Giới thứ tư: Ái ngữ và lắng nghe
Ý thức được những khổ đau đo lời nói thiếu chánh niệm gây ra, con xin học theo hạnh ái ngữ và lắng nghe để dâng tặng niềm vui cho người và làm vơi bớt khổ đau của người. Biết rằng lời nói có thể đem lại hạnh phúc hoặc khổ đau cho người, con nguyện chỉ nói những lời có thể gây thêm niềm tự tin, an vui và hy vọng, những lời chân thật có giá trị xây dựng sự hiểu biết và hòa giải. Con nguyện không nói những điều sai với sự thật, không nói những lời gây chia rẽ và căm thù. Con nguyện không loan truyền những tin mà con không biết chắc là có thật, không phê bình và lên án những điều con không biết chắc. Con nguyện không nói những điều có thể tạo nên sự bất hòa trong gia đình và đoàn thể, những điều có thể làm tan vỡ gia đình và đoàn thể.
Tục ngữ Việt Nam có câu: ‘Lời nói chẳng mất tiền mua.’ Ta chỉ cần cân nhắc lựa lời là có thể làm cho người khác đẹp lòng. Dùng ngôn ngữ cho có chánh niệm, với tâm Từ, là thực tập hạnh rộng rãi, hiến tặng. Vì vậy Giới này có liên hệ trực tiếp tới Giới Thứ Hai. Chỉ cần thực tập ái ngữ ta đã có thể làm cho nhiều người hạnh phúc. Một lần nữa ta lại thấy tính tương dung của Năm Giới.
Nhiều người nghĩ rằng họ chỉ có thể thực tập hạnh Thí khi nào họ đã tích tụ được một món tài sản nho nhỏ. Tôi biết những người trẻ mơ được giàu có để có thể mang hạnh phúc lại cho người khác: ”Tôi muốn trở thành bác sĩ hay thành chủ tịch một công ty lớn để có thể làm thật nhiều tiền và giúp nhiều người.” Họ không biết rằng thường khi đã giàu người ta lại khó thực tập hạnh Thí hơn. Nếu ta được thúc đẩy bởi từ bi thì có rất nhiều cách để mang hạnh phúc lại cho kẻ khác ngay bây giờ, bắt đầu bằng ngôn ngữ thân ái. Cách ta nói có thể mang lại cho người khác niềm vui, hạnh phúc, sự tự tin, hy vọng, lòng tin, và giác ngộ. Nói năng có chánh niệm là một thực tập sâu sắc.
Bồ Tát Quan Thế Âm là một người đã học được nghệ thuật nghe và nói một cách sâu sắc để giúp người ta buông đi những sợ hãi, khổ đau, và tuyệt vọng của mình. Ngài là mẫu mực của phép tu tập này, cánh cửa Ngài mở ra gọi là ”Phổ Môn”, cánh cửa mở ra tất cả. Nếu chúng ta thực tập nghe và nói theo hạnh Bồ Tát Quan Thế Âm, ta cũng sẽ có thể mở được cánh cửa Phổ Môn và mang niềm vui, an lạc đến cho bao người và làm vơi đi nỗi lầm than của họ.
”Hải chấn triều âm thuyết Phổ Môn
Cửu liên hoa lý hiện đồng chơn
Dương chi nhất đích chơn
Cam Lộ Tán tác sơn hà đại địa xuân.”
(Phổ Môn vọng tiếng triều dâng
Bé thơ xuất hiện giữa lòng đoá sen
Cam Lộ một giọt rưới lên
Xuân về trên khắp mọi miền núi sông.)
Tôi biết bài thơ đẹp này khi học Kinh Pháp Hoa ở tuổi mười sáu. Khi ta nghe ”tiếng hải triều”, phép tu của Bồ Tát Quan Thế Âm, tượng trưng cho cánh cửa Phổ Môn, ta biến thành đứa bé sinh ra trong lòng hoa sen. Chỉ một giọt nước từ bi từ cành dương liễu của Bồ Tát, mùa xuân trở về trên trái đất khô cằn của chúng ta. Trái đất khô cằn tượng trưng cho thế giới của lầm than, đau khổ. Giọt nước từ bi là sự tu tập tâm Từ, tượng trưng bởi giọt nước trên cành dương liễu. Bồ Tát Quan Thế Âm được người Trung Quốc, Việt Nam, Triều Tiên, và Nhật Bản miêu tả như một người cầm nhành dương liễu. Ngài nhúng nhành dương vào nước từ bi trong trái tim Ngài, nơi nào Ngài rảy nước ấy lên thì nơi ấy đều có sự hồi sinh. Khi Ngài rảy nước Cam Lộ ấy lên những cành cây khô, chết, thì những cành cây ấy xanh tươi trở lại. Những cành cây chết cũng tượng trưng cho đau khổ, lầm than; cây cỏ xanh tươi tượng trưng cho sự quay về của an lạc. Chỉ cần một giọt nước ấy thôi, mùa Xuân đã trở về trên Đại Địa.
