Hãng Thông Tấn CNN giới thiệu Làng Mai

Theo Kornfield, điều quan trọng hơn hết là bạn cần tìm “một nơi có nhiều tình thương yêu và tất cả những gì mà mọi người ở đó làm đều chứa đựng năng lượng từ bi”.

Ngày 25/6 vừa qua, Hãng Thông tấn CNN (Mỹ) đã giới thiệu 10 trung tâm tu học tốt nhất trên thế giới trong đó Trung tâm tu học Làng Mai, nước Pháp đứng vào vị trí số hai. Sau đây là phần giới thiệu của CNN:

Theo Thiền sư Thích Nhất Hạnh – vị Thiền sư người Việt được Mục sư Martin Luther King Jr. đề cử giải Nobel Hòa bình thì sự thực tập chánh niệm, nuôi dưỡng sự tỉnh giác, sáng tỏ chính là cách để chúng ta có thể duy trì sự truyền thông với chính mình và với mọi người.

“Khi ta có chánh niệm về một cái gì thì tâm ý của ta tập trung vào đối tượng đó và năng lượng của sự định tâm có thể giúp ta nhìn sự vật hoặc sự việc với mặt mũi đích thực của chúng, và ta sẽ khám phá ra được tính tương tức của vạn vật”, đó là lời chia sẻ gần đây của Thiền sư Thích Nhất Hạnh với tạp chí Shambhala Sun.

Trung tâm Làng Mai ở miền Nam nước Pháp – nơi cư trú của Thiền sư cùng với khoảng 200 quý thầy và quý sư cô –  luôn chào đón các bạn thiền sinh đủ mọi lứa tuổi đến tu học.

Một điều đặc biệt ở Làng Mai là trong tuần sẽ có một ngày hoàn toàn không có thời khóa, còn được gọi là ngày làm biếng.

Dưới đây là 10 trung tâm tu học được CNN giới thiệu là tốt nhất thế giới:

  1. Trung tâm Spirit Rock, bang California, nước Mỹ (Jack Kornfield là một trong những thành viên sáng lập và là giảng viên của trung tâm này): xin xem thêm tại www.spiritrock.org
  2. Trung tâm tu học Làng Mai, nước Pháp: www.plumvillage.org / www.langmai.org / villagedespruniers.net
  3. Trung tâm Dharamsala, Ấn Độ với sự giảng dạy của Đức Đa Lai Lạt Ma: www.buddhapath.com
  4. Chương trình giảm stress bằng chánh niệm tại Glenview Hotel và Leisure Club, Ireland do Jon Kabat-Zinn hướng dẫn: xin xem thêm tại trang www.umassmed.edu
  5. Trung tâm tu học Phật giáo ở KwaZulu-Natal, Nam Phi: www.brcixopo.co.za
  6. Trung tâm Suan Mokkh, Chaiya, Thái Lan: www.suanmokkh-idh.org
  7. Trung tâm Ala Kukui, Hawaii: www.alakukui.org
  8. Trung tâm Assisi Retreat Home & Hermitage, Assisi, Italy: www.assisiretreats.org
  9. Tu viện Gampo Abbey, Nova Scotia, Canada: www.gampoabbey.org
  10. Trung tâm Kripalu, Massachusetts, Mỹ: www.kripalu.org

 

Theo CNN:

Du lịch mạo hiểm không phải lúc nào cũng là lướt sóng hay chinh phục các đỉnh núi cao, đôi khi đó là hành trình hướng vào bên trong để khám phá thế giới nội tâm trong chính chúng ta.

Có thể nhiều người trong chúng ta cảm thấy không mấy hấp dẫn khi nghĩ đến chuyện phải đi một chặng đường dài để đến một nơi xa lạ và ngồi trong yên lặng với biết bao nhiêu là người mà mình không hề quen biết. Tuy nhiên, đối với những ai đang trong cuộc hành trình khám phá nội tâm thì các khóa tu thiền có thể mang lại cho bạn rất nhiều điều bổ ích.

Trong bất cứ nền văn hóa tiến bộ nào, người ta cũng đều biết rằng có những lúc chúng ta cần phải đi vào trong sa mạc hay lên những đỉnh núi cao hoặc tham gia những khóa tĩnh tu để lắng nghe chính mình” – đó là lời chia sẻ của Jack Kornfield, một giảng viên về thiền và cũng là tác giả của những cuốn sách như “The Wise Heart” (Trái tim hiểu biết) và “Bringing Home the Dharma” (Mang pháp môn tu học về nhà).

Làm cho tâm yên lắng, mở lòng ra và lắng nghe thật sâu, đó là điều thật sự hữu ích cho hầu hết mọi người trong vòng quay không ngừng của cuộc sống”.

Có thể bạn sẽ lo lắng về một tuần không ăn thịt, không được chuyện trò thoải mái hoặc thức dậy muộn, điều này cũng dễ hiểu thôi. Nhưng những ai can đảm và quyết chí sẽ được đền bù xứng đáng.

Hầu hết mọi người khi đến tham gia khóa tu đều cảm thấy thích thú. Những điều mà ban đầu họ coi là khó khăn, chẳng hạn như sự thực tập im lặng trong khóa tu, thì ngay sau đó họ nhận ra rằng đó chính là một món quà tuyệt diệu”, Kornfield chia sẻ.

Mỗi trung tâm tu học đều có quy định riêng, tuy nhiên có thể nhiều trung tâm tu học sẽ yêu cầu bạn thực tập im lặng trong suốt thời gian hoặc hầu hết thời gian tu học ở đó.

Một nguyên tắc quan trọng là bạn cần phải tìm đến những vị thầy có danh tiếng, xuất thân từ một truyền thống tu học lâu đời, không nên nương tựa vào những người tự xưng là thiền sư.

Bạn nên có cái nhìn thực tế về nhu yếu thể chất cũng như nhu yếu về tiện nghi ăn, ở của chính mình. Những điều kiện sống đơn giản, thiếu thốn một chút có thể sẽ làm phát sinh tuệ giác, giúp cho bạn thấy rõ sự khác nhau giữa những gì bạn muốn và những gì bạn thực sự cần.

Tại các thiền viện Phật giáo, thời khóa tu học thường bắt đầu từ sáng sớm. Có thể bạn sẽ được yêu cầu làm một số công việc nhẹ như gọt cà rốt trong chánh niệm hay dọn dẹp nơi ở của mình.

Theo Kornfield, điều quan trọng hơn hết là bạn cần tìm “một nơi có nhiều tình thương yêu và tất cả những gì mà mọi người ở đó làm đều chứa đựng năng lượng từ bi“.

___________________________

Nguồn 10 of the world’s best meditation retreats, Rebecca L. Weber, June 25, 2013 – Sư cô Tại Nghiêm chuyển ngữ

 

    Giải quyết xung đột giữa các nhà chính trị – những gợi ý của một Thiền sư



    Được chuyển ngữ từ bài viết

    Thai monk plans to reconcile warring politicians

    của tác giả Phatarawadee Phataranawik đăng trên báo
    The Nation của Thái Lan, số ra ngày 28/4/2013


     

    Những cơn gió mát thổi nhè nhẹ, những chú chim đang ca hót líu lo trong một ngày chủ nhật đẹp trời tại Nakhon Ratchasima thuộc huyện Pakchong, Thái Lan. Đây thực sự là ngày lý tưởng cho một cuộc phỏng vấn hiếm hoi với Thiền sư Thích Nhất Hạnh – một thiền sư người Việt nổi tiếng thế giới.

    Hôm đó, chỉ có ba phóng viên có mặt ở tu viện Làng Mai Quốc tế Thái Lan, “chi nhánh” của Làng Mai tại Thái – Làng Mai là một trung tâm thiền tập do Thiền sư Thích Nhất Hạnh thành lập ở miền Nam nước Pháp. Tu viện tại Pakchong chỉ mới được xây dựng nhưng các thầy, các sư cô Làng Mai đã đến ở đây được năm tuần rồi. Chúng tôi được mời vào trong một cái thất làm bằng tre và ngồi yên chờ đợi. Một lúc sau, Thiền sư nhẹ nhàng bước vào.

    Theo lời của Thiền sư, chúng tôi ngồi thiền một chút trước khi bắt đầu cuộc phỏng vấn, như vậy sẽ giúp chúng tôi có thể hiểu sâu hơn những lời chia sẻ của Thiền sư về sứ mệnh làm mới đạo Bụt ở Thái Lan cũng như hy vọng về khả năng hàn gắn những chia rẽ về mặt chính trị tại đất nước này. Trong hai tiếng đồng hồ phỏng vấn, vài lần chúng tôi phải dừng lại khi nghe một tiếng chuông vang lên, lúc đó mọi người đều im lặng và trở về theo dõi hơi thở vào – ra, rồi cùng nhau thưởng thức vài ngụm trà trước khi tiếp tục cuộc phỏng vấn.

    Hàng ngàn người đã và đang thực tập theo pháp môn của Thiền sư Thích Nhất Hạnh – một vị thầy đã 87 tuổi, Người chủ trương đưa đạo Bụt trở thành một phần của đời sống hàng ngày, ngay cả trong một thế giới đầy bận rộn mà chúng ta đang sống. Thầy Nhất Hạnh được tôn kính là một vị Thiền sư, một bậc trưởng thượng trong truyền thống đạo Bụt Đại thừa là nhờ vào đường lối “Đạo Bụt nhập thế” và các pháp môn thực tập thiền chánh niệm cùng với sự nghiệp hoạt động vì hòa bình và tài thơ văn của Người.

    Với mong muốn làm sống dậy niềm tin vào đạo Bụt của người dân Thái Lan, Thầy chỉ ra rằng đạo Bụt đã từng là nền tảng của văn minh và sự phát triển của đất nước Thái Lan, “chúng ta mong muốn đạo Bụt sẽ tiếp tục phụng sự đất nước như trong quá khứ”. Nhưng nếu người dân Thái Lan không được hướng dẫn làm thế nào để giáo lý và phương pháp thực tập của đạo Bụt có thể áp dụng vào trong đời sống hiện đại thì “đạo Bụt sẽ đánh mất khả năng phụng sự và giúp ích cho đất nước”. Vì vậy, theo Thầy Nhất Hạnh, việc làm mới đạo Bụt là nhiệm vụ của mọi công dân, mọi Phật tử Thái Lan.

    “Các pháp môn thực tập của đạo Bụt có thể giúp chúng ta bảo vệ hòa bình, tháo gỡ những chia rẽ, làm cho mọi người truyền thông với nhau dễ dàng hơn, đồng thời giúp làm lắng dịu những căng thẳng và xung đột chính trị, thậm chí có thể giúp cho các nhà doanh thương thành công hơn. Các pháp môn của đạo Bụt còn có thể giúp giảm nhẹ gánh nặng của các nhà giáo, cải thiện chất lượng dạy và học, đồng thời giúp cho học sinh bớt căng thẳng và khổ đau. Một đạo Bụt được làm mới sẽ mang lại lợi ích cho tất cả mọi người.”

    Thầy Nhất Hạnh chia sẻ rằng Thầy và các đệ tử của mình đã hướng dẫn tu tập và trị liệu cho các chính trị gia ở nhiều quốc gia trên thế giới và đã đem được phương pháp chế tác bình an, hiểu biết và thương yêu của đạo Bụt vào trong mọi lĩnh vực của đời sống. Các nhà báo cũng cần phải tham gia các khóa tu và thực tập thiền, Thầy nhấn mạnh với chúng tôi. “Chúng tôi cần những nhà báo như các anh để làm cho đạo Bụt tươi mới và hữu ích hơn.”

    Thầy nói rằng trong quá khứ người Thái thường tìm đến các ngôi chùa ở địa phương – nơi đóng vai trò trung tâm của cộng đồng – để tìm những lời chỉ dẫn cho các vấn đề khó khăn trong cuộc sống. Các ngôi chùa còn giữ vai trò nòng cốt trong việc giáo dục và chăm sóc sức khỏe cho cộng đồng. “Nhưng bây giờ đạo Bụt đã đánh mất vai trò đó, bởi vì chúng ta đã không có khả năng làm mới đạo Bụt”.

    “Điều này không chỉ là vấn đề của Thái Lan, mà còn của tất cả các quốc gia Phật giáo như Sri Lanka, Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc. Đạo Bụt đang bị suy tàn và đó là lý do vì sao chúng ta cần phải bảo vệ di sản quý giá này.”

    Một nhiệm vụ khác cũng khó khăn không kém, đó là việc hòa giải xung đột giữa các nhà chính trị Thái Lan. Tuy nhiên, Thầy Nhất Hạnh đã chỉ ra con đường để làm điều đó. Cầm cây bút lên, Thầy vẽ một vòng tròn to tượng trưng cho nhà chính trị, sau đó Thầy vẽ thêm ba vòng tròn nhỏ nằm bên trong vòng tròn đó tượng trưng cho gia đình của nhà chính trị. Thầy nói rằng nếu một chính trị gia biết chăm sóc cho gia đình và bảo vệ cho gia đình mình được bình an, không bị nguy hại thì người đó cũng sẽ có khả năng làm như vậy đối với đất nước, dân tộc mình.

    “Một chính trị gia phải biết cách chăm sóc và trị liệu những khổ đau trong chính mình – những cảm xúc giận dữ, sợ hãi, tuyệt vọng và căng thẳng. Nếu một chính trị gia không biết làm gì với khổ đau của mình thì làm sao có thể giúp được người khác? Để hiểu được khổ đau của người khác, trước tiên chúng ta phải hiểu khổ đau của chính mình. Vì vậy, chúng ta phải thực tập trước, sau đó mới đi ra giúp đỡ người khác. “

    Theo Thầy Nhất Hạnh, nếu chính trị gia có một gia đình hạnh phúc thì người đó sẽ có khả năng xây dựng một đảng phái chính trị hòa hợp và có nhiều thương yêu.  Thầy vẽ tiếp một vòng tròn khác lớn hơn tượng trưng cho người lãnh đạo đảng và xung quanh là những vòng tròn nhỏ tượng trưng cho các thành viên của đảng.

    “Đạo Bụt có thể hiến tặng một phương pháp thực tập cụ thể để trị liệu cho các nhà chính trị”, Thầy nhấn mạnh.

    “Bên phải thì hoàn toàn khác với bên trái. Ta không thể đem bên phải qua bên trái được. Tuy nhiên, bên phải hay bên trái cũng đều không thể tồn tại một cách biệt lập. Ta không thể lấy bên phải đem về Chiềng Mai và lấy bên trái đem về Băng Cốc được. Bên trái dựa vào bên phải để tồn tại, cũng như bên phải dựa vào bên trái để tồn tại. Chúng tương tức với nhau. Các đảng phái chính trị cũng tương tự như vậy.”

     

    Trong suốt năm tuần tại Thái Lan, Thầy Nhất Hạnh cùng 50 đệ tử đến từ Pháp đã tổ chức một loạt khóa tu nằm trong chương trình hoằng pháp tại Á Châu do Quỹ Làng Mai tại Thái Lan (Thai Plum Village Foundation) tổ chức. Đây là lần thứ năm Thầy Nhất Hạnh đến Thái Lan. Hơn 2000 người đã tham dự các khóa tu tại đây và Thầy Nhất Hạnh đã dành riêng một khóa tu để hướng dẫn tu tập cho các chính trị gia.

    Sau cuộc phỏng vấn với Thầy Nhất Hạnh, chúng tôi được mời ăn trưa trong nhà ăn với những thức ăn chay mà các thầy, các sư cô ở đây vẫn thường dùng mỗi ngày. Ngay cả trong nhà ăn, chúng tôi cũng cảm nhận được năng lượng bình an, tĩnh lặng vốn bao trùm cả Trung tâm Tu học Làng Mai Quốc tế Thái Lan.

    Trên các bức tường có treo những tấm mành tre trên đó là những dòng thư pháp của Thầy Nhất Hạnh như: “Present Moment, Beautiful Moment” (An trú trong hiện tại, Giờ phút đẹp tuyệt vời) và “Peace in Oneself, Peace in the World” (Bình an trong ta chính là bình an cho thế giới).

    Tại Trung tâm tu học quốc tế Làng Mai, các thầy, các sư cô duy trì nếp sống bền vững, thân thiện với môi trường. Họ tự trồng trọt lấy rau quả sau những giờ công phu tụng kinh và ngồi thiền. Được thành lập năm 2007, Quỹ Làng Mai tại Thái Lan vẫn đang tiếp tục đầu tư vào việc xây dựng trung tâm tu học tại Pakchong. Hiện nay đã có hơn 160 vị xuất sĩ quốc tịch Việt Nam, Mỹ, Trung Quốc (Hồng Kông) và Thái Lan đang tu học tại trung tâm này.

    Chuyến thăm Thái Lan đầu tiên của Thầy Nhất Hạnh là vào năm 1975, khi cuốn sách đầu tiên của Thầy “Phép lạ của sự tỉnh thức” được xuất bản tại Thái Lan. Thầy quay trở lại Thái Lan cùng với Tăng đoàn Làng Mai vào năm 2007 khi Thái Lan đăng cai tổ chức Đại lễ Phật Đản Liên hiệp quốc (World Visakha Bucha Day) và Thầy đã cho pháp thoại tại Băng Cốc, Chiềng Mai và Nakhon Pathom. Thầy cũng đã quay lại Thái Lan vào năm 2010 và 2011.

    Chuyến đi Thái Lan lần này của Thầy Nhất Hạnh chủ yếu là để thúc đẩy việc xây dựng Trung tâm tu học tại Pakchong. Cũng giống như các trung tâm tu học của Làng Mai tại miền Nam nước Pháp, Mỹ, Đức và Hồng Kong, trung tâm tu học Làng Mai Quốc tế Thái Lan đã trở thành ngôi nhà thân thương của một tăng thân “tứ chúng”, gồm có các thầy, các sư cô, cư sĩ nam và cư sĩ nữ cùng tu tập với nhau.

    Hiện giờ Thầy Nhất Hạnh đã có hơn 500 đệ tử xuất gia đến từ 20 quốc gia và khoảng 1000 tăng thân cư sĩ tu tập theo pháp môn Làng Mai tại 31 quốc gia trên thế giới.

     

    Sư cô Tại Nghiêm chuyển ngữ

    Không cần phải là Phật tử mới có thể thọ năm giới

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh chia sẻ với Andrea Miller, Shambhala Sun, số ra tháng Giêng 2013, rằng: “Ai cũng có thể thực tập theo Năm giới – năm phép thực tập chánh niệm” để sống một cuộc đời đầy hiểu biết và thương yêu. Dưới đây là bài ghi lại cuộc phỏng vấn Thiền sư do Adrea Miller thực hiện tại Làng Mai.

     

    Sư cô Chân Tại Nghiêm chuyển dịch theo nguyên bản tiếng Anh “You don’t need to be a Buddhist“,
    Shambhala Sun, January 2013.

     

    Tại sao Thầy nói rằng không cần phải là Phật tử mới có thể nhận Năm giới?

    Bạn không cần phải là một Phật tử mới có thể tư duy bằng hiểu và thương. Bạn không cần phải là một Phật tử mới có thể nói những lời dễ thương và đầy từ bi. Vì vậy chúng tôi có thể nói rằng Năm giới – năm phép thực tập chánh niệm là những giá trị đạo đức mang tính toàn cầu, dành cho cả những người Phật tử và những người không phải là Phật tử.

    Pháp môn thực tập chánh niệm rất là cụ thể. Bạn không thể chỉ nói về các phương pháp này mà bạn cần phải thực tập, phải sống với chúng. Nếu bạn đã đến Làng Mai tu tập một thời gian thì khi về, có thể bạn cũng muốn mang sự thực tập ở Làng Mai về nhà và làm cho gia đình của mình trở thành một tăng thân nhỏ như kiểu Làng Mai – có nghĩa là bạn và gia đình cùng tụng giới chung với nhau, cùng tập thở, tập ngồi và ăn cơm như thế nào để chế tác được hạnh phúc và làm vơi bớt khổ đau của chính mình và của mọi người.

    Con được biết năm giới là phương pháp thực tập cụ thể của bát chánh đạo – tám sự hành trì chân chính – gồm có: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định. Xin Thầy giải thích cụ thể hơn về điều này.

    Chánh kiến là cái thấy về tương tức, vượt thoát mọi sự phân biệt, kỳ thị. Và nhờ có cái thấy về tương tức mà ta có được chánh tư duy. Chánh tư duy là cách tư duy không có sự phân biệt, kỳ thị. Khi bạn khởi lên một ý nghĩ theo hướng chánh tư duy thì ý nghĩ đó sẽ mang đầy chất liệu hiểu biết và thương yêu. Nó có công năng trị liệu cho chính bạn và cho thế giới. Với chánh kiến – tức là với tuệ giác tương tức – bạn cũng có thể thực tập chánh ngữ. Bất cứ điều gì bạn nói ra hoặc viết xuống, dù đó là một email, một bài viết hay một bài thơ cũng đều có thể biểu hiện tinh thần không kỳ thị. Điều đó có nghĩa là những gì bạn nói và viết đều hoàn toàn thoát khỏi những chia rẽ, sợ hãi và hận thù. Nó chứa đầy chất liệu từ bi và hiểu biết. Chỉ bằng sự thực tập chánh ngữ, bạn cũng có thể chữa lành cho chính mình và cho thế giới này. Còn chánh nghiệp là những hành động do thân thể bạn làm ra. Nếu bạn không kỳ thị, không sợ hãi thì bất cứ điều gì bạn làm cũng có thể giúp duy trì sự sống của hành tinh này.

    gioi tu 5 gioi danh le

    Các giới tử Năm giới đảnh lễ – chùa Pháp Vân, Xóm Thượng

    Thầy nói rằng hành động, lời nói và ý nghĩ là sự tiếp nối của chúng ta. Điều đó có nghĩa là gì?

    Những gì bạn nghĩ, bạn nói và bạn làm chính là sự tiếp nối của bạn – đó là một loại năng lượng tồn tại trong một thời gian dài. Khi thân này đã tàn hoại, bạn sẽ vẫn được tiếp nối bởi ba loại năng lượng mà bạn chế tác ra mỗi ngày. Sau khi bạn rời bỏ hình tướng này, bạn sẽ mang một hình tướng khác bởi vì năng lượng mà bạn chế tác ra sẽ biểu hiện thành những hình tướng mới.

    Giống như một đám mây. Khi đám mây không còn là đám mây nữa, nó sẽ biểu hiện thành một cái gì khác, chẳng hạn như mưa, hay tuyết hoặc mưa đá. Vì vậy  khi không nhìn thấy đám mây trên trời, bạn không thể nói là đám mây không còn đó nữa. Nó vẫn còn đó, nhưng dưới những hình tướng khác mà thôi. Điều này cũng đúng đối với con người chúng ta.  Khi bạn không còn biểu hiện dưới hình hài này nữa thì chính các hành động bằng thân, bằng ý nghĩ và bằng lời nói – hay còn gọi là nghiệp (karma) – sẽ là sự tiếp nối của bạn. Đó là lý do tại sao khi bạn thực tập niệm, định và tuệ thì chắc chắn bạn sẽ có một sự tiếp nối đẹp đẽ trong tương lai.

    Thầy có hy vọng gì cho tương lai của Làng Mai?

    Chúng tôi không lo lắng cho tương lai. Chúng tôi chỉ lo cho hiện tại bởi vì chúng tôi biết rằng nếu trong giây phút hiện tại chúng tôi đã làm hết sức mình thì như vậy là quá đủ rồi. Đó là tất cả những gì chúng tôi có thể làm cho tương lai. Tương lai tùy thuộc vào hiện tại, vì vậy nếu ta để hết tâm trí vào những gì ta đang làm trong giây phút hiện tại, thì chúng ta luôn có hy vọng cho tương lai. Còn nếu trong giây phút hiện tại mà chúng ta cảm thấy tuyệt vọng, bất lực thì sẽ không có hy vọng gì cho tương lai cả. Sự sống của hành tinh này có thể duy trì được hay không đều tùy thuộc vào ngày hôm nay của chúng ta, tùy thuộc vào cách sống trong hiện tại của chính chúng ta.

    Xin xem bài cùng một đề tài của Andrea Miller “Xứ sở của giây phút hiện tại”

    Hạnh phúc bây giờ và ở đây

     

    Trong chuyến hoằng pháp mới đây tại Thái Lan, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã có buổi nói chuyện tại trường Đại học Thammasat với chủ đề “Những phép lạ của phút giây hiện tại” (The Miracles of the Present Moment). Trong buổi nói chuyện này, Thiền sư đã chia sẻ về hơi thở ý thức, về phương pháp lắng nghe sâu và sử dụng ngôn từ hòa ái như là những phương pháp có công năng trị liệu, mang lại cho chúng ta khả năng hiểu biết và thương yêu đối với bản thân mình và đối với mọi người, mọi loài. Thông điệp của Thiền sư về tính bất nhị và tương tức – một trong những giáo lý căn bản của đạo Bụt, cũng có tác dụng gợi mở cho đất nước Thái Lan vốn đang bị chia rẽ về chính trị và sắc tộc về một hướng tiếp cận của đạo Bụt cho một nền hòa bình trên thế giới, đồng thời giúp cho hai truyền thống của đạo Bụt – truyền thống Nam Tông (Theravada) và truyền thống Bắc Tông (Mahayana) – xích lại gần nhau theo tinh thần bất nhị. Sau đây là phần trích đoạn (đã được biên tập) từ bài pháp thoại của Thiền sư:

    thich-nhat-hanh-jpgHồi tôi mới đi tu, lúc 16 tuổi, thầy tôi có trao cho tôi một quyển sách gồm 60 bài thi kệ để học thuộc lòng. Bất kỳ vị xuất gia nào cũng phải học thuộc các bài thi kệ này để thực tập chánh niệm. Bài thi kệ đầu tiên là bài  thức dậy buổi sáng:

    “Thức dậy miệng mỉm cười
    Hai bốn giờ tinh khôi
    Xin nguyện sống trọn vẹn
    Mắt thương nhìn cuộc đời.”

    Tất cả các bài thi kệ đều có bốn câu. Mỗi câu của bài thi kệ đi theo một hơi thở, câu đầu đi với hơi thở vào, câu thứ hai đi với hơi thở ra. Khi mình thở vào, thở ra và thầm đọc bài kệ, mình sẽ ý thức được rõ ràng mình thực sự đang làm gì. Buổi sáng khi chúng ta thức dậy, chúng ta nhận ra là mình đang còn sống và sự sống đang có mặt xung quanh ta. Chúng ta nhận ra 24 giờ là một món quà của sự sống và chúng ta nguyện sống thật sâu sắc với những giờ phút quý báu này.

    Khi chúng ta thực tập như vậy, hạnh phúc sẽ đến với chúng ta ngay tức thì. Đối với tôi, sự kiện rằng mình đang còn sống là một điều kỳ diệu; chỉ bấy nhiêu đó thôi cũng đủ để ta ăn mừng rồi. Vì vậy, chỉ cần thở vào và ý thức rằng mình đang còn sống đã là một phương pháp thực tập giúp mang lại hạnh phúc rồi.

    Còn có một bài thi kệ để thực tập khi chải răng. Khi thực tập bài thi kệ này, chúng ta có thể biến hai hay ba phút chải răng thành những giây phút hạnh phúc. Tôi nay đã trên 80 tuổi, vậy mà mỗi lần chải răng tôi vẫn thấy vui. Tôi nghĩ thật là hạnh phúc quá chừng, ở tuổi này rồi mà tôi vẫn còn răng để chải!
    Tôi cũng có làm thêm những bài thi kệ mới để thực tập. Khi tôi còn là một sadi, ở Việt Nam thời đó, người tu không đi xe hơi, thậm chí là không lái xe đạp. Tôi là người tu đầu tiên ở Việt Nam sử dụng xe đạp. Vì vậy mà tôi có làm một bài kệ để thực tập khi lái xe đạp. Sau này tôi có làm thêm nhiều bài thi kệ mới, chẳng hạn như bài kệ dùng khi sử dụng điện thoại hoặc khi đi máy bay.

     

    ts-thich-nhat-hanh-jpgSử dụng những bài thi kệ này luôn mang lại cho tôi nhiều hạnh phúc. Những bài thi kệ có tác dụng giúp cho ta ý thức về những gì ta đang làm trong giây phút hiện tại và chúng ta có thể làm những việc đó với nhiều niềm vui. Bụt có chỉ dạy cho chúng ta một giáo pháp mà tôi cho là rất quan trọng, đó là giáo pháp Hiện pháp Lạc trú. Theo giáo pháp này, chúng ta đã có đầy đủ, nếu không muốn nói là quá dư thừa, những điều kiện để có hạnh phúc ngay trong hiện tại. Chúng ta không cần đi tìm kiếm hạnh phúc ở tương lai. Nếu chúng ta biết đem tâm trở về với thân và thiết lập thân tâm hợp nhất trong giây phút hiện tại thì chúng ta sẽ nhận ra rằng chúng ta đã có quá đủ những điều kiện để hạnh phúc ngay bây giờ và ở đây.

