Vườn Ươm vào ngày chư Tăng hoan hỷ 2022

Vào ngày 09 tháng 10, tại Tu viện Vườn Ươm – Làng Mai Thái Lan đã diễn ra Lễ Tự Tứ  kết thúc Khoá tu An Cư Mùa Mưa năm 2022 với sự tham dự của gần ba trăm vị xuất sĩ nam, xuất sĩ nữ cũng như cư sĩ nam và cư sĩ nữ. Buổi lễ diễn ra trong một buổi sáng trời trong, cơn mưa phùn nhẹ rơi lất phất làm thanh tịnh và êm dịu cả vùng đồi núi. Đất trời dường như đang hòa chung niềm vui với đại chúng.

Sau ba tháng thực tập miên mật và hết lòng, khu vườn tâm của mỗi người được chăm sóc kĩ càng giờ đây đã đơm thành những nụ cười tỏa chiếu an lạc và kết nên thật nhiều những ánh mắt lấp lánh yêu thương. Đây thật sự là ngày Tết của những người con Bụt, xuất gia cũng như tại gia. Tự tứ còn là ngày Bụt hoan hỷ, chư Tăng hoan hỷ bởi nhân dịp này, mỗi người được thực tập nương tựa Tăng thân, cầu mong sự soi sáng, chỉ dẫn từ những người bạn đồng tu đã sống và thực tập chung trong suốt thời gian an cư. Đôi mắt của Tăng thân giúp mình thấy rõ mình hơn, nhờ vậy mà mình thêm vững vàng để bước tới và tiến xa trên con đường tâm linh. Sự thực tập vững vàng của từng cá nhân sẽ góp phần vào năng lượng tập thể, làm thành sức mạnh đưa con thuyền tăng thân đi tới, tiếp tục công trình đẹp đẽ của Bụt, đem từ bi, hiểu biết đóng góp cho cuộc đời.

Trong ngày này, đại chúng cũng bày tỏ niềm biết ơn đối với liệt vị tổ tiên tâm linh cũng như huyết thống, tổ tiên đất đai bằng sự thực tập chánh niệm qua các buổi lễ như Lễ chúc tán Tổ sư Khương Tăng Hội, Lễ hiệp kỵ và đồng thời cầu nguyện bình an đến với mọi người, mọi loài bằng nghi thức Cúng đại thí thực.

Dưới đây là một vài hình ảnh của ngày Tự tứ, mời mọi người cùng sẻ chia niềm vui với đại chúng Vườn ươm:

 

Điện thư từ Đại sứ quán Pháp tại Việt Nam

Thân mến gửi tăng thân Làng Mai,

Một vĩ nhân đã rời xa chúng ta.

Tôi biết rằng những học trò của Ngài sẽ tiếp tục con đường chánh niệm mà Ngài đã mở ra.

Đại sứ quán Pháp tại Hà Nội đã đăng tải thông điệp này trên Facebook để tưởng nhớ tới một bậc thầy tâm linh vĩ đại, hiện thân của bình an, trí tuệ và sáng tạo.

“Chúng tôi xin được bày tỏ lòng kính ngưỡng đến Thiền sư Thích Nhất Hạnh, người đã viên tịch vào thứ Bảy vừa qua ở tuổi 95 tại Tổ đình Từ Hiếu, Thành phố Huế. Chúng tôi xin gửi lời phân ưu sâu sắc tới toàn thể thân quyến cùng hàng trăm ngàn học trò của Thiền sư – những người đã được Thiền sư khơi nguồn cảm hứng. 

Là một nhân vật Phật giáo lỗi lạc, một nhà hoạt động vì hòa bình nổi tiếng, Thiền sư đã tạo ảnh hưởng tâm linh sâu rộng trên toàn thế giới, đặc biệt ở Pháp, nơi Người đã sống hơn 40 năm và viết rất nhiều sách về thiền tập. Chính tại miền Tây Nam nước Pháp, Thiền sư đã tạo dựng nên Làng Mai – một trung tâm thiền tập và một tu viện Phật giáo chính ở châu Âu. 

Thiền sư Thích Nhất Hạnh đồng thời còn là một nghệ sĩ, một nhà thư pháp được nhiều người biết tới qua những tác phẩm viết bằng mực Tàu trên giấy dó mà chúng tôi đã có hân hạnh được thưởng lãm trong đợt triển lãm thư pháp của Thiền sư tổ chức tại Hà Nội hồi năm ngoái.”

 

Nicolas Warnery

Đại sứ Pháp tại Việt Nam

 

 

 

 

 

Ngày thu tri ân

Một ngày cuối tuần mùa thu, khi những tia nắng đầu ngày đang háo hức thả mình trên từng chiếc lá bạch dương reo vui trong gió, xóm Hạ chào đón quý thầy, quý sư cô và các vị thiền sinh đến tham dự ngày quán niệm. Như muôn sông chảy về biển lớn, hơn 500 người cùng hướng về thiền đường Hội Ngàn Sao để nghe pháp thoại. Trong bài pháp thoại của mình, sư cô Hội Nghiêm đã kể cho đại chúng nghe về cuộc đời và sự nghiệp của Sơ tổ Thiền tông Việt Nam – Khương Tăng Hội. Nội dung kinh 16 phép quán niệm hơi thở mà sư cô trình bày cũng tiếp nối hạnh nguyện của chư Tổ – như những giọt mưa pháp, rơi xuống, tắm mát khu vườn tâm của mỗi người.

Sau đó, đại chúng được đứng bên nhau hát những bài thiền ca và thực tập thiền hành. Vòng tròn Tăng thân hôm nay thêm rộng lớn với sự có mặt của các vị thiền sinh trong tăng thân cư sĩ thành phố Toulouse, miền Tây Nam nước Pháp. Dưới mỗi bước chân an lành, từng đóa hoa của lòng biết ơn hé nở nhẹ nhàng nơi thật địa. Hoa cũng nở thầm lặng cả trong lòng người bởi hôm nay là một ngày đặc biệt khi đại chúng vừa được tưởng nhớ và nuôi dưỡng trong lòng công hạnh của Tổ sư Khương Tăng Hội và cũng gửi biết bao lòng biết ơn tới người Mẹ đã ban tặng cho đời một vị Thầy vĩ đại – Thầy Làng Mai của tất cả các con gần xa. Không gian yên lặng của bữa trưa thêm ấm cúng khi đại chúng được dùng cơm chung với chư Tổ, với Mẹ và với Thầy. Trong giờ phút thân thương và đầm ấm đó, tiếng hát họa mi của Sư cô Chân Không đã vang lên thanh thoát, nhẹ nhàng nhắc nhở mỗi người về lòng biết ơn tới bát cơm mình được thọ nhận. Mọi người thực tập ăn cơm im lặng với thật nhiều niềm vui,  ý thức rằng cả vũ trụ đang dang tay góp mặt để nuôi dưỡng mình.

Để ăn mừng ngày Tiếp nối của Thầy 11.10, chiều cùng ngày, bên tách trà nóng và những miếng bánh của tình huynh đệ, tăng thân lại quây quần bên nhau để kể cho nhau nghe những kỉ niệm về Thầy, đọc thơ Thầy và hát những bài thơ đã được phổ nhạc của Thầy… Nhân ngày biểu hiện của Thầy, chúng con nguyện cùng nhau đi tới, nỗ lực duy trì những thực tập Thầy đã trao truyền. Và để dòng chảy tâm linh tiếp tục chảy tới những nơi đang cần đến chúng con và pháp môn tu học.

Với bước chân chánh niệm Thầy đã trao truyền, chúng con nguyện bước xuống thật địa những bước chân thảnh thơi và vững chãi để mời Thầy có mặt trong từng phút giây hiện tại của tất cả chúng con.

 

 

Nếp chùa

Thuở ấy, chúng ta sống còn nhiều khó khăn, thu nhập còn thấp. Ăn mặc thiếu thốn, dậy sớm thức khuya để làm việc. Ngôi chùa mới được dựng lên còn sơ sài, vật liệu làm chùa được tận dụng từ ngôi trường cũ, có sẵn ở khuôn viên chùa. Phật tử lên rẫy canh tác mưu sinh, đốn cây gỗ Ké còn lại. Gỗ Ké rất cứng, chắc và chịu được nắng mưa. Cưa, búa, bào, đục chạm vào là rất mau lụt, phải mài dũa nhiều lần trong một buổi, làm rất nhọc sức và mất công. Phật tử cùng nhau công quả, nhờ thêm bò kéo cộ mới chở gỗ về được. Đường đất lên rẫy qua dốc rồi lại xuống trũng. Cộ bò mới kéo được đất đắp nền. Đi xa chở nước tưới nền, nước đựng vào các thùng phuy. Phải hết lòng mới dựng được chùa rộng thoáng và mới có nơi cho đông người ngày đêm tu học. Hồi ấy, điện nước chưa có, đèn dầu thì hạn chế theo chỉ tiêu, không có bán ở ngoài cửa hàng hợp tác xã. Một hộ được mấy lít theo định kỳ. Thế mà thầy trò vẫn tu học đều đặn mỗi đêm. Học giáo lý nội dung không chờ đợi thần linh, ngày giờ tốt xấu. “… Tự mình thanh tịnh mình, không ai thanh tịnh ai”. Tụng kinh sám hối bằng kinh Pháp cú. Những đoạn trong bộ Nikaya, dễ hiểu, có thể ứng dụng vào đời sống hàng ngày. Bài giảng như cách niệm Phật, cụ thể sau đây: “không đào khoai từ, khoai tía, không hái đu đủ, rau lang là niệm Phật thiết thực, an lạc ở trần gian”. Sinh hoạt không khí vui tươi, đầm ấm thân tình. Qua năm tháng, chúng ta có đủ sức duy trì, tu bổ và phát triển tuỳ duyên. Nhờ thế mà chùa mỗi ngày mỗi tươm tất hơn.

