Nẻo về của ý – chương 09
Những dòng chữ này có lẽ sẽ đến tay Nguyên Hưng vào những ngày cuối năm, trong khi ở các chợ Saigon thiên hạ đang tấp nập mua bán. Tôi có thể tưởng tượng được những núi dưa hấu cao ngất, những trái dưa hình thật tròn, da thật xanh và ruột đỏ thắm. Mùa này, ở đây, không sao tìm ra được một trái dưa hấu. Nếu có thì chắc chắn thế nào tôi cũng mua một vài trái rồi gọt thành những cái đèn dưa thật đẹp rồi. Hôm qua tôi có nhận được từ bên nhà gởi qua một gói quà tết, trong đó có mấy miếng trầm, mấy cây đèn bạch lạp, một hộp trà, một ít mức gừng, một ít mức trái tắc, và hạt dưa… Tôi mừng lắm. Tối qua, như một người rất nhàn rỗi, tôi đun nước pha trà, thắp bạch lạp và ngồi cắn hạt dưa một mình. Steve không chịu cắn hạt dưa, nói cho đúng là không biết cắn hạt dưa. Steve cũng không thể ăn mứt gừng; chú ta có nếm một tí và nhăn mặt kêu cay quá. Cậu chỉ uống được trà và nhắm nháp ít trái tắc.
Steve hỏi tôi ăn cái thứ hạt dưa ấy thì có ích lợi gì. Tôi nói: có nhiều cái lợi lắm chứ. Ở đây tuy người ta ăn rất nhiều trong các cuộc lễ, lễ giáng sinh, lễ tạ ơn vân vân… nhưng người ta không nói đến tiếng ăn. Còn bên xứ chúng tôi người ta nói thẳng thắn là ăn. Ăn Tết, ăn lễ sinh nhật, ăn cưới, ăn hỏi, ăn khảm tháng, ăn ngũ tuần, ăn lục tuần, ăn thượng thọ, ăn giỗ, vân vân… Mà Tết thì kéo dài những ba ngày; trong ba ngày liền phải ăn luôn miệng. Đi đâu, gặp ai mời, cũng ăn, cũng phải ăn. Mà thức ăn cũng mau no, chỉ có hạt dưa là ăn mãi không no. Như vậy cái lợi thứ nhất là ăn mãi mà không sợ phải no. Cái lợi thứ hai là ăn hoài mà không sợ hại cho sức khỏe. Ăn cái gì nhiều cũng có thể đau bụng, đau gan, trúng thực nhưng mà ăn hột dưa thì không sao; vì tuy cái miệng ăn hoài mà cái dạ dày không bao giờ đầy. Cái lợi thứ ba là đỡ phải nói chuyện nhất là khi ta không biết chuyện gì mà nói. Dù sao thì cái miệng của tôi cũng đang làm việc mà: Tôi ít nói vì cái miệng tôi đang ăn hạt dưa, chứ không phải làtôi không biết nói chuyện. Cái lợi thứ tư là tránh được cái hại đa ngôn đa quá. Hạt dưa dạy người ta ít nói, dạy người ta im lặng để suy nghĩ về những điều mình muốn nói, dạy người ta biết nghe những người khác. Từ đứa trẻ năm tuổi cho đến ông già tám mươi ai cũng có thể dạy cho ta được nhiều điều bằng các câu chuyện của họ – người ta thường là thế. Hạt dưa khiến cho ta chín chắn hơn, và giúp ta tránh được những câu nói vô ích, lầm lỡ, nhất là câu tuyên bố bừa bãi không dựa trên căn bản suy tư và nhận xét nào cả. Trong trường hợp này, biết thì thưa thốt, không biết thì “cắn hạt dưa” mà nghe. Khỏi phải dựa cột. Steve cười ngất khi nghe tôi nói như vậy và bảo rằng tôi có thể viết những ý đó thành bài nói về cái triết học của hạt dưa đỏ.
