nợ đã trả hết. Mười bài thơ ngày xưa chị đóng góp vào tập thơ của hội Đoạn Trường em trả lại cho chị vì chị không còn là một hội viên của Hội nữa.’ Hai câu thơ này vẫn còn vướng văn phạm Trung Hoa: Đoạn trường thơ. Phải nói là Sổ Đoạn trường và Thơ Đoạn trường thì mới là đúng với văn phạm Việt. tuy nhiên nếu ta đọc hai câu thơ này theo kiểu đọc hai câu ‘gió cây trút lá trăng ngàn ngậm sương’ thì cũng thấy hay.
Giác Duyên gọi: ‘Trạc Tuyền! Trạc Tuyền!’ Sư chị nhất định kêu nó bằng ’em’, quyết bắt nó về tu trở lại, không cho đi hoang nữa cho nên quyết gọi nó là ‘Trạc Tuyền’ chứ không xưng là ‘phu nhân’ nữa.
Sướng quá! Chết mà không chết. Thức dậy thì thấy có sự chị ngồi một bên. Đây là giây phút hạnh phúc nhất của Thúy Kiều. Có ai đang ngồi trong thất niệm mà tự nhiên nắm lấy hơi thở: ‘thở vào – tỉnh lặng’, thở ra – mỉm cười’, rồi nhìn lại thấy sư chị mình đang ngồi một cách thân ái bên mình không? Ngưòi đó là người có hạnh phúc. Phép lạ này các sư cô và sư chú có thể thực hiện được bất cứ giờ phút nào. Đừng sống với một con ma, hãy trở về với hơi thở mầu nhiệm. Hãy tỉnh dậy để thấy rằng bên mình đang có một sư chị rất ngọt ngào và vẫn thương mình sâu sắc như ngày nào. Vì lâu nay mình đang chạy theo một con ma nên không biết rằng sư chị luôn luôn có mặt đó. Sư chị là ai? Đó là câu hỏi. Đừng nói sư chị không có mặt đó; nói như vậy là oan lắm! Sư chị Giác Duyên luôn luôn có mặt. ‘Thập phương Như Lai lân niệm chúng sanh như mẫu ức tử.’ Sư chị luôn nghĩ đến mình nhưng mình lại đi trốn sư chị, không tìm về với sư chị đó thôi. Hàng ngày sống với một con ma, thì sư chị có cũng như không. Phải tỉnh dậy mới gặp sư chị được! ‘Giật mình thoát tỉnh giấc mai’ Luôn luôn hạnh phúc bắt đầu từ chỗ tỉnh thức.
Rất hay! Hai chị em được đoàn tụ. ‘Một nhà chung chạ sớm trưa.’ Buổi sớm có nhau, buổi trưa có nhau. Ở chung một nhà, thấy được sự quý giá của nhau chứ không phải đi ra đi vô gặp không nhìn, mà lại nhìn đi chỗ khác. ‘Một nhà chung chạ sớm trưa’ là hạnh phúc lắm. Mình sống với các sư chị và các sư anh của mình và có đủ hạnh phúc để cho nhau. Mình đâu có cần nhiều điều kiện vật chất để có hạnh phúc đâu! ‘Gió trăng mát mặt muối dưa chay lòng.’ Đủ những thức ăn cho thân thể và tinh thần. Gió trăng mát mặt là hạnh phúc khi mình được tiếp xúc với những mầu nhiệm của thiên nhiên. Khi bị giam hãm trong khổ đau thì gió có mát mình cũng không thấy mát, trăng có trong mình cũng không thấy trong. Khi được thảnh thơi rồi thì mình tiếp xúc được với những mầu nhiệm của sự sống xung quanh và trong bản thân mình. Muối dưa chay lòng là chấp nhận nếp sống đơn giản của nhà chùa. Chay lòng nghĩa là lòng không còn nhuộm những màu sắc ngoài đời nữa. Không đi kiếm những cái mà ngoài đời người ta cho là thiết yếu cho hạnh phúc. Mình đã biết giá trị của những cái đó quá rồi! Mình không đi tìm những chỗ ăn ngon, mặc đẹp, vinh hoa phú quý, bằng cấp này, địa vị kia nữa. Từ bỏ được rồi mình mới có thể sống một đời sống thanh bạch. Muối dưa, nhưng rất hạnh phúc. Một bài thơ tôi làm tại Phương Vân Am có câu: ‘Muối dưa đắp đổi hôm nào cũng vui.’ Có thanh tịnh, có an lạc thì mình mới thấy những mầu nhiệm xung quanh mình:
Hồi đó thầy trò bán sách (theo đường dây thép) để có tiền mua muối mua dưa: ‘Chợ văn bán sách lầu cao, Muối dưa đắp đổi hôm nào cũng vui.’ Cái vui của người xuất gia khác với cái vui ở ngoài thế tục.
