Những cơ sở Làng Mai ở miền Tây Nam nước Pháp

Phương Khê

Trung tâm Làng Mai tại miền Tây Nam nước Pháp là Trung tâm đầu tiên được thành lập. Năm 1982 Thầy đi xuống miền Nam nước Pháp tìm đất lập trung tâm. Như đã kể trên, thầy trò tìm được một ngôi nhà lớn ở cách Bordeaux khoảng 100 cây số. Thầy đặt tên ngôi nhà này là Phương Khê vì có dòng suối nhỏ chảy quanh. Chân Không thấy căn nhà thì sợ quá vì nhà lớn mà cũ, nghe nói cất từ thế kỷ thứ 19 mà lúc đó mình đang ở cuối thế kỷ 20. Căn nhà có 15 căn phòng rất lớn và thoáng. Thầy rất thích vì nghĩ mình có bao nhiêu là tài liệu. Tài liệu còn giữ ở nhà đã bị đốt hết nhưng tài liệu báo cáo của Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội thì mình còn giữ. Tài liệu của mấy chục ngàn con nít đói trong chiến tranh mình cũng phải giữ, ít nhất là những phần quan trọng của những Tỉnh giáo hội, của những ni sư hay những thầy đã làm việc giúp các trẻ em và dấn thân trong xã hội như thế nào. Có những tài liệu lịch sử của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất, những hiến chương… Mười lăm phòng là chỉ đủ chỗ giữ những tài liệu đó. Nhưng Chân Không là người cạn cợt nên thấy căn nhà lớn quá mà sợ:

“Thầy ơi, con thấy nhà lớn quá, giống ngôi nhà ma quá!”

Nhưng Thầy nói, Chân Không cũng không cần phải ở đó và thầy cho Chân Không về ở với mẹ như các dân làng khác, chỉ có vài người ở lại phụ Thầy làm việc thôi. Mình sẽ mua đất làm một làng tu học lớn bên kia, xa Phương Khê. Mình cho Phật tử đứng ra làm cột trụ cho bên Làng. Phương Khê là chỗ giữ tài liệu nên Thầy không muốn cho nhiều người biết, sợ lỡ bị đốt cháy thì mình mất hết tài liệu. Mình gọi Phương Khê là Sơn Cốc của Thầy.

Sau này Thầy có đông con xuất sĩ nên Phương Khê có xây thêm một số phòng ngủ gọi là nội viện, dành cho xuất sĩ nhập thất hoặc nghỉ ngơi vào những ngày sinh hoạt chung trên Sơn Cốc. Khi Thầy bệnh rồi Thầy vẫn muốn sửa chữa thêm những căn nhà đổ nát và chuồng ngựa phía sau thành một thiền đường lớn và một phòng nhỏ để các thầy, các sư cô có nơi sinh hoạt vào những ngày Quán Niệm chỉ dành cho xuất sĩ.

Những cơ sở ở Xóm Hạ và sinh hoạt những năm đầu

Xóm Hạ

Mua Xóm Hạ

Có Phương Khê làm chỗ dừng chân rồi thì Thầy mới đi coi nông trại này nông trại kia và so sánh giá cả. Cuối cùng thì Thầy tìm một được một chỗ 21 mẫu, trong đó có 2 mẫu nho, 3 mẫu rừng và mấy mẫu ruộng. Mình có thể trồng hồng như dự định lúc đầu. Mình sống rất đơn giản nên không cần tiền tài trợ. Để trả lương cho anh Thiều mình mượn tiền của Giáo hội Phật giáo Việt Nam mà mình đã quyên cho trẻ em chiến tranh. Mình mượn rồi sẽ trả.

Mình mua đất từ những nông trại cũ, một thước vuông giá một franc, mua 10.000 thước vuông tức một mẫu chỉ có 10.00 francs. Tiền đi dạy của Thầy dư sức trả nên mình mua 21 mẫu. Trên giấy tờ mình khai mua cho Giáo hội Phật giáo Thống Nhất (Église bouddhique unifiée), lấy từ tên Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất mà Thầy là đại diện, nhưng thay vì “du Vietnam” thì mình để “de la France” tức là Giáo hội Phật giáo Thống Nhất tại Pháp. Hai mươi mốt mẫu đất mình để anh chị Thiều đứng tên, nhưng anh có viết giấy là tất cả là tiền của Giáo hội và anh chỉ đứng tên giùm. Đó là Xóm Hạ, sau này có tên chữ là chùa Cam Lộ.

Cư xá Tùng Bút

Vừa vào cổng Xóm Hạ thì có một bảng nhỏ với chữ Plum Village, Village des Pruniers rồi tới ngôi nhà đá cao to, có cửa vào 12 mét rộng, 6 mét cao có cửa hình vòng cung bán nguyệt cao to làm bằng gỗ nâu viền quanh những ô kính trong, vuông, 25cm x 25cm rất mỹ thuật theo lối những nhà giàu, sang trọng và cổ kính người Pháp. Đó là cửa vào chính thức cư xá Tùng Bút. Vừa vào là gặp ngay thiền đường to nhất làng năm 1983: Thiền đường Nến Hồng nằm giữa. Một cửa 4 mét x 3 mét cũng bằng gỗ sơn nâu gồm nhiều ô kính trong, vuông 25cm x 25cm. Bên trái là văn phòng ghi danh tu học ở Làng. Bên phải là quán sách Hoa Ô Môi, tiếp theo quán sách bên trái là cửa vào một hành lang 2 mét rộng thôi nhưng có điện thoại công cộng, hốc đá to để ông đưa thư hàng ngày đem thư từ và những colis sách… Bên trái của hành lang là cửa vào nhà bếp lớn để nấu ăn cho cả dân làng. Có khi nấu cho hai trăm người. Bên mặt tiếp theo nhà bếp là phòng to có hai thùng bằng xi măng (nông dân gọi đó là những chai” (đọc âm tiếng Việt là những se) chứa nước nho mới ép rượu bên trong là thùng gỗ và bên ngoài giống như những phòng vuông 5 mét x 5 mét x 2,5 mét bề cao bằng xi măng có thể chứa cũng vài chục mét khối rượu vang Pháp. Dĩ nhiên là thầy trò đã cho phá các thùng chứa rượu to tướng ấy và đem tráng nền xi măng cho căn phòng rộng 12×12 mét để làm phòng ăn và có một khoảng trống để các cháu trình diễn văn nghệ mỗi tối. Vào những năm đầu của Làng Mai thì năm nào các em thiếu nhi cũng tới đó trình diễn văn nghệ, đó cũng là nơi mà Thầy giảng Pháp mỗi khi xuống Xóm Hạ và đã giảng trọn hết Truyện Kiều cho những xuất sĩ mà lớn lên ở nước ngoài không biết văn chương Việt Nam. Những bài giảng đó sau này làm thành sách có tựa là Thả một bè lau.

Trọn vẹn ngôi nhà đá cao to giữa Xóm Hạ có thiền đường, văn phòng, quán sách Hoa Ô Môi, nhà bếp và phòng ăn, phòng học được gọi là cư xá Tùng Bút.

Thiền đường Nến Hồng, văn phòng, quán Hoa Ô Môi và Tham Vấn đường

Mình biến chỗ chứa rượu – những nhà se (thùng xi măng chứa rượu vang) của người dân cũ thành nhà bếp, phòng ăn và lớp học, lấy kho chứa rơm sửa thành thiền đường để ngồi thiền. Mình sửa nhà chứa rơm thành thiền đường Nến Hồng. Xóm Hạ có văn phòng (giữ từ năm đầu tiên cho tới bây giờ) bên trái của thiền đường Nến Hồng. Sau lưng văn phòng là thư viện. Hiện nay trong thiền đường Nến Hồng, có bàn thờ tổ tiên như thờ Sư Cố tức là thầy của Thầy, có hình Hoà thượng Trí Thủ và nhiều hình thờ ba má của Sư cô Chân Không, và ba má hay anh chị em quá cố của quý thầy quý sư cô. Bên trái của thiền đường, ngày xưa có một phòng nhỏ làm quán sách: quán Hoa Ô Môi, nhưng sau thì thấy quán sách nhỏ quá nên mình để một cây đàn piano và làm chỗ ngồi chơi cho mấy thầy, mấy sư cô và các cháu trẻ. Kế đó là hành lang để có cửa thông vào nhà bếp, một đầu là điện thoại còn đầu kia là nhà vệ sinh. Kế bên nhà vệ sinh là phòng của sư cô Chân Không ở bên mặt, phòng sư cô Chân Đức và Chân Vị ở bên trái. Trong phòng Chân Không có cất đèn tuệ giác Thầy cho mà bây giờ bị dẹp đi đâu rồi.

Hiện nay nhà bếp của Xóm Hạ đã làm mới khá lớn, đúng tiêu chuẩn nhà nước Pháp đòi hỏi nên khá quy mô. Phải làm đúng tiêu chuẩn của nhà nước để không bị đóng cửa nên đại chúng lấy luôn phòng sư cô Chân Không làm nhà kho lớn của nhà bếp lớn bây giờ. Sau đó thì mình dời quán Hoa Ô Môi ra Tham Vấn đường.

Tham Vấn đường là một căn nhà đá dùng để nuôi heo hay dê ngày xưa ở đối diện với phòng sinh hoạt công cộng. Vì không hôi thúi gì nên chỉ cần xịt nước rửa vách sạch và lót gỗ làm sàn để làm Tham Vấn đường cho Thầy tiếp thiền sinh.

Mấy năm đầu ai muốn tham vấn Thầy thì tới ngồi trình bày và Thầy lắng nghe. Một bác lớn tuổi mặc áo tràng đi vòng vòng bên ngoài Tham Vấn đường để giữ sự im lặng chung quanh. Sau này Thầy không có thì giờ nên người nào có khó khăn trong cuộc đời thì báo cáo với Chân Không rồi Chân Không báo cáo lên Thầy. Tới giờ tham vấn người ta sắp hàng năm, bảy người thì cũng không đủ giờ nên Thầy biểu Chân Không trả lời luôn. Chân Không thay Thầy cho thiền sinh tham vấn. Tham Vấn đường sau này đổi thành quán Hoa Ô Môi, nóc quán có dây hoa Bignolia leo màu đỏ cam rất đẹp. Trước quán có bụi trúc xanh ngày xưa nhỏ xíu mà bây giờ lớn lắm rồi, mình tỉa bỏ hết các cây trúc phía trong rồi đặt băng ghế ngồi pháp đàm bên trong bụi tre cho mát.

Cư xá Hồng Giòn

Một ngôi nhà đá bên trái cư xá Tùng Bút là cư xá Hồng Giòn, là nhà ở của những nông dân ngày xưa, anh chị Thiều và Tý Miu, cháu bé, chú Dũng ở cư xá Hồng Giòn đó. Bên hông cư xá Hồng Giòn cũng có khu để máy cày… và cũng có một se chứa rượu. Tại sao lại có tên là cư xá Hồng Giòn? Đó là tại vì hồng mình trồng bên Pháp toàn là hồng mềm ăn rất chát, phải chờ cho trái chín thì nó mới ngọt. Năm đó Chân Không đi Mỹ đem về một cây hồng giòn duy nhất trồng ở đó nên mình đặt tên là cư xá Hồng Giòn. Hiện giờ cư xá Hồng Giòn cũng được sửa sang lại thành nhiều phòng làm chỗ tạm trú cho thiền sinh tới Xóm Hạ tu tập.

Cư xá Mây Tím

Bên mặt cư xá Tùng Bút trước kia là chuồng bò, anh Trần Nguyên Đức – sau này đi tu thành thầy Trời Đại Nghĩa – thấy vậy nên cao hứng dọn rửa sạch sẽ rồi Làng kêu thợ tráng xi măng, sửa lại thành cư xá Mây Tím. Lúc đầu chỗ này chỉ có một phòng làm thư viện (bây giờ là phòng làm việc của các sư cô) và một phòng vệ sinh, phía sau là hai phòng nhỏ trong đó có một phòng dành cho Thầy nghỉ ngơi và tiếp khách mỗi khi Thầy xuống dạy ở Xóm Hạ. Phòng này gọi là phòng Hoa Cau, trên tường đá còn có cái móc là dấu vết của chuồng bò ngày xưa. Trong phòng Hoa Cau có treo hình của bé Trúc. Bé Trúc lần đầu tới Làng chỉ mới có ba tuổi, sau này bé Trúc trở thành nhạc sĩ vĩ cầm tí hon của Làng trong những dịp lễ vào thập niên 1990 – 2000.

Phía trên là gác lửng chứa rơm nuôi bò. Sau này có hai anh chị người Đức là Karl và Helga đã hướng dẫn thợ sửa phía gác lửng thành một tầng nữa gồm năm phòng ngủ để các sư cô có thêm chỗ ở cũng như sửa thêm tầng dưới để có thêm một phòng cho Chân Không tiếp gia đình tới thăm hay tiếp những thiền sinh muốn tham vấn riêng và phòng vệ sinh công cộng.

Cư xá Đồi Mận

Phía tay mặt có một dãy nhà trước là chỗ phơi thuốc lá chỉ có cái nóc thôi. 7 thước bề ngang và 40 mét bề dài thôi. Ngày xưa vùng đó người ta vẫn còn trồng thuốc lá. Mình lấy nhà phơi thuốc lá xây với gạch thô thành chín phòng bên mặt, bảy phòng bên trái và một khối bảy nhà tắm, bảy nhà vệ sinh.

Đó là cư xá Đồi Mận với các phòng tên Lá Mồng Tơi, Lá Tía Tô, Cải Cúc, Tần Ô… Hiện giờ cư xá Đồi Mận là ni xá của các sư cô nhưng cũng sắp bị đập đi xây lại vì gần sập và không đủ tiêu chuẩn an toàn để cư trú.

Cốc Tuổi Ngọc và hồ sen

Trong cư xá Mây Tím, ở tầng dưới có một phòng dành cho Chân Không. Ngoài ra các sư cô Xóm Hạ còn cất một cốc “nói là” dành cho sư cô Chân Không nhưng thật ra để cho khách đặc biệt như các ni trưởng hay sư bà lớn. Cốc Tuổi Ngọc này nằm ngay bên mặt cổng Xóm Hạ, sát đường. Cốc này, hai tầng bằng gỗ, chia thành ba phòng: hai phòng bên trên rất thoáng. Bên dưới là phòng khách và nhà vệ sinh. Cốc Tuổi Ngọc nhìn ra hồ sen Xóm Hạ. Ban đầu Thầy dạy nên xây một hồ sen ở Xóm Hạ. Chân Không là thủ quỹ nhưng hôm đó Chân Không theo Thầy đi hướng dẫn các khoá tu một vòng nhiều tiểu bang nước Mỹ, nên giao chức thủ quỹ cho thầy Pháp Lữ vì thầy biết làm sổ sách bằng tiếng Pháp. Thầy Nguyện Hải lên xin tiền mua vật liệu thì thầy Pháp Lữ nhất định không đưa tiền cho thầy Nguyện Hải vì Pháp Lữ tiết kiệm cho Làng, nghĩ là xây hồ sen phí tiền. Phải đợi Chân Không về trách thì thầy Pháp Lữ mới đưa tiền. Làng xây xong hồ sen thì mới thấy giá trị của một làng Tu Học đẹp tuyệt vời. Một hồ đầy sen hồng làm thay đổi ngay phong cảnh của Xóm Hạ. Xóm Hạ trở nên tâm linh hơn. Thầy không ngờ sen sinh trưởng rất dễ ở Làng Mai, hồ sen cho những hoa sen to màu hồng đẹp hơn cả hoa sen ở Việt Nam. Nhưng có điều lạ là ngó sen không cho hột sen, hột sen lép cho tới năm thứ 12, 13 hột sen mới bắt đầu chắc nhưng gương sen nào cũng rất ít hạt sen. Có lẽ vì từ khi hạt sen tượng hình cho tới khi sen tàn lụi vì khí trời đã sang thu, quá lạnh, sen chết sớm chưa kịp có hạt thành hình là lá sen ngó sen đều chết nhưng rễ sen còn sống để mọc lại cây sen mùa sang năm. Bây giờ các xóm của Làng Mai đều có sen, sen hồng và sen trắng ở xóm Tây Hồ.

Thiền đường Cam Lộ

Từ từ mình thấy thiền đường Nến Hồng cũng quá nhỏ nên mình cất thêm một cái nóc nhà dài 20 thước ngang 13 thước phía sau thiền đường Nến Hồng và đặt tên là thiền đường Cam Lộ. Lúc đầu thiền đường Cam Lộ chỉ có cái nóc, rồi từ từ mình làm thêm vách và cửa kiếng. Mình nhờ một bà nghệ sĩ ở Paris làm một tượng Phật rất thanh giống nữ Bồ tát mà cũng giống nam Bồ tát đặt ngoài trời. Thiền đường Cam Lộ được sưởi bằng lò sưởi củi to nằm giữa thiền đường.

Nhà Cây Anh Đào

Ông hàng xóm Mounet là một nông dân. Ông rất thương mình, ông hay chạy qua chỉ mình cái này cái nọ từ những ngày đầu mình dọn về Xóm Hạ. Khi ông mất rồi thì con ông dọn từ thành phố về không được dễ thương lắm, nhưng mình cũng chịu đựng thôi. Anh ta hay làm khó làm dễ, đòi mua đất của mình để xây hồ tắm. Mình không chịu thì anh ấy đòi kiện mình ra toà (vì không chịu bán đất cho anh ta). Cuối cùng Chân Không thấy ông này khó chịu quá nên nhờ một ông người Pháp đi mua nhà của họ. Khi bán xong rồi ra toà ký tên thì Chân Không mới lộ diện ra ký tên của Cộng đồng Phật giáo Việt Nam đứng ra mua của anh ấy. Nhà mua của gia đình Mounet trở thành nhà Cây Anh Đào (Cherry House vì nhà này cho Xóm Hạ năm cây anh đào khá ngon). Hiện giờ nhà này cũng vừa được sửa sang cho đúng tiêu chuẩn của nhà nước Pháp gồm bảy phòng ở cho thiền sinh.

Thiền đường Hội Ngàn Sao

Thiền sinh tới nghe pháp càng ngày càng đông nên sau này thiền đường Cam Lộ cũng không đủ chỗ, vì vậy mình xây thêm một thiền đường to gọi là thiền đường Hội Ngàn Sao. Hành lang của thiền đường Hội Ngàn Sao khá lớn, thiền sinh có thể ngồi ở ngoài để nghe giảng. Phía sau thiền đường Hội Ngàn Sao có bụi tre to nhất Làng, thân tre rất mập vì chỗ đó đất thấp và ẩm ướt và phía sau bụi tre là nhà vệ sinh công cộng. Kế bụi tre này là hai cái thất nhỏ của sư cô Chân Đức và sư cô Chân Vị. Còn cô Chân Diệu Nghiêm, trụ trì xóm Hạ thì có một cái thất lục giác bằng kiếng ở giữa rừng, sau lưng thiền đường Hội Ngàn Sao.

Nhà Bạch Dương và văn phòng làm sách

Năm 2016 có cặp vợ chồng ở miếng đất kế liền thiền đường Hội Ngàn Sao ly dị nên bán đất bán nhà cho mình, vì vậy Xóm Hạ có thêm một căn nhà ba phòng tên là Bạch Dương và các sư cô ban làm sách tiếng Anh đã sửa nhà để xe kế bên thành văn phòng làm sách, đặt tên là Mưa Xuân.

Như vậy Xóm Hạ có nhà Đồi Mận, nhà Mây Tím, cư xá Tùng Bút, nhà Tuổi Ngọc, thiền đường Nến Hồng, thiền đường Cam Lộ, thiền đường Hội Ngàn Sao, quán Hoa Ô Môi, cư xá Hồng Giòn, nhà Cây Anh Đào và nhà Bạch Dương. Ngoài ra Xóm Hạ còn có nhà Nắng Thuỷ Tinh là một ngôi nhà nhỏ ở gần Xóm Trung. Tên chữ của Xóm Hạ là chùa Cam Lộ.

Những năm đầu Làng chỉ mở cửa có một tháng mùa hè để đồng bào về Làng tụ họp và nghe pháp. Sinh hoạt Làng trong mùa hè nghiêng về mặt giữ gìn văn hoá vì đây là lúc gia đình người Việt cùng đi nghỉ hè với nhau ở môi trường Việt Nam trên đất Pháp.

Bé Trúc là cô bé mà được tất cả dân làng yêu mến. Mỗi lần có Hội Thuỷ Tiên thì cháu đem đàn violon ra đứng đàn cho đại chúng nghe giữa hàng triệu hoa thuỷ tiên. Bây giờ bé Trúc đàn cho dàn nhạc quốc gia Pháp đi trình diễn trên toàn quốc. Bé Trúc về Làng lúc ba tuổi, cháu nghe tiếng chim hót thì hỏi mẹ đó là tiếng gì hở mẹ? Tại vì bé lớn lên ở Bordeaux nên chưa hề nghe tiếng chim hót. Mẹ cháu nói:

“Con chim nó nói chuyện với con đó.”

Chân Không nói đùa:

“Nè con, hễ con chim hỏi, bé Trúc đó hả, thì con nói, dạ bé Trúc đây!”

Chân Không chỉ nói chơi với con nít cho vui vậy mà khi dẫn bé Trúc đi một hồi thì nghe cháu nói “dạ”, đi một đoạn nữa thì nghe cháu nói “dạ”. Chân Không hỏi:

“Sao con dạ vậy con?”

Bé Trúc nói:

“Dạ con nói chuyện với con chim. Nó hỏi con tới hồi nào nên con dạ.”

Bé Trúc dễ thương như vậy. Nhiều cháu bé tới Làng cũng rất là thông minh, ngọt ngào và đem niềm vui cho bao nhiêu người. Mẹ các bé cũng vậy: dì Tâm Trân, dì Yến, dì Mười, cô Hà có nụ cười rất xinh, vợ chú Chân Thuyên, khéo ơi là khéo, là những bà mẹ Việt Nam tuyệt vời. Chú Chân Thuyên, Chân Minh, chú Nguyễn Xuân Vinh, chú Nguyễn Bá Thư, chú Minh thiền sư ôm đàn hát nhạc dân ca Việt Nam với các cháu vang cả các Xóm mỗi trưa, dạy các cháu học thuộc 21 điều căn bản về văn hoá Việt. Đang học bài hay ca hát chợt có tiếng rao hàng: “Ai ăn chè đậu xanh, bột khoai, nước dừa đường cát… không!” Giọng cô Chín rao lảnh lót giữa trưa hè khi mọi người thiu thiu ngủ khiến nhiều cô bác lòng vui rộn lên như mới được về quê Sài Gòn. Lại có tiếng rao hàng khác nổi lên: “Bánh tiêu bánh bò giò cháo quảy đây!” Những giọng rao quà từ Châu Đốc, Long Xuyên, Vĩnh Long, Sa Đéc, Cần Thơ tới Sóc Trăng, Bạc Liêu, Rạch Giá xa xôi, rao nhộn nhịp vui ơi là vui, thương quá là thương! Giờ quán cốc đã mở, mọi người rộn ràng tới quán cốc dưới gốc Cây Sồi. Quán cốc là một cái chòi nhỏ rất đơn sơ như những căn chòi bán quán bên đường ở Việt Nam. Mẹ các bé thay phiên nhau nấu chè làm bánh còn các bé mặc áo bà ba hay áo dài ra phụ múc ra chén cho dân Làng. Sau giờ quán cốc mở là giờ thiền trà, mỗi hôm chỉ có 16 trà khách (gồm những vị nhận được thư mời của trà chủ). Một buổi thiền trà thường chỉ gồm 12 đến 16 trà khách, một trà chủ, hai người pha trà rất thiền vị, nam nữ, lớn bé ai cũng mặc áo dài (ai không có thì mua hoặc mượn ở quán Hoa Ô Môi để làm đẹp cho Làng).

Mỗi năm mình có Hội Hoa Mai vào tháng Tư. Mùa Hè mình chỉ mở cửa từ 15 tháng 7 tới 15 tháng 8. Nhưng sau này các Phật tử bên Hoa Kỳ “ganh tị” nên Làng Mai làm khoá tu suốt tháng 7 ở bên Pháp, rồi qua Hoa Kỳ cho khoá tu suốt tháng 8, nửa tháng ở miền Đông và nửa tháng ở miền Tây. Mỗi hai năm Thầy đi dạy ở Hoa Kỳ một lần. Sau này thì mình xong ở Pháp thì qua Đức dạy rồi mới đi Hoa Kỳ. Nhưng khổ nỗi là bên Pháp trong tháng 8 là các trường nghỉ hè, nếu Làng không mở cửa thì người ta không có chỗ để dẫn con cái đi tu học.

Trong mùa hè năm nào mình cũng có một ngày mình đốt đèn, đi bộ tới cái hồ trong rừng ở Xóm Hạ, vừa đi vừa niệm Phật. Tới hồ mình thả đèn trôi trên nước rồi thả cá xuống hồ. Hồ thông ra suối ra sông nên cá không ứ đọng trong hồ.