Trong Phẩm ”Phổ Môn” của Kinh Pháp Hoa, tiếng nói của Bồ Tát Quan Thế Âm (Avalokitesvara) được diễn tả bằng năm cách: ”Tiếng Nhiệm, Tiếng Quan Âm, Tiếng Phạm, tiếng Hải Triều, Tiếng Vượt Thoát Tiếng Đời. Hãy thường nên quán niệm.”
Trước hết là tiếng Nhiệm mầu (Diệu Âm.) Đây là thứ ngôn ngữ mở ra cánh cửa Phổ Môn và khiến cho tất cả đều được khai thông trở lại. Thứ tiếng này rất dễ nghe. Thứ tiếng này làm cho khoẻ khoắn, đem đến sự bình tĩnh, yên ủi, và trị liệu cho tâm hồn. Bản chất của âm thanh này là từ bi.
Thứ hai là tiếng Quan Âm (Quán Thế Âm.) Avalokitesvara có nghĩa là ”người nhìn sâu vào cuộc đời và lắng nghe tiếng kêu thương của cuộc đời.” Tiếng này làm vơi đi những nỗi khổ niềm đau của chúng ta, vì đó là tiếng của người hiểu ta một cách sâu sắc – những đau đớn, tuyệt vọng, và sợ hãi của ta. Khi thấy mình được hiểu, chúng ta bớt khổ đi rất nhiều.
Thứ ba là tiếng Phạm (Phạm Âm.) Phạm (Brahma) có nghĩa là cao quý – không phải là tiếng thường tình, mà là ngôn ngữ cao quý, phát sinh xuất từ ước muốn mang lại hạnh phúc và lấy đi khổ đau. Từ, Bi, Hỷ, và Xả là Tứ Phạm Trú (Brahmaviharas), chỗ cư trú cao quý của chư Bụt và chư vị Bồ Tát. Nếu ta muốn chung sống với chư Bụt và chư vị Bồ Tát, ta có thể an trú trong bốn toà nhà này.
Trong thời của Bụt, mục đích tu tập của nhiều người là để sinh và sống chung với Phạm Thiên. Điều này cũng giống như phép tu của đạo Ki-tô, muốn lên thiên đường sống với Thượng Đế. ”Trong nhà của Cha ta có rất nhiều toà nhà lớn,” và các bạn muốn sống trong một trong những toà nhà đó. Với những người muốn cộng trú với Phạm Thiên, Bụt nói: ”Hãy thực tập bốn nơi cư trú cao quý: Từ, Bi, Hỷ, và Xả.” Nếu ta muốn chia sẻ một lời dạy của Bụt với những người bạn theo đạo Ki-Tô thì cũng vậy: ”Thượng đế là tình thương, bác ái, niềm vui, và sự công bình không thiên vị.” Nếu anh muốn sống với Thượng Đế thì hãy thực tập bốn nơi an trú đó. Nếu anh không thực tập bốn điều này, thì cho dù anh có cầu nguyện hay nói về sống với Chúa bao nhiêu đi nữa cũng không làm sao có được chuyện lên Thiên Đường.
Thứ tư, tiếng Hải Triều (Hải Triều Âm) là tiếng của Phật Pháp. Đây là một thứ tiếng mầu nhiệm, thứ tiếng có thể làm im bặt mọi tà kiến và ức đoán. Đó là tiếng Sư Tử Hống, mang lại sự im lặng tuyệt đối cho núi rừng, và mang đến sự chuyển hoá và trị liệu.
Thứ năm, tiếng Vượt Thoát Tiếng Đời (Thắng bỉ Thế Gian Âm) là tiếng nói không có gì sánh kịp. Tiếng nói này không nhằm vào danh, lợi, hay một khía cạnh đua tranh nào. Đây là sự im lặng sấm sét làm tiêu tan mọi ý niệm và khái niệm.
Tiếng Nhiệm, tiếng Quan Âm, tiếng Phạm, tiếng Hải Triều, tiếng Vượt Thoát Tiếng Đời là những tiếng mà ta cần phải lưu ý tới. Quán chiếu về năm thứ tiếng này tức là chúng ta đang giúp Bồ Tát Quan Thế Âm mở cửa Phổ Môn, cánh cửa của lắng nghe đích thực, nói năng đích thực.
Bởi vì Ngài sống một đời sống có chánh niệm, luôn luôn quán chiếu vào cuộc đời, bởi vì Ngài là người quán sát thế gian, Quan Thế Âm nhận ra bao nhiêu là đau khổ. Ngài biết rằng rất nhiều khổ đau đã được sinh ra từ lời nói thiếu chánh niệm, và từ sự không biết lắng nghe; vì vậy Ngài thực tập lời nói chánh niệm, từ ái, và lắng nghe sâu. Bồ Tát Quan Thế Âm có thể được xem như một người có thể dạy ta cách hay nhất để hành trì Giới thứ Tư.