Hạnh phúc luôn luôn đơn giản. Hạnh phúc không bao giờ quá rắc rối. Ta có hạnh phúc không? Sư em, sư chị có hạnh phúc không? Đó là câu hỏi: Những điều kiện của hạnh phúc đã có đủ; chỉ có vấn đề là ta có khả năng sử dụng những điều kiện hạnh phúc đó để sống hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại hay không mà thôi. Ví dụ; gió trăng mát mặt. Hồi hôm trăng đẹp lắm, không biết quý vị có thấy không? Trăng đẹp, nhưng nếu tâm ta vẫn còn đi với một con ma thì trăng có đó cũng như không. Gió mát, nhưng tâm ta không ở đó t hì gió có coi như là không có. Muối dưa đáng lý làm cho tâm hồn chúng ta ngày càng an tịnh thì chúng ta có thể nói: ‘Tại sao sống cực khổ như vậy? Tại sao mà đọa đày tấm thân ở cái chốn khỉ ho cò gáy này?’ Tất cả đều do tâm mà ra hết. ‘Sư rằng: ‘Phúc họa đạo trời, Cỗi nguồn cũng ở lòng người mà ra.’ Đọc truyện Kiều, chúng ta có thể không đọc như một tiểu thuyết mà đọc như đọc Kinh. Chất liệu của tuệ giác được chứa đựng trong này rất nhiều, được biểu hiện bằng những hình ảnh thi ca rất đẹp.
Trong truyền thống đạo Bụt, muốn có hạnh phúc thì phải sống đơn giản. Thế giới hôm nay lâm vào tình trạng khổ đau và bế tắc là vì người ta không thấy được hạnh phúc trong nếp sống đơn giản. Nhiều bậc giác ngộ nói rằng nẻo thoát cho thế giới ngày hôm nay là một nếp sống đơn giản (a simple life style.) Nền văn minh hiện đại của chúng ta đã đi vào ngõ bí. Nếu chúng ta cứ tiếp tục đi theo hướng này thì chúng ta sẽ chết, nền văn minh này sẽ bị tiêu diệt. Chỉ có một nẻo thoát thôi, là tìm về một nếp sống đơn giản mà hạnh phúc. Bây giờ ai cũng nghĩ rằng phải có xe hơi, tủ lạnh, trương mục, một số lương tối thiểu nào đó, một bằng cấp và phải được công nhận thì mới có hạnh phúc. Nếu chưa có những điều kiện đó thì mình vẫn có cảm tưởng như mình bất lực, không phải là con người. Vì vậy ai nấy đều đưa đầu vào guồng máy. Chỉ những người rất khương kiện mới nói rằng hạnh phúc của tôi không phải là đi về hướng đó, hạnh phúc của tôi là đi về hướng khác. Chúng ta tìm về một nếp sống đơn giản, có tự do và hạnh phúc. Muối dưa chay lòng có nghĩa là đã buông bỏ những đua chen trong cuộc đời, chấp nhận rằng chỉ có nếp sống đơn giản mới đem lại hạnh phúc thật sự mà thôi. Những người ở thành phố phải trả thuế rất nặng về nhà cửa và chức nghiệp (nhất là giới bác sĩ, kỹ sư, thương gia.) Nhiều người tự tử vì thuế. Thuế nặng quá, người ta phải chạy, không có thì giờ để thở, để tiếp xúc với ánh trăng, với cơn gió thoảng. Muối dưa chay lòng là một điều kiện quan trọng để ta có được cái hạnh phúc của gió trăng mát mặt. Tám chữ này có thể là nẻo thoát cho nền văn minh hiện đại. Ta có thể viết tám chữ này treo trong thiền đường. Gió trăng mát mặt muối dưa chay lòng. Thật đơn giản, giải pháp của đạo Bụt đối với nền văn minh mới!
