Kinh Đời Sống Đạo Lý

Như đàn trâu qua sông, nếu con đầu đàn đi đúng thì tất cả đàn trâu đều qua sông an toàn, nếu thực thi pháp luật mà không có tà tâm thì khắp nơi dân chúng sẽ được an cư lập nghiệp.

 

Đạo Lợi Phẩm Pháp Cú Kinh đệ tam thập bát

道利品法句經第三十八

Kinh Đời Sống Đạo Lý

Dịch từ kinh Pháp Cú trong Hán tạng

Kinh thứ 38

 

Phẩm này có 20 bài kệ. Đạo lợi là lợi ích của sự tu tập. Kinh này có vẻ hướng về các giới cư sĩ tại gia, từ vua cho tới dân, từ vị thủ tướng cho tới người trong thiên hạ. Những bài kệ thứ 2, 3, 4, 5, 6 và 7 là để giáo giới các vị lãnh đạo chính trị. Và bài kệ chót nhắc nhở những người đã lăn lộn nhiều trong cuộc đời nên nhìn lại và bắt đầu đi vào nếp sống tâm linh để lo cho mai hậu: nay trên đầu ta tóc đã bạc, tuổi trẻ ta hầu như đã bị đánh cắp, thiên sứ đã đến báo tin, có lẽ đã đến lúc ta phải xuất gia.

 

Bài kệ 1

Nhân tri phụng kỳ thượng              人  知  奉  其  上

Quân phụ sư đạo sĩ                       君  父  師  道  士

Tín giới thí văn tuệ                         信  戒  施  聞  慧

Chung cát sở sanh an                    終  吉  所  生  安

 

Những ai biết vâng theo lời chỉ giáo của các bậc trên mình như vua, cha, thầy và các vị xuất gia, những ai có đức tin, có trì giới, có thực tập cúng dường, bố thí, những ai biết học hỏi chánh pháp để bồi đắp tuệ giác… những vị ấy suốt đời sẽ được sống an lành và luôn gặp may mắn.

 

Bài kệ 2

Túc mạng hữu phước khánh              宿  命  有  福  慶

Sanh thế vi nhân tôn                          生  世  為  人  尊

Dĩ đạo an thiên hạ                            以  道  安  天  下

Phụng Pháp mạc bất tùng                  奉  法  莫  不  從

 

Nhờ kiếp trước có gieo trồng phước đức nên kiếp này sinh ra được là người mà thiên hạ tôn quý. Phải biết sử dụng đạo lý để làm cho thiên hạ an ổn. Nếu mình biết hành trì đúng theo luật (Phật) pháp thì không ai lại không theo mình.

 

Bài kệ 3

Vương vi thần dân trường               王  為  臣  民  長

Thường dĩ từ ái hạ                         常  以  慈  愛  下

Thân suất dĩ pháp giới                    身  率  以  法  戒

Thị chi dĩ hưu cữu                          示  之  以  休  咎

 

Vua là vị lớn nhất đứng trên quần thần, thường nên sử dụng tâm từ ái để ban bố ân huệ xuống cho nhân dân. Nếu Vua tự mình hành trì theo giáo pháp và giới luật làm gương mẫu cho mọi người, thì mọi xáo trộn sẽ được ngưng lại.

 

Bài kệ 4

Xứ an bất vong nguy                      處  安  不  忘  危

Lự minh phước chuyển hậu             慮  明  福  轉  厚

Phước đức chi phản báo                 福  德  之  反  報

Bất vấn tôn dĩ ti                              不  問  尊  以  卑

 

Trong thời hòa bình phải nhớ tới thời loạn lạc, do đó phải tập tư duy cho sáng suốt, phải biết bồi đắp cho phước đức thêm dày. Phước đức này sẽ là hoa trái cho mọi người cùng hưởng, không phân biệt sang hèn.

 

 

Bài kệ 5

Phu vi thế gian tướng                     夫  為  世  間  將

Tu chánh bất a trụ                          修  正  不  阿  柱

Tâm điều thắng chư ác                  心  調  勝  諸  惡

Như thị vi pháp vương                     如  是  為  法  王

 

Là một vị thủ tướng, đứng trên thiên hạ mà biết tu tập theo chánh pháp, không làm những điều tham nhũng, điều phục được tâm mình và vượt thắng được mọi cám dỗ thì mình cũng đã là một vị pháp vương.