Xóm Thượng

Mua Xóm Thượng

Thật ra Xóm Thượng mới là dấu mốc quan trọng của Làng Mai. Sau Phương Khê thì mình tìm ra một nông trại mà Thầy thích nhất ở Thénac. Nông trại đó nhìn thì toàn là đá. Bên tay trái có một vách đá có nhiều lỗ hổng, bên tay mặt là một con đường nhỏ giống như con đường làng của Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội ngày xưa ở Phú Thọ Hoà, bề ngang khoảng chừng 1,5 thước thôi, nếu đi lấn lên trên cỏ thì cũng được 2 thước. Thầy thấy yêu phong cảnh này (có lẽ vì nó giống con đường đất gần Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội cách đây 50 năm) nên Thầy muốn mua miếng đất ở Thénac, nhưng ông chủ Deson không chịu bán tại vì đất này là từ ông cố của ông Deson để lại. Ông có nhiều đất chỗ khác có thể có huê lợi nên ông không cần bán. Bà vợ năn nỉ:

Thôi mình bán đi để tiền cho thằng Út (hơi khuyết tật). Nó không làm được gì, chỉ trồng trọt hữu cơ (bio) không có xịt thuốc rầy.”

Trong lúc đó có những nông dân bán nông trại để lên thành phố thì bán một cơ sở 21 mẫu mà giá chỉ mắc hơn chút trong khi miếng đất ở đây chỉ có 6 mẫu thôi. Nhưng miếng đất đó thì ở làng Loubès Bernac, Lot-et-Garonne còn miếng đất mà Thầy thích thì ở Thénac, Dordogne. Chân Không hỏi:

“Ông coi trên bản đồ coi nó cách Thénac bao xa, nếu chừng bốn, năm cây số thì tôi mua.”

Ông coi rồi nói:

“Ô, nó giáp ranh Thénac.”

Từ đó tới Thénac chưa tới 4 cây số giống như tổ tiên đã sắp đặt sẵn cho mình nên mình mua liền. Đó là Xóm Hạ ở Loubès-Bernac. Vì vậy mà Xóm Hạ có trước Xóm Thượng dù Thầy đã chọn đất Xóm Thượng trước. Sau đó thì mình mua được miếng đất ở Thénac tức là đất Xóm Thượng. Khi đi làm giấy tờ thì cô thư ký nói:

“Hồi xưa gia đình tôi sống ở đó mà sắp chết đói đó cô tại vì đất ở đó đào lên toàn là đá không hà. Mình muốn trồng một hàng cà rốt cũng không được nữa, đất chỉ có một lớp cỏ mỏng ở trên thôi. Tội nghiệp cô quá, thế nào cô cũng chết đói thôi!”

Những cơ sở ở Xóm Thượng

Bà thư ký đó tên là Dedieu, bà sợ mình chết đói thật là dễ thương. Vậy là mình mua Xóm Hạ nằm ở xa mút tí tè của tỉnh Lot-et-Garonne và Xóm Thượng ở Thénac thuộc một tỉnh khác nữa, đó là tỉnh Dordogne. Thành phố lớn nhất của Lot- et-Garonne là Agen, còn thành phố lớn nhất của Dordogne là Périgueux. Từ Thénac lên Périgueux cũng mất 80 cây số, còn từ Loubès Bernac tới Agen cũng mất 70 cây số. Nhưng nhờ vậy nên mình rất yên. Mình mua Xóm Hạ vào tháng 10 năm 1982, không có ai làm khó dễ. Vừa mua xong thì mình dọn tới liền, gọi gia đình anh Thiều từ trại tị nạn ở Pháp dọn vô cư xá Hồng Giòn. Cháu bé mới sinh của anh Thiều ở trại tị nạn Strasbourg tên “Chó Con” – Lê Nhật Tâm – vì anh Thiều đọc quyển Trái tim mặt trời của Thầy ở trại tị nạn, thích quá nên đặt tên con. Xóm Thượng mình mua được vào tháng 3 năm 1983, không có ai ở nên buồn quá. Thấy vậy Thầy tình nguyện lên ở đó, có lò sưởi bằng củi. Loại lò sưởi này nhỏ, mình mở cái nắp tròn chừng 12 phân đường kính rồi nhét thanh củi vô, ba bốn thanh thì cháy được một giờ đồng hồ. Giữa khuya mình phải thức dậy bỏ thêm củi, cứ mỗi đêm là phải thức dậy khoảng hai ba lần để bỏ củi.

Thầy ở Xóm Thượng và viết cuốn Đường xưa mây trắng ở đó, tuy Thầy cũng có Sơn Cốc nhưng Thầy chỉ cất giấy tờ ở đó và đa phần ở với đại chúng. Còn Chân Không thì có một phòng ở Loubès-Bernac, Xóm Hạ tên là phòng Phượng Vĩ.

Pháp Thân Tạng

Bữa đó Thầy gọi điện thoại kêu tất cả Xóm Hạ đều phải lên Xóm Thượng coi cái này đẹp lắm. Tất cả leo lên xe của Chân Không là xe Quatre Chevaux cũ kỹ gần hư. Tới Xóm Thượng thì mình thấy bên trái chỗ triền đá có hàng triệu hoa thuỷ tiên mọc lên. Tuyệt vời! Thầy nói cảnh này giống như trong kinh Pháp Hoa “Tùng địa dũng xuất” và đặt câu thơ:

Qua vườn trúc thôn trên, xuống Pháp Thân Tạng

Thầy gọi chỗ hoa thuỷ tiên mọc đầy là Pháp Thân Tạng. Pháp thân là cái gì đẹp nhất của Phật pháp. Tạng là kho tàng. Kho tàng của Pháp thân là chỗ này, chỗ có hàng triệu vị Bồ tát vượt đá trồi lên. Sau mùa đông hàng triệu lá xanh tách đá nhô lên. Rồi hai lá xanh tách ra có nụ vàng ở giữa. Rồi nụ vàng tách ra thành bốn năm cánh rung rung dưới nắng. Chân Không đặt bài hát:

Qua vườn trúc thôn trên, xuống Pháp Thân Tạng Hội thuỷ tiên, ngàn tiên hé cánh.
Qua đồi mai thôn dưới, ngang Tham Vấn đường, Ngày thả cá, đàn cá tung tăng.

Ngàn tiên hé cánh, ngàn tiên hé cánh…

Xóm Thượng năm nào cũng có Hội Thuỷ Tiên vào tháng Ba ở Pháp Thân Tạng để mọi người thưởng thức hoa. Mình mời những người bạn của Làng tới chơi. Mình mời bé Trúc đàn violon và quang cảnh cô bé đứng kéo đàn giữa rừng hoa thuỷ tiên rất đẹp.

Vừa quẹo vô Xóm Thượng thì bên tay trái có một bãi đậu xe lớn cho cả trăm chiếc xe trên miếng đất mới mua được của ông hàng xóm Bonnamy. Sau đó có bảng viết chữ Village des Pruniers lieudit Le Pey. Trong Le Pey có con đường cây xanh nhỏ huyền thoại giống như đường quê Việt Nam. Ngay từ đầu Thầy đã thích con đường đó nên nhất định đòi mua Xóm Thượng. Tên chữ của Xóm Thượng là chùa Pháp Vân. Năm đầu tiên, Thiền đường chùa Pháp Vân nằm trong cư xá Trúc Lâm. Bên trái thiền đường là Quán Sách. Bên phải là chuồng thỏ mình xây lại thành hai tầng có ba phòng ở dưới và ba phòng ở trên leo lên bằng một cầu thang gỗ xinh xinh. Thầy Pháp Dung là cựu kiến trúc sư nên Thầy dạy thầy Pháp Dung trình bày và xây nhà ăn của đại chúng cho có vẻ văn hoá. Ban đầu chưa có tiền nên chỉ vẽ nóc và để thiên hạ ngồi ăn ở Hiên Nghe Mưa, chỉ có nóc chưa có vách. Năm sau đủ tiền mình cất luôn dãy phòng ăn từ Hiên Nghe Mưa, lên vách, xây tường, làm cửa kính và cửa sổ rất thanh tú. Cũng trong năm này anh chồng chị Thục Quyên, một kiến trúc sư người Đức trình bày giúp mặt tiền thiền đường Chuyển Hoá nguyên là cái chuồng ngựa nhà ông Deson xưa. Mặt thiền đường sửa theo hình trình bày của anh đã thay đổi căn chuồng ngựa, biến thành ngôi thiền đường thật thanh tú, hoàn toàn mất hết các dấu vết chuồng ngựa xưa. Vì thế nên tăng thân đặt tên là thiền đường Chuyển Hoá (Transformation Meditation Hall). Thiền đường này lại tiếp tục chuyển hoá thêm nhờ hai anh thợ cất chùa mà Chân Không đưa từ Việt Nam sang, hai anh làm một bàn thờ tổ Tăng Hội rộng 2 thước rưỡi, cao một thước rưỡi, điêu khắc y chang theo truyền thống gỗ điêu khắc xưa, sơn son thếp vàng như các chùa xưa ở Việt Nam vậy nhưng thật ra là làm bằng xi măng. Từ chuồng ngựa vừa dơ vừa hôi mình sửa thành một thiền đường. Thiền đường Chuyển Hoá chia thành ba phần. Có bàn thờ vong, đầu tiên là thờ ông chủ đất cũ của Xóm Thượng rồi tới ba của mấy thầy. Còn có thờ thầy Pháp Ngạn, một thầy tu xuất gia khi đã lớn tuổi vừa lên tỳ kheo thì thầy mất vì đột quỵ, thờ thầy Pháp Ý tu mười năm thì bị đột quỵ chết, có thờ bác Tư là bác hay đặt mấy bài nhạc theo điệu vọng cổ miền Nam. Vì bác đã từng thường trú lâu năm ở Xóm Thượng nên khi bác mất các con đem tro của bác từ Úc về thờ ở Xóm Thượng. Trong thiền đường Chuyển Hoá có hình chụp đại giới đàn đầu tiên lúc sư cô Chân Không và sư cô Chân Đức được Thầy truyền đăng. Có một chuyện rất tức cười trong ngày hôm đó. Thầy là thầy nhưng từ khi có thế hệ thứ hai tức con cái của những học trò của Thầy thì mấy em nhỏ không gọi Thầy là Thầy mà gọi là Sư Ông. Chỉ có ba má của tụi nhỏ mới gọi Thầy là Thầy thôi. Hễ nghe gọi Sư Ông thì ai cũng biết đó là thầy Nhất Hạnh. Hôm đó là đại giới đàn đầu tiên ở Làng, mình mời Sư bà Đức Viên ở San José qua. Mình nói với nhau: “Chiều nay Sư bà Đức Viên qua.” Mình nói với nhau một cách tự nhiên, thật ra Đức Viên là tên chùa, tên đúng của Sư bà là Thích Nữ Đàm Lựu. Mấy đứa nhỏ nghe vậy nói với nhau: “Mình chờ coi vợ của Sư Ông mặt ra sao!” Tụi nó nghĩ hễ Sư bà thì phải là vợ của Sư Ông!!! Trong hình chụp Sư bà ngồi bên đây, phía bên kia là Thầy, có hàng trống ở chính giữa để các giới tử lên thọ giới. Sau thiền đường Chuyển Hoá quá nhỏ nên mình lấy một ngôi nhà lớn, hồi xưa là chuồng thỏ chia làm ba phần. Bên tay mặt mình làm quán sách, ở giữa có bàn thờ thay cho tượng Phật và một chữ Khán 看 (tức là nhìn lại) thật to bằng chữ Nho do chính Thầy viết. Bên tay trái ngày xưa là một dãy chuồng thỏ, mình xây mái cho đàng hoàng rồi chia thành ba phòng ở tầng dưới và ba phòng ở tầng trên giống như cư xá cho mấy thầy. Sau thiền đường này cũng quá chật nên cuối cùng mình xây một thiền đường rất lớn, lớn hơn cả thiền đường Xóm Hạ. Đó là thiền đường chùa Pháp Vân, sau này mình xây rộng thêm, Thầy đặt tên là thiền đường Nước Tĩnh. Đây là lần đầu tiên mình làm một thiền đường đàng hoàng nên trước khi xây mình phải nộp bản vẽ cho Socotec tức là cơ quan làm việc cho chính quyền để kiểm soát đúng tiêu chuẩn. Họ kiểm soát rất gắt gao đúng theo tiêu chuẩn, chẳng hạn người ngồi xe lăn đi vào không bị gập ghềnh… Thiền đường Nước Tĩnh khá dài, tượng Phật lớn được đặt ở ngoài dưới gốc cây dương. Bên trong thiền đường có một tượng Phật nhỏ màu đen trên bàn thờ. Sau tượng Phật nhỏ này bị ai lấy đi mất tại vì ở Làng Mai mình không có khoá cửa. Bên tay phải của thiền đường Nước Tĩnh có một chái lớn để cho thiền sinh ngồi nghe pháp thoại. Như vậy cũng chưa đủ, mình còn dựng thêm nhiều lều phía ngoài. Pháp thoại được dịch ra nhiều thứ tiếng. Đó là nhờ công của anh Chân Sinh Hoàng Phúc, anh là kỹ sư ở Canada. Khi Thầy giảng bằng tiếng Anh thì mình dịch ra tiếng Pháp, tiếng Việt. Mình mua loa có những lỗ cắm để thiền sinh có thể cắm tai nghe vào nghe. Có khi đông quá mình đặt luôn loa trong lều dựng bên ngoài. Nằm bên tay trái thiền đường Nước Tĩnh là một khu nhà vệ sinh được xây đúng với tiêu chuẩn có hệ thống tháo nước. Mình cũng không ngờ xây một khu vệ sinh thôi mà phải tốn 250.000€. Mình cũng phải xây một khu tháo nước cho mỗi xóm rất là tốn kém.

Tới mùa hè thì thỉnh thoảng có vài anh thiền sinh Việt Nam lái xe tới đại mà không biết phải ghi danh trước. Mình cũng phải nhận họ, họ ở chật một chút cũng không sao. Bây giờ Tây phương cũng học theo phong cách “tự tiện ẩu” của Việt Nam, họ chẳng thèm ghi tên, tới thì lựa góc rừng có cắm lều đàng hoàng rồi lên văn phòng trình diện và nói đã chọn xong cái lều ở góc đó và xin trả tiền. Không ghi tên trả tiền thì không được chia nhóm pháp đàm để hưởng được lợi lạc của những chia sẻ trong nhóm.

Tới năm thứ hai thì nhà nước đòi đóng cửa Làng Mai vì lý do không đủ tiêu chuẩn an toàn. Mình hoảng quá vì người ghi tên hơn hai trăm người mà cấm không cho tới tu thì chắc Chân Không… chết mất(!) Chân Không tìm cách cầu cứu với các vị chức sắc trong chánh quyền mà Chân Không quen hồi chiến tranh Việt Nam như ông Chaban Delmas, cựu thủ tướng, ông bộ trưởng Bộ Ngoại giao Jean François Poncet hay mấy ông thượng nghị sĩ Bernard Dusaut… Chân Không cứ bám vô mấy cụ mà cầu cứu để mấy cụ nói chính quyền nới tay cho mình. Nếu không có tiếng nói của mấy cụ thì cũng không xong tại vì mình xây cất chỗ ăn ở cho thiền sinh không đúng tiêu chuẩn. Nước Pháp cũng xuề xoà nhưng có một sự kiện đã xảy ra là một khán đài trong sân vận động bị sập làm chết nhiều người tại vì khán giả leo lên quá tải. Ông tỉnh trưởng của vùng đó bị phạt tù nên từ đó Uỷ ban An ninh Hoả hoạn làm việc rất nghiêm khắc. Họ tới đóng cửa Làng ngay và khi Làng mua được nhà đúng tiêu chuẩn đón khách tu học ở Dieulivol nên mở trở lại thì họ cũng theo dõi mình rất sát. Sự trùng tu xây sửa phải đúng tiêu chuẩn nhà nước quy định và có chữ ký của Socotex là Ban Quản lý về kỹ thuật mà nhà nước có niềm tin.

Trên Xóm Thượng có một nhà ăn lớn do thầy Pháp Dung vẽ mẫu và thiền đường Chuyển Hoá. Phía sau thiền đường Chuyển Hoá dính liền với ngôi nhà mà sau này ông Bonnamy mới bán cho mình. Mình mua nhà của ông Bonnamy rồi xây mười phòng bên trái và mười phòng bên mặt gọi là Friendship Building (nhà Tình Bằng Hữu). Tình Bằng Hữu là ngôi nhà ngày xưa Thầy ngồi hơ tay trên lò sưởi củi để viết cuốn Đường xưa mây trắng. Phía sau nữa là chỗ đậu xe mà ông hàng xóm vừa bán cho mình. Gần đây nhất ông hàng xóm dọn đi ở gần con gái nên bán luôn cho mình phần nhà và đất còn lại của ông, nhà cũ lắm rồi không ở được nhưng đất khá rộng, nên đất của Xóm Thượng được nối liền rất thông thoáng.

Sau khu nhà vệ sinh và hệ thống thoát nước là một vùng đất đá, nơi mình làm Hội Thuỷ Tiên. Ở đó có căn nhà tên là Linh Quy (Turtle Lodge) do mấy anh thiền sinh xây. Nhưng hiện nay Linh Quy sắp bị đóng cửa tại vì nó rung rinh và có thể sập bất cứ lúc nào. Kế bên Turtle Lodge có một ngôi nhà bằng gỗ gọi là cốc Thanh Phong dành cho thị giả, tại vì cốc Thanh Phong nằm gần cốc Ngồi Yên của Thầy. Sau cốc Ngồi Yên là cốc Phù Vân của thầy Giác Thanh, sau này dùng làm nơi nấu ăn cho Thầy mỗi khi Thầy ở lại Xóm Thượng.

Cốc Ngồi Yên

Cốc Ngồi Yên được làm bằng gỗ và có một sân thượng rất rộng đưa ra ngoài. Những đêm trăng lên, thiền sinh có thể tới ngồi thiền, ngắm trăng. Ngoài hành lang, Thầy có treo một cái võng. Bên trong cốc có một cái giường nhỏ, một kệ sách kê bằng những viên gạch và gỗ, một ghế xích đu, một bàn Phật nhỏ bên tay trái, tượng Phật đơn sơ thanh tú. Sau ghế xích đu là nhà vệ sinh. Có một bếp nhỏ và bàn ăn để Thầy có thể ngồi ăn cùng thị giả sau bếp. Trong cốc cũng có một máy photocopie nhỏ để Thầy viết thư rồi photocopie ra gởi cho các xóm. Cốc Ngồi Yên nằm trên một triền núi và phía dưới là rừng sồi đỏ.

Kế bên cốc Ngồi Yên là cốc Phù Vân. Sau đó là tăng xá của quý thầy. Tăng xá được xây theo hình chữ khẩu 口, chính giữa là một cái sân có trồng cây cảnh thật đẹp.

Khu đất phía trên cốc Ngồi Yên thì đã bị ông người Nga, chủ của lâu đài rượu mua hết. Ông ta rất muốn mua khu rừng phía tay trái của Xóm Thượng.

Bên tay mặt của Xóm Thượng là một triền núi mình đã mua lúc ông chủ nhà mới mất và mấy người con cũng muốn bán. Nhưng chỉ mới trả có 10% số tiền thì mình gặp những rắc rối như là ông tá điền không chịu dọn đi. Ông ta đòi 10.000€ (tiền túi!) mới chịu đi ra. Mình không đồng ý hối lộ nên ông hỏi qua ông chủ lâu đài rượu. Bên Pháp nơi làm rượu được gọi là lâu đài rượu. Ông chủ lâu đài rượu muốn mình rút ra để ông mua khu đất đó trồng nho làm rượu tại vì nơi đó nắng chiều rất tốt và làm cho nho ngon, trong khi đất bên tay trái thì vì bị rừng che mất nắng nên nho không ngon. Mình nghe ông trồng nho làm rượu thì không thích nên cuối cùng mình cũng không nhường lại cho ông lâu đài rượu. Nhưng mười năm sau khi ông chủ đất mất, mấy đứa con của ông tới nói ông tá điền bây giờ không làm việc nữa nên mình có thể mua. Mình trả luôn 90% còn lại và mua luôn miếng đất. Theo nguyên tắc khi mua xong thì mình phải tới đăng ký ở toà thị chính. Nhưng mình mua xong mà ông lâu đài rượu ở sát toà thị chính cũng không hay. Xóm Thượng có khu đất bên mặt rất vững chãi là khu rừng sồi cho nên Xóm Thượng rất vững về phương diện phong thuỷ. Chân Không nghĩ tin vào sự thăng bằng của mặt đất thì cũng rất khoa học. Sau đó thì năm nào Xóm Thượng cũng có ít nhất là mười người xuất gia, có đủ các quốc tịch như Đức, Hoà Lan, Tây Ban Nha, Mỹ, Canada. Xóm Hạ, Xóm Mới cũng có người xuất gia nhưng người châu Âu rất ít, đa phần là từ Việt Nam và các nước Đông Nam Á.

Bây giờ đi tới Xóm Thượng mình chỉ có một con đường nhỏ xíu như cho thỏ đi, bề ngang chừng 3 thước có cắm bảng Villages des Pruniers, Le Pey. Mấy thầy tính vẽ một đường xe hơi tráng nhựa chạy từ chân núi lên, bọc ngang cốc Ngồi Yên tới thiền đường Nước Tĩnh và có bãi đậu xe. Bên đây có một con đường đi ngang qua nông trại Hạnh Phúc (Happy Farm) có hồ sen trắng. Chỗ đó mình chưa xây cất gì cả. Một ông nhà giàu cho mình 500.000USD để mua ngôi nhà Les Pinadas (lieudit Les Pinadas) của một ông người Anh. Les Pinadas ăn thông qua Xóm Trung.

Gần đây, Xóm Thượng đã làm một con đường trải đá đi từ chùa Sơn Hạ dưới núi lên chùa Pháp Vân (tên chữ của Xóm Thượng) ven theo bìa rừng rất đẹp.

Xóm Đoài

Năm 1983 – 1984, Làng Mai sắp bị đóng cửa vì nhà cửa lôi thôi, không đúng tiêu chuẩn tiếp khách công cộng. Khi đó, anh Chân Pháp Nhãn và chị Chân Diệu Thục Quyên đề nghị hùn tiền mua một căn nhà gần Xóm Thượng để làm chỗ cho mấy thầy. Mình sửa lại cho đẹp, có nhà tắm, nhà vệ sinh đàng hoàng. Nhà đó nằm ở hướng tây và Thầy mình là thi sĩ nên gọi là nhà thôn Đoài. Thật ra chỉ là nhà nông dân nghèo, mình sửa lại thành 12 phòng có nhà vệ sinh, nhà tắm rất sang.

Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người
Tương tư (Thơ Nguyễn Bính)

Sơn Hạ

Mua Sơn Hạ

Ông hàng xóm của Xóm Thượng ở trong một ngôi nhà rất sang. Ông nói bây giờ ông già rồi nên muốn bán cho mình ngôi nhà của ông. Ông nói với thầy Pháp Lữ, thầy Pháp Lữ năn nỉ Chân Không, Chân Không nói:

“Thôi đủ rồi. Bây giờ mình không có đủ tiền mua nhiều cơ sở quá, để từ từ.”

Nhưng một hôm ông lên, không có thầy Pháp Lữ. Ông gặp được Thầy và Chân Không, ông năn nỉ:

“Bây giờ cô xuống coi nhà tôi đi. Tôi biết cô coi thì sẽ thích. Nếu cô không mua thì tôi sẽ bán cho mấy người Anh. 11 giờ trưa này họ ký giấy mua. Tôi rầu lắm nhưng buộc lòng phải bán. Tôi không thích mấy người đó lắm. Tôi thấy quý vị ở đây ăn ở có trước có sau. Ngày Tết đem hoa cúng ông bà tổ tiên ở các nghĩa địa Pháp. Quý vị đem những chậu hoa cúc cúng dường các ngôi mộ mà con cháu nghèo quá, không có tiền lo. Tôi thật cảm động nên muốn bán cho quý vị hơn.”

Thầy xuống coi nhà thì thấy nhà cũng được, nhưng nếu ông bán luôn cánh rừng đi suốt từ nhà ông lên Xóm Thượng thì Thầy mới chịu mua. Ông nói mình chờ nửa giờ sau ông sẽ trả lời. Ông vào hỏi ý bà vợ thì bà đồng ý bán để có tiền xây một ngôi nhà nhỏ hơn ở gần đó. Ông chịu bán với giá 370 ngàn. Lúc đó mình có vừa đủ tiền. Tiền của các khoá tu mình không xài gì cả, chỉ để dành sửa nhà cửa cho hợp lệ thôi. Mình mua nhà đó rồi thì ông cất một ngôi nhà trắng mới tinh ở bên kia đường Xóm Trung mà sau này khi ông mất bà cũng bán luôn cho mình gọi là nhà Nắng Thuỷ Tinh.