    Nhiều người trong chúng ta tin rằng hạnh phúc chưa thể có được trong hiện tại và cần phải có nhiều điều kiện hơn nữa thì ta mới thực sự hạnh phúc. Đó là lý do tại sao chúng ta cứ tiếp tục chạy theo những đối tượng mà mình tìm cầu. Làm như vậy thì chúng ta khổ. Bụt khuyên chúng ta nên trở về với giây phút hiện tại để tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống đang có sẵn cho ta ngay trong giây phút này. Trong nhiều kinh, Đức Thế Tôn đã dạy rằng quá khứ đã đi qua, tương lai thì chưa tới; chỉ có duy nhất một giây phút mà ta có thể thực sự sống, đó là giây phút hiện tại.
    Một ngày nọ, có một thương gia đến thăm Bụt. Đi cùng với ông còn có vài trăm thương gia khác. Hôm đó, Bụt đã thuyết giảng cho họ nghe về giáo pháp Hiện pháp Lạc trú. Bụt biết rất rõ rằng các vị thương gia này đang lo nghĩ quá nhiều về những thành tựu trong tương lai. Họ không có thời gian cho chính mình và cho những người mà họ thương yêu. Vì vậy mà Bụt đã dạy rằng, “Này các vị, các vị đừng tìm kiếm hạnh phúc ở tương lai. Hạnh phúc đang có sẵn cho quý vị ngay bây giờ và ở đây.”

    Trong kinh Quán Niệm Hơi Thở, Bụt đã chỉ bày cho chúng ta những bài thực tập cụ thể giúp chế tác niềm vui (hỷ) và hạnh phúc (lạc). Bài thực tập thứ năm chỉ cho chúng ta phương pháp để chế tác hỷ và bài thực tập thứ sáu chỉ cho chúng ta phương pháp để chế tác lạc. Giáo pháp của Đức Thế Tôn về phương pháp chế tác an lạc, hạnh phúc là một giáo pháp rất rõ ràng và sâu sắc. Nếu chúng ta biết cách tạo ra năng lượng niệm và định thì chúng ta có thể tiếp xúc với vô vàn những điều kiện hạnh phúc đang có mặt cho ta ngay bây giờ và ở đây. Chẳng hạn như khi chúng ta tiếp xúc với hai mắt: “tôi đang thở vào và có ý thức về hai mắt của tôi; tôi đang thở ra và mỉm cười với hai mắt tôi”. Khi ta thực tập như vậy thì tuệ giác sẽ phát sinh. Chỉ trong hai hay ba giây là ta có thể nhận thấy rằng đôi mắt của mình vẫn còn tốt, còn sáng. Chuyện hai mắt mình vẫn còn sáng là một điều mầu nhiệm, một phép lạ. Một thiên đường của màu sắc và hình ảnh đang có mặt cho mình. Khi mình ngồi trên bãi cỏ, chỉ cần mở mắt ra là mình có thể tiếp xúc được với thiên đường đó ngay bây giờ và ở đây. Đối với một người bị khiếm thị thì mơ ước sâu sắc nhất của họ là làm sao cho mắt họ sáng lại, để họ có thể tận hưởng được thiên đường của màu sắc và hình ảnh như chúng ta. Vì vậy mà đôi mắt là một trong những điều kiện căn bản để có hạnh phúc. Ta chỉ cần thở vào để thắp sáng ý thức rằng chúng ta đang có một đôi mắt sáng.

    ngoi-thien-langmai-thai-lan-jpgTa cũng có thể thực tập tiếp xúc với trái tim mình: “Tôi đang thở vào và ý thức về trái tim của tôi, tôi đang thở ra và tiếp xúc với trái tim của tôi”. Khi chúng ta sử dụng năng lượng chánh niệm thì chúng ta sẽ khám phá ra trái tim ta đang hoạt động một cách bình thường. Có biết bao nhiêu người không có được trái tim hoạt động bình thường, họ có thể bị nhồi máu cơ tim hoặc đột quỵ bất cứ lúc nào. Điều mong ước sâu sắc nhất của họ là có được một trái tim bình thường như chúng ta. Vì vậy, khi ta thở vào và ý thức về trái tim của mình thì ta tiếp xúc được với một điều kiện hạnh phúc đã có sẵn trong ta.

    Nếu ta cứ tiếp tục thực tập như vậy thì ta sẽ tiếp xúc được với vô vàn những điều kiện hạnh phúc đang có mặt trong ta. Trong kinh Bốn lĩnh vực quán niệm, Bụt dạy ta về phương pháp quán chiếu cơ thể. Theo phương pháp này, ta sử dụng ánh sáng chánh niệm để quán chiếu cơ thể; trong quá trình quán chiếu, ta đi ngang qua và ý thức rõ ràng về tất cả các bộ phận của cơ thể từ đỉnh đầu cho đến các ngón chân.

    Những điều kiện hạnh phúc không chỉ có mặt trong ta mà còn có mặt xung quanh ta. Nếu chúng ta ngồi xuống và lấy ra một tờ giấy để viết xuống tất cả những điều kiện hạnh phúc mà ta đã có thì tôi tin chắc là hai trang giấy dành cho chúng ta sẽ không đủ.

    Theo lời dạy của Đức Thế Tôn, tất cả những gì chúng ta đang tìm cầu đều đã có mặt trong giây phút hiện tại. Những điều kiện chưa phát sinh cũng đã có mặt trong giây phút hiện tại. Nhiều người trong chúng ta bị mắc kẹt trong những ưu sầu và hối tiếc về quá khứ hay những lo lắng và sợ hãi về tương lai. Nếu chúng ta biết phương pháp thực tập hơi thở ý thức và định tâm thì chúng ta có thể đi ra khỏi những khổ đau này và có thể tiếp xúc được với mầu nhiệm của sự sống ngay tức thì.

    lang-mai-khaoy-t-tha-c-tha-i-lan-2010-jpgKhi mình thương một ai đó, điều mà mình muốn hiến tặng cho người đó chính là sự có mặt đích thực của mình. Ta không thể thương một người nếu ta không có mặt cho người đó. Điều quý giá nhất mà ta có thể hiến tặng cho người thương chính là sự có mặt của ta. Với sự thực tập chánh niệm, ta có thể có mặt một cách dễ dàng. Ta chỉ cần thở có chánh niệm hoặc bước một bước chân cho có chánh niệm là ta có thể thực sự có mặt trong giây phút hiện tại, bây giờ và ở đây. Ta có thể nhìn vào mắt người thương của mình và nói: “Ba ơi, con đang có mặt thật sự bên ba đây. Mẹ ơi, con đang có mặt thật sự bên mẹ đây”.

    Sự có mặt của ta, nhất là khi ta có mặt một cách tươi mát và tràn đầy yêu thương là món quà quý giá nhất dành cho những người mà ta thương yêu. Đây là một trong những câu linh chú mà ai cũng có thể thực tập mỗi ngày. Mình thở vào, ý thức rằng mình đang thực sự có mặt và mình nói với người thương rằng mình đang có mặt đó cho họ. Ngay cả khi người đó không có mặt với ta trong lúc này thì ta cũng có thể thực tập câu linh chú bằng điện thoại di động. Có thể người đó đang ở sở làm, mình có thể gọi điện và nói rằng “Ba ơi, ba có biết gì không? Con đang có mặt cho ba đó!”. Hoặc nếu mình đang ở sở làm thì mình có thể gọi điện cho con trai, con gái, cho vợ mình để nói rằng mình đang có mặt cho họ.

    Câu linh chú thứ hai có thể giúp người khác hạnh phúc liền, đó là công nhận sự có mặt của người đó thật quý giá và quan trọng đối với ta. Khi ta thực sự có mặt, ta có thể nhận rõ sự có mặt của người khác. Ta có thể đến gặp người đó và đọc câu thần chú: “Ba ơi, con biết là ba đang còn sống bên con nên con rất hạnh phúc”.

    Với năng lượng chánh niệm, mình cũng có thể nhận ra có điều gì đó bất ổn đang xảy ra với người mình thương. Khi mình biết người thương của mình không hạnh phúc, mình có thể sử dụng câu linh chú thứ ba: “Mẹ ơi, con biết là mẹ đang khổ, cho nên con đang có mặt cho mẹ đây”. Khi mình khổ mà người thương của mình không biết gì hết thì mình càng khổ hơn. Nhưng nếu người đó biết được và đến với mình thì mình bớt khổ liền. Trước khi mình có thể làm gì cho người đó thì sự có mặt của mình thôi cũng đủ giúp người đó vơi bớt rất nhiều khổ đau trong lòng rồi.
    Giáo pháp của Đức Thế Tôn có thể áp dụng ngay trong cuộc sống hàng ngày. Chỉ cần có chánh niệm là mình có thể chế tác được niềm vui và hạnh phúc. Nuôi lớn năng lượng chánh niệm mỗi ngày có thể giúp ta trở thành một nguồn hạnh phúc cho bản thân và cho những người mà ta yêu thương. Năng lượng chánh niệm là suối nguồn của hạnh phúc nhưng năng lượng đó không thể mua được trong siêu thị mà chỉ có thể do chính bản thân ta tự chế tác ra.

    Trong Kinh Quán Niệm Hơi Thở, Bụt cũng dạy chúng ta trở về và tiếp xúc với những khổ đau bên trong chúng ta. Nhiều người trong chúng ta không có đủ can đảm để trở về với chính mình, bởi vì chúng ta sợ phải chạm đến những niềm đau, nỗi khổ trong lòng mình. Hầu hết chúng ta đều tìm cách trốn chạy khỏi những khổ đau của chính mình bằng cách tiêu thụ. Chúng ta đọc tiểu thuyết, xem sách báo, tivi, phim ảnh để khỏa lấp những khổ đau bên trong. Chúng ta không biết làm cách nào để đối diện và chuyển hóa những khổ đau đó. Và vì vậy chúng ta cứ tiếp tục khổ đau và làm cho những người ta thương khổ đau. Chính vì điều này mà trong Kinh Quán Niệm Hơi Thở, Bụt khuyên chúng ta trở về và nhận diện những khổ đau trong ta; đây là bài thực tập thứ bảy trong Kinh Quán Niệm Hơi Thở. Bài thực tập thứ tám là buông bỏ những căng thẳng và sầu khổ. Nếu chúng ta biết cách thực tập hơi thở có ý thức, thực tập đi chánh niệm, lái xe chánh niệm và ăn chánh niệm mỗi ngày thì năng lượng chánh niệm trong ta sẽ đủ mạnh để giúp ta trở về và ôm ấp những lo lắng, sợ hãi trong ta. Nếu chúng ta biết cách ôm ấp nỗi khổ, niềm đau trong ta một cách nhẹ nhàng thì chỉ sau vài phút là những khổ đau đó sẽ vơi đi liền.

    Khi một bà mẹ nghe tiếng con khóc, bà sẽ đến bế đứa trẻ lên và ôm nó vào lòng với tất cả sự trìu mến. Người mẹ đó có thể chưa biết có chuyện gì xảy ra với đứa trẻ, nhưng việc bà bế đứa bé trong tay đã có thể giúp đứa bé bớt khổ ngay lập tức. Năng lượng chánh niệm cũng có tác dụng tương tự như vậy. Chúng ta chưa biết gốc rễ của những niềm đau, nỗi khổ trong ta, nhưng nếu ta có thể ôm lấy niềm đau một cách nhẹ nhàng với năng lượng chánh niệm thì ta có thể nhanh chóng làm vơi nhẹ những khổ đau ấy rồi.

    Trong Kinh về Bốn sự thật mầu nhiệm (Tứ Diệu Đế), Bụt đã chỉ ra cho ta sự thật thứ nhất là khổ, sự thật thứ hai là bản chất của khổ. Nếu chúng ta biết cách lắng nghe sâu những khổ đau trong chính mình thì chúng ta có khả năng hiểu được những gốc rễ đưa tới khổ đau đó. Những ai không thực tập chánh niệm thì sẽ không biết cách đối diện với những khổ đau và lắng nghe chúng. Trên thực tế, chúng ta thường sợ trở về và đối diện với những khổ đau đó. Chỉ những ai biết cách lắng nghe những khổ đau trong mình và nhìn sâu vào bên trong với năng lượng của chánh niệm và chánh định thì sẽ có khả năng đi ra khỏi những khổ đau đó. Khi chúng ta hiểu được niềm đau, nỗi khổ của chính mình thì ta sẽ bớt khổ liền. Cái hiểu sẽ làm phát khởi tình thương ngay trong trái tim ta. Nếu ai đó hỏi tôi rằng “Làm thế nào để chế tác được thương yêu?”, tôi sẽ nói rằng chỉ có một cách duy nhất, đó là hãy nhìn sâu vào niềm đau, nỗi khổ của chính mình và tìm cách hiểu chúng. Nếu ta không hiểu những niềm đau của mình thì ta không thể hiểu được những khổ đau của một ai khác và không thể thương được ai.

    Giáo pháp Bụt dạy về thương yêu rất rõ ràng. Chúng ta phải học thương chính bản thân mình trước khi có thể thương một ai khác. Muốn thương được thì trước tiên phải hiểu. Hiểu ở đây có nghĩa là hiểu về khổ đau. Nếu ta không hiểu những khổ đau của chính mình thì chúng ta không thể thương và chăm sóc cho chính mình được. Nếu chúng ta không hiểu những khổ đau của người khác thì ta không thể thương và giúp người đó vơi bớt khổ đau được. Chúng ta ai cũng biết rằng khi chúng ta hiểu được nỗi khổ, niềm đau của chính mình thì chúng ta sẽ dễ dàng hiểu được khổ đau của người khác.

    Trong các phương pháp tu tập mà Bụt chỉ dạy, có một phương pháp gọi là lắng nghe với tâm từ bi và sử dụng ngôn từ hòa ái. Lắng nghe với tâm từ bi có thể giúp nối lại sự truyền thông. Đôi khi chúng ta không thể truyền thông với chính bản thân ta. Nhiều người trong chúng ta luôn tìm cách trốn chạy khỏi chính mình, bởi vì chúng ta không biết cách lắng nghe nỗi khổ của chính mình. Khi chúng ta bắt đầu hiểu được niềm đau của chính mình thì chúng ta có thể truyền thông được với chính mình dễ dàng hơn. Và khi chúng ta có khả năng truyền thông được với chính mình rồi thì chúng ta sẽ dễ dàng truyền thông với một người khác. Ta có thể đi đến gặp người đó và nói rằng: “Mẹ ơi, con biết mẹ đã chịu nhiều khổ đau trong những năm qua, vậy mà con đã không thể làm gì để giúp mẹ; trái lại, con còn có những hành xử làm cho mẹ khổ đau thêm. Con đã không thể giúp mẹ bởi vì con chưa hiểu được chính những nỗi khổ và khó khăn của chính con. Mẹ ơi, con không muốn làm cho mẹ khổ. Sở dĩ con làm cho mẹ khổ là vì con đã không hiểu được những khổ đau của mẹ. Mẹ ơi, hãy giúp con! Mẹ hãy nói cho con biết về những khó khăn của mẹ, con không muốn tiếp tục phạm phải những sai lầm trước đây và làm cho mẹ khổ thêm. Nếu mẹ không giúp con thì liệu có ai khác có thể giúp con?”.

    Nếu mình có thể nói với người thương của mình bằng ngôn ngữ như vậy thì người đó có cơ hội mở lòng mình ra. Khi đó ta có thể áp dụng phương pháp lắng nghe với tâm từ bi. Nếu ta lắng nghe với tâm từ bi thì người thương của ta sẽ bớt khổ liền. Trong quá trình lắng nghe, ta phải luôn ý thức rõ rằng ta lắng nghe chỉ với một mục đích duy nhất, đó là giúp cho người kia nói ra để cho người đó bớt khổ.

    Có thể lời nói của người kia vẫn còn chứa nhiều tri giác sai lầm và chất liệu trách móc, chua chát. Những lời nói đó có thể làm phát khởi tâm hành nóng giận và bực bội trong ta. Và trong trường hợp đó, ta sẽ đánh mất khả năng lắng nghe của mình, ta không thể tiếp tục lắng nghe với tâm từ bi được nữa. Đó là lý do tại sao trong suốt quá trình lắng nghe, ta phải luôn nắm lấy hơi thở và tự nhắc mình rằng “hôm nay mình lắng nghe chỉ với mục đích duy nhất là giúp người kia có dịp nói ra những niềm đau trong lòng, để giúp họ bớt khổ”.

    Nếu ta làm được như vậy thì ta sẽ có thể tiếp tục duy trì năng lượng thương yêu trong suốt buổi lắng nghe và những gì người kia nói không thể làm phát khởi tâm hành buồn giận và khó chịu trong ta. Những lời người kia nói có thể chứa đầy tri giác sai lầm, nhưng ta quyết tâm không ngắt lời người đó. Ta tự dặn mình rằng có thể ba hay bốn ngày sau ta sẽ cung cấp cho người ấy thêm một số thông tin để giúp người đó điều chỉnh tri giác của mình. Còn bây giờ là lúc ta chỉ thực tập lắng nghe thôi.

    khat-thuc-lang-mai-thai-lan-2010-jpgTăng thân Làng Mai đã tổ chức rất nhiều khóa tu chánh niệm ở châu Âu và châu Mỹ. Chúng tôi luôn hướng dẫn phương pháp thực tập lắng nghe với tâm từ bi và sử dụng ngôn từ hòa ái; phương pháp này đã giúp rất nhiều cặp vợ chồng hàn gắn lại với nhau. Vào ngày thứ năm của khóa tu, chúng tôi thường đề nghị các bạn thiền sinh sử dụng những gì họ đã học được ở khóa tu để hàn gắn lại quan hệ giữa họ với những người khác. Và luôn luôn có những điều mầu nhiệm xảy ra khi họ áp dụng phương pháp này. Nếu ta biết cách lắng nghe nỗi khổ, niềm đau của chính mình thì ta sẽ có thể lắng nghe được nỗi khổ, niềm đau của người khác nhờ sử dụng phương pháp lắng nghe với tâm từ bi. Với ngôn từ hòa ái và khả năng lắng nghe sâu, chúng ta có thể nối lại sự truyền thông giữa mình với mọi người. Nếu người mà ta muốn làm lành không có mặt trong khóa tu thì ta có thể sử dụng điện thoại. Nhiều người đã báo cáo lại với tôi rằng bằng cách thực tập phương pháp lắng nghe với tâm từ bi và sử dụng ngôn ngữ hòa ái, họ đã gọi điện và hòa giải được với cha, con hoặc vợ/chồng của họ.

    Khi ta đau khổ, ta có xu hướng nghĩ rằng khổ đau của ta là do một người khác gây ra. Chúng ta muốn trừng phạt người đó bởi vì họ đã làm cho ta khổ. Nhưng khi chúng ta thực tập hơi thở có ý thức và nhìn sâu vào nỗi khổ, niềm đau của người đó thì ta sẽ thấy rằng người đó cũng chỉ là nạn nhân của chính khổ đau trong lòng họ. Nhiều người trong chúng ta không biết cách xử lý khổ đau của chính mình và vì vậy chúng ta gây khổ đau cho chính bản thân và cho những người xung quanh, trong đó có những người mà mình thương yêu như cha, mẹ, con cái, vợ hoặc chồng.

    Những người như vậy chưa từng có cơ hội được nghe giáo pháp của Đức Thế Tôn để có thể biết cách lắng nghe sâu và hiểu được khổ đau của chính mình. Và từ trước tới giờ, chưa có ai giúp họ thấy được điều đó. Ta là người đã biết về pháp môn và đã có sự thực tập, vì vậy ta có thể là người đầu tiên có khả năng giúp họ. Ta thấy rằng người đó đang có đầy khổ đau trong lòng và không biết phải xử lý như thế nào. Họ đang là nạn nhân của khổ đau nơi chính mình. Khi quán chiếu một cách sâu sắc, ta thấy rằng người đó cần được giúp đỡ chứ không đáng bị trừng phạt. Nếu chúng ta có thể hiểu được khổ đau của chính mình và của người khác thì ta sẽ không còn có ý định trừng phạt ai cả mà chỉ muốn giúp đỡ họ mà thôi.

    Chúng ta có thể áp dụng những phương pháp Bụt dạy để thúc đẩy hòa giải và mang lại sự hòa hợp trên thế giới. Tại Làng Mai, nước Pháp, chúng tôi đã từng tài trợ cho các nhóm người Palestine và Israel đến Làng để thực tập cùng với chúng tôi. Ban đầu những người này có rất nhiều khó khăn khi thực tập, bởi vì cả hai nhóm đều chứa đầy năng lượng buồn giận và sợ hãi. Vì vậy trong tuần đầu tiên, chúng tôi chỉ giới thiệu với họ phương pháp trở về với chính mình và ôm ấp năng lượng buồn giận và sợ hãi trong con người họ. Đó chính là thực tập hơi thở quán niệm thứ tám trong kinh Quán Niệm Hơi Thở: “Thở vào, tôi làm cho các tâm hành trong tôi an tịnh. Thở ra, tôi làm cho các tâm hành trong tôi an tịnh”. Trong suốt tuần đầu tiên, chúng tôi chỉ cho họ phương pháp buông bỏ những căng thẳng và những niềm đau trong cơ thể. Chúng tôi đã cùng họ thực tập hơi thở có ý thức và đi thiền hành để chế tác niềm vui và hạnh phúc. Bắt đầu sang tuần thứ hai, cả hai nhóm đều được hướng dẫn phương pháp thực tập lắng nghe với tâm từ bi. Chúng tôi đã mời nhóm người Palestine nói lên những nỗi khổ, niềm đau mà họ đã trải qua. Chúng tôi cũng khuyên họ chỉ nói lên niềm đau của mình mà không trách móc hay buộc tội, để cho phía bên kia có thể lắng nghe và hiểu được họ. Nhóm người Israel chỉ ngồi yên và lắng nghe. Họ không ngắt lời ngay cả khi họ nhận thấy có những tri giác sai lầm. Họ biết rằng sau này họ sẽ có dịp cung cấp thông tin để giúp cho người Palestine điều chỉnh lại nhận thức mình.

    Phương pháp lắng nghe này đã mang lại những kết quả thật kỳ diệu. Lần đầu tiên, phía bên này đã nhận ra là những người ở phía bên kia cũng chịu nhiều khổ đau không kém gì họ. Khi hiểu được như vậy thì tự nhiên lòng xót thương bắt đầu tràn ngập trong trái tim họ và họ bớt khổ ngay tức thì.

    Sau hai tuần thực tập tại Làng Mai, cả hai nhóm người Palestine và Israel đều cảm thấy vơi bớt rất nhiều khổ đau trong lòng. Đến tuần thứ ba, cả hai nhóm có thể chia sẻ với nhau và nắm tay nhau cùng đi thiền hành. Họ đã hứa rằng khi trở về Trung Đông, họ sẽ tổ chức những hoạt động để những người khác có thể đến và học cách chuyển hóa khổ đau. Ở Pháp, hầu như năm nào chúng tôi cũng tổ chức những khóa tu như vậy.

    Trong xã hội của chúng ta hiện đang có rất nhiều sự kỳ thị, chia rẽ, bạo động và căm thù. Những vấn đề này chỉ có thể được chuyển hóa bằng sự thực tập lắng nghe sâu và sử dụng ngôn từ hòa ái. Nếu ta đang tu tập trong một tăng thân theo truyền thống đạo Bụt, ta có thể tìm cách tổ chức như thế nào để tạo ra một môi trường mà các nhóm người có mâu thuẫn, xung đột có thể đến và thực tập lắng nghe nhau. Tôi cho rằng sở dĩ các cuộc đàm phán về hòa bình thường không mang lại kết quả là vì các cuộc đàm phán đó không được tiến hành theo phương pháp mà Bụt đã chỉ bày. Khi các bên bước vào bàn đàm phán về hòa bình, họ thường muốn bàn về vấn đề ngay lập tức, trong khi đó các bên tham chiến vẫn còn mang đầy kỳ thị và căm thù. Với sự sợ hãi, giận dữ và nghi ngờ, họ không thể nào có niềm tin đối với nhau. Và vì vậy các cuộc đàm phán thường lâm vào tình trạng khó khăn. Theo phương pháp của đạo Bụt, khi các bên bước vào đàm phán về hòa bình, chúng ta không nên để họ bàn vào vấn đề ngay lập tức mà ta nên dành hai hoặc ba tuần để các bên thực tập buông bỏ những căng thẳng trong thân và tâm của họ. Ta có thể sử dụng bài thực tập thứ tám trong Kinh Quán Niệm Hơi thở để giúp những người đó buông bỏ sự căng thẳng và làm lắng dịu năng lượng sợ hãi và giận dữ trong họ.

    Chúng ta cần có những người nắm được hơi thở chánh niệm có mặt để yểm trợ, đóng góp năng lượng bình an và định tâm cho các bên xung đột. Chúng ta cần hướng dẫn cho các bên xung đột cách thức làm lắng dịu cơ thể và cảm xúc của họ. Và khi cả hai bên đều đã bình tĩnh hơn, lắng dịu hơn, chúng ta có thể mời họ thực tập lắng nghe nhau. Cả hai phía đều đã chịu quá nhiều khổ đau, dù họ thuộc phe thân chính phủ hay phe đối nghịch. Chúng ta cần ít nhất là một tuần hoặc mười ngày để cả hai bên có thể nói lên những khổ đau mà họ đã phải trải qua. Nếu cả hai phía đều hiểu được niềm đau của nhau thì họ sẽ vơi bớt khổ đau rất nhiều. Khi tình thương yêu, lòng xót thương phát khởi trong trái tim của những người tham gia xung đột thì việc tiến hành đàm phán để đi đến hòa bình sẽ dễ dàng hơn rất nhiều.

    Chúng tôi đã học hỏi được rất nhiều khi giúp những người Palestine và Israel xích lại gần nhau. Tôi tin rằng khi sử dụng những giáo lý và phương pháp Bụt dạy, chúng ta có thể giúp mọi người hòa giải với nhau. Chúng ta có thể đóng góp vào sự hòa hợp và thống nhất của quốc gia. Trong đạo Bụt, có một giáo lý gọi là vô phân biệt. Theo giáo lý này, trong tình thương chân thật không còn tồn tại bất kỳ sự phân biệt nào. Khi có tình thương chân thực thì khổ đau của mình cũng là khổ đau của người, hạnh phúc của mình cũng là hạnh phúc của người. Trong tình thương chân thật, không còn tồn tại hạnh phúc của cá nhân hay khổ đau của cá nhân. Đức Thế Tôn đã dạy cho chúng ta về trí tuệ vô phân biệt. Khi tôi nhìn vào bàn tay phải của tôi, tôi có thể thấy trí tuệ vô phân biệt. Bàn tay phải của tôi chưa bao giờ kỳ thị bàn tay trái. Bàn tay phải của tôi đã vượt thoát những mặc cảm hơn, kém và bằng. Bàn tay phải đã giúp tôi viết xuống các bài thơ tôi làm. Tôi còn sử dụng bàn tay phải để viết thư pháp. Tuy vậy, bàn tay phải của tôi không cảm thấy mình quan trọng hơn bàn tay trái. Nó chưa bao giờ nói: “Tay trái, anh chẳng có ích lợi gì cả. Nhìn tôi đây này, tôi đã viết tất cả những bài thơ này”. Còn bàn tay trái của tôi, nó cũng chẳng cảm thấy mặc cảm gì cả. Đó là lý do tại sao bàn tay trái của tôi không hề khổ đau tí nào. Cả hai bàn tay tôi luôn luôn sống chung với nhau rất hòa hợp.

    Một ngày nọ, tôi đang tìm cách treo một bức tranh lên tường. Bàn tay trái của tôi cầm một cây đinh và tay phải tôi cầm một cái búa. Ngày hôm đó tôi không được khéo léo cho lắm. Thay vì đóng vào cây đinh, tay phải cầm búa lại đập vào một ngón tay của bàn tay trái. Ngay lúc đó, bàn tay phải hạ búa xuống và ôm lấy bàn tay trái mà không hề có sự phân biệt, kỳ thị nào cả, bởi vì nỗi đau của bàn tay trái cũng là nỗi đau của bàn tay phải. Tay trái của tôi hiểu được điều đó, cho nên nó không hề giận bàn tay phải. Tay trái của tôi không nói rằng: “Tay phải, anh đã làm cho tôi đau. Tôi phải đòi lại công bằng. Đưa búa đây cho tôi!”. Đó là lý do tại sao bàn tay phải và bàn tay trái của tôi luôn sống chung với nhau một cách hòa hợp. Bàn tay phải nhìn thấy bàn tay trái trong chính mình và ngược lại. Đó chính là trí tuệ vô phân biệt, là tuệ giác bất nhị.

    Khi những người thực tập đạo Bụt theo truyền thống Bắc Tông nhìn sâu vào giáo lý của truyền thống Nam Tông, họ sẽ thấy Bắc Tông trong Nam Tông. Với sự thực tập nhìn sâu, họ sẽ thấy rằng tất cả những tư tưởng siêu  việt trong các kinh điển Đại thừa đều đã có trong những giáo lý tinh yếu của đạo Bụt nguyên thủy. Họ sẽ nhìn thấy Bắc Tông trong Nam Tông và ngược lại. Có một cách nhìn gọi là cách nhìn tương tức. Khi nhìn vào một bông hoa, ta sẽ thấy bông hoa được làm từ những yếu tố không phải là bông hoa. Nhìn thật sâu vào bông hoa, ta sẽ thấy được ánh nắng mặt trời. Nếu không có ánh nắng mặt trời thì bông hoa không thể sống được và vì vậy có thể nói bông hoa được làm từ những yếu tố không phải là bông hoa, trong đó có ánh nắng mặt trời. Nhìn sâu vào bông hoa ta còn thấy những đám mây. Ta biết rằng nếu không có mây thì sẽ không có mưa và hoa sẽ không thể sống được nếu thiếu nước. Và vì vậy những đám mây cũng là một yếu tố không phải là bông hoa. Nếu chúng ta lấy đi tất cả những yếu tố không phải là bông hoa thì bông hoa không thể nào tồn tại được. Do vậy ta có thể nói một bông hoa được làm từ những yếu tố không phải là hoa.