Đây là tả cảnh chỗ hai sư cô ở nhưng cũng đồng thời nói được tâm trạng thư thái, tự do của hai chị em. ‘Bốn bề bát ngát mênh mông’ nghĩa là họ có tự do. Chúng ta nhớ bài thiền tập:
Khi sống có tự do và buông thả thì tự nhiên ta có ‘không gian thênh thang.’ Quan trọng nhất là khi có ‘triều dâng hôm sớm’ mà nghe được tiếng triều dâng. Mây lồng trước sau: cảnh là một cái khung, mây được lồng vào cảnh đó. Mây mong manh, đủ màu, đủ hình thái, rất đẹp. Tôi còn nhớ một lần ở Ba Lan, trước khi đi giảng tôi có tới thăm một họa sĩ. Họa sĩ không vẽ gì hết, chỉ vẽ mây thôi. Hỏi tại sao, ông nói: ‘Thưa Thầy, tại vì chỉ có mây là đáng vẽ thôi!’ Nếu ông vẽ mây mà có chánh niệm thì nhìn vào mây ông có thể thấy tất cả mọi cái khác đều có trong mây. Lúc đó ông sẽ không còn kỳ thị giữa mây và không mây nữa. ‘Triều dâng hôm sớm mây lồng trước sau’ cũng là những mầu nhiệm của vũ trụ, nếu không thanh thản thì ta cũng không tiếp xúc được. Trong đời sống ‘một nhà chung chạ sớm trưa’ ta phải giúp nhau để cho những người kia (sư chị, sư anh hay sư em của mình) tiếp xúc được với những mầu nhiệm của sự sống đang có mặt hôm nay. Mùa xuân, cây cối xanh tươi. Cứ mỗi vài ngày lại có một loại hoa mới xuất hiện. Có những đám mây rất đẹp, những cơn gió rất mát. Những cái đó ta làm sao tiếp xúc được khi ta bị giam giữ trong sự tiếc thương quá khứ, lo lắng bất định trong tương lai, khi ta quên đi giờ phút hiện tại. Là những người thương nhau, ta phải giúp nhau ra khỏi tâm trạng lo lắng, tiếc nuối, buồn phiền để có thể tiếp xúc được với những mầu nhiệm của sự sống trong giờ phút hiện tại. Sự thực tập của chúng ta là sự thực tập tiếp xúc. Nếu không tiếp xúc được với những mầu nhiệm của hiện tại thì ta thực tập không được thành công. Thực tập tiếp xúc được với những mầu nhiệm trong hiện tại thì thời gian chúng ta ở lại đây là thời gian hạnh phúc nhất trong đời và sau đó ta có thể tiếp tục sống hạnh phúc ở bất cứ nơi nào.
Đọc đoạn này, chúng ta thấy sư chị rất dễ thương và rất thương sư em. Có thể sư chị có nhiều nhiệm vụ ở những nơi khác nhưng cứu được sư em rồi thì hai chị em ở lại đó. Chúng ta hãy nhìn lại xem thử chúng ta đã được như Thúy Kiều và Giác Duyên lúc này hay chưa. Ta có thấy rằng được sống với sư chị, sư em mình trong khung cảnh có trăng, có gió, có mây, có trời là hạnh phúc hay không?