Ở nơi Nguyên Hưng ở, bây giờ đã bớt rét chưa? Bên này cố nhiên là trời còn rét lắm. Còn độ hai tháng nữa mùa đông mới qua. Tôi chắc ở chùa Từ Hiếu, các đồi thông đã bắt đầu xanh mướt rồi. Các đọt thông ở đấy vào mùa Xuân sao mà thẳng mà đẹp đến thế. Tôi biết thế nào Nguyên Hưng cũng để rất nhìêu thì giờ đi giữa những cây thông xanh mướt. Tôi chưa bao giờ nỡ bẻ một cành thông, thế nhưng tôi biết những đồi thông mang nhiều thương tích vào những ngày đầu Xuân khi thiên hạ đi hái lộc. Một cái vườn chùa đẹp đến mấy mà sau bữa hái lộc cũng trở thành xác xơ. Tôi nhớ có một năm nọ, chùa Xá Lợi phải trồng một ít cành thông để cho tín đồ hái lộc, như vậy đỡ hại cho những cây cảnh mà chùa phải săn sóc hết hơi mới có lên được. Tôi không biết cái gì đã xảy ra vào tối giao thừa. Không lý chùa phải yết thị rằng hái lộc thì chỉ được hái những cây thông còn các cây khác thì chừa ra. Nếu thế thì sẽ không ai hiểu tại sao. Mà nếu hiểu tại sao thì người ta sẽ không hái lộc nữa, bởi vì người ta nghĩ những cành thông kia không phải thực sự hút nhựa từ đất Phật, không thật sự mọc lên từ đất Phật. Cái tục hái lộc thì thật đẹp nhưng mà đông người hái lộc quá thì không còn đẹp nữa. Tôi nghĩ đến những buổi cầu nguyện đông đảo những buổi thuyết pháp đông đảo và tôi ao ước chúng ta còn có thể duy trì được những cảnh chùa thật thanh tịnh, những buổi gặp mặt truyền tâm giữa một thầy và một trò. Tôi ưa đi vào một chánh điện thanh tịnh và nhỏ bé, một chính điện dành cho sự đối thoại cá nhân giữa con người và đức Phật. Sự đối thoại ấy mới dễ trở thành một sự đối thoại tâm linh của chính mình. Chùa chiền và giáo đường bây giờ có khuynh hướng xây cất cho sự cầu nguyện tập thể. Đó là nhu yếu. Tôi cũng khát khao sự truyền tâm giữa một thầy một trò trong đó trò biết là tất cả con người của thầy đang hướng về mình, kêu gọi sự thức tỉnh và đáp ứng nơi mình, và thầy cũng biết là trước mặt mình cũng chỉ có một trò với tất cả con người trọn vẹn và đặc thù của nó. Trong đại hội Linh Sơn, khi Phật đưa cành hoa lên thì chỉ có Ca Diếp mỉm cười. Đột nhiên đại hội Linh Sơn biến mất, sự có mặt của mọi người trở nên không có. Chỉ có hai người: Phật và Ca Diếp là những người thật sư có mặt. Đám đông Nguyên Hưng ơi, trong những trường hợp như thế, chỉ là một con số không.
Có một buổi chiều đi bộ từ Nam Giao lên chùa tôi gặp một đoàn thiếu niên thiếu nữ Phật tử đi cắm trại từ các đồi thông Từ Hiếu về. Họ đi rải rác, người đi bộ, kẻ đi xe đạp. Người đầu tôi gặp cầm trên tay một cành thông. Người thứ hai cũng vậy. Rồi người thứ ba cũng vậy. Rồi đến cả đoàn. Tôi thấy xót ruột và đau xót cho những đồi thông. Có lẽ ngày Tết cơ sự cũng xẩy ra tương tợ như thế. Tết nầy Nguyên Hưng nhớ “bảo vệ” giúp các đồi thông nhé.
Giờ mà Nguyên Hưng đón giao thừa bên đó thì bên này là giữa trưa. Nghĩ cũng là một điều hay. Năm ngoái tôi đón giao thừa ở Princeton vào lúc mười hai giờ trưa, cùng với một em bé Việt Nam mời được ở cách đó không xa. Giờ đó, thành phố đó, thời tiết đó mà trong phòng chúng tôi cũng có giao thừa. Thiên hạ bên này vẫn đi làm việc tám giờ một ngày, chẳng ai để ý rằng ở Việt Nam Nguyên Hưng đang đón giao thừa, đang ăn Tết. Tại vì tôi biết tôi còn ở đây cho nên tôi cũng biết Nguyên Hưng còn ở đó, Việt Nam còn ở đó, và đêm Giao thừa vẫn hiện hữu. Tất cả chỉ là vấn đề nhận thức, chủ thể nhận thức không rời đối tượng nhận thức. Tôi nhớ có một bữa trưa tôi vào đọc sách nơi phòng triết học của thư viện Butler. Khi vào, tôi chỉ thấy có hai người đang ngồi tra cứu, hai người đàn ông lớn tuổi. Bữa đó tôi đi tìm đọc một cuốn sách của giáo sư Sneider. Đọc được một lúc, không biết rõ là bao lâu, bỗng dưng tôi thoáng thấy mùi hoa bưởi. Ban đầu tôi ngạc nhiên hết sức vì tôi nghĩ rằng ở địa phương này làm gì có hoa bưởi. Nguyên Hưng nên nhớ rằng tôi xa nhà đã lâu và bất cứ hình sắc âm thanh hương vị nào của quê hương đối với tôi cũng vô cùng quý giá, cứ tưởng tượng ngòi tại một xứ xa thật xa, mấy năm trời tự dưng được nghe thấy mùi hoa bưởi kỳ diệu ấy:
Mùi hoa bưởi, mùa hoa của quê hương của ca dao, tôi không đọc Sneider được nữa. Tôi suy nghĩ, và tôi kết luận rằng mùi đó không có thực, không phải là từ tánh cảnh, đới chất cảnh mà từ độc ảnh cảnh tới, nghĩa là ảnh tượng khứu giác được phát hiện trở lại từ tiềm thức. Như thế thì đã có một vài lần tôi trải qua trường hợp ấy rồi. Tôi yên trí, tiếp tục đọc Sneider. Nhưng chỉ một lát sau, mùi hoa bưởi trở lại, hiện thực hơn nhiều, khiến tôi ngừng đọc, ngồi xét lại. Tôi nghĩ rằng có người nào mới vào phòng đọc sách, trong số đó có thể có một cô nữ sinh có sức nước hoa mùi hoa bưởi. Kỳ thực tôi không biết có thể có thứ nước hoa chế tạo bằng hoa bưởi không. Nhưng tôi cứ cho là có. Và tôi nghĩ, trong lúc đầu vẫn cứ nhìn vào trang sách như từ khi mới ngồi xuống đọc, rằng người phụ nữ trang điểm bằng thứ nước hoa kia phải là một người thanh nhã, có dáng dấp Việt Nam, ít nhất là dáng dấp đông phương. Có một cái gì thúc đẩy tôi nhìn lên coi ai mang theo mùi hoa bưởi thân yêu đó. Nhưng mà tôi vẫn không ngửng đầu lên. Tôi tinh nghịch nhủ rằng nếu ngửng đầu lên và tìm thấy một người không giống gì hết với sự tưởng tượng, nghĩa là một người không trang nhã, không có tính cách đông phương, một người béo tốt đẫy đà phấn son trát đầy đầu đầy cổ thì tôi sẽ bị nếm một thứ thất vọng nào đó. Như vậy mà tôi ngồi cho tới năm phút, không ngững đầu lên mà cũng không đọc Sneider. Rồi kết cuộc thì ra làm sao, tôi biết, Nguyên Hưng sẽ hỏi. Nhưng mà tôi không nói đâu, Nguyên Hưng tự đoán lấy. Ai dại gì mà nói điều ấy cho Nguyên Hưng nghe. Tôi mắc cỡ lắm. Chỉ khi nào Nguyên Hưng giỏi thật giỏi không cần biết tới các kết thúc của câu chuyện thì tôi mới nói cho Nguyên Hưng nghe mà thôi.
Nguyên Hưng, tôi đã phải học thêm Duy Thức từ lúc mười sáu tuổi và cái tuổi non nớt đó không cho phép tôi hiểu thấu được những cái như kiến phần tướng phần, sở sở, duyên duyên. Rất khó mà hiểu tại sao kiến phần và tướng phần là những cái không thể rời nhau mà hiện khởi, tại sao mà chủ thể không thể tồn tại biệt lập ngoài đối tượng. Ấy thế mà hồi đó tôi cũng biết đàm luận về Duy Thức cũng làm bài thi và cũng được điểm cao. Tôi lý luận như thế này: Duy thức là nhờ vào nhận thức thì vạn hữu mới trở thành thực hữu. Không có nhận thức thì do đâu mà biết có với không tức cũng như không có gì cả. Đó, tôi chỉ cắt nghĩa ngây thơ như vậy, còn các lối giải bày khác tôi không nắm được, hoặc tôi cho là vô lý không thể chấp nhận được. Những dòng này do tôi viết và Nguyên Hưng sẽ đọc. Những dòng nầy hiện giờ Nguyên Hưng chưa đọc. Vậy thì những dòng nầy, kể cả bản chất tư tưởng tình cảm, giấy, mực, thời gian, không gian, nét chữ vân vân… chỉ nằm trong nhận thức tôi. Và cả Nguyên Hưng nữa, Nguyên Hưng đối tượng của những dòng chữ này, cũng nằm trong nhận thức tôi. Mà tất cả mọi hiện tượng khác như quê hương Việt Nam với những cây cam cây bưởi đầy hoa, những cây dừa duyên dáng những cây cau cao vút và thẳng băng, cũng như thành phố náo nhiệt tôi ở đây, cũng như mặt trời, tuyết, mây, trăng, sao… đều nằm trong nhận thức tôi. Tất cả đều là khái niệm và thế giới của tôi trong đó có Nguyên Hưng, có cây bưởi, cây chanh cây khế, cũng là một thế giới khái niệm. Vài bữa nữa thì những dòng chữ nầy tới tay Nguyên Hưng. Nguyên Hưng ssẽ thấy tôi hiện hữu trong đó, thành phố tôi hiện hữu trong đó, nhưng mà tất cả những thứ ấy cũng trở thành khái niệm trong nhận thức Nguyên Hưng và không thể được đồng nhất đối tượng của nhận thức tôi. Và ta cứ cho rằng thực tại bản chất tánh cảnh vô chất nằm trong phần căn bản của nhận thức cộng đồng, hoặc có thể gọi là tự thể phần của thức hay của thức cộng đồng cộng biến; còn thế giới khái niệm, thế giới đới chất và độc ảnh, là thế giới được tạo tác nên do khuynh hướng biến kế chấp trong đó tướng phần và kiến phần là hai mặt hiện tượng của một tự thể… Điều