    Ta cũng có thể sử dụng cách nhìn đó khi nhìn vào đạo Bụt. Đạo Bụt là một đóa hoa rất đẹp và được hình thành từ những yếu tố không phải là đạo Bụt. Thực tập đạo Bụt, ta có thể tiếp cận được với trí tuệ của tất cả các truyền thống khác, đó là lý do tại sao đạo Bụt hoàn toàn không mang tính chủ thuyết, không phải là một đức tin để tôn thờ và bảo vệ. Nếu ta theo truyền thống Bắc Tông, ta có thể nói Bắc Tông là một bông hoa đẹp, nhưng bông hoa đẹp đó cũng được làm từ những yếu tố không phải là Bắc Tông. Nếu ta lấy đi tất cả những yếu tố không phải là Bắc Tông thì truyền thống Bắc Tông sẽ không thể tồn tại. Ta cũng có thể nói tương tự như vậy với truyền thống Nam Tông.

    Khi ta trồng hoa sen, ta biết rất rõ rằng chúng ta cần phải có bùn để nuôi hoa sen. Khi chúng ta nhìn vào hoa sen, chúng ta nhìn thấy những yếu tố không phải là hoa sen và chúng ta biết rằng bùn là một trong những yếu tố không phải là hoa sen nhưng lại là một yếu tố thiết yếu để hoa sen có thể biểu hiện được. Khổ đau của chúng ta cũng có thể xem như là bùn và hạnh phúc của chúng ta có thể ví như hoa sen. Giữa hạnh phúc và khổ đau có một mối liên hệ mật thiết và sâu sắc. Chúng ta sẽ có được trí tuệ vô phân biệt khi chúng ta nhìn sâu vào tự tánh của hoa sen. Khi chúng ta nhìn thấy yếu tố bùn trong hoa sen, ta sẽ không còn kỳ thị đối với bùn nữa.

    Cũng như vậy, khi nhìn vào một người con, ta sẽ thấy người cha. Đứa con là sự tiếp nối của người cha. Người con được làm từ những yếu tố không phải là con, ta không thể lấy yếu tố cha ra khỏi con được. Đó là lý do tại sao khi nhìn sâu vào đứa con ta có thể thấy người cha và ngược lại. Khi nhìn như vậy ta sẽ chạm tới được tự tánh vô ngã, ta sẽ có được trí tuệ vô phân biệt, có được tuệ giác bất nhị. Khi ta nhìn sâu như vậy, ta sẽ không còn có thể giận cha mình được nữa, bởi vì ta là sự tiếp nối của cha. Giận cha cũng có nghĩa là ta đang giận chính bản thân ta. Đó là lý do tại sao tinh thần vô phân biệt trong đạo Bụt lại vô cùng quan trọng cho một nền hòa bình trên thế giới. Với tuệ giác vô phân biệt và bất nhị, ta sẽ không còn coi ai là kẻ thù nữa. Ta sẽ thấy rằng những người làm ta khổ cần được giúp đỡ, chứ không đáng bị trừng phạt.

    Đạo Bụt là một di sản vô giá đã được trao truyền cho chúng ta từ bao nhiêu thế hệ đi trước. Nếu chúng ta biết thực tập theo tinh thần vô phân biệt thì ta có thể đóng góp rất lớn vào sự hòa hợp và hòa giải trong các quốc gia và trên thế giới. Những giáo lý và phương pháp thực tập của đạo Bụt vẫn còn mang tính thực tiễn đối với thế giới hiện đại ngày nay. Chúng ta cần học hỏi và thực tập đạo Bụt như thế nào để có thể giúp phát triển tuệ giác vô phân biệt và bất nhị trong ta.

    Nếu chúng ta biết áp dụng sự thực tập chánh niệm vào đời sống hàng ngày thì chúng ta có thể tạo ra hạnh phúc ngay bây giờ và ở đây. Nếu ta biết thực tập lắng nghe với tâm từ bi và sử dụng ngôn từ hòa ái, ta có thể tái lập lại sự truyền thông và mang lại hòa bình cho đất nước của chúng ta cũng như cho thế giới này.

     

    26/10/2010
    Dịch Theo: http://www.bangkokpost.com/feature/religion/203233/happiness-in-the-here-and-now

    Chữa lành vết thương chiến tranh

    Bài tường thuật của nhà sản xuất phim VELCROW RIPPER về chuyến đi lịch sử về thăm quê hương của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, chuyến trở về đã thu hút hàng vạn người cùng tới để hồi sinh sự thực tập Đạo Bụt và chữa lành vết thương chiến tranh.

    Ý về muôn vạn nẻo
    Thiền lộ tâm an nhiên
    Từng bước gió mát dậy
    Từng bước nở hoa sen

    – Thích Nhất Hạnh-

    thich-nhat-hanh-jpgTrong tận cùng tăm tối của thời kỳ bom napalm, của bom trải thảm và chất độc màu da cam, một bông hoa đã hé cánh trong hình dạng của một tu sỹ Phật giáo trẻ với cái tên Thích Nhất Hạnh. Thay vì đóng cửa trái tim trước thảm kịch chiến tranh Việt Nam, người tu sỹ đó đã làm ngược lại, Thầy đã khai thông được nguồn sức mạnh tuyệt vời. Thầy đã khơi nguồn cho tình thương đích thực, và trong khi làm như vậy, thầy đã khởi đầu cho một phong trào mà sau này đã lan rộng trên toàn thế giới, đó là phong trào đạo Bụt dấn thân.

    Thầy, như mọi người vẫn thường trìu mến gọi, nhận ra rằng tình thương đích thực phải bắt đầu với sự thực tập nhìn sâu, phải biết xóa tan trong tâm mình các tri giác để nhường chỗ cho không gian tâm thức. Với một tâm hồn vắng lặng, vắng lặng mọi ảo tưởng, thì lòng từ bi, sự dũng cảm, niềm an lạc và tuệ giác sẽ có không gian để xuất hiện. Tình thương đích thực sẽ xuất hiện.

    Với sự hiểu biết từ những kinh nghiệm sống về tính liên đới giữa mọi hình thức sống – cái mà Thầy gọi là “tương tức” – Thầy vượt khỏi tư tưởng hay sự quán chiếu đơn thuần để tiến tới hành động. Ngay trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, Thầy đã sáng lập dòng tu Tiếp Hiện, xuất bản một tờ báo quan trọng vận động cho hòa bình, và thành lập trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội – một đoàn thể những người đã nhận thấy giáo lý đạo Bụt là một sự thật đòi hỏi họ phải trở thành “hoa sen trong biển lửa”. Thầy đã khai sinh cho nền Đạo Bụt Dấn Thân, một phong trào bắt nguồn từ đất nước Việt Nam nhỏ bé mà đã lan rộng trên toàn thế giới.

    Năm 1966, ở tuổi 40, Thầy bị lưu đày khỏi quê hương Việt Nam thân yêu. Tội của Thầy là đã chứng kiến nỗi đau khổ có tính tương tức của những người Cộng Sản và Quốc Gia, của những người lính và dân thường, nạn nhân và tội phạm. Đối với nhà cầm quyền của cả hai phía, Thầy là kẻ phản quốc vì đã khơi dậy ý thức về lòng nhân ái trong lòng mọi người có liên quan tới cuộc chiến xấu xa này.

    Trong bốn thập kỷ bị lưu đày, Thầy không hề ngơi nghỉ. Thầy đi khắp thế giới truyền đi thông điệp về hòa giải và hòa bình. Sau khi chiến tranh kết thúc, Thầy đã đem những cựu chiến binh Việt Nam và những người Việt tị nạn lại với nhau để giúp họ tìm được sự hòa giải và hàn gắn. Thầy họat động trong các nhà tù, dẫn đầu các cuộc thiền hành vì hòa bình và giảng pháp, tới tất cả những nơi cần đến tuệ giác của Thầy. Một lần, khi Thầy mới trở về từ chuyến thăm tù nhân đầu tiên ở Maryland Correctional Institution (những bài giảng ở đây đã làm căn bản cho cuốn sách Be Free Where You Are – Tự do ở bất kỳ nơi nào), Thầy đã nói rằng Thầy thà đến nơi tù ngục hơn là ở Tịnh Độ, bởi vì chính nơi có nhiều khổ đau nhất là nơi có nhiều cơ hội nhất cho sự thực tập từ bi.

    Nhưng trong những năm tháng đằng đẵng xa quê hương Việt Nam, bởi vì Thầy đã trở thành bậc thầy lỗi lạc về đạo Bụt, Thầy luôn luôn lắng nghe tiếng gọi từ quê hương. Đã bao lần Thầy xin phép trở về nhưng bị từ chối. Cuối cùng, vào năm 2005, Thầy đã được phép trở về. Thầy và những thành viên trong tăng thân của Thầy đã đi xuyên đất nước Việt Nam, làm công việc khôi phục truyền thống tu tập đạo Bụt đã bị gián đoạn bao nhiêu năm bởi chiến tranh và chính sách của chế độ Cộng sản.

    Mùa xuân năm 2007, Thầy đem tăng thân về thăm quê lần thứ hai. Và tôi đã được tháp tùng đoàn với tư cách một nhà làm phim và ghi lại chuyến trở về lịch sử này. Trong thời gian ở đây, tôi đã được may mắn phỏng vấn Thầy và đã được giải thích khá dài về lý do của chuyến trở về và về những gì Thầy đang làm ở đây.

    Thầy kể cho tôi rằng “Chuyến đi là một cơ hội trở lại Việt Nam và cùng mọi người tu tập . Trong bốn mươi năm, Thầy đã không thể hiến tặng sự giảng dạy và thực tập cho đồng bào Việt Nam. Vì vậy, mục đích duy nhất là được gặp mọi người, được đoàn tụ với mọi người, và được hiến tặng họ những khóa tu, những ngày Chánh Niệm, những bài pháp thoại và những buổi thiền hành. Phần lớn những người tới tham dự đều được sinh ra trong khi Thầy vắng mặt. Nhưng khi nhìn họ, Thầy vẫn có thể nhận ra thế hệ cha mẹ của họ. Họ là sự tiếp nối của cha mẹ họ và họ tiếp tục tu tập. Thế hệ trẻ ngày nay rất có cảm hứng đối với một đạo Bụt có khả năng làm mới, và vì vậy họ có thể tiếp nhận được giáo lý, hiểu, hành trì và thấm đạo.”

    Nhưng Thầy còn muốn làm một điều khác nữa trong chuyến đi này: liên hệ với những nạn nhân đã chết trong chiến tranh và giúp hàn gắn vết thương mà người dân đã phải gánh chịu trong chiến tranh. “Chúng tôi sẽ tiến hành các Trai đàn để cầu nguyện cho nạn nhân chiến tranh của cả hai phía. Đây là lần đầu tiên một trai đàn như vậy được phép tổ chức. Đó là nghi lễ truyền thống tôn giáo nhưng ở một khía cạnh khác cũng là một lễ hội.

    Những người còn sống đến với nhau và tưởng nhớ tới người chết, cầu nguyện cho người chết và hòa giải. Chiến tranh đã để lại rất nhiều vết thương trong từng cá nhân và các bên lâm chiến đã không có cơ hội để hòa giải. Đây là sự thực tập chữa lành mang tính cộng đồng. Nếu chúng ta không chuyển hóa những khổ đau và thương tích bây giờ thì những khổ đau và thương tích đó sẽ truyền xuống các thế hệ con cháu. Các thế hệ sau sẽ khổ đau mà không hiểu vì sao. Mình nên làm điều gì đó ngay bây giờ để chuyển hóa khổ đau và bất công mà mình đã trải qua.”

    Dưới đây là câu chuyện mà tôi đã chứng kiến trong chuyến đi 2007 của Thầy.

    THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

    Thầy đã có cả một chương trình 3 tháng kín đầy các khóa tu, bài giảng và các trai đàn, nói chuyện với đông đảo quần chúng đến đông kín sân chùa, hướng dẫn những khóa tu thiền có tới 10.000 người và đem lại cho chúng tôi niềm vinh hạnh khi được tháp tùng Thầy trong chuyến đi rất sâu vào chánh niệm. Mặc dù những qui định về hạn chế tự do tôn giáo đã được nới lỏng ở Việt Nam nhưng một người vẫn có thể bị coi là chống Cộng nếu tới chùa thờ cúng. Nhưng bức tường cũng dần dần sụp đổ, và Thầy đang bước vào giai đoạn cởi mở bởi sự tập trung vào việc hòa giải, giúp chuyển hóa những đau thương của cuộc chiến kéo dài thành tình thương.

    Tôi tới sân bay Tân Sơn Nhất vào ngày chuyến đi bắt đầu và thấy Thầy đang ngồi trên băng ghế, bao bọc bởi các thầy, các sư cô cười rất tươi và rạng ngời hạnh phúc. Một vị tăng đeo kính tên là Thích Pháp Ấn, một trong những đệ tử lớn của Thầy lại gần và tôi giải thích rằng tôi là một nhà làm phim Canada đã được mời tham gia chuyến đi để sưu tầm tài liệu cho bộ phim ký sự tài liệu của tôi mang tên : Fierce Light: When Spirit Meets Action (tạm dịch là Sức mạnh Ánh sáng: Khi tâm linh gặp hành động), bộ phim theo sát từng đợt triều dâng của chủ nghĩa tâm linh hành động trên toàn địa cầu. Chuyến đi của tôi đã kéo dài 3 tháng tìm kiếm trong thế gian những mẩu chuyện mới mà Ghandi từng gọi là “soul force” – quyền năng tâm linh, cái mà Alice Walker gọi là “human sunrise” – bình minh nhân loại và cái mà Thích Nhất Hạnh gọi là “love in action” – thương yêu thành hành động.

    Chuyến đi của tôi bắt đầu từ New Zealand, viếng thăm một Làng thực tập hòa bình của người Maori, ngôi làng mà trước đây phương thức chống chính quyền bất bạo động của họ đã truyền cảm hứng cho Gandhi. Ở Kenya, tôi tham dự Diễn đàn Xã hội Thế giới, cuộc họp mặt lớn nhất của những nhân vật lịch sử đã làm thay đổi thế giới. Ở Nam Phi, tôi thăm Phoenix Ashram, nơi phong trào Satyagraha của Gandhi được sinh ra. Ở Ấn Độ, tôi đến thăm những người Dalits (trước đây gọi là giai cấp Cùng Đinh), những người đang trong giai đoạn thay đổi và nắm quyền lực tương tự như phong trào Dân Quyền Hoa Kỳ. Và ở Sri Lanka, tôi ghi hình cộng đồng Sarvadoyan, phong trào lớn nhất theo đường hướng của Gandhi ngày nay. Và bây giờ tôi đang ở Việt Nam với tăng đoàn Làng Mai và Lộc Uyển (trung tâm tu học của Thầy ở miền nam Cali) cùng với một tập thể những thành viên của tăng thân quốc tế, bước vào trái tim của Đạo Bụt Dấn Thân.

    Điểm dừng đầu tiên là thành phố Hồ Chí Minh, cái tên được đặt sau ngày “Sài Gòn sụp đổ” hay “Hồ Chí Minh lên ngôi”, tùy thuộc vào quan điểm của bạn. Tất cả đều tùy thuộc vào quan điểm. Những đường phố của Tp Hồ Chí Minh được trang hoàng bởi các biểu ngữ đỏ và tràn ngập xe gắn máy và người qua lại. Ban đầu, băng qua đường tưởng như là một chuyện không thể, nhưng khi theo dõi những người bản xứ, tôi có thể thấy những dòng xe xe gắn máy rẽ ra như một đàn cá khi có người băng qua đường. Chỉ cần có niềm tin.

    Sau bữa sáng trong im lặng với những thành viên khác của tăng thân quốc tế ở nhà hàng của khách sạn, chúng tôi lên xe bus đến chùa Pháp Vân, nơi xuất thân của đạo Bụt dấn thân trong thập niên 60. Cả một rừng máy chụp ảnh đón chào sự trở về của Thầy. Thầy dẫn mọi người đi thiền hành thật chậm rãi và bình yên. Sau đó, chúng tôi đến nhà ăn để nhận áo tràng và bình bát. Tôi luôn luôn bị thu hút bởi sự đơn giản và định tâm của những vị tu sĩ Làng Mai mà tôi được chứng kiến và tôi rất hào hứng trước cơ hội được làm một người tu bán thời gian trong vòng một tháng. Tôi nhìn quanh những người bạn cùng tháp tùng chuyến đi – 70 người nước ngoài từ khắp thế giới – tất cả đều khoác áo tràng lam, hơi ngần ngại nhưng cũng thấy thích thú bởi sự chuyển hóa đột ngột. Chúng tôi không còn là những người thường nữa.

    Đối với người dân Việt Nam, sự có mặt của tăng thân quốc tế này rất quan trọng. Phần nhiều người Việt đã từ chối văn hóa Phật giáo truyền thống một phần bởi vì không có tự do tôn giáo dưới chế độ Cộng sản nhưng có thể bởi vì thiếu sự tự tin. Phương Tây, qua truyền hình vệ tinh, được xem như là thiên đường, thế giới của những chiếc xe to, những sản phẩm hào nhoáng và sự giàu có dường như vô tận. Hình ảnh của một nhóm đông người Tây Phương khoác áo tràng và thực tập Phật giáo Việt Nam đem tới cho họ niềm tự hào về văn hóa của dân tộc mình.

    Sau một bữa trưa chay tịnh rất ngon miệng, ăn trong những chiếc bình bát mới, chúng tôi cởi giày và gặp nhau dưới một chiếc lều đã được dựng lên trước chánh điện. Sư cô Chân Không, đệ tử lâu năm và thân cận nhất của Thầy, đón tiếp chúng tôi. Năm 14 tuổi, Sư cô đã bị chấn động bởi khoảng cách bất công giữa giàu và nghèo và bắt đầu đi gõ cửa từng nhà hàng xóm, nói với họ rằng “hãy coi con như con chim mổ những hạt cơm sót trong nồi, cho con một nắm gạo, thế thôi, cho những ai không đủ ăn”. Sư cô đã sớm nhận ra vai trò của mình trong cuộc đời này là để thể hiện tình thương qua hành động. Nếu Thầy là thánh Francis thì Sư cô là thánh Clare.

    Sư cô Chân Không là một trong sáu thành viên đầu tiên của dòng tu Tiếp Hiện và trong suốt thời kỳ chiến tranh, cùng với những thanh niên phụng sự xã hội, sư cô đã hành động không sợ hãi vì hòa bình. Nhóm thanh niên dũng cảm này đã dấn thân vào giữa chiến trường để mang lại niềm an ủi và giúp đỡ nơi tuyến đầu, giúp nạn nhân chiến tranh mất nhà cửa ổn định lại cuộc sống, giúp tái thiết những xóm bị dội bom, xuyên qua làng mạc tan hoang trong tinh thần kiên quyết. Có những làng vừa được dựng lại chỉ để bị dội bom, rồi dựng lại, rồi bị dội bom, lần này qua lần khác. Rất nhiều trong số những người thanh niên đi theo con đường hành động tâm linh này bị giết hoặc bị thương, nhưng họ vẫn khước từ hận thù, nhất định không đứng về một phe nào, và không bỏ cuộc.

    Mặc dù Thầy được coi là người đặt ra khái niệm “Đạo Bụt Dấn Thân” nhưng Thầy tin chắc rằng Đạo Bụt dù dưới hình thức nào đều phải dấn thân, nếu không thì không phải đạo Bụt. Thầy giải thích rằng “khi thực tập ngồi thiền trong chùa mà nghe tiếng bom và tiếng kêu khóc ở ngoài, mình phải đi ra và giúp, bởi vì thiền là ý thức những gì đang xảy ra trong bản thân cũng như ở xung quanh. Trong tình trạng chiến tranh, mình phải dấn thân thì mới thực sự đúng với truyền thống từ bi và thương yêu của mình. Nhưng nếu quá bận rộn làm công việc cứu trợ, mình sẽ đánh mất sự thực tập và mình sẽ kiệt sức. Đó là lý do tại sao mình phải tìm những phương pháp để duy trì sự thực tập, duy trì sự vững chãi, sự tự do, sự bình an trong khi làm việc”.

    “Hành động bất bạo động là một biểu hiện của tình thương. Xã hội hiện có rất nhiều tệ nạn là hậu quả của quá trình phát triển và toàn cầu hóa. Nếu mình có tình thương đích thực, mình sẽ nhìn ra cần phải làm gì để chuyển hóa những vấn đề như ma túy, bạo lực và sự tan vỡ gia đình. Có rất nhiều, rất nhiều cách để bày tỏ tình thương của mình”.

    MƯỜI NGÀN TRÁI TIM

    Sau chuyến về thăm Việt Nam lần đầu tiên, Thầy đã thành lập tu viện Bát Nhã, gần thị xã Bảo Lộc, cách Sài Gòn khoảng 6 tiếng đi xe buýt. Nơi đây thật đẹp với chánh điện, thiền đường, các cư xá nằm trên sườn đồi bao bọc bởi rừng thông và rừng cà phê. Thung lũng phía dưới được trang trí bởi những con đường đất đỏ mịn chạy ngoằn ngoèo rất lý tưởng cho đi thiền hành, đây đó có những thất nhỏ cho ngồi thiền. Cuối thung lũng là một tượng Bụt rất lớn ngồi dưới gốc cây và phía bên kia là tượng Bồ Tát Quan Thế Âm – vị Bồ tát của lòng đại từ bi, cũng rất lớn. Gương mặt Bồ Tát thật thanh thản và rạng rỡ. Một ngôi chùa hiền lành với những lớp mái cong và sàn đá mát lạnh để lễ lạy và ngồi thiền, những hàng tượng lân đá được đặt tại các góc chùa, giống như các vị hộ pháp của lòng từ bi. Dưới chân đồi là hàng chữ khắc vào đá “Đã về, đã tới”.

    Trước đây, chỉ có một ngôi chùa ở đây. Vị trụ trì là người yểm trợ Thầy hết lòng. Trong suốt thời gian Thầy bị lưu đày, Thượng tọa Viện chủ vẫn giữ liên lạc và giúp Làng Mai thực hiện và mở rộng phạm vi các dự án xã hội trong vùng. Khi Thầy trở về Việt Nam lần đầu tiên ba năm về trước, Thầy đã thành lập một tu viện mới trên những khu đất xung quanh. Trong khoảng thời gian 3 năm đó, tu viện đã được mở rộng nhanh chóng. Ba trăm vị tân tu sỹ đang tu tập tại đây và những đợt xuất gia vẫn diễn ra đều đặn. Điều này chứng tỏ sức hồi sinh của tăng thân Phật giáo tại Việt Nam trong truyền thống Làng Mai. Sau một ngày “làm biếng”, một ngày không thời khóa, chúng tôi bắt đầu một khóa tu cùng mười ngàn thiền sinh Việt Nam. Không ai ngờ con số lại lớn đến vậy, chứng tỏ một niềm khao khát mạnh mẽ đối với giáo pháp tại đây. Chúng tôi ngồi chung, mười ngàn trái tim, tiếp nhận sự tỏa rạng dịu dàng từ người Thầy đang trở về với quê hương, phục sinh lại một tôn giáo đã bị khô cứng.

    Thầy nói rằng tôn giáo cũng giống như vỏ của quả mít, mình phải biết ăn những múi ngọt bên trong. Mình cần trở lại với giáo pháp nguyên thuỷ. Đức Bụt đã dạy “vô tướng” – đừng để bị kẹt vào tướng. Sư cô Chân Không nói với tôi “Trong thời Bụt, không có đạo Bụt. Mình phải tự tiếp xúc với sự bình an, ánh sáng và sự hiểu biết sâu sắc của chính mình. Đó là Bụt ở trong mình. Mình có thể gọi đó là Thượng Đế. Mình có thể gọi đó là Thánh Allah. Mình không cần đặt nó vào một cái khuôn khổ và gọi nó là Đạo Phật hay Đạo Chúa hay Đạo Do Thái. Mình phải sử dụng pháp khí vô tướng mà Bụt đã trao truyền. Khi đó mình có thể tiếp xúc với thực tại vĩ đại và đẹp đẽ kia mà gọi tên nào cũng được: Bụt, Allah hay Thượng Đế.

    TÌNH THƯƠNG ĐÃ NGẤM

    Đến giữa chuyến đi, tôi được bao trùm bởi tình thương. Tôi đã có thể tạm kìm được những bước chân của mình khi đi thiền hành – thiền hành giống như thiền trượt vậy. May mắn làm sao, tăng thân Làng Mai là nơi an toàn cho một người đang yêu. Không ai nghĩ tôi bị điên nếu tôi có cười hơi rộng miệng một chút. Mọi việc diễn ra rất đồng bộ. Đối với tôi bây giờ, từng tiếng chim líu lo cũng trở thành bản tình ca.

    Khi chứng kiến Thầy hướng dẫn thiền hành buổi sáng, tôi cảm nhận được trái tim mở rộng của Thầy. Hình thái Thiền Phật Giáo của Thầy khác xa với các khuôn mẫu thiền dùng gậy đập hay sử dụng công án rập khuôn của các vị Tổ. Thiền của Thầy là sự thực tập thấm đầy tình thương, trong mọi chiều hướng. Bạn có thể thấy điều này đang truyền qua những đệ tử của Thầy. Tăng thân này tỏa chiếu tình thương và những nụ cười. Ngay cả khi Thầy không hiện diện, tôi vẫn hấp thụ được giáo pháp của Thầy, giáo pháp trao truyền nguyên vẹn qua những người đệ tử. Đây không phải là một đoàn thể các thầy, các sư cô nghiêm khắc, ép mình, những người sợ hãi, trốn tránh cuộc đời trong cuộc sống tu viện. Những con người này thực sự dấn thân, họ sống sâu sắc, trong giây phút hiện tại, chia sẻ hết lòng những khám phá của họ với những người như chúng tôi.

    Đại đức Pháp Ấn, một trong những đệ tử lớn của Thầy, nói rằng trước khi gặp Thầy, đại đức đã thiền quán nhiều năm về công án đơn giản “Tôi là ai?”. Những câu hỏi “Tôi là ai đang nâng cánh tay này? Tôi là ai đang bước đi? Tôi là ai đang di chuyển qua không gian?” trở thành điều ám ảnh. Sau đó được gặp Thầy và đại đức khám phá ra thiền tập trong hành động. Đại đức ngừng triết lý và bắt đầu sống, sống sâu sắc. Làng Mai cũng có những pháp môn thiền tập theo nghi thức truyền thống cũ nhưng không nhiều. Điều quan trọng hơn là bạn sống ra sao, thực sự có mặt ra sao. Không phải là vấn đề phân tích bản thân để đưa tới sự giác ngộ, mà là sống. Sống thật sâu. Bây giờ, bây giờ và bây giờ.

    Khi tôi hỏi đại đức Pháp Ấn về ý nghĩa của tình thương, đại đức nói “Khi bạn mở mắt là tình thương xuất hiện. Tình thương là một trạng thái của tâm khi mình sáng suốt. Giữa bạn và toàn thể phần còn lại của vụ trụ có mối liên hệ với nhau. Đó là nguồn năng lượng làm bạn hòa nhập với mọi vật. Quá trình cởi mở bắt đầu dần dần và tâm bạn bắt đầu mở rộng, và bạn bắt đầu nhìn mọi việc rõ ràng hơn. Bạn nghe được tiếng chim ríu rít và thấy được màu tre xanh. Bạn cảm nhận được rất nhiều năng lượng để sống. Đó là tình thương. Nó cho bạn năng lượng để phụng sự. Bạn cảm thấy cuộc sống thật màu nhiệm. Đó là tình thương có tính tâm linh.”

    Tôi thích hỏi về tình thương, hiện tại tôi đang được sống trong tình thương. Tôi hỏi Sư cô Chân Không về tình thương, và câu trả lời của Sư cô đẹp đến nỗi làm tôi trào nước mắt. Sư cô nói ra từ chiều sâu của sự hiểu biết, với một giọng ngọt ngào, nhẹ nhàng nhưng mạnh mẽ. Ngọt ngào như một bông hoa và mạnh mẽ như sư tử. Sư cô nói rằng chúng ta cần thương yêu một người như thương yêu một cái cây – không chỉ yêu bề mặt, không chỉ yêu cành lá hay thân cây mà phải yêu cả gốc rễ. Chúng ta cần tập yêu tất cả những gì thuộc về người đó – tổ tiên, gia đình, bạn bè, ước mơ và hoài vọng của họ. Yêu tất cả những phần tạo nên con người ấy. Điều gì thực sự có ý nghĩa đối với người mình yêu? Một người biết yêu thương luôn luôn hiến tặng niềm vui và làm vơi nỗi khổ.