Trong bản in của cụ Trần Trọng Kim thì đến đây thơ được chấm câu và ngắt sang đoạn khác nhưng tôi thấy không nên, phải đọc tiếp:
Tất cả những tai nạn vướng vào thân phận Thúy Kiều, làm cho Thúy Kiều ba chìm bảy nổi chín lênh đênh, đều được trút sạch hoàn toàn. ‘Nạn xưa trút sạch làu làu.’ Sáu chữ này nói về sự chuyển hóa hoàn toàn của Thúy Kiều. Từ khi Kiều gieo mình xuống sông Tiền Đường, cái nghiệp quá khứ của Kiều đã chấm dứt. Mỗi người chúng ta đều cso sông Tiền Đường, chúng ta sẽ chấm dứt được tất cả những khổ đau và tai nạn của mình. Chúng ta được sinh ra lại trong một đời sống mới. Sông Tiền Đường đó có thể là Xóm Thượng hay Xóm Hạ, New York City, Amsterdam hay Mineaplis…, bất cứ ở đâu mà ta thấy rằng ta có thể chết được trong đời sống khổ đau vương vấn và tái sinh lại trong đời sống thanh thản, nhẹ nhàng. Mỗi người trong chúng ta đều có một sông Tiền Đường. Vấn đề là chúng ta đã tới được sông Tiền Đường đó hay chưa. ‘Nạn xưa trút sạch làu làu.’ Không có câu thơ nào đẹp bằng! Đó là sự giải thoát hoàn toàn. Đó là sự buông bỏ tất cả những tai nạn, nghiệp chướng; nhờ mình chết được. Trong Thiền chúng ta có danh từ ‘chết đi sống lại’ (tuyệt hậu tái tô.) Nếu không chết đi sống lại thì chúng ta không sinh ra được trong cõi Tịnh Độ; Tịnh Độ ngay trong giờ phút này.
Cô nàng đã được giải thoát. Còn anh chàng thì sao? Đó là điều chúng ta sẽ xét lại trong đoạn sắp tới. Bây giờ chúng ta hãy đọc chung lại đoạn này:
Thời gian này (không biết rõ là được bao nhiêu tháng) là thời gian rất hạnh phúc của hai chị em. Cả chị và em đều lớn lên một cách rất mau. Tuy hai người rất thương yêu nhau, lưu luyến nhau nhưng chị bây giờ đã biết dạy cho em và em đang quyết tâm thực tập đàng hoàng theo chị. Thúy Kiều sau đó chứng tỏ đã lớn lên vững mạnh và chuyển hóa lớn lao. Điều đó không được nói tới trong sáu câu thơ này. Nếu viết lại truyện Kiều thì chỗ này chúng ta phải viết về chuyện thực tập của hai bên. Ngày xưa khi ở Am Chiêu Ẩn sư chị không dạy cho sư em đàng hoàng. Khi lâm vào tình trạng bối rối khổ đau thì sư em không biết cách giữ thân, giữ tâm. Kỳ này thì khác. Đứng về phương diện tu tập và kinh nghiệm thì Thúy Kiều, tức ni cô Trạc Tuyền, bây giờ đã bước những bước rất dài. Kinh nghiệm khổ đau rất nhiều và kinh nghiệm tu tập trong giờ phút chót đã có đầy đủ. So với người con trai thì Thúy Kiều đã bước những bước của người khổng lồ. Kim Trọng vẫn còn lẽo đẽo đi trên con đường lận đận. Trên đường tâm linh, Kim Trọng còn đi lọt phía sau một quãng khá dài. Điều này chúng ta thấy rất rõ mỗi khi ở Làng Mai một, hai, ba năm về gặp lại những người bạn cũ. Những người ngày xưa cùng đi một đường với ta tại sao bây giờ vẫn chưa gỡ được những sợi dây mà mình thấy rất dễ gỡ! Đây là tâm trạng Thúy Kiều trong những câu thơ sau. Thúy Kiều đã làm rất hay và làm một cách rất nhẹ nhàng, vô tướng để giúp người con trai mình ngày xưa (người cũ, cố nhân.) Những người mình đã có cảm tình ngày xưa, mình có bổn phận phải độ họ thôi, mình phải độ cả những người khác. Nhưng họ là những người năằ trong diện ưu tiên. Giống như năm người bạn tu của Tất Đạt Đa. Cùng tu chung với nhau, say này thấy Tất Đạt Đa uống sữa, ăn cháo, ăn yoyurt… họ nghĩ ông này tụ hành không ra gì hết và bỏ đi. Nhưng tình đồng đạo còn đó nên khi thành đạo rồi Bụt nghĩ đến năm người và tìm tới vườn Nai độ họ. Chúng ta cũng vậy. Đạt tới sự nhẹ nhàng rồi chúng ta phải đi tìm cha, tìm mẹ, tìm anh chị em, tìm người cũ của mình để giúp họ. Đó là chuyện rất thông thường. Rồi quý vị sẽ thấy điều này là một điều rất dĩ nhiên.