”Ý thức được những khổ đau do lời nói thiếu chánh niệm (và sự không biết lắng nghe) gây ra, con xin học theo hạnh ái ngữ và lắng nghe để dâng tặng niệm vui cho người và làm vơi bớt khổ đau của người.” Đây chính là pháp môn Phổ Môn mà Bồ Tát Quan Thế Âm thực tập.
Chưa bao giờ trong lịch sử nhân loại chúng ta có nhiều phương tiện truyền thông như bây giờ – truyền hình, viễn thông, điện thoại, máy fax, radio, đường dây nóng, đường dây đỏ – nhưng chúng ta vẫn tiếp tục là những hòn đảo tách rời. Có quá ít truyền thông giữa những thành viên trong gia đình, giữa những cá nhân trong xã hội, và giữa các quốc gia. Chúng ta khốn đốn vì bao nhiêu cuộc chiến tranh và xung đột. Rõ ràng chúng ta chưa trau dồi nghệ thuật nghe và nói. Chúng ta không biết lắng nghe nhau. Chúng ta ít có khả năng để theo đuổi một cuộc đàm thoại thông minh và có ý nghĩa. Cánh cửa vạn năng của sự truyền thông cần phải được mở ra một lần nữa. Không truyền thông được ta sẽ bệnh, và một khi bệnh đã nặng lên, ta sẽ đau khổ và vung vãi khổ đau của mình lên kẻ khác.
Chúng ta trả tiền cho các nhà tâm lý trị liệu lắng nghe nỗi khổ niềm đau của chúng ta, nhưng nếu các nhà tâm lý trị liệu không thực tập Phổ Môn, họ sẽ không thành công được. Những nhà tâm lý trị liệu cũng là những con người, cũng phải đối diện với những khổ đau như tất cả chúng ta. Họ có thể có khó khăn với vợ hay chồng, với con cái, bạn bè, và xã hội. Họ cũng có những nội kết. Họ có thể có nhiều khổ đau chất chứa, không thể nói với bất cứ ai, kể cả người thân thương nhất trong đời họ. Làm sao họ có thể ngồi đó lắng nghe những khổ đau của ta và thấu hiểu được những khổ đau đó? Các nhà tâm lý trị liệu cần phải thực tập Phổ Môn, tức là Giới Thứ Tư – lắng nghe và ai ngữ.
Trừ phi chúng ta chịu khó nhìn sâu vào bản thân mình, việc thực tập này sẽ không dễ chút nào. Nếu trong ta có quá nhiều khổ đau thì ta khó có thể lắng nghe hay nói những lời dễ thương với kẻ khác. Trước hết ta phải nhìn sâu vào bản chất của cơn giận, sự tuyệt vọng, và đau khổ của mình để tự tháo gỡ cho mình, xong ta mới có thể rảnh tay cho kẻ khác. Giả dụ chồng mình hôm thứ Hai đã nói điều gì đó không dễ thương, làm mình đau. Anh ta đã dùng lời lẽ thiếu chánh niệm, và lại không có khả năng lắng nghe. Nếu ta trả lời ngay lúc ấy, từ sự bực bội và đau khổ của mình, ta có nguy cơ làm anh ta đau, cũng như đào sâu thêm những niềm đau đã có của anh ấy. Ta phải làm gì đây? Nếu ta đè nén cơn giận của mình hay làm thinh, ta có thể gây tổn hại cho mình, bởi nếu ta đàn áp cơn giận trong ta thì ta cũng đang đàn áp chính mình. Ta sẽ khổ sau này, và nỗi khổ của ta sẽ mang lại thêm nhiều đau khổ cho chồng ta.
Cách thực tập hay nhất lúc đó là thở vào và thở ra để làm lắng xuống cơn giận của mình, xoa dịu niềm đau: ‘Thở vào, tôi biết là tôi giận. Thở ra, tôi làm lắng dịu cảm giác giận của tôi.’ Chỉ cần thở cho sâu với cơn giận của mình, ta sẽ làm cho nó lắng lại. Ta có chánh niệm về cơn giận của mình chứ không đè nén nó. Khi chúng ta đã có đủ bình tĩnh, ta có thể sử dụng ngôn ngữ chánh niệm. Một cách thân ái và chánh niệm, ta có thể nói: ”Anh ơi, em muốn anh biết rằng em đang giận. Những lời anh nói làm em rất đau, em muốn anh biết điều đó.” Chỉ nói như vậy thôi, một cách bình tĩnh và chánh niệm, sẽ làm cho ta vơi nhẹ phần nào. Thở với chánh niệm để làm lắng xuống cơn giận của mình, ta sẽ có thể nói cho người kia biết là mình đang khổ. Trong thời gian đó, ta sống với cơn giận của mình, tiếp xúc với nó bằng năng lượng chánh niệm. Ta không hề chối bỏ nó.