 

 

Phật tử âm thầm thu xếp việc nhà, lúc thời tiết cho phép, đem nông cụ đến cuốc đất trồng mì, bắp, đậu… Đến lúc thu hoạch, lại đến giúp đỡ, xắt phơi… Có nhà phát tâm làm giúp một sào. Diện tích đất của khuôn viên chùa là hơn 2 mẫu tây. Nhờ thế, thầy và mẹ thầy có đủ ngày tháng sống không chút thiếu thốn. Mì lát khô dư ra thì đem đổi lấy xi măng đúc nền chùa, mua gỗ để lúc cần thì sử dụng. Thời gian thầy qua Pháp tu học, phật tử ở nhà tự chia phiên nhau ngủ đêm, trực ngày để vừa tự tu học, vừa làm các việc cần làm. Còn thầy luôn để tâm nâng cao phẩm chất của sự thực tập và cải thiện phương pháp hướng dẫn sao cho hiệu quả cho mọi giới. Có bao nhiêu nghi ngờ khó khăn đã đến. Song, thuận duyên vẫn đủ để đi tới. Đó là nhờ ơn tổ tiên che chở, nhờ quý Phật tử yểm trợ hết lòng. Và nhờ lòng người cảm thông rộng mở, cho nên chúng ta vẫn thực tập chánh pháp cho tới hôm nay. Trải qua gần nửa thế kỷ, Từ Đức đã thay đổi một cách đáng trân quý, dù con đường hành trì vẫn chưa đến đâu.

Con Phật muốn tu, giáo hội giúp đỡ và xã hội khắp nơi cảm thông, lòng tin trong sáng trong chúng ta mới được lớn lên qua tháng ngày. Chúng ta thực tập đạo lý Duyên khởi, Tứ đế, Bát chánh đạo. Đặc biệt, pháp hành hằng ngày là Chánh niệm. Chánh niệm là hạt giống giác ngộ tiềm ẩn trong tâm thức. Trong mọi sinh hoạt, chúng ta nuôi dưỡng ý thức sáng tỏ bằng hơi thở, bước chân thì hạt giống giác ngộ sẽ phát khởi cho mầm, cho lá và cho cây. Cây giác ngộ giúp ta minh mẫn an lạc, hạnh phúc, hiểu và thương tự thân, mọi người, mọi loài, giúp mọi người tiếp nhận hành trì cải thiện nếp sống mỗi ngày. Lúc ấy, thiên nhiên phản hồi trị liệu dưỡng nuôi. Đó là con đường có khả năng chuyển hoá khổ đau, tạo niềm an lạc, hạnh phúc cho tự thân, cho gia đình và xã hội.

 

 

Mọi người sống hiếu thảo với chính mình, với tổ tiên và với cuộc đời. Từ lâu, chúng ta đã bỏ hút thuốc, rượu bia… xóm làng yên ổn, hiền hoà. Chúng ta đã cùng nhau trồng cây phủ xanh đồi trọc gần khoảng 9 mẫu. Tuy rằng do dịp nắng lớn, lâu ngày không mưa đã làm rừng cây bị chết, nhưng năng lượng bảo vệ thiên nhiên vẫn còn đó với đời sống của chúng ta.

Các dịp lễ lớn hoặc sáng mồng 4 Tết Nguyên Đán, chúng ta về chùa, chia nhau đi nhặt rác khó phân huỷ ở đường tàu, ở chợ Vĩnh Thái, ở nghĩa trang và một số con đường chính sau khi trình rõ với chính quyền địa phương. Chúng ta thực tập chánh niệm trong việc làm này để mọi người có hạnh phúc tập thể, tạo được một năng lượng chung để bảo vệ môi trường nơi tâm thức cộng đồng. Đó là pháp môn “niệm rác”. Pháp môn giản đơn mà ảnh hưởng rất sâu sắc và lâu dài.

Khuôn viên chùa, từ năm 1975 đến nay, không bón phân hoá học, thuốc diệt cỏ, không phun thuốc trừ sâu. Không đốt rác, rác được trộn xuống để cải thiện đất. Chúng ta đã trồng cây xanh qua nhiều giai đoạn. Ban đầu là cây Tràm, một ít cây Sứ, rồi cây Sao, Sến. Rồi cây Xà Cừ, cây Bàng nhỏ lá, cây Gió, cây Tùng, Bằng Lăng, Dầu. Cuối cùng, là một ít cây Ô Môi và cây Giáng Hương. Đến bây giờ cây xanh trồng không còn chỗ trống. Bỏ dần gần hết cây Điều và Xoài mà ban đầu đã được trồng để làm kinh tế. Chùa còn trồng thêm một ít cây Mít múi đỏ để đại chúng dùng lúc chín. Chất đốt của chùa chưa bao giờ thiếu. Vài bữa nữa thợ đến, xây hai lò nấu bằng củi có thể đảm bảo đủ cho số đông người ăn uống. Các thức ăn được nấu bằng bếp củi thì có nhiều ích lợi cho sức khoẻ hơn là nấu bằng bếp gas hay bếp điện. Đó là kinh nghiệm của đông y. Nấu củi ít ô nhiễm môi trường, ít xảy ra tai nạn cho người đứng bếp. Lò nấu củi do thợ có chuyên môn thi công, nên không những sẽ tránh được khói toả ra lung tung, mà còn ít tốn củi và ít nóng bức cho người đứng bếp. Các thứ treo ở giàn bếp được xông khói sẽ bảo quản được rất lâu và có thể làm thuốc theo đông y. Thầy trưởng ban xây dựng cho biết, chùa chuẩn bị xây 2 lò nấu củi, chi phí khoảng hơn 100 triệu. Tuy số tiền nhiều nhưng vì lợi ích nhiều mặt nên chùa vẫn thực hiện. Mong sao bếp củi được hoàn thành càng sớm càng hay.

Về phần nước uống, chúng ta đã có máy lọc nước điện phân, rất tốt cho sức khoẻ và có ích cho việc trị bệnh. Nhiều vị Phật tử xa gần vì cảm được cách sống ở Từ Đức, nên đã phát tâm yểm trợ. Nhờ vậy, chùa càng ngày càng thêm đầy đủ, có thêm điều kiện để chăm sóc cho các vị thường trú và mọi giới xa gần đến đây. Chăm sóc thân thêm sức khoẻ và tâm thấy thư thái, lắng yên. Đồng thời, biết cách chuyển hoá khổ đau, căng thẳng, chế tác an lạc, hạnh phúc ngay trong hiện tại và cả trong tương lai lâu dài. Đây là nhu cầu rất cấp thiết giữa thời đại có quá đủ tiện nghi mà đầy khó khăn, sầu khổ và chán chường.

Pháp môn chánh niệm giúp con người xuất gia hay tại gia biết thay đổi tư duy và hành động. Từ chối mọi cách sống sa vào cạm bẫy độc hại của máy móc tối tân. Từ chối thức ăn, thức uống đã được chế biến sẵn, tuy hấp dẫn cho con mắt và cho vị giác nhưng làm tổn hại cho sức khoẻ con người và cộng đồng. Nhờ vậy, mọi người dễ dàng sống theo con đường Tứ thực (Đoàn thực, Xúc thực, Tư niệm thực và Thức thực), con đường của Bát chánh đạo.

Chánh niệm về hơi thở là khi thở vào, ta để tâm bám sát hơi thở vào cho đến lúc thở ra. Khi thở ra, ta cũng để tâm bám sát hơi thở ra cho đến lúc thở vào. Bám sát hơi thở vào và hơi thở ra như vậy sẽ tạo nên sự hoà hợp giữa thân thể, hơi thở và tâm. Tâm thức làm một với hơi thở, tâm là hơi thở. Đó là thực tập sống có Chánh niệm. Chánh niệm có mặt thì Định lực có mặt, đồng thời Tuệ giác cũng có mặt. Niệm, Định, Tuệ chân chánh giúp con người biết cách sống một nếp sống an lạc và tự do. Một thời gian nếp sống ấy chín muồi, Niệm, Định, Tuệ giúp con người có cái thấy rõ bản chất của sự sống là sát na Vô thường, Vô ngã và Niết bàn. Đến đây, con người không còn bị trói buộc vào ý nghĩ, vào ý niệm sinh, già, bệnh, chết cho dù điều đó vẫn cứ diễn ra. Chúng ta thường hiểu rằng mục đích của sự tu tập là để chấm dứt luân hồi sinh tử. Nhưng luân hồi làm sao mà chấm dứt được. Vì luân hồi chấm dứt là sự suy tư trái với sự thật, trái với bản chất của sự sống, của các pháp là Vô thường, luôn biến chuyển từ dạng này qua dạng khác một cách cực kỳ nhanh chóng. Tu chỉ có mục đích là chuyển từ luân hồi sinh tử buộc ràng liền biểu hiện thành luân hồi sinh tử an lạc và tự do. Đó là đạo lý Duyên khởi tương tức “không sinh cũng không diệt, không có cũng không không, không dơ cũng không sạch, không thêm cũng không bớt. Tuệ giác qua bờ ấy không một pháp nào trên”.