Những cơ sở ở Sơn Hạ

Ở Sơn Hạ có một dòng suối mình không thấy rõ, nhưng nước cứ trào lên rồi tràn qua cái ao trước nhà mình. Lúc đầu ông chủ nhà Dutheil chỉ bán cái nhà nhưng sau thì ông bán luôn cho mình rất nhiều nhà xưa cũ bỏ hoang bên sau, bán luôn dòng suối và cái hồ. Nhà Fontagnane rất sang. Thầy thấy có hai ngôi nhà xưa cũ bỏ hoang đó, ông Dutheil không để ý tới mà mình có thể sửa lại để làm thiền đường, có thể gắn vitrailles tức là một loại hình bằng kiếng màu đặc biệt của Tây phương mình thường thấy trong các nhà thờ. Mình biến cái nhà kho đó thành thiền đường ở Sơn Hạ và sửa những vitrailles thành hình Bồ tát Địa Tạng tay cầm hoả châu tròn soi đường đi xuống địa ngục giúp người, một vitraille khác là hình Maya phu nhân mới sinh hài nhi là thái tử Siddharta. Đó là thiền đường Thánh Mẫu Maya. Hôm đó ông Đại sứ của Việt Nam tới gặp Thầy, ông thấy mấy cái vitrailles (kính ghép màu) thì nói rằng Thầy nổi tiếng là vì Thầy nắm vững văn hoá của nước khác, Thầy biết dùng văn hoá của người để chuyển thành văn hoá Phật giáo. Những vitrailles hình thiên thần, thiên chúa mà Thầy biến thành hình Maya phu nhân sinh Siddharta hay hình Bồ tát Địa Tạng đi vào địa ngục thì hay quá. Phía ngoài có một nhà chứa rượu, trong tương lai mình sẽ làm thành phòng học. Bên tay trái của phòng chứa rượu có một ngôi nhà, nhìn xấu ơi là xấu giống như một đống rác. Mua xong thì Thầy cho đập bỏ hết lớp tô bên ngoài để lộ ra những khối đá bên trong.

Lúc này mình có bảo lãnh chú Hiếu là em của thầy Từ Hoà ở chùa Từ Hiếu qua Pháp. Mình giúp em của thầy Từ Hoà qua đây làm thợ hồ, trả lương căn bản SMIC để có tiền nuôi ba mẹ. Nhờ đó ba thầy Từ Hoà có thể mua được một miếng đất ở Vỹ Dạ để dọn ra từ chùa Từ Hiếu. Có chú Hiếu nên mình sửa ngôi nhà nhỏ đó thành cái thất của Thầy. Trong nhà có lò sưởi củi và cửa sổ tròn rất đẹp do chú Hiếu làm. Đó là thất Da Cóc. Ba của một thầy có làm một bài thơ tả thất Da Cóc: Ngoài da cóc trong ngọc ngà. Mỗi lần Thầy tới Sơn Hạ thì ở trong thất Da Cóc. Trong ngôi nhà lớn của ông Dutheil thì mình làm thiền đường. Bên hông nhà lớn, ông Dutheil có làm một nhà khách (gîte) cho khách thập phương tới mướn. Nhà khách có nhà bếp, có phòng ngủ và phía trên có một cái gác làm phòng làm việc. Mình để quý thầy ở và làm việc ở đó. Mình sửa ngôi nhà chính thành nhiều phòng ngủ cho quý thầy ở. Sau nhà có một khu vệ sinh và một nhà bếp khá lớn. Nhiều thiền sinh cắm lều trong khu rừng xung quanh Sơn Hạ. Bây giờ chùa Pháp Vân phía trên Xóm Thượng được gọi là Sơn Thượng và chùa phía dưới Fontagnane thì gọi là Sơn Hạ.

Xóm Tây Hồ – nông trại hạnh phúc (Happy Farm)

Sau đó có anh Pritam, anh có tiền nên nhờ mình mua giùm một căn nhà bao nhiêu cũng được, anh muốn có nhà ở sát Thầy. Có một căn nhà người ta muốn bán 437 ngàn Euro. Tuy là nhà không tới giá đó, nhưng anh cũng muốn mua. Tới giờ chót anh không đưa tiền, nói mình đưa tiền trước rồi anh trả lại sau. Mình đưa tiền thì Giáo hội đứng tên chứ không phải anh. Như vậy thì kể như là mình mua luôn và đặt tên là xóm Tây Hồ. Sở dĩ mình đặt tên là Tây Hồ tại vì nó cũng nằm ở hướng tây và có một cái hồ rất dễ thương. Mình chỉ thả có vài củ sen xuống hồ mà hai năm sau sen trắng mọc đầy hồ rất đẹp.

Ở đó đường đi không dễ nên mình làm xóm Tây Hồ ra thành Happy Farm, tức là một nông trại trồng rau hạnh phúc, không có xịt rầy, xịt sâu, xịt chất hoá học. Happy Farm cũng rất thành công, trong đó có một anh chàng rất nổi tiếng ở Hoa Kỳ. Anh đàn violon solo, người ta nói người đàn violon solo phải rất tài ba. Anh bị trầm cảm nên qua làm việc ở Happy Farm. Không ai biết là anh nổi tiếng. Anh cứ trồng trọt và quý trọng từng nắm đất, từng bụi cây, không dùng thuốc trừ sâu rầy, không dùng chất hoá học. Một năm sau thì anh hết bệnh và về Mỹ. Mình nhớ vào ngày Tết, lúc các sư cô ngâm Kiều thì anh người Mỹ này đàn vĩ cầm hoà theo tiếng ngâm thơ của Việt Nam rất hay.

Lúc sau Thầy đề nghị người Việt thì bói Kiều, người Anh thì bói Shakespeare và người Pháp thì bói thơ của Victor Hugo. Một cô người Tây phương ngâm hai câu của Shakespeare thì anh này cũng đàn theo rất là hay. Đó là từ Happy Farm mà mình có những văn nghệ sĩ tài ba.

Xóm Mới

Cuối năm 1995, vì người tới đông quá nên mình cho xây một thiền đường sườn sắt nóc bằng tôn. Đó là thiền đường Cam Lộ ở Xóm Hạ. Làm xong mình mời Uỷ ban An ninh Hoả hoạn tới thăm. Xem xong họ nói:

“Trời ơi, chỗ này mà đón khách đông như vậy hả? Phải đóng cửa!”

Mình phải đóng cửa Làng Mai liền tức khắc. Mình sợ quá, đã tháng Tư rồi mà mùa hè năm ấy không cho người tới thì tội nghiệp quá. Chân Không nhớ hồi chiến tranh Việt Nam, có lần Chân Không đại diện Giáo hội lên gặp ông bộ trưởng Bộ Ngoại giao, có khi cũng gặp ông thủ tướng trong những buổi tiếp tân của nhà nước Pháp cho nên ông cũng hơi biết Chân Không là ai. Lúc đó Chân Không còn trẻ, mặc áo dài trắng rất hiền lành trong đám quan khách mặc toàn đồ Tây nên ông cũng dễ nhớ. Ông tên là Jacques Chaban Delmas, ông cũng có lúc làm thủ tướng. Chân Không viết cho ông một lá thơ, nhắc lại: “Lúc đó hồi chiến tranh Việt Nam tôi có gặp ông. Bây giờ chúng tôi thành lập một trung tâm tu học ở đây mà sao nhà nước bắt đóng cửa?” Ông điều tra và cho biết tại vì mình không biết luật lệ là muốn tiếp khách ngoài thì trung tâm phải có đúng tiêu chuẩn an ninh cho mọi người. Các phòng phải có cửa sổ lớn để có thể nhảy ra khi có hoả hoạn. Cư xá Đồi Mận chỉ có mấy viên gạch dính nhau nên phải tráng xi măng lại… Trong khi chờ đợi được cho mở cửa thì mình phải sửa cả năm trời. Lúc đó là tháng Tư mà tới tháng Bảy là mình phải tiếp khách. Người ta đã ghi tên hai, ba trăm người rồi. Năm thứ nhất, mùa hè 1983, chỉ có một trăm người. Năm thứ nhì, mùa hè năm 1984, mình có hai, ba trăm người. Mùa hè năm 1985 thì có hơn ba trăm người. Lúc đó là năm 1996 thì số người nhiều hơn nữa. Mình sợ quá nên đi tìm một chỗ có thể tiếp nhận được khách thập phương tức là phải có nhà tắm, nhà vệ sinh đàng hoàng. Hay nhất là mình hỏi mua các khách sạn có quán ăn nhưng những chỗ như vậy thì mình không có đủ tiền.

Mua Xóm Mới

Xóm Mới là cứu tinh của mình. Năm đó Xóm Hạ và Xóm Thượng bị đóng cửa. Nhờ cầu cứu với mấy ông lớn nên họ cho mình sửa lại nhưng tạm thời mình không được mở cửa nhận khách vì lý do an toàn.

Lúc đó mình tìm mua được Xóm Mới ở Dieulivol. Nhiều nông dân bỏ nhà quê lên thành phố nên nhà nước mua lại mấy cơ sở còn hơi tốt của họ. Trong hai, ba năm gần đây mình có một số Phật tử Tây phương thương mình nên người thì cho 20.000-30.000USD, người thì cho 70.000USD. Cuối cùng thì mình cũng có được 800.000USD. Mình đi tìm nhiều chỗ và sau cùng mình tìm được một chỗ giá 800.000€. Mình xin bớt 100.000€ để sửa chữa. Ông chịu và mình mua một trung tâm mới, đó là Xóm Mới ở vùng có tên là Dieulivol. Mình mua chỗ này, mình chỉ sửa ít thôi vì nó có đủ tiêu chuẩn công cộng như nhà vệ sinh, nhà tắm… Xóm Mới là trung tâm cứu vớt hai trung tâm kia tại vì họ bắt đóng cửa Xóm thượng và Xóm Hạ. Nhờ có trung tâm Xóm Mới mà Làng Mai vẫn mở cửa. Chính thức là mình về Xóm Mới nhưng bán chính thức thì mình vẫn ở Xóm Hạ và Xóm Thượng.

Những cơ sở của Xóm Mới

Tiểu sử nhà Xóm Mới này cũng đáng để nhắc tới: vì tình trạng người trẻ từ từ bỏ xóm làng lên thành thị sống nên ông xã trưởng và cũng là tỉnh trưởng xin phép nhà nước cung cấp cho vùng này một ngôi nhà để làm trung tâm giải trí cho người trẻ và vận động người trẻ ở lại. Nhà nước đã mua căn nhà này với giá cao nhưng người trẻ vẫn không ở lại nên họ bị lỗ, phá sản, phải bán đấu giá…., nhờ vậy mà mình mua được ngôi nhà này ở ngay mặt đường. Gọi là Xóm Mới vì mới mua sau này chứ nhà đã bỏ hoang mười năm và chỉ có một ngôi nhà chứ không có nhiều cụm nhà nhưng mình vẫn gọi là Xóm cho giống hai xóm kia. Dieu là Thượng đế và livol có nghĩa là muốn, Dieulivol có nghĩa là ý Thượng đế muốn mình về đây làm trung tâm để phát triển pháp môn này trên khắp nước Pháp, tên chữ Thầy đặt là Thiên Ý thôn.

Vì là trung tâm giải trí nên họ xây một nhà khiêu vũ từ một nhà chứa rơm. Sau khi mua Xóm Mới thì mình biến nhà khiêu vũ thành thiền đường. Sau này xây thiền đường mới mình gọi chỗ này là Phật đường. Tường của nhà chứa rơm rất dày với nhiều đá. Mình khoét hang trong tường đá để đặt tượng Bụt rồi cho dây leo bám vào ghềnh đá nên Bụt ngồi thiền trong hang đá có lá xanh leo quanh rất trang nhã. Trên vách đá là hai bức hoành có chữ Thầy viết:

Bên mặt là câu: Trên đài sen trắng Như Lai hiện.

Bên trái là câu: Trong rừng trúc tím Quán Âm ngồi.

Vào Phật đường mình chỉ thấy Bụt ngồi trong động đá. Hai bên động đá là hai câu liễn Thầy viết chữ đơn sơ khiến tâm ai cũng lắng đọng. Sàn thiền đường lót thảm tím rất tĩnh lặng đậm đà thiền vị, gối và nệm ngồi thiền cũng bọc bằng vải tím. Thầy chọn màu tím cho Phật đường vì ở Phật đường có thờ một tượng Quan Thế Âm, Thầy nói rừng trúc tím là chỗ ở của ngài Quan Âm và ngày xưa vua chỉ ban y màu tím cho các vị cao tăng. Sau đó Xóm Hạ chọn màu xanh dương đậm và Xóm Thượng chọn màu nâu cho bồ đoàn toạ cụ của xóm mình.

Hai bên thiền đường là hai căn nhà đã sụp đổ chỉ còn bức tường và cái nền. Một bên mình sửa thành chỗ ở cho các sư cô gọi là khu Phật đường, gồm năm phòng bên trên, ba phòng bên dưới và khu vệ sinh. Một bên mình xây lại thành sáu phòng để làm văn phòng, phòng vi tính, phòng chứa băng đĩa, phòng cho tôn túc và phòng vệ sinh, trên lầu là một thiền đường nhỏ tên Mây Thong Dong. Tuy nhiên bây giờ phía bên này đã được sửa chữa lại thành văn phòng và quán sách, còn thiền đường Mây Thong Dong được dùng để làm phòng triển lãm sách và pháp khí của Thầy.

Tại nhà chính, các phòng trong nhà khách có vẽ tranh cổ vào thế kỷ 17 – 18, tường sơn màu nhạt, khắc hình rất đẹp. Mình dùng làm phòng ăn, phòng tiếp khách, phòng sinh hoạt cho cư sĩ. Phía trong có một dãy phòng, mình làm một phòng cho sư cô Chân Không, một phòng cho sư cô Bảo Nghiêm và phòng bên trên ngày xưa dùng làm thư viện, sau đông người nên để cho tám sư em ở, có nhà tắm, nhà vệ sinh. Bên kia cầu thang là phòng của Thầy, kế đó là phòng của sư cô Định Nghiêm, sư cô Tuệ Nghiêm và ba sư em. Trên lầu phía bên Thầy là phòng sư cô trụ trì Trung Chính với sư cô Thoại Nghiêm.

Cổng đi vô rất đàng hoàng dù đã cũ kỹ. Từ cổng vô bên tay trái có một dãy nhà dành cho cư sĩ, gồm có năm phòng ở trên lầu và ba phòng ở dưới. Phòng thứ ba là một khu nhà vệ sinh, tầng trên cũng có một khu nhà vệ sinh và nhà tắm. Sau khu vệ sinh là nhà kho có bốn, năm tủ đông đá để chứa thức ăn. Bây giờ thì dãy nhà này cũng là chỗ ở của các sư cô tên gọi là khu Rừng Cây. Bên tay mặt có một nhà lớn, trên lầu chia thành nhiều phòng nhỏ dành cho khách, bên dưới là một nhà nghỉ ngơi cho quý thầy để ngày quán niệm thì các thầy có không gian riêng. Hai phòng nhỏ kế đó được dùng làm phòng ở cho các em tập sự và phòng may. Xóm Mới có phòng nha do chị Thục Quyên giúp trang bị máy móc và anh nha sĩ Hiền ở Bordeaux chăm sóc, làm răng cho các thầy, các sư cô của mấy xóm. Kế đó là phòng lạnh chứa thức ăn cho bếp rồi tới nhà bếp. Nhà bếp cũng khá rộng, nhưng bây giờ người tới đông quá nên nhà nước chê nhà bếp Xóm Mới không đúng

tiêu chuẩn. Ban An toàn Vệ sinh Thực phẩm những nơi đón khách công cộng bắt phải xây lại hết khu bếp núc. Nguyên cái khu nhà bếp, phòng nha sĩ, phòng may, phòng tập sự và phòng dành cho quý thầy đều bị đập đi và xây lại vì phải có nhà bếp lớn đúng tiêu chuẩn. Phía trên lầu được sửa lại thành phòng may, phòng phơi đồ và một phòng trống để sinh hoạt. Khoảng sân giữa ba dãy nhà này gọi là Sân Chim vì các phòng hồi đó được đặt tên các loài chim, đã được các sư cô tự lót đá theo kiểu những con đường cổ ở châu Âu nên khá dễ thương, các sư cô rất thích tụ họp ở đó.

Phía sau đất của Xóm Mới, ngày xưa vì muốn kéo người trẻ ở lại không bỏ lên thành phố nên nhà nước mở một cái quán bán rượu. Mình biến quán bán rượu xưa của họ thành quán bán sách, bán thư pháp của Thầy. Bây giờ mình đổi thành văn phòng làm việc của các sư cô, và dời quán sách về bên trái Phật đường.

Phía sau toàn bộ khu nhà chính này là đất trống, khi mình mới dọn về thì cỏ mọc ngút đầu. Sau đó mình xây một thiền đường đơn giản có sức chứa bốn trăm người gọi là thiền đường Trăng Rằm. Đây là thiền đường nhỏ nhất trong ba xóm nên mỗi khi Thầy giảng pháp ở đây vào mùa hè, tất cả những người nghe thông dịch qua tiếng khác đều phải ngồi ngoài thành từng nhóm trong khi người Việt (là nhóm đông nhất cần thông dịch) thì ngồi hẳn trong Phật đường.

Nếu trong Xóm Mới Trung Ương nhìn ra đường xuyên quận, thì sát bên tay mặt của Xóm Mới Trung Ương có một ngôi nhà của hai vợ chồng già đã mất nên con trai họ bán rẻ cho mình. Mình mua ngôi nhà và đặt tên là nhà Hoa Hồng (Les Roseraies), dùng để người trong gia đình các sư cô tới ở vì không đủ tiêu chuẩn nhận khách. Phía sau Les Roseraies là nhà của một ông nha sĩ người Anh về hưu rất khó chịu, ông bán nhà đó cho mình, mình mua và đặt tên là nhà Hoa Mai (Les Pruniers), sẽ tu sửa lại thành thư viện và phòng dưỡng bệnh. Kế bên Les Roseraies có một ngôi nhà lớn cho thuê, bây giờ người thuê dọn đi nên họ bán cho mình. Ngôi nhà này chung một chủ với cái đồi trồng toàn mận nên Xóm Mới có một đồi mận y như ở Xóm Hạ. Họ bán cho mình 6 mẫu trồng mận, 3 mẫu đất và mấy căn nhà cũ. Khu nhà này và nhà Les Pruniers, mình sẽ làm thành ni xá. Qua khỏi nhà có vườn mận là nhà Giếng Thơm (Les Puits) dành cho khách ở. Tiếp đó là một dãy đất mình đã mua rồi nhưng chưa xây cất, có hai cô thiền sinh là Michelle và Martine mua hai miếng đất kế bên, rồi em Hương ở Paris mua một miếng đất kế đến rồi mình mua thêm một miếng đất sát cạnh nữa. Vậy là nguyên khu đất đó là của mình, em Hương, cô Michelle và cô Martine. Sau con đường dẫn đi Dieulivol là tới Xóm Mới Lưng Đồi, nhà ở lưng chừng đồi và có khoảng mười hai phòng hạng sang tức phòng cho hai người, mỗi phòng đều có nhà vệ sinh.

Như vậy, từ Duras đi tới thì đầu tiên là nhà Đầu Thôn, một căn nhà hai tầng mà bỏ hoang nên mình mua đấu giá khi toà án phát mại, không có nhiều đất chung quanh. Mình sửa nhà lại thành nhiều phòng ngủ để cho thiền sinh ở. Đi chừng 300 thước nữa là Xóm Mới, nhà chính gồm có các cơ sở sinh hoạt và chỗ ở các sư cô như đã kể trên. Bên kia đường là miếng đất mình mua để làm chỗ đậu xe, có hai hàng tùng lọng và một nhà kiếng để trồng rau sạch. Sau đó là nhà Hoa Mai, nhà Hoa Hồng, nhà mà chủ có vườn mận (mình chưa đặt tên), nhà Giếng Thơm, đất của em Hương, đất kế nhà hai cô cư sĩ Pháp Michelle, Martine rồi tới nhà Lưng Đồi.

Như vậy thì Xóm Mới sắp giống một cái xóm thiệt vì có nhiều nóc nhà rồi.

Xóm Trung

Xóm Trung có tên gọi như vậy vì ở giữa Xóm Thượng và Xóm Hạ, cách Xóm Thượng một cây số và Xóm Hạ hai cây số. Nhà Xóm Trung là của hai ông bà khá giả, bên trong xây bằng gỗ hai tầng theo kiểu nhà đại gia khá đẹp. Nhưng nó đã cũ nên họ bán có 100 ngàn đô. Chị của sư cô Định Nghiêm hứa cho, nói muốn cúng dường 100.000USD. Thầy không chịu, không muốn mất sư cô Định Nghiêm tại vì người đi tu mà có gia đình giàu cúng dường 1, 2 trăm ngàn đô thì người đó sẽ sinh ra ỷ lại. Sư cô Định Nghiêm đi tu với hai tay không, chị sư cô có giàu thì là của chị thôi. Đi tu với hai tay không thì tu mới bền. Nhưng Chân Không cũng mua được Xóm Trung với giá ít hơn một trăm ngàn đô, nhờ bà chủ nhà Marniès chịu bớt 30 ngàn francs cho con nít đói vào năm 1998.

Nhà chính của Xóm Trung là ngôi nhà cổ có lầu, mình sửa lại tầng dưới thành bếp, ba phòng ngủ và thiền đường. Trong thiền đường Bụt cũng ngồi trong hang đá. Xóm có con suối băng qua bên dưới chân đồi là chỗ để cắm 100 lều.

Xóm Trung vào mùa hè được dành cho người Việt vì sau này ở Làng, người Việt ngày càng ít và người Tây phương ngày càng đông. Một mùa Hè có khoảng 100 – 150 người Việt, trong khi người Tây phương thì lên tới 300 – 1000 mỗi tuần. Thầy nói, khi ngồi giảng nhìn xuống thấy mặt người Tây phương thì Thầy thuyết pháp bằng tiếng Việt không được. Nên từ đó khi sắp chỗ ở, mình xếp tất cả thiền sinh người Việt về ở chung Xóm Trung, các thầy sư cô Việt Nam tu rất giỏi nhưng nói ngoại ngữ chưa giỏi đều về Xóm Trung chăm sóc đồng bào.

Nhà ở Xóm Trung không đúng tiêu chuẩn nên chỉ được để cho mấy thầy mấy sư cô ở tạm. Không biết mình có đủ tài chính để xây một căn nhà đàng hoàng ở Xóm Trung hay không? Mình phải cất một nhà bếp đúng tiêu chuẩn tại vì nếu có ai bị ngộ độc thì mình sẽ gặp rắc rối to. Hiện giờ Xóm Trung bị đóng cửa, gần như bỏ hoang vì mình chưa có đủ điều kiện để sửa sang cho đúng luật để nhận khách.

Nhà Nắng Thuỷ Tinh (gần Xóm Trung)

Ông Dutheil ở dưới Xóm Thượng bán cho mình khu rừng và ngôi nhà của ông ở Sơn Hạ rồi thì ông về xây một ngôi nhà song song với Xóm Trung ở bên kia đường. Ông ở được hai năm thì bị bệnh và mất năm 2012. Bà vợ lại năn nỉ mình mua giùm ngôi nhà mới cất. Bà nói căn nhà quá lớn, bà không thể ở một mình và muốn dọn về ở gần con gái tại quận Sigoules, cách đó 5 cây số. Căn nhà quá tốt, sơn thuần màu trắng nên mình đặt tên là nhà Nắng Thuỷ Tinh, trong đó có nhà vệ sinh, nhà tắm rất sang trọng. Hiện tại nhà Nắng Thuỷ Tinh thuộc sự chăm sóc của Xóm Hạ và là chỗ ở cho thiền sinh nữ khi nào Xóm Hạ không đủ chỗ nhận khách.

Như vậy thì mình có:

  1. Xóm Thượng (lieudit Le Pey Thénac).

Xóm Thượng hay Sơn Thượng Lieudit là địa chỉ nhưng ở nhà quê người ta không có tên đường chỉ gọi lieudit tức là một cụm nhà. Tên chữ của Xóm Thượng là Thệ Nhật sơn, Pháp Vân tự.

  1. Sơn Hạ (lieudit Fontagnanes, Thénac)
  2. Xóm Đoài (lieudit Les Combes, Thénac )
  3. Xóm Tây Hồ (lieudit Ramefort, Thenac), sau này thành nông trại Hạnh Phúc (Happy Farm)
  4. Xóm Hạ (lieudit Meyrac, làng Loubès-Bernac). Tên chữ của Xóm Hạ là Mai Hoa thôn, Cam Lộ tự.
  5. Xóm Trung (lieudit Cabane, Thenac ).
  6. Nhà Nắng Thuỷ Tinh thuộc Xóm Trung dành cho người Việt.
  7. Xóm Mới (Lieudit 13 Martineau, làng Dieulivol, tỉnh Gironde), tên chữ là Thiên Ý thôn, Từ Nghiêm tự.

Tại sao có tên là Làng Mai?

Ý đầu tiên của Thầy là lập một làng tu học có tên là Làng Hồng. “Hồng” ở đây không phải là bông hồng (rose) mà là trái hồng (persimon, arbre de kaki hay plaquementier). Lúc đầu Thầy định lập Làng Hồng ở Việt Nam. Trái hồng thường dùng trong đám cưới ở Việt Nam bán rất đắt tiền, như vậy thì mình sẽ có tiền để làm công tác xã hội. Nhưng sau 1975 thì các thầy và các sư cô không còn hoạt động được nữa. Ở Sóc Trăng, Cần Thơ có 12 thầy tự thiêu. Tình hình không thuận lợi ở Việt Nam nên Thầy quyết định lập Làng Hồng ở Pháp.