Khi nói với các nhà tâm lý trị liệu về điều này, tôi gặp phải một vài khó khăn. Khi tôi nói cái giận làm chúng ta khổ, họ cho điều này có nghĩa là cái giận là một cái gì tiêu cực, cần phải bị lấy ra. Nhưng tôi luôn nói rằng cái giận là một hiện tượng có tính hữu cơ, cũng giống như tình thương vậy. Giận có thể trở thành thương. Phân xanh của chúng ta có thể trở thành một hoa hồng. Nếu ta biết cách chăm sóc rác hữu cơ, ta có thể biến nó thành một hoa hồng. Ta nên gọi rác là tiêu cực hay tích cực đây? Rác có thể là tích cực, nếu ta biết xử lý nó. Cái giận cũng vậy. Nó có thể là tiêu cực, nếu ta không biết xử lý nó, nhưng nếu ta biết cách xử lý cơn giận của mình, thì cơn giận đó có thể rất tích cực. Chúng ta không cần phải bỏ đi một thứ gì hết.
Sau khi đã thở vào, thở ra vài lần để lấy lại bình tĩnh, cho dù cơn giận vẫn còn có đó, ta có chánh niệm về nó, ta có thể nói với người kia rằng ta giận. Ta cũng có thể nói với người ấy rằng ta muốn nhìn sâu vào nó, và cũng muốn người ấy cũng nhìn sâu vào nó. Rồi ta có thể hẹn gặp nhau tối thứ Sáu để cùng nhìn vào vấn đề. Một người nhìn vào những gốc rễ của khổ đau của mình là đã hay lắm rồi, hai người nhìn thì hay hơn, và hai người cùng nhìn với nhau thì hay nhất.
Tôi đề nghị tối thứ Sáu vì hai lý do. Thứ nhất, lúc này ta đang còn giận, nếu ta bắt đầu bàn thảo bây giờ thì có thể rất mạo hiểm. Ta có thể nói những điều làm cho tình trạng tệ thêm hơn. Từ bây giờ cho đến chiều thứ Sáu, ta có thể thực tập nhìn sâu vào bản chất của cái giận của mình, và người kia cũng có thể làm như vậy. Trong khi lái xe, người kia có thể tự hỏi: ”Cái gì nghiêm trọng vậy? Tại sao cô ấy không vui? Phải có nguyên do.” Trong khi lái xe, ta cũng sẽ có cơ hội nhìn sâu vào đó. Trước tối thứ Sáu, một hay cả hai người có thể thấy gốc rễ của vấn đề và có thể nói và xin lỗi với người kia. Và tối thứ Sáu, hai người có thể uống trà và vui vẻ với nhau. Nếu hẹn ngày giờ, hai người sẽ có thời gian để lắng lại và nhìn sâu. Đây là thiền tập. Thiền là làm lắng con người mình lại và nhìn sâu vào bản chất của những nỗi khổ niềm đau của mình.
Đến tối thứ Sáu, nếu nỗi khổ vẫn chưa được chuyển hoá, ta sẽ có thể thực tập nghệ thuật của Quan Thế Âm. Hai người ngồi lại với nhau và thực tập lắng nghe sâu – một người phát biểu trong khi người kia lắng nghe thật sâu. Khi nói, ta nói lên sự thực sâu xa nhất mà ta thấy, và ta thực tập ái ngữ. Chỉ với ngôn ngữ đó người kia mới có cơ hội để nghe hiểu và chấp nhận. Trong khi lắng nghe, ta biết rằng chỉ bằng cách lắng nghe sâu như vậy ta mới có thể làm vơi đi nỗi khổ của người kia mà thôi. Nếu chỉ lắng nghe bằng nửa lỗ tai thôi thì ta không thể làm được chuyện đó. Ta phải có mặt đích thực và sâu sắc. Phẩm chất lắng nghe của ta phải cao thì mới có thể giúp được người kia vơi đi nỗi khổ. Đây là sự thực tập Giới thứ Tư. Lý do thứ hai để đợi đến tối thứ Sáu là nếu ta hoá giải được sự buồn bực đó vào tối thứ Sáu thì ta sẽ được vui vẻ với nhau vào hai ngày cuối tuần.
Giả sử ta có một nội kết nào đó với một thành viên trong gia đình hay cộng đồng, và ta không vui khi gặp người đó. Ta có thể nói những câu đơn giản, sơ sơ, nhưng không thoải mái để nói những chuyện sâu hơn với người đó. Rồi một bữa nọ, trong khi làm việc nhà, ta nhận thấy người kia không làm gì cả, không chia xẻ những công việc cần phải làm, và ta thấy khó chịu. ”Tại sao tôi phải làm nhiều như vậy, còn cô ấy không làm gì cả? Đáng lẽ cô ta phải làm cái gì mới phải.” Vì sự so sánh này, ta mất an lạc. Nhưng thay vì nói với người kia: ”Em làm ơn đến đây phụ bớt công việc,” ta lại bảo mình: ”Cô ấy lớn rồi. Tại sao mình lại phải nói với cô ấy? Lẽ ra cô ấy phải có trách nhiệm hơn!” Ta nghĩ như vậy bởi vì ta đã sẵn có nội kết với người kia. Con đường ngắn nhất bao giờ cũng là con đường thẳng. ‘B’ có thể đến với ‘A’ và nói, ”Em ơi, làm ơn đến phụ một tay.” Nhưng ta không làm như vậy. Ta giữ trong lòng và phiền trách người kia.