——————————————————————————–
135 Kình ngạc: hai giống cá to dữ, chỉ quân lính hùng mạnh. Giáp binh: áo giáp và khí giới.
136 Tiếng la: tiếng thanh la, nhạc khí bằng đồng dùng để đánh.
137 Phượng liễn loan nghi: kiệu và các đồ nghi trượng có chạm, thêu hình chim loan, chim phượng.
138 Hoa quan: mũ có đính vàng ngọc, kim cương đẹp đẽ. Chấp chới: sáng lóng lánh. Hà y: áo đỏ tía như sắc ráng trời.
139 Trúc tơ: sáo và đàn, âm nhạc.
140 Bài: miếng gỗ vuông để viết chữ; hỏa: ý việc khẩn cấp, nóng như lửa. Hỏa bài tiền lộ: thẻ bài hỏa tốc cầm đi trước để báo tin cho nhân dân biết mà lo việc phục dịch hay dẹp đường cho quan quân đi.
141 Nam đình: triều đình phương Nam do Từ Hải lập ra. Đại doanh: doanh trại lớn, chỗ đóng quân của Từ Hải.
142 Hàn vi: đói lạnh, chỉ lúc nghèo hèn, không có thế lực, khổ đau.
143 Nghiêm quân: chỉnh đốn hàng ngũ quân lính. Tuyển tướng: lựa chọn, sắp đặt các tướng.
144 Báo phục: báo trả lại; ân thì báo ân, oán thì báo oán. Chỉn ghê: rất đáng sợ.
145 Vệ cơ: các đơn vị quân đội ngày xưa. Thị lập: đứng hầu. Song phi: dàn ra làm hai hàng.
146 Bác đồng: mác và giáo. Tinh kỳ: cờ tinh, một loại cờ hiệu dùng trong quân ngày xưa.
147 Trướng hùm: do chữ hổ trướng: nơi làm việc của các tướng soái.
148 Tiên nghiêm: hồi trống đánh mở đầu để làm tăng vẻ trang nghiêm.
149 Cửa viên: do chữ viên môn: cửa dựng bằng càng xe. Thời xưa, vua đi tuần thú, săn bắn ở ngoài dựng ở đâu quây các cổ xe làm giậu, dừng càng xe làm cửa gọi là viên môn (viên: càng xe.)
150 Cho phu: cho bõ, cho đáng.
151 Sâm Thương: chỉ sự cách biệt, không được gặp nhau như sao Sâm và sao Thương. Theo Từ điển truyện Kiều của Trần Trọng Kim: ‘Sâm là sao Cày, mấy sao ở giữa chòm Orion, Thương là mấy sao sắc đỏ ở đuôi chòm sao Scopion mà ta gọi là sao Thần Nông. Trong vòm trời, hai vị sao ấy cách nhau gần 1800 cho nên hễ thấy được sao này mọc thì sao kia lặn, không thể nào cùng thấy trong một bầu trời (người ta vẫn hiểu lầm là sao Hôm và sao Mai) cho nên dùng để tỉ dụ sự cách biệt không gặp nhau được. Theo chú giải Truyện Kiều của Nguyễn Thạch Giang: ‘Sao Sâm là chòm sao gồm bảy ngôi ở phía Tây, một trong nhị thập bát tú, màu đỏ da cam; sao Thương tức là chòm sao Tâm, gồm ba ngôi ở phía Đông, nằm trong nhị thập bát tú, màu đỏ lửa.
152 Hiến phù: dâng nộp những người tù binh bắt được, đây ý nói giải những người có tội tới.
153 Các tích: án tích kể những tội lỗi của người tù phạm. Phạm tù: người bị bắt làm tù vì phạm tội. Hậu tra: đợi để tra hỏi.