 

 

Mong sao chúng ta có đầy đủ duyên lành để có thể sống theo được ít nhiều nếp sống mà đức Thế Tôn đã để lại. May thay, nhờ có bậc Thầy tuệ giác hiện tại, một bậc Thầy đã hết lòng chỉ dạy những pháp môn hành trì một cách rõ ràng và cụ thể cho mọi giới. Những pháp môn ấy đã và đang được người Việt Nam cũng như mọi người ở các nước phương Tây tiếp nhận để hành trì và tiếp tục hướng dẫn cho mọi thành phần trong xã hội bây giờ và mãi mãi. Ngỏ hầu báo đáp Năm ân cao quý sâu dày. Muốn ước mơ này trở thành sự sống cụ thể, thì chúng ta cần chia sẻ thế nào để cho con cháu mình để tâm đầu tư vào nếp sống tâm linh chân chính. Để thực hiện được điều đó thì mọi lứa tuổi cần về chùa tu tập mỗi đêm, mỗi Chủ nhật trong ngày Quán niệm. Có như vậy thì hạt giống Chánh niệm và những hạt giống tốt khác trong chiều sâu tâm thức của mỗi chúng ta mới được tưới tẩm thường xuyên và sớm có hiệu quả. Ở chùa, chúng ta lại nương nhờ vào năng lượng Chánh niệm tập thể để cùng thực hành những pháp môn cụ thể, rõ ràng. Nhờ sử dụng tiếng Việt trong sáng, linh động và chúng ta là người Việt, nên sẽ rất dễ dàng để tiếp nhận các nội dung thâm sâu như Duyên khởi, Vô ngã, Vô thường… Sự tiếp nhận này giúp cho cái học, cái hiểu của chúng ta thêm thấu đáo và sự hành trì của chúng ta mỗi ngày sẽ thêm vững chãi và thảnh thơi hơn trên con đường chánh pháp. Vì hạnh phúc an lạc cho mỗi người, mỗi gia đình và xã hội, các Phật tử thơ ấu lẫn đã lớn tuổi nên phát tâm về chùa thực tập với quý Thầy, quý Sư chú và các bạn đồng tu đang chăm chỉ thực hành.

Chùa Từ Đức, ngày 24 tháng 6 năm 2022

Thân Kính

Thích Giác Viên

 

Niềm thương bình an

Vậy là đã gần hai năm qua, cả thế giới cùng trong cơn đại nạn. Ở nơi rừng yên này, không phải kinh qua những khó khăn một cách trực tiếp, nhưng tôi vẫn tiếp xúc, vẫn đồng cảm, vẫn là một với tất cả, và có mặt ôm lấy niềm đau của nhân loại. Một hôm, trong tư thế phủ phục, tôi lắng nghe văn quán niệm về Ba cái lạy và đã có những cảm nhận thật sâu sắc, như nhịp đập yêu thương của trái tim mình.

    “Năm vóc sát đất, con tiếp xúc với mọi người và mọi loài đang có mặt với con giờ này trong sự sống.Con thấy con là sự sống mầu nhiệm đang dàn trải trong không gian. Con thấy con liên hệ mật thiết tới mọi người và mọi loài; tất cả những hạnh phúc và khổ đau của mọi người và mọi loài là những hạnh phúc và khổ đau của chính con. Con là một với những người sinh ra đã có khuyết tật, hoặc vì chiến tranh, tai nạn hay ốm đau mà trở thành khuyết tật. Con là một với những người đang bị kẹt vào những tình trạng chiến tranh, áp bức và bóc lột. Con là một với những người chưa từng có hạnh phúc trong gia đình, không có gốc rễ, không có bình an trong tâm, đói khát hiểu biết, đói khát thương yêu, đang đi tìm một cái gì đẹp, thật và lành để bám víu vào mà tin tưởng. Con là một với người đang hấp hối, sợ hãi không biết sẽ đi về đâu. Con là em bé sống trong nghèo khổ, tật bệnh, chân tay gầy ốm như những ống sậy, không có tương lai. Con là kẻ đang chế tạo bom đạn để bán cho các nước nghèo khổ.

Con là con ếch bơi trong hồ mà cũng là con rắn nước cần nuôi thân bằng thân ếch nhái. Con là con sâu con kiến mà cũng là con chim đang đi tìm kiếm con kiến con sâu. Con là cây rừng đang bị đốn ngã, là nước sông và không khí đang bị ô nhiễm, mà cũng là người đốn rừng và làm ô nhiễm không khí và nước sông. Con thấy con trong tất cả mọi loài và tất cả mọi loài trong con.” (Nhật tụng thiền môn 2012)

Bằng thiền quán, những cảnh khổ tôi có thể tiếp xúc được là hình ảnh những nạn nhân covid sống trong bất an sợ hãi, trong khổ đau khi từng người, từng gia đình, từng cộng đồng bị lây nhiễm; những đau đớn, hãi hùng, tuyệt vọng và cô đơn của những nạn nhân thiếu may mắn phải đối diện với cái chết. Khổ đau không chỉ dừng lại ở bệnh tật mà bên cạnh đó, bao nhiêu người khốn đốn do sự bất ổn của nền kinh tế, bao người thất nghiệp, bao công ty phá sản, bao người nông dân thất thu,… Nơi thì thực phẩm không đủ, nơi thì phải bỏ đi công phu lao tác của mình. Bao khổ đau, bế tắc phủ lên tất cả nhân loại không phân biệt sang hèn, giàu nghèo, màu da, tôn giáo.

Tôi ở đây không lãng quên nỗi khốn khổ ngoài kia. Tôi cũng có trái tim biết đau cái đau chung. Và tôi chọn nuôi lớn bình an của chính tôi trong đời sống hàng ngày để gởi đi năng lượng thương yêu dù nhỏ bé mong xoa dịu một đại thể đang tổn thương. Tôi chọn trân trọng những điều kiện hạnh phúc đang có quanh mình. Sự trân trọng ấy giúp tôi sống trọn vẹn từng giây phút. Dù có chuyện gì đến, tôi cũng sẽ chấp nhận vì tôi đã hết lòng với những gì tôi đã sống. Đó là cách tôi đóng góp tình thương yêu của mình cho cuộc đời.

Ta ngồi yên trước gió
Gió thổi đời lao xao
Ta ngồi yên như núi
Vững lặng niềm thương sâu

Nhìn mây bay qua núi
Hoa rơi bên trời xa
Thương đời giông gió lạnh
Bình yên ta nuôi ta

Ta không xoay gió được
Ta khó dời lao xao
Bình an ta thở nhẹ
Bình an ta về nhà

Ta không xoay gió được
Ta khó dời lao xao
Ta gom bình an lại
Gửi cuộc đời thương sâu

Ta và người không khác
Đau thương thở cùng nhau
Chắp bàn tay cầu nguyện
Mong gió đời qua mau

Có hơi thở, có sự trở về, có tình thương thắp sáng, tôi có động lực để làm giàu đời sống tâm linh của mình. Mỗi sáng thức dậy nơi góc yên, tôi chế tác từng tâm niệm an lành. Góc nhỏ của tôi vẫn đủ đầy và ấm áp. Mùa này, tôi vẫn thường nhận được chậu lúa non mà sư em gieo tặng. Mỗi sớm, những hạt sương đọng trên đầu ngọn lúa trong ngần và mầu nhiệm. Tôi có mặt quan sát và tận hưởng những gì đang xảy ra vì biết rằng sáng ra, những giọt sương sẽ tan đi, và tôi sẽ không nuối tiếc. Giọt sương trên ngọn lúa như cuộc đời mong manh, vô thường nhưng rất đẹp, rất nhiệm mầu. Tôi nhận ra cuộc đời mình cũng vậy. Tôi sẽ sống đẹp như những mầm lúa non, như những giọt sương ấy vì đó là giá trị, là ý nghĩa của việc tôi được sinh ra. Có vậy, nếu cần ra đi thì hẳn lòng tôi sẽ thanh thản.

Có những nỗi khốn khổ mà mình chẳng biết làm gì ngoài sự chấp nhận. Tôi thầm biết ơn những vị Bồ tát Phổ Hiền ngoài kia, ngày đêm chung cánh tay của mình cứu giúp người trong biển khổ. Các vị y bác sĩ, các nhà lãnh đạo chính quyền, các nhà lãnh đạo kinh tế,… các vị đã trực tiếp hành động vì thương yêu. Ở đây, tôi thực tập chế tác từ tâm, gởi đi năng lượng bình an, có mặt để ôm lấy, xoa dịu những tổn thương ngoài kia.