Lần sau lại xảy ra y hệt như vậy, cảm thọ của ta lại càng mạnh hơn. Nội kết của ta lớn lên từ từ, cho đến khi ta khổ quá và cần phải than thở với người thứ ba. Ta cần tìm một sự cảm thông để chia bớt nỗi khổ tâm đó. Thay vì nói thẳng với ‘A,’ ta lại nói với ‘C.’ Ta chọn ‘C’ vì ta nghĩ ‘C’ là một đồng minh, sẵn sàng đồng ý với ta là ‘A’ cư xử không tốt.
Nếu ta là ‘C’ thì ta phải làm gì? Nếu ta đã có sẵn những nội kết về ‘A,’ thì ta có thể sẽ rất mừng khi có người cũng cảm thấy như ta vậy. Nói với nhau như vậy có thể sẽ làm ta thấy khoẻ hơn. Hai người trở thành liên minh – ‘B’ và ‘C’ chống lại ‘A.’ Tự nhiên ‘B’ và ‘C’ thấy gần với nhau hơn, và cả hai thấy xa cách với ‘A,’ A sẽ nhận ra điều ấy.
‘A’ có thể rất dễ thương. Cô sẽ có khả năng đáp lại trực tiếp với ‘B’ nếu ‘B’ nói được cảm thọ của mình cho cô ấy. Nhưng ‘A’ không hay biết gì về sự uất ức của ‘B.’ ‘A’ chỉ cảm thấy có một sự lạnh nhạt giữa mình và ‘B,’ mà không biết tại sao. A nhận thấy ‘B’ và ‘C’ trở nên gần gũi, trong khi cả hai đều nhìn mình một cách khó chịu. Và cô nghĩ: ‘Họ không muốn mình, thì mình cũng chẳng cần họ.’ Cô rút lui, và tình trạng càng tệ hơn. Thế tam giác đã được thiết lập.
Nếu là ‘C’ thì trước hết, tôi sẽ lắng nghe ‘B’ một cách chăm chú, hiểu rằng ‘B’ cần chia xẻ nỗi khổ tâm của mình. Biết rằng con đường thẳng là con đường ngắn nhất, tôi sẽ khuyến khích ‘B’ đến nói thẳng với ‘A.’ Nếu như ‘B’ không làm được chuyện này, tôi sẽ đề nghị đến nói với ‘A’ dùm cho ‘B,’ với sự hiện diện của ‘B,’ hoặc chỉ đi nói một mình.
Nhưng quan trọng hơn cả là tôi sẽ không nói với ai khác những gì ‘B’ đã tin tưởng nói cho tôi. Nếu không có chánh niệm, tôi có thể nói với người khác những điều tôi biết về cảm thọ của ‘B,’ và thế nào gia đình hay cộng đồng cũng sẽ lộn xộn. Nếu tôi làm những điều này – khuyến khích ‘B’ nói thẳng với ‘A’ hoặc nói với ‘A’ dùm cho ‘B,’ và không nói lại với ai những điều ‘B’ đã nói với mình – tôi sẽ có thể bẻ gãy thế tam giác. Làm như vậy sẽ có thể giúp hoá giải vấn đề, mang lại an lạc cho gia đình, cộng đồng, và xã hội.
Nếu ta thấy ở trong cộng đồng có người đang gặp khó khăn với người khác, ta phải giúp đỡ ngay. Nếu sự việc càng kéo dài lâu thì sẽ càng khó giải quyết. Cách hay nhất để giúp là thực tập ngôn ngữ chánh niệm và tập lắng nghe sâu. Giới thứ Tư có thể mang lại hoà bình, hiểu biết, và hạnh phúc cho mọi người. Phổ Môn là một cánh cửa nhiệm mầu. Ta sẽ được sinh lại một lần nữa trên đoá sen và giúp cho những người khác, trong đó có gia đình, cộng đồng, và xã hội của ta, cũng được sinh ra trên đó.
Lời nói có thể có giá trị xây dựng hay có tính phá hoại. Nói với chánh niệm có thể mang lại hạnh phúc thật sự; lời nói thiếu chánh niệm có thể giết hại. Khi một người nói với ta những điều làm cho ta khoẻ mạnh và hạnh phúc, thì đó là món quá quý hoá nhất người ấy có thể hiến tặng. Thỉnh thoảng, có người nói với ta những điều rất ác và rất đau lòng khiến ta muốn đi tự tử; ta mất tất cả mọi hy vọng, tất cả niềm vui sống của mình.