này tôi thấy rõ trong một buổi khuya ở chùa Trúc Lâm cách đây chưa đầy hai năm. Đêm đó tôi thức dậy lúc hai giờ rưỡi khuya và không ngủ lại được nữa. Tôi nằm yên lặng cho đến khi chuông khuya bắt đầu ngân nga mới chỗi dậy. Tôi đưa chân xuống tìm đôi dép nhưng không tìm ra, có lẽ đôi dép đã bị tôi đẩy vào gậm giường từ hồi tối. Tôi không tìm đôi dép nữa, cứ đi chân trên nền đất tìm ra cửa sổ. Nền đất lạnh gây cảm giác mát lạnh nơi gang bàn chân của tôi, và sự thấm lạnh ấy đột nhiên khiến tôi tỉnh táo và minh mẫn một cách lạ thường. Tôi đi từng bước tìm tới cửa sổ và tỳ tay nơi cửa sổ nhìn ra ngoài. Trời đất vẫn còn đen tối và tôi không nhìn thấy được gì cả. Tuy nhiên trong đêm đen, tôi vẫn biết cây lá trong vườn còn đó, và bụi trúc đào cũng còn đó ở bên góc kia. Cây hoa dại vẫn còn ở trước cửa sổ tôi. Mà sở dĩ như vậy là tại vì chủ thể nhận thức không thể tồn tại ngoài đối tượng nhận thức. Trong lòng đêm thâu hay trong lòng nhận thức cũng vậy, khóm trúc, cây hoa dại đang đóng vai trò đối tượng sở duyên, chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức không thể rời nhau. Và ngoài kia, núi sông, trời đất, những ngôi sao lớn nhất, và thực hữu, và mặt trời của tôi cũng chỉ nằm trong lòng nhận thức. Đột nhiên thời gian và khoảng cách tự nhiên tiêu diệt, tan biến. Đột nhiên năng và sở tan biến. Đột nhiên diệt và sinh tan biến. Dù em có xa cách vạn muôn do tuần ấy cũng được nối liền trong một lân hư trần. Dù cho bách thiên vạn kiếp thì bách thiên vạn kiếp ấy cũng trở về nối liền với hiện tại trong một sát na. Hiện hữu của em tự nhiên trở về bừng hoa nơi nhận thức tôi. Đột nhiên tôi mĩm cười. Có lẽ lúc ấy mà có một người rình thấy được tôi đang cười trước một đêm đen không trông thấy gì, không trông thấy ai mà cũng không có gì trông thấy mình, không có ai trông thấy mình, người ấy sẽ ngạc nhiên, hoặc có thể hoảng sợ lạnh tới xương sống. Bởi vì cái cười của tôi đối với người ấy có thể có tính cách ma quái hoăïc là của một người sắp sửa điên tới nơi rồi. Có chi mà đáng mỉm cười trước một cái màn đêm đen nghịt và vô nghĩa như vậy. Nhưng Nguyên Hưng biết rằng màn đêm tuy có đen nghịt thật nhưng không vô nghĩa chút nào. Nó trở thành rạng rỡ vô cùng trong nhận thức tôi. Và hiện hữu mầu nhiệm trở thành bừng tỏa nơi nụ cười huyền diệu ấy. Tôi biết là em còn đó vì tôi còn đây và tôi biết tôi còn đây vì em còn đó. Nếu có thì năng duyên và sở duyên cùng có, nếu không thì năng duyên và sở duyên cùng không. Cho nên chủ và khách cùng thuộc về một tự thể vào trong chủ đã có sẵn khách.
Tôi biết rằng lát nữa khi bình minh về thì sẽ cũng không có gì khác lạ xảy ra trên bình diện hữu thể. Mầu trời xanh biếc phương tây và màu chân trời hồng đỏ phương đông cũng chỉ là xanh là hồng trong nhận thức tôi. Xanh không phải thuộc về tự thể xanh và hồng cũng không thuộc về một tự thể hồng. Xanh cũng có nghĩa là xanh đối với tôi, trong nhận thức tôi. Cũng như hồng. Cũng như Sinh. Cũng như Diệt. Cũng như Đồng. Cũng như Dị. Cũng như Lai. cũng như Khứ. Tất cả đều chỉ là hình ảnh nhận thức. Nhìn vào mắt tôi đi và em sẽ thấy em trong đó. Em rạng rỡ thì mắt tôi cũng rạng rỡ. Em mầu nhiệm thì nhận thức tôi cũng mầu nhiệm. Và ngược lại, tôi xa xăm thì em, hình bóng em va tự thể em, cũng trở nên xa xăm. Hãy nhìn vào mắt tôi thì em sẽ biết vũ trụ của tôi sáng hay tối, thiện hay ác, vô cùng hay hữu hạn, sinh tử hay niết bàn. Có lần Trụ Vũ nói:
Nguyên Hưng, khi nụ cười trong đêm thâu bừng nở rồi thì tôi có cảm giác nhẹ nhàng như mây khói và tôi thấy tôi nằm ngữa bơi nhẹ nhàng trên một giòng suối trong mát lạnh. Đầu tôi gối trên những chiếc gối sóng nhỏ. Nhìn lên trời tôi thấy trời xanh mây trắng của ngày cũ. Mây vẫn trắng, trời vẫn xanh. Mây có thể trắng hơn và trời có thể xanh hơn. Đó phải chăng là dấu hiệu của thực tại bất sanh bất diệt? Tôi nghe lá thu khô xao xác trong rừng cây, tôi ngửi thấy hương thơm ngất ngây của cỏ rơm đồng nội.
