Kinh Lợi Dưỡng

Dù trời có rơi mưa thất bảo xuống thì cái ham muốn của con người cũng không thỏa mãn. Cái vui ít mà cái khổ thì nhiều, biết được như thế thì có thể trở thành bậc hiền nhân.

 

Lợi Dưỡng Phẩm Pháp Cú Kinh đệ tam thập tam

利養品法句經第三十三

Kinh Lợi Dưỡng

Dịch từ kinh Pháp Cú trong Hán tạng

Kinh thứ 33

 

Phẩm này có 20 bài kệ. Phẩm này không có trong bản Pháp Cú tiếng Pali. Trong Xuất Diệu Kinh (Đại Chánh 212), phẩm này là phẩm thứ 14, và trong Pháp Tập Yếu Tụng Kinh (Đại Chánh 213) phẩm này là phẩm thứ 13.

Lợi dưỡng ở đây là sự hưởng thụ tiện nghi. Người tu phải để hết thì giờ và tâm lực để tìm cầu giải thoát, chứ không phải để chạy theo lợi dưỡng. Hai mươi bài kệ trong kinh này là hai mươi tiếng chuông chánh niệm cho người xuất gia. Bài kệ thứ 20 dạy: thà nuốt viên sắt cháy, thà uống nước đồng sôi, còn hơn là phá giới mà cứ tiếp tục tiếp nhận của tín thí cúng dường. Tăng đoàn xuất gia phải được tổ chức và giáo hóa cho hết lòng và khéo léo mới tránh được sự hư hỏng của người xuất gia, dù lớn tuổi hay còn nhỏ tuổi

 

Bài kệ 1

Ba tiêu dĩ thật tử                                 芭  蕉  以  實  死

Trúc lô thật diệc nhiên                          竹  蘆  實  亦  然

Cự lư tọa nhâm tử                                詎  驉  坐  妊  死

Sĩ dĩ tham tự tang                                士  以  貪  自  喪

 

Cây chuối có hoa có trái rồi chết, cây tre và cây lau có hoa rồi cũng chết, con lừa có thai cũng chết. Con người vì tham lam cũng tự chôn mình.

 

Bài kệ 2

Như thị tham vô lợi                        如  是  貪  無  利

Đương tri tùng si sanh                   當  知  從  癡  生

Ngu vi thử hại hiền                         愚  為  此  害  賢

Thủ lãnh phần vu địa                     首  領  分  于  地

 

Tham như vậy là thực sự không có lợi ích. Cái tham do cái si sinh ra. Người u mê vì tham lam mà đang tâm làm hại người hiền. Cả đến các vị thủ lĩnh cũng đã phải rơi rụng như thế.

 

Bài kệ 3

Thiên vũ thất bảo                           天  雨  七  寶

Dục do vô yếm                               欲  猶  無  厭

Lạc thiểu khổ đa                             樂  少  苦  多

Giác giả vi hiền                               覺  者  為  賢

 

Dù trời có rơi mưa thất bảo xuống thì cái ham muốn của con người cũng không thỏa mãn. Cái vui ít mà cái khổ thì nhiều, biết được như thế thì có thể trở thành bậc hiền nhân.

 

Bài kệ 4

Tuy hữu thiên dục                             雖  有  天  欲

Tuệ xả vô tham                                 慧  捨  無  貪

Lạc ly ân ái                                      樂  離  恩  愛

Vi Phật đệ tử                                   為  佛  弟  子

 

Tuy có những cõi trời ở dục giới, nhưng người có trí tuệ vẫn biết buông bỏ mà không ham sinh lên. Biết vui cái vui của sự xa lìa ân ái, đó mới là đệ tử của Bụt.