Lúc đó có một anh tác viên xã hội tên là Lê Nguyên Thiều rời khỏi Việt Nam. Mình năn nỉ anh sang Pháp định cư để lập Làng Hồng ở Pháp. Lúc đó cộng đồng người Việt ở Pháp chia hai, một bên thân Cộng sản và một bên chống Cộng sản. Bên chống Cộng sản nói Hồng là màu đỏ nên Làng Hồng là thân Cộng sản.

Mình chỉ nghĩ hồng là trái hồng. Khi tìm được đất thì người ta cho biết vùng đó có thể trồng được trái hồng. Mùa đông cây rụng lá, nhưng trên cây còn trái màu hồng kéo dài tới giữa mùa đông mới rụng hết. Người dân trong vùng nói, trái hồng bán thì không ai mua, người Pháp trồng hồng để mùa đông vẫn còn những cây sây trái màu cam cho đẹp vườn nhà. Còn nếu muốn trồng trái để có thể bán được thì không nên trồng hồng mà phải trồng mận. Thầy nói mận cũng có tên là mai theo chữ Hán – Việt. Trái mận nhỏ người ta gọi là ô mai. Vì vậy những năm đầu Làng có tên là Làng Hồng nhưng sau đó trung tâm có tên là Làng Mận hay Làng Mai. Làng Mai thì nghe có vẻ thi ca hơn. Mỗi cây mận con chỉ có 10 Francs cho nên mấy em nhỏ Việt Nam về Làng mỗi mùa hè góp nhặt tiền túi gửi cho sư cô Chân Không 15 Francs để trồng một cây hay 150 Francs trồng mười cây. Bốn, năm năm sau thì cây có trái và mình lấy tiền bán trái để cho con nít đói ở Việt Nam. Chương trình dạy của Thầy lúc nào cũng đi vào thực tế. Thầy dạy giáo lý rồi giúp người cởi bỏ những tri giác sai lầm, sống chung an lạc. Nhưng có thực mới vực được đạo tức là con nít nhà nghèo phải có cơm ăn nên mình cho nó có bữa cơm trưa.

Ngày xưa Phật đi giảng có tăng đoàn gồm 1.250 thầy nên mình cũng trồng 1.250 cây mận. Đất mình mua chuyên trồng nho. Mình nhổ hết nho tại vì mình không muốn làm rượu và trồng năm mẫu mận. Mỗi mẫu trồng được 250 cây mận, năm mẫu là 1.250 cây. Mùa xuân 1.250 cây mai cùng nở một lần trắng xoá rất đẹp. Thầy dạy chúng ta sống trong chánh niệm tức sống trong giây phút hiện tại, trân quý cái đẹp ngay bây giờ nên mình có hội Hoa Thuỷ Tiên và hội Hoa Mai. Vào mùa xuân, tháng Ba hoa thuỷ tiên trổ lên tưng bừng từ đất đá nên Thầy làm lễ hội Hoa Thuỷ Tiên để mời nhạc sĩ, ca sĩ về hát ca với hoa và ăn cơm trong chánh niệm. Giữa tháng Tư Thầy làm lễ hội Hoa Mai, cũng mời các bạn ở các thành phố gần đến ăn mừng ca hát với hoa mai nở trắng xoá nhiều cánh đồi.

Vùng này trái mận (mai) rất ngọt nên mình đem sấy khô trái mận đem bán. Tiền bán mận mình cho trẻ em đói. Mình lo cho tâm linh nhưng cũng đi vào thực tiễn. Trong chiến tranh mình đã giúp con nít mồ côi mất cha mẹ trong chiến tranh. Bây giờ mình giúp con nít mà cha đi học tập cải tạo, mẹ bệnh tật. Chân Không xin phép Thầy lên Sứ quán nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam nhờ họ chuyển tiền về Việt Nam và hứa sẽ lạc quyên cho trẻ em mồ côi ở cả miền Nam lẫn miền Bắc và nhất là trẻ em mồ côi những vùng nào mà chính quyền đề nghị, vì mình muốn giúp người khổ thôi, không phân biệt bên này hay bên kia. Con nít mới năm tuổi mất cha mẹ thì nó khổ thôi chứ không biết cha mẹ bên Quốc gia hay bên Cộng sản. Chương trình giúp trẻ em mình vẫn tiếp tục. Trong suốt chiến tranh mình giúp trẻ em mồ côi chiến tranh thì bây giờ cũng vậy. Trước khi đi Chân Không cũng đem cả ngàn phiếu tên các cháu mồ côi và tên người đỡ đầu tại Pháp, Đức, Hà Lan, Bỉ… để họ có thể kiểm soát, ví dụ như xem lại có phải bà ở Pháp tên Marthe De Venoge đã gởi 25F (5USD) cho bé này không, hay ông Bartolemi, người Ý có phải đã cho mỗi tháng tương đương số tiền 5USD cho cháu Nguyễn Văn B ở tỉnh Đồng Nai làng đó xã đó không…? Như vậy nhà nước có thể nhận mỗi ba tháng 150 ngàn USD mà biết đó không phải tiền của tình báo Mỹ. Hành động hợp tác này bị thất bại vì gửi về tấm séc 150.000USD thì nhà nước đã rút ra hết 150.000 Mỹ kim nhưng Hoà thượng Trí Thủ đại diện cho chương trình không hề nhận được đồng nào dù là tiền Mỹ hay tiền Việt Nam.

Trong thời gian đi dạy ở Sorbonne, Thầy cũng có một ít tiền. Khi muốn lập Làng mình nghĩ là mình không có tiền để mua đất. Nhưng như đã kể trên, mình nghe nói nông nghiệp bây giờ sử dụng máy móc nhiều nên nông dân nghèo không sống nổi, vì vậy có những nơi nông dân bán đất rất rẻ để lên thành phố. Họ bán đất giá chỉ 1 Franc một mét vuông. Mình về đó tìm mua cho rẻ tại vì thầy trò không có đủ tiền. Đất miền quê đã rẻ, nhưng nếu mua đất để làm nông thì mình còn được mua rẻ hơn nữa. Thầy đề nghị với anh Lê Nguyên Thiều về làm ông từ đứng tên giùm mua đất cho Làng nhưng đồng thời anh cũng khai thác, trồng trọt. Tiền lời bán nếu làm nông dân không đủ tiền thì với tiền Thầy đi dạy và tiền Phật tử cúng dường mình cũng có thể giúp anh mỗi tháng số tiền bằng lương tối thiểu của một công dân Pháp (SMIC), lúc đó là 2000 Francs. Có những anh tình nguyện làm việc với Chân Không để giúp cho trẻ em chiến tranh như anh Pierre Marchand nhưng bây giờ ra lập hội mới (Partage avec les enfants du monde) thì cũng lãnh lương SMIC tức lương của một thư ký nghèo nhất dù cho anh là giám đốc. Mình cũng cho anh Thiều lương nghèo nhất, nhưng công chuyện thì mình làm chung. Ngoài ra, nếu vợ anh có thiếu gì hay vợ anh sinh con thì cũng dùng tiền làm chung.

Phương Vân Am

Hồi Thầy đi dạy ở Đại học Sorbonne, để có phương tiện lưu trú tại Pháp thì tuy đã có tiến sĩ đệ tam cấp về sinh học rồi nhưng Chân Không vẫn ghi tên học về Phật học ở Sorbonne, làm luận án tiến sĩ về Phật học với Thầy để có thẻ sinh viên ở lại Pháp. Chân Không thẳng thắn từ chối làm việc nghiên cứu về rong nước ngọt và phụ dạy về rong nước ngọt vùng Á Châu với Giáo sư Bourrelly ở Đại học Jussieu, Paris. Mục đích Chân Không sang Pháp là để giúp Thầy và Phái đoàn Phật giáo Việt Nam tại Hoà đàm Paris, thông tin về sự tàn phá của chiến tranh trên đất nước Việt Nam, kêu gọi ngưng chiến chứ Chân Không không phải muốn được dạy ở Đại học Paris. Chân Không muốn xin cái thẻ sinh viên làm luận án Tiến sĩ Phật học là để có thẻ lưu trú mỗi năm ở Pháp mà không phải ngồi chầu chực mỗi tháng ở Préfecture như khi chưa có chỗ đứng chắc chắn trên xứ Pháp. Và Thầy mà làm người đỡ đầu luận án Tiến sĩ Phật học thì… thế nào cũng tha thứ cho trò không viết luận văn.

Nơi Thầy dạy là Văn phòng Phái đoàn Phật giáo Việt Nam đông và ồn quá. Thầy cần có một cái thất nho nhỏ ở nhà quê để cuối tuần Thầy có thể rời Paris về đó tĩnh tu nghỉ dưỡng, đi thiền hành và trồng trọt vài thực phẩm mình thích như ngò, cải bẹ xanh, cải tần xại làm dưa, trồng đậu, trồng cà… Người ta nói ở miền Nam nước Pháp thì trồng được khổ qua, bầu, bí như ở Việt Nam được. Ở Phương Vân am, khu nhà nhỏ Thầy vừa mua ở vùng quê cũng trồng được tía tô, kinh giới, nhưng khi trời lạnh thì mình phải đem vô nhà. Và khi Sài Gòn thuộc về miền Bắc tháng 4 năm 1975, Thầy không còn kêu gọi hoà bình nữa nên đóng cửa Văn phòng Phái đoàn Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất mà Thầy là Chủ tịch ở Paris và dời về Phương Vân am. Phương Vân am chỉ một ngôi nhà đá cũ nát với ba ngàn thước vuông và cách Paris khoảng 180 cây số.

Năm 1976, sau khi đi cứu trợ thuyền nhân trên vịnh Xiêm La đưa đến kết quả là gây được sự chú ý của thế giới về thuyền nhân chết rất nhiều trên vịnh Xiêm La thì mình nghe tin vui là Chính phủ Pháp làm chiếc tàu lớn tên Iles de Lumière cứu người trên biển, nước Đức cho ra đời chiếc tàu vớt người tên Cap Anamur. Thầy chúng ta đưa Phái đoàn Hoà bình Giáo hội PGVN Thống nhất về định cư luôn ở Phương Vân am, chỗ tĩnh tu cuối tuần của Phái đoàn Phật giáo Việt Nam Thống Nhất hồi trước.

Phương Vân am là tên Việt Nam, chỗ tĩnh tu của Thầy chúng ta, thầy Thích Nhất Hạnh, nhưng để cho các bạn ngoại quốc tri kỷ dễ nhớ, Thầy còn cho tên thứ hai là Les Patates Douces. Địa chỉ của Phương Vân am là: 10190 Fontvannes, thuộc tỉnh Aube, nằm về phía đông nam cách Paris 178 cây số.

Chú Thanh Hương, vì làm luận án cao học về thiền sư Huyền Quang, nên đã phải ở lại Paris với anh Cao Thái, em Nghiêm Hữu Lợi và Nghiêm Thị Kim Thoa. Anh Sáu Cao Thái vốn sinh sống bằng nghề đại diện cho hãng bán nữ trang thượng hạng cho nữ lưu sang trọng Pháp nên phải lái xe đi hết tỉnh này sang tỉnh khác để quảng cáo hàng cho hãng nữ trang. Vì thế anh có hai nơi trú ngụ: Phương Vân am, 10190 Fontvannes và 69 Bvd Desgrange, 92330 Sceaux tức địa chỉ của Phái đoàn Phật giáo Việt Nam Thống Nhất tại Paris.

Ngày trước tháng 5 năm 1975, Văn phòng Phái đoàn Phật giáo Việt Nam Thống Nhất mướn đến 2 appartements ở cùng số nhà ấy nhưng sau tháng 5 năm 1975 thì chỉ còn anh Cao Thái, chú Thanh Hương cùng các em Thoa, Lợi nên chỉ giữ một căn do anh Cao Thái trả tiền thuê cho cả bốn người vì sau 1975, Thanh Hương, Thoa, Lợi không còn nhận được tiền bố mẹ gửi từ Việt Nam nên cũng nhờ anh Cao Thái lo cho chung.

Cuối năm 1979 chị Bảy Cao Ngọc Điệp cùng các cháu Lâm, Thuý, Phương vượt biên và được ở với anh Cao Thái và chú Thanh Hương. Khi văn phòng này dời về 7 rue du 8 Mai 1945, thị xã 92340 Bourg la Reine thì chú Thanh Hương phát hành sách Lá Bối. Địa chỉ này cũng là địa chỉ chính thức của Phái đoàn Phật giáo Việt Nam để lắng nghe tiếng kêu cứu của thuyền nhân. Từ địa chỉ này Thầy gửi thư an ủi, gửi sách Anh – Việt, Pháp – Việt cho thuyền nhân sử dụng. Những cuốn sách đầu tiên của thầy Nhất Hạnh được in và tái bản tại Tây phương, có thể mua ở 7 rue du 8 Mai 1945, thị xã 92340 Bourg la Reine là những quyển sách như Phép lạ của sự tỉnh thức, Trái tim mặt trời, Thiền hành yếu chỉ, Việt Nam Phật giáo sử luận

Hội Fellowship của Jim Forest tặng cho mình cái máy đánh chữ Varitype. Chữ đánh máy nhưng nét giống y như chữ sắp từng chữ một của máy typo in tiếng Việt ngày xưa ở Việt Nam. Chữ nét thanh mỏng như chữ sách in, chỉ không có dấu Việt Nam. Thầy chúng ta đã dùng ngòi bút rất thanh, mỏng của hoạ sĩ để ngồi bỏ dấu ă, â, ê, sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng rất chuyên nghiệp để sách in đẹp như sách in chứ không như chữ đánh máy bỏ dấu tay như những sách in bằng tiếng Việt ở thời gian đó. Những cuốn sách tiếng Việt in đầu tiên tại Phương Vân am là cuốn Phép lạ của sự tỉnh thức, Trái tim mặt trời, Thiền hành yếu chỉ Kinh người biết sống một mình, và nhất là ba quyển Việt Nam Phật giáo sử luận. Lúc đó Chân Không đã có máy photocopy thu chữ nhỏ lại và gửi cho sư bà Phước Hiển, sư bà Thể Thanh, sư bà Hải Triều Âm và sư cô Trí Hải. Mãi lâu sau Chân Không mới biết sư bà Hải Triều Âm đã dùng quyển Trái tim mặt trời làm sách giáo khoa cho các sư cô trẻ dưới sự chỉ dạy của sư bà. Thầy chúng ta rất vui khi nghe tin ấy. Sư cô Trí Hải thì nói, mới nhận được bức thư dày trong đó có quyển Thiền hành yếu chỉ mà cô Chân Không gửi qua bưu điện như một bức thư. Nhờ đọc xong và sau đó khi bị vào tù, sư cô đã tập đi thiền hành trong nhà tù chật chội chừng 2m x 2m mà sư cô đi thảnh thơi, khoẻ nhẹ trong thời gian ở trong tù. Vì vậy cho nên mỗi lần được mời đi phỏng vấn như đi hỏi cung, lúc nào sư cô cũng đi thảnh thơi, nhẹ nhàng và mỉm cười luôn nên các cai ngục nể nang sư cô lắm. Làm việc xong họ còn tặng cam quýt cho sư cô chứ không phải hầm hầm nét mặt như sắp tra tấn.

Song song với công việc in sách tu học Thầy còn làm nhiều quyển sách tập học tiếng Việt – Pháp, Việt – Anh để giúp thuyền nhân ở các trại tị nạn.

Từ từ các độc giả của những quyển sách ký tên Nhất Hạnh xưa nay đã dần dà tìm cách liên lạc qua thư từ với tác giả rồi tìm về tu học ở am Phương Vân. Am chỉ là khu đất 3000 mét vuông do Thầy mua năm 1970 khi đang dạy ở Đại học Paris Sorbonne. Đó là một ngôi nhà bằng đá 7m x 7m với lò sưởi củi, dành làm am đá của Thầy. Trong am đá có giường ngủ, bàn viết lách và một máy in Gethstetner chỉ in nổi chừng 500 đến 1000 copies thôi. Máy vốn là của Văn phòng Phái đoàn ngày xưa. Trong am đá này còn có một lavabo và một bi-đê. Đâu mặt vách với am đá là căn nhà gạch có được lò sưởi to khá đẹp. Thầy cho lắp sàn gỗ 40cm bề cao để ngồi thiền trực tiếp trên sàn thiền đường, có lót moquette thảm. Sau thiền đường là một phòng ngủ nữ nhưng chia làm hai tầng nâu cách nhau 50cm bề cao. Tầng trên khoảng 2,50m x 5m dành cho má của Chân Không và Chân Không ngủ. Tầng thấp hơn cũng khoảng 2,50m x 5m là nơi Chân Không làm việc. Cô Bùi Hương ngủ ngoài thiền đường với cô Hằng và cháu Minh Tâm. Cháu Minh Tâm là con của cô Nguyễn Thị Hằng và nhạc sĩ Trần Quang Hải, cháu nội học giả Trần Văn Khê. Vì cha mẹ ly dị nhau nên cháu Minh Tâm ở với mẹ Hằng, cô Bùi Thị Hương và cô Chín Chân Không.

Năm 1979 cô Bùi Thị Hương và Hằng dẫn cháu Minh Tâm về miền Nam nước Pháp học cách sống tự túc theo Tây phương ở Communauté de L’Arche của Lanza Del Vasto. Hương gặp người bạn đời người Pháp và sống với ông cho đến ngày ông chết thì Hương trở về Việt Nam định cư luôn. Mỗi lần anh Cao Thái hay chú Thanh Hương về Phương Vân am thì ngủ ở phòng trên gác phía trên thiền đường. Pierre Marchand hay Jim Forest đều ngủ luôn trên đó. Sau thiền đường là nhà bếp, nhà vệ sinh và phòng tắm.

Người về tu học với Thầy ở Phương Vân am ngày càng đông nên Thầy cho cất thêm một phòng rộng 5 thước dài 15 thước để khách về ngồi thiền ban ngày, ngủ ban đêm. Vì 3000 mét vuông quá nhỏ để cắm lều nên Chân Không chỉ nhận mười người khách về lưu trú tối đa mỗi tuần. Khách tới từ thứ sáu ở lâu nhất là tới thứ năm tuần sau thì phải về để thứ sáu kế đó cho nhóm Phật tử khác tới. Chân Không phải lái xe đưa họ về ga xe lửa thành phố Troyes, cách am Phương Vân 18 cây số để họ về lại trú xứ. Chỗ cắm lều cũng không đủ nên Thầy bàn nên đi về miền Nam nước Pháp mà lập làng Tu Học như trong thời gian vừa lập Thanh niên Phụng sự Xã hội xong. Thầy đã có ý định là đạo Phật dấn thân vào đời do Thầy chủ trương phải có một ngày tu học trong một tuần và một tháng tu học trong một năm. Thầy nghe nhiều học trò Pháp của Thầy cho biết là ở miền quê nước Pháp nông dân bỏ đất nông nghiệp vào thành phố làm công nhân tuy có lương khiêm nhường nhưng chắc chắn có tiền hàng tháng, trong khi đó thì làm nông là sống hay chết đều tuỳ thuộc vào mùa màng. Vì thế đất nông nghiệp bán rất rẻ, giá chỉ trên dưới 1 Franc một thước vuông.

Thầy trò nhất định xuôi Nam đi tìm đất làm làng Tu Học. Ban đầu đi về hướng Marseille, lái xe tới Aixen Provence, xe rẽ vào trạm xăng hỏi đường, Thầy vừa xuống xe đi ra vài bước thì bỗng bị gió Mistral bốc lên. Mistral là tên những cơn gió rất mạnh nổi tiếng kéo dài trong vài tuần. Nhờ gió mạnh kéo sạch mây mưa mùa đông nên vùng này có nhiều nắng nhất nước Pháp. Thầy bị gió Mistral cuốn gần như bay hỏng chân. Thầy ngại cảm gió nên bảo thôi không đi Marseille nữa mà quẹo sang hướng tây nam. Cuối cùng mình tìm ra được Phương Khê cũng ở tỉnh Gironde như Bordeaux mà hẻo lánh cách Bordeaux đến 100 cây số. Nơi này hẻo lánh nên nhà và đất vẫn khá rẻ. Từ đó Thầy định cư ở đây.

Thành lập trường Thanh niên Phụng sự Xã hội (TNPSXH)

Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội

Giữa lúc chiến tranh Việt Nam đang diễn ra thì Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội (viết tắt là TNPSXH hoặc Thanh niên PSXH) được thành lập vào tháng 9 năm 1965 với 300 sinh viên trúng tuyển trong đợt đầu. Họ trúng tuyển vào chương trình làm mới đạo Bụt dưới sự hướng dẫn và đào tạo của thầy Thích Nhất Hạnh. Để có cơm ăn và chi phí điện nước cho ba trăm người thanh niên thiếu nữ (xuất sĩ và cư sĩ) từ 18 đến 23 tuổi và để điều hành các việc chăm lo đào tạo cho ba trăm người trẻ đó, thầy Thích Nhất Hạnh và sư bà Thích Nữ Diệu Không đã kêu gọi Phật tử đóng góp hàng tháng 50 đồng, 100 đồng, 200 đồng, 400 đồng hay 600 đồng (đơn vị tiền ở miền Nam Việt Nam khi đó) cho một học bổng toàn phần. Có 3.870 gia đình đã hưởng ứng và đóng góp hàng tháng vào phong trào quần chúng này. Chị Tiếp Hiện cư sĩ Diệu Không Cao Ngọc Phượng là trưởng ban Phổ Triển đi lạc quyên hàng tháng cùng với chị Diệu Thiện Phạm Thuý Uyên và chị Diệu Huỳnh Phan Thị Mai (sau này chị chọn tên Nhất Chi Mai).

Tình Thương, Trách Nhiệm và Tự  Nguyện  – đây là ba tiêu chuẩn phụng sự của Thanh niên PSXH. Được nuôi dưỡng bởi ba tiêu chuẩn đó, những người trẻ thấy tương lai của họ sẽ là vì tình thương tự nguyện bỏ lại sau lưng vinh hoa phú quý để đi theo con đường trách nhiệm với đồng bào. Họ tự nguyện đem cho đồng bào: Tình thương biểu hiện bằng sự thức khuya dậy sớm cùng làm việc với đồng bào, cùng học nghề của họ và giúp một tay với họ. Với tinh thần Trách nhiệm, thấy thiếu kiến thức khoa học nên gà mới chết gió, Thanh niên PSXH giúp bà con ngừa dịch cúm gà chứ không phải đem tiền, đem gà cho họ. Ở những nơi thiếu trường học mà số trẻ em quá ít không đủ điều kiện để hình thành lớp học được ngân sách tài trợ (có xã, ông quận trưởng cho biết không giúp cho xã nhỏ này được vì xã chỉ có 77 trẻ em, trong khi ông chỉ được sử dụng ngân sách để xây các trường học nếu có đủ 200 em một trường), thanh niên PSXH họp dân làng lại kêu gọi trách nhiệm của mọi nhà, và kêu gọi mỗi gia đình nên vì tình thương tự nguyện. Trong vài tuần là trường học ba lớp cho các cháu được cất xong, lại có thêm trạm y tế nhỏ.

Chương trình học của Trường TNPSXH là học về giáo dục cộng đồng, y tế công cộng, thêm về canh nông, chăn nuôi với ba tiêu chuẩn Tình thương, Trách nhiệm và Tự nguyện kể trên là hành trang cho các anh em tác viên. Người tác viên đi về vùng nông thôn làm công tác với ba tiêu chuẩn đó.

Dùng nhạc, thơ, tiểu luận gây phong trào

Thầy hay mời các văn nghệ sĩ viết bài, viết nhạc để anh chị em ca hát cho thành phong trào vui, trẻ, hy sinh vì lý tưởng. Sau khi Nhật báo Thần Chung đi thăm cơ sở mới của TNPSXH tại Phú Thọ Hoà, ký giả Nam Đình viết một bài ca tụng TNPSXH là một phong trào của nhân dân (300 người trẻ, bỏ hết những phù phiếm xa hoa của cuộc đời, học về y tế công cộng, giáo dục, canh nông… để giúp người dân tự lực cánh sinh). Đất ta ta cấy, đất ta ta cày, ta sản xuất, ta tự nuôi dân. Đây là phong trào duy nhất ở Việt Nam từ Nam ra Bắc không nhận tiền viện trợ của các phe lâm chiến.

Chương trình ba điểm cho tương lai của thầy Thích Nhất Hạnh

Sau khi chế độ độc tài của ông Ngô Đình Diệm sụp đổ, thầy Thích Nhất Hạnh từ Mỹ về cuối năm 1963 đã đảnh lễ cúi xin quý hoà thượng nên thực hiện ba con đường song song:

Đề nghị thứ nhất

Phật giáo nên đứng ra kêu gọi hai miền Nam và Bắc thương thuyết để thống nhất đất nước và thiết lập hoà bình giữa hai phía. Lúc này miền Nam chỉ mới nhận súng đạn và cố vấn Hoa Kỳ, miền Bắc thì có được khí giới của Trung Quốc và Liên Xô, chưa bên nào có quân đội ngoại bang.