Những cảm giác ấy thoáng qua mau khi tôi trông thấy một ngôi sao trên trời. Ngôi sao đưa lối cho tôi trở về trước cửa sổ, hai chân trên nền đất mát và hai bàn tay tỳ lên song cửa. Tôi còn đây, tôi hiện hữu cho thế giới hiện hữu, cho em hiện hữu. Cũng như hòn sạn kia, cũng như đám mây kia. Sự hiện hữu của chúng kéo theo sự hiện hữu của tôi. Và nếu viên cuội kia mà không thật sự hiện hữu thì tôi đây làm sao hiện hữu được? Đã có thì có từ hạt bụi. Mà hạt bụi đã không thì tam thiên đại thiên thế giới cũng không. Tôi cũng không. Em cũng không.
Nguyên Hưng, tôi thấy tôi rất bằng lòng cái quê hương này của chúng ta. Dòng sông kia là hình bóng trôi chảy dịch hóa của vạn tượng. Nhờ có sự trôi mà có sự sống. Sự chết cũng nằm trong sự Sống bởi vì không có chết thì không thể có sống. Hoan nghênh sự trôi chảy. Hoan nghênh vô thường vô ngã. Bởi vì có vô thường vô ngã nên mới có thế giới đẹp đẽ của thi ca của thiền. Và còn vườn chuối của đồng bằng kia nữa. Hình bóng của êm mát, ngọt ngào, hiền lành. Và cũng còn những hàng cau thơm ngát… Mặt trái đất sở dĩ đầy tràn cát bụi, là vì chúng ta chỉ nhìn xuống cát bụi. Không, tôi không muốn rời bỏ chốn này để đi về cực lạc hay thiên đường. Quê hương của tôi là đây, ngay trên mặt đất. Chỉ cần ngẫng đầu nhìn lên là tôi trông thấy trăng sao của đêm rằm, của tâm linh. Chính vì được ở đây, vì được dứng đây nên tôi mới thấy được như thế. Điều quan yếu không phải là từ giã, chối bỏ, trốn tránh. Điều quan yếu là nhận thức ra rằng hễ mắt ta mở thì ta trông thấy… Cảnh giới niết bàn quyết định có đủ những thứ cây như cây bàng, cây cau, cây khế, cây chanh, cây bưởi. Tôi thấy như thế. Và tôi buồn cười quá. Tôi buồn cười cho chính tôi, ngày xưa, đã đi tìm niết bàn như một cái gì cách biệt và trái chống với thế giới sinh diệt… Chân như hiển hiện mầu nhiệm nơi tử sinh.
Nguyên Hưng chắc còn nhớ những cơn mưa lớn ở miền Nam đất nước ta. Có một lần tôi ngồi ở nhà một người bạn tôi trông thấy một cảnh tượng mà nhìn ngắm mãi không biết chán. Trời mưa lớn. Bên kia đường. Đối diện với chỗ tôi đang ngồi là một tiệm bán chạp phô lụp xụp. Trong tiệm treo đầy những guốc giây thừng, dây kẽm, song chảo, và bày biện một ngàn thứ lặt vặt khác như nước mắm, đèn cầy, tương kẹo đậu phọng, vân vân… vì vậy tiệm tối om. Lại thêm trời mưa to nữa. Tôi thấy một đứa bé chừng sáu tuổi đang ngồi ăn cơm một mình trước cửa tiệm ngay chỗ bậc cửa ra vào, gần sát giọt nước trên mái chảy xuống. Đứa bé ngồi trên một chiếc đòn thấp. Nó ở trần và chỉ mặc một một chiếc quần cụt. Thân hình đứa bé đen nám, có lẽ tại nó hay chạy chơi ngoài nắng quá. Tay trái nâng một bát cơm, tay phải thì cầm đũa. Nó ăn rất dè dặt, mắt hết ngước nhìn những giọt nước rơi từ mái tôn theo những chiếc bong bóng trước sân. Tôi ngồi cách nó chừng mười thước, nhưng tôi có thể biết được đứa bé đang ăn cơm với trứng vịt chan nước mắm. Những miếng trứng vịt nhỏ xíu chôn dưới đáy bát. Nó lấy đũa moi lên và ăn từng miếng cơm một cách dè xẻn. Vừa ăn nó vừa ngắm mưa một cách thích thú vô cùng và cũng bình tĩnh vô cùng. Tôi ngắm nhìn nó và theo dõi nó trong từng cử chỉ từng cách nhìn. Thân hình nó có vẻ rắn chắc, mạnh khỏe. Ngắm nó tôi thấy sự an lạc. Có lẽ cái chữ le bien-être của tiếp Pháp theo nghĩa chính xác nhất là dùng vào đấy thì rất đúng. Và rất hay nữa. Tôi thấy tim nó đập điều hòa. Phổi nó, dạ dày nó, ruột nó, gan nó, các hạch tiết tuyến của nó làm việc điều hòa. Cái