 

Bài kệ 5

Viễn đạo thuận tà                            遠  道  順  邪

Tham dưỡng Tỳ-kheo                      貪  養  比  丘

Chỉ hữu san ý                                 止  有  慳  意

Dĩ cung bỉ tính                                以  供  彼  姓

 

Đi theo hướng tà, tham đắm lợi dưỡng, chỉ có ý mong cầu được người ta cúng dường cho mình, vị Tỳ-khưu dần dần bỏ xa con đường đạo.

 

Bài kệ 6

Vật y thử dưỡng                              勿  猗  此  養

Vi gia xả tội                                     為  家  捨  罪

Thử phi chí ý                                   此  非  至  意

Dụng dụng hà ích                             用  用  何  益

 

Đừng vì phẩm vật cúng dường mà làm lễ cầu an xả tội cho người tại gia. Làm như thế không đúng đạo pháp và không đem lại lợi ích nào cho cả hai phía.

 

Bài kệ 7

Ngu vi ngu kế                                 愚  為  愚  計

Dục mạn dụng tăng                         欲  慢  用  增

Dị tai thất lợi                                   異  哉  失  利

Nê hoàn bất đồng                           泥  洹  不  同

 

Những kẻ si mê thì tính toán một cách u mê, do đó cái tham dục và cái kiêu mạn càng ngày càng tăng. Tính toán như vậy thì thật là lạ quá, bởi vì làm như thế thì lợi ích chân thực cũng không đạt được mà Niết Bàn cũng trở nên xa vời.

 

Bài kệ 8-9

Đế tri thị giả                                    諦  知  是  者

Tỳ-kheo Phật tử                              比  丘  佛  子

Bất lạc lợi dưỡng                            不  樂  利  養

Nhàn cư khước ý                           閑  居  却  意

Tự đắc bất thị                                 自  得  不  恃

Bất tòng tha vọng                           不  從  他  望

Vọng bỉ Tỳ-kheo                             望  彼  比  丘

Bất chí chánh định                          不  至  正  定

 

Người thấy được sự thực đó mới là một vị Tỳ-khưu đích thực, đệ tử của Bụt. Người ấy không tìm cái vui nơi sự tìm cầu lợi dưỡng; trái lại, biết sống thong dong một mình, dẹp bỏ dục ý, tự mình là mình, không nhờ cậy ai, cũng không mong cầu cái gì từ một kẻ khác. Một vị Tỳ-khưu mà cứ trông cầu nơi người khác thì không bao giờ đạt được chánh định.

 

 

Bài kệ 10

Phu dục an mạng                              夫  欲  安  命

Tức tâm tự tỉnh                                 息  心  自  省

Bất tri kế số                                     不  知  計  數

Y phục ẩm thực                                衣  服  飲  食

 

Nếu muốn an tâm lập mạng phải biết tự tỉnh, làm lắng dịu tâm ý, đừng quá lo lắng về chuyện ăn uống và y phục.

 

Bài kệ 11

Phu dục an mạng                           夫  欲  安  命

Tức tâm tự tỉnh                             息  心  自  省

Thủ đắc tri túc                                取  得  知  足

Thủ hành nhất pháp                         守  行  一  法

 

Nếu muốn an tâm lập mạng phải biết tự tỉnh, làm lắng dịu tâm ý, biết tri túc khi tiếp nhận cúng dường, quyết tâm bảo hộ và hành trì một phép tri túc ấy.

 

Bài kệ 12

Phu dục an mạng                            夫  欲  安  命

Tức tâm tự tỉnh                               息  心  自  省

Như thử tạng huyệt                          如  鼠  藏  穴

Tiềm ẩn tập giáo                             潛  隱  習  教

 

Nếu muốn an tâm lập mạng, thì phải như con chuột đất ẩn mình trong hang để chuyên lo thực tập.