Đề nghị thứ hai

Lập một trường Đại học Phật giáo, giúp cho những nhà chí sĩ thấy rằng tuệ giác Việt Nam không phải là tuệ giác của người Mỹ hay người Pháp. Vì vậy cần có một trường Đại học Phật giáo căn cứ trên văn minh Việt Nam của các vua thời Lý – Trần, tức là thời đại có những ông vua rất thương nước, thương dân và không bao giờ muốn đánh giặc. Khi đánh thắng quân Tàu một trận thì gửi ngay một phái đoàn tới xin lỗi và làm hoà ngay với họ. Dù vua đánh giặc rất hay, rất giỏi nhưng không muốn chiến tranh, muốn thống nhất nước nhà để anh em nương tựa nhau, tại vì ai cũng có thể thành Phật. Người trí thức Việt Nam phải theo văn minh cao nhất của Việt Nam vào thời đại Lý – Trần mà đỉnh cao hưng thịnh nhất là vào các đời vua Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Trần Thái Tông. Vua Trần Nhân Tông nhường ngôi cho con khi còn trẻ, trong khi đó vua vẫn tiếp tục cai trị bằng con đường tâm linh. Vua đi chân đất vào các xóm nghèo, dạy dân chúng tu hành, giữ Năm giới, Mười giới Bồ tát. Ông qua các nước lân cận thường hay gây chiến với Việt Nam để làm hoà như nước Chiêm Thành. Các nhà trí thức phải thấy được giá trị tâm linh của thời Lý – Trần và những cái hay của đất nước mình bằng con đường tâm linh thay vì cầm súng giết nhau.

Đề nghị thứ ba

Phật giáo phải lo cho tất cả những người dân nghèo nhất, khổ nhất tức là đa số nông dân. Làm sao để họ có ruộng cày, không bị bóc lột như dưới thời Pháp thuộc. Đất nước Việt Nam có nhiều ruộng vườn. Nhưng vì thời Pháp thuộc để cho những người tay sai Pháp được làm địa chủ, những người nghèo vẫn tiếp tục bị bóc lột, làm rất nhiều nhưng chẳng được bao nhiêu. Vì thế phải thành lập Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội để làm chất xúc tác (men) giúp người dân cùng đứng lên với ba mục tiêu:

  • Tự thắp đuốc lên mà đi, đoàn kết hợp tác xây dựng chung… ví dụ như con em nông dân không có trường vì cấp trên không đủ tiền trợ cấp thì mình tự đốn lá dừa, cắt tre tranh làm trường học.
  • Mình biết cách hợp tác làm việc tìm mối bán chung nông sản.
  • Cùng nhau chia sẻ trách nhiệm, khó khăn trong sự cộng tác, lời nhiều thì chia chung mà lỗ thì chịu chung, như vậy gánh nặng của mỗi người sẽ nhẹ đi.

Trong ba đề nghị ấy thì các vị lớn như hoà thượng Trí Quang và hoà thượng Tâm Châu chưa chịu đề nghị thứ nhất kêu gọi ngay vì các ngài nghĩ là phải có một Chính phủ Phật giáo trước mới nên tổng tuyển cử. Vì chưa có Chính phủ thân Phật giáo nên các hoà thượng chưa chịu kêu gọi hoà bình. Nhưng điểm thứ hai là thành lập trường Đại học Phật giáo thì các thầy đồng ý ngay, tức là bắt đầu thành lập trường Cao đẳng Phật học trước và nếu chuẩn bị có bài bản thì từ từ trở thành trường Đại học Phật giáo. Chương trình học môn Sử Phật giáo Việt Nam nhấn mạnh từng điểm xuất sắc của nền văn minh Lý – Trần như:

  • Tinh thần dân chủ của hội nghị Diên Hồng.
  • Tính khiêm cung: cầu hoà ngay khi vừa thắng trận là gửi liền một phái đoàn đến cầu hoà, xin lỗi, cống tặng phẩm vật quý.
  • Tinh thần tha thứ bao dung khi ra lệnh đốt hết những hòm tài liệu về sự phản quốc của một số người ngầm thông đồng với giặc.

Điểm thứ ba thầy Nhất Hạnh yêu cầu Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất thực hiện gấp là giúp nông dân nghèo, để thực hiện điểm này thì kêu gọi những người giỏi về canh nông, y tế, kinh tế… tình nguyện về giúp cho nông dân nghèo. Đó là công việc của phong trào Thanh niên Phụng sự Xã hội. Chính vì phong trào đó đông và quá giỏi nên kẻ thù của Phật giáo, những người quá khích mới muốn giết mình. Nhưng mình cũng không giận họ vì mình vẫn mong họ sẽ là bạn của mình trong tương lai. Tuy bây giờ họ có cái thấy sai về mình nhưng mình hy vọng rằng cái chết của các bạn mình sẽ làm cho họ hiểu.

Khai giảng Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội

Thấm thoắt mà đã tới ngày 15 tháng 9 năm 1965, ngày khai giảng phân khoa xã hội Đại học Vạn Hạnh. Một tấm bảng to đề chữ Thanh niên Phụng sự Xã hội được đặt trước chùa Từ Nghiêm vốn được ni sư cho phép dùng làm Văn phòng chánh TNPSXH. Thật ra đó chỉ là một phòng nhỏ bên trái khi vừa bước vào chùa Từ Nghiêm. Giảng đường (lớp học) của Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội cũng là giảng đường chùa Từ Nghiêm.

Ba trăm sinh viên trúng tuyển trong tổng số hai nghìn thí sinh dự cuộc thi tuyển vào Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội, phân khoa dấn thân Đạo Phật đi vào cuộc đời của Đại học Vạn Hạnh. Người đậu đầu là một sư cô, Bích Vân. Người kế là Bùi Thị Hương… nhưng khi nhập học thì rất khó. Các anh chàng “quậy” nhất không phải là các vị hành xử giỏi của một thanh niên PSXH lý tưởng như mình mong. Em Phạm Viết Nghiệm, đầy tinh thần trách nhiệm thì chỉ thi đậu trung bình, còn Trần Minh Tâm suýt thi rớt nhưng nhu mì hiền hậu, thực hiện rất nhiều điều giúp cho Chùa Lá. Tâm thi đậu hạng chót. Như thế để biết sau này thi tuyển, không bao giờ nên căn cứ trên những bài văn. Văn thì hay nhưng phụng sự thì chưa hay nhất. Nghiệm im lặng nhưng làm việc rất bền, chu đáo, ý tứ, đón trước ngăn sau, rất khéo nên sau này thầy Thanh Văn, thầy Châu Toàn và Ban điều hành TNPSXH rất thương quý giao cho anh Nghiệm phần quản trị chùa trong những ngày đầu Chánh phủ lâm thời Cách mạng miền Nam Việt Nam.

Cư xá và thực phẩm ăn trưa và chiều của các sư chú là ở chùa Trúc Lâm Cây Quéo của thầy Châu Toàn và thầy Đồng Bổn.

Nam sinh cư sĩ thì ở hai dãy nhà bằng xi măng ở đường Trương Minh Giảng trên khu đất mình mới mua để chuẩn bị xây dựng Đại học Vạn Hạnh.

Cho tới lúc này, tháng 9 năm 1965 Viện cao đẳng Phật học vẫn còn nằm ở chùa Pháp Hội đường Phan Đình Phùng. Thầy Minh Châu tốt nghiệp ở Ấn Độ đã về tới Việt Nam. Thầy Nhất Hạnh đề nghị quý tôn đức trong Viện Hoá Đạo đề cử làm viện trưởng Viện Đại học Vạn Hạnh, nhưng chương trình Đại học thì đã được thầy Nhất Hạnh và các giáo sư xuất sắc như giáo sư Nguyễn Đăng Thục, các giáo sư Nghiêm Thẩm, Bửu Cầm, Lê Xuân Khoa, Hồ Hữu Tường, Nguyễn Giản Chi… lo chi tiết từng tín chỉ hay chứng chỉ. Thầy Thanh Văn và bác Trịnh Sâm lo việc hành chánh, ghi tên, đóng học phí. Văn phòng cũng được chị Phan Thị Thuần, Lê Khắc Phương Thảo và chị Phùng Thăng phụ làm thư ký ghi danh. Khi mới về Việt Nam Thầy thành lập ngay Viện cao đẳng ở chùa Pháp Hội trên lầu phía tay phải chùa, gần với phòng thầy Thanh Văn, Thanh Tuệ. Tầng trệt dùng làm văn phòng, lầu nhất bên mặt là phòng ngủ cho thầy Nhất Hạnh và thầy Thanh Văn. Giữa chùa là một thiền đường và giảng đường lớn. Bên trái là thư viện Đại học Vạn Hạnh trong tương lai. Tất cả sách 10.000 quyển của Thầy Nhất Hạnh ở Phương Bối am đều biếu hết cho Ban tu thư Viện cao đẳng. Công Tằng Tôn Nữ Phùng Thăng là người thu xếp phòng sách cho thư viện trước khi chị Công Tằng Tôn Nữ Phùng Khánh về từ Paris và quyết định để toàn thời gian lo cho Thư viện Viện Đại học Vạn Hạnh vốn là ngành mà chị vừa đậu Thạc sĩ ở Hoa Kỳ. Phòng ngủ cuối thư viện là phòng thầy Minh Châu mới từ Ấn Độ về. Chị Trà My người Vĩnh Long, vừa tốt nghiệp Đại học Sư phạm có tuồng chữ rất đẹp. Chính Thầy giao cho Trà My chép gởi sang Pháp cho chị Chân Không hai bài thơ Thầy vừa sáng tác trên những tờ giấy màu mà Trà My được thầy Thanh Tuệ cho (thầy Thanh Tuệ nói giấy này thầy xin được từ các nhà in!) Bướm bay vườn cải hoa vàng Trường ca Avril là hai bài thơ rất “thơ”, ngọt ngào tình quê hương. Phùng Thăng và Trà My là hai em nữ sinh viên rất siêng năng, tận tuỵ từ nhóm Sinh viên Phật tử làm xã hội với tôi năm 1962 – 1963 trước khi thầy Nhất Hạnh về Việt Nam. Ba cô Trà My, Phùng Thăng, Ngọc Thanh đã từng thu nhặt từng nắm gạo hàng tuần cùng với tôi đem chia cho các xóm nghèo Sài Gòn như sau rạp Quốc Thanh, xóm Bàn Cờ, xóm nghèo Cầu Bông trước khi Thầy về lại Việt Nam đầu năm 1964. Nhờ ba cô này mà Thầy có được luôn cả đoàn Sinh viên Phật tử cùng về làm làng Cầu Kinh. Nhưng chị Lê Khắc Phương Thảo mới là trưởng ban ngoại giao số một, đã kéo được ba ông bác sĩ Hồ Văn Quyền, Nguyễn Thành Nguyên và Trần Tấn Trâm về làng Cầu Kinh. Ba anh chàng này thật là những viên ngọc quý của hai làng hoa tiêu Cầu Kinh và Thảo Điền.

Ngày Chánh niệm 24 giờ mỗi tuần để tập dừng lại nhìn sâu, chuẩn bị thọ Bồ tát giới cho dòng tu mới

Dù bận bịu đến mấy thì mỗi trưa thứ bảy tôi vẫn về Chùa Lá đem theo bộ quần áo sạch về để trải nghiệm 24 giờ hoàn toàn làm con người mới, chánh niệm từng hơi thở, từng cử chỉ, nấu nước sôi, pha nước tắm, mang áo mới để về có một ngày Chánh niệm. Từ 2 giờ trưa thứ bảy đến 4 giờ chiều ngày chủ nhật hoàn toàn mới.

Thấy chúng tôi, ban vận động tài chính cho các công tác phụng sự (bác Hiệu, chị Nga, Phượng, Mai, Uyên, Ngọc Thanh) quá cực trong khi lo tài chính học bổng cho 300 học viên Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội tương lai, thầy Nhất Hạnh tặng cho thầy Thanh Văn hết số tiền dạy học bên Hoa Kỳ ngày xưa (traveller checks) để thầy Thanh Văn lo xây Chùa Lá này. Thế nên ngôi chùa Lá Pháp Vân được mua và xây lên là một tặng phẩm bất ngờ cho chúng tôi. Sau đó bác Sâm tiết lộ, đất này bác nhân danh Viện cao đẳng Phật học để xin đất nhà nước nằm trong khu quy hoạch khá lớn của chính quyền đương thời. Chính quyền trả tiền bồi thường cho nông dân rồi nhưng nông dân chưa đồng ý nên mình phảỉ mua lần thứ hai với họ. Tiền “bồi thường lần chót” tương đối rẻ.

Thấy đất mua chỗ này không đắt lắm, thầy Thanh Văn cũng gom tiền lương làm Tổng thư ký Viện cao đẳng Phật học mua một lô đất cho riêng gia đình. Có thể thầy nghĩ mai mốt ba mình già có chỗ gần chùa để nghe kinh. Bác Trịnh Sâm cũng thế, mua một lô đất ở đây. Lô đất khá lớn, có thể dùng để cất cư xá cho sinh viên TNPSXH ở phía xa xa bên kia chùa Lá.

Tuy Thầy quyết định ngày 15 tháng 9 năm 1965 sẽ khai giảng nhưng chưa đủ tiền xây cư xá, chưa đủ tiền xây Trường đào tạo TNPSXH trên mảnh đất mới với Chùa Lá. Thầy Nhất Hạnh đã thương thuyết với chùa Từ Nghiêm. Lúc sau thầy Thanh Tuệ mượn được nhà chú Bảy trước mặt chùa nên dọn ra riêng. Trưởng chùa Từ Nghiêm, ni sư Vĩnh Bửu, cho mượn một văn phòng nhỏ phía ngoài chùa Từ Nghiêm, 215 đường Bà Hạt, để ghi danh sinh viên đã trúng tuyển vào học. Sau đó các anh chị tình nguyện viên sẽ đưa từng em về từng cư xá nội trú. Một tấm bảng 2,5 mét bề ngang, 1,5 mét bề cao có đề: Văn phòng Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội, văn phòng nằm bên trái chùa Từ Nghiêm. Ni sư cũng cho phép các giáo sư TNPSXH dùng giảng đường ba ngày trong tuần để thuyết giảng lý thuyết cơ bản. Phần lớn thì giờ, sinh viên phải thực tập ở làng hoa tiêu Cầu Kinh hay làng hoa tiêu Thảo Điền.

Cư xá nữ TNPSXH của quý sư cô học viên và sinh viên nữ thì ở chùa Sư Nữ của sư bà Giác Nhẫn và Giác Viên bên quận Tư.

Cư xá tăng sinh TNPSXH thì ở chùa Trúc Lâm Gò Vấp.

Cư xá nam sinh viên cư sĩ thì xin ở nhờ văn phòng Viện Đại học Vạn Hạnh sát cầu Trương Minh Giảng. Buổi sáng khai giảng đầu tiên ở chùa Từ Nghiêm, chiếc xe cũ rích 16 chỗ của Viện Phật học đã mời quý sư cô, và các nữ sinh lên “xe đò” 16 chỗ.

Đây là chiếc xe minibus 16 chỗ của Viện cao đẳng Phật học chở các cô từ Quận 4 lên chùa Từ Nghiêm để nghe thầy Nhất Hạnh giảng về đường lối cơ bản của TNPSXH. Ba mươi tám cô nữ sinh viên còn lại được chị Tuyết hướng dẫn đi xe buýt số mấy, đến trạm nào thì xuống đổi xe đi tiếp đến đường Bà Hạt. Xe đưa các sư cô tới Từ Nghiêm, trút hết hành khách bèn đi tiếp ngay lên Trúc Lâm Cây Quéo Gò Vấp chở quý thầy cũng về giảng đường chùa Từ Nghiêm. Thanh niên cư sĩ thì đi xe buýt tự túc tới giảng đường.

Chín giờ sáng ngày 15 tháng 9 năm 1965 khai giảng: Thầy Nhất Hạnh dạy nguyên tắc Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội ở trong giảng đường chùa Từ Nghiêm.

Đây là logo trường TNPSXH. Ba gạch dưới là Tình thương, Trách nhiệm và Tự nguyện. Không ai bắt buộc mình, là mình tự nguyện, chỉ có tình thương cho mình thêm sức mạnh, trách nhiệm là con người có học có hiểu biết có lý tưởng hơn dân quê, sẽ đứng ra lập Làng hoa tiêu, làng tự nguyện và dần dần phổ triển lây lan ra toàn quốc. Giáo sư Vương Pên Liêm dạy Phát triển cộng đồng, Bác sĩ Quý dạy Y tế công cộng, cách làm những cái bệ nhà vệ sinh xem có con thỏ hình chữ S để đi số 2 xong, người đi vệ sinh chỉ cần dội hai gáo nước thì phân nhảy qua con thỏ vệ sinh để khỏi bị bốc mùi hôi… Hai làng tình thương mình đang có ở Cầu Kinh và Thảo Điền là làng hoa tiêu (pilote village), làm gương cho các nơi khác về tu tập và trở về lại địa phương như Quảng Nam, Quảng Ngãi sẽ lập nhiều làng tự nguyện nơi địa phương mình.

Nhà xuất bản Lá Bối

Ba cuốn sách đầu tiên do nhà xuất bản Lá Bối in là: Bông hồng cài áo, Đạo Phật ngày nay, Đạo Phật đi vào cuộc đời.

Thầy đề nghị thầy Thích Thanh Tuệ đứng ra làm giám đốc Nhà xuất bản Lá Bối, cô Cao Ngọc Thanh làm thủ quỹ. Đợt thứ hai sách Lá Bối sẽ in Mười bài tâm ca Con đường cái quan. Xoáy sâu vào con tim của người đọc là bài: Ruột đau chín khúc, Đừng biến mảnh vườn xanh xưa thành mồi ngon lửa dữ. Hãng Hàng không Việt Nam Cosara chở giùm tuần báo ra miền Trung mỗi tuần: Đà Nẵng, Quảng Nam, Huế, Quảng Trị. Nhà xuất bản Lá Bối in quyển Bông hồng cài áo cho kịp mùa Vu Lan, in tới 5000 quyển mà sách chạy khá nhanh nên phải tái bản nhiều lần. Nhà xuất bản Lá Bối đã in xong: Đạo Phật ngày nay (Aujourdhui le Bouddhisme), Đạo Phật đi vào cuộc đời, Đạo Phật hiện đại hoá, Đạo Phật ngày mai ký tên B‘su Danglu.

Đoản văn Bông hồng cài áo thành công quá. Sau khi đọc Bông hồng cài áo anh Phạm Thế Mỹ bèn viết ra bài nhạc phổ theo. Ngày Rằm tháng Bảy làm lễ Vu Lan, cài hoa hồng và hoa trắng và hát bài Bông hồng cài áo. Thật là thành công ngoài dự tính của thầy trò chúng tôi. Cài lên áo anh, cài lên áo chị một đoá hoa bằng giấy thôi, nhưng nhìn hoa đỏ hay hoa trắng người nhận hoa cũng khóc. Thiên hạ khóc quá chừng và tình mẹ linh thiêng thêm. Nhưng viện trưởng Viện Hoá Đạo năm 1965, hoà thượng Thích Tâm Châu không vui lắm. Một hôm qua điện thoại, chúng tôi nghe hoà thượng Tâm Châu nói với Thầy Nhất Hạnh: “Thơ thầy Nhất Hạnh thì hay lắm, nhưng trong thơ của thầy có hơi thích hoà bình tí tí đấy.” Thầy chúng tôi trả lời: “Hoà thượng phải nói, thầy Nhất Hạnh thích hoà bình khá nhiều, quá nhiều mới đúng. Không lẽ thầy tu Phật giáo, trường trai, không nỡ giết con gà con cá mà lại thích con người giết nhau hay sao? Phật giáo phải thích hoà bình thật nhiều đó thưa hoà thượng.”

Bên kia giảng đường Viện cao đẳng toạ lạc tại chùa Pháp Hội có phòng của thượng toạ Thích Minh Châu mới từ Ấn Độ về. Thầy Nhất Hạnh đề nghị Hội đồng Lưỡng viện công cử thầy Minh Châu làm viện trưởng Viện Đại học Vạn Hạnh. Kế bên phòng Thượng toạ Minh Châu là Văn phòng thư viện. Chị Công Tằng Tôn Nữ Phùng Khánh, tốt nghiệp thạc sĩ về quản thủ thư viện ở Hoa Kỳ mới về sẽ đảm trách thư viện vĩ đại này. Chị đang ở cư xá nữ chùa Phước Hải với sư bà Tịnh Nguyện và sẽ sang Viện cao đẳng làm việc. Bỗng hôm ấy có tin “giựt gân” là chị Công Tằng Tôn Nữ Phùng Khánh mới cạo đầu đi tu tại chùa Phước Hải mà không có lễ xuất gia như thường khi, và sau đó chị về Huế y chỉ với sư bà Diệu Không.

Nhiều văn nghệ sĩ vẫn quay quanh cột trụ văn nghệ, quanh Viện cao đẳng Phật học và Đại học Vạn Hạnh. Một hôm sinh viên Vạn Hạnh bỗng khúc khích cười vì trong quần chúng mới nghe loan truyền những câu thơ điên điên của thi sĩ Bùi Giáng, câu chuyện cô Công Tằng Tôn Nữ Phùng Khánh đi tu:

Lỗi tại ai?
Xin hỏi Thượng toạ Minh Châu
Mẹ Phùng Khánh ơi cho chúng tôi xin hỏi…???..??
Mẹ Phùng Khánh ơi cho chúng tôi xin hỏi…
Vì sao Mẹ đi tu??
Mẹ đẹp quá chừng, thanh cao uyên bác
Bọn chúng tôi quỳ trước mẹ, khóc hu hu…

Bữa cơm văn nghệ sĩ Lá Bối rất điệu

Suốt hai tuần nay, tăng thân trẻ của Viện cao đẳng chúng tôi được lệnh của thầy Nhất Hạnh tổ chức một bữa tiệc ăn trưa cho văn nghệ sĩ như nhạc sĩ Phạm Duy, thi sĩ Vũ Hoàng Chương, Giáo sư Lê Xuân Khoa, học giả Giản Chi, các vị học giả uyên bác như nhân sĩ Hồ Hữu Tường, các học giả Nghiêm Thẩm, Bửu Cầm. Các chị em đang chuẩn bị tìm những chuyên viên nấu ăn thật tài ba đãi khách quý thì chị Phượng bỗng cao hứng tình nguyện: “Tui! Tui!” Chị Chín của làng Tình Thương cũng biết nấu ăn chút đỉnh, sẽ làm trưởng ban nấu ăn bữa tiệc Lá Bối đầu tiên này cho mọi người. Thực đơn sẽ gồm: bom đất chiên bơ (tức là pomme de terre frite au beurre), xà lách đồng hồ ăn với bánh mì nướng ngon lắm, tàu hủ ướp sả ớt chiên ăn với cơm nóng gạo nàng Hương đầu mùa dẻo thơm, canh Bạch điểu quy sào (thực ra chỉ là bí đao hầm cho mềm, khoét bí đổ súp vào thật ngon ngọt, cho vài ba con ngỗng làm bằng lòng trắng trứng đánh thành bông, nặn thành ba con ngỗng, mỏ là trái ớt hiểm đỏ hoét). Khách trầm trồ khen ai nấu khéo. Chị Thảo, Uyên, Nghiêm, Kim Chi, chị Mai đều “nể” chiêu mới của chị Chín làng Cầu Kinh. Chị Chín là dân “lãnh đạo” mà, làm sao mà lo được mấy chuyện nấu nướng này? Mọi người định nghỉ chơi rút lui để cho Chín làm ăn “bể dĩa” cho biết! Chỉ có chị Thanh, em gái tôi là tủm tỉm cười vì gia đình Phượng – Thanh có bà mẹ nấu ăn tuyệt ngon mà những món ấy là những món “tủ” của gia đình này. Thanh biết chị Chín đổi món Con cá hoá long của má, cũng làm sauce mayonnaise trộn petit pois, cà rốt xắt hạt lựu nhưng không dùng cá luộc xé nhỏ như cho người ăn mặn. Cuối cùng ai cũng phục tài của cô Chín đã không bị “bể dĩa” mà còn được khen. Khoai tây chiên để cả buổi mà vẫn giòn và ngon chứ không mềm yểu. Canh Bạch điểu quy sào rất ngọt dù không có cá thịt.