    Có rất nhiều nỗi đau khổ ở Việt Nam cần được làm vơi. Như Thầy nói “Chiến tranh tạo ra biết bao nạn nhân. Có biết bao bất công, cho cả Bắc Việt và Nam Việt, hàng trăm ngìn thuyền nhân đã bỏ mạng trên biển, bao nhiêu người chết trong ngục tù và trong các trại cải tạo, bao nhiêu chiến sỹ của cả miền Bắc và miền Nam chết trên chiến trường, giữa núi rừng và trên sông, bao nhiêu người mất không tìm ra hài cốt”.

    BỮA CƠM TỐI ĐƠN GIẢN CÙNG THẦY

    Sau vài tuần ở lại tu viện tôi đã chụp được những hình ảnh tôi cần, từ hình ảnh các thầy các sư cô thiền hành chậm rãi, cho đến những dòng suối tung bọt, tượng Bụt thật lớn, tượng những bồ tát của lòng từ bi và những chú lân hộ pháp, những hàng áo nâu khiêm cung ngồi trên chánh điện với khuôn mặt thanh thản và cặp mắt khép nhẹ đang đi sâu trong thiền định.

    Tôi có tất cả, giữ lại cho buổi phỏng vấn Thầy. Tôi muốn hỏi Thầy về ý nghĩa đích thực của tình thương. Chúng tôi đã hoãn lại ngày rời tu viện đi Tp HCM để chờ đợi cơ hội này. Ngày nào Sư cô Chân Không cũng đưa tin cho chúng tôi và bảo “Có thể ngày mai!”

    Những ngày tháng chờ đợi cứ trôi qua, chúng tôi bắt đầu cảm thấy như trong phim “Chờ đợi Fidel”, bộ phim kể về một đoàn làm phim tài liệu đến Cuba để phỏng vấn Ngài Fidel Castro. Đoàn làm phim luôn được bảo rằng “Chắc chắn ngày mai”. Họ tự quay phim mình và dần dần phát điên, uống say rượu rum Cuba, suốt ngày tranh cãi và biến thành đống than hồng. Họ không bao giờ có được buổi phỏng vấn, nhưng cũng cho ra một cuốn phim khôi hài làm bài học. Luôn có vấn đề nào đó xảy ra. Chúng tôi không uống say túy lúy ở đây, mặc dù thỉnh thoảng cũng có lẻn ra khỏi tu viện để ăn kem.

    Cái mà chúng tôi đạt được là chúng tôi có thêm khoảng thời gian quán chiếu lặng lẽ và sự kiên nhẫn nhẹ nhàng. Một cơ hội cho giáo pháp thấm vào. Có một khóa tu cho người xuất gia, tất cả đều nhẹ nhàng và yên lặng, một đại dương của những nụ cười không tắt. Cả tháng trời tôi chỉ cười và chắp tay vái như người điên. Nếu tôi tiếp tục làm như vậy khi về nhà thì chắc mọi người sẽ nghĩ tôi điên thật.

    Một buổi sáng, khi đang theo lối mòn đi lên từ thung lũng nhỏ xinh mà tôi yêu thích, tôi bỗng thấy Thầy, chỉ đi cùng với hai thị giả. Tôi dừng lại xá chào và Thầy nở một nụ cười thật tuyệt vời với tôi. Tôi hơi sợ, bởi vì thông thường mỗi khi thấy Thầy thì hoặc là Thầy đang ngồi trước cả 10.000 người hoặc là đang thiền hành với hàng ngìn người phía sau. Tôi cũng cười thật tươi và định đi tiếp, nhưng Thầy nói “Thầy nghĩ hôm nay anh có thể phỏng vấn. Thầy sẽ cho biết sau.” Tôi vội vàng đáp lại “Con cảm ơn Thầy rất nhiều”.

    Chúng tôi xá nhau, cười với nhau và tôi tiếp tục đi. Vài tiếng đồng hồ sau, buổi phỏng vấn được ấn định. Tôi xuống bếp và gặp Sư cô Chân Không.
    “Anh đã sẵn sàng chưa? Đã có máy quay phim chưa?”
    “Thưa, có ngay đây rồi.” Tôi vỗ vào chiếc túi thầy tu, chiếc máy ghi hình đã nằm gọn ghẽ bên trong.
    “Bây giờ anh đi lấy thức ăn rồi mang xuống luôn.”

    Thế là chúng tôi được ăn tối với Thầy trước. Người sản xuất phim của tôi, Cher, và tôi lấy đầy thức ăn vào bát, những món ăn chay đơn giản – cơm, mít, một chút đậu hũ, rau muống luộc. Sư cô Chân Không đưa chúng tôi xuống cốc của Thầy, một ngôi nhà nhỏ xinh xắn, giống như một ngôi chùa thu nhỏ. Chúng tôi tháo giày và bước vào. Thầy đang ngồi sau chiếc bàn gỗ thấp có bày một khay thức ăn với những chiếc bát nhỏ đựng rau, gạo đỏ và rau sống. Hai chiếc gối ngồi thiền đã được đặt sẵn cho chúng tôi.
    Thầy cười, “Mời quí vị vào, xin mời ngồi xuống.”
    Chúng tôi ngồi xuống, bên cạnh Sư cô Chân Không.
    “Hôm nay Thầy thấy anh đi xuống suối. Anh đang quay phim thác nước à?”
    Buổi sáng đó, khi tôi đứng trước Thầy trên con đường đó, tôi đã ghi hình Thầy bước đi dọc dòng suối. Thầy nhìn lên phía tôi khi tôi đang quay phim. Tôi sợ Thầy nghĩ rằng tôi đang xâm phạm sự riêng tư của Thầy, nhưng qua nụ cười của Thầy, tôi có thể thấy Thầy rất vui khi tôi ghi hình những cảnh đẹp của tu viện Bát Nhã.

    “Thưa vâng, dưới đó thật đẹp, thật yên bình.”
    Thầy chỉ vào bát của chúng tôi “Mời quí vị dùng cơm”
    Thể hiện lòng tôn kính, chúng tôi đợi đến khi Thầy gắp đũa đầu tiên mới bắt đầu ăn. Thầy gắp cho tôi một miếng xả. “Thử đi. Ngon lắm đấy.” Tôi đưa bát ra và Thầy bỏ vào.
    “Thưa, ngon thật.” Tôi công nhận. “Những khu vườn ở đây thật đẹp. Mình có thể trồng rau quanh năm được không ạ?”
    “Được chứ, quanh năm.”
    Chúng tôi ăn trong im lặng một lát, rồi bàn về khóa tu cho cư sỹ. Tôi kể cho Thầy rằng tôi cứ không thể tưởng tượng được tu viện lại có thể thu xếp ăn ở cho từng đó con người.
    “Thực tế là chúng tôi không có đủ cơ sở vật chất.”, giọng Thầy thật nhẹ, “Mọi người ngủ ở mọi nơi, và không có đủ cả nhà vệ sinh. Chúng tôi sẽ phải xây thêm. Thử cái này đi. Anh có biết nó là gì không? Thầy không biết tiếng Anh gọi nó là gì.” Thầy lại gắp cho tôi một lá rau có mùi thơm.
    “Thưa, cái này ăn giống rau ngò.” Tôi đáp lời.
    Thầy gắp một lá cho chính mình, nhai rất cẩn trọng, tận hưởng cảm giác thích thú. Thật đúng là thú vui của một thầy tu. Thầy gắp tiếp cho tôi một loại lá khác.
    “Cái này giúp nhuận tràng” Sư cô Chân Không nói, dường như hơi quá nhiều thông tin. Sư cô lật qua một tạp chí Việt Nam trong đó có bài viết về chuyến đi. Sư cô rất thoải mái. Sư cô đã cùng Thầy đi chung con đường này hơn bốn thập kỷ.

    Thầy bật cười nhẹ khi đưa cho chúng tôi đĩa nấm chiên và giải thích “Thịt chay đấy.”
    “Rồi các anh cảm thấy ra sao khi ở đây với chúng tôi?”
    Tôi đáp: “Thưa, thật tuyệt vời. Nó cũng giúp chúng con thật sự nâng cao kỹ năng làm phim của con. Con luôn nói rằng làm phim là phải tỉnh thức, phải thực sự nhìn, nhưng ở đây, được bao bọc bởi sự thực tập chánh niệm của nhiều người, con thấy mình còn chánh niệm hơn nữa. Ngay cả khi con không trực tiếp tham gia thiền hành thì con cũng di chuyển từ chỗ này đến chỗ kia một cách chánh niệm. Từng khoảnh khắc đều là thiền. Cảm ơn Thầy vì điều đó.”

    Cher nói thêm: “Nhóm thiền sinh muốn con kể cho Thầy biết họ thật là hạnh phúc khi được đi chuyến này cùng Thầy. Họ nhờ con gửi lời đến Thầy.”

    Thầy chắp hai bàn tay và xá. Sư cô Chân Không kể về chuyến thăm của Sư cô tới những ngôi trường không phải đóng học phí và được dạy theo đường hướng tâm linh đạo Bụt do Làng Mai giúp thành lập ở những nơi trẻ em không có điều kiện tiếp xúc với sự giáo dục. Sư cô ngồi giữa các em nhỏ luôn luôn là hình ảnh ngọt ngào – trông sư cô giống như em bé nhất giữa các em. Sư cô tả lại cho Thầy nghe Sư cô đã ngồi sau xe gắn máy ra sao để đến thăm thêm được những ngôi trường ở vùng sâu vùng xa, nảy lên nảy xuống trên con đường đất đỏ bụi bặm xuyên qua những vườn cà phê và lên dốc xuống đèo. Sư cô cười phá lên khi kể đến đọan người lái xe gắn máy cố gắng trấn an Sư cô “Sư cô đừng lo, nếu Sư cô ngã thì con cũng ngã mà.” Niềm vui của Sư cô rộn rã, có phần đối lập với niềm vui bình lặng của Thầy.

    Sau bữa tối, Thầy mời chúng tôi bánh quy và chúng tôi đặt máy quay phim cho buổi phỏng vấn. Thầy bảo tôi “Câu hỏi hay sẽ có câu trả lời hay.”

    Thầy nhìn sâu vào mắt tôi, ôm trọn tôi trong cái nhìn dịu dàng nhưng mạnh mẽ như là câu trả lời đối với câu hỏi của tôi về ý nghĩa của tình thương. “Tình thương trong Đạo Bụt có rất nhiều nghĩa. Trước hết, đó là lòng từ, khả năng hiến tặng niềm vui, hiến tặng hạnh phúc, làm vơi nỗi khổ. Yếu tố thứ hai của tình thương đích thực trong Đạo Bụt là tâm bi. Tâm bi là khả năng tháo gỡ niềm đau nỗi khổ và sự tuyệt vọng của người khác. Đó là khả năng giúp người khác chuyển hóa điều gì đó trong nội tâm. Yếu tố thứ ba của tình thương đích thực là sự an lạc. Vì vậy tình thương đích thực phải có yếu tố an lạc.

    “Và yếu tố cuối cùng của tình thương đích thực trong Đạo Bụt là xả, bao dung. Mình không được loại trừ bất kỳ ai, không có sự phân biệt. Đây chính là yếu tố của tình thương đích thực. Nếu mình thương trong tinh thần đó, mình sẽ giữ được tự do. Mình sẽ không khổ đau nữa và không còn làm cho người khác khổ đau. Và khi chúng ta có tình thương đó trong lòng, tất cả những điều chúng ta nói, chúng ta làm đều biểu lộ tình thương.”

    .0.i-am-home-velcrow-ripper-shambhala-sun-septemberBA ĐẠI TRAI ĐÀN CHẨN TẾ

    Biểu hiện lớn nhất của tình thương của Thầy là ba Đại Trai Đàn cho 3-5 triệu người đã chết trong chiến tranh. Ba Đại Trai Đàn đã được tổ chức tại 3 thành phố ở các miền Bắc, Trung, Nam, mỗi Trai Đàn kéo dài 3 ngày – 3 trọng tâm của đất nước Việt Nam để hàn gắn vết thương chiến tranh. Thầy nhấn mạnh rằng nghi thức tế lễ và tán tụng ở các miền khá khác biệt, phản ánh chất lượng và truyền thống của các vùng khác nhau trên đất nước Việt Nam. Mọi người ở mọi nơi trên thế giới đều được mời tham dự các buổi lễ, cầu nguyện theo bất kỳ cách nào thích hợp với họ, ngay cả những người không theo tôn giáo nào cũng có thể tham dự. Thầy đề nghị những người Cộng sản đọc những văn bản mang tính đề cao con người của họ . Thầy giải thích “Đây là sự thực tập có tác dụng trị liệu, đã có từ lâu đời và ăn sâu vào truyền thống của người Việt. Phần đông chúng tôi đều tin rằng linh hồn của những người đã khuất đáp ứng lại lời mời của chúng tôi đến thọ thực trong thời gian các Đại Trai Đàn. Chúng tôi sẽ cúng dường thức ăn, nước uống và đặc biệt là cúng dường pháp để họ có thể nghe kinh chyển hóa những đau khổ của họ, và để họ có thể được sinh ra ở những nơi tốt hơn.”

    Đại Trai Đàn đầu tiên được tổ chức 1 tháng sau khi bắt đầu chuyến đi tại một ngôi chùa lớn ở Tp HCM. Cả khuôn viên chùa trở nên sống động với các biểu ngữ, bàn thờ và những phòng ở tầng dưới đầy những danh sách tên của những người thiệt mạng. Hàng ngàn người đã ở lại trong suốt ba ngày nghi lễ tưng bừng của Đại Trai Đàn. Các vị tu sĩ đã tới nghĩa trang của những người chống Cộng, những nghĩa trang đã bị đóng cửa ngay cả đối với những thành viên trong gia đình người chết trong nhiều thập kỷ. Họ mời linh hồn những người đã khuất bị bỏ rơi này tới tham dự với chúng tôi. Tất cả đều được đón chào. Những chiếc thuyền giấy hình hoa sen nhiều màu sắc đã được thả xuống sông, những lễ dâng hương được tiến hành, những buổi tụng kinh kéo dài đến đêm khuya.

    Thầy khai mạc Đại Trai Đàn ở tp HCM với một bài pháp thoại hùng hồn. Thầy ngồi trước chúng tôi, với đôi mắt bình thản, mở lớn và sáng quắc. Thầy hỏi chúng tôi khi người thương của mình mất đi, họ sẽ về đâu. Thầy nói mỗi người cần nhìn sâu để thấy rằng những người đã khuất đang có mặt trong chúng ta, giống như là đám mây đã trở thành mưa và nước mưa trở thành nước trà. Và như thế thì tổ tiên của chúng ta đang được tiếp nối trong chúng ta. Nếu chúng ta khỏe mạnh, nhẹ nhàng và tự do trong thân và tâm thì tổ tiên của chúng ta cũng sẽ được như vậy. Những người thương của chúng ta chỉ thay đổi về hình thức mà nội dung thì không đến không đi, không sinh không diệt. Tất cả những ai đã chết một cách oan ức trong chiến tranh cần đến năng lượng cộng đồng của toàn đất nước để được chữa lành. Chúng tôi đã ngồi hàng giờ dài của buổi lễ, toàn bộ gánh nặng của những gì đã xảy ra trên mảnh đất đầy thương tích này tràn về. Nước mắt tôi bắt đầu rơi, những giọt mưa của tổ tiên. Tôi đón chào những giọt nước mắt này. Từ khi tôi mở trái tim ra để thương, tôi đã thấy rằng tôi không còn sợ những giọt nước mắt nữa. Sư cô Chân Không nói với tôi rằng khi Hà Nội bị bỏ bom, Thầy đã khóc bởi vì những đồng bào của Thầy đang chết. Và khi Afghanistan bị bỏ bom, khi Iraq bị bỏ bom, Thầy cũng đã khóc với cùng một niềm quan tâm sâu sắc. Thầy không phân biệt. Tất cả những người đã khuất đều xứng đáng với những giọt nước mắt của chúng ta. Thầy đã viết một lá thư cho Tổng Thống Geoge W. Bush, hy vọng rằng Tổng Thống có thể mở trái tim mình để cảm thông cho những người dân đang bị ngài thả bom. Thầy nói rằng “Tôi mong ngài có thể khóc như tôi, ngài có thể đau khổ nhưng sau đó ngài có thể đưa ra những quyết định tốt nhất.”

    Thầy không hề yếu đuối, ngay cả khi Thầy có một trái tim cởi mở. Thầy là một bằng chứng sống của lòng từ bi mạnh mẽ. Thời gian được cùng Thầy sắp chấm dứt. Thầy nhìn tôi với ánh mắt thật sâu. “Trong truyền thống Đạo Bụt, tình thương bắt nguồn từ sự hiểu biết. Để có thể hiểu mình phải nhìn sâu và lắng nghe. Tất cả những lời mình nói là những điều mình làm đều bất bạo động, không phải đơn thuần là chiến thuật mà là sự biểu hiện của tình thương. Hiểu thấu được sự đau khổ của người khác sẽ đem lại tình thương đích thực.”

     

    ______________
    Sư cô Khiết Nghiêm chuyển ngữ
    chuyển ngữ từ Shambala Sun, tháng 09/2007, trang 50

    I am Home – By Velcrow Ripper
    Filmmaker Velcrow Ripper reports on Thich Nhat Hanh’s historic return to Vietnam, where tens of thousands gathered with him to revive Buddhist practice and to heal the wounds of war.

     

    Lời khấn nguyện trong đại trai đàn chẩn tế bình đẳng giải oan >>

    Xứ sở của giây phút hiện tại

    Shambhala Sun | January 2013
    In the Country of the Present Moment

    Trích từ tạp chí Shambhala Sun số ra Tháng Giêng 2013.
    Ký giả Andrea Miller viết sau một chuyến thăm Làng Mai.

    Sư cô Chân Tại Nghiêm dịch từ nguyên bản tiếng Anh


    Andrea Miller đến thăm Làng Mai tại Pháp với mong muốn tìm hiểu xem tăng thân của Thầy Thích Nhất Hạnh đang thực tập Năm giới như thế nào. Liệu Năm giới có đích thực là nền tảng để giúp thế giới này trở nên tốt đẹp và lành mạnh hơn không?

    Tôi nghĩ khi đến ga xe lửa, tôi sẽ được một thầy hay một sư cô Làng Mai với màu áo nâu quen thuộc ra đón. Nhưng rốt cuộc thì người đón tôi lại là một phụ nữ Paris với đầu húi cua, mái trước thì để theo kiểu bờm ngựa, nhuộm đỏ hoe, lại còn xỏ khuyên tai ở mũi. Chúng tôi cùng khiêng vali bỏ vào xe và trò chuyện với nhau lỏm bỏm bằng tiếng Anh và tiếng Pháp trong khi cô lái xe chạy vùn vụt qua những  con đường miền quê đang tắm mình trong ánh nắng dịu nhẹ của buổi chiều tà. Chúng tôi đi ngang qua những cánh đồng mận, những ngôi nhà bằng đá với những ô cửa sổ được làm theo kiến trúc cổ của Pháp và những hàng nho trồng thẳng tắp. Nhưng điều làm cho tôi thoát khỏi cơn mệt mỏi sau một một chặng đường dài với hai chuyến bay và ba chuyến xe lửa chính là những cánh đồng hoa hướng dương. Những cánh hoa vàng tươi với nhụy màu nâu thẫm nổi bật giữa một màu xanh ngát của cành lá là hình ảnh mà tôi thường thấy trong những sách báo nói về Làng Mai. Tôi biết là tôi đã tới, cuối cùng thì tôi cũng đã đến được Làng Mai.

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh gọi Làng Mai là “xứ sở của giây phút hiện tại”. Nằm ở miền Nam nước Pháp, đây là nơi cư trú của trên dưới hai trăm vị xuất sĩ, ngoài ra hàng năm nơi đây còn đón tiếp vài ngàn thiền sinh từ khắp nơi trên thế giới đến tu học. Trong ba mươi năm qua, các thầy, các sư cô Làng Mai cùng các bạn thiền sinh luôn thực tập những lời dạy của Thầy Nhất Hạnh về xây dựng tăng thân – những cộng đồng tu học và xây dựng một xã hội tỉnh thức. Nhưng làm thế nào mà các thầy, các sư cô Làng Mai có thể sống đúng với những lời dạy đó trong đời sống hàng ngày, trong từng hơi thở? Và, quan trọng hơn hết, các thầy, các sư cô ở đây đã tìm ra được những công cụ, những phương pháp gì mà tất cả chúng ta có thể sử dụng được để chuyển hóa tự thân, cho dù chúng ta đang ở bất cứ nơi đâu? Trong chuyến hành hương về Làng Mai lần này, đây là những câu hỏi mà tôi muốn tìm ra lời giải đáp.

    Theo Thiền sư Thích Nhất Hạnh, hay còn được gọi là Thầy – cách gọi thương kính mà các đệ tử dành cho Ngài, cốt lõi của những gì Thầy dạy nằm trong hai điều: thứ nhất, làm thế nào để có thể đối diện và ôm ấp – mà không phải là khỏa lấp hay che giấu – những cảm xúc mạnh và khổ đau của chính mình, và thứ hai, làm thế nào để có thể mang lại niềm vui và hạnh phúc cho chính mình. “Bạn có thể có hạnh phúc liền ngay bây giờ và ở đây mà không cần phải chạy đi tìm hạnh phúc ở một nơi nào khác”, Thầy dạy tôi.

    “Chánh niệm là một loại năng lượng mà ta có thể chế tác ra được”, Thầy nói tiếp. “Đó là năng lượng giúp đem tâm trở về với thân, để cho ta có thể sống đời sống của mình một cách sâu sắc hơn. Năng lượng chánh niệm cho phép ta ý thức được những gì đang xảy ra đối với cơ thể, cảm thọ, tri giác của mình – tức là biết được những gì đang xảy ra bên trong và xung quanh ta. Khi ta uống trà trong chánh niệm thì ta phải thật sự có mặt. Ta tiếp xúc với ly trà và thực sự có mặt bây giờ và ở đây. Nhưng nếu ta đang bị chiếm ngự bởi lo lắng, hay suy nghĩ miên man về quá khứ hoặc tương lai thì ly trà sẽ không thật sự có mặt. Khi đó sẽ không có sự sống đích thực, mọi thứ xảy ra chỉ như một giấc mơ.”

    Khi có chánh niệm, Thầy nói, “ta có thể tiếp xúc được với tự tính tương tức của vạn vật. Và một khi ta có được tuệ giác đó rồi thì mọi sự phân biệt, kỳ thị và sợ hãi sẽ tan biến. Ta sẽ ý thức rằng hạnh phúc của ta cũng là hạnh phúc của mọi người và khổ đau của mọi người cũng chính là khổ đau của chính ta. Vạn vật đều tương tức trong nhau.”

    Buổi sáng đầu tiên ở Làng, tôi tỉnh giấc khi nghe tiếng chuông báo hiệu đã đến giờ thức dậy chuẩn bị cho buổi ngồi thiền. Ngoài trời lúc đó vẫn còn tối. Căn phòng tập thể của tôi ở nhà Đầu Thôn thuộc xóm Mới vốn là một nông trại cũ. Nơi đây dành cho thiền sinh nữ và các gia đình đến thực tập. Tất cả thiền sinh đến Làng tu tập trong khóa tu đều được chia vào các gia đình pháp đàm. Chúng tôi ăn cơm chung, làm việc chung, và hầu như mỗi ngày đều thực tập chia sẻ pháp đàm với nhau. Gia đình pháp đàm của tôi bao gồm tất cả các thiền sinh ở nhà Đầu Thôn. Công việc của chúng tôi trong khóa tu là rửa dọn sau mỗi bữa ăn, vì vậy mà chúng tôi được biết đến với cái tên gia đình Joyful Scrubbers (Những người chà nồi vui vẻ).

    Gia đình “những người chà nồi vui vẻ”

    Phụ trách gia đình pháp đàm của chúng tôi là Sư cô Từ Nghiêm. Sư cô đã từng làm y tá 20 năm trước khi sư cô xuất gia năm 1991. “Thầy đã tạo dựng nên Làng Mai với ước mong là chúng tôi sẽ cùng chung sống và liên hệ với nhau như một gia đình”, sư cô Từ Nghiêm chia sẻ với tôi. “Ở đây chúng tôi cũng có sư anh, sư chị, sư em. Tăng thân là nơi nương tựa, là ngôi nhà thân thương và là nguồn sức mạnh nuôi lớn chúng tôi trong suốt đời tu của mình. Ngay cả khi có xung khắc hay mâu thuẫn nhỏ giữa hai người trong tăng thân thì bao giờ cũng có những người khác trong Tăng thân ôm ấp và giúp hai người đó hòa giải với nhau. Đó là lợi lạc của việc tu tập chung trong tăng thân.”

    Trong một tuần ở Làng, ngay bài pháp thoại đầu tiên tôi được nghe, Thầy đã dạy rất sâu sắc về tầm quan trọng của tăng thân. “Thực tập một mình, như một cá nhân cũng có thể được,” Thầy nói. “Nhưng mình có thể đánh mất sự thực tập trong vòng vài tháng vì mình không có tăng thân để hướng dẫn, bảo hộ và nâng đỡ cho mình. Đó là lý do vì sao một hành giả giỏi là người luôn tìm cách xây dựng tăng thân ở địa phương nơi mình cư trú. Ngay cả Bụt cũng vẫn cần đến tăng thân.”

    Nếu chúng ta chỉ là những giọt nước riêng lẻ thì chúng ta sẽ bị bốc hơi trên đường ra đại dương. Để đến được đại dương, ta cần đi như một dòng sông, như một tăng thân. “Hãy đi như một dòng sông,” Thầy nói.  “và để cho dòng sông ôm ấp mình. Nếu mình để cho năng lượng tập thể của tăng thân đi vào trái tim mình và giúp ôm lấy nỗi khổ, niềm đau trong lòng mình thì chỉ trong vài phút là mình bớt khổ liền.”

    Cuộc phỏng vấn của tôi với Thầy diễn ra vào Ngày Không Sử Dụng Xe Hơi – mỗi tuần ở Làng Mai đều có một ngày mà tất cả mọi người đều không sử dụng xe hơi nhằm giảm thiểu lượng khí thải carbon gây hiệu ứng nhà kính. Trong một căn phòng nhỏ, đơn sơ, Thầy nằm buông thư trên một cái võng màu xanh lá cây, trên tay là một ly trà ô long. Thầy vừa thưởng thức trà vừa nhấm nháp một chút mứt gừng. Ngồi quanh Thầy còn có nhiều sư cô, trong đó có một sư cô trẻ người In-đô-nê-xi-a mà Thầy giới thiệu là thị giả của Thầy. Rồi Thầy bảo sư cô hát một bài hát thiếu nhi tiếng Indo, mà nếu tôi hiểu đúng, thì đó là câu chuyện cổ tích về một con vẹt.

    Tôi vặn máy thu âm. “Chúng ta có thể bắt đầu được không thưa Thầy?” Tôi hỏi.

    “Bắt đầu cái gì?” Thầy đùa. “Ngồi chơi trên võng hả?” Đó là một lời nhắc nhở thật nhẹ nhàng, bởi vì tôi hơi căng thẳng khi được gặp một nhân vật quan trọng và đặc biệt như Thầy, trong khi đó thì Thầy lại không hề làm ra vẻ quan trọng về mình tí nào. Dù đã từng được đề cử giải Nobel Hòa Bình bởi Mục sư Martin Luther King và là tác giả của hơn 100 đầu sách, cũng như đạt được nhiều thành tựu đáng kể, Thầy vẫn mặc bộ đồ màu nâu bình dị như tất cả các vị xuất gia trong truyền thống của Thầy, bởi vì đó là màu áo mà người nông dân Việt Nam – quê hương Thầy – vẫn thường mặc. Thầy là người của muôn người.

    Thầy là người của muôn người

    Bất chợt có tiếng chuông từ đâu đó vang lên. Thầy nói: “Tôi đang có chánh niệm về tiếng chuông. Trong khi nghe chuông, tôi không suy nghĩ. Tôi tập trung tâm ý vào hơi thở và vào tiếng chuông. Khi có chánh niệm về một cái gì, ta tập trung tâm ý vào nó, và sức mạnh của sự định tâm sẽ giúp ta nhìn rõ bản chất thật sự của mọi việc, mọi vật và ta sẽ khám phá ra được tính tương tức của vạn pháp.”

    Thầy được nhiều người biết đến với việc sáng tạo ra từ “Inter-being” trong tiếng Anh, dùng để chỉ tính chất tương tức của vạn vật. Trong nhiều năm  qua, Thầy đã thường xuyên sử dụng hình ảnh của một bông hoa để giảng về giáo lý tương tức. Nếu có chánh niệm và có định lực thì khi nhìn vào một bông hoa như hoa hướng dương, phong lan hay một bông sen, ta sẽ thấy hoa được làm bởi vô vàn những yếu tố không phải là hoa. Bông hoa không chỉ được làm nên từ mưa, mà còn từ những đám mây tạo nên cơn mưa đó. Hoa không chỉ được làm nên từ đất mà còn từ những cây cỏ, cầm thú đã bị phân hủy và làm giàu cho đất. Nếu ta lấy đi hết tất cả những yếu tố không phải là hoa ra khỏi bông hoa, thì bông hoa sẽ không còn tồn tại được nữa. “Do vậy bông hoa không thể nào tồn tại biệt lập,” Thầy nói. “Nó phải tương tức với tất cả mọi thứ khác trong vũ trụ.” Điều này cũng đúng với con người. “Một con người được làm bằng những yếu tố không phải con người, và nếu ta lấy đi hết những yếu tố không phải con người thì con người đó không thể nào tồn tại được nữa. Vì vậy con người không thể tồn tại một mình mà phải  tương tức với vạn vật trong vũ trụ.”