 

Bài kệ 6

Kiến chánh năng thí huệ                 見  正  能  施  惠

Nhân ái hảo lợi nhân                     仁  愛  好  利  人

Ký lợi dĩ bình quân                         既  利  以  平  均

Như thị chúng phụ thân                   如  是  眾  附  親

 

Có cái thấy chính xác rồi thì mình sẽ có khả năng ban bố ân huệ cho dân chúng, lòng nhân ái của mình đưa mình tới những hành động ích nước lợi dân. Cái lợi ấy nếu được phân bố đồng đều trong dân chúng thì tất cả mọi người đều trở nên thân cận với mình, ủng hộ mình.

 

Bài kệ 7

Như ngưu lệ độ thủy                      如  牛  厲  渡  水

Đạo chánh tùng diệc chánh            導  正  從  亦  正

Phụng Pháp tâm bất tà                  奉  法  心  不  邪

Như thị chúng phổ an                     如  是  眾  普  安

 

Như đàn trâu qua sông, nếu con đầu đàn đi đúng thì tất cả đàn trâu đều qua sông an toàn, nếu thực thi pháp luật mà không có tà tâm thì khắp nơi dân chúng sẽ được an cư lập nghiệp .

 

Bài kệ 8

Vật vọng nhiêu thần tượng                   勿  妄  嬈  神  象

Dĩ chiêu khổ thống hoạn                       以  招  苦  痛  患

Ác ý vi tự sát                                       惡  意  為  自  煞

Chung bất chí thiện phương                  終  不  至  善  方

 

Đừng thờ cúng thần tượng, cái đó chỉ đem thêm thống khổ và hoạn nạn. Cái tâm mình đã có ý ác thì không thể nào đem lại chuyện lành.

 

Bài kệ 9

Giới đức khả thị hỗ                                    戒  德  可  恃  怙

Phước báo thường tùy kỷ                          福  報  常  隨  己

Kiến Pháp vi nhân trường                          見  法  為  人  長

Chung viễn tam ác đạo                             終  遠  三  惡  道

 

Nếu ta biết nương tựa vào giới và đức thì phúc báo tốt đẹp thường đi theo ta. Thấy được con đường giáo pháp và dẫn đầu được cho người khác đi trên con đường ấy thì vĩnh viễn sẽ xa lìa được ba nẻo về xấu ác.

 

Bài kệ 10

Giới thận trừ khổ úy                                戒  慎  除  苦  畏

Phước đức tam giới tôn                          福  德  三  界  尊

Quỷ long tà độc hại                               鬼  龍  邪  毒  害

Bất phạm trì giới nhân                           不  犯  持  戒  人

 

Hành trì giới luật cho vững chãi thì sẽ chế ngự được khổ đau và sợ hãi, được hưởng phước đức và chỗ đứng đáng tôn quý trong ba cõi. Những loài quỷ thần, tà ma, rắn độc không thể nào xâm phạm được kẻ giữ giới.

 

Bài kệ 11

Vô nghĩa bất thành tín                    無  義  不  誠  信

Khi vọng hảo đấu tranh                   欺  妄  好  鬪  諍

Đương tri viễn ly thử                      當  知  遠  離  此

Cận ngu hưng tội đa                      近  愚  興  罪  多

 

Phải biết xa lánh những kẻ bất nghĩa, không thành tín, những kẻ dối trá và ưa tranh cãi. Gần gũi những kẻ ngu phu như thế chỉ làm cho cái xấu ác của mình lớn lên mà thôi.

 

Bài kệ 12

Nhân hiền ngôn thành tín               仁  賢  言  誠  信

Đa văn giới hành cụ                      多  聞  戒  行  具

Đương tri thân phụ thử                 當  知  親  附  此

Cận trí thành thiện đa                   近  智  誠  善  多

 

Phải biết gần gũi những bậc hiền nhân, có lòng nhân từ, biết nói lời thành tín, học nhiều biết rộng, hành trì giới luật đầy đủ. Thân cận những người có trí tuệ như thế thì cái thiện của mình càng ngày càng lớn.