Đôi tay ơi cuộc đời kia quá rộng
Nhưng tấm lòng có thể hóa vô biên
Sức nhỏ bé nhưng chở tâm quảng đại
Bước vào đời thỏa nguyện với núi sông

Đôi tay ơi tuy cuộc đời vốn rộng
Hành động thôi cho tất cả lên đường
Gởi tình thương nép vào lòng khiêm hạ
Bé nhỏ vô cùng nhưng lại hóa bao la

Đôi tay ơi cứ thảnh thơi gieo hạt
Đợi ngày mai, ngày mốt sẽ nảy mầm
Cứ kiên nhẫn tưới tình thương lên đất
Hẳn một ngày vườn từ ái trổ bông

Đôi tay ơi xin cứ vậy thong dong
Bởi một mình không làm nên tất cả
Hợp duyên lành kết nối bao xa lạ
Nương vào nhau sẽ đủ sức chuyển dời

Đôi tay ơi xin xây dựng tình người
Công trình ấy cần muôn đời hoàn tất
Nên chớ vội, chớ đòi mà chật vật
Hãy vững tin cùng đi tới tương lai.

Những ngày tháng này, tôi cùng quý sư cô thiền đường Trạm Tịch tổ chức những ngày tu quán niệm và những buổi sáng tụng kinh cầu an trực tuyến. Có lẽ đó là niềm an ủi dành cho tôi trong thời gian này. Được có mặt cho mọi người qua buổi lễ cầu an, qua buổi ăn cơm chánh niệm, hay những buổi pháp đàm, thiền trà, chia sẻ, vấn đáp hay thơ nhạc, lòng tôi thấy hân hoan như mình đang được có mặt, san sẻ với mọi người những khó khăn ngoài kia và hiến tặng những cái thấy giúp mọi người có được bình an, vượt qua những khó khăn của mình. Tôi có thể làm gì hơn ngoài việc cùng tăng thân xây dựng bền vững một nơi có nhiều thương yêu, vững chãi để mọi người hướng về nương tựa.

Những ngày này tôi lại thấy lòng phấn khởi khi được đóng góp bàn tay của mình vào việc nhận và chuyển thực phẩm cho các gia đình bị phong tỏa hay cách ly nơi địa phương tôi sinh sống. Đó là niềm vui của tất cả các chị em chúng tôi khi ngồi rửa từng củ cải bám đầy đất, khi nhặt và bó từng bó rau, khi phân chia mấy trăm phần củ quả, khi giữa đêm đi nhận hàng, chuyển hàng về chùa,… Và tình thương tạo nên sức mạnh để chúng tôi có thể bốc vác, chuyển nhiều chuyến xe chở hàng tấn gạo, mì, đường, muối,… Khi tình thương được hóa thành hành động, công việc không còn vất vả, khó khăn. Niềm hạnh phúc được hiến tặng thương yêu và san sẻ khó khăn luôn mang đến những nụ cười hoan hỷ trên từng gương mặt của các chị em tôi.

Mùa an cư năm nay, tôi có nhiều thay đổi, bớt chấp chặt những khó khăn. Tôi thấy mình thảnh thơi hơn, trong lòng có nhiều không gian hơn, sự bao dung được lớn lên, mà hơn hết là có một ít vững an ở đó. Tôi biết tôi đã có mặt cho chính tôi và tôi cũng đã có mặt cho cuộc đời bằng tất cả sự chân thành, như bài kệ kiến giải tôi đã dâng lên Thầy tổ:

Hòa con nước, dòng tình trong lắng lặng
Suối tâm an từng hạt thuận dòng trôi
Về với mình thêm thương hiểu cuộc đời
Tròn ước nguyện đến đi lòng tĩnh mặc.

Tôi chắp tay cầu nguyện cho đại dịch sớm qua để mọi người được gặp lại nhau mừng rỡ và trân trọng, để cuộc sống được thiết lập lại trong niềm hạnh phúc đơn giản. Chúng ta cùng chung tay xây dựng lại cuộc đời bằng sự tỉnh thức; giữ gìn, bảo hộ đất Mẹ; xây dựng tình thương đại đồng để cuộc sống mới có nhiều bình an, sức khỏe và hạnh phúc.

( Sư cô Chân Tuyết Nghiêm )

 

Kinh sơ tâm

Đất Tổ linh thiêng

Ba ơi, Ba là đệ tử của Bụt, của Sư Ông.

Mỗi người có một phước phần khác nhau. Riêng con, niềm vui, may mắn cũng như phước phần lớn nhất là gặp được tăng thân, bước những bước đầu tiên trên con đường tâm linh, trải nghiệm cảm giác thảnh thơi, an lạc khi sống trong giây phút hiện tại. Và quan trọng là trong từ điển cuộc đời có thêm ba chữ tình huynh đệ.

Ba ơi, trước đây, mỗi lần con thực tập tiếp xúc với bản thân là mỗi lần con ý thức mình cũng đang tiếp xúc với ba. Nhưng ba biết không, mỗi lần như vậy, cảm xúc trong con đi lên một cách mãnh liệt như cơn đại hồng thủy sẵn sàng phá tan những gì cản trở trước mặt nó. Ký ức trở về, mang theo nhiều kỷ niệm được chôn sâu trong tàng thức. Ngày ba mất, vô thường đến quá nhanh, con chưa sẵn sàng đón nhận. Nhưng bây giờ, nhờ có pháp môn tu tập nên con có khả năng quán sát và ôm ấp những cảm xúc ấy cho đến khi nó tan dần, tan dần. Không như những ngày đầu mới tu, bị nó xoay như chong chóng ba ạ!

Nghĩ về những ngày ba bị bệnh, con cảm thấy hối hận. Con đã chẳng giúp được gì, mà đôi lúc còn quên luôn sự có mặt của ba để đi tìm những hạnh phúc giả tạo bên ngoài. Con cũng giận bản thân vì lúc ba trở bệnh nặng, đã nắm tay ba nhưng con lại không nói được câu: Ba ơi, con thương ba lắm!

Ba biết không, từ khi vào tăng thân cho đến nay, cuộc đời con thay đổi rất nhiều. Bây giờ, con là đệ tử của Bụt, sống đời xuất gia, ăn chay, theo tăng thân học hỏi cách tổ chức khóa tu. Người ta đến tham dự khóa tu từ khắp mọi nơi, và có những người khổ đau nhiều lắm. Ấy vậy mà sau mỗi khóa tu, họ đã có sự thay đổi. Họ cười được, vui vẻ trở lại. Con hay thấy họ đến chắp tay cảm ơn quý thầy, quý sư cô. Những điều đó như một phép lạ vậy đó ba, như thể những khổ đau của họ tan biến đi đâu hết rồi vậy!

 

 

Ba biết không, tu cũng vui nhưng không dễ đâu. Thỉnh thoảng vẫn có những khó khăn, trở ngại trong nội tâm. Con không biết phải diễn tả sao cho ba hiểu… Giống như, sau khi mình phát một lời nguyện nào đó thì trở ngại bắt đầu hiện ra trước mắt liền. Rồi thân tâm được rèn luyện từ đó, như vàng được nung trong lửa. Và nhờ lửa nung vàng như vậy mà vàng trở thành vật hữu dụng. Đôi khi nung lâu quá nên cũng cảm thấy hơi nóng trong người ba ạ!

Ba biết không, có những lúc Bụt phải đối diện với rất nhiều khó khăn trong tăng đoàn: bị hiểu lầm, bị vu oan giá họa, thậm chí còn bị đệ tử làm hại. Ấy vậy mà Ngài vẫn giữ được nét mặt hiền hòa, an nhiên. Bụt dạy các đệ tử rằng dư luận phát sinh, dư luận tồn tại rồi dư luận sẽ hoại diệt. Điều con tâm đắc nữa là Bụt không hề giận hay ghét những người gây khó khăn cho mình mà còn độ cho các vị ấy. Điều đó còn hơn cả thần thông nữa phải không ba? Có lẽ nhờ ngọn đèn từ bi trong Ngài đã được thắp sáng cho nên Ngài mới hành xử được như vậy. Ba biết không, có lúc Bụt cũng buồn, nhưng không buồn lâu. Ngài chỉ vào rừng chơi vài ngày, thăm con hươu, con nai, thăm mấy bông sen, thăm mấy con khỉ con. Rồi sau đó lại về với tăng thân để tiếp tục công việc của mình. Bụt không nản chí, vẫn nuôi dưỡng niềm tin ở mỗi người đệ tử. Vẫn tin rằng ai cũng có một ngọn đèn sáng trong tâm. Chỉ cần nhân duyên hội tụ đầy đủ, Bụt sẽ chỉ cho họ thấy được ngọn đèn ấy, thắp nó lên, và rồi bóng đêm sẽ tự nhiên biến mất, họ trở thành một pháp khí trong tăng thân. Bụt đã giữ trọn vẹn ước muốn giúp đời của mình. Nói đến đây con nhớ tới sư tổ Liễu Quán với câu kệ:

Tảo tri đăng thị hoả
Phạn thục dĩ đa thời
Sớm biết đèn là lửa
Cơm đã chín lâu rồi.