    Theo Thầy thì tuệ giác tương tức chính là chìa khóa của hạnh phúc. “Khổ đau và hạnh phúc tương tức với nhau.“ Thầy nói. “Nếu ta hiểu một cách sâu sắc về khổ đau thì ta sẽ biết cách sử dụng nó để tạo nên hạnh phúc. Ta đã biết là hạnh phúc được làm bằng những yếu tố không phải là hạnh phúc, và một trong những yếu tố đó chính là khổ đau. Vì vậy khổ đau đóng một vai trò quan trọng để làm nên hạnh phúc.

    “Cũng giống như hoa sen và bùn vậy. Không có bùn thì ta không thể nào trồng được sen. Nếu không có bùn của khổ đau, ta không thể nào chế tác được hạnh phúc. Đó là lý do tại sao nếu ta tiếp xúc được với tự tính tương tức, ta sẽ không cần tìm cách chạy trốn khổ đau nữa. Thay vào đó, ta sẽ ôm ấp khổ đau của mình. Ta sẽ nhìn sâu vào khổ đau để hiểu được bản chất của nó và học cách sử dụng khổ đau để làm nên hạnh phúc.”

    “Những ai đã đi qua chiến tranh,” Thầy nói tiếp, “sẽ biết trân quý không khí hòa bình mà họ đang được hưởng bây giờ và ở đây. Nhiều người trong chúng ta phải đợi cho đến khi có chiến tranh xảy ra mới biết hòa bình quý như thế nào. Tuy nhiên, đối với những người này, sau khi đi qua những khổ đau do chiến tranh gây ra thì họ sẽ rất trân quý sự yên bình mà họ có được. ” Tương tự như vậy, khi một người đang khỏe mạnh, anh ta có thể không trân quý sức khỏe của mình. Đến khi bị bệnh, anh ta mới ân hận là mình đã không biết quý và sống cho hạnh phúc khi còn khỏe mạnh, rồi đến khi lành bệnh, anh ta mới thật sự trân quý sức khỏe của mình. “Ta có thể thấy đau khổ và hạnh phúc tương tức với nhau. Cũng giống như bên trái và bên phải, phía trên và phía dưới, như bùn và sen. Cái thấy về tương tức sẽ lấy đi tất cả những kỳ thị – những tư duy lưỡng nguyên, phân biệt – và mang lại sự hòa ái, hiểu biết và bình an. Thực tập chánh niệm có khả năng mang lại cho ta tuệ giác tương tức.”

    Nhằm đưa ra những phương pháp thực tập chánh niệm cụ thể trong đời sống hằng ngày, Thầy Thích Nhất Hạnh đã làm mới lại Năm giới truyền thống và làm biểu hiện được một cách cụ thể giáo lý Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo trong Năm giới, còn được gọi là Năm phép thực tập chánh niệm. Năm giới gồm có: 1. Bảo vệ sự sống; 2. Hạnh phúc chân thật; 3. Tình thương đích thực; 4. Ái ngữ và lắng nghe; 5. Nuôi dưỡng và trị liệu. “Năm giới dựa trên tuệ giác tương tức,” Thầy chia sẻ. “Tuệ giác tương tức là nền tảng để chúng ta xây dựng một nền đạo đức tốt đẹp hơn. Vì vậy năm giới – biểu hiện cụ thể của tuệ giác tương tức – chính là đạo đức ứng dụng, có thể giúp giảm thiểu khổ đau và đem lại cho chúng ta nhiều hạnh phúc hơn.”

    Trong cuốn sách Good Citizens (tạm dịch là “Người công dân tốt”), Thầy viết “Năm phép thực tập chánh niệm không dựa trên một tôn giáo hoặc một chủ thuyết nào. Ai trong chúng ta cũng có thể sử dụng năm phép thực tập này để làm nền tảng đạo đức cho cuộc đời mình mà không cần phải là Phật tử hoặc theo một đức tin hoặc một truyền thống tâm linh nào hết. Bạn vẫn là chính bạn thôi, chỉ khác là bạn đang cố gắng để sống đẹp hơn bằng cách thực hành theo những điều chỉ dẫn đó. Thực tập theo năm giới sẽ mang lại sự trị liệu, chuyển hóa, và hạnh phúc cho chính bản thân và cho cả thế giới.”

    1. Bảo vệ sự sống

    Trong thời gian tham dự khóa tu ở Làng Mai, tôi thường ăn cơm chung với gia đình pháp đàm dưới một gốc cây, cạnh đó có treo một chiếc xích đu nhỏ. Gia đình chúng tôi có khoảng hơn 20 người. Bữa ăn chỉ bắt đầu khi tất cả mọi người đều đã ngồi vào bàn, và chúng tôi dành vài phút quán chiếu về thức ăn – tặng phẩm của đất trời, của những người nông dân, những người đóng gói thực phẩm, những nhà phân phối, và những người đã nấu bữa ăn này cho chúng tôi. Sau một tiếng chuông, chúng tôi bắt đầu ăn muỗng đầu tiên trong yên lặng. Để có thể hoàn toàn có mặt và nuôi dưỡng lòng biết ơn đối với thức ăn mà mình thọ nhận, trong khi ăn chúng tôi không nói chuyện, chỉ thỉnh thoảng nghe tiếng muỗng nĩa va vào nhau mà thôi.

    Nhiều thiền sinh chia sẻ là ban đầu, họ cảm thấy không thoải mái khi ăn trong im lặng. Nhưng với tôi thì lại khác, tôi thấy khỏe liền lập tức. Thường thì tôi vừa ăn vừa xem TV hoặc vừa ăn vừa đọc sách hay nói chuyện. Tôi thường nghĩ rằng vừa ăn vừa làm một cái gì đó sẽ giúp tôi thư giãn hơn. Có thể là cũng có một chút thư giãn, nhưng không thể nào so sánh được với một bữa ăn trong im lặng cùng với gia đình pháp đàm được. Trong không khí yên lặng, tôi có thể hoàn toàn để tâm thưởng thức từng hương vị cũng như thành phần làm nên món ăn.

    Tặng phẩm của đất trời

    Những bát súp bốc khói với nước súp trong, những sợi bún thơm ngon tinh khiết hòa với vị ngọt của nấm dai; bánh ngọt được làm từ vụn bánh mì baguette, trộn với chuối và sô cô la đen; xà lách trộn với mì ống cùng với những trái ô liu đen mặn mà. Tất cả thức ăn ở Làng Mai đều là thức ăn chay, theo đúng tinh thần của giới thứ nhất là bảo vệ sự sống. Cũng giống như nhiều thiền sinh đến Làng, khi để tâm vào những thức mà mình ăn, tôi không còn muốn ăn thịt nữa – bởi vì tôi ý thức rằng khi ăn thịt động vật thì tôi cũng đang ăn cả những khổ đau của chúng khi bị giết để lấy thịt.

    Sư cô Châu Nghiêm, người lớn lên ở Chicago (Mỹ) và Narobi (Châu Phi) chia sẻ với tôi về những vi tế trong sự thực tập tôn trọng sự sống. “Chúng ta tương tức với tất cả mọi người và mọi loài, do vậy nếu ta làm hại đến bất cứ ai, bất cứ loài nào thì cũng có nghĩa là ta đang làm hại chính ta,” sư cô nói. “Nếu mình có một cái thấy sâu sắc như vậy thì mình không thể không thực tập tôn trọng sự sống dưới bất kỳ hình thức nào.”

    Tăng thân Làng Mai luôn tận dụng mọi cơ hội hướng dẫn mọi người thực tập để mang lại sự hòa giải, bình an, và bất bạo động, trong đó phải kể đến việc tổ chức khóa tu cho người Palestine và người Israel. Ban đầu, người Palestine và người Israel thực tập theo hai nhóm riêng, họ được học cách buông thư và tiếp xúc với các cảm thọ, với nỗi khổ niềm đau trong mình. Và rồi sau một tuần lễ được sống trong môi trường an ninh, bình an và đầy tình thương ở Làng Mai, những người Palestine và Israel đã đến với nhau để cùng chia sẻ. Và qua những buổi chia sẻ này, họ nhận ra rằng những người trong nhóm kia cũng có nhiều đau khổ không kém gì họ. Trước đó, theo sư cô Châu Nghiêm, “họ nhìn nhau như kẻ thù, nhưng sau khi nói chuyện và lắng nghe nhau, họ thấy là họ có rất nhiều điểm tương đồng.” Sau khi tham dự khóa tu ở Làng Mai, rất nhiều người Israel và Palestine đã phát nguyện phụng sự cho sự nghiệp hòa bình và hòa giải giữa hai dân tộc.

    “Chúng tôi chú trọng đến việc sống chung trong một tăng thân bởi vì nếu bạn có một nền tảng vững chắc như vậy trong cuộc sống thì bạn sẽ là người giúp mang lại hòa bình cho thế giới,” Sư cô Châu Nghiêm nói. “Bạn sẽ là người không hề đóng góp chút bạo động nào vào cuộc sống mà là một người bảo vệ sự sống. Bảo vệ sự sống, thương yêu sự sống phải bắt đầu bằng việc thương yêu sự sống của chính bạn và không kỳ thị những niềm đau, nỗi khổ của chính mình. Khi bạn không kỳ thị những cái chưa đẹp hoặc những nỗi đau của chính mình thì bạn cũng đồng thời học cách không kỳ thị những người mà bạn nghĩ là họ không tốt, không tử tế. Sự phân biệt, kỳ thị chính là nguyên nhân gốc rễ đưa đến hành động tàn phá, hủy diệt sự sống. Khi bạn nghĩ là có một cái gì đó không ổn đang xảy ra và bạn tin là “Đây là mình và  đó không phải là mình”, thì chính cái nhìn kỳ thị đó là gốc rễ dẫn đến sự giết chóc và tàn phá.” Sư cô Châu Nghiêm chia sẻ rằng ở Làng Mai, “chúng tôi tiếp xúc được với gốc rễ của tâm phân biệt và kỳ thị nhờ vào tuệ giác tương tức.”

    2. Hạnh phúc chân thật

    “Hạnh phúc chân thật không phải làm bằng danh vọng, quyền hành, của cải hoặc sắc dục mà được làm bằng hiểu và thương,” Thầy Nhất Hạnh chia sẻ trong cuộc phỏng vấn. “Khả năng sống trong giây phút hiện tại, bây giờ và ở đây, cho phép chúng ta nhận ra rằng chúng ta đã có tất cả những điều kiện cần thiết để có hạnh phúc. Ta không cần phải đi tìm kiếm hạnh phúc trong tương lai.”

    Ở Làng Mai không có một thầy hay sư cô nào có tài khoản riêng trong ngân hàng, cũng không có xe hơi hoặc máy tính riêng. Thậm chí không ai có địa chỉ email riêng. Sư cô Bạch chia sẻ, “đối với một người tu thì không có gì là riêng tư cả – chúng tôi cùng chia sẻ với nhau tất cả mọi thứ,  từ chỗ ở cho đến ý kiến của mình. Chúng tôi sống trong những căn phòng tập thể gồm có ba, bốn hoặc năm người. Mùa đông năm ngoái tôi ở trong một phòng đông nhất, có đến 7 sư cô.”

    Mặc dù cuộc sống không đầy đủ tiện nghi như ở ngoài đời nhưng không phải vì vậy mà mọi người ở đây cảm thấy khổ đau. Phỏng vấn sư cô Bạch Nghiêm ở quán sách của Xóm Mới, chưa cần đặt câu hỏi thì tôi cũng biết là sư cô đang có nhiều hạnh phúc, điều này hiện rõ qua nụ cười tươi luôn nở trên khuôn mặt của sư cô. Là con út lớn lên trong một gia đình có bảy người con, dường như sư cô đã quen với cuộc sống tập thể và đó là điều mà sư cô rất trân quý.

    “Hiện giờ tôi đang ở chung phòng với hai sư cô nữa,” sư cô Bạch Nghiêm nói. “Tôi chăm sóc cho một sư cô thứ hai trong phòng, và sư cô này chăm sóc cho sư cô thứ ba còn lại, rồi sư cô thứ ba này chăm sóc cho tôi. Đó gọi là vòng đệ nhị thân. Chúng tôi chăm sóc lẫn nhau không chỉ về sức khỏe vật chất mà còn về tinh thần và sự thực tập nữa. Đó là cái hay của việc sống chung trong tăng thân. Chúng tôi có cơ hội để xây dựng tình huynh đệ.”

    Tôi cứ ngẫm nghĩ hoài về những lời chia sẻ này. Có vẻ đây là một sự thực tập rất hay, nhưng sao tôi vẫn bị kẹt một chuyện, đó là mọi thứ có thể chung, nhưng ít nhất thì cũng có thể có email riêng chứ.

    Sư cô Bạch Nghiêm cười. “Không có email riêng hoặc không có tài khoản riêng cũng hay lắm,“ sư cô nói. “Hay là vì mình bớt được một mối lo.”

    3. Tình thương đích thực

    Vào ngày làm biếng –  ngày không có bất kỳ thời khóa chính thức nào, tôi được tham dự một lễ cưới tại Làng Mai. Lễ cưới bắt đầu bằng thiền hành. Quý sư cô đi trước, mặc áo tràng nâu và đội nón lá, theo sau là cô dâu chú rể, và cuối cùng là các khách mời. Một cách chậm rãi và tĩnh lặng, chúng tôi đi theo con đường dẫn ra tháp chuông của xóm Mới với chiếc mái cong cong, một bên là khóm tre xanh ngát, rồi vòng qua hồ sen trước khi vào thiền đường Trăng Rằm. Khi vào thiền đường, cô dâu chú rể ngồi trên bồ đoàn và tọa cụ màu tím trước bàn thờ Bụt – cô dâu trong chiếc váy cưới trắng tinh, còn chú rể thì mặc đồ vest.

    Cô dâu Raphaelle và chú rể Ian

    Hai người đã chung sống với nhau bảy năm trước khi cưới, những lời nguyện ước mà họ trao cho nhau trong lễ cưới đã thể hiện sự gần gũi và gắn bó giữa hai người. Chú rể Ian cám ơn cô dâu Raphaelle đã giới thiệu cho anh đến với Làng Mai và mang lại cho cuộc đời anh rất nhiều điều tốt đẹp. Anh nói rằng nếu không có sự yểm trợ của cô thì không thể nào anh có thể làm được album nhạc đầu tiên của mình. Anh hứa là sẽ tưới tẩm những hạt giống tốt của cô bằng cách khen ngợi cô với những lời mà cô xứng đáng được nhận, và anh sẽ chia sẻ những công việc trong nhà. Đến lượt Raphaelle, cô bày tỏ lòng tri ân đối với những gì Ian đã làm cho cô, nhất là khi cô cảm thấy không tự tin hoặc bất an. “Anh thực tập rất giỏi,” cô nói. “Em biết là anh sẽ nhắc em trở về với hơi thở khi em cần lắng dịu lại, và em sẽ yểm trợ anh khi anh bị căng thẳng bằng cách cho anh không gian để trở về với giây phút hiện tại.”

    Tình thương đích thực – giới thứ ba trong năm giới là về sự cam kết sâu sắc và lâu dài với người bạn đời của mình, đó là điều mà Ian và Raphaelle đã phát nguyện. Đây không phải là những luật lệ cấm đoán về chuyện quan hệ tình dục ngoài hôn nhân, cũng không phải sự liệt kê những hành động tình dục được coi là đúng đắn, mà cũng không phải là một sự phán xét về việc quan hệ với người khác phái hay quan hệ đồng tính. Thay vào đó, phép thực tập chánh niệm này nhấn mạnh đến yếu tố cần thiết để có thể đi đến quan hệ tình dục, đó là sự cam kết lâu dài và nghiêm túc của cả hai phía và sự cam kết này phải được cả gia đình và bạn bè biết đến.

    Trong thời gian ở Làng Mai tôi có nói chuyện với anh Will Stephens – anh đã cùng với gia đình đến Làng tham dự khóa tu mùa hè trong nhiều năm qua. Stephen nói: “Qua sự thực tập này, tôi bắt đầu biết được như thế nào là tình thương đích thực.” Anh giải thích: “ Nó không phải là chuyện Tôi thương em vì em đáp ứng được nhu cầu của tôi. Mà nó là việc làm cho người mình thương được tự do và hạnh phúc. Tôi nghĩ là tôi sẽ không thể chung sống với vợ tôi cho đến ngày hôm nay nếu không có sự thực tập này. Tôi sẽ không có được sự sáng suốt để thấy rằng vấn đề không phải từ vợ tôi, mà chính tôi mới là người có vấn đề.”

    Stephen nói rằng từ những năm 1960 đến nay, chúng ta sống trong một thế giới mà người ta khó có thể chấp nhận sự thực tập về tình thương đích thực bởi vì ai cũng muốn có quan hệ tình dục mà không bị ràng buộc bởi một cam kết lâu dài. “Nhưng theo kinh nghiệm của tôi thì chính tôi và người kia sẽ bị tổn thương nếu như quan hệ giữa hai người quá thân mật mà lại không  có sự cam kết lâu dài. Đó là một sự xâm phạm gây tổn hại tâm lý cho chính mình và cho người kia.”

    “Tôi cũng đã từng trải qua chuyện quan hệ tình dục ngoài hôn nhân,” Stephens thú nhận, “và nó đã gây ra bao khổ đau cho tôi, cho vợ tôi và cả cho người kia nữa.” Một điều rất quan trọng mà ta cần ghi nhớ đó là: tình dục không phải là tình yêu, và đôi khi ham muốn tình dục thực sự có gốc rễ từ một nhu yếu sâu sắc là được kết nối, được gắn kết với một ai đó hoặc muốn khẳng định sự tồn tại của một cái ngã. “Đối với tôi,” Stephens nói, “ham muốn tình dục thường có nguyên nhân là sự cô đơn, cho nên khi quan hệ vợ chồng của chúng tôi không vững chắc thì nỗi cô đơn trong tôi thường trở nên mạnh hơn.” Nhưng, theo giới thứ ba thì, “Những hoạt động tình dục phát xuất từ sự ham muốn luôn luôn làm hại bản thân và người khác.” Nó chỉ có thể là một tấm băng dán tạm thời để băng bó vết thương của sự cô đơn mà thôi.

    Để sống với tình thương đích thực không dễ tí nào, Stephens công nhận. “Mình phải để tâm và bỏ nhiều công sức với nó.” Chìa khóa thật sự là ở chỗ “mình chỉ cần để hết tâm sức nuôi dưỡng tình thương đích thực đối với người bạn đời của mình, khi đó thì vấn đề chung thủy trong quan hệ tình dục sẽ trở thành một điều hết sức tự nhiên mà không cần phải cố gắng.” Dạo này Stephens và bạn đời của anh thường xuyên dành thì giờ để chăm sóc và trân quý nhau, chia sẻ với nhau những niềm đau hay những khó khăn mà họ đang đi qua. Giờ đây quan hệ giữa hai vợ chồng luôn có nhiều thương yêu, và vì vậy mà sự thủy chung có mặt.

    Lễ cưới hôm đó ở Làng Mai được kết thúc bằng thiền ôm – thay vì một nụ hôn, cô dâu chú rể đã đánh dấu hôn ước của mình bằng một cái ôm tròn đầy. Họ bước ra khỏi thiền đường với một nụ cười rạng ngời hạnh phúc. Những cánh hoa được tung lên trời để chúc mừng hạnh phúc của họ.

    4. Ái ngữ và lắng nghe

    Sư cô Chân Không đã làm việc bên Thầy hơn năm mươi năm qua và được công nhận là một người có đóng góp rất lớn vào sự phát triển của Làng Mai. Sư cô cũng đồng thời là một giáo thọ tài năng. Trong thời gian tôi tham dự khóa tu, vào một buổi chiều, sư cô đến Xóm Mới để dạy về một phương pháp thực tập có tên gọi là Làm Mới. Đó là phương pháp thực tập có tác dụng hỗ trợ cho sự thực tập giới thứ tư về ái ngữ và lắng nghe.

    Phương pháp Làm Mới giúp chúng ta nhìn sâu và trung thực về bản thân, đồng thời giúp cải thiện quan hệ giữa ta và mọi người thông qua sự thực tập ái ngữ và lắng nghe. Làm Mới gồm có bốn bước. Bước thứ nhất là nói lên những điều mà bạn trân quý nơi người kia, hay còn gọi là “tưới tẩm những hạt giống tốt” nơi người đó. Điều này có nghĩa là khi bạn chú ý đến những phẩm chất tích cực của người kia thì cũng đồng thời giúp cho những phẩm chất này lớn mạnh hơn. Bước thứ hai là thừa nhận những hành động còn vụng về của bạn trong liên hệ với người đó. Trong việc này, sự thực tập chánh niệm có thể giúp bạn vì nó sẽ rèn cho bạn càng ngày càng ý thức hơn về những hành động của mình. Tiếp theo, bước thứ ba là chia sẻ những niềm đau, những tổn thương mà bạn nghĩ rằng do người kia gây ra. Điều vô cùng quan trọng ở đây là bạn cần chia sẻ một cách nhẹ nhàng, khéo léo và không đổ lỗi cho người kia – nói như thế nào mà người kia không cảm giác là bạn đang chỉ trích họ, mà thay vào đó bạn chỉ muốn họ mở lòng ra để giải thích về những hành động mà đã làm cho bạn tổn thương. Cuối cùng, bước thứ tư là chia sẻ bất cứ khó khăn nào mà bạn đang trải qua và xin người đó giúp đỡ bạn. Sau đó, người nói và người nghe có thể đổi vai cho nhau.

    Ở Làng Mai, tăng thân xuất sĩ thực tập hai bước đầu của pháp môn làm mới hai tuần một lần và thực tập cả bốn bước trong những nhóm nhỏ, hoặc hai người làm mới riêng với nhau khi có nhu cầu. Sư cô Chân Không khuyến khích các bạn thiền sinh thực tập Làm Mới trong gia đình của mình. Bạn có thể thực tập ngay cả khi người mình muốn làm mới chưa từng biết đến pháp môn này. Bạn có thể khéo léo thực tập theo các bước đã nêu trên mà không bị kẹt vào hình thức, và không cần mong đợi là người đó sẽ tiếp nhận liền. Theo sư cô Chân Không thì với thời gian thái độ của người kia đối với bạn sẽ thay đổi theo chiều hướng tốt hơn.

    Như sư cô đã chia sẻ với một nhóm các bạn thiền sinh trong khóa tu ở Xóm Mới, “khi các bạn nhìn tôi, các bạn có một cái tưởng, một tri giác về sư cô Chân Không, nhưng cái tri giác đó của bạn chỉ có khoảng chừng 5 hoặc 10 phần trăm là gần với sự thật. Điều này cũng xảy ra tương tự khi bạn nhìn người mà bạn đang yêu hoặc người mà bạn ghét.” Tri giác của chúng ta không toàn hảo, vì vậy để hiểu thêm về người khác, chúng ta cần truyền thông nhiều hơn với họ.

    5. Nuôi dưỡng và trị liệu

    Hôm nay cây dâu gần vườn Bụt xóm Mới – nơi có ba tượng Bụt đang ngồi – trở nên rực rỡ với những mảnh giấy đủ màu được cắt thành hình trái tim, bông hoa hay hình cây nến đính trên các cành cây. Lục trong balô của mình, tôi tìm một mẩu giấy nhỏ màu xanh lá cây và viết lên đó tên của những người thân đã khuất  – ông bà, cha, chú và dì của tôi. Rồi tôi dán mảnh giấy đó lên một nhánh cây. Ngày hôm nay, ở Làng Mai có lễ giỗ tổ tiên để tưởng nhớ đến ông bà tổ tiên của mình và ý thức rằng chúng ta là sự tiếp nối của liệt vị. Sau buổi lễ, chúng tôi ăn trưa ngoài trời với bánh ngọt và có cả màn múa lân đẹp mắt với những con lân chớp chớp mắt, ngúc ngoắc đuôi, và nhảy nhót theo nhịp trống dồn. Chỉ một thứ duy nhất không có trong lễ giỗ tổ tiên này, đó là rượu.

    Mặc dù tôi có thể uống rượu một cách chừng mực mà không bị tổn hại gì nhiều cho bản thân ngoài chuyện bị choáng váng nhức đầu vào ngày hôm sau, nhưng đối với nhiều người thì chuyện đó là không thể. Đối với con cái, bạn bè và đồng nghiệp của mình, tôi không thể nào biết được cấu trúc gen di truyền hay nhìn thấu những ngõ ngách ẩn chứa những yếu đuối trong thân tâm của họ. Nói một cách ngắn gọn, tôi không thể biết hết được những tác hại mà rượu có thể gây ra đối với họ trong tương lai. Nhưng thông qua hành động uống cùng họ và trước mặt họ, tôi đã vô tình khuyến khích họ uống rượu. Vì vậy, ở Làng Mai mọi người đều ý thức rằng việc không sử dụng các sản phẩm độc (như rượu, các thức gây nghiện, v.v.) không chỉ vì lợi ích cho chính bản thân chúng ta, mà còn vì lợi ích của mọi người.

    Trong cuộc phỏng vấn với sư cô Châu Nghiêm, sư cô đã chia sẻ với tôi những điều Bụt dạy về bốn loại thức ăn (tứ thực) – những lời dạy này đã được thể hiện bằng giới thứ năm. Ngoài các loại thức ăn, thức uống mà chúng ta đưa vào cơ thể bằng đường miệng (còn gọi là đoàn thực), chúng ta còn tiêu thụ các loại thức ăn khác như: xúc thực, tư niệm thực và thức thực. Xúc thực bao gồm những thức ăn được đưa vào cơ thể qua mắt và tai – chẳng hạn như các hình ảnh quảng cáo, phim ảnh, sách báo và ngay cả chuyện trò.

    Còn tư niệm thực là những điều thôi thúc chúng ta trong cuộc sống, đó là ước mơ, là khát vọng của chúng ta. “Nếu bạn muốn trở thành nổi tiếng hoặc làm ra thật nhiều tiền, ước muốn đó được coi là một loại tư niệm thực,” Sư cô Châu Nghiêm giải thích. “Nó đem lại cho bạn thật nhiều năng lượng, bạn có thể thức khuya và xả thân mình cho mục đích đó. Nhưng bạn cũng có thể có ước mơ làm vơi bớt khổ đau của mọi người, đó cũng là một loại tư niệm thực, và nó cũng có thể đem lại cho bạn rất nhiều năng lượng.”

    Sau hết là thức thực, đây là loại thức ăn mà lúc nào mình cũng “ăn”. Theo sư cô Châu Nghiêm, “nó đến từ tâm thức của chính cá nhân mình, những suy nghĩ, những ký ức của mình, và ngoài ra còn đến từ tâm thức cộng đồng. Nếu chúng ta ở cạnh những người có nhiều sợ hãi và giận dữ, chúng ta sẽ ăn thức ăn của tâm thức cộng đồng là sợ hãi và giận dữ. Nhưng nếu ta ở cạnh những người có bình an, thì năng lượng bình an đó chính là một loại thức ăn.”

    Ở Làng Mai, các thầy, các sư cô cũng như các bạn thiền sinh đến Làng tu tập đều cố gắng thực tập tiêu thụ bốn loại thức ăn này trong chánh niệm. Về đoàn thực, sư cô Châu Nghiêm nói, “chúng tôi chỉ lấy thức ăn vừa đủ mà thôi, và chúng tôi luôn biết ơn là mình có đủ thức ăn để nuôi sống mình và cho phép mình tiếp tục tu tập.” Còn về xúc thực, “chúng tôi không xem truyền hình hoặc nghe radio hay đọc báo. Chúng tôi có thể lên Internet để đọc, nhưng chỉ đọc vừa đủ để biết cái gì đang xảy ra trên thế giới. Chúng tôi không tiêu thụ tin tức một cách thường xuyên bởi vì tin tức không phải là nguồn duy nhất cho ta biết về thực tại. Rất nhiều tin tức chỉ tập trung vào những khía cạnh tiêu cực của cuộc sống, tại vì những cái đó mới ăn khách.” Nếu chúng ta tiêu thụ quá nhiều tin tức và trở nên tuyệt vọng hoặc thờ ơ, dửng dưng thì cái đó không giúp gì được để cải thiện tình hình thế giới.