gì cũng thông suốt, cái gì cũng không bị trục trặc. Giả dụ nó bị nhức răng thì cái diện mạo của nó sẽ nhăn nhó, sẽ khó chịu, nó không thể nào an nhiên hạnh phúc như thế kia được. Tôi ngắm nó như ngắm một sự toàn bích, như ngắm một bông hoa, như ngắm một cảnh bình minh. Và tôi chợt thấy chân như và niết bàn hiện hữu. Tôi bị thâu hút vào hình bóng đó và an nhiên trầm tĩnh ngắm nhìn đứa bé như biểu hiện của pháp thân, của niết bàn, của sự an lạc. Tôi thấy sự an lạc đó nơi cách nhìn, mỗi cái và cơm, mỗi cái ngước mắt. Tôi biết chắc rằng lúc đó nó không có ý thức phân biệt rằng nó thuộc giai cấp nghèo, nó không thấy cái quần cụt đen đúa của nó là xấu xí so với quần áo sang trọng của những đứa trẻ khác, rằng chân nó không có giày đẹp, rằng ghế nó ngồi là một cái đòn khập khểnh nghèo nàn. Không không phân biệt, nó không tủi thân, nó không ham muốn. Mà nó sung sướng hoàn toàn, an lạc hoàn toàn. Chỉ nhìn nó, tôi cũng thấy an lạc tràn ngập cả bản thể. Lúc đó có mấy cái bóng đi qua đường, mầu tím mầu đỏ. Tôi thấy nó ngước lên nhìn một một chút – tôi theo dõi nó rất tỷ mĩ – rồi lại đưa mắt trở về với đám bọt nước trước sân, miệng vẫn nhai và cái đầu gục gặc có vẻ thích chí lắm. Tôi biết nó không mảy may chú ý về những người vừa đi qua đường mà tôi biết chắc là hai người thiếu nữ mang dù, vài tôi thoáng thấy những cái áo màu tím màu đỏ. Và chắc chắn cũng vì những cái màu đó, những cái màu chói lọi đó, mà nó ngước mắt lên mà thôi. Mặt nó không lộ một tí thay đổi nào khi nhìn lên. Bỗng tôi thấy nó đưa mắt về phía đầu đường và miệng nó nở một nụ cười rạng rỡ. Nó hoàn toàn bị thu hút bởi cái cảnh tượng đầu đường. Thấy rõ sự sung sướng cực độ biểu lộ trên mặt nó, tôi cũng nhìn về đầu đường. Tôi thấy có hai đứa trẻ đẩy một chiếc xe mây có bốn bánh gỗ đi lại, trên xe có em bé ngồi. Tất cả đều ở truồng. Và cả ba đứa nô đùa thích thú trong mưa. Những chiếc bánh xe gỗ lăn mau, thỉnh thoảng gặp những vũng nước trên đường bắn tung tóe ra hai bên. Tôi nhìn trở lại đứa bé đang ăn cơm. Nó ngừng hẳn công việc ăn và theo dõi trò chơi của ba đứa trẻ ngoài đường. Hai mắt sáng như sao. Tôi không biết hai mắt của tôi có phản chiếu hai mắt của nó không, nhưng có một điều tôi biết rõ là lúc đó tôi cũng sung sướng cực kỳ. Có lẽ là không sung sướng bằng nó, cũng có thể là tôi sung sướng hơn nó, hơn ở chỗ tôi biết sung sướng.
Bỗng tôi nghe nó dạ một tiếng và ôm bát đũa vào nhà. Có lẽ cha mẹ nó gọi vào để bảo nó xới thêm một bát cơm nữa. Hồi lâu tôi thấy n ó không trở ra. Nó có thể trở vào ngồi ăn chung với bố mẹ nó. Cũng có thể nó bị mắng là ăn một chén cơm lâu quá không xong chỉ lo ngồi chơi ở ngoài ngưỡng cửa. Nhưng mà bị mắng như thế thì tôi nghiệp quá. Người ta không biết được rằng nó được sống ở thiên đường ở niết bàn, ở chân như. Người ta không biếùt được rằng những phân biệt, những mừng tủi, những toan tính giết chết thiên đường. Xin đừng la mắng ánh sáng, đừng la mắng những con chim mùa xuân bé nhỏ.
Làm sao anh lên thiên đường được nếu anh không trở thành trẻ thơ. Làm sao anh thấy được chân như bằng con mắt phân biệt. Những hàng chữ này tôi muốn tự nhiên mà trở thành thơ dại. Tôi muốn đè cổ Nguyên Hưng xuống để xem cái xoáy tóc ở phía nào. Một xoáy ở với cha, hai xoáy ở với mẹ, ba xoáy ở với dì… mấy xoáy thì ở với quê hương nhỉ. Tôi đang ngồi đây, chờ Nguyên Hưng trả lời. Tuyết giờ này đang rơi. Tôi muốn liệng về cho Nguyên Hưng một nắm lạnh buốt.