Bảy giờ sáng hôm ấy bác sĩ Trần Tấn Trâm tới văn phòng Viện cao đẳng Phật học, không có thầy Thanh Văn, chỉ tới trước đó 10 phút. Anh Sang mở cửa, Trâm vào trước. Tôi tới sớm định đi gọt và xắt khoai tây trước cho buổi trưa. Anh Trâm đã ngồi dó. Anh ngồi gác chân lên bàn, ngả lưng trên ghế, mặt quạu ơi là quạu, hỏi như gây lộn: “Tại sao cô Chín không về làng cả hai tuần nay? Bỏ thầy Bảy bác sĩ (là tên dân làng đặt cho Trâm) đi coi mạch một mình với bao nhiêu là con bệnh mà không có Chín đi theo phụ tá ghi toa, phát thuốc hay mua thêm thuốc, lo không xuể? Chín thương đồng bào nghèo là vậy đó hả?” Tôi cười giả lả xin lỗi: Tại quá bận lo cho Nhà xuất bản Lá Bối ra mắt Bông hồng cài áo và ra quyển tập nhạc vĩ đại Mười bài tâm ca. Rồi có thể tháng tới phát hành luôn tập nhạc lớn Con đường cái quan của Phạm Duy. Anh Trâm ở lại chơi tiếp khách giùm quý thầy? Có nhạc sĩ Phạm Duy này, có cụ Hồ Hữu Tường ở tù Côn Đảo thời Ngô Đình Diệm mới được trở về.” Bác sĩ Trâm bực mình đứng dậy bỏ ra về không chịu ở lại tiếp khách giúp Lá Bối. Tôi cười buồn định nói thẳng với Trâm vài điều nhưng anh đã đi mất, tôi đành nói thầm với Trâm: “Tôi không thể nào làm vợ bất cứ ai một khi tôi đã từ bỏ người con trai hiếu đễ, hiền lành, trung kiên ngày xưa đó, tám năm rồi. Trâm ơi, tôi biết Trâm thương tôi, tôi đã hai lần từ chối lời cầu hôn của Trâm rồi mà? Nhưng khi thấy Trâm vẫn kiên nhẫn và tình cảm quyến luyến kéo dài khá sâu thì tôi cố lách ra để đừng buồn lòng nhau đó thôi chứ tôi không phải yêu thích các văn nghệ sĩ Lá Bối hơn dân nghèo làng Thảo Điền và làng Cầu Kinh đâu Trâm ạ.” Tôi chia tay với Khá để sống với lý tưởng phụng sự chứ không thể nhận lời làm vợ Trâm. Chỉ có vài bạn rất quý bác sĩ Trâm là cứ khuyến khích Trâm tiến tới. Chị Trương Thị Nhiên ở cư xá nữ sinh viên cùng phòng với cô Mạnh thì cứ than: “Anh Trâm kỳ lắm. Cứ mỗi lần gặp Mạnh, người con gái hết lòng thương Trâm thì anh cứ bảo: “Sao em không để tóc thật dài… như chị Phượng? Sao em không mặc áo trắng… như chị Phượng? Chị Phượng là ai hả các chị? Sao anh Trâm đi thăm em mà cứ nhắc chị Phượng nào hoài vậy?” Cô Mạnh là bạn hay ý trung nhân (?) của Trâm không hề biết Trâm đang xin cưới tôi làm vợ vì ba mẹ Trâm đòi Trâm phải cưới vợ gấp, ông bà nói Trâm đã là bác sĩ rồi. Phải lấy vợ thôi! Chắc hồi trẻ thơ, chú bé Trâm đã có những hình bóng đẹp trong tàng thức về một cô gái hay mặc áo bà ba ngắn màu trắng đơn sơ, để tóc dài và nước da hơi xanh xanh. Hình ảnh đó hằn sâu trong tâm khảm cậu bé cho đến khi gặp tôi. Mới mấy ngày đầu anh đã nhờ anh Quyền hỏi giùm rồi. Tôi chỉ là hình ảnh thân thương, cái tưởng bề ngoài của tuổi thơ ngọt ngào của chú thiếu niên tên Trâm. Vừa gặp tôi ở Cầu Kinh là Trâm đã rất cảm động nhìn tôi chăm chú, mới chưa đầy một tuần lễ anh đã nhờ bác sĩ Quyền hỏi tôi trực tiếp giùm là tôi có người yêu chưa để cha mẹ anh trầu rượu xin cưới tôi. Tôi nói: “Dạ có rồi.” Trâm nghe bèn nghĩ là không hy vọng nên báo cho các bạn cùng học ở Y khoa khác như bác sĩ Lý, Kỷ. Trâm tuyên bố với chị Lý: “Tôi rã bành tô rồi chị Lý ơi, cô Phượng này đúng là người tôi chờ đợi từ lâu. Tóc dài, áo bà ba trắng, ôm ốm xanh xanh, nụ cười mủm mỉm nhè nhẹ đó. Chờ đợi bao nhiêu năm mới gặp người ấy. Cũng tóc dài, cũng chiếc áo bà ba trắng hay chiếc áo dài trắng đó. Nhưng Quyền báo tin cô ta đã có người yêu rồi. Tôi bị rã bành tô thiệt rồi.” Danh từ tiếng lóng miền Nam “rã bành tô” là như chiếc áo Tây sang trọng là thế mà bây giờ bị rách tả tơi luôn.

Nhiều bạn khác nghe Trâm định bỏ luôn làng Cầu Kinh bèn vận động: “Bậy! Đừng tin, chị Phượng nói thế nhưng đã bỏ ‘anh chàng’ của chị ấy mấy năm rồi. Cứ kiên nhẫn. Nè, lúc rày nghe Phượng ở cả tuần ở cái làng nghèo xơ xác gần đó tên là Thảo Điền, ngôi làng mới rất tội nghiệp. Anh Trâm đi về Thảo Điền đi, Phượng suốt ngày ở ngôi làng mới đó.” Đúng thế, thấy Trâm lại về làng tôi cũng rất mừng, lại lấy cuốn sổ dẫn anh ta đi thăm rất nhiều gia đình bệnh khá nặng. Tôi lại làm thư ký ghi thuốc: Tifomycine viên, uống mấy ngày. Ganidan mấy viên, mấy ngày. Ampicilline 500, Ultralevure. Có khi không đủ tiền mua tôi chạy lại chị dược sĩ Đỗ Thị Nga ở đường Trương Minh Giảng mua “chịu”.

Hình Chùa Lá, từ trái sang phải là bốn chị em: Phan Thị Mai, Phạm Thuý Uyên, Cao Ngọc Thanh, Cao Ngọc Phượng. Các chị đứng trước nhà thị giả và nhà bếp, nhà cho các chị nữ Tiếp Hiện.

Thế là mỗi ngày Trâm lại hăng hái có mặt ở làng Thảo Điền, tiếp tục coi mạch trị bệnh cho dân làng với tôi. Đến khi một hôm, cần phải ghé nhà một người bạn lấy thuốc men có người mới cho, tôi gặp Trâm và tôi có trách Trâm sao để cho chị bác sĩ Lý than anh “rã bành tô”. Rồi mới gần đây anh Bảy bạn thân của Trâm đồn ầm cả trong giới y dược nói: Cái chị Phượng đó, tu sao không cạo đầu đi tu quách để người khác khỏi mộng mơ, nuôi hy vọng rồi làm bể trái tim người ta.” Tôi nhìn Trâm buồn bã: “Tôi đã nói với anh rồi mà, tôi xa người mà tôi yêu thương tám năm tình nghĩa là để đi tu chứ không để đi làm vợ bất cứ ai khác.” Trâm bỗng nhìn thẳng vào mặt tôi và nói: “Thôi nói ngay bây giờ đây đi, bây giờ Phượng có đồng ý cho ba má tôi đem cau trầu xin làm đám hỏi trong tuần này được không?” Tôi nhìn Trâm thật buồn và nói: “Không! Anh Trâm ơi, người tôi yêu là anh Khá. Hai đứa thương nhau tám năm rồi và vẫn còn thương. Nhưng tôi còn yêu lý tưởng giúp người nghèo khổ nhiều hơn thương Khá.” Trâm đứng dậy bỏ ra về. Tưởng Trâm cũng không còn về làng nữa, nhưng cứ trưa trưa tôi vừa đậu xe gắn máy trước nhà bác Tư ở Thảo Điền thì tôi lại gặp Trâm ở ngôi làng mới, làng Thảo Điền. Trâm đưa cho tôi cuốn tập nhỏ nhờ tôi đi theo để kê tên thuốc và cách điều trị. Tình cảm ngày qua ngày thêm đậm. Tôi hơi ngại nên nhân lúc bận rộn lo họp với Lá Bối, với các giáo sư học giả để làm lễ ra mắt Bông hồng cài áo, Mười bài tâm ca, trường ca Con đường cái quan của Phạm Duy và “in chui” Chắp tay nguyện cầu cho bồ câu trắng hiện, tôi vắng mặt hai tuần liên tiếp ở làng Thảo Điền cho đến hôm Trâm về Viện cao đẳng Phật học thật sớm mặt quạu quá chừng vì làng Thảo Điền nhiều bệnh nhân bị thương hàn cần theo dõi và bác sĩ cần “y tá” phụ tá (là tôi, cô Chín của làng). Trâm sửa lưng tôi: “Chín nói vì yêu lý tưởng giúp người nghèo khổ, vậy tại sao hai tuần nay không về Thảo Điền, bao nhiêu là con bệnh chờ Chín giúp bác sĩ trị cho hết bệnh. Hai tuần nay vì sao Chín bỏ dân nghèo Thảo Điền?”

Tôi nói nho nhỏ trả lời: “Ai biểu anh đòi đem cau trầu về xin làm đám hỏi ngay cách đây hai tuần trước? Tôi nghe mà sợ quýnh lên. Thì ra anh thiếu vợ, cần đám hỏi đám cưới gấp cho mẹ vui lòng chứ không biết có thật yêu tôi không?” Trâm đứng dậy bỏ đi nói: “Không yêu sao hai lần xin cưới?” Và bỏ đi về luôn ngay sáng hôm ấy.

Rồi thì mãi năm tháng sau, có hồng thiếp báo tin Trâm sẽ cưới cô Bùi Thị Mạnh. Khi gặp Mạnh tôi ngạc nhiên. Cũng là cô gái ốm ốm xanh, trẻ hơn tôi, nhưng nếu có cô gái khác cũng mang máng thế thì có lẽ cũng được, anh cũng sẽ xin cưới. Có sao đâu? Đúng thế, khi Trâm cưới Mạnh, Mạnh cũng ốm yếu, cũng tóc dài và Trâm cũng rất hạnh phúc với Mạnh. Thì ra Trâm thiếu vợ chứ không phải yêu tôi. Hì hì tôi… buồn… năm phút và chạy về hỏi thủ quỹ, chị Thu Hà. Chị hứa giữ tiền chung bọn con gái chúng tôi để mua ngôi nhà nhỏ làm ni viện mới cho chị em muốn xuất gia và vẫn tiếp tục đi làm việc giúp trẻ em nghèo. Chùa ni bằng lá cũng được, theo kiểu mới, và tôi sẽ gởi thơ mời Trâm đi dự lễ xuất gia của tôi.

Ôi, từ hôm làm con xuất sĩ của thầy Nhất Hạnh chúng tôi đã có hơn trăm đợt xuất gia. Một đợt xuất gia 6 người có tên 6 con cá, đợt khác 4 người có tên là 4 cây dừa, 2 cây bưởi, 12 cây anh đào, 16 cây táo, 77 cây hướng dương! Cả trăm đợt xuất gia, nay đã… gần 1200 người trẻ xuất gia theo Thầy. Vui ơi là vui. Trong khi các bạn xé lẻ đi lập gia đình như Phương Thảo nè, Kim Chi nè, chị Nga nè, họ bận ơi là bận, bận túi bụi… Trong khi làm con Thầy, chúng tôi đi chu du khắp thế giới, đi dạy ở Anh quốc, Đức, Na Uy, Thuỵ Điển, Phần Lan, đi dạy ở Nga, đi Bắc Kinh, Hạ Môn, Quảng Đông, Hương Cảng, vui ơi là vui. Có khi thầy trò cùng đi Do Thái dạy cho người Palestine nữa, đi dạy ở Úc, Nam Mỹ.

Mãi đến 38 năm sau, tôi đã thành sư cô lớn Thích Nữ Chân Không về tới Việt Nam gặp Trâm và vợ là Mạnh. Mạnh vừa quen tôi là thương tôi ngay. Buổi giảng nào của Thầy, Mạnh và Trâm cũng đều có mặt. Mạnh nói: “Em cứ đòi anh Trâm dẫn đi nghe thầy Nhất Hạnh giảng và thăm sư cô hoài mà anh Trâm không chịu. Nay anh vừa bị thêm bệnh Parkinson Alzheimer nên càng khó tánh.” Một hôm sang Pháp thăm con trai và cháu nội, chị Mạnh đòi cháu trai ở Paris đưa về tận Xóm Mới thăm thầy Nhất Hạnh, Làng Mai và sư cô Chân Không. Mạnh hứa nhắc con trai đưa cháu nội của Trâm Mạnh về thăm Làng Mai nhưng bao năm rồi cháu có về đâu. Hôm đó tới Làng Mai, tuy có thích phong cảnh Làng Mai, thích tháp chuông, bụi tre Xóm Mới nhưng Trâm và cháu trai đòi ra ngoài đi tiệm ăn Tây, ăn món foie gras là món đặc biệt gan ngỗng ở vùng này của Pháp. Sư cô Chân Không tiếc cho anh Trâm không ở thêm ăn chay với các sư cô Xóm Mới để cháu nội anh thích Làng. Vì thế cháu nội của Trâm Mạnh không còn duyên với Trung tâm dạy Đạo Phật Đi Vào Cuộc Đời của Thầy nữa. Con gái lớn là bác sĩ Trần Thị Thiên Thanh, tên hồi nhỏ là cô Bồ Câu mới xin được thọ năm giới với thầy Nhất Hạnh qua Intenet ở tu viện Mộc Lan. Mạnh nhờ sư cô Chân Không năn nỉ xin Thầy cho cháu pháp danh. Chân Không sẽ xin cho cháu con gái lớn của Trâm Mạnh tên Tâm Đất Mẹ vì nghĩ thế hệ con cháu của Bồ Câu sẽ phải lo Đất Mẹ hết lòng.

Sinh viên TNPSXH bị lựu đạn chiếu cố

Chùa Lá chưa xây xong lớp học, chỉ mới bắt đầu xây phòng ngủ cho hơn 137 nam sinh viên và 163 nữ sinh viên.

Năm 1966, giáo sư George Mc Kahin, trưởng khoa Chính trị của Trường Đại học Cornell (Department of Politics, Cornell University) viết thư mời thầy Nhất Hạnh đi Hoa Kỳ. Ngày 10 tháng 5 năm 1966, bà Hiệu, tôi, chị Uyên, thầy Thanh Văn đưa Thầy lên phi cơ. Thầy định đi ba tuần nhưng không ngờ bị lưu đày từ đấy mãi gần bốn mươi năm sau mới được trở về nước.

Ngay tối đêm sau đó, ngày 11 tháng 5 năm 1966, toàn Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội khi đang tập bài hát mới Kẻ thù ta (Tâm ca 7) của nhạc sĩ Phạm Duy trong thiền đường Chùa Lá.

Kẻ thù ta đâu có phải là người
Giết người đi thì ta ở với ai?
Kẻ thù ta tên nó là gian dối,
Kẻ thù ta tên nó là vô minh,
Tên nó là hờn căm,
Tên nó là hận thù,
Tên nó là một lũ ma
Thế thì kẻ thù ta đâu có ở người ngoài,
Nó nằm đây nằm ngay ở mỗi ai…

Bỗng nhiên có một toán người lạ che mặt mang khẩu trang và la lớn: “Kẻ thù tụi bây chính là chúng tao đây. Tao phải giết tụi bây trước, trước khi tụi bây giết tao.” Họ trùm khăn che hết mặt, chỉ lộ ra hai con mắt và vừa la vừa ùa vào chánh điện. Và họ thảy vào đám đông sinh viên TNPSXH ba bốn trái lựu đạn. Quăng lựu đạn về phía phòng thầy Nhất Hạnh một trái xong họ biến mất trong đêm đen. Ngôi chánh điện nhỏ xíu, sinh viên Lê Văn Vinh bị vỡ sọ. Cái phòng ở góc trái chánh điện là phòng ngủ của thầy Nhất Hạnh cũng bị một trái lựu đạn thảy vào nhưng vì có bức màn chắn lại nên trái lựu đạn dội ngược lại và làm cho sinh viên Nguyễn Tôn bị thương bên mông trái. Chúng tôi tức tốc đưa các em Vinh và Tôn về bệnh viện Chợ Rẫy điều trị. Và sau này đưa Lê Văn Vinh sang Đức điều trị hết lòng. Vinh trở về Việt Nam ngồi xe lăn nhưng tâm tính minh mẫn cưới vợ và có một cháu trai.

Ngày 1 tháng 6 năm 1966, Thiền sư Nhất Hạnh họp báo với mục sư Martin Luther King kêu gọi Hoa Kỳ ngưng oanh tạc Việt Nam, Bắc cũng như Nam, và đề nghị Hoa Kỳ tuyên bố sẽ rút quân theo lịch trình quy định để miền Nam không bị đảng Cộng sản miền Bắc kết án “cõng rắn cắn gà nhà”. Lời kêu gọi này bị chính quyền Nam cũng như Bắc la mắng chửi bới nặng nề.

Chị Mai là một trong ba chị Tiếp Hiện đều có ý nguyện xuất gia đã gặp tôi và có ý trách thầy Nhất Hạnh: “Phượng nè, chị Mai thương quý thầy Nhất Hạnh trong lý tưởng Thanh niên Phụng sự Xã hội và xả thân hết lòng cho lý tưởng xã hội của Thầy. Nhưng chị thật tình lo ngại về hành động kêu gọi hoà bình như báo chí đang nói.”

Tôi giải thích: “Theo lịch sử Việt Nam, mỗi khi có sự tranh chấp giữa hai nhóm người Việt, nhóm nào cho quân đội ngoại quốc chen vào là bên đó thua nên mới có những danh từ như cõng rắn cắn gà nhà hay rước voi giày mả tổ. Hồi cuối 1963 đến giữa năm 1964 bên miền Bắc thì có vũ khí và cố vấn của Nga, Trung Quốc. Bên miền Nam thì có vũ khí bom đạn Mỹ và cố vấn Hoa Kỳ. Nếu thời điểm đó mà Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất kêu gọi hoà bình thì thế đứng hai bên rất quân bình. Nhưng Giáo hội PGVNTN cứ chần chừ, rồi gần cuối năm 1964 quân đội Hoa Kỳ đổ bộ vào Việt Nam cho nên thầy Nhất Hạnh phải kêu gọi Hoa Kỳ rút quân khỏi Việt Nam theo lịch trình, nếu không thì miền Nam sẽ bị mang tiếng rước voi giày mả tổ. Lúc bài Lời kêu khẩn nguyện đau thương của dân tộc đăng trên Hải Triều Âm (do thầy Nhất Hạnh viết), em và mấy người bạn khác cũng có nộp đơn xin Viện Hoá Đạo cho nhịn ăn vô thời hạn để cầu nguyện cho hai miền Nam Bắc ngưng đánh nhau dưới sự lãnh đạo tinh thần của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Thầy Nhất Hạnh nói, mình là thầy tu lo chuyện kêu gọi chấm dứt chém giết nhau. Chị Mai nghĩ coi, mình ăn chay, đất nước nát tan vì chuyện chém giết nhau, không kêu gọi chấm dứt giết nhau thì ăn chay làm gì?”

Chị Mai ngồi cúi mặt rất lâu. Vài hôm sau chị vui vẻ trở lại hăng say lo cho Thanh niên Phụng sự Xã hội.

Ngày 24.4.1967 TNPSXH bị tấn công lần thứ hai

Một thời gian sau, những kẻ lạ mặt trở lại cũng vào ban đêm. Họ rượt mấy chục cô gái và quăng hơn chục trái lựu đạn vào người các em gái. Một nữ giáo sư khách tên Trương Thị Phượng Liên từ Quảng Ngãi vào thăm Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội. Thấy không khí lý tưởng đẹp và vui quá, Liên xin ở lại ngủ đêm nên giáo sư Phượng Liên và sinh viên Trần Thị Vui chết tại chỗ.

Bùi Thị Hương nát hết bàn chân và có gần sáu trăm mảnh lựu đạn vào người em. Mười sáu em gái sinh viên TNPSXH bị thương như Nguyễn Thị Kê, Phùng Hồ Thị Diệu… nhận mấy chục mảnh sắt trong lá gan. May quá các vị đều còn sống.

Hương bị mất hết nguyên bàn chân trái và một phần chân phía dưới gối khoảng 10 phân, và gần sáu trăm mảnh lựu đạn nằm trong gan thận và toàn người. Ôi bút mực nào diễn tả được niềm tuyệt vọng của chúng tôi thuở đó. Nhưng càng nhìn sâu, càng thấy rõ thì chỉ có một con đường: nhìn sâu hơn để hiểu và thương ngay những người vì có cái thấy sai lầm về TNPSXH nên đã giết anh em. Ngày hôm sau, quý hoà thượng Thiện Hoà, Thiện Minh đến thăm trường lần đầu tiên. Sư Bà Diệu Không cũng có mặt làm lễ cầu siêu cho hai chị em vừa bị thảm sát. Hoà thượng Thiện Minh khá lo cho tình trạng an ninh của tất cả các Thanh Niên PSXH này. Quý hoà thượng xưa nay chẳng bao giờ đến thăm TNPSXH nhưng nay rất ưu ái. Trong bài diễn văn đọc cho quan khách trước giờ chôn hai em, thầy Thanh Văn thay mặt chúng tôi đã viết: Chúng tôi không hiểu vì sao những người bịt mặt đã rượt mấy chục nữ sinh viên Thanh niên Phụng sự Xã hội để ném mấy mươi quả lựu đạn giết Trương Thị Phượng Liên và Trần Thị Vui mà không thương xót. Các em tôi tay còn lấm mực học trò và trong tim chỉ có con đường Phụng Sự đồng bào nông thôn nghèo khổ, sống thiếu thuốc men, thiếu tổ chức, không có trường học, không có cả nhà vệ sinh công cộng. Và kẻ thù chúng tôi không phải là con người, kẻ thù chúng tôi chỉ là cái thấy sai, cái tưởng sai lầm của quý vị về những em thanh niên trẻ này. Đó mới chính là điều mà chúng tôi mong muốn tháo gỡ được trong cách nhìn của các anh. Đất nước đang cần những bàn tay và cái nhìn thấu hiểu của các anh nhiều lắm.

Các linh mục, mục sư có mặt lúc đó đều khóc. Các hoà thượng, thượng toạ xưa nay vẫn nghĩ thầy Nhất Hạnh lý tưởng quá. Nhưng sự hiện diện của các hoà thượng lớn khiến chúng tôi được an ủi vô cùng.

Thích Nhất Trí, Nguyễn Trọng Ngành, Nguyễn Ngọc Quýnh, Bỉnh, Đinh Viết Dương… bị bắt cóc

Một tháng sau, tám anh em TNPSXH trong đó có Thầy Nhất Trí bị bắt cóc giữa đêm khuya ở một trại công tác bên bờ sông Sài Gòn. Chúng tôi đã hỏi ở Bộ Cảnh sát Công an cả năm trời mà không ai tìm ra tông tích tám vị ấy.

Từ năm 1975 – 1980 khi đất nước đã thống nhất, chúng tôi được thăm tất cả hang cùng ngõ hẻm của đất nước có hỏi thăm khắp nơi, cũng có nhờ cô Phan Thị Bích Hằng tìm ra hài cốt của tám anh em Thanh niên Phụng sự Xã hội ấy, nhưng không ai tìm ra tông tích của bất cứ một anh nào. Chúng tôi nghĩ có lẽ họ đã ám sát, thủ tiêu và quăng xác ở nhiều nơi khác nhau của sông Sài Gòn nên xác các em đã bị cá rỉa và xương đã rã tan đâu đó.

Chị Diệu Huỳnh Phan Thị Mai tự Nhất Chi Mai tự thiêu cho Hoà Bình

Tuần tụng 14 giới Tiếp Hiện tháng 5 năm 1967 chị Mai làm chủ lễ. Khi tụng tới giới thứ 12 “không được giết chóc, không tán thành sự chém giết” thì giọng chị Mai bỗng lạc đi. Hôm đó có Masako và Tài ngồi thính giới chung. Masako và Uyên cũng nhận ngay có cái gì rất lạ trong giọng của chị Mai hôm ấy. Từ giới thứ 12 về sau, giọng chị lạc đi. Suốt hai tuần chị không đến chùa cuối tuần để tĩnh tu, có lẽ chị muốn để dành hai tuần cho cha mẹ già và cũng để chuẩn bị một mình lặng lẽ thiêu thân. Hai tuần sau, nhằm mồng 8 tháng Tư âm lịch, dương lịch 16 tháng 5 năm 1967 chị Mai đã tự thiêu cho Hoà Bình tại chùa Từ Nghiêm lúc 6 giờ sáng. Trước mặt chị là tượng Bồ tát Quan Thế Âm, tượng Đức Mẹ Maria và bài thơ:

Chắp tay tôi quỳ xuống,
Chịu đau đớn thân này
Mong thoát lời thống thiết
Dừng tay lại người ơi
Con mong cho Bồ tát Quán Thế Âm và Đức Mẹ Maria chứng giám để hai tôn giáo này cùng hợp tác với nhau mà lo lắng xây dựng Hoà Bình cho dân tộc Việt Nam.

Ngày hôm sau các báo chí Sài Gòn đều đăng tin tự thiêu của Nhất Chi Mai nhưng đều bị kiểm duyệt bôi trắng hết. Nhưng càng bôi trắng thì tin càng lan nhanh. Cảnh sát muốn đem thi hài chị đi nhưng cha mẹ chị Mai làm dữ, cấm không cho mang xác chị đi. Masako cũng đưa một ký giả Hoa Kỳ đến gặp tôi. Không ngờ ông này là ký giả New York Times (Nữu Ước thời báo, là tờ nhật báo lớn nhất Hoa Kỳ). Nhờ thế mà sáng sớm ngày 17 tháng 5 năm 1967, New York Times đã có hình tôi, cầm mười bức thư để lại của chị, tôi chỉ tóm lược bức thư gửi tổng thống Johnson.