    Tại Làng Mai, các máy vi tính đều có cài chuông để thỉnh thoảng nhắc mọi người trở về với hơi thở vào và hơi thở ra. “Tiếng chuông chánh niệm là một loại xúc thực có tác dụng giúp ta trở về chăm sóc tự thân và không bị cuốn theo dòng suy nghĩ suốt cả ngày,” Sư cô Châu Nghiêm giải thích. “Suy nghĩ của chúng ta đôi khi không phải là những thức ăn lành mạnh, do vậy dừng lại dòng suy tư và tiếp xúc với những gì đang xảy ra ngay bây giờ và ở đây sẽ giúp nuôi dưỡng chúng ta. Nếu để ý, ta có thể nghe được tiếng gió thổi qua những cành cây và cả tiếng chim hót. Có rất nhiều thứ nuôi dưỡng chúng ta nếu chúng ta có ý thức.” Thức thực ở Làng Mai rất lành mạnh, bởi vì ở đây có khoảng 200 vị xuất sĩ đang thực tập chánh niệm mỗi ngày và họ thực tập như vậy quanh năm. Ngoài ra, trong tuần này còn có cả ngàn thiền sinh đến đây, và khi mà có khoảng một ngàn người cùng đi thiền hành, cùng ăn cơm trong chánh niệm theo gia đình pháp đàm thì tạo ra năng lượng rất hùng hậu, rất trị liệu.”

    “Năm phép thực tập chánh niệm không phải là luật lệ hoặc các điều răn dạy của một đấng tối cao”, Sư cô An Nghiêm chia sẻ – sư cô đã từng làm việc cho thị trưởng của thành phố Washington D.C trước khi xuất gia. Một số người quyết định không thọ năm giới vì họ nghĩ là họ cần phải thực tập các giới này một cách hoàn hảo. “Ai trong chúng ta có thể làm bất cứ cái gì cũng hoàn hảo hết?” Sư cô An Nghiêm hỏi. “Năm phép thực tập chánh niệm là phương hướng để chúng ta đi tới. Cũng giống như ngôi sao Bắc đẩu ở đằng kia, tôi muốn đi về hướng đó. Khi tôi càng đi theo hướng đó và chuyển hóa thì tôi sẽ nhìn thấy con đường càng lúc càng rõ ràng hơn.

    “Chúng ta có thể đi theo nhiều con đường, nhưng cốt lõi nhất – cái đỉnh cao nhất – là niệm, định và tuệ. Một số người có thể thực tập năm giới một cách rất nghiêm túc, một số khác thì thực tập theo một vài khía cạnh  mà thôi. Chìa khóa là ở chỗ dù làm bất kỳ điều gì, bạn cũng cần phải làm trong chánh niệm và tỉnh thức, bởi vì khi bạn càng có ý thức về những hành động của mình, chẳng hạn như ý thức về việc ăn thịt hay uống rượu có ảnh hưởng thế nào tới thân tâm của bạn thì bạn có thể có một quyết định hết sức rõ ràng về chuyện có nên tiếp tục hành động như vậy nữa hay không.”

    Lễ truyền Năm giới

    Vào buổi tối cuối cùng của tôi ở Làng Mai đã diễn ra một buổi lễ truyền năm giới tại thiền đường Trăng Rằm, xóm Mới. Ở trung tâm của thiền đường, hướng về phía bàn thờ Bụt với hoa quả được bày biện khéo léo là chỗ ngồi của các giới tử – những người sẽ nhận năm giới. Tôi cũng vào ngồi với họ trên bồ đoàn và tọa cụ màu tím, dù là tôi đã nhận năm giới hồi năm ngoái. Sư cô An Nghiêm nói đúng, không ai trong chúng ta có thể làm mọi thứ một cách hoàn hảo, nhưng rồi dần dần, qua mỗi hơi thở, mỗi giây phút của đời sống hàng ngày, tất cả chúng ta đều có khả năng sống và thực tập năm giới càng lúc càng trọn vẹn hơn. Năm giới là những hạnh nguyện mà chúng ta có thể luôn luôn làm mới.

    Sau khi tham dự lễ truyền giới, tôi ra khỏi thiền đường với gia đình pháp đàm của mình. Trên đường trở về nhà Đầu Thôn một lần cuối trước khi rời Làng, tôi chợt nhận ra rằng trên tay tôi không còn chiếc đồng hồ đeo tay nữa – chiếc đồng hồ mà trên mặt có in thư pháp của Thầy, chữ It’s ở chính giữa, và chữ Now ở vị trí 12, 3, 6 và 9 giờ. Khi nhìn đồng hồ lúc nào mình cũng thấy dòng chữ It’s Now, nghĩa là bây giờ, bây giờ, bây giờ….lúc nào cũng vậy. Tôi quay trở lại nhưng không tìm ra được chiếc đồng hồ, và trong khi mặt trời bắt đầu lặn, tôi cảm thấy buồn vô cùng bởi vì chiếc đồng hồ đó là một chút gì của Làng Mai mà tôi muốn mang về nhà, vậy mà không được nữa rồi. Bỗng nhiên tôi nhớ tới Thầy và cuộc phỏng vấn của tôi với Thầy.

    “Làng Mai không hẳn là một nơi tọa lạc trong không gian và thời gian,” Thầy bảo tôi. “Bạn có thể có nó bất cứ lúc nào và ở đâu. Nếu bạn tới Làng Mai và bạn không biết cách sống trong giây phút hiện tại thì đó không phải là xứ sở của giây phút hiện tại. Nhưng nếu bạn đang ở Mỹ hoặc ở châu Á nhưng bạn an trú trong giây phút hiện tại thì bạn đang ở Làng Mai. Khi bạn bay trở về Mỹ, bạn vẫn có thể có Làng Mai trên máy bay. Bạn không cần tìm tới tương lai, bạn không cần quay về quá khứ. Nếu bạn biết sống những giây phút của đời sống hàng ngày trong niềm vui và sự bình an thì bạn đang ở Làng Mai đó. Bạn đang ở trong xứ sở của giây phút hiện tại.”

    Đạo Phật Làng Mai làm sao hấp dẫn…

    2008 05 14 tăng thân Làng Mai niệm Bồ Tát Quan Thế Âm

    “Đạo Phật Làng Mai làm sao hấp dẫn được một lượng người ngoại quốc đi theo đông đảo như thế?”

    Báo Hồn Việt phỏng vấn Thiền sư Thích Nhất Hạnh
    Nguyễn Đắc Xuân thực hiện

    Đại lễ Phật Đản Liên Hiệp Quốc Vesak 2008 bế mạc, Thiền sư Thích Nhất Hạnh và tăng thân Làng Mai gần 500 người rời Hà Nội, đáp máy bay về Tổ đình Từ Hiếu, Huế nghỉ ngơi vài hôm trước khi vào Hội An để tổ chức sinh hoạt với doanh nhân tại Palm Garden Resort từ ngày 24 đến 25.05.2008, một đại diện của báo Hồn Việt hân hạnh được gặp Thiền sư và được Thiền sư trả lời một số câu hỏi mà độc giả của Hồn Việt đang quan tâm sau đây.

    Nguyễn Đắc Xuân:
    Xin cám ơn Thiền sư đã dành thời gian nghỉ ngơi quý báu này tiếp đại diện báo Hồn Việt của Hội Nhà văn Việt Nam. Để tranh thủ thời gian, kính xin Thiền sư cho chúng tôi được chuyển đến Thiền sư thắc mắc của dân chúng Hà Nội khi đứng xem đoàn tăng thân Làng Mai hàng năm trăm người với nhiều quốc tịch khác nhau thanh thản tiến vào Trung tâm Hội nghị Quốc gia Mỹ Đình dự Phật Đản LHQ Vesak 2008, rằng: “Đạo Phật Làng Mai làm sao hấp dẫn được một lượng người ngoại quốc đi theo đông đảo thế?” Kính nhờ Thiền sư giải đáp hộ.

    2008 05 14 ts Nhất Hạnh tại Vesak
    Thiền sư Thích Nhất Hạnh:
    Tôi vắng mặt ở Việt Nam từ 1966. Trong thời gian ở nước ngoài, tôi dành ít nhất 30 năm để chia sẻ tuệ giác và thực tập đạo Bụt Việt Nam (sau này tôi thành lập Làng Mai ở Pháp nên có tên là Đạo Bụt Làng Mai) với người Tây phương bằng những khóa tu, cộng với hàng trăm cuốn sách đạo Phật Việt Nam hiện đại hóa. Các khóa tu chung cho giới trẻ và trí thức, cũng có những khóa tu dành riêng cho các thầy giáo, các doanh nhân, giới bảo vệ môi trường, diễn viên điện ảnh Hollywood, dân biểu quốc hội Hoa Kỳ, cảnh sát, người giữ tù, v.v… Phần lớn người Tây phương cho biết họ theo đạo Phật Làng Mai vì những điều thông thường sau đây:

    1. Đạo Phật đã có trên 25 thế kỷ, đến nay đạo Phật được trình bày lại với ngôn ngữ văn hóa mới của Việt Nam và thế giới, dễ hiểu, gần gũi với con người của thời đại. Đạo Phật không chỉ là một tôn giáo tín ngưỡng mà còn là nguồn tuệ giác sâu sắc, những phương pháp tu tập thực tế giúp cho mỗi cá nhân tháo gỡ được những khó khăn trong một thời gian tu tập ngắn (một khóa tu ngắn hạn có thể từ 7 đến 10 ngày). Nói cách khác, người Tây phương đến tu học ở Làng Mai không phải để được hiến tặng một đức tin mà để được tiếp nhận một phương pháp thực tập kinh nghiệm, đem lại hạnh phúc cho mình, ngay bây giờ và ở đây.

    2. Đức Phật không phải là một đấng tạo hóa hay một vị thần linh mà đích thực là một con người, một người đã đắc đạo, có tuệ giác cao siêu nhờ tu tập. Đạo Phật là một phương pháp sống nương vào tự lực hơn là nương vào một quyền lực linh thiêng bên ngoài không có giáo điều, không mặc khải, không xung đột báng bổ với bất cứ một truyền thống tâm linh nào, và trong bản chất đích thực của nó cũng không xung đột với khoa học hiện đại. Chúng tôi học đạo Phật và cũng học để biết các truyền thống khác như Thiên Chúa giáo, Tin Lành, Hồi giáo… Nhiều tín đồ Thiên Chúa giáo, Tin Lành, và các tôn giáo khác đến tu ở Làng Mai mà vẫn giữ nguyên tôn giáo mà họ đã theo. Có người giác ngộ muốn vừa làm Mục sư Tin Lành vừa làm Giáo thọ của Làng Mai. Sáng chủ nhật ông giảng bài với con chiên với phương pháp mới học ở Làng Mai, buổi chiều hướng dẫn thiền tập cho Phật tử Làng Mai. Nếu bề trên không cho phép thì ông chọn cái nghiệp mới là làm Giáo thọ. Trí thức và tuổi trẻ phương Tây rất thích điều này.

    3. Đạo Phật Làng Mai được người phương Tây theo nhiều vì đạo Phật giúp họ tháo gỡ được những khủng hoảng giữa cha mẹ với con cái, vợ chồng, về đời sống xã hội, bế tắc về tâm linh đang diễn ra ở phương Tây hiện nay.

    Nguyễn Đắc Xuân:
    Kính thưa Thiền sư, những người đến Làng Mai tu tập được học và thực tập những nội dung gì?

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh:
    Trước hết chúng tôi chia sẻ với họ cách hít thở, hành thiền, chánh niệm, phương pháp lấy ra những căng thẳng trong thân, trong tâm, tập nhận diện và ôm ấp những sợ hãi, đau buồn, lo lắng của mình. Nhìn sâu vào mình để có thể nhận diện được bản chất tâm hành đó. Rồi nhìn vào người thân của mình để nhìn thấy trong họ có căng thẳng trong thân, trong tâm để phát khởi lòng thương, chấp nhận họ. Nhờ sự lắng dịu trong thân và tâm, cởi bỏ được thái độ trách móc, với phương pháp ái ngữ và lắng nghe, hiểu được khó khăn và bức xúc, khổ đau, mơ ước của người khác, chấp nhận người khác và giúp đỡ được cho người khác. Đó là hiểu và thương. Lập lại được truyền thông đã mất giữa những người thân.

    Sau các khóa tu, nhiều phép lạ đã xuất hiện, vợ chồng tưởng cắt đứt vĩnh viễn lại hòa giải được, cha mẹ với con tưởng đã không thể hiểu nhau lại làm hòa được và thương kính nhau. Sau các khóa tu, chúng tôi không quyến rũ người ta theo đạo Phật. Nhưng khi họ đã thấy được hiệu nghiệm của đạo Phật, họ xin quy y Phật và thọ năm giới. Năm giới là sự thực tập cụ thể của tình thương. Giới thứ nhất: bảo vệ sự sống, giới thứ hai: chia thời gian và tài vật cho người khác, không ăn cắp, ăn trộm; giới thứ ba: không lạm dụng tình dục, giới thứ tư: ái ngữ và lắng nghe; giới thứ năm: tiêu thụ trong chánh niệm (chỉ tiêu thụ những sản phẩm mang lại sự an lạc cho tâm mình, không rượu chè, ma-túy). Tiếp đến họ được chia sẻ ý nghĩa của Tứ Diệu Đế và tùy theo ý nguyện, họ có thể đi sâu vào các lĩnh vực triết lý Phật giáo cao siêu khác.

    Nguyễn Đắc Xuân:
    Xin Thiền sư cho biết có thể áp dụng năm giới cho toàn xã hội phương Tây và Việt Nam được không?

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh:
    Đó là ước muốn của Phật giáo. Nhiều Phật tử Việt Nam đã thực hiện 5 giới từ lâu rồi. Hàng triệu người trong hàng ngàn tăng thân theo đạo Phật Làng Mai trên thế giới đang thực hiện. Phật tử sinh hoạt đạo Phật ở Làng Mai (Pháp), Lộc Uyển (miền nam California, Mỹ), Bích Nham (New York, Mỹ), Bát Nhã (Bảo Lộc, Việt Nam) và ngay tại chùa Từ Hiếu (Huế) này nhiều Phật tử đang thực hiện. Nếu năm giới được đưa vào chương trình giáo dục quốc gia, thanh niên được chia sẻ và thực tập năm giới là một hồng ân của dân tộc. Thực hiện năm giới là cứu nạn cho con người hiện nay.

    Nguyễn Đắc Xuân:
    Kính xin Thiền sư cho vài ví dụ!

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh:
    Thực hiện giới thứ nhất là muốn bảo vệ sự sống thì phải sử dụng khả năng hiểu và thương để chấm dứt các cuộc xung đột trong phạm vi gia đình, cộng đồng, quốc gia và quốc tế, phải biết lắng nghe và nhìn sâu để tự hiểu mình và hiểu người khác, giải quyết những ngộ nhận để các dân tộc hiểu và thương nhau, lập lại hòa bình (ví dụ như chiến tranh ở I-rắc); thực tập giới thứ hai là không trộm cắp, không bóc lột, để trừ tận gốc bệnh tham nhũng, ăn cắp hiện nay. Thực hiện giới thứ năm là góp phần bảo vệ môi trường bằng cách sản xuất và tiêu thụ có ý thức chánh niệm. Một số tu viện của đạo Phật Làng Mai đã bắt đầu dùng điện mặt trời, ô-tô không chạy bằng xăng mà chạy bằng dầu thực vật v.v…

    Nguyễn Đắc Xuân:
    Những đại biểu thuộc nhiều tôn phái Phật giáo trên thế giới đến dự Phật Đản LHQ Vesak 2008 tại Hà Nội vận đủ kiểu, đủ sắc màu vàng, nâu, đen, trắng rất mới lạ. Tại sao Thiền sư và tăng thân Làng Mai chỉ với áo nâu và chiếc nón lá?

    2008 05 14 tăng thân Làng Mai tham dự Vesak   áo nâu nón láThiền sư Thích Nhất Hạnh:
    Nón lá, chiếc khăn chít đầu và trang phục màu nâu là hình ảnh và màu sắc của dân tộc Việt Nam đã có hàng ngàn năm nay. Đạo Phật Làng Mai là đạo Phật Việt Nam, dù đã được hiện đại hóa nhưng cái gốc văn hóa Việt Nam thì phải rõ. Hơn bốn mươi năm trước tôi ra đi với chiếc nón lá và chiếc áo nâu, nay trở về cũng chỉ với chiếc nón lá và áo nâu. Bây giờ, tôi thấy y áo lễ phục của các tăng sĩ Việt Nam mình màu sắc rực rỡ, gấm hoa, sang trọng quá nó gây cảm giác xa lạ với truyền thống bình dân Việt Nam. Tôi không muốn mình xa lạ với dân tộc mình. Áo nâu và nón lá là hình ảnh của đạo Phật Làng Mai đã quá quen thuộc với thế giới rồi thay đổi làm gì nữa và cũng không thể thay đổi được. Hình ảnh giới tu sĩ Phật giáo Việt Nam ở nước ngoài là thế đó!

    Nguyễn Đắc Xuân:
    Lâu nay chắc Thiền sư có biết Việt Nam đang theo đuổi việc xây dựng một nền văn hóa “đậm đà bản sắc dân tộc”. Vậy, “bản sắc dân tộc” theo Thiền sư nghĩ là cái gì? Cái bản sắc văn hóa dân tộc Việt đó đi vào đời sống hội nhập thế giới hiện đại ngày nay có gì khó khăn trở ngại không?

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh:
    Bản sắc văn hóa dân tộc có thể cảm nhận được nhưng nói ra cho đầy đủ thì rất khó. Người ta nói Làng Mai là một Việt Nam thu nhỏ trên đất Pháp. Người ta sống với Làng Mai họ có cảm giác như thế chứ nói cái gì ở Làng Mai là mang bản sắc văn hóa Việt Nam thì khó. Về bản sắc dân tộc, tôi lấy một ví dụ: Ngày xưa cha ông mình đi ăn giỗ, đi sớm đi muộn gì cũng có phần ăn. Ăn giỗ xong trên đường về ghé bẻ một nhánh cây dọc đường xỉa răng, không sao cả. Bây giờ đi ăn giỗ phải đi đúng giờ, phải tính đến chuyện kẹt xe, nếu đi trễ sẽ phải ra nhà hàng ăn lót dạ trước khi quay xe trở về. Việt Nam nghèo nhưng cha ông ta có nếp sống nhàn nhã, thong thả, đến bữa ăn tất cả mọi người trong gia đình đều ngồi quanh mâm cơm, có thì giờ dạy bảo con cái, chuyện trò với người thân, kỵ giỗ đình đám quanh năm, cuộc sống gắn bó tâm tình thân thiết. Bây giờ thì ít khi bữa ăn có đủ mặt người thân trong gia đình, vợ chồng con cái ít có thì giờ gặp gỡ, trò chuyện với nhau, mỗi người có mỗi thời khóa biểu làm việc riêng, không phụ thuộc nhau. Kỵ giỗ không nhớ. Vì vậy nếu giữ cái bản sắc dân tộc cố hữu của mình thì sẽ bị cuộc sống hiện nay đào thải. Nếu chạy theo cuộc sống hiện nay thì sẽ mất gốc. Theo tôi, văn hóa Việt Nam là một cái mỏ vàng, ta phải khai thác, tinh lọc để lấy cho được thứ vàng ròng, rồi dùng ngôn ngữ và phương pháp hiện đại trình bày lại cho hợp với nếp sống hiện đại. Làng Mai đã làm như thế đối với đạo Phật truyền thống của Việt Nam và đã có kết quả.

    Nguyễn Đắc Xuân:
    Kính thưa Thiền sư, như báo chí vừa phản ảnh, lễ Phật Đản Liên Hiệp Quốc Vesak 2008 tại Hà Nội vừa qua đã đạt được kết quả rất to lớn. Theo nhận xét của Thiền sư cuộc đại lễ chưa từng có đó có gì cần phải góp ý nữa không?

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh:
    Tôi hơi tiếc Ban tổ chức Đại lễ Vesak thiếu quan tâm đến giới trí thức hàng đầu của Việt Nam ở các Đại học, các Hội nhà văn, Hội sử học, Hội âm nhạc, và cả các tôn giáo khác. Phải có những thành phần ấy họ mới tiếp thu được kết quả của hội nghị để vận dụng vào cuộc đời ở những nơi, những giới mà ảnh hưởng của giới tu sĩ Phật giáo còn hạn chế.

    Nguyễn Đắc Xuân:
    Kính bạch Thiền sư, còn rất nhiều vấn đề độc giả Hồn Việt muốn biết nữa, nhưng vì sức khỏe của Thiền sư, chúng tôi xin được cám ơn Thiền sư ở đây. Kính chúc Thiền sư luôn sức khỏe để Đạo Phật Làng Mai dồi dào năng lượng chia sẻ phương pháp tu học giúp những người đang đau khổ lập lại truyền thông tạo dựng lại hạnh phúc đã mất trên thế gian này. Kính chào Thiền sư.

    Chùa Từ Hiếu, chiều 20.05.2008 (Hồn Việt số 12/06.2008)

    Ngồi trong bình an giữa lòng Boston

    (BBT chuyển ngữ từ bài viết “Thousands meditate with Zen Buddhist monk” của tác giả Billy Baker đăng trên tờ Boston Globe, ngày 16/9/2013)


    Khi Thiền sư Thích Nhất Hạnh – năm nay đã 86 tuổi – được giới thiệu trước công chúng tại quảng trường Copley vào chiều Chủ nhật, Thầy bắt đầu bằng hành động ngồi yên và không nói gì trong suốt 25 phút.

    Sự có mặt tại Boston lần này của Thầy Nhất Hạnh, vị Thiền sư người Việt đồng thời cũng là một nhà hoạt động vì hòa bình và một học giả được cả thế giới kính ngưỡng, là một phần trong chuyến đi hoằng pháp tại Mỹ của Thầy. Khi ngồi thiền trước đám đông khoảng 2000 người, Thầy Nhất Hạnh đã làm được một điều mà dường như không bao giờ có thể làm được: Thầy đã làm cho cả trung tâm thành phố vốn ồn ào, náo nhiệt cũng trở nên yên lặng cùng với Thầy, đến mức mà bất kỳ một tiếng động nào – dù là tiếng trượt ván, tiếng còi hay tiếng xe du lịch (duck boat tour) đi ngang qua – cũng trở nên lạc lõng giữa không khí tĩnh lặng nơi đây.

    Buổi ngồi thiền công cộng này diễn ra ngay trước Nhà thờ Trinity (Trinity Church) và kéo dài trong một tiếng đồng hồ. Không khí tại quảng trường lúc đó hoàn toàn yên lặng, chỉ thỉnh thoảng nghe tiếng Thầy hướng dẫn cho mọi người thở vào, thở ra và ý thức về những cảm xúc đang có mặt trong thân và tâm của mình.

    “Bằng cách trở về với hơi thở vào và hơi thở ra, chúng ta có thể dừng lại những suy nghĩ miên man trong đầu mình. Những suy nghĩ này thường kéo chúng ta ra khỏi giây phút hiện tại và không cho ta có mặt trong giây phút này, ngay bây giờ và ở đây” Thầy chia sẻ.

    Sự có mặt của Thầy Nhất Hạnh tại Boston là một sự kiện quan trọng đối với cộng đồng Phật giáo địa phương – Boston là điểm dừng chân duy nhất của Thầy Nhất Hạnh ở vùng New England trong hành trình hoằng pháp của Thầy tại Mỹ trong năm nay.  Vào ngày thứ Bảy, Thầy đã có một buổi pháp thoại có bán vé bên trong nhà thờ, nhưng Thầy mong muốn tổ chức một hoạt động mà công chúng có thể tham dự miễn phí.

    “Nếu bạn là một người thực tập theo đạo Bụt thì đây là một cơ hội thật hiếm có, vì Thầy Nhất Hạnh là một trong những vị thiền sư nổi tiếng nhất thế giới, có lẽ chỉ đứng thứ hai sau Đức Đạt Lai Lạt Ma mà thôi” – đó là lời của Louise Burnham Packard, Giám đốc điều hành của Trinity Boston Foundation, nơi đứng ra tổ chức sự kiện này.

    “Chúng tôi tổ chức sự kiện này nhằm đem thông điệp của Thầy “hòa bình trên thế giới bắt đầu từ hòa bình trong mỗi chúng ta” đến với mọi người. Thật là một sự trùng hợp kỳ diệu vì đây cũng là ngày kỷ niệm đúng 5 tháng kể khi xảy ra vụ đánh bom tại cuộc đua marathon ở Boston. Và giờ đây chúng ta cùng có mặt tại quảng trường Copley với mục tiêu mang cả thành phố đến với nhau.”

    Tổ chức một sự kiện trọng đại mà phần lớn ảnh hưởng của nó được tạo nên bởi sự yên lặng thực sự là một thách thức thú vị đối với các tình nguyện viên – những người mặc áo thun đồng phục với  dòng chữ “Sit in Peace” (Ngồi trong Bình an). Họ âm thầm làm việc dọc phía ngoài quảng trường để giúp cho những người đang ngồi thiền không bị ảnh hưởng bởi những âm thanh ồn ào, náo nhiệt của thành phố. Cả quảng trường từ nhà thờ cho đến những bồn hoa dọc đường Dartmouth đều chật kín người. Có những lúc các tình nguyện viên phải xử lý những tình huống hết sức khó khăn, như tìm mọi cách để thuyết phục một người biểu diễn đường phố để anh ta ngừng việc chơi nhạc trên đường Boylston.

    Trong số những người đến tham dự cũng có nhiều người thực tập theo đạo Bụt, tuy nhiên  phần lớn mọi người đến đây với một mục đích đơn giản là để bày tỏ lòng kính ngưỡng đối với thiền sư Nhất Hạnh và với giáo lý đạo Bụt.

    “Chúng tôi là những người thực tập thiền theo kiểu tùy hứng, nhưng chúng tôi có một niềm tin lớn vào đạo Bụt,” Steve Joseph, 59 tuổi, đến từ Arlington chia sẻ.

    “Thầy Nhất Hạnh là một nhà lãnh đạo tâm linh, vì vậy lý do mà tôi đến đây đơn giản là để được nhìn thấy Thầy và cảm nhận sự có mặt của Thầy,” Ann Horowitz, 57 tuổi, chia sẻ thêm.

    Tại quảng trường, trong lúc mọi người đều chờ đợi sự kiện bắt đầu, Sunny-San – một trong những tình nguyện viên – cũng cảm thấy nóng lòng chờ đợi sự xuất hiện của Thiền sư Nhất Hạnh. Anh tò mò muốn  tận mắt thấy, hay nói đúng hơn là muốn thực sự cảm nhận điều gì từ vị thầy này mà khiến cho quá nhiều người kính ngưỡng và mong chờ được gặp đến vậy.  Mục sư Martin Luther King Jr. đã từng ca ngợi Thầy là “một tông đồ của hòa bình và bất bạo động”. Những giáo lý căn bản của Thầy thường được người ta nhắc đến như là “nghệ thuật sống chánh niệm”, giúp cho ta tìm thấy hạnh phúc bằng cách sống an trú trong giây phút hiện tại.

    “Có một cái gì đó thật lạ nơi Thầy. Năng lượng từ Thầy làm cho tôi cảm nhận rằng đây đúng là một bậc thầy hiếm có,” Sunny-San chia sẻ. “Tôi có đọc một số sách của Thầy. Tôi cho rằng nếu có ai đó hỏi tôn giáo của Thầy là gì thì Thầy sẽ tóm tắt nó trong một từ, đó là: từ bi. Những gì Thầy dạy cho chúng ta không phải là để chúng ta trở thành một người y như Thầy. Thầy dạy cho chúng ta cách thương yêu lẫn nhau. Thầy đúng là người mà chúng ta đang cần ở đây, tại quảng trường Copley này”.

    Khi sự kiện bắt đầu, mục sư Bill Rich – lãnh đạo nhà thờ Trinity đã có một bài diễn văn trong đó nhắc đến vụ đánh bom xảy ra tại cuộc đua marathon ở Boston 5 tháng trước đó – địa điểm đánh bom chỉ cách quảng trường Copley khoảng vài trăm mét. Mục sư cũng đồng thời kêu gọi cho hòa bình và tưởng nhớ đến các nạn nhân của vụ đánh bom.

    Khi được mục sư Bill Rich giới thiệu trước công chúng, trong chiếc áo tràng nâu cùng với chiếc mũ len giữ ấm, Thiền sư Thích Nhất Hạnh – vị thầy lãnh đạo tâm linh – không làm gì khác ngoài việc ngồi yên lặng hoàn toàn trong suốt 25 phút. Và đây chính là những gì mà mọi người mong đợi được chứng kiến khi đến tham dự buổi ngồi thiền công cộng hôm đó.

     

     

    Sử dụng kinh thiền Nguyên thỉ làm nền tảng với tinh thần Phật giáo Ðại thừa

    Phương pháp thiền Làng Mai –
    Sử dụng các kinh thiền Nguyên thỉ làm nền tảng với tinh thần của Phật giáo Ðại thừa

    Được bắt nhịp và bám rễ trên mảnh đất Tây phương từ khá sớm, phương pháp thiền do Thiền sư Nhất Hạnh hướng dẫn đã tạo nên một ảnh hưởng rất lớn trong xu hướng tu tập của nhiều giới, nhiều người. Trong khuôn khổ phác thảo một bức tranh chung về Thiền học Việt Nam đương đại, NSGN xin trân trọng giới thiệu cuộc phỏng vấn với Thiền sư Nhất Hạnh xoay quanh chủ đề về Thiền phái mà Thiền sư chính là người khai phát thành công tại Tây phương và nhiều quốc gia trên thế giới.