Ngày xưa chúng ta đã từng ước muốn làm những chàng dũng sĩ cần thiết cho cuộc đời, “bể trầm luân lấp cho bằng mới thôi”. Nhưng chúng ta không biết rằng những chất liệu nào người ta có thể tạo nên một chàng dũng sĩ. Chúng ta muốn được như những chàng dũng sĩ trong các truyện kiếm hiệp. Bây giờ ngồi đây, nhớ lại ước ao đó mà bấc giác mỉm cười. Bộ mặt chúng mình không giống gì một dũng sĩ cả. Thà như ngày xưa cầm kiếm tre đánh nhau và bắt chước y hệt của những lời kiếm khách. Bây giờ nơi thành phố náo nhiệt và lạnh buốt này viết cho Nguyên Hưng lòng tôi cũng vẫn còn đôi chút rộn ràng về cái mộng ngày xưa. Thì ra cuộc đời từ khi có cái mộng của chúng ta vẫn là một cuộc đời kiên nhẫn, kiên nhẫn chờ đợi những chàng dũng sĩ không thể không có trong cuộc đời. Nhưng mà các chàng dũng sĩ ngày xưa trước khi xuống núi cứu giúp đời đều được huấn luyện võ nghệ thời gian lâu dài với các bậc kiếm tiên sư phụ. Còn vốn liếng của chúng ta chỉ có một cuốn Tỳ Ni Nhật Dụng và những cái tài nấu cơm, quét sân, gánh nước, bổ củi. Đã thế trong những kẻ học làm dũng sĩ như chúng ta, có nhiều người không nắm được về kỹ thuật nào về sự nấu cơm, quét sân, gánh nước và bổ củi ấy. Rồi bị bắt buộc vào núi, hoặc tình nguyện xuống núi. Tài nghệ không có, bản lĩnh không có làm sao mà cứu giúp đời. Ấy vậy mà một số người trong chúng ta đã tưởng mình là những chàng dũng sĩ thực thụ. Những chàng dũng sĩ cần thiết cho cuộc đời. Và chính cuộc đời cũng nói như thế, cũng công nhận như thế! Cuộc đời chỉ cần những chàng dũng sĩ giả hiệu, và các chàng dũng sĩ như chúng ta vì thế càng ngày càng tin chắc mình là dũng sĩ. “Cuộc đời nếu không có ta…” Nếu không có ta, chắc cuộc đời đã tàn lụi rồi nhỉ. Nhưng mà Nguyên Hưng ơi trong những năm ở Phương Bối và chính ngay bây giờ nữa, cuộc đời đã tàn rụi đâu. Cuộc đời còn đó, kiên nhẫn chờ đợi mà. Chỉ sợ những người muốn làm dũng sĩ không chờ đợi được chính mình mà thôi. Chúng ta đã gặp những chàng dũng sĩ trên bước đi của chúng ta. Không có bản lĩnh thực của dũng sĩ, họ phải mượn tạm khí giới của cuộc đời. Họ sử dụng được tiền bạc, danh vọng và thế lực. Nhưng mà những khí giới ấy chỉ có thể đối phó với cuộc đời thôi chứ không thể đối phó với bản thân và bảo vệ cho đời sống thực sự của chính các chàng dũng sĩ. Để đối phó với vấn đề sinh tử của chính mình, các chàng dũng sĩ phải dùng sự bận rộn. Sự bận rộn, sự bận rộn. Ai chế tạo ra hóa phẩm kỳ diệu này mà sức tàn phá không khác bom nguyên tử, không khác chi khói thuốc phiện. Cái thế giới nội tâm trống trải quá, và con người bây giờ có thể đối phó với một cuộc chiến tranh dễ dàng hơn đối phó với một cái trống trải của lòng mình. Bận rộn công việc thì than phiền là bận rộn chẳng có thì giờ nghỉ ngơi được. Con người bây giơ không biết nghỉ ngơi. Hoặc giả chỉ biết nghỉ ngơi bằng những loại bận rộn khác, cũng được gọi là bận rộn. Hễ có được một chút thì giờ rỗi rãi ngừng tay thì không chịu đựng nổi. Phải với tay vặn cái nút thu thanh. Hoặc phải vớ lấy một tờ báo, đọc bất cứ bài vở gì, tin tức gì. Đọc quảng cáo cũng được. Phải có một cái gì để nhìn, để nghe, để nói, để trấn giữ đừng để cho cái đầu của sự trống trải xuất hiện. Mặt mũi của sự trống trải sao mà kinh khiếp quá.
Nguyên Hưng, hồi nhỏ tôi có đọc những câu chuyện nói về kẻ ra ngoài thì tả xung hữu đột oai phong lẫm liệt nhưng đến khi về tới nhà là sợ vợ thin thít không dám cựa quậy. Thì những chàng dũng sĩ của ra cũng thế đó. Nhìn qua cái bận rộn của họ, ta có nghĩ rằng họ là dũng sĩ thật nhưng đến khi theo họ trở về nội tâm thì ta tháy tình cảnh tan hoang bi thảm không cùng. Chàng dũng sĩ của chúng ta đi xuống núi là để chuyển hóa cuộc đời nhưng rốt cuộc lại bị cuộc đời chuyển hóa… Tay ấn không vững thì đã không trị được âm binh ma chướng mà còn bị âm binh ma chướng vật ngã nữa. Chàng dũng sĩ của chúng ta không có được một chút bản lĩnh tâm linh nào thì làm sao có thể là một chàng dũng sĩ thật sự?