Thầy Trí Quang quá cảm động đã gọi tôi tới để nhờ đọc giùm mười bức thư chị để lại gọi là những lời trăn trối của chị.

Vì chị Mai người Nam nên thầy muốn thu thanh mấy bài thơ giọng người con gái miền Nam. Bốn giờ sáng thầy sang chùa Từ Nghiêm tụng kinh cho chị Mai và bảo tôi nên in giùm nguyên tập mười bài thơ trăn trối của chị. Nhưng trước đó linh mục Nguyễn Ngọc Lan đã tự lãnh hết trách nhiệm in ấn và phổ biến tất cả. Chúng tôi chưa kịp báo tin chị Mai tự thiêu cho thầy Nhất Hạnh ở Hoa Kỳ thì sáng 17 tháng 5 năm 1967, nhật báo New York Times đã báo tin có người con gái Việt Nam thiêu thân cho hoà bình và có viết thư yêu cầu tổng thống Johnson:

  1. Ngưng oanh tạc Bắc và Nam Việt Nam.
  2. Từ từ rút quân giao cho người Việt tự định đoạt chế độ của họ.
  3. Nhờ Liên Hiệp Quốc kiểm soát tổng tuyển cử cho tất cả người Việt Nam, Bắc và Nam Việt Nam. Người Việt nếu tự do thật sự họ sẽ đủ khôn ngoan để chọn chế độ hạnh phúc và tự do cho Việt Nam.
  4. Giúp Việt Nam tái thiết lại xứ sở của họ đã bị bom đạn của các ông cày tan nát.

Sau này tôi mới biết nhờ bài viết chiếm nửa trang của Nữu Ước thời báo sáng hôm 17 tháng 5 năm 1967 có hình bán thân của tôi trên New York nên thầy Nhất Hạnh đã liên lạc với các hội đoàn thân hữu, và trong vòng vài tuần lễ thu xếp để có chín ngàn thầy tu Công giáo, Tin Lành, Do Thái giáo… cùng chịu ký tên STOP THE KILLING NOW in Việt Nam. Lời kêu gọi của STOP THE KILLING NOW đã đăng nguyên trang trên nhật báo New York Times. Và cả phong trào phản chiến ở Mỹ từ từ gia tăng lên được hơn một triệu người.

Thanh niên Phụng sự Xã hội bị bắn chết bên bờ sông

Đêm 4 tháng 7 năm 1967, giữa khuya một toán người lạ mặt có vũ trang tới bắt năm thanh niên PSXH đang làm công tác tại làng Bình Phước cạnh bờ sông. Những người vũ trang đến bắt năm người con trai, bịt mắt lại và đưa ra bờ sông, rồi bắn vào đầu từng người. Hà Văn Đính bị bắn trước nhất. Trúng đạn và đau quá, chảy máu nhiều quá, em lăn lộn rơi xuống sông. Họ bắn tiếp từng người vào đầu và sợ chưa chết nên bắn thêm mỗi người vài phát nữa. Đính rơi xuống sông trong đêm đen, nhưng nước ròng nên không chết ngợp. Em sống sót đến sáng ngày hôm sau, dân làng kéo ra bờ sông và vớt Đính đưa vào bệnh viện. Sáng hôm sau tôi đi xe gắn máy trở lên Bình Phước, lòng hớn hở vì đã xin được phép má tôi định tối ngủ lại đấy hôm sau. Bỗng nhiên tới nơi, thấy mấy tác viên nháo nhác chạy tới dẫn tôi đến bờ sông! Ôi ghê rợn! Bụt ơi! Ai mà đối xử tàn tệ ghê gớm thế? Bốn em Võ Văn Thơ, Lê Thế Lành, Nguyễn Hy, sư chú Hồ Ngọc Tuấn nằm sóng sượt trên đất. Máu trên đầu đã khô nhưng tôi không dám nhìn kỹ. Đáng lý xác tôi cũng nằm trên bờ sông như các em đây. Thiên hạ báo tin sư chú Hà Văn Đính cũng bị bắn nhưng em lăn được xuống sông và chưa chết, được đưa tới bệnh xá gần đó. Nhưng xe cứu thương đã đem em về bệnh viện lớn Chợ Rẫy, Sài Gòn. Hôm sau gặp em còn sống và thuật chi tiết khi họ vào chái đình, chỗ các em ngủ. Họ có khoảng hơn mười người, có vũ trang nên bắt năm đứa con trai ngủ nơi ấy, cột tay lại phía sau lưng và bịt mắt mỗi em lại. Họ dẫn các em đi không xa thì ra tới bờ sông. Một người rờ đầu Võ Văn Thơ, ốm nhỏ và hỏi: “Các em có phải Thanh niên Phụng sự Xã hội?”

Thơ trả lời: “Dạ thưa phải.” Tuy mắt bị bịt nhưng Đính nghe tiếng nói: “Các em còn nhỏ quá, nhưng chúng tôi có lệnh phải giết các em thôi!” Lách cách tiếng súng nổ: Đoành! Ngã lăn đau đớn quá, Đính lăn tòm xuống sông. Cách cách… Tiếng đoành sau và sau nữa… Em bất tỉnh. Khi tỉnh hơn, em đau đớn ráng bò về bờ sông.

Nhờ Hà Văn Đính còn sống sót nên thuật cho mọi người, Đính chỉ nhớ câu họ nói: “Các em còn nhỏ quá, nhưng chúng tôi có lệnh phải giết các em thôi.”

Tôi nghe trái tim mình nát ra từng mảnh, ngồi như chết bên bờ sông. Chưa biết tính sao thì nghe nói xe nhà quàn sắp đến mang bốn cái hòm do quý thầy lớn ở trường đặt để mang xác các em về Trường. Chắc thầy Thanh Văn hay chú Phước hay cô bác trong làng đặt xe tang chở bốn em về Trường để làm lễ cho tươm tất. Họ bỏ từng em vào mỗi cái hòm rồi có xe kéo bốn hòm nằm song song đưa về Phú Thọ Hoà, trụ sở Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội.

Tại trụ sở khuôn viên Chùa Lá, thầy Đồng Bổn nhờ thợ và các em Thanh niên cất một nóc nhà tạm thời, không có vách để quàn tạm thi thể các em. Nóc nhà bằng vải bố xanh lá nâu hầu che nắng và mưa vì còn phải để xác các em vài ngày sau khi làm lễ truy điệu và mời gia đình các em vào rồi mới chôn. Nếu trời mưa thì tội cho nơi quàn linh cữu các em lắm. Giây phút tôi ngần ngại nhất là khi phải gặp cha mẹ của các em Hy, Thơ, Lành, Tuấn từ Quảng Nam, Quảng Trị, Thừa Thiên vào. Chúng tôi, ban giám đốc biết ăn nói với cha mẹ các em ra sao đây?

Ban chăm sóc trường lại họp và chuẩn bị thơ mời ngày truy niệm và làm lễ chôn cất luôn. Mình đâu có chỗ nào chôn các em đâu ngoài ngôi Chùa Lá này? Thầy Thanh Văn nhờ tôi: “Chị Phượng viết bài diễn văn lần này giùm tôi nhé.” Hôm Liên và Vui mất tôi đã viết là kẻ thù chúng tôi không là người dù các anh đã cầm lựu đạn thảy vào người các em của chúng tôi. Chúng tôi chỉ tiếc là cái tưởng, cái thấy của các anh về chúng tôi quá sai lạc. Dù các anh đã thảy 17 quả lựu đạn giết chết hai người và làm bị thương 18 tác viên xã hội, chúng tôi xin được thưa là kẻ thù chúng tôi là cái thấy sai lầm của các anh về chúng tôi. Thật ra chúng tôi chỉ giúp một tay cho những người dân ở những làng quê nghèo khó của đất nước. Nếu may mắn các anh lấy được ra cái tưởng rất sai về chúng tôi thì tự sự đâu tới nỗi nào. Nghe những câu này các hoà thượng đã khóc. Kỳ này thầy Thanh Văn bảo: “Chị Phượng nhớ soạn điếu văn ngày truy niệm giùm tăng thân, tôi hết sức rồi. Giờ tôi chỉ có thể thảo thư mời các hoà thượng và nhân sĩ chức sắc trong nước và trong Giáo hội.”

Tôi cầm xấp thơ đi giao thư mời như cái máy. Lúc đó Thầy chưa dạy chúng tôi Kinh người biết sống một mình. Nhưng nếu không sống ngay trong giây phút hiện tại thì không thể nào không nghĩ đến niềm tuyệt vọng đang tràn vào tận xương tuỷ của tôi. Hôm sau là đã tới ngày trước làm lễ truy niệm các em, tôi ngồi trước bàn thờ Bụt lúc 12 giờ đêm mà cũng không nghĩ ra câu nào. Tôi dứng dậy đi thiền hành quanh chánh điện. Chợt câu nói của Hà Văn Đính hiện ra: “Những người ấy rờ đầu chúng tôi từng đứa và nói, các em còn nhỏ quá, có phải các em là Thanh niên Phụng sự Xã hội ở Phú Thọ Hoà không?” Thơ nói: “Dạ phải.” Người lạ mặt nói: “Chúng tôi rất tiếc, các em còn nhỏ quá, nhưng chúng tôi có lệnh buộc lòng phải giết các em thôi.” Câu nói này có nghĩa là, người nhận lệnh ám sát đã nghe thông điệp chúng tôi rồi và không muốn giết, nhưng lệnh trên buộc thì phải làm thôi. Nhờ thế nên trong bài diễn văn tôi đã viết cảm ơn các anh mà khi được lệnh phải giết các em tôi, các anh đã để tay lên đầu các em tôi và ưu ái nói: “Các em còn nhỏ quá, nhưng chúng tôi có lệnh buộc lòng phải giết các em thôi.” Thưa các anh, nếu được lệnh ám sát mà không thi hành lệnh trên thì các anh sẽ bị trừng phạt. Rồi ai lo cho vợ con các anh? Chúng tôi hiểu và tri ơn. Mong lần sau các anh sẽ tìm ra cách, không giết chúng tôi nữa, mà cũng không hiểm nguy đến an ninh của các anh.

Phút khó khăn của chúng tôi là làm sao trả lời cho ba má bốn em vừa bị thảm sát từ Quảng Nam, Quảng Trị, Thừa Thiên vào thăm xác con. Em Nguyễn Hy, 18 tuổi, mặt sáng sủa và là con trai duy nhất của ông bà cụ từ Quảng Nam vào. Ôi cụ ôm xác con qua chiếc áo quan mà khóc lớn và nói: “Con ơi, con trai duy nhất của ba mẹ ơi, ba mẹ rất tiếc không còn em nào nữa để gửi về đây thay con mà phụng sự!” Nghe đến đây tôi không cầm được nước mắt hổ thẹn vì ngại cha mẹ các em TNPSXH sẽ trách chúng tôi làm sao mà để con ông bà chết đi oan ức như thế này? Phải trả lại con cho họ! Các cha mẹ đã không đòi con mà chỉ khóc vì em Nguyễn Hy là con một. Ba má em Võ Văn Thơ cũng thế, họ than thở là không còn đứa con nào để đi phụng sự tiếp. Hai người còn lại là Lê Thế Lành và Hồ Ngọc Tuấn cũng thế, không ai đòi chúng tôi trả lại con cho họ.

Hoà thượng Thiện Hoà, Thiện Minh và sư bà Diệu Không

Trận thảm sát ngày 4 tháng 7 năm 1967 này là lần chót. Có một chiều tháng 8, cũng ở một làng công tác xa, chú bé chín tuổi trong một làng công tác của chúng tôi chạy đến nói: “Chú ơi, có ông lái xe máy đến cho con 5 đồng và dặn mua kẹo ăn, nhưng ông ấy bảo phải tới nói ngay với mấy chú là nên dọn nhà đi đi. Đừng ở đây tối nay nguy hiểm.” Chúng tôi dọn văn phòng công tác đi ngay thì tối hôm ấy có toán người lạ mặt đến đốt lều của chúng tôi mà anh em TNPSXH đã dọn đi rồi. Nhóm chủ trương ám sát thấy nhân viên của họ, vì không muốn vâng lời ám sát nên đã lặng lẽ nhờ chú bé địa phương báo tin gián tiếp nên họ cũng bỏ luôn. Đó là lần chót, Thanh niên Phụng sự không còn bị ám sát nữa và chân lý Kẻ thù ta không phải là người rất đúng vì người nào cũng có tánh Phật. Nếu bị ám sát mà tránh được gây căm thù và vẫn không giận, không oán thù, chỉ trách cái tưởng sai lầm của đối phương thôi thì mình chạm được Phật tánh của người muốn giết mình. Nhờ hành xử với những người ám sát như thế nên hình như có nhiều người có tâm Bụt đã lặng lẽ hỗ trợ các em. Số tác viên Thanh niên PSXH ngày càng lặng lẽ tăng. Những ngày cuối của chế độ trước, số trợ tác viên, cảm tình và ủng hộ TNPSXH Việt Nam lên cả mười nghìn người.

Hình này chỉ có năm 1968 khi xây xong cư xá Nam TNPSXH, giảng đường, thư viện. Nhưng tháng 5 năm 1975, chính phủ mới Cộng hoà Miền Nam Việt Nam đã tịch thu và biến thành Trường trung học cơ sở Trần Phú. Chùa Lá được thầy Phước Trí cho sửa lại bằng gạch thật huy hoàng diêm dúa, rất khác chùa Lá Pháp Vân mà thầy Nhất Hạnh khởi xướng khi xưa. Mộ của thầy Thanh Văn, Châu Toàn và sáu tác viên chết trong khi đang công tác được chôn tại Chùa Lá Pháp Vân được di chuyển ra phía trước chùa.

Làng tu tập

Dần dần Thầy hối thúc thầy giám đốc TNPSXH mau mau làm làng tu tập.

Những ai có tinh thần phụng sự – theo Thầy dạy – như tác viên xã hội Thanh niên Phụng sự Xã hội, như các anh chị Tiếp Hiện cư sĩ, phải có phần tu tập một ngày mỗi tuần. Cái thấy của Thầy là tác viên xã hội cũng phải có một ngày tĩnh tu trong tuần. Càng làm việc xã hội thì càng phải tu tập. Bên Tây phương và Mỹ châu, Thầy khuyên các tác viên của những phong trào kêu gọi hoà bình cũng phải có phần tu tập, nếu không thì sẽ có sự xung đột ngay giữa các nhóm kêu gọi hoà bình với nhau. Muốn làm công tác xã hội giúp cho người nghèo thì mình cũng phải tu để xử lý được những cơn giận hay bức xúc của mình. Là thầy giáo mình cũng phải tu để có sự bình tĩnh, để trở thành một ông thầy giáo hay một cô giáo đầy tính Phật. Mình phải tu để trở thành Phật tác viên xã hội, Phật bác sĩ tâm lý trị liệu, Phật y sĩ, Phật nha sĩ, Phật y tá. Vì vậy Thầy nói mình phải có một trung tâm tu học để người tác viên xã hội mỗi năm có thể trở về tu ít nhất là một tuần cho tới một tháng. Mỗi năm làm việc mười một tháng thì phải có một tháng trở về tĩnh tâm. Người đến tu học phải giữ Năm giới. Thầy thấy Mười giới Bồ tát truyền thống quá chung chung, không hợp với thời đại nữa nên chế tác Mười bốn giới Tiếp Hiện thay cho giới Bồ tát. Giới, Thầy dịch là “training” tức là tập luyện. Luyện để giữ Năm giới và khi nhuần nhuyễn rồi thì luyện để giữ Mười bốn giới. Mà muốn “luyện” thì phải tập tu, dừng lại (thiền chỉ). Người luyện trở nên thanh thản, bình an, thương yêu, hiểu biết, sống trong hoà ái với chính mình và với những người chung quanh. Mười bốn giới có hai phần, tu sĩ có 14 giới của tu sĩ và cư sĩ cũng có 14 giới của cư sĩ.

Tu sĩ là người độc thân, đóng cánh cửa tình dục để có thì giờ lo Phật sự nhiều hơn, làm những chuyện lợi cho người, cho xã hội và cho đời cho nên Thầy khuyến khích thầy Châu Toàn (giám đốc điều hành nhiệm kỳ 2 trường TNPSXH) phải lập làng Tu học càng sớm càng tốt. Thầy hy vọng dần dần các anh em Thanh niên Phụng sự Xã hội sẽ thọ 14 giới Tiếp Hiện.

Thọ giới Tiếp Hiện đầu tiên tại chùa lá Pháp Vân

Năm 1966, ngày rằm tháng Hai tức ngày 6 tháng 3 năm 1966, ba cô gái và ba chàng trai đã được Thầy trao 14 giới Bồ tát Tiếp Hiện, một dòng tu mới. Tôi có mời Trâm nhưng anh không tới, Lê Khắc Tích, Lê Khắc Phương Thảo cũng không tới. Chỉ có chị Đỗ Thị Nga, Nghiêm Thị Bạch Tuyết thì 100% hết lòng. Tôi được chị Nga tặng cây đèn (đèn đêm nhỏ, veilleuse de nuit) có chữ Mãn Nguyệt Đăng. Chị Nga rất “cưng” tôi, không đòi hỏi gì hết, đóng góp rất vô tướng. Sáu người thọ giới Tiếp Hiện ngày hôm ấy là:

Diệu Huỳnh Phan Thị Mai, 31 tuổi

Diệu Không Cao Ngọc Phượng, 28 tuổi

Diệu Thiện Phạm Thuý Uyên, 23 tuổi

Tuệ Linh Đỗ Văn Khôn

Minh Tịnh Bùi Văn Thanh

Tâm Thông Nguyễn Văn Phúc

Chúng tôi, ba chị em gái phát nguyện làm xuất sĩ sống trọn đời độc thân. Ba anh con trai thì đã có người yêu nên trong giới thứ 14 phần dành cho cư sĩ, Thầy căn dặn phải ý thức trách nhiệm của mình về quyết định cho ra đời những sinh mạng mới và môi trường mà con cái mình sẽ lớn lên trong tương lai.

Trăng tròn đêm tháng 2 trời mát, không có mưa.

Bắt đầu từ hôm ấy chúng tôi rủ nhau về chùa Lá tĩnh tu và họp bàn chia công tác thay vì đi quá xa vào chùa Trúc Lâm ở Cây Quéo Gò Vấp.

Hình sáu đứa mặc áo Tiếp Hiện

Chùa lá Pháp Vân

Chiều hôm đó, tại văn phòng Viện cao đẳng Phật học, chùa Pháp Hội, thầy Nhất Hạnh dặn khi chúng tôi chào Thầy để về nhà: “Ngày mai, các con có bận gì nhiều ở làng tình thương Cầu Kinh Thảo Điền không? Nếu có thì các con cũng gắng về trước cơm trưa. Thầy Thanh Văn sẽ nấu ăn đãi ba chị em.” Thầy Thanh Văn đãi món mì ống (món Macaroni Ý) mà nấu theo kiểu Việt Nam làm thành một thứ bún nước rất ngon như bánh canh vậy. Thầy trò vừa ăn xong chén mì ống tuyệt vời của thầy Thanh Văn thì thầy Nhất Hạnh đã pha một bình trà Ô Long lớn, mời mọi người. Hôm đó có chị Phan Thị Mai, bác Trịnh Sâm, chị Phạm Thuý Uyên, thầy Nhất Hạnh, thầy Thanh Văn và tôi. Thầy nói: “Thầy mời tụi con đi thăm chùa Pháp Vân của mình. Pháp Vân là tên ngôi chùa đầu tiên trên đất Giao Châu (tên cũ của nước Việt). Từ hồi mới lập quốc, nước ta luôn có chiến tranh, cũng liên miên chống ngoại xâm nhà Hán từ phương Bắc. Rồi sau đó lại chống ngoại xâm từ Đông Bắc, đó là nhà Nguyên, Mông Cổ. Đội kỵ quân trăm trận trăm thắng của Thành Cát Tư Hãn bách chiến bách thắng chiếm được nhiều phần đất của nhà Hán rồi tấn công luôn cả một phần Âu Châu. Hốt Tất Liệt, cháu nội của Thành Cát Tư Hãn tấn công xuống Giao Châu là tên nước ta ngày xưa. Hốt Tất Liệt suýt thắng nhưng cuối cùng phải thua nhờ tình đoàn kết và lòng từ bi của vua quan nhà Trần mà đại tướng là Trần Hưng Đạo. Phía nam nước ta lại có giặc Chiêm Thành. Có giặc thì có nhưng muốn giữ vững hồn thiêng dân tộc thì ngôi chùa là gốc của hồn nước. Hôm nay Thầy muốn mời tụi con đi thăm ngôi chùa trong chiến tranh Việt Nam nên thầy chủ trương xây bằng lá.” Chùa Lá đầu tiên ở miền Nam Việt Nam do Thầy và thầy Thanh Văn cất lên để chia sẻ niềm đau của toàn dân. Tiền lương dạy học ở Columbia New York Hoa Kỳ nếu muốn xây chùa sang hơn mái Chùa Lá này thì Thầy cũng đủ sức xây. Nhưng Thầy để xài vào nhiều việc ích lợi trước đó. Ngôi chùa bằng lá này sẽ có tên là chùa Pháp Vân để nhớ ngôi chùa đầu tiên của nước ta. Chú tài xế của Viện Phật học là anh Sang lái chiếc xe mười sáu chỗ của Viện Phật học, thầy Thanh Văn ngồi giữa bác tài và thầy Nhất Hạnh. Băng sau có bác Trịnh Sâm, chị Mai, chị Phượng và chị Uyên.

Xe đưa mọi người tới ngang Trường đua Phú Thọ rồi tiếp tục đi về hướng Phú Lâm. Bác Sâm nói anh Sang lái xe chầm chậm, khi nào tới ngã ba đi Cầu Tre thì rẽ tay mặt nhé. Tôi nghĩ ngay, tuy là tên Cầu Tre nhưng chắc phải là cầu đúc xi măng thì xe mười sáu chỗ của Viện Đại học mới qua nổi, chứ nếu cầu mà bằng tre thì xe này sao qua cầu được! Đúng thế, tên là Cầu Tre mà là chiếc cầu đúc bằng xi măng. Đường này khá vắng vẻ. Qua cầu xong, đi thêm một đoạn thì bên tay mặt là đường hương lộ dọc dài ven theo nghĩa địa Triều Châu. Nghĩa địa bên mặt chúng tôi khá dài. Bên trái vẫn còn đất hoang đầy hoa giấy, hoa mười giờ và hoa mắc cỡ (hoa trinh nữ). Có những cây bông giấy mọc hoang mà cũng rực rỡ màu vàng gạch và màu tím hồng rất đẹp. Xe chạy thêm khoảng hơn hai cây số, chúng tôi thấy xa xa kia, bên trái đường hương lộ này có một khu nhà lá và nhà gạch lộn xộn, thỉnh thoảng có đôi ba nhà gạch. Bác Sâm nói đây là xã Tân Phú được quy hoạch để che chở phi trường Tân Sơn Nhất. Họ chia: chỗ này sẽ là khu chợ, cái chợ trời lèo tèo dăm ba quán. Anh Sang rẽ xe sang trái đi vào chợ, rồi dọc theo chợ vài trăm thước lại quẹo xuống tay mặt. Bác Sâm chỉ trỏ: “Kìa phần đất ruộng này mình mới mua của ông bà Mười. Quý thầy đã nhờ thầy Lưu Phương theo dõi thợ xây cất, phỏng hoạ theo cái phác hoạ sơ của Thầy chúng mình. Chính Thầy chúng ta là ‘kiến trúc sư’ thứ thiệt đó các cô ạ!” Bác Trịnh Sâm quả quyết thế. A a! Đây rồi! Nhìn kia, trông xa xa như có một ngôi chùa bằng lá, không phải là nhà thường dân vì mái chùa là hai mái lá dài úp lại như hai bàn tay búp sen, nhọn, nhưng có mái thứ hai bên dưới cong cong xinh xinh và nóc không nhọn hoắt như ngôi chùa Thái mà cũng không như ngôi nhà lá bình thường của người dân. Xe đỗ trước chùa. Ngôi chánh điện vẫn còn đơn sơ lắm, nhưng vừa bước vào chùa ba chị em tôi “cảm phục” quá. Đẹp quá Thầy ơi!