    NSGN

    Phóng viên:

    Xin Thiền sư cho biết, nhân duyên nào khiến Thiền sư chọn pháp môn tu Thiền trong đường hướng tu tập của mình?

    Thiền sư Nhất Hạnh:

    Hồi còn là học Tăng, tôi đã có dịp thực tập các phép Chỉ và Quán của thầy Trí Giả, các pháp quán Ngũ Ðình Tâm, và phép niệm Phật, nhưng một phần vì sự học hỏi còn chưa được sâu sắc, một phần vì sự hướng dẫn của các vị thầy y chỉ lúc ấy còn sơ sài, nên kết quả không có gì đáng kể. Lớn lên, tôi có dịp nghiên cứu về Thiền Tổ Sư, Thiền Công Án, Thiền Mặc Chiếu, và cũng đã cố gắng đem ra thực tập, nhưng cũng không đạt được những kết quả mình mong muốn. Mãi đến khi phải đối diện với các tình trạng chiến tranh, đất nước chia đôi, mẹ mất, sa sút tinh thần, mất ngủ, tôi mới quyết liệt nắm lấy pháp môn An Ban Thủ Ý mà thực tập để sống sót. Nhờ đem thiền Ðông độ trở về tắm ở dòng suối của Phật giáo Nguyên thỉ nên tôi mới tinh lọc được giá trị chân thật của Phật giáo Ðại thừa. Những thiền kinh căn bản của Nguyên thỉ như Niệm Xứ, Niệm Thân, An Ban Thủ Ý, A Lê Xá, An Nan Thuyết v.v… trong Hán tạng cũng như trong Pali tạng đã được tôi nghiên cứu kỹ lưỡng để đem ra thực tập. Giáo nghĩa hiện pháp lạc trú, các phép điều thân, điều tức, nhận diện cảm thọ, cảm xúc, quán chiếu tự tính các pháp v.v… hiện ra như một bó đuốc soi đường. Lúc bấy giờ tôi mới thấy được tính cách thiết dụng các kinh điển đại thừa như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Kim Cương, và tính cách nhất trí giữa hai truyền thống Nguyên thỉ và Ðại thừa. Tác phẩm nhỏ bé Bông Hồng Cài Áo là hoa trái đầu tiên của sự thực tập ấy. Tác phẩm Phép Lạ của Sự Tỉnh Thức , xuất bản lần đầu tại Việt Nam và Hoa Kỳ năm 1974 là chứng tích của sự thực tập, 1956-1972 là giai đoạn thai nghén và hình thành Thiền Làng Mai.

    Thưa, quan điểm về Thiền của Ngài là gì, và nền tảng lý luận về phương pháp ấy?

    Thiền sư Nhất Hạnh:

    Tôi nghĩ, bất cứ pháp môn nào có sử dụng năng lượng của Niệm và của Ðịnh đều mang tính chất thiền, kể cả các pháp môn Niệm Bụt và Trì Chú. Niệm và Ðịnh nếu thực sự có mặt thì sẽ đem tới Tuệ. Tuệ luôn luôn làm phát khởi Từ và Bi. Chính Tuệ sẽ tháo gỡ được những khó khăn của bản thân và giúp tháo gỡ những khó khăn của những người khác. Thiền có công năng chuyển hóa và trị liệu cho mình và cho người. Giải thoát trước hết là vượt thoát các tâm hành giận hờn, bế tắc, lo lắng, sợ hãi, tuyệt vọng, những khó khăn trong nội tâm và trong hoàn cảnh, giải tỏa được hiểu lầm, thực hiện được hòa giải và tha thứ. Vì vậy, thiền phải có tính cách thực dụng. Mình tháo gỡ được cho mình rồi mình mới có khả năng giúp người khác tháo gỡ. Công phu cũng như thành quả phải tập trung cả vào giờ phút hiện tại. Ðọc lại Lâm Tế Lục , mình mới thấy được rõ ràng cái quan trọng của giây phút hiện tại: tùy xứ tác chủ, lập xứ tắc chân, phép lạ là đi ngay trên mặt đất . Vì lý do đó cho nên Thiền có thể đi đôi tuyệt hảo với Tịnh: nếu tâm có Niệm và Ðịnh thì Tịnh Ðộ hiện tiền, không cần đi tìm Tịnh Ðộ ở tương lai và ở một nơi nào khác. Giáo lý Duy Tâm Tịnh Ðộ đã cung cấp nền tảng cho sự thực tập này: nếu tâm tịnh là độ tịnh, ở đâu mình cũng có thể ngồi ở tịnh độ, đi trong tịnh độ. Có tịnh độ bây giờ thì chắc chắn cũng có tịnh độ trong tương lai. Vì vậy người tu thiền cảm thấy thoải mái khi trì tụng bài sám: Nương tựa A Di Ðà, trong bản môn mầu nhiệm (Nhật Tụng Thiền Môn 2000 ). Các vị tổ sư như Trần Thái Tông và Tuệ Trung Thượng Sĩ đều có nói: Di Ðà là tự tính, là pháp thân của chính ta, không phải là một thực tại nằm bên ngoài.

    – Nếu như có thể, xin khái quát phương thức tu tập căn bản của dòng Thiền mà Thiền sư hướng dẫn – bao gồm những gì, quá trình tu tập và cùng những ích lợi cụ thể thiết thực của nó trong đời sống hiện đại?

    Thiền sư Nhất Hạnh:

    Sự thực tập của giới xuất gia và cả của giới không xuất gia là nắm cho vững hơi thở, bước chân và an trú trong giây phút hiện tại để nhận diện tất cả những gì đang xảy ra trong giây phút hiện tại. Tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống để được nuôi dưỡng, nhận diện những khổ đau để làm vơi nhẹ và cuối cùng để chuyển hóa và trị liệu: năng lượng để làm các công việc này là Niệm và Ðịnh. Mỗi giây phút của sự thực tập hằng ngày là để chế tác Niệm và Ðịnh. Niệm và Ðịnh đưa tới hiểu (Tuệ) và thương (Từ và Bi). Chính cái vốn liếng hiểu và thương ấy giúp mình tháo gỡ được những khó khăn cho mình và cho người. Các khóa tu tổ chức hoặc 90 ngày, 21 ngày, 7 ngày, 5 ngày, 3 ngày hay 1 ngày đều là để thực tập chế tác niệm, định và tuệ; những giờ ngồi thiền, đi thiền, chấp tác, pháp đàm, địa xúc, làm mới, xướng tụng… đều nhắm vào mục đích ấy. Phương pháp lắng nghe và ái ngữ giúp mình điều chỉnh tri giác sai lầm, giúp người khác điều chỉnh tri giác sai lầm, phục hồi tình huynh đệ, nuôi dưỡng hiểu và thương. Những khóa tu như thế đã được tổ chức khắp nơi, thường thường phải thuê các trường Ðại Học trong dịp Hè mới có đủ chỗ cho cả ngàn thiền sinh về tu tập trong nhiều ngày. Năng lượng hùng hậu của một tăng thân có tu có học lâu ngày rất cần thiết cho sự thành công của những khóa tu lớn như thế. Ít nhất phải có một tăng thân gồm có 60 vị vừa xuất gia vừa tại gia mới hướng dẫn được một khóa tu như thế. Khóa nào cũng chứng kiến sự chuyển hóa của những cặp vợ chồng, cha con, mẹ con, đem lại hòa giải, tha thứ, hạnh phúc. Sau những khóa tu như thế ai cũng muốn khi trở về địa phương thành lập một tăng thân để tiếp tục nuôi dưỡng sự thực tập cho bền bỉ. Hiện có cả hàng ngàn tăng thân như thế tại các nước Âu, Mỹ, Á và Úc. Các thành phố lớn như New York, London, Los Angeles đều có ít nhất mười tăng thân. Tăng thân là những nhóm người thực tập theo pháp môn Làng Mai, thường được gọi là Communities of Mindful Living. Từ Ðiển Làng Mai cũng như các web sites trang nhà liên hệ tới Làng đều cung cấp địa chỉ của những tăng thân như thế để mọi người có thể tìm tới tham dự.

    Thiền sinh thực tập theo pháp môn Làng Mai đều thọ trì Năm Giới và Giới Tiếp Hiện. Trong pháp tu Làng Mai, Niệm là bản chất của Giới. Cho nên vị nào thực tập Năm Giới và Mười Bốn Giới và các Uy Nghi cho vững vàng thì vị ấy sẽ dễ thành công hơn trong công phu thiền tập. Có những khóa tu được tổ chức cho những giới chức nghiệp đặc biệt như các vị chuyên về Tâm Lý Trị Liệu, các vị Giáo Chức, các vị chuyên về Bảo Hộ Sinh Môi, các vị chuyên về ngành An Ninh, các vị Văn Nghệ Sĩ, Diễn viên và Sản xuất Ðiện Ảnh, các vị Doanh Nhân, các vị Dân Biểu Quốc Hội v.. v… Trước khi mở những khóa đặc biệt như thế, mình phải học hỏi về những khó khăn và khổ đau của họ để có thể đưa ra những pháp môn thực tập thích hợp và hữu hiệu.

    – Phương pháp tu Thiền mà Thiền sư đang hướng dẫn có thể gọi là gì?

    Thiền sư Nhất Hạnh:

    Làng Mai chưa từng có ý đặt tên cho sự thực tập của mình. Các bạn thiền sinh Tây phương khi viết và nói về Làng Mai hay dùng danh từ “Thiền Làng Mai” hoặc “In the tradition of Thích Nhất Hạnh” . Có một hôm nhìn lại tôi bỗng ngạc nhiên thấy sao mà pháp môn Làng Mai đi đúng con đường Thiền Sư Tăng Hội đã vạch cách đây 18 thế kỷ quá: sử dụng các kinh thiền nguyên thỉ làm nền tảng cho sự thực tập, nhưng với tinh thần của Phật giáo Ðại Thừa! (Thiền Sư Tăng Hội có nói : An Ban là đại thừa của chư Phật, có mục đích cứu độ chúng sanh ). Tôi cũng thấy sao mà pháp môn tu tập Làng Mai trung thực với tinh thần Lâm Tế Lục một cách không ngờ được như thế! Ðây là tình cờ hay là có chủ ý? Có chủ ý thì tôi thấy mình chưa bao giờ có chủ ý, nhưng tình cờ thì tôi không tin là tình cờ được. Không có cái gì tình cờ. Phải có những động lực nào thúc đẩy trong chiều sâu tâm thức. Tôi nghĩ đó là năng lượng dẫn dắt của chư vị tổ sư.

    – Xin Thiền sư cho biết sự phát triển hiện nay của dòng Thiền do thiền sư hướng dẫn, trên thế giới và Việt Nam ?

    Thiền sư Nhất Hạnh:

    Cho đến ngày 06.08.2008, chúng tôi đã độ được 515 người xuất gia của 31 quốc tịch, và đào tạo được suýt soát 300 vị giáo thọ vừa xuất gia, vừa tại gia. Số lượng này còn quá ít không thể thỏa mãn được những nhu cầu khắp nơi. Có những trung tâm tu học đã được thiết lập tại Tây Phương : Các Tu Viện Bích Nham (Nữu Ước), Lộc Uyển (Cali), Rừng Phong, Thanh Sơn, (Vermont), Mộc Lan (Mississipi) ở Hoa Kỳ, Làng Cây Phong ở Canada, Làng Sen Búp, Làng Trúc Xanh ở Úc, các trung tâm Từ Thị ở Bavaria, Trung Tâm Suối Thương ở Berlin (Ðức). Pháp môn Làng Mai hiện đang được thực tập ở ít nhất là 50 quốc gia. Viện Phật Học Ứng Dụng Châu Âu (The European Institute of Applied Buddhism) gọi tắt là EIAB vừa được thiết lập ở Ðức để góp phần đào tạo thêm các vị Giáo Thọ.

    -Liên hệ giữa Thiền và Giáo như thế nào trong pháp môn Làng Mai ?

    Thiền sư Nhất Hạnh:

    Nhìn vào cách học và thực tập ở Làng Mai ta có thể thấy được sự nhất trí của Thiền và Giáo một cách rõ ràng. Các kiến thức về Duy Biểu do các tác phẩm Duy Thức Học cung cấp, các kiến thức về A Tỳ Ðạt Ma do các bộ Luận như Câu Xá, Thành Thật, Thanh Tịnh Ðạo, Giải Thoát Ðạo v..v.. đều có ích lợi cho sự thực tập Thiền bởi vì chúng giúp cho hành giả biết rõ hơn về cách vận hành của tâm thức. Thiền sư Thường Chiếu ngày xưa đã nói: “Biết rõ về cách vận hành của tâm thức thì sự thực tập trở nên dễ dàng hơn”. Các kinh điển lớn của Ðại Thừa như Bát Nhã, Hoa Nghiêm, Bảo Tích, Pháp Hoa đều đóng một vai trò quan trọng trong thiền tập. Khi học các kinh này, thiền sinh luôn luôn phải đặt câu hỏi: Những giáo lý uyên thâm trong kinh này phải được áp dụng như thế nào để tháo gỡ những khó khăn nội tâm mà hành giả đang mắc phải ? Cho nên giữa cái học và cái hành có một liên hệ rất thân thiết. Sách Nhật Tụng Thiền Môn có một buổi Công Phu Niệm Bụt với màu sắc Tịnh Ðộ Tông và một buổi Công Phu Thí Thực có màu sắc Mật Tông. Hành giả cảm thấy thoải mái với cả hai truyền thống này. Chắc quý vị còn nhớ là năm 2007 các thiền sinh Làng Mai đã tham dự các Ðại Trai Ðàn Chẩn Tế Bình Ðẳng tại Ba Miền Việt Nam với rất nhiều thoải mái trong có các buổi thiền tọa, thiền hành, pháp thoại… Các kiến thức về khoa sinh học mới, nhất là về khoa thần kinh não bộ, về khoa lượng tử học cũng như kinh nghiệm của các trường phái tâm lý trị liệu Tây Phương cũng đóng góp rất nhiều cho sự giảng dạy và thực tập ở Làng Mai. Thiền Làng Mai không có tính trừu tượng, trái lại rất cụ thể: thiền sinh nào cũng đều thực tập thiền hướng dẫn một thời gian mới có thể tự quán chiếu một mình; Các sách tập thiền căn bản như Sen Búp Từng Cánh Hé, Phép Lạ của sự Tỉnh Thức, Từng Bước Nở Hoa Sen, Chỉ Nam Thiền Tập cho Người Trẻ v…v… đều có thể được sử dụng như những thiền phổ cho người mới bắt đầu thực tập. Viện Phật Học Ứng Dụng Châu Âu với các khuôn viên của Viện ở Ðức, Pháp, Hoa Kỳ v..v.. có mở những khóa tu thiền rất thực tiễn cho thiền sinh như những khóa tu dành cho những người đang khổ đau vì mất người thân, cho những người vừa khám phá ra rằng mình có bệnh nan y, cho những cặp cha con vợ chồng đang có khó khăn trong việc truyền thông, cho những cặp nam nữ đang có dự tính kết hôn v..v.. Những khóa tu ấy rất thực dụng và đều đi về hướng Ðạo Phật Nhập Thế, ai cũng có thể ghi tên theo học và thực tập mà không nhất thiết cần phải là Phật tử.

    -Thiền sư nhận định gì về tình hình tu tập ở Việt Nam hiện nay? Phương pháp tu hành của Ngài đóng góp như thế nào cho vấn đề tu tập ấy và tương lai của nó?

    Thiền sư Nhất Hạnh:

    Cái học của chúng ta hiện rất từ chương. Tôi rất mong Phật giáo Việt Nam sớm đi về hướng nhập thế và thực dụng để có thể đóng góp cụ thể cho hạnh phúc dân tộc và đất nước. Cái học và cái hành phải đi song song (hành giải tương ưng). Rất mong tại các Viện Phật Học, các vị giáo thọ và các học tăng được thực tập với nhau, sống với nhau, ngồi thiền, bái sám, đi thiền hành, ăn cơm chánh niệm, chấp tác với nhau… như trong truyền thống các tu viện ngày xưa. Có như thế người học tăng mới tiếp nhận được từ kinh nghiệm và phong cách của các bậc thầy của mình. Hy vọng pháp môn Làng Mai có thể đóng góp một phần nhỏ vào hướng đi ấy. Chúng ta có thể tổ chức cho các vị giáo thọ và sinh viên các Viện Phật Học, thỉnh thoảng về các tu viện Làng Mai tại Âu Mỹ hay tại Việt Nam để thăm viếng, cắm trại và quán sát cách học, cách tu của những nơi này. Có thể đó là một trong những phương thức vui tươi nhất để tìm hiểu và đối thoại mang ích lợi cho cả hai phía truyền thống.

     

    Chúc Phú – Quảng Kiến thực hiện – (Tựa đề của NSGN, Nguyệt San Giác Ngộ số 150/ tháng 9/2008)

    Oprah đàm đạo với Thiền sư Nhất Hạnh

    Oprah Winfrey là một phụ nữ 56 tuổi – một ngôi sao truyền hình Mỹ. Có thể nói Oprah Winfrey là một phụ nữ danh tiếng và có nhiều ảnh hưởng nhất trên quần chúng ở Hoa Kỳ. Năm 2006, chính Oprah đã mang về cho Obama hơn một triệu lá phiếu, thắng Hilary Clinton,  để được đảng Dân Chủ đề cử làm ứng viên Tổng thống. Có người cho rằng Oprah có quyền lực mạnh bằng hay hơn 100 nghị sĩ, dân biểu Mỹ.

    Cô đã là tỷ phú da đen đầu tiên và duy nhất trên thế giới (trong các năm 2004-2006). Sanh ra trong nghèo khó và trải qua nhiều thảm kịch khi còn trẻ, Oprah đã được học về ngành truyền thông trên đại học. Từ 1986, Oprah bắt đầu Show riêng của cô, lấy tên là Oprah Winfrey, mỗi năm mỗi thêm khán giả – tới năm 1998, hàng ngày có khoảng 14 triệu người Mỹ xem chương trình truyền hình của cô. Cũng thời gian này, Oprah đổi hướng, làm các show chú trọng tới các vấn đề văn chương, tâm linh và giáo dục.  Công ty Harpo do Oprah làm chủ phát hành các Shows truyền hình, sách báo, radio, phim ảnh và trang nhà Oprah.com v.v… Cô dự định ngưng việc làm Show trên truyền hình vào tháng 9, 2011, sau 25 năm làm “bá chủ” ngành này. Năm 2010, cô bước vào lãnh vực mới, làm người kể chuyện trong một loạt chương trình dài hạn về Đời sống cho đài Discovery, sau khi đã bỏ vốn hùn hạp với họ.

    Trên trang nhà Oprah.com, chúng tôi đọc được lời giới thiệu sau đây của Oprah về Thiền sư Nhất Hạnh, người mà cô được đặc cách phỏng vấn vào tháng 9, 2009 tại Nữu Ước, khi thiền sư tới đó hoằng pháp:

    OWand - ThichNhatHanh

    Đó là nhà sư Phật Giáo có 60 tuổi đạo, cũng là một vị thầy dạy học, một nhà văn, một người can đảm gióng lên tiếng gọi ngưng chiến tranh, những vị thế đó đã đưa người vào tình trạng bị lưu đày khỏi quê hương bốn mươi năm. Và người ấy, người mà Martin Luther King Jr đã gọi là “một vị tông đồ của hòa bình và bất bạo động” đã chỉ cho chúng ta thấy cái đẹp của phút giây hiện tại, biết cám ơn từng hơi thở, và giúp cho ta thấy được là giải thoát và hạnh phúc có thể tìm thấy rất dễ dàng trong khi ta uống một ngụm trà. Ngay phút giây được gặp người ở khách sạn Bốn Mùa (Four Season Hotel) ở Mahattan Nữu Ước, tôi cảm nhận ngay một sự an bình tỏa rạng nơi người. Một trường năng lượng an bình và sâu lắng toát ra từ Thiền Sư. Nhưng bên dưới của phong thái rất bình an đó là một chiến sĩ cang cường. Sinh đẻ tại Việt Nam ông thầy tu 83 tuổi này đi tu hồi năm 16, can đảm đòi hỏi chấm dứt chiến tranh Việt Nam trong thời kỳ mà hai bên đất nước ông đang lâm chiến. Dù đã chọn cuộc đời thiền quán của một ông thầy tu nhưng chiến tranh xảy ra trước mắt khiến người phải chọn : một là mãi ẩn tránh trong chùa, hai là vừa thiền quán mà vừa ra ngoài giúp người đang chạy dưới bom đạn? Quyết định của ông thầy tu trẻ này đã khai sinh ra một loại Phật Giáo dấn thân, một phong trào vận động cho hòa bình đồng thời dấn thân vào những công tác đưa tới sự thay đổi chuyển hóa xã hội. Chính những hành động muốn sửa đội xã hội bằng phương pháp bất bạo động đó đã khiến cho ngài Martin Luther King Jr đề nghị Thiền Sư nhận giải Nobel Hòa Bình năm 1967.

    Song song với việc phản đối những bạo động mà đồng bào ông phải gánh chịu, ông thầy tu trẻ đã thành lập một tổ chức xã hội để xây trường học trạm y tế ở những nơi nghèo khó, xây dựng lại những làng xã bị nát tan vì đạn bom và tìm cách giúp định cư cho những người nhà cửa bị tiêu tán vì bom đạn. Thầy Nhất Hạnh cũng đã xây dựng trường đại học Phật giáo, lập nhà xuất bản và chủ trương viết tuần báo, viết nguyệt san cổ xúy cho hòa bình – tất cả những việc làm này cuối cùng đã khiến cho chính quyền Miền Nam cấm đoán ông trở về lại Việt Nam sau một chuyến đi vận động cho hòa bình. Thầy bị lưu đày khỏi xứ 39 năm.

    Trước khi bị lưu đày Thầy đã từng xuất ngoại và sống ở Tây Phương (học và nghiên cứu tại đại học Princeton và dạy học ở Đại Học Columbia trong những năm đầu 1960) và cũng chính ở Tây Phương mà bây giờ Thầy đã trở lại. Thấy rằng để có dịp chia sẻ những hiểu biết của mình về đạo Phật và cũng để vận động cho hòa bình Việt Nam qua hành động bất bạo động, Thầy đã thành lập Phái Đoàn Hòa Bình Phật Giáo tại Paris trong khi các cường quốc đang hội họp để bàn về vận mạng Việt Nam ở nơi này . Đó là vào năm 1969, khi thầy thành lập Giáo Hội Phật Giáo Nhất Quán tại Pháp và tiếp tục viết hơn 100 quyển sách, kể cả quyển sách bán chạy nhất là Living Buddha, living Chirst (Bụt đang sống Chúa đang có mặt) năm 1995 – cuốn sách này là sách gối đầu giường của tôi.

    Thầy Nhất Hạnh giờ đây đã định cư ở Miền Nam nước Pháp và thành lập Làng Mai, một trung tâm tu học đạo Phật và một tu viện nơi mà thầy đang sống. Mỗi năm, hàng ngàn người tới từ nhiều quốc gia, họ đến để tìm hiểu thâm sâu hơn cách hành trì theo lời Bụt dạy – kể cả thực tập chánh niệm (mục đích là đưa tâm về phút giây hiện tại), khai triển những phương pháp tu tập (sinh hoạt bình thường như là đi trong ý thức, và kéo mình trở lại chánh tư duy) và giác ngộ (thoát khỏi những khổ đau khi mình thấy rõ được bản chất của thực tại). Những nguyên tắc này đã được giới thiệu từ hơn 2000 năm nay bởi Siddhartha Gautama – là Đức Phật, một ông hoàng người Ấn Độ đã từ bỏ đời sống dễ dãi và hưởng thụ của mình để đi tìm ánh sáng giác ngộ – và sau đó đã thành lập một con đường tâm linh cho cuộc hành trình đó. Thiền sư Thích Nhất Hạnh, hay đơn giản hơn “thầy” mà các đệ tử của người đã gọi rất thân thương, đã dẫn theo một nhóm nam và nữ tu sĩ từ Làng Mai đến để tham dự cuộc trò chuyện của chúng tôi. Trong vài truyền thống tâm linh thường hay có một nhóm người có mặt để lắng nghe một cách từ bi câu chuyện. Thầy Nhất Hạnh đã đem theo một nhóm người như thế và đã cùng chụp ảnh với chúng tôi và cuối cùng đã hát chung một bản nhạc rất nhẹ nhàng bình an : “Chúng ta là lá của một thân cây, chúng ta là những đợt sóng của một đại dương, đã đến lúc mà chúng ta phải đến và sống với nhau như cùng một cơ thể.”

    Cô Oprah: Cám ơn thầy đã cho chúng tôi hân hạnh trò chuyện với thầy. Chỉ cần sự hiện diện của thầy là chúng tôi đã cảm thấy bớt bức xúc quýnh quáng nhiều lắm, so với những gì xảy ra từ sáng đến giờ. Quả thực như là có một vùng ánh sáng thật bình an đang toát ra quấn lấy thầy. Lúc nào thầy cũng có vẻ an bình tròn đầy như vậy sao ?

    TS Nhất Hạnh: Đó là sự thực tập của tôi. Và tôi luyện cách sống như vậy mỗi phút giây để có thể giữ sự bình an trong tôi suốt ngày.

    Cô Oprah: Bởi vì mình sẽ không thể cho người khác cái gì mà mình không có phải không thưa thiền sư ?

    TS Nhất Hạnh: Vâng, đúng vậy.

    Cô Oprah: Tôi biết rõ là thầy được sinh ra ở Việt Nam năm 1926. Thầy có thể chia sẻ cho chúng tôi một kỷ niệm nào tuyệt vời nhất trong thời ấu thơ không ?

    TS Nhất Hạnh: Đó là ngày tôi thấy được hình ảnh của Đức Phật trong một tờ tạp chí.

    Cô Oprah: Hồi ấy thầy mấy tuổi ?

    TS Nhất Hạnh: Tôi lên 7 hay 8 gì đó. Phật ngồi trên cỏ, thật bình an và mỉm cười. Tôi rất cảm kích, bởi vì quanh tôi không ai được như vậy. Vì thế tôi đã mong được như ngài. Và tôi đã nuôi dưỡng ước mong đó cho tới năm tôi 16 tuổi khi tôi xin được cha mẹ tôi để đi tu và tôi được quy y, thọ giới.

    Cô Oprah: Ba mẹ thầy có khuyến khích thầy không ?

    TS Nhất Hạnh: Ban đầu thì hơi miễn cưỡng vì họ nghĩ là cuộc sống của một nhà tu cực khổ và nhiều khó khăn.

    Cô Oprah: Ở tuổi 16 thầy có biết cuộc đời sẽ như thế nào không ?

    TS Nhất Hạnh: Không nhiều lắm. Tôi chỉ biết là trong tôi có một khát khao lớn. Cảm tưởng rằng mình sẽ không bao giờ hạnh phúc được nếu không là thầy tu. Người đời thường gọi đó là tâm ban đầu – sự khát khao sâu sắc mà một người có thể có. Và tôi có thể nói là cho tới bây giờ cái tâm ban đầu đó vẫn còn sống mạnh mẽ trong tôi.

    Cô Oprah: Đó là cái mà thiên hạ gọi là sự đam mê. Đó cũng là cách tôi cảm nhận về công việc tôi đang làm hàng ngày. Khi có đam mê như thế thì mình vẫn cảm thấy thoải máy khi làm việc dù không ai trả tiền cho mình.

    TS Nhất Hạnh: Và ta thích thú làm việc đó.

    Cô Oprah: Vậy là thầy thích thú hành động theo cái tâm ban đầu đó. Chúng ta thử nhắc lại khi thầy vừa mới bước tới Bắc Mỹ lần đầu nhé. Thầy đã học ở Viện Đại Học Princeton phải không? Là một ông thầy tu Việt Nam, cái gì khó khăn nhất với thầy để có thể làm bạn được với sinh viên (Hoa Kỳ) ? Thầy có cảm thấy cô đơn không ?

    TS Nhất Hạnh: Vâng, đại học Princeton giống như một tu viện. Thời đó chỉ có nam sinh viên và không có lấy một người Việt sống ở vùng lân cận và cũng không có nhiều ở Hoa Kỳ. Sáu tháng liền tôi không thể chuyện trò với ai bằng tiếng Việt. Nhưng khu làng đại học rất đẹp. Và cái gì cũng mới đối với tôi – cây cỏ chim chóc, và cả thức ăn nữa. Mùa tuyết đầu tiên của tôi là ở tại đây, và lần đầu tiên tôi dùng máy sưởi. Mùa thu đầu tiên của tôi cũng ở Princeton.

    Cô Oprah: Khi lá bắt đầu đổi màu.

    TS Nhất Hạnh: Vâng, ở Việt Nam chúng tôi không hề thấy được cảnh huy hoàng ấy của mùa thu.

    Cô Oprah: Thời đó thầy vẫn mặc áo thầy tu chứ ?

    TS Nhất Hạnh: Vâng.

    Cô Oprah: Khỏi phải lo đi mua áo phải không ạ ? Lúc nào cũng chỉ mặc cái áo thầy tu ư ?

    TS Nhất Hạnh: Vâng.

    Cô Oprah: Thầy có áo nào khác vào những dịp khác không ?