Nguyên Hưng cũng biết rằng cái cuốn Tỳ Ni Nhật dụng ấy là một thứ sách “binh pháp nhập môn” của chúng ta; thứ sách khi chúng ta mới được gia nhập thiền môn thì chúng ta phải lấy ngay sách đó làm sách gối đầu giường. Nó chỉ cho chúng ta nắm lấy tâm ý của chúng ta. Trong những phương pháp động tác thường nhật như ăn uống, đi đứng, nằm ngồi, làm việc… Chúng ta phải tự theo dõi chúng ta, dò kiếm những dấu chân và công việc đó khó khăn như công việc dò theo dấu chân trâu để tìm ra con trâu lạc. Dễ gì mà dò biết được lối đi nẻo về của tâm của ý. Tâm ý chúng ta cũng như con vượn chuyền cành. Nó chuyền cành này sang cành khác, thoan thoát mau lẹ. Bắt được nó không phải là chuyện dễ, nhưng công việc ở đây không phải là công việc bắn chết. Công việc ở đây không phải là công việc dọa dẫm, ép buộc. Công việc ở đây là biết được đường đi nẻo về của nó, để không cần dọa dẫm ép buộc mà vẫn có thể đi sát với nó, có nó trong tay bất cứ lúc nào mình muốn. Cuốn sách mỏng đó cho ta những biện pháp đầu để đối phó, hồn nhiên mà vô cùng hiệu lực. Nó dạy ta quan sát và điều phục theo một đường hướng rất thich hợp thiên nhiên tất cả mọi động tác thân thể ngôn ngữ tâm lý của chúng ta. Khi ta đưa hai bàn tay vào chậu nước trong chẳng hạn, nó dạy ta làm phát khởi trong có một tư tưởng trong sáng, tin tưởng và ý thức: “Khi tôi rửa tay bằng nước trong, tôi ước ao bằng mọi người trong chúng ta đều được hai bàn tay tinh khiết để có thể tiếp nhận và duy trì chân lý”. Và trong tất cả mọi động tác, những tư tưởng trong kia đến cùng với ý thức minh mẫn, để tạo nên chánh niệm làm cho mọi động tác thường được coi là tầm thường nhất như đi vệ sinh, hốt rác, chặt cũi… cũng trở nên thánh thiện. Tràn ngập tính chất thi ca và nghệ thuật. Za-zen. Thiền thì đâu cần ngồi. Cuộc đời không phải để mà ngồi dù ngồi chín năm xây mặt vào vách cũng thế. Ngồi chỉ là những bước đầu. Cũng vì vậy mà chúng ta đã được hướng dẫn nấu cơm, rửa bát không chỉ là để có bát sạch. Nói cho đúng mức ngôn ngữ, thì nấu cơm không phải để có cơm, rửa bát không phải để có bát sạch. Và nấu là nấu chứ không phải là nấu cho xong, rửa là rửa chứ không phải là rửa cho xong với ý định là làm cho xong kẻo mệt, làm cho rồi bổn phận, để mà nghỉ, để mà tham thiền, thì việc làm ấy sẽ là hư công, vô ích, không nghĩa gì đối với thiền học. Rửa bát, quét lá trước sân, những việc ấy phải là thiền, là tu, là con đường thành Phật. Thành Phật không do sự lễ lạy, cúng vái ngồi “thiền”. Thiền là ăn, là thở, là nấu cơm, là gánh nước, là chùi cầu vệ sinh. Thiền là dọi ý thức minh mẫn vào mọi động tác thân khẩu ý, là làm cho rạng rỡ những chiếc lá khô, những viên sỏi nhỏ, những đống phân bón, những cành cũi mục… làm cho rạng rỡ tất cả mọi đường đi nẻo về của tâm, của ý. Cho nên Nguyên Hưng biết rằng nắm được cái kỹ thuật nấu cơm, rửa bát, quét sân và nhặt củi ấy thì mới mong xuống núi làm chàng dũng sĩ. Một chàng dũng sĩ như thế thì có thể cười đùa trước các vũ khí của cuộc đời như tiền bạc, danh vọng và quyền thế. Một chàng dũng sĩ như thế thì có thể ngồi trên những đợt sóng thành bại mà không bị đưa lên dìm xuống bởi những đợt sóng thành bại và một chàng dũng sĩ như thế ít ai biết là một chàng dũng sĩ.
Nguyên Hưng, dù sao mùa xuân cũng đã thấy thấp thoáng ở quê nhà. Dù cho quê nhà đang lâm vào tình trạng khốn khổ đau thương đi nữa thì mùa Xuân cũng nên trở về để trao cho Việt Nam khổ đau bức thông điệp hy vọng của sự sống mầu nhiệm, để tất cả chúng ta đặt niềm tin ở tương lai mà vững lòng đi tới. Tuyết đang rơi trước cửa sổ tôi, màu xanh còn vắng mặt. Nhưng thiều quang sẽ đến. Và hàng cây trụi lá khổ hạnh kia cũng như những bải cỏ chôn vùi dưới tuyết kia sẽ lấy lại được màu xanh mơn mởn của mùa Xuân thịnh vượng.