Tức là, trong nhà có sẵn ngọn đèn dầu mà cứ chạy đi xin lửa. Bụt có phải là người đi ban đèn, ban lửa đâu mà cứ chạy tới xin đèn xin lửa hoài, Bụt cũng biết mệt chứ bộ! Nói vậy thôi chứ nồi cơm của con cũng chưa chín. Nhưng con biết, nếu còn ở trong tăng thân thì một ngày, hay một giây phút nào đó, nó sẽ chín ba ạ!

 

 

Có cái này hay, con cũng muốn kể cho ba nghe. Thời gian gần đây, con luôn tự hỏi niềm vui thật sự của mình là gì? Có phải những trò thể thao, những buổi nói chuyện không có điểm dừng…? Đối với con bây giờ, những thứ ấy chỉ hỗ trợ cho đời tu thôi, chưa phải là niềm vui chân thật. Kẹt vào đó là chết liền. Khi có buồn giận, trách móc hay phán xét ở trong lòng, chính thiền duyệt đã đưa con về với giây phút hiện tại, thiết lập lại sự ổn định nội tâm, không bị những tri giác sai lầm đánh lừa để rồi vung vãi những yếu kém, làm tổn thương huynh đệ mình. Cho nên nếu một ngày mà không dành riêng nửa giờ hay một giờ đồng hồ cho việc ngồi yên, đi thiền để nhìn lại tự tâm mình, như câu nói của Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ phản quang tự kỷ bổn phận sự thì quả thật mình chưa thật sự muốn tìm cái hạnh phúc chân thật. Mình còn đang loay hoay với vọng tâm, hết thương rồi ghét. Đặt những câu hỏi vẩn vơ: Trời ơi, tại sao hôm nay gặp, bạn không chào tôi, không nhìn tôi, không cười với tôi? Tại sao bữa giờ không qua uống trà với tôi?… Vậy là tiêu rồi phải không ba? Một thứ hạnh phúc đòi hỏi điều kiện thì đâu còn là hạnh phúc chân thật nữa. Bây giờ, con mới hiểu một chút về câu chuyện giữa Sư Ông và một thầy trong chúng. Hôm ấy, thấy Sư Ông đang đi tới, thầy ấy liền đứng sang một bên, chắp tay chào với ước mong Sư Ông sẽ cười và chào lại mình. Nhưng không, Sư Ông đã đi thẳng, không chào lại thầy. Nhìn qua có vẻ như Sư Ông vô tình, nhưng nhìn cho sâu, sẽ thấy Sư Ông là người đầy tình thương. Sư Ông đang dạy đệ tử cái tình của người trong đạo. Nó tự do, không ràng buộc nhau, không chiếm hữu, dù là bằng ý niệm. Nó thảnh thơi như một đám mây trên trời.

Mỗi ngày con tập sống với cái tình đó. Tức là khi đi biết mình đang đi, nghe chuông thì dừng lại thở. Nếu có cơn gió mát khẽ chạm nhẹ vào má thì biết mát rồi cảm ơn gió mát. Gặp huynh đệ thì biết đó là huynh đệ. Họ đang còn trong tăng thân, vậy là hạnh phúc rồi, không cần phải thêm gì trong đầu nữa. Ngồi uống trà với huynh đệ, nói vài câu chuyện cười. Tới giờ ngồi thiền thì mặc áo đi ngồi thiền, bạn chung phòng nhờ bỏ bảng sức khỏe thì bỏ giúp, vui vẻ, trọn vẹn. Nhưng sẽ ngoảnh lại và nói: nếu thấy không mệt lắm thì ra ngồi với đại chúng cho vui. Rồi đi, nhẹ nhàng, trọn vẹn.

Càng tu con càng nhận ra nhiều điều. Xã hội bây giờ có nhiều người khổ quá, khổ cả thân lẫn tâm. Con thấy thương họ lắm, nhưng không chỉ có người bên ngoài mới khổ đâu ba. Người tu mà không khéo tu thì cũng khổ như vậy không khác gì. Cho nên, con chỉ biết tự nhắc nhở mình thực tập cho đàng hoàng. Bởi vì, nếu con tu thành công thì ba và mọi người cũng thành công. Con nhớ Bụt có dạy: Hãy tìm hạnh phúc ngay trong khổ đau. Câu nói tuy ngắn gọn, nhưng phải mất rất nhiều thời gian để lĩnh hội cũng như thực tập được. Nói đến đây con mới thấy thương Sư Ông. Sư Ông rất từ bi, cho pháp hành chứ không cho một mớ lý thuyết. Tức là có thực hành theo thì có thành công, còn nếu chỉ nói suông thôi thì mình không thoát khổ được.

Ở trong tăng thân vui lắm ba. Ở nhà có vài anh chị em thôi, nhưng ở đây con có tới mấy trăm sư em. Nhìn mặt ai cũng hiền. Chưa kể sư anh, sư chị, rồi còn cả sư cha, sư mẹ, nhiều lắm ba ơi. Dù không phải ruột thịt ấy vậy mà có lúc, con thấy còn thân hơn cả ruột thịt nữa. Mọi người đùm bọc và che chở cho nhau. Cũng nhờ Sư Ông đó ba. Ai mới vào tăng thân cũng đều được dạy như vậy. Theo thời gian, nếp sống này tự nhiên ngấm vào trong máu. Con biết hằng ngày ba cũng đang cùng con trải nghiệm đời sống trong tăng thân, ba cũng đang thực tập, cũng được ngồi thiền, thiền hành cùng đại chúng. Khi con nghe chuông, ba cũng được thực tập dừng lại, thở những hơi thở bình an, nhẹ nhàng và tự do.

 

 

Tăng thân biểu hiện được là nhờ lòng từ bi của Sư Ông. Mặc dù công việc xây dựng tăng thân rất khó nhưng con thấy Sư Ông chưa bao giờ nản lòng. Con cũng nguyện thực tập như vậy, đóng góp một chút sức nhỏ bé của mình vào công trình này. Con biết, năng lượng từ bi của chư Bụt, chư Tổ, của các vị Thánh tăng và Sư Ông đang đồng hành, nâng đỡ cho con thực hiện lời nguyện ước này.

Ba ơi, ngồi đây viết cho ba con như đang được trở về tiếp xúc với sơ tâm của chính mình. Những ước nguyện tu tập, chuyển hóa nơi con dường như cũng ấm áp và tươi mới lên thêm.

Con của ba

(Thầy Chân Trời Lĩnh Nam)

 

Con gà và quả trứng

Tình thầy trò đã được trao truyền qua rất nhiều thế hệ, chưa bao giờ đứt đoạn, từ thời đức Thế Tôn cho tới bây giờ. Sự trao truyền ấy là có thật. Con đã tiếp nhận được tình thầy trò giữa Sư Cố với Sư Ông qua một cách nào đó mà tự thân con cảm nhận được. Điều này đã biểu hiện rõ nét trong một khóa tu rất khó khăn đối với con.

Lúc ấy, con mới tu được bốn hay năm năm, sự thực tập chưa vững vàng. Đại chúng đề cử con và một sư chú đi hướng dẫn khóa tu ở Đức. Đó là một khóa tu năm ngày, dành cho người Việt và người Đức. Khổ đau của thiền sinh trong khóa tu rất lớn, thậm chí, có người đã chia sẻ ý định tự tử. Con đã khóc khi nói pháp thoại. Vì biết khả năng của mình còn kém, thành ra con khóc giống như đang “ăn vạ” vậy, giống như đang “cầu cứu” năng lượng tâm linh từ liệt vị tổ sư. Và rồi, khóa tu đã diễn ra thật mầu nhiệm! Trong ngày có buổi lễ tạ ơn Tam bảo, khi cùng đại chúng lạy xuống, bỗng nhiên con cảm được rằng Sư Cố đã luôn âm thầm có mặt trong suốt năm ngày của khóa tu để nâng đỡ cho con mà con không hề hay biết. Ngay giây phút đó, bao nhiêu căng thẳng, bao nhiêu nỗi niềm lo âu đều tan biến. Con cảm được tình thương của Sư Cố, hoàn toàn là tình thương. Sư Cố ôm con vào lòng. Tình thương ấy đã được Sư Ông tiếp nhận và trao truyền lại cho con. Tình thương đó thấm vào thân tâm giúp con nhẹ, khỏe và đầy khiêm cung.

Sau khóa tu, có ngày quán niệm dành cho người Việt và người Đức. Buổi thiền hành diễn ra giữa cái nắng mùa thu rất đẹp. Con nắm tay một em bé người Việt. Bé vừa đi vừa chơi, đưa chân sút những chiếc lá trên đường. Con thì gồng người lên đi cho oai nghiêm vì con đang dẫn đầu đoàn thiền hành mà! Bỗng nhiên con nghĩ: Thôi, mình cũng chơi một chút với đôi chân của mình và những chiếc lá đi. Thế là con thấy thân tâm con mở ra, thấy mình được là mình, không cần gồng căng lên nữa. Lúc đó, con nghe tiếng Sư Ông nói trong lòng: Thầy đâu có muốn gì hơn, Thầy chỉ cần con có hạnh phúc thôi. Con cảm thấy thật biết ơn với tiếng nói sâu thẳm ấy của Sư Ông.