 

Bài kệ 13

Thiện ngôn bất thủ giới                  善  言  不  守  戒

Chí loạn vô thiện hành                   志  亂  無  善  行

Tuy thân xứ tiềm ẩn                       雖  身  處  潛  隱

Thị vi phi học pháp                        是  為  非  學  法

Nói thì thật hay nhưng không hành trì giới luật, tâm ý thác loạn, chưa làm được gì có ích cho đời thì dù có ẩn cư cũng không phải là người thật sự đang tu tập chánh pháp.

 

Bài kệ 14

Mỹ thuyết chánh vi thượng                美  說  正  為  上

Pháp thuyết vi đệ nhị                        法  說  為  第  二

Ái thuyết khả bỉ tam                         愛  說  可  彼  三

Thành thuyết bất khi tứ                    誠  說  不  欺  四

 

Có bốn thứ ngôn từ đáng mến: thứ nhất là trình bày được sự thật một cách đẹp đẽ, thứ hai là thuyết pháp, thứ ba là nói lời ái ngữ, thứ tư là nói lời thành thật không dối trá.

 

Bài kệ 15

Vô tiện hoạch lợi nhận                    無  便  獲  利  刃

Tự dĩ khắc kỳ thân                         自  以  剋  其  身

Ngu học hảo vọng thuyết                 愚  學  好  妄  說

Hành khiên thọ hạnh lệ                  行  牽  受  幸  戾

 

Người phàm tục không biết sử dụng những ngôn từ ấy cho nên cứ nói những điều hư vọng dối trá, những lời như dao bén có công dụng làm tổn thương ngay chính thân mạng mình, những lời đưa tới hệ lụy.

 

Bài kệ 16

Tham dâm sân khuể si                      貪  婬  瞋  恚  癡

Thị tam phi thiện bản                      是  三  非  善  本

Thân dĩ tư tự hại                              身  以  斯  自  害

Báo do si ái sanh                             報  由  癡  愛  生

 

Thèm khát, sân hận và si mê là ba cái bất thiện căn bản, vì chúng mà ta tự hại mình, bởi vì quả báo xấu luôn luôn sinh ra từ tham ái và si mê.

 

Bài kệ 17

Hữu phước vi thiên nhân                    有  福  為  天  人

Phi pháp thọ ác hình                         非  法  受  惡  形

Thánh nhân minh độc kiến                   聖  人  明  獨  見

Thường thiện thừa Phật lệnh               常  善  承  佛  令

 

Có phước đức thì được sinh lên các cõi thiên và nhân, sống ngược với giáo pháp thì mang hình hài xấu ác. Chỉ những người có con tim thánh thiện mới thấy rõ được điều này cho nên họ biết thực hành theo lời Bụt chỉ dạy.

Bài kệ 18

Giới đức hậu thế nghiệp                 戒  德  後  世  業

Dĩ tác phước truy thân                   以  作  福  追  身

Thiên nhân xưng dự thiện               天  人  稱  譽  善

Tâm chánh vô bất an                     心  正  無  不  安

 

Giới hạnh và đức độ tạo tác ra nghiệp lành, phước đức gây nên do đấy sẽ đi theo mình trong các đời sau. Tâm của mình chính trực thì đi đâu cũng được an vui, được hai giới thiên và nhân khen ngợi.

 

Bài kệ 19

Vi ác bất niệm chỉ                          為  惡  不  念  止

Nhật phược bất tự hối                   日  縛  不  自  悔

Mạng thệ như xuyên lưu                命  逝  如  川  流

Thị khủng nghi thủ giới                  是  恐  宜  守  戒

 

Những kẻ hành động thất đức mà không có ý thức, không biết dừng lại, càng ngày càng bị ràng buộc trong cái thế giới bưng bít của mình, không có cơ duyên tự hối cải thì mạng sống sẽ trôi qua nhanh như một dòng sông. Thấy vậy cho nên ta sợ hãi và biết mình cần phải trì giới không làm chuyện thất đức.

 

Bài kệ 20

Kim ngã thượng thể thủ                  今  我  上  體  首

Bạch sanh vi bị đạo                        白  生  為  被  盜

Dĩ hữu thiên sứ triệu                      已  有  天  使  召

Thời chánh nghi xuất gia                時  正  宜  出  家

 

Nay trên đầu ta đã bắt đầu có tóc bạc, tuổi trẻ ta hầu như đã bị đánh cắp, thiên sứ đã đến báo tin, có lẽ đã đến lúc ta phải xuất gia.