Người ta giết nhau vì lời nói. Khi ta cuồng tín biện hộ cho một chủ thuyết, nói rằng chỉ có đường lối suy nghĩ hay tổ chức xã hội này mới là hay nhất, và nếu có người làm vướng đường mình thì mình phải đàn áp hay loại trừ người đó. Điều này liên hệ mật thiết với Giới Thứ Nhất – thứ ngôn ngữ này có thể giết, không phải chỉ có một người mà rất nhiều người. Khi ta tin vào một điều gì mạnh mẽ như vậy, ta có thể bỏ hàng triệu người vào phòng hơi ngạt. Khi ta dùng lời nói để nâng cao một chủ thuyết, xúi dục người ta giết để bảo vệ và nâng cao chủ thuyết của mình, ta có thể giết hàng triệu người. Giới thứ Nhất và thứ Tư của Năm Giới tương tức với nhau.
Giới thứ Tư cũng liên hệ với Giới thứ Hai, về trộm cắp. Cũng như đã có ”kỹ nghệ mãi dâm,” có một thứ gọi là ‘kỹ nghệ nói dối.” Nhiều người phải nói dối để thành công như một nhà chính trị, hay như một người bán hàng. Một giám đốc liên hiệp chế tác các phương tiện truyền thông nói với tôi rằng nếu ông ta nói sự thật về các sản phẩm của công ty mình thì người ta sẽ không mua. Ông nói đến những điều tích cực về sản phẩm mà ông biết là không đúng, và tránh không nói đến những hiệu quả tiêu cực của sản phẩm. Ông biết là mình đang nói dối, và ông cảm thấy rất tồi tệ về việc này. Nhiều người cũng đang bị kẹt vào những tình huống tương tự. Trong chính trị cũng vậy, người ta nói láo để được bầu. Đó là vì sao ta có thể nói đến thứ ”kỹ nghệ nói dối.”
Giới này cũng liên hệ đến Giới thứ Ba. Khi một người nói, ‘Tôi yêu em,’ đó có thể là một lời nói dối. Đó có thể chỉ là một biểu lộ của sự ham muốn. Có quá nhiều quảng cáo liên hệ đến tình dục.
Trong truyền thống đạo Bụt, Giới thứ Tư luôn được diễn tả như là tránh làm bốn việc:
1. Không nói sự thật (ngoa ngôn.) Nếu đó là đen mà mình lại nói là trắng.
2. Phóng đại (ỷ ngữ.) Bịa đặt, hoặc diễn tả sự việc đẹp hơn hay xấu hơn thực tế của nó.
3. Nói lắt léo (lưỡng thiệt.) Đến người này nói thế này, đến người khác lại nói thế khác.
4. Ngôn ngữ thô ác (ác ngữ.) Lăng mạ hay xúc phạm người khác.
”Con nguyện chỉ nói những lời có thể gây thêm niềm tự tin, an vui và hy vọng, ….” Điều này cần phải được thực tập với trẻ em. Nếu ta nói với em bé rằng em không được tích sự gì cả, em bé sẽ khổ trong tương lai. Cần phải luôn luôn nhấn mạnh những điều tích cực, và đầy hứa hẹn với con mình, và với vợ hay chồng mình nữa.
”(Con nguyện chỉ nói)… những lời chân thật có giá trị xây dựng sự hiểu biết và hoà giải. Con nguyện không nói những điều sai với sự thật, không nói những lời gây chia rẽ và căm thù. Con nguyện không loan truyền những tin mà con không biết chắc là có thật, không phê bình và lên án những điều con không biết chắc. Con nguyện không nói những điều có thể tạo nên sự bất hoà trong gia đình và đoàn thể, những điều có thể làm tan vỡ gia đình và đoàn thể.”
Hoà giải là một pháp tu sâu, ta có thể thực tập được với sự lắng nghe và ngôn ngữ chánh niệm. Hoà giải có nghĩa là mang lại hoà bình và hạnh phúc cho quốc gia, con người, và thành viên trong gia đình ta. Đây là công việc của một vị Bồ Tát. Để hoà giải, ta phải có nghệ thuật lắng nghe, cũng như nắm được nghệ thuật ái ngữ. Ta phải tránh liên kết mình với một bên để có thể hiểu được cả hai phía. Đây là một phép tu khó.