154 Tri quá: biết lỗi.
155 Ba quân: Tiền quân, trung quân và hậu quân; ý nói tất cả quân lính. Pháp trường: chỗ hành hình người có tội.
156 Thanh thiên bạch nhật: giữa trời xanh đang lúc ban ngày, ý nói rõ ràng, không giấu diếm ai.
157 Thiên tải nhất thì: nghìn năm mới có một lần, dịp hiếm có.
158 Bàn hoàn: quanh quẩn, quấn quít, vui vẻ với nhau.
159 Theo ghi chép của sư cô Chân Khong trong quyển Thử Tìm Dấu Chân Trên Cát: ‘Hồi đó chúng tôi thường tổ chức các đại nhạc hội để giúp các em cô nhi ở Việt Nam… Chúng tôi cũng cho ra tờ Le Lotus đặc biệt in trên giấy vàng để kêu gọi ngưòi đỡ đầu cho cô nhi chiến nạn… Hồi ấy tại khám Chí Hòa có ba trăm tăng sĩ tuyệt thực để gây áp lực trên Hòa Hội Paris; chúng tôi cũng được thầy phái đi các nước Hoa Kỳ, Đan Mạch, Ý Đại Lợi, Anh Cát Lợi, v.v… để vận động yểm trợ cho cuộc tuyệt thực này. Tôi còn nhớ tại Rome có ba trăm linh mục đi diễn hành, mỗi vị đeo trên ngực bảng tên của một tăng sĩ Việt Nam tại khám Chí Hòa. Tinh thần liên đới quả thật đẹp. Hedi Vaccara và mấy người bạn Ý của phái đoàn đã rất vất vả trong lần tổ chức cuộc diễn hành này.’
160 Quốc sĩ: người tài của đất nước
161 Kẻ Việt người Tần: kẻ ở nước Việt (phía Đông Nam), người ở nước Tần (phía Tây Bắc); ý nói mỗi người một nơi, cách biệt xa xôi.
162 Giá áo túi cơm: do chữ y giá phạn nang: cái giá mắc áo, cái túi đựng cơm, chỉ người vô dụng, không có chí hướng. Ý cả hai câu: gặp buổi loạn lạc thì mài gươm mà kiến tạo sự nghiệp, còn những hạng người tầm thường chỉ biết có ăn có mặt thì kể làm gì.
163 Cô quả: tiếng khiêm cung của các vua chúa nước nhỏ thời xưa (như người tu xưng là bần đạo: tôi tu đạo còn nghèo lắm.) Cô: như con mồ côi, không ai dạy bảo, giúp sức cho. Quả: tức là quả nhân, ý nói khiêm là người ít đức, nhờ quần thần giúp đỡ. Bá Vương chỉ chung cho cái thế lực hùng mạnh của người đứng đầu các nước chư hầu.
164 Kinh luân: lấy từng mối tơ mà gỡ ra gọi là kinh, so từng sợi tơ cùng một loại mà kết thành con gọi là luân; sửa sang sắp đặt việc chính trị gọi là kinh luân.
165 Đẩy xe: chữ Hán là thôi cốc. Theo Hán Thư, ngày xưa khi một viên tướng vâng chỉ vua đi đánh giặc, vua tiễn ra cửa thành và lấy tay đẩy xe của viên tướng, tỏ ý vua ủy thác công việc quan trọng. Vâng chỉ: vâng theo chiếu chỉ của vua. Đặc sai: phái đi làm nhiệm vụ dặc biệt.
166 Tiện nghi: có quyền quyết định tại chỗ, tùy theo sự nghi mà làm, không cần phải hỏi ý kiến vua. Sách Quả Sự Loại kể chuyện đời Tống có một viên tri phủ xứ Hà Bắc tên là Vân Ngạn Bát xin với vua cho ông ta có thể tùy tiện giải quyết việc cấp tốc tại chỗ các vấn đề quân sự, khỏi phải bất cứ việc gì cũng gửi sứ về hỏi ý kiến vua; vua chấp nhận. Bát tiễu: dẹp giặc, đánh giặc – có bản ghi là phủ tiễu: dẫn dụ cho bên kia quy hàng rồi phong chức (phủ), nếu họ không nghe thì mới đánh (tiểu). Đổng nhung: trông coi, đốc suất việc quân.