Qua kinh nghiệm đó, con thấy được giai thoại giữa Sư Cố với Sư Ông đang biểu hiện rất thật. Hồi đó, Sư Ông còn là một sư chú ở chùa Tổ. Một ngày nọ, thầy trò cùng nhau chấp tác ngoài vườn. Trời nắng gắt, làm được một lúc, Sư Cố với chiếc nón lá trên đầu, đứng dậy, mồ hôi nhễ nhại. Sư Cố chấp tác cũng mệt. Quay qua nhìn Sư Ông, Sư Cố nói: “Mệt quá! Chắc khi nào chết thì mới hết mệt!” Thông thường, chúng ta quan niệm là khi chết đi, mình sẽ rời xa người thân và đi qua một thế giới khác. Chuyện ở nơi đây không còn dính dáng gì tới mình nữa, mình khỏe rồi. Thành ra mới nói: “Mệt quá! Chết thì hết mệt!” Sư chú Phùng Xuân ngày đó nghe như vậy mà không hiểu gì. Sư Cố nhìn thêm một lần nữa và nói: “Nhưng nếu chết rồi thì ai hết mệt?” Chữ “ai” đó thật quan trọng.

Con cảm nhận rằng, Sư Cố thấy rất rõ, giống như chúng ta cũng thấy, tình thầy trò giữa Sư Cố với Sư Ông là vượt thoát thời gian. Sư Cố có cái nhìn của tương tức, không bị giới hạn bởi cái sống cái chết. Vì vậy Sư Cố luôn luôn có mặt với Sư Ông và với con cháu, đời này và đời sau. Nhờ sự tiếp nối và trao truyền chưa bao giờ đứt đoạn ấy mà cho tới bây giờ, chúng ta vẫn được thừa hưởng tình thương yêu và đùm bọc của các thế hệ Tổ tiên.

Câu nói này như một công án mà Sư Ông tiếp nhận từ Sư Cố. Bằng công phu thiền tập qua năm tháng, cuối cùng nó đã vỡ ra, giống như quả trứng nở ra con gà. Tây phương có câu hỏi tưởng như rất triết lý: Con gà có trước hay quả trứng có trước? Câu hỏi đó dựa trên cái thấy là con gà và quả trứng là hai thực thể riêng biệt, cho nên mới hỏi cái nào có trước, cái nào có sau, và bắt đầu vướng kẹt vào ý niệm đó. Theo tuệ giác của đạo Bụt, giữa con gà và quả trứng có mối liên hệ mật thiết, không thể nào tách rời hay chia chẻ được. Con gà và quả trứng có mặt cùng một lúc, và trong nhau. Nói theo danh từ chuyên môn là vô sinh, con gà biểu hiện từ quả trứng, quả trứng biểu hiện từ con gà. Vô sinh, bất diệt là như vậy.

Sư Ông đã đưa cái thấy này vào sự thực tập đã về – đã tới, bây giờ – ở đây, cửa vô sinh mở rồi. Cái thấy đó rất rõ ràng và xuyên suốt trong quá trình hành trì và giảng dạy của Sư Ông. Sư Ông đã nuôi dưỡng và trao truyền tuệ giác này cho không biết bao nhiêu đệ tử xuất sĩ cũng như cư sĩ khắp nơi trên thế giới. Chính nhờ cái thấy đó, chúng ta có thể thực tập để có được tình thương và an lạc đích thực. Quê hương của chúng ta là bây giờ, ở đây và khắp mọi nơi.

Và tuệ giác ấy giúp Sư Ông an trú trọn vẹn trong giây phút hiện tại. Khi sống, chúng ta tập sống trong giây phút hiện tại, trong quê hương đích thực của mình. Và khi chết, chúng ta cũng chết trong giây phút hiện tại, trong quê hương đích thực của mình. Giây phút này có tính chất vượt thoát thời gian và tóm thâu cả ba thời: quá khứ, hiện tai, tương lai. Đến một hôm nào đó, khi sự kiện nhất kỳ vô thường xảy ra với Sư Ông, chúng ta chứng kiến, và chúng ta tạm gọi là Sư Ông tịch, nhưng thật ra khả năng an trú trong niệm định tuệ vẫn giúp Sư Ông có mặt đích thực trong giây phút hiện tại, bây giờ ở đây, trong quê hương của mình. Như vậy, Sư Ông có mặt cho chúng ta ngay bây giờ, và đời đời, mãi mãi về sau. Chư Bụt, chư Tổ cũng vậy. Đó là lý do tại sao chúng ta nói rằng sự truyền thừa chưa bao giờ và không bao giờ bị đứt đoạn. Đây chính là tuệ giác tương tức.

Con nhớ, có lần một sư cô gặp rất nhiều khó khăn và muốn ra đời. Sư Ông giúp không được, con thấy Sư Ông cũng khổ lắm. Trong một buổi pháp thoại, Sư Ông nói: “Thầy sẽ có mặt cả ngàn đời cho con.” “Ngàn đời” chỉ là cách nói nôm na về thời gian. Câu nói đó có nghĩa là Thầy luôn luôn có mặt cho con, bây giờ và mãi mãi. Sư Ông có tuệ giác đó, có khả năng an trú trong niệm định tuệ. Chúng ta đang tiếp nhận gia tài của chư Bụt, chư Tổ và của Sư Ông. Mỗi người trong chúng ta là một sự tiếp nối của chư Bụt, chư Tổ, và của Sư Ông trên một khía cạnh nào đó.

Nếu nghĩ hơi xa hơn một chút, Sư Ông có tịch thì chúng ta tiếp xúc với Sư Ông ở đâu? Câu trả lời là trong từng hơi thở, trong từng bước chân của chúng ta, ngay trong giây phút hiện tại, ngay nơi sự sống này. Chúng ta đừng nghĩ rằng Sư Ông về Niết bàn là sẽ ở một nơi nào khác, hay Sư Ông sẽ tái sinh nơi một hiện tượng nào khác trong đời sống. Những suy nghĩ đó chỉ là cái nhìn thông thường. Cái nhìn mà Sư Ông đã thực sự trao truyền cho chúng ta là Sư Ông đang có mặt bây giờ, ở đây, trong sự sống, trong tất cả chúng ta. Sư Ông đã nhắc đi nhắc lại không biết bao nhiêu lần cho chúng ta khắc cốt ghi tâm tuệ giác ấy. Trong bài thơ Hãy gọi đúng tên tôi, Sư Ông cũng đã diễn bày tuệ giác này cho chúng ta thấy: Sư Ông là con chim, con kiến, là người này hay người kia, là cái thấy của bao dung… Sư Ông chính là sự sống, là ở đây, chưa bao giờ từng sinh, chưa bao giờ từng diệt, trong tất cả các hiện tượng khổ đau hay hạnh phúc.

Nếu duy trì được cái thấy đó thì chúng ta mãi mãi có Sư Ông. Sư Ông, cũng như chư Bụt, chư Tổ qua bao thế hệ, mãi mãi có mặt cho chúng ta và đưa chúng ta đi tới trên con đường thực tập và hành đạo.

( Thầy Chân Pháp Ứng)

Thiền ca

Thiền ca – một pháp môn mình tưởng là mới mẻ của Làng Mai, nhưng thực ra đây là một truyền thống thiền đã được Làng Mai ứng dụng một cách sáng tạo và rộng rãi để quần chúng đương thời, nhất là giới trẻ, có thể tiếp xúc dễ dàng với giáo pháp của Bụt, giúp cho mình ý thức hơn ý nghĩa của đời sống, làm cho đời sống lành hơn, đẹp hơn, giàu có hơn.

Trong đời sống thiền môn, quý thầy, quý sư cô xướng tụng kinh kệ kết hợp thỉnh chuông, mõ, linh, tang… Mình có thể hiểu đó là thiền ca – một hình thức thực tập giúp cho mình thấm nhuần những lời Bụt dạy. Những lời kinh như những giọt nước cam lộ thánh thót rơi xuống đất tâm của mình, làm nảy mầm những hạt giống tốt và tiếp tục tưới tẩm để chúng lớn mạnh, đơm hoa kết trái, làm cho đời sống xinh tươi, tốt đẹp hơn.

Khi con về Làng Mai – Pháp quốc, lần đầu tiên vào mùa hè 1987, con được nghe bài Ý thức em mặt trời tỏ rạng do chị ca sĩ Hà Thanh hát trong máy. Con thực sự rất xúc động, như là mình đang ngủ mê mà được lay thức dậy. Bụt nói mình khổ vì mình không thấy đường. Đường đời muôn vạn nẻo, nếu không may mắn được gặp Bụt đưa đường chỉ lối, mình rất dễ bị lầm lạc.

Cho nên một bài hát thiền như là một bài kinh, một ngón tay của Bụt chỉ cho mình lối đi về bình an. “May thay trong cõi ta bà, đâu cũng có cánh tay đức từ bi cứu độ”. Nếu không tu tập để có được ý thức tỏ rạng như mặt trời thì mình khó mà thấy được ngón tay chỉ đường của Bụt, và có lòng quyết tâm đi theo dấu chân của Ngài để đến được bờ tự do.