Trong cuộc chiến ở Việt Nam, chúng tôi cố gắng thực tập điều này. Chúng tôi cố không liên minh với một phe tham chiến nào, cộng sản hay quốc gia. Ta chỉ giúp được khi nào ta đứng vượt lên trên mâu thuẫn và thấy được cả khía cạnh tốt lẫn khía cạnh xấu của hai bên. Làm như vậy, ta đặt mình vào một tình thế nguy hiểm, vì ta có thể bị cả hai bên ghét. Bên này nghi ta là công cụ của bên kia, và bên kia lại nghi ta là công cụ của bên này. Ta có thể bị giết cùng một lúc bởi hai phe. Đó chính là điều nhiều Phật tử Việt Nam phải chịu đựng trong chiến tranh. Chúng tôi không liên kết với cộng sản, nhưng cũng không liên kết với phe theo Mỹ. Một bên nói anh không thể hoà giải với phe theo Mỹ. Bên kia nói anh không thể hoà giải với cộng sản. Nếu ta nghe lời hai phía thì thật chẳng bao giờ có thể hoà giải với ai cả.
Chúng tôi đã đào tạo các tác viên đi đến các vùng hẻo lánh giúp đỡ về các vấn đề sức khoẻ, kinh tế, giác dục, và chúng tôi bị cả hai phía nghi ngờ. Công việc hoà giải của chúng tôi không phải chỉ là việc nói, mà còn là việc làm. Chúng tôi đã nỗ lực giúp những người nông dân tìm thấy hy vọng. Chúng tôi đã giúp nhiều người tị nạn ổn định lại đời sống ở những ngôi làng mới. Chúng tôi đã giúp bảo trợ hơn mười ngàn cô nhi. Chúng tôi đã giúp nông dân dựng lại những ngôi làng đổ nát. Công việc hoà giải không phải chỉ có tính ngoại giao; nó là những gì rất cụ thể. Trong lúc ấy, chúng tôi cũng đồng thời nói lên tiếng nói hoà bình từ trong tim mình. Chúng tôi nói người trong nhà phải nhìn nhau như anh em và chấp nhận lẫn nhau. Mình không nên giết nhau vì một chủ thuyết. Thông điệp ấy không được ưa chuộng chút nào trong tình trạng chiến tranh.
Những bài viết của tôi bị kiểm duyệt từ cả hai phía. Thơ của tôi bị cấm bởi hai bên. Các bạn tôi đã in chui một trong những tập thơ ấy vì chính phủ Sài Gòn không cho phép xuất bản. Và phía cộng sản công kích tập thơ này trên đài, nói rằng nó có hại cho cuộc đấu tranh, và có thể đã bị xúi giục bởi CIA. Cảnh sát quốc gia đã tới các nhà sách để tịch thu những bài thơ này. Ở Huế, một người cảnh sát tử tế đã đến một nhà sách Phật giáo và nói rằng cuốn sách này không nên bày ra; nó cần phải được dấu và đưa ra khi có người hỏi mà thôi. Không phải chỉ có những cố gắng nói lên tiếng nói quan tâm và đề nghị những giải pháp dàn xếp vấn đề giữa anh em của chúng tôi mới bị đàn áp, mà cả những cố gắng giúp đỡ đồng bào của chúng tôi cũng bị đàn áp. Nhiều tác viên của chúng tôi đã bị giết và bắt cóc bởi hai phía. Một số tác viên đã bị ám sát bởi những người Ca-tô-lic cuồng tín, nghi chúng tôi làm việc cho cộng sản, và một số tác viên bị phía cộng sản bắt đi. Những tác viên của chúng tôi rất được dân vùng quê thương mến. Họ là những người trẻ tận tụy, trong đó có cả các thầy và các sư cô trẻ. Họ làm việc không lương, họ chỉ muốn phụng sự và thực hành Phật Pháp. Trong tình trạng chiến tranh, hành trang của họ là từ bi và phụng sự hết lòng, họ chỉ nhận một chút thù lao nhỏ bé để sống mà thôi. Họ đi đến những vùng quê, không mong một chút gì đền đáp lại.
Tôi nhớ một thanh niên tên Ân, chuyên giúp dân học các phương pháp nuôi gà tân tiến. Anh bày cho họ những kỹ thuật ngừa bệnh. Khi một người nông dân hỏi anh: ”Chú được chính phủ trả lương bao nhiêu một tháng vậy?” Ân nói, ”Tụi con không được chính phủ trả gì hết. Tụi con không phải từ chính phủ, tụi con đến từ chùa. Chùa gởi chúng con tới đây để giúp quý bác.” Ân không nói với bác nông dân chất phác rằng mình thuộc trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội, sáng lập bởi Vụ Xã Hội của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Nói như vậy thì phức tạp quá, cho nên Ân chỉ nói là mình được chùa gởi tới.
”Sao lại đến từ chùa?”
Ân nói, ”Tụi con làm công quả.”
Bác nông dân ngạc nhiên: ”Tui nghe nói muốn làm công quả thì phải tới chùa. Sao bây giờ chú lại tới đây làm công quả?”