167 Chiêu an: kêu gọi, chiêu dụ hàng giặc để đặt lại an ninh.
168 Hồ đồ: Không rõ ràng trong đầu. Từ Hải còn nghi ngờ lắm.
169 Bể Sở sông Ngô: Sở, Ngô là tên hai nước thời Xuân Thu, nay thuộc miền đông nam Trung Quốc, là địa bàn hoạt động của Từ Hải
170 Bình thành: địa bình thiên thành là chữ sách Kinh thư: Làm cho thủy thổ được điều hòa gọi là địa bình; khiến cho ngũ hành (thủy, hỏa, kim, mộc, thổ) theo thứ tự mà ổn định gọi là thiên thành. Đó là lời nói công đức trị nước lụt của vua Vũ. Đây ý nói công đức to lớn của vua lo sửa sang việc nước, ra ơn cho dân.
117 Vô Định là tên một con sông ở Thiểm Tây. Thơ của Trần Đào đời Đường có câu: ‘Khả lân Vô Định hà biên cốt’ = khá thương thay cho đống xương ở bến sông Vô Định (xương của người chết vì chiến tranh.)
172 Thế công: thế mạnh chủ động tiến đánh. Thế hàng: thế yếu phải đầu hàng.
173 Thúc giáp: bỏ áo giáp lại, tức là bỏ các đồ binh khí. Giải binh: giải tán quân đội
174 Thành hạ yêu minh: hai bên đến dưới thành (thành hạ) để giao ước hòa với nhau.
175 Vương sư: quân của nhà vua.
176 Nàn: tai nạn.
177 Bách chiến: trăm trận đánh, ý nói dạn dày chốn trận mạc.
178 Phu quý phụ vinh: chồng làm nên quan sang, vợ cũng được vinh hiển.
179 Thiên thổ: chỗ đất hèn hạ, chỗ đất xấu. Một đôi (cũng đọc là một doi): một dải đất nhỏ ở rìa cửa sông hoặc dọc sông.
180 Hạ công: mừng công thắng trận.
181 Tiểu Lân: họ Phùng, hiệu Tục Mệnh, vợ vua nước Tề. Sau khi nước Tề thua nước Chu, Tiểu Lân bị bắt về Chu. Chu Vũ Đế gả nàng cho người khác. Nhân lúc ngồi đàn, dây đàn đứt, nàng xúc cảm làm thơ, có câu: ‘Dục tri tâm đoạn tuyệt, Ưng khán tất thượng huyền’ = Muốn biết lòng tôi dứt nát như thế nào thì nhìn dây đàn trên đầu gối này.
182 Hồng quần: người đàn bà (ngày xưa mặc quần đỏ.)
183 Gốc phần: chỉ quê nhà.
184 Cửa bồng: cửa thuyền (bồng: thuyền nan to.)
185 Âm cực dưong hồi: khí âm đã cùng cực thì khí dương lại về, đó là đạo tuần hoàn; ở đây dùng với ý gợi cho biết vận bĩ của Kiều đến đây là cùng cực và vận thái sắp đến.
186 Học trò thì có Tứ Thư, Ngũ Kinh; thầy tu thì có níp đựng Kinh Kim Cương.
187 Hàn Dũ là một ông quan, tâu lên vua để vua bạc đãi tăng đồ; Tần Thủy Hoàng nghe lời các quan đốt hết Tứ Thư, Ngũ Kinh và giết các nhà Nho. Nhà sư và nhà Nho luôn nhớ đến Pháp nạn và Giáo nạn của họ.
188 Cỗi phúc: gốc của phúc đức.
189 Thành ngữ Việt Nam.
190 Câu này lấy ý thơ Đỗ Phủ: Ngư long tịch mịch thụ giang lãnh vắng tanh thị: Rồng cá lặng lẽ sông thu lạnh. Cho nên vắng tanh là đúng.
191 Túc khiên: nợ nần trong quá khứ.
192 Thú; chỗ ở, nơi tới.