Một bài hát gọi là thiền ca, thì lời và nhạc phải nhẹ nhàng, quyện vào nhau hài hòa như tâm ý Bụt. Thiền ca có tác dụng đánh thức mình dậy, không còn ngủ mê nữa, không còn chìm đắm trong sầu khổ nữa. Bài Thở vào, thở ra là bài hát con rất thích. Đây là một bài thiền ca căn bản, được hát bằng nhiều thứ tiếng, nhắc nhở mình tỉnh thức, trở về chăm sóc thân tâm trước khi bắt đầu làm một việc gì, nói một điều gì. Có như vậy mình mới có thể tránh được những lầm lỗi, gây khổ đau cho mình và người khác.

Cùng với bài hát, mình thực tập thở vào thở ra có ý thức, như Sư Ông dạy, làm cho thân tâm lắng dịu lại, tươi mát trở lại như hoa, vững vàng như núi, yên tĩnh như mặt hồ, và thênh thang như không gian, không còn điều gì làm vướng bận. Người hát và người nghe hát phải hết lòng sống với những gì mình đang hát, đang nghe. Có như vậy những hạt giống tốt trong mình mới thực sự được tưới tẩm và lớn mạnh, dâng hoa thơm trái ngọt cho mình, cho người.

Cách hát và cách nghe thiền ca rất quan trọng. Nếu người hát và người nghe hát không có sự tu tập thì khó mà truyền đạt và tiếp nhận được ý nghĩa của bài hát. Do đó có thể làm mất hết tác dụng của bài thiền ca, dù nhạc và lời của bài thiền ca có hay đến mấy. Cũng như Bụt là một bậc giác ngộ tuyệt vời. Pháp của Bụt rất thực tiễn, đem đến nhiều lợi lạc. Nhưng nếu không có một tăng thân tu tập cho đàng hoàng, vững chãi, thì mình cũng khó tiếp xúc được với chánh pháp, với Bụt. Cho nên, mình mới hiểu vì sao vua Ba Tư Nặc thưa với Bụt rằng: khi con nhìn tăng đoàn của Ngài, người nào cũng bình an, vững chãi, niềm tin của con nơi Ngài thêm kiên cố.

Một bài thiền ca theo đúng ý nghĩa, con nghĩ, phải chuyên chở được cả Bụt – Pháp – Tăng. Nếu người hát thiền ca có tu tập vững chãi, có giọng hát và phong thái đầy chất thiền, thì đôi khi chỉ cần hát một bài cũng có thể giúp cho người nghe phát tâm tu học, muốn thực tập bài hát trong đời sống hàng ngày để chuyển hóa khổ đau, lấy lại được niềm vui sống, và có thêm niềm tin yêu nơi chính mình, nơi cuộc đời.

( Sư cô Chân Quy Nghiêm)

Thầy ôm các con vào lòng

Sáng nay thức dậy, tôi ngồi yên trước ngọn nến, uống vài ngụm trà olong. Tôi cảm được không gian bình yên của buổi sáng. Bên ngoài, mọi loài còn đang chìm trong giấc ngủ ấm áp của mình. Những ngày làm biếng, tôi có cảm giác thật thân quen với căn phòng Bird nest này. Không gian nơi đây kéo tôi trở về, lắng xuống tận sâu trong tâm hồn. Căn phòng mới sửa, chưa được sử dụng nhiều, đôi chỗ còn dở dang, những cái kho nho nhỏ bên cạnh đang được sửa lại để tận dụng. Dù vậy, đây là nơi ổn định để tôi ngồi yên, học bài hay đọc sách trong những ngày làm biếng. Buổi sáng là không gian yên nhất trong ngày.

Sáng nay, cảm giác nhớ Thầy đi lên trong tôi. Hình ảnh thân quen của Thầy dần hiện rõ. Thầy thường đi đến các xóm trong dịp làm biếng. Qua xóm Mới, Thầy hay ngồi chơi, đi bộ với các con. Có lẽ mấy ngày qua nghe hồi ký của Thầy nên cảm giác nhớ Thầy về nhiều hơn. Trong hai tuần làm biếng sau an cư, có quý thầy từ Thái Lan ghé Làng trước khi qua Đức để nhập chúng nên sư mẹ Thoại Nghiêm sắp xếp cho anh chị em nghe chung hồi ký của Thầy. Tôi không nghĩ sẽ có ngày được nghe lại hồi ký của Thầy.

Thầy là người đã đặt những bước chân đầu tiên ở Làng, đã gầy dựng và phát triển Làng cho đến bây giờ. Điều này quả không dễ dàng. Tôi mong ai cũng có dịp đến Làng. Đến để mà thấy, để chứng nghiệm sự linh thiêng nơi mảnh đất này. Ở xóm Mới, tôi nhớ nhất là con đường Thầy thường dẫn đại chúng thiền hành. Con đường lên đồi Dương Xuân. Những ngày quán niệm tứ chúng tại xóm Mới, Thầy thường hướng dẫn đại chúng thiền hành lên đó. Một đoàn dài, có lúc hơn cả ngàn người. Thầy đã đến nơi, ngồi xuống mà phía sau, tít đằng xa vẫn còn người đang bước. Thầy thường thỉnh ba tiếng chuông cho đại chúng thở, ngồi yên để thưởng thức những mầu nhiệm của trời đất, thưởng thức khung cảnh thênh thang trước mặt. Lạ thay, cả ngàn người mà không ai nói với ai tiếng nào, không khí thật yên, ai cũng thưởng thức từng phút giây hiện tại, thưởng thức nhịp điệu của từng hơi thở, thưởng thức không gian, cảnh vật và tận hưởng năng lượng tập thể đang có mặt. Tất cả như đang thở cùng một nhịp. Đúng như một dòng sông. Thật là nhiệm mầu!

 

Ở xóm Mới, chị em chúng tôi được luân phiên hướng dẫn thiền hành. Có lần vào ngày quán niệm, tôi dẫn đại chúng theo con đường đó, mới đi được vài bước tôi nhớ đến Thầy, rồi hình ảnh Thầy trong tôi hiện lên rõ nét. Tôi đi với sự thực tập: con đang đi cho Thầy. Tôi để ý đến từng bước chân của mình và giữ ý thức: những bước chân này là bước chân của Thầy, thật vững chãi, thật yên, thật nhẹ nhàng. Thầy cùng tôi đi hết đoạn đường thiền hành trong bình an.

Thỉnh thoảng tôi đi một mình lên đồi Dương Xuân để ngồi yên. Chỉ đến đó thôi là tôi thấy trong lòng nhẹ nhàng, tâm hồn thoải mái như bỏ lại bao nhiêu thứ phía sau. Nhìn lên bầu trời, thấy lòng mình bao la, tôi có cảm giác như mình đang được cuộn tròn, được che chở bởi đất trời nơi đây. Niềm biết ơn trong tôi trào dâng. Tôi nhận ra rằng khi lòng biết ơn trong tôi càng lớn thì tôi hay nghĩ tới và cảm thấy áy náy với những gì Thầy gửi gắm, mong đợi nơi tôi. Sau khi nhận đèn truyền đăng làm giáo thọ vào năm 2012, tôi về Thái Lan tu học. Thái Lan lúc đó đang xây dựng trung tâm mới. Đầu tháng Ba năm 2013, đại chúng chuyển từ nhà bác Pu Lư lên đất mới. Đến cuối tháng Ba, Thầy cùng quý thầy, quý sư cô về Thái để khánh thành trung tâm mới cũng như mở khóa tu cho người Thái và người Việt. Sau khóa tu, tôi được làm thị giả đi khóa tu ở Hàn Quốc với Thầy. Kết thúc khóa tu, tôi và sư cô Linh Nghiêm, sư cô Quy Nghiêm về lại Thái Lan. Thầy và phái đoàn tiếp tục khóa tu ở Hồng Kông. Tôi biết sắp xa Thầy nên trước khi Thầy đi hai ngày, tôi tránh không gặp Thầy vì sợ sẽ khóc nhè. Vậy mà trước khi xe buýt lăn bánh, từ Seoul (Hàn Quốc) để ra phi trường bay đi Hồng Kông, tôi được gọi lên gặp Thầy. Khi ấy, Thầy đã ngồi sẵn trên xe. Thầy dặn tôi: “Con về Thái ôm hết các sư em cho Thầy”. Nghe Thầy dạy, tôi chắp tay “dạ”. Lúc đó, tôi chỉ nghĩ đơn giản là về Thái thì thiền ôm các sư em giúp Thầy. Chỉ là thực tập “thiền ôm”, không làm có lẽ cũng không sao. Thực sự, tôi không thích thực tập pháp môn này lắm. Vậy rồi, tôi quên bẵng chuyện này đi một thời gian.