Chàng thanh niên trả lời: ”Bác thấy đó, bây giờ bà con khổ quá, Phật cũng phải ra ngoài này để giúp. Tụi con là Phật tử phải làm công quả ở đây, nơi có đồng bào khổ.” Tuyên bố đó đã trở thành nền tảng cho triết lý phụng sự xã hội của chúng tôi, Đạo Bụt nhập thế. Bụt phải ở trong xã hội. Ngài không thể nán lại trong chùa lâu hơn nữa, vì con người ta khổ quá.
Chỉ trong vài năm, chúng tôi đã trở nên rất quen thuộc với bà con nông thôn. Chúng tôi không có nhiều tiền, nhưng vì chúng tôi làm việc theo lối làm công quả cho nên được bà con thương. Phía cộng sản biết vậy và không muốn chúng tôi ở đó, ban đêm họ đến và hỏi ai cho phép chúng tôi làm việc ở đây. Các tác viên nói chúng tôi không có phép từ phía nào, dù là quốc gia hay cộng sản. Chúng tôi chỉ tới đây làm công quả thôi. Một lần, người cộng sản ra lệnh cho các tác viên rút khỏi một vùng, nói rằng: ”Chúng tôi sẽ không chịu trách nhiệm cho sự an toàn của quý vị nếu quý vị ở đây quá hai mươi bốn tiếng.” Lần khác, những người cuồng tín đến từ phía chính phủ, một cách không chính thức, và hỏi các tác viên họ có phải là tác viên xã hội của Phật giáo không. Và họ mang năm học viên ra bờ sông, và sau khi kiểm lại một lần nữa cho chắc đây là những tác viên xã hội của Phật giáo, họ nói: ”Chúng tôi rất tiếc, nhưng chúng tôi phải giết quý vị.” Họ bắn cả năm người. Chúng tôi bị cả hai bên đàn áp vào ban đêm. Họ biết nếu đàn áp chúng tôi vào ban ngày thì nông dân sẽ phản đối.
Một trái lựu đạn ném vào phòng tôi đã bị tấm màn làm cho chệch hướng. Một đêm khác, nhiều quả lựu đạn đã được ném vào ký túc xá của trường, làm hai người chết và nhiều người bị thương. Một thanh niên bị bại liệt, và sau này được điều trị ở Đức. Một thiếu nữ bị hơn một ngàn miểng nổ cắm vào mình. Cô mất rất nhiều máu, và đã được một người bạn Nhật, cộng tác với chúng tôi, cứu sống. Sau đó, chúng tôi đã mang được cô sang Nhật để giải phẩu. Người ta đã cố để lấy các mảnh sắt vụn ra, nhưng vẫn còn 300 mảnh không thể lấy ra được và vẫn còn nằm trong thân thể cô.
Một hôm, trong khi tôi đang đại diện cho Phái Đoàn Hoà Bình của Phật Giáo để tham dự Đàm Phán Hoà Bình tại Paris, tôi nhận được một tin nhắn qua điện thoại từ Sài Gòn cho biết bốn tác viên vừa bị bắn chết. Tôi đã khóc. Chính tôi đã kêu gọi họ đến để được đào luyện như những tác viên. Một người bạn có mặt lúc ấy đã nói với tôi: ”Thưa Thầy, Thầy cũng như một vị tướng lãnh đạo đội quân bất bạo động, và khi quân đội của Thầy làm việc cho tình thương và sự hoà giải thì thế nào cũng có những thương vong. Thầy đâu cần phải khóc.”
Tôi nói, ”Tôi không phải là một ông tướng. Tôi là một con người. Tôi cần được khóc.” Sáu tháng sau, tôi viết một vở kịch về cái chết của những người học trò này, với tựa đề: Nẻo Về Tiếp Nối Đường Đi. [3]
Công việc hoà giải không phải đơn thuần là công việc ngoại giao. Không phải vì mình đi gặp vài chục vị Ngoại Trưởng mà mình làm công việc hoà giải. Ta phải dùng thân thể, thời gian, và cuộc đời mình để làm công việc hoà giải. Ta làm việc này bằng nhiều cách, và ta có thể bị đàn áp bởi những người ta đang tìm cách giúp đỡ. Ta phải lắng nghe và hiểu nỗi khổ của bên này, rồi lại đến lắng nghe nỗi khổ của bên kia. Như vậy ta sẽ có thể lần lượt nói cho mỗi bên về những nỗi khổ mà phía bên kia phải gánh chịu. Đây là công việc cốt yếu, và đòi hỏi phải có can đảm. Chúng ta cần nhiều người có khả năng lắng nghe, ở Nam Phi, ở Trung Đông, ở Đông Âu, và nhiều nơi khác.
Giới thứ Tư là một Giới Bồ Tát. Chúng ta cần học hỏi cho sâu sắc để có thể thực tập giỏi, trong phạm vi cá nhân, gia đình, cộng đồng, xã hội và thế giới.
[3]. Love In Action: Writings on Nonviolent Social Change (xuất bản bởi Berkeley: Paralax Presss, 1993.)