Bàn Phật chỉ là chiếc bàn tre mây, thật trang nghiêm, cao một thước hai. Thầy Thanh Văn thỉnh được bức hình chụp một bức vẽ Bụt Thích Ca đang ngồi thiền bên bờ sông Ni Liên Thuyền. Bức hình chỉ có 45cm bề cao nhưng bề rộng là 70cm và đó là hình chụp một bức vẽ Bụt ngồi thiền, quay lưng vào một cây bồ đề, mặt nhìn ra sông Ni Liên Thuyền. Toàn cảnh bức hình Bụt ngồi thiền được bao bọc bởi một “rừng tre” phủ nguyên bức tường sau lưng bàn thờ Bụt. Khung tre đó chỉ là những thanh gỗ bề ngang 2,5cm, bề cao 2 mét, hay ba, bốn hay năm mét, sơn xám sậm xanh đen nằm song song chiếm toàn bức vách cao, bít cả vách tường ngôi Chùa Lá Pháp Vân này. Khung hình Bụt ngồi thiền bên bờ sông được bao quanh bởi một bức vách tường mới sơn màu lam xám lạt nhẹ và trưng bày như một khung gỗ vĩ đại làm bằng những thanh gỗ sơn xám xanh đậm. Ôi là đẹp! Ba chị em chúng tôi phục quá, im lặng cảm phục mà không tìm ra từ nào để tỏ lòng trân quý. Ba chị em chúng tôi ngưỡng mộ cả một vách tường chánh điện Chùa Lá biến thành toàn cảnh bức tranh bên bờ sông Ni Liên Thuyền. Tóm lại nguyên một bức tường 8 mét bề ngang, 5 mét bề cao là bàn thờ đức Bổn Sư. Thầy Thanh Văn thắp hương dâng lên cho thầy Nhất Hạnh, rồi chính thầy Thanh Văn thỉnh chuông để thầy trò cùng lạy năm vóc phủ phục trên một chiếc chiếu 2 mét rưỡi bề rộng và dài từ bàn thờ đến cuối chánh điện khoảng 12 mét. Ôi là đơn sơ mà thanh nhã.

Lần đầu tiên ở miền Nam Việt Nam, có lẽ chỉ có ngôi chùa này là bằng lá, do một vị khất sĩ tên là Thích Nhất Hạnh xây, chủ trương rằng trong thời chiến tranh loạn lạc nên cất chùa bằng lá, không khác gì những nhà lá nhà tranh của dân quê Việt Nam, nhưng phần tâm linh thì người đi chùa cũng sẽ sống sao cho đẹp. Sau đó quý thầy đưa chúng tôi đi vòng quanh chánh điện, là hành lang tráng xi măng rộng cỡ 2,5 mét bề ngang, bao vòng quanh chánh điện. Trong và ngoài chỉ có tráng xi măng như bên trong chánh điện, không có gạch men, chỉ là xi măng tráng, không lát gạch hoa, chỉ đi chân không mà không xảm chân. Rải rác quanh hành lang là những băng bằng tre dùng để thay ghế ngồi, tựa lưng vào vách chùa, quay ra ngoài, dài độ hai mét để dọc theo hành lang. Trước chiếc băng có một bàn bằng tre mây nhỏ thấp để thầy trò ngồi uống trà. Quý thầy ngồi trên ghế tre mây còn chúng tôi ngồi ngay trên sàn tráng xi măng. Vì tình hình chính trị bên ngoài bức bách nên Thầy muốn cho chúng tôi thọ giới Tiếp Hiện. Giới Tiếp Hiện được Thầy lược từ Giới luật, Bồ tát giới… Thầy cho xây thêm một vách tường phía sau hành lang như cái phòng tạm cho Thầy ngủ lại một ngày cuối tuần ở Chùa Lá. Phòng Thầy sẽ ở kế bên phòng uống trà khi họp mặt một số người nòng cốt sẽ được truyền giới Tiếp Hiện và vài mươi người dấn thân hết lòng phụng sự.

Đấy ngôi chùa Thầy cho chúng tôi thọ giới Tiếp Hiện, ngôi Chùa Lá rất nghệ thuật thế đấy.

Thân hữu chùa Lá ngày chánh niệm hằng tuần

Ngày chánh niệm tại chùa Trúc Lâm ở Cây Quéo

Tiền thân của những buổi họp mặt tăng thân trẻ học theo thầy Nhất Hạnh là họp ở tận chùa Trúc Lâm Cây Quéo xa hơn Gò Vấp nữa. Nếu các bạn bảo tôi tả chùa Trúc Lâm ra sao thì tôi hoàn toàn không nhớ có chánh điện thờ Bụt gì, Bụt Thích Ca hay Bụt A Di Đà? Cứ xe gắn máy tôi vừa vào cổng chùa Trúc Lâm, rẽ xéo bên tay mặt là cốc bằng lá của thầy Châu Toàn xây cho thầy Nhất Hạnh. Cốc bằng tre và lá thôi nhưng rất thanh bạch. Thầy ngồi sau bàn viết và chúng tôi hai ba chị em đèo nhau vào thăm Thầy. Có khi sáu đứa, có khi chín đứa ngồi luôn dưới sàn xi măng, nghe say mê Thầy chia sẻ một bài thơ hay vài tư tưởng cách mạng làm mới đạo Phật.

Hồi này, khoảng tháng 12 năm 1964, sau những ngày cứu lụt vất vả trên sông Thu Bồn, dù bận bịu mấy thì chúng tôi, đám thanh niên sinh viên cũng có nửa ngày chánh niệm tại chùa Trúc Lâm ở ngã ba Cây Quéo, Gò Vấp. Đây là chùa của thầy Châu Toàn và thầy Đồng Bổn. Nơi này có chiếc am lá của thầy Nhất Hạnh mà sáng nào tôi cũng mang sữa nóng mua ở tiệm sản xuất sữa tươi, nấu nóng sữa, khử trùng và cho vào chai còn nóng hổi. Tiệm này ở góc đường Trần Quý Cáp và đường Trương Minh Giảng. Sáu giờ sáng tôi ghé qua Trương Minh Giảng lấy sữa, đi xe Velo Solex lên tận chùa Trúc Lâm đem cúng cho thầy Nhất Hạnh một chai sữa nóng rồi mới quay xe về lại Đại học Khoa học. Riêng sáng Chủ nhật thì chúng tôi ở luôn tại chùa Trúc Lâm Cây Quéo. Cả ba bốn chục đứa kéo nhau về chùa Trúc Lâm, bàn bạc về chuyện cứu trợ. Thầy Đồng Bổn kho nồi mít non. Nồi mít chỉ có xì dầu, nước dừa, nấu thật lâu cho mít thật mềm, béo, thanh bạch. Không có nấm rơm, nấm mèo, không nấm đông cô. Không có tàu hủ kho chung. Vậy mà ngon ơi là ngon. Thầy Châu Toàn thì chưng dọn chùa thật nghệ thuật. Một đoá hoa, một cành trúc mà cũng gợi cả cơn gió mùa xuân. Thầy Châu Toàn cắm chỉ một đoá hoa, một cành trúc nằm ở góc chùa thôi mà ôi, thật đẹp. Thầy Nhất Hạnh nằm trên võng trên hành lang chùa. Chúng tôi bu quanh Thầy để nghe Thầy đọc những bài thơ trong Chắp tay nguyện cầu cho Bồ câu trắng hiện.

Em Nghiêm Thị Bạch Tuyết với tên nhỏ là “Út Mít” kéo ra từ túi móc trên xe hàng chục hộp lon xin tiền lẻ ở các tiệm vùng Sài Gòn cho nạn nhân bão lụt năm Giáp Thìn 1964. Tôi cũng thuật sơ cách tôi chia quà trên những làng nghèo cơ cực dọc theo sông Thu Bồn. Cô bé Tuyết Út Mít này, cô bé Uyên này, cô em Thanh xinh xắn của tôi này, cô nào cũng trút ra một số hộp lon. Chỉ có Út Mít là oai nhất, nhiều hộp lon xin tiền cắc nhất. Đây nè, còn nữa… chú em Tài này, anh Huệ Dương này, có khi có cả ba chàng bác sĩ của làng tình thương là bác sĩ Trâm, bác sĩ Nguyên và bác sĩ Quyền. Thỉnh thoảng cũng có cả chị Mỹ Hạnh xinh xắn này, có anh dược sĩ Bảy này, dược sĩ Xuân Lan – ý trung nhân của bác sĩ Hồ Văn Quyền, chị Đỗ Thị Nga – dược sĩ đại thí chủ của làng.

Tuyết đem trút ống lon sữa bò ra và đếm tiền trao cho chị Uyên làm thủ quỹ ghi sổ xong thì các anh chị em chúng tôi ngồi nghe thầy Nhất Hạnh đọc thơ: Ruột đau chín khúc, Đừng biến mảnh vườn xanh xưa thành mồi ngon lửa dữ. Có khi Thầy dạy Uyên hát cho Thầy nghe. Giọng hát của Uyên rất mong manh, lung linh như ngọn đèn trước gió nhưng không tắt, không giống ca sĩ nào hết nên đại chúng rất ưa giọng ca của cô sinh viên đang học Dược này. Tình cảm cô Uyên cũng thanh tú như giọng hát của Uyên. Ghi xong tổng số tiền nhận được trong tuần thì cả nhà chuẩn bị phụ thầy Đồng Bổn dọn ra cơm trắng ăn với món mít kho ngọt lừ, với rau cải xanh mới hái trong vườn chùa. Mọi người được ăn cơm picnic với món mít luộc ngon và béo ngậy ai cũng thích. Các anh Quyền, Trâm, Nguyên rất ưa cơm chay của thầy Đồng Bổn. Chị Bích, chị Điệp, Kim Chi, Phùng Thăng thì ưa các bình cắm hoa rất nghệ thuật của thầy Châu Toàn. Trương Thị Nhiên thì đúng là bà mẹ Việt Nam, lặng lẽ đi pha một “ấm” trà to tướng cho mọi người. Tình thầy trò huynh đệ anh chị em thương nhau như con một nhà.

Ngày Chánh niệm tại chùa Trúc Lâm ở Cây Quéo là thế. Còn bây giờ tôi đi quanh Chùa Lá xem nơi nào đủ chỗ cho cả “bè lũ” ngồi uống trà quanh Thầy và uống từng lời dạy dỗ của Thầy đây? Chị lớn là tôi sau khi đi quanh Chùa Lá tôi đã lẩm nhẩm tính thầm, chắc là chỗ tụ tập uống trà chung là ngồi dưới nền xi măng bao quanh Thầy như ở Trúc Lâm Gò Vấp thôi. Rồi chỗ nào chắn bớt hành lang quanh chùa để làm “phòng ngủ, che đủ kín để làm phòng cạo gió cho Thầy?” A may quá, thầy Đồng Bổn đã cho thợ xây căn nhà nhỏ bằng xi măng, gạch xám và nóc tôn để làm chỗ ngủ cho thị giả của Thầy. Mấy ngày đầu thì chú Tâm Thái và Nhất Trí làm thị giả. Căn nhà xi măng là cho thị giả, phía tuốt sau làm nhà bếp tạm nấu ăn cho quý thầy khi ghé ngang Chùa Lá sau khi dạy xong ở Viện cao đẳng chùa Pháp Hội, tương đối gần hơn về tận Trúc Lâm Cây Quéo. Ban đầu tôi nhờ chị Bảy của tôi may gấp những tấm màn dài phủ xuống tận đất như một tấm vách ngăn một góc chùa. Phía gần phòng thị giả ở ngôi nhà xi măng nóc tôn, tôi nhờ chị Bảy may hai chiếc màn lam 3 mét bề cao như vách tường dài phủ thêm một góc nhỏ sau vách làm bàn Phật để làm phòng ngủ của Thầy. Kế đó là phòng họp của thầy Nhất Hạnh, thầy Thanh Văn, anh Phúc và Uyên, Thanh, Phượng, chị Mai.

Đêm giao thừa đầu tiên

Từ hôm hai mươi sáu Tết, Triều Quang, Từ Mẫn và Thanh Hiện đã tự động kéo về Phương Bối, như con trở về nhà cha mẹ vào những ngày giỗ lớn. Quang ở Dalat về mang theo rất nhiều nhánh bạch mai thật đẹp. (Trước đó, chị Diệu Âm đã cho Như Hiền đem tặng cho chúng ta rất nhiều cây bạch mai con để trồng quanh nhà). Chúng ta bàn với nhau ăn một cái Tết lớn nhất trong đời chúng ta, và ăn tại Phương Bối. Sau một đêm bàn luận, chúng ta đồng ý như sau:

1 – Đốt một đống lửa vĩ đại ngay trên đồi Thượng.

2 – Cắm trại ở đồi Thượng.

  • – Nấu một thùng bánh chưng trên đồi Thượng để cúng giao thừa.
  • – Cúng giao thừa, đốt pháo ở đồi Thượng.
  • – Hội họp ăn bánh chưng, chúc Tết và bình văn ở đồi Thượng. […]

Lý là người Bắc và Lý tuyên bố có thể gói những chiếc bánh chưng vào hạng đẹp nhất Bắc Hà. Ban đầu ai cũng tưởng là Lý chỉ “ăn to nói lớn” theo kiểu một nhà văn như Lý, nhưng sau khi thấy Lý trổ tài, ai cũng phục lắm. Dì Tâm Huệ mua nếp, đỗ xanh và cung cấp lá dong tươi cho Lý. Hôm gói bánh tôi cũng làm phụ tá cho Lý trong việc lau lá, xếp lá, rọc lá. Lý làm một cái khuôn nhỏ và gói những chiếc bánh chưng nhỏ xíu, vuông vắn, thật đẹp. Bánh chưng được nấu từ lúc năm giờ rưỡi chiều để kịp chín nửa giờ trước giờ giao thừa. Mẫn và Hiện đã bắc hai bếp gần dưới chân đồi Thượng, một bếp để luộc bánh chưng, một bếp khác để nấu nước sôi tiếp cho nồi bánh. […]

Cả nhà chuẩn bị ăn Tết một cách rộn rịp và chính sự chuẩn bị rộn rịp để ăn Tết ấy quả đã là Tết một cách đích thực rồi. Từ lúc ba giờ chiều, Nguyên Hưng và Triều Quang đã vào rừng đốn về những cây tre lớn và cưa ra từng ống một, chất đầy bên lều. Khi thùng bánh chưng sôi, tất cả chúng ta đều tắm rửa, quây quần trong chiếc lều lớn nhất cắm trên đồi, nghỉ ngơi, nghe chương trình phát thanh cuối năm của đài Saigon từ chiếc Sony quen thuộc và ăn cơm, một bữa cơm chiều thật đơn giản. Tha hồ cho chúng ta nói chuyện bốn phương. Hồi ấy thường trú tại Phương Bối mới chỉ có Nguyên Hưng, Lý, Tuệ, dì Tâm Huệ và tôi, còn những người khác đều là “chim bốn phương bay về đây cả”. Những con chim ấy bay về Phương Bối và tíu tít kể cho nhau nghe những mẩu sinh hoạt, những câu chuyện, những biến cố đã xảy ra cho chúng từ những phương trời khác nhau. Không ai là không thấy rõ rằng Phương Bối chính là alma mater của mình.

Trên những cây cao còn lại của đồi Thượng và cả trên lan can của thiền thất nữa, Mẫn và Lý đã treo đèn. Vào lúc mười giờ rưỡi, Nguyên Hưng ra lệnh đốt lửa. […] Bởi vì đồi Thượng là chiếc đồi cao nhất trong vùng. Chúng ta trông rõ tất cả những vùng núi bao quanh Phương Bối nhờ ánh lửa trên đồi Thượng. Có lẽ tất cả thú vật, dân chúng của núi rừng đang ngạc nhiên, và qua kẽ lá, đang hướng những cặp mắt nhìn về đồi Thượng. Xa xa, ta có thể trông thấy ngôi nhà của Đại Hà thấp thoáng trong đồi núi trập trùng. Mười một giờ rưỡi khuya rồi. Chúng ta trở về thiền thất cúng giao thừa. Chiếc bánh đầu tiên vớt ra đã được đem lên cúng Phật. Buổi lễ đơn giản và ấm áp chỉ kéo dài vào khoảng 20 phút. Giao thừa đến. Mẫn, Hưng, Quang, Hiện, Lý, tất cả đều mang những ống tre liệng dần vào đống lửa. Đó là pháo lệnh giao thừa của Hưng đấy.

Bánh chưng của Lý quả thật là rất ngon – có lẽ cũng ngon nhờ những điều kiện khác nữa, như là không khí đặc biệt của Phương Bối, sự hiểu biết của mọi người, vui vẻ của mọi người và nhất là sự… đói bụng của mọi người. Nói như thế không có hại gì đến cái “uy tín” gói bánh của Lý cả. Mỗi người trong chúng ta phải chúc tất cả mọi người và như thế chúng ta nghe tất cả đến năm mươi bốn câu chúc Tết. Dì Tâm Huệ tỏ vẻ nhiều e thẹn nhất dù dì lớn tuổi bằng dì của tất cả chúng ta, và dì đã chúc cho tất cả những câu chúc đơn sơ mà chân thành cảm động.

Tôi nhớ suốt ngày mồng một Tết các cậu đã chia thành hai ba toán rủ nhau đi chơi thám hiểm núi rừng. Thầy Thanh Từ chưa có mặt ở Phương Bối trong cái Tết thứ nhất ấy. Nhưng trong cái tết thứ hai, thầy cũng tham dự những trò nghịch ngợm nhất của mọi người. Ở đây ai cũng dễ dàng và sẵn sàng để mà “đồng sự”. Kiểu chào của thầy Thanh Từ cũng thay đổi như tất cả mọi người và cả đến những kiểu sinh hoạt khác như đi núi, trồng cây, cắm trại nữa.

[…]

Nguyên Hưng ơi, vì nghĩ như thế nên chúng ta đã làm việc tích cực trong thời gian ở Phương Bối. Tuy rằng chúng ta có những buổi thám hiểm núi rừng, những ngày cắm trại, những buổi bình văn, và tuy rằng tất cả những sinh hoạt ấy đều rất thú vị, chúng ta cũng đã để rất nhiều thì giờ vào việc học tập, tra cứu, viết lách. Lý thường thức rất khuya trên đống bản thảo. Còn tôi tuy sức khỏe không cho thức khuya, tôi cũng làm thật nhiều việc. Ngoài sự sưu tầm, viết lách tôi đã khởi thảo bộ Phật học từ điển. Công việc này dở dang; trước khi đi, tôi đã giao lại cho một số các bạn trẻ ở Phật học viện Nha Trang tiếp tục. Tôi rất sung sướng nghĩ đến những buổi học nơi nhà Thượng hay ở thư viện. Nguyên Hưng và Thanh Tuệ đã làm việc rất siêng năng. Ngoài những môn học thường nhật, thỉnh thoảng tôi ưa giảng cho Hưng và Tuệ về những đề tài đặc biệt. Tôi chắc Nguyên Hưng còn nhớ hôm tôi đem giảng những đoạn trong Cựu Ước. Những cuộc hội thảo xảy ra luôn luôn, một cách tự nhiên và Lý có vẻ hùng biện hơn ai hết. Nói thế chứ nhiều khi tôi cũng hay “bắt nạt” Lý lắm, phải không Nguyên Hưng? Thầy Thanh Từ thì ít nói, hay cười hiền lành. Tuy vậy thỉnh thoảng chúng tôi cũng bắt thầy điều khiển những buổi hội thảo. Tôi nhớ có một lần thầy hướng dẫn hội thảo về thiền. Lần này có một nhóm Sinh viên Phật tử ở Saigon lên thăm và tham dự.

Triều Quang ít nói trong các buổi hội thảo, nhưng hễ nói thì nói những điều có thể gây nên những “vấn đề lớn”. Quang rất say mê làm việc ngoài rừng. Cậu ta dọn một khoảng thật đẹp ở khu rừng trước mặt, sửa sang cho thật xinh, và gọi đó là nội cỏ thiên đường. Quang rất thích nuôi một con bò, ý định ấy được vài người trong chúng ta tán thành. Tuệ cười nói: “Vậy thì sẽ có sữa nóng uống buổi sáng.” Còn tôi thì ngại ông Ba Mươi. Nuôi một con bò con tức là mời các ông Ba Mươi tới viếng thăm ban đêm.

Một hôm Quang trông thấy những người Thượng đi ngang, mang theo một con nai nhỏ. Con nai bị trói lại trông rất đáng thương. Quang nhất định mua con nai ấy để nuôi trong nội cỏ thiên đường. Lần này không ai ngăn cản Quang cả. Nhưng con vật, tuy được cởi trói và đối đãi thật tử tế, vẫn không chịu ăn bất cứ một thứ gì. Ba bốn hôm liền như vậy. Đến hôm thứ tư, Quang thử cho uống sữa. Con vật thích lắm. Nó uống sữa xong, đi chơi quanh quẩn trong nội cỏ. Nhưng đến sáng mai, không ai tìm thấy nó nữa. Nó đã trở lại núi rừng.

[…]

Nguyên Hưng ơi, mùa hè năm ấy, bao nhiêu việc buồn đã xảy đến cho chúng ta. Chị Diệu Âm ốm nặng phải chở lên điều trị tại bệnh viện của bác sĩ Sohier. Lý bị bắt. Tôi phải trốn về Saigon.

Phương Bối bị đe doạ. Tuệ Hưng và tất cả những người ở Phương Bối bị bắt buộc phải rời bỏ Phương Bối để vào trong ấp chiến lược. Công an nghi rằng chúng ta đang làm gì ở miền núi rừng nên cứ đến Phương Bối để hỏi thăm, dò la. Những người công an này lộ liễu lắm bởi vì trông tướng mạo họ và nghe một vài câu hỏi của họ, ta đã có thể biết ngay rằng họ là công an rồi. Đột nhiên chúng ta mất hết những an tĩnh của chúng ta. Phương Bối bị đe doạ trầm trọng. Chúng ta chứng kiến cảnh thiên đường bị mất dần dần.

[…]

Tuệ đã lại đi dạy học lại và chỉ về Phương Bối vài lần trong một tuần. Ấp chiến lược được thiết lập bên xa lộ. Ban đầu thầy Thanh Từ, Tuệ và dì Tâm Huệ còn nán ở lại, nhưng sau đó ít lâu, mỗi người cũng phải tản mát một nẻo. Thầy Thanh Từ cũng đã về Phú Lâm lâu rồi. Thanh Tuệ và dì Tâm Huệ cũng phải tạm trú ở Đại Hà thỉnh thoảng mới vào thăm Phương Bối. Tội nghiệp cho Thiền Duyệt thất. Tội nghiệp cho nhà Thượng. Tội nghiệp cho từng lá cây ngọn cỏ.

Tôi nhớ trước ngày đi, tôi có lên Phương Bối thăm một cách đột ngột. Tôi ngủ lại một đêm. Buổi sáng hôm ấy trời đầy sương lạnh lẽo. Tôi giã từ thầy Thanh Từ, giã từ Phương Bối, giã từ những cuốn sách của tôi, tôi để lại cho thầy Thanh Từ một bài ngũ ngôn, như một bài chúc tụng như sau:

Gối nhẹ mây đầu núi
Nghe gió thoảng hương trà
Thiền duyệt tâm bất động
Rừng cây dâng hương hoa
Một sáng ta thức dậy
Sương lam phủ mái nhà
Hồn nhiên cười tiễn biệt
Chim chóc vang lời ca
Đời đi về muôn lối
Quan san rộng hải hà
Chút lửa hồng bếp cũ
Ấm áp bóng chiều sa
Đời vô thường vô ngã
Người khẩu Phật tâm xà
Niềm tin còn gửi gắm
Ta vui lòng đi xa
Thế sự như đại mộng
Quên tuế nguyệt ta đà
Tan biến dòng sinh tử
Duy còn Ngươi với Ta.

Thầy Thanh Từ xem xong rất cảm động. Tôi nói: “Tôi đi rồi lại về.” Và ở bên này có rất nhiều khi tôi nhớ thầy, một hôm đọc Ngữ lục tôi thấy có câu:

Trương kiến kha kha tiếu
Viên lâm lạc diệp đa.

Và bất giác nhớ hình ảnh Phương Bối quá. Tôi dịch hai câu ấy ra như sau:

Gặp nhau cười ha hả
Lá rụng ngập vườn rừng.

Có phải là khi nào đi từ cầu Mai đến đồi Thượng mà gặp nhau, chúng ta cũng thấy như thế phải không Nguyên Hưng?

Nhưng hết rồi, hết rồi, Phương Bối đã lọt ra khỏi tầm tay của chúng ta rồi. Tội nghiệp cho từng gốc cây, từng bụi cỏ, từng lối mòn. Một người hiền hoà như thầy Thanh Từ mà cũng không được ngồi yên để toạ thiền trong lòng Phương Bối nữa! Chúng ta còn lại gì cho ngày mai? Mỗi người một ngả. Phương Bối đã tủi thân đến mức độ nào? Chiếc nhà Thượng có đứng vững được trước gió mưa cho đến khi chúng ta trở về hay không?Nhưng mà Nguyên Hưng, không biết sao tôi cứ tin rằng chúng ta không bao giờ mất Phương Bối. Phương Bối vẫn còn đó, vẫn chịu đựng biệt ly cũng như tất cả chúng ta hiện đang mỗi người một nẻo, cũng chịu biệt ly. Phương Bối đã trở nên thực tại trong lòng người. Phương Bối đã chiếm chỗ linh thiêng trong lòng chúng ta. Ở bất cứ phương trời nào, nghe đến Phương Bối là ta cảm động. Bữa trước viết cho Mẫn tôi nói: “Dù cho phong ba bão táp có đánh bạt chúng ta mỗi người một ngã thì niềm tin vẫn đưa chúng ta về trả lại cho nhau.”