Sau đó vài năm, lời dặn của Thầy trở lại, đánh thức tôi. Tôi nhận ra rằng nó không đơn giản như tôi nghĩ. Lúc đầu tôi chỉ “dạ” vì Thầy dạy gì thì trước tiên cũng phải “dạ”. Khi nghe tôi “dạ”, Thầy cười và nói: “Con dạ rồi đó, con phải làm cho được”. Thầy Pháp Hữu, lúc đó đang làm thị giả, phá lên cười trước vẻ ngây ngô của tôi. Ui chao, bây giờ mới thấy Thầy đã trao cho tôi một công án và công án của thiền sư không dễ chút nào. Tôi còn nhớ Thầy thường hay viết thư cho các con của Thầy. Cuối thư Thầy viết: “Thầy ôm các con vào lòng”. Nghe thật đơn giản nhưng thấy được lượng bao dung từ Thầy. Thầy thấy và hiểu được những học trò của mình và với tình thương, với lòng bao dung Thầy đã “ôm” được hết tất cả.

Một lần, tôi tham dự buổi họp về vấn đề khó khăn của một sư em. Buổi họp kéo dài bốn tiếng đồng hồ. Nhìn cho kỹ, ai cũng có những khó khăn, những vụng về, những hạn chế riêng nên mới cần được ôm ấp và chấp nhận từ người khác. Chỉ với một quyết định vội vàng, mình có thể mất sư em. Chỉ có lòng kiên nhẫn, tình thương, cùng với sự bao dung mới có thể thay đổi một con người.

Cái “dạ” ngày đó với Thầy làm tôi áy náy cho đến bây giờ. Càng ngày, tôi càng chạm vào thực tế một cách cụ thể hơn. Và lời nhắn nhủ của Thầy trở về với tôi nhiều hơn. Tôi thấy sự thực tập trong tôi còn giới hạn. Sự phân biệt đúng sai, thương ghét, giận hờn, đòi hỏi, hơn thua… vẫn còn đó. Làm sao có cái nhìn bao dung và tình thương lớn để chấp nhận hết tất cả mọi người. Càng lúc tôi thấy mình phải thực tập nhiều hơn, phải quán chiếu sâu hơn về điều này. Suốt cuộc đời chắc còn chưa đủ. Và có lẽ tôi sẽ vẫn còn những vụng về khi thực tập công án Thầy trao, nhưng tôi biết chỉ cần có sự chờ đợi và lòng kiên nhẫn thì một ngày nào đó tôi có thể thay đổi chính mình, đồng thời ôm ấp và chấp nhận người khác một cách dễ dàng hơn.

Vị thầy thuyết pháp bằng sự tĩnh lặng

Nhạc sĩ tài hoa Trịnh Công Sơn đã từng nói: “Trong âm nhạc có những dấu lặng, tức dấu nghỉ không có âm thanh, nếu không có những dấu lặng đó thì là một tai họa. Âm nhạc mà không có khoảng cách im lặng thì chẳng qua đó là một sự rối loạn mà thôi”. Giống như vậy, trong một mối quan hệ, chia sẻ bằng lời nói không phải lúc nào cũng là điều hay. Nhiều khi, ngồi tĩnh lặng bên nhau mới quý. Và tôi tin rằng những người có thể ngồi tĩnh lặng bên nhau mới đích thị là tri kỷ của nhau.

Tháng 9 năm 2018, tôi tham gia một khóa tu học tại Làng Mai Thái Lan do Thiền sư Thích Nhất Hạnh lập ra. Trong khóa tu học đó, ngoài những giờ yên lặng ngồi thiền, chúng tôi còn thực tập ăn cơm trong yên lặng, thiền hành trong yên lặng, nghe giảng pháp trong yên lặng. Cứ 15 phút, chuông đồng hồ lại điểm ba tiếng. Khi nghe chuông, ai đang đi thì dừng đi, ai đang nói thì dừng nói, ai đang ăn thì dừng ăn, ai đang rửa bát thì dừng rửa bát. Tiếng chuông nhắc nhở mọi người dừng lại, lặng yên quan sát hơi thở của chính mình. Ngoài ra, từ chín giờ tối đến khoảng bảy giờ sáng ngày hôm sau là thời khóa “Im lặng hùng tráng”. Tất cả mọi người ở Làng giữ yên lặng hoàn toàn, trường hợp thật cần thiết phải nói thành lời thì nói rất khẽ và ngắn để không ảnh hưởng đến mọi người xung quanh.

Ngày thứ năm của khóa tu là một kỷ niệm không thể nào quên đối với tôi khi được diện kiến Thiền sư. Hôm đó thời tiết rất đẹp, sức khỏe của Thiền sư cũng tốt lên sau một thời gian dài tĩnh dưỡng trong tịnh thất riêng. Vậy nên, các vị thị giả đưa Thiền sư ra ngoài, đi thiền hành và dùng bữa sáng tại khu nhà ăn cùng với quý thầy, quý sư cô và toàn thể đại chúng. Lần đầu tiên được diện kiến Thiền sư, nhiều người trong đoàn bật khóc vì xúc động. Với ánh mắt sáng, trong và định tĩnh, Thiền sư chăm chú nhìn từng người rồi giơ cánh tay còn khỏe lên xá chào đại chúng rất trang nghiêm. Thiền sư giữ sự trang nghiêm như vậy từ khi Người xuất hiện cho đến khi Người rời đi. Pháp thân tĩnh lặng của Người chính là bài pháp không lời tuyệt diệu dành cho tôi và những ai có mặt ở Làng ngày hôm đó.

Khu nhà ăn của Làng được thiết kế rất thoáng, không có tường ngăn cách với thiên nhiên. Như mọi ngày, chúng tôi xếp hàng ngay ngắn đi lấy đồ ăn rồi tìm một chỗ ngồi cho mình, chờ khai chuông để bắt đầu thọ nhận bữa sáng. Chỉ khác là sáng nay có sự hiện diện của Thiền sư. Tôi không nghe được bất cứ một tiếng động bát, đũa, thìa hay tiếng nhai thức ăn nào, tất cả đều im phăng phắc. Mọi người đặt toàn tâm toàn ý vào từng cử động của mình, dù rất nhỏ. Tôi nghe thấy tiếng xào xạc của gió đùa trên lá, tôi nghe tâm mình thỉnh thoảng lại trồi lên ý muốn rời mắt ra khỏi bát cơm trước mặt để ngước nhìn về phía Thiền sư. Một sự tĩnh lặng gần như tuyệt đối của không gian giúp tôi có thể nhận diện rất rõ các ý phát khởi trong tâm mình.

Trong sự tĩnh lặng ấy, chú chó vàng của Làng, vốn rất hiền lành và thân thiện, đột nhiên xuất hiện, cất tiếng sủa rú rít, chạy tới chạy lui ngay phía trước mặt Thiền sư. Tôi đã rất bất ngờ và ngỡ sẽ có quý thầy, quý sư cô nào đó nhắc chú chó đừng sủa nữa, hoặc có thể xua chú chó ra khỏi khu nhà ăn để không phá hỏng cái không gian tĩnh lặng tuyệt vời đó. Nhưng không! Không một ai phản ứng lại với tiếng sủa khó chịu đó, tất cả đều yên lặng, tuyệt đối yên lặng. Chỉ có tâm tôi là dậy sóng thôi!

Sau khoảng 30 vòng chạy đi chạy lại liên tục như vậy, chú chó vàng không sủa nữa, chú ngoan ngoãn tiến tới phủ phục trước mặt Thiền sư. Và tôi lại ngỡ ngàng thêm một lần nữa, khi lần đầu tiên nhận ra rằng sự tĩnh lặng ẩn chứa trong đó một sức mạnh vô cùng lớn lao và hùng tráng. Sự quỳ phục của chú chó vàng trước mặt vị Thiền sư tĩnh lặng là minh chứng cho điều đó.

Sau này tôi mới biết, tôi đã may mắn nhường nào khi được diện kiến Thiền sư ngày hôm đó vì đã từ rất lâu, Thiền sư không ra khỏi tịnh thất. Tôi cũng đồng cảm hơn với hành xử của chú chó. Quá phấn khích khi đã lâu lắm rồi mới được diện kiến và đảnh lễ Thiền sư nên đã “vui sướng” đến như vậy.

Ngày cuối cùng ở Làng, chúng tôi – những người đến từ nhiều nơi khác nhau, nói những thứ ngôn ngữ khác nhau, người trẻ người già – đều chia tay nhau trong hân hoan và an lạc. Tất cả đều tươi mát hơn ngày đầu tiên đến Làng. Tôi cũng vậy.

Tôi đã suy ngẫm rất nhiều về những thay đổi ngoạn mục nơi tôi. Tôi nhận ra rằng chính môi trường tĩnh lặng và việc thực tập im lặng là cứu cánh tạo nên những khoảng lặng của tâm, giúp tôi biết dừng lại để quay về với chính mình, yên lặng bên chính mình và hiểu hơn về chính mình.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh vì bạo bệnh nên không thể thuyết pháp bằng lời trong bảy năm cuối đời, nhưng Người đã thuyết pháp bằng chính pháp thân trang nghiêm và nội tâm tĩnh lặng của Người. Những bài pháp không lời ấy đã thu phục mọi người, mọi loài. Đó chính là sự hùng tráng cao tột, đến vô cùng.

Lễ Tâm Tang của Thiền sư Thích Nhất Hạnh diễn ra trong im lặng. Nhưng lễ tang ấy đã tạo nên tiếng vang hùng tráng chấn động cả năm châu, thức tỉnh mọi người dừng lại để quay về với chính mình và trở thành tri kỷ của chính mình.