 

Bài kệ 13

Ước lợi ước nhĩ                               約  利  約  耳

Phụng giới tư tánh                            奉  戒  思  惟

Vi tuệ sở xưng                                 為  慧  所  稱

Thanh cát vật đãi                              清  吉  勿  怠

 

Đừng thọ dụng nhiều, đừng nghe và nói chuyện thế gian, phải sử dụng thì giờ mà thực tập giới luật và thiền định. Đừng có lười biếng thì mới xứng đáng với đời sống phạm hạnh và mới có cơ hội đạt được tuệ giác.

 

Bài kệ 14

Như hữu tam minh                           如  有  三  明

Giải thoát vô lậu                               解  脫  無  漏

Quả trí tiên thức                               寡  智  鮮  識

Vô sở ức niệm                                 無  所  憶  念

 

Phải nuôi ý đạt cho được tam minh và đi đến quả vị giải thoát vô lậu. Nếu kiến thức hẹp hòi và trí tuệ thô lậu thì sẽ không ghi nhớ được những gì mình học hỏi.

 

Bài kệ 15

Kỳ ư thực ẩm                                其  於  食  飲

Tùng nhân đắc lợi                          從  人  得  利

Nhi hữu ác pháp                            而  有  惡  法

Tùng cúng dường tật                     從  供  養  嫉

 

Những kẻ chỉ vì ẩm thực, chỉ đi theo người để tìm cầu lợi dưỡng sẽ làm phát sinh ra nhiều điều xấu. Bởi vì cái ganh ghét cũng được phát sinh từ sự tranh giành lợi dưỡng.

 

Bài kệ 16

Đa kết oán lợi                                 多  結  怨  利

Cường phục pháp y                       強  服  法  衣

Đãn vọng ẩm thực                          但  望  飲  食

Bất phụng Phật giáo                       不  奉  佛  教

 

Tranh giành, tìm cầu lợi dưỡng tạo thành nhiều oán hận. Khoác chiếc pháp y mà chỉ cầu chuyện lợi dưỡng thì không thể nào nói rằng mình đang phụng hành theo lời Bụt dạy.

Bài kệ 17

Đương tri thị quá                            當  知  是  過

Dưỡng vi đại úy                             養  為  大  畏

Quả thủ vô ưu                                寡  取  無  憂

Tỳ-kheo thích tâm                          比  丘  釋  心

 

Phải biết hành xử như thế là một lỗi lầm rất lớn, phải biết sợ hãi khi thấy có người hành xử như thế. Vị Tỳ-khưu chỉ cần tiếp nhận phẩm vật cúng dường một cách chừng mực, do đó mà luôn luôn được mãn ý và đạt tới vô ưu.

 

Bài kệ 18

Phi thực mạng bất tế                      非  食  命  不  濟

Thục năng bất sủy thực                  孰  能  不  揣  食

Phu lập thực vi tiên                        夫  立  食  為  先

Tri thị bất nghi tật                          知  是  不  宜  嫉

 

Đã đành rằng không có thức ăn thì không có sinh mạng, ai cũng cần phải ăn mới sống. Dù phải công nhận nguyên tắc “dĩ thực vi tiên”, nhưng nếu ta biết thực hành phép tri túc thì không bao giờ còn có xảy ra sự ganh ghét.

 

 

Bài kệ 19

Tật tiên sang kỷ                              嫉  先  創  己

Nhiên hậu sang nhân                       然  後  創  人

Kích nhân đắc kích                          擊  人  得  擊

Thị bất đắc trừ                               是  不  得  除

 

Cái ganh ghét hại ta trước rồi lại hại người. Đánh người thì bị người đánh, điều đó bao giờ cũng đúng.

 

Bài kệ 20

Ninh đạm thiêu thạch                     寧  噉  燒  石

Thôn ẩm dương đồng                    吞  飲  洋  銅

Bất dĩ vô giới                               不  以  無  戒

Thực nhân tín thí                           食  人  信  施

 

Thà nuốt viên sắt cháy, thà uống nước đồng sôi, còn hơn phá giới mà cứ tiếp nhận của tín thí cúng dường.