    TS Nhất Hạnh: Chúng tôi có áo để làm lễ gọi là y, màu cam. Chỉ có thế. Chúng tôi cảm thấy rất thoải mái khi mặc những y áo ấy. Và chúng đã vui vẻ nhắc nhở rằng chúng tôi là thầy tu.

    Cô Oprah: Thầy tu là sao thưa thầy ?

    TS Nhất Hạnh: Là thầy tu là để có được nhiều thì giờ tu tập, để chuyển hóa những khó khăn và chữa lành được những nỗi khổ niềm đau của mình. Rồi sau đó mình mới biết cách giúp người khác chuyển hóa và trị liệu như mình.

    Cô Oprah: Có phải là hầu hết các người tu đều được giác ngộ hay là đang tìm cách để sớm giác ngộ không ?

    TS Nhất Hạnh: Giác ngộ lúc nào cũng có mặt đó. Một giác ngộ nhỏ, hai giác ngộ nhỏ … từ từ đưa tới giác ngộ lớn. Nếu cô thở và cô ý thức là cô đang sống – là cô đang tiếp xúc với cái mầu nhiệm của sự kiện mình vẫn đang còn sống – đó một loại giác ngộ. Nhiều người đang còn sống nhưng họ không ý thức và vì thế không tiếp xúc được sự mầu nhiệm là mình còn sống ấy.

    Cô Oprah: Tôi biết chắc là thầy đã thấy rõ hết quanh thầy – tôi cũng cảm thấy mình có sai lầm ấy – vì sao lúc nào người ta cũng gắng làm xong việc thật nhanh để bắt kịp việc làm kế tiếp, hành động kế tiếp. Ở đất nước chúng tôi, con người rất bận rộn. Ngay cả trẻ con. Tôi có cảm tưởng như là rất ít người trong chúng ta làm được những gì thầy vừa nói, nghĩa là tiếp xúc với phép lạ mà mình đang được sống.

    TS Nhất Hạnh: Đó là môi trường mà mọi người đang sống. Nhưng với sự thực tập, chúng ta vẫn có thể luôn giữ đựợc sự tỉnh giác trong phút giây hiện tại là mình đang may mắn còn sống. Với chánh niệm, ta có thể định tâm trong phút giây hiện tại để có thể tiếp xúc được với những nhiệm mầu của sự sống đang có mặt trong giây phút đó. Chúng ta có thể sống rất hạnh phúc ngay bây giờ và tại đây. Có rất nhiều điều kiện đang có mặt bây giờ và tại đây – nhiều hơn là bạn tưởng, để bạn có thể hạnh phúc liền tức thì. Bạn không cần chạy về tương lai để có thêm nữa.

    Thầy Nhất Hạnh định nghĩa về hạnh phúc và tiết lộ cách nào để đạt tới hạnh phúc

    Cô Oprah: Hạnh phúc là gì thưa Thầy?

    TS Nhất Hạnh: Hạnh phúc là sự chấm dứt khổ đau, mạnh khoẻ và thoải mái. Ví dụ như khi tôi thở vào và ý thức sự có mặt của đôi mắt tôi, thở ra tôi ý thức đôi mắt tôi còn tốt và mỉm cười với đôi mắt của tôi, hạnh phúc quá phải không. Có cả một thiên đường mầu sắc và hình dáng dàn trãi quanh tôi, trên cuộc đời này. Nhờ chúng ta còn đôi mắt sáng nên ta mới tiếp xúc được với thiên đàng ấy. Vì thế khi tôi bắt đầu ý thức về đôi mắt tôi, tôi tiếp xúc ngay được những điều kiện hạnh phúc. Và khi tiếp xúc những điều kiện ấy, ta bắt gặp ngay hạnh phúc trong giờ phút này.

    Cô Oprah: Và thầy có thể làm như thế với những phần khác của cơ thể thầy phải không ?

    TS Nhất Hạnh: Đúng vậy. Thở vào, tôi để ý tới trái tim tôi. Thở ra tôi mỉm cười với trái tim tôi và biết rằng trái tim tôi còn đang đập bình thường. Tôi rất cám ơn trái tim của tôi.

    Cô Oprah: Thế là phải nhớ ý thức từng sự vật, từng phút giây và dâng niềm biết ơn về những gì mà mình đang có phải không thưa thiền sư ?

    TS Nhất Hạnh: Vâng.

    Cô Oprah: Và không chỉ những điều kiện vật chất mà thôi, mà về sự kiện là ta vẫn còn hơi thở.

    TS Nhất Hạnh: Vâng, ta chỉ cần tập chánh niệm nghĩa là đem tâm trở về với thân và an trú trong giây phút hiện tại. Nếu mình hoàn toàn có mặt trong phút giây này, ta có thể nhìn sâu hơn để bước một bước chân ý thức trên hành tinh đẹp đẽ này, hay thở vào một hơi để ý thức là ta đang đứng trong thiên đàng của Thượng Đế. Khi mà ta đã có cõi thiên đàng thanh tịnh đó rồi, ta đâu có cần phải chạy theo đối tượng của sự thèm khát như là danh tiếng, tiền tài hay những dục lạc khác. Bình an và niềm vui nhẹ nhàng có thể đạt tới ngay. Và sự thực tập này đủ đơn giản cho tất cả mọi người.

    Cô Oprah: Thầy dạy chúng tôi cách thực tập đó đi.

    TS Nhất Hạnh: Ví dụ như cô đang uống trà nhé. Cô nâng chén trà lên, cô có thể thở vào, đưa tâm cô trở về với thân và cô sẽ hoàn toàn có mặt trong lúc đó. Và khi mà cô thực tình có mặt trong phút ấy thì còn một cái khác cũng có mặt, đó là sự sống được đại diện bởi chén trà. Trong giây phút ấy cô thật sự sống, chén trà cũng hiển hiện thơm tho, sâu lắng… Cô không bị đi lạc vào quá khứ, không bị kéo về tương lai, về những dự án, những lo âu… Cô hoàn toàn tự do, thoát khỏi những phiền toái đó. Và trong trạng thái có mặt thực sự với chén trà, cô hoàn toàn tự do, vượt khỏi phiền muộn và tận hưởng từng ngụm trà. Đó là phút giây hạnh phúc và bình an. Khi cô chải răng cũng vậy, có lẽ là cô thường chải cho nhanh chừng hai phút thôi. Nhưng với sự thực tập này cô có thể đạt tới tự do buông bỏ những suy tư về quá khứ hay bị kéo đi bởi những tính toán tương lai, vì cô đang định tâm vào phút giây hiện tại, cô có niềm vui khi nhìn sâu những chiếc răng của cô, kem đánh răng thơm, bàn chải ưng ý của cô… trong chánh niệm. Nếu cô có khả năng chải răng trong chánh niệm thì cô cũng có thể rất hạnh phúc tận hưởng giây phút hiện tại khi tắm, khi chuẩn bị thức ăn sáng, uống từng ngụm trà… vô số hành động khác trong chánh niệm.

    Cô Oprah: Như vậy theo cái cách nầy thì ta có vô số điều kiện hạnh phúc.

    TS Nhất Hạnh: Vâng. Chánh niệm giúp ta trở về với chính ta trong phút giây hiện tại và mỗi khi trở về với phút giây này ta nhận diện những điều kiện hạnh phúc mà ta đang có và ta hạnh phúc ngay.

    Cô Oprah: Với Thầy, trà là thực tại mầu nhiệm.

    TS Nhất Hạnh: Tôi, và trà có thật. Tôi đang sống trong phút giây hiện tại. Tôi không nghĩ đến chuyện đã qua. Không nghĩ đến những gì sắp tới. Khi đó mới có một sự trực diện thâm sâu giữa tôi và trà. Bình an, hạnh phúc và niềm vui có mặt khi tôi uống trà.

    Cô Oprah: Tôi thật chưa bao giờ có cái suy tư khá sâu về một chén trà như thế.

    TS Nhất Hạnh: Chúng tôi tập làm thiền trà rất vui. Chúng tôi cùng ngồi, uống với nhau một chén trà và cảm nhận được tình bạn, tình huynh đệ, tình chị em. Chúng tôi có thể ngồi chơi như thế một giờ luôn, chỉ để hưởng một chén trà.

    Cô Oprah: Một chén trà chừng này thôi phải không ? (Cô nâng chén trà của cô lên).

    TS Nhất Hạnh: Đúng vậy.

    Cô Oprah: Một giờ.

    TS Nhất Hạnh: Mỗi phút giây là một phút giây hạnh phúc. Và trong một giờ đồng hồ cùng ngồi uống trà, ta nuôi dưỡng niềm vui, tình huynh đệ, tình chị em, định trú thật bình an nơi này và ở đây.

    Suốt 39 năm bị lưu đày, tạo được một cộng đồng để phụng sự chung là việc làm thiết yếu

    Cô Oprah: Thầy có làm như vậy với các thức ăn không ?

    TS Nhất Hạnh: Thưa có. Chúng tôi có những bữa ăn im lặng, ăn như thế nào để có thể tiếp xúc được với cả vũ trụ, với từng miếng thức ăn đưa vào miệng.

    Cô Oprah: Như vậy thì ăn một bữa ăn phải tốn bao lâu ? Trọn ngày ư ?

    TS Nhất Hạnh: Một giờ là đủ. Ngồi chung với nhau như nhóm bạn bè thân thiện, cùng ăn chung những thức ăn như nhau, rồi uống trà, rồi cùng rửa chén. Ta thực tập như thế nào để cho thảnh thơi, niềm vui và hạnh phúc có mặt trong suốt thời gian ấy. Rất nhiều người đến Trung Tâm tu học của chúng tôi, học cái nghệ thuật sống chánh niệm ấy. Rồi khi họ trở về thành phố cư trú của họ họ thành lập một tăng thân, một nhóm bạn thực tập như vậy để giúp đở nhau nuôi dưỡng sự tu tập. Chúng tôi đã giúp xây dựng rất nhiều những tăng thân như vậy cùng khắp trên thế giới.

    Cô Oprah: Một tăng thân tức là một cộng đồng dễ thương.

    TS Nhất Hạnh: Vâng.

    Cô Oprah: Cộng đồng dễ thương như vậy quan trọng như thế nào trong đời chúng ta ? Thiên hạ có gia đình để cùng sống như một cộng đồng, còn thầy, thầy mở rộng cộng đồng dễ thương của thầy để chấp nhận những người khác. Thành ra cộng đồng dễ thương càng lớn thì ta có thể đạt những thành quả lớn trong cuộc đời.

    TS Nhất Hạnh: Đúng như vậy.

    Cô Oprah: Với đề tài cộng đồng dễ thương, ta nên trở về năm 1966. Thầy được mời đến đại học Cornell để thuyết giảng về Việt Nam và không lâu sau đó thầy không được phép trở về nước của thầy nữa. Thầy bị lưu đày 39 năm. Làm thế nào mà thầy xử lý được với những cảm thọ ấy ?

    TS Nhất Hạnh: Vâng, tôi như một con ong bị tách rời khỏi tổ. Nhưng nhờ tôi mang theo tôi cộng đồng dễ thương trong lòng, tôi tìm những yếu tố của cộng đồng đó, của tăng thân dễ thương đó quanh tôi, ngay trong lòng các tiểu bang Hiệp Chủng Quốc, trong lòng các nước Âu Châu. Và tôi bắt đầu xây dựng cộng đồng dễ thương làm việc cho hòa bình cùng với tôi.

    Cô Oprah: Ban đầu thầy có giận không ? Tổn thương không ?

    TS Nhất Hạnh: Có giận, có lo, buồn và tổn thương. Sự thực tập giúp tôi nhận diện những trạng thái đó. Trong năm đầu, đêm nào tôi cũng nằm mơ thấy trở về quê, gần như mỗi đêm. Tôi thấy tôi leo lên một ngọn đồi thật đẹp, thật xanh và thật hạnh phúc nhưng rồi tôi chợt tỉnh dậy và nhận ra là mình đang bị lưu đày. Và sự thực tập của tôi là đem tâm về với thân sống thật hết lòng trong phút giây hiện tại, tiếp xúc với cây cỏ chim chóc hoa lá và trẻ em và những người bạn mới ở phương Tây – và chấp nhận biến họ thành cộng đồng dễ thương của tôi. Nhờ cách tu tập như thế tôi đã tìm ra quê hương ngoài quê hương. Dần dà khoảng một năm sau thì những giấc mơ chấm dứt.

    Cô Oprah: Lý do vì sao mà thầy không được phép trở về nước ?

    TS Nhất Hạnh: Trong thời gian chiến tranh, các phe lâm chiến nhất định đánh tới cùng. Và vì thế mà dĩ nhiên là không phe nào cho phép chúng tôi nói tới chuyện hòa giải giữa anh em – họ không cho phép nói đến hòa giải.

    Cô Oprah: Thành ra thầy là một người không có quê hương để về, nên thầy biến nơi nào thầy đang ở là quê hương, cùng khắp trên nhiều nước phải không ?

    TS Nhất Hạnh: Đúng thế.

    Cô Oprah: Và Hoa Kỳ là một phải không ?

    TS Nhất Hạnh: Vâng.

    Cô Oprah: Thầy gặp Martin Luther King khi nào ?

    TS Nhất Hạnh: Tháng sáu năm 1965. Tôi viết cho người một bức thư – từ Việt Nam – giải thích vì sao những ông thầy tu ở Việt Nam đã hiến thân cho lửa. Tôi giải thích đó không phải là hành động tự tử. Tôi nói ở Việt Nam rất khó để cho lời kêu gọi tha thiết của mình được lắng nghe. Đôi khi ta phải tự thiêu để tiếng nói được lắng nghe. Và người tự thiêu hành động như vậy vì lòng thương chứ không vì giận hờn hay tuyệt vọng. Và sau khi tôi viết bức thư cho người thì đúng một năm sau tôi gặp được người ở Chicago. Chúng tôi đã đàm luận rất nhiều về hòa bình, về tự do và về cộng đồng. Và chúng tôi cũng đồng ý với nhau là nếu không có một cộng đồng cùng sống cùng làm thì chúng ta không thể đi xa.

    Cô Oprah: Thầy đàm luận với Martin được bao lâu ?

    TS Nhất Hạnh: Chắc cũng chỉ hơn năm phút thôi vì sau đó còn có một cuộc họp báo và ngài đã nói rất rõ là ngài hoàn toàn chống chiến tranh ở Việt Nam.

    Cô Oprah: Thầy có nghĩ đó là kết quả của cuộc đàm luận với thầy ?

    TS Nhất Hạnh: Tôi tin là như thế, và chúng tôi cùng làm việc chung trên hướng đó. Rồi lần chót mà tôi gặp ngài là ở Geneva trong một hội nghị hòa bình.

    Thầy Thích Nhất Hạnh giải thích cách giải quyết hay nhất và duy nhất để chống khủng bố

    Oprah: Trong hội nghị hòa bình đó, hai vị đã đàm luận nhiều chứ ?

    TS Nhất Hạnh: Vâng có. Ngài mời tôi lên ăn sáng và chúng tôi lại bàn sâu hơn những vấn đề này. Tôi bị kẹt trong một cuộc họp báo bên tầng dưới và đến khá trễ, nhưng ngài vẫn giữ thức ăn sáng nóng cho tôi. Tôi có nói rằng dân chúng nước tôi xem ngài như là một vị bồ tát – một người giác ngộ – vì những hành động của ngài cho dân tộc ngài, cho đất nước ngài và cho cả thế giới.

    Cô Oprah: Và nhất là ông làm những điều đó bất bạo động.

    TS Nhất Hạnh: Đúng vậy. Đó là hành động của một vị bồ tát, một đức Phật. Làm gì cũng với lòng từ bi và bất hại. Khi tôi nghe tin ngài bị ám sát, tôi không thể tin được. Tôi tự nhủ : “Dân tộc Hoa Kỳ đã sinh ra được một vị như King nhưng không đủ khả năng giữ gìn che chở được ngài”. Tôi hơi giận. Tôi không ăn được, không ngủ được. Nhưng lòng quyết chí xây dựng những cộng đồng dễ thương vẫn luôn tiếp tục. Tôi nghĩ là tôi đang luôn được ngài ủng hộ.

    Cô Oprah: Luôn được ủng hộ ?

    TS Nhất Hạnh: Vâng.

    Cô Oprah: Đúng rồi. Chúng ta đang nói về chánh niệm, và thầy nhắc đến đi trong chánh niệm. Đi trong chánh niệm là sao ?

    TS Nhất Hạnh: Khi ta đi, ta tiếp xúc với mặt đất một cách chánh niệm. Mỗi bước chân định tâm trong phút giây hiện tại đó, cho ta thêm vững chãi, niềm vui và sự thanh thoát. Thoát khỏi những tiếc nuối về những chuyện trong quá khứ, thoát khỏi sự lo sợ cho tương lai.

    Cô Oprah: Phần đông mọi người khi đi họ thường nghĩ phải đi đâu, phải làm gì. Nhưng thầy nói như thế sẽ đánh mất hết những niềm vui trong ta ?

    TS Nhất Hạnh: Người ta hy sinh hiện tại cho tương lai, nhưng sự sống chỉ xảy ra trong phút giây hiện tại. Vì thế cho nên ta phải đi như thế nào mà mỗi bước chân có thể đưa ta đến sự sống đang có mặt bây giờ và chỗ ta đang đứng.

    Cô Oprah: Nhưng các giấy nợ, đòi thanh toán những món tiền chưa trả thì sao ? Tôi đang đi nhưng tôi nhớ phải thanh toán tiền này nè, tiền kia nè. Tôi đang đi mà tôi đang nghĩ đến các món tiền cần trả.

    TS Nhất Hạnh: Mỗi việc mỗi lúc. Có lúc cần ngồi xuống, định tâm để giải quyết những món tiền cần trả, nhưng khi đang đi thảnh thơi thì việc gì phải lo trước khi đang đi. Một thời điểm, chú tâm lo một việc thôi. Chúng ta đi thiền hành để chữa lành cho ta, để trị liệu, bởi vì đi như thế ta buông nhẹ được những lo âu, những bức bách, những căn thẳng trong thân và trong tâm ta.

    Cô Oprah: Trường hợp cũng sẽ tương tự khi ta lắng nghe sâu mà tôi được nghe thầy nói khi nảy.

    TS Nhất Hạnh: Lắng nghe sâu là lắng nghe như thế nào mà làm vơi được khổ đau của người khác. Ta có thể gọi đó là cách lắng nghe bằng tâm từ bi. Ta lắng nghe chỉ với một mục đích duy nhất : giúp cho ngươi kia trút hết nỗi lòng. Dù rằng có khi người kia đã nói những điều dẫy đầy những cái thấy rất sai lạc, đầy cay đắng, nhưng ta vẫn có thể tiếp tục ngồi lắng nghe với tâm từ bi. Bởi vì ta biết rõ là lắng nghe như thế sẽ cho người kia một dịp may là bớt khổ. Nếu bạn muốn tìm cách sửa cái thấy sai lạc của người kia, ta phải chờ một dịp khác. Nhưng bây giờ đang ngồi nghe, bạn không nên cướp lời người đó, cũng không nên lý luận gì hết. Nếu bạn cướp lời thì người kia sẽ cụt hứng, sẽ mất dịp may được trút bầu tâm sự. Bạn chỉ cần lắng nghe với tấm lòng thật từ bi và điều đó sẽ giúp cho người kia bớt khổ nhiều lắm. Chỉ cần ngồi lắng nghe được chừng một giờ như thế thì ta có thể giúp chuyển hoá và chữa lành khá nhiều.

    Cô Oprah: Tôi thích cách lắng nghe sâu này lắm bởi vì khi người bạn tới với ta và muốn ta lắng nghe nỗi khổ của người ấy, ta hay bị kéo đi bởi ý muốn góp ý khuyên can này nọ. Nhưng nếu ta để cho người kia trút được hết nỗi lòng. Rồi một thời gian khác ta mới trở lại khuyên nhủ và góp ý thì người kia có dịp chữa lành sâu sắc hơn. Có phải thầy muốn nói như vậy không ?

    TS Nhất Hạnh: Thưa đúng. Lắng nghe sâu giúp ta nhận diện những cái thấy sai lầm của người kia về chính họ và cả những cái thấy phiến diện của họ về ta. Người kia có cái thấy sai lầm về chính anh hay chị ta và về chúng ta. Và chúng ta thì cũng có tri giác sai lầm về chính ta và về người đó. Đó là căn nguyên của bạo động, bất hòa và chiến tranh. Các người khủng bố, họ có cái thấy sai lệch. Họ tin là nhóm người kia (chống khủng bố) đang muốn tiêu diệt tôn giáo họ, tiêu diệt nền văn minh của họ. Vì thế họ phải tiêu diệt ta trước, trước khi ta tiêu diệt họ. Rồi những người chống khủng bố cũng nghĩ và hành xử y chang như nhóm kia : tụi nó muốn tiêu diệt ta thì ta phải tiêu diệt họ trước. Cả hai bên đều bị kích động bởi sự sợ hãi, căm thù và tri giác sai lầm. Và tri giác sai lầm, cái thấy sai không thể chữa trị bằng đạn bom. Cái thấy sai chỉ có thể chữa trị bằng lắng nghe sâu, nghe với tâm từ bi và lời nói ái ngữ, để gỡ từ từ những cái thấy sai lệch đó mà thôi

    Tại sao khổ đau quan trọng thế và làm sao để chữa lành nó?

    Cô Oprah: Cách duy nhất để chấm dứt chiến tranh là sự truyền thông của các bên.

    TS Nhất Hạnh: Vâng, chúng ta phải có khả năng nói rằng: “Này các bạn, này các bạn thân mến, tôi biết quý vị đang khổ, tôi không hiểu hết được những khó khăn và khổ đau của quý vị. Chúng tôi không có ý đồ làm khổ quý vị. Ngược lại chúng tôi không hề muốn làm cho quý vị khổ thêm nữa. Nhưng chúng tôi không biết làm cách nào và chúng tôi e sẽ làm thêm những điều sai trái để khiến cho quý vị khổ thêm nếu quý vị không giúp chúng tôi hiểu thêm quý vị. Vì thế xin quý vị cho chúng biết những khó khăn của quý vị, chúng tôi rất mong được học thêm, được hiểu thêm”. Chúng ta phải tập nói lời ái ngữ. Và nếu thật sự chúng ta nói những lời ấy bằng tấm lòng chân thật của ta thì họ sẽ mở lòng ra. Rồi thì ta thực tập lắng nghe với tâm từ bi và nhờ thế ta sẽ học thêm được biết bao điều về cái thấy (chưa đúng đắn) của ta và cái thấy (chưa đúng đắn) của họ. Chỉ có những dịp như thế ta mới lấy ra từ từ những cái thấy sai lầm. Đó là cách hay nhất, cách duy nhất để làm vơi đi nạn khủng bố.

    Cô Oprah: Nhưng những điều thầy nói cũng áp dụng được cho những khó khăn trong các gia đình, giữa ta và những người thân trong gia đình ta phải không, hay cả giữa bạn bè với nhau (khi mà ta thấy người kia dữ dằn liều mạng như người khủng bố ). Nguyên tắc vẫn như thế phải không ?

    TS Nhất Hạnh: Đúng vậy, trong gia đình cũng vậy và các cuộc thương thuyết cho hòa bình cũng nên làm theo nguyên tắc đó. Khi tới bàn hội nghị, ta không nên thương thuyết ngay. Ta nên để thời gian đi dạo chung, ăn chung, tập biết nhau nhiều hơn về những khổ đau khó khăn của mỗi người, mỗi bên. Kể ra những khổ đau tủi nhục của dân tộc ta mà không cần phải lên án kết tội. Chắc cũng cần một hay hai tuần rồi mới đi đến chuyện thương thuyết. Nếu bên này nghe được thông hiểu được nỗi khổ của bên kia thì hiểu biết là chuyện có thể thực hiện và có hiểu biết thì thương thuyết sẽ dễ hơn nhiều. Vì thế nếu tôi đứng ra tổ chức những hòa đàm thì tôi sẽ tổ chức theo cách đó.

    Cô Oprah: Và thầy sẽ bắt đầu cho mọi người uống trà ?

    TS Nhất Hạnh: Vâng, uống trà và đi trong chánh niệm.

    Cô Oprah: Uống trà trong chánh niệm.

    TS Nhất Hạnh: Và sẽ chia sẻ những hạnh phúc và những khổ đau. Và lắng nghe sâu và nói lời ái ngữ.

    Cô Oprah: Vậy là không có chỗ cho sự tức giận sao ?

    TS Nhất Hạnh: Tức giận là năng lượng giúp người ta hành động, có gan hành động, nhưng khi ta giận, ta không còn sáng suốt và ta rất có thể làm nhiều điều sai quấy mà ta sẽ hối tiếc. Từ bi cũng là năng lượng nhưng năng lượng rất lành. Khi năng lượng từ bi rất mạnh thì ta cũng cang cường không kém. Ta sẽ bớt khổ đau khi ta có từ bi. Điều này rất đúng. Ta nên tập không nên để cho cơn giận kéo ta đi. Ta đang khổ đó nhưng đừng để cho cơn sợ hãi đó kéo ta đi. Ta ý thức rõ ràng rằng đó chỉ là sợ hãi. Đó là tri giác sai lầm.

    Cô Oprah: Thầy nghĩ sao nếu trong khi ta đang thực tập chánh niệm thì có một chuyện rất thách thức xảy ra như là tự nhiên bị thiên hạ kiện ta ra tòa. Và dĩ nhiên khi bị đưa ra toà thì khó mà an trú trong phút giây hiện tại để cảm thấy hạnh phúc.

    TS Nhất Hạnh: Sự thực tập là cứ bình tĩnh đến với niềm bức xúc lo lắng ấy.

    Cô Oprah: Sợ hãi. Điều thứ nhất là cơn sợ hãi trấn áp tôi liền và tôi tự hỏi : Ta sẽ phải làm gì đây ?

    TS Nhất Hạnh: Này nhé, cô nhận diện ngay có sự sợ hãi trong cô. Cô ôm ấp nó, dịu dàng và nhìn sâu vào niềm sợ hãi đó. Cũng cùng một cách như khi cô có niềm đau, cô ôm ấp niềm đau kia một cách dịu dàng vì niềm đau chính là cô, sợ hãi cũng chính là cô. Cô chấp nhận trạng thái không dễ chịu đó, làm cho nó dịu xuống, nhẹ hơn một chút, tìm cách xử lý trạng thái này của tâm. Và nếu cô biết xử lý cơn sợ hãi của cô thì cô sẽ có đủ tuệ giác để giải quyết cái khó khăn ấy. Vấn đề là không để cho cơn sợ nó trấn ngự. Khi những cảm xúc mạnh mẽ ấy nổi dậy, ta tập để cho năng lượng chánh niệm nhận diện nó liền (biết rồi, đây cơn sợ của tôi nè!), chấp nhận ôm ấp nó, nhìn sâu vào nó. Cũng như một bà mẹ khi nghe bé khóc. Niềm lo của bạn chính là đứa bé đang khóc đó. Ta phải chăm sóc bé ngay, ta phải trở về với chính ta để nhận diện cơn đau này, chấp nhận ôm ấp cơn đau kia thì ta sẽ thấy đỡ hơn một chút. Ta tiếp tục dùng sự thực tập chánh niệm để ôm ấp, nhìn sâu và từ từ tìm ra gốc rễ cái bản chất của nổi khổ đó, và khi biết rõ bản chất, gốc rễ của cơn đau đó thì ta có thể tìm cách chuyển hóa nó.

    Cô Oprah: Thầy dùng khá nhiều chữ khổ đau. Nhiều người có thể nghĩ khổ đau chỉ đơn giản là thiếu thốn, nghèo đói. Nhưng khi thầy nói về khổ đau thầy có nghĩ như vậy không ? (thiếu thốn những phương tiện vật chất).

    TS Nhất Hạnh: Tôi muốn nói đến sợ hãi, tức giận, tuyệt vọng, lo lắng trong ta. Nếu ta biết xử lý chúng, ta sẽ có thể xử lý vấn đề chiến tranh, nghèo đói và những tranh chấp.

    Cô Oprah: Bản chất những điều Bụt dạy – theo sự hiểu biết của tôi – là tin rằng chúng ta ai cũng đều thanh tịnh và sáng suốt sâu trong tâm ta. Thế nhưng ta chỉ thấy chung quanh ta rất nhiều người không hành xử trong tư thế thanh tịnh và sáng suốt gì hết. Làm sao mà ta liên kết được cái thấy đó của Phật dạy và sự kiện phũ phàng hằng ngày ta gặp ?

    TS Nhất Hạnh: Cô biết không, hạnh phúc và đau khổ nó nương nhau. Cùng hiện hữu, cũng như bên trái và bên phải. Nếu không có bên trái thì cũng không có bên phải. Điều này cũng đúng với khổ đau và hạnh phúc, tốt và xấu. Mỗi người trong ta đều có những hạt giống tốt và xấu. Ta có hạt giống của tình huynh đệ, từ, bi và tuệ giác. Nhưng chúng ta cũng có hạt giống của giận hờn, căm thù và tách biệt.

    Cô Oprah: Đó là bản chất rất “người.”

    TS Nhất Hạnh: Đúng vậy. Có bùn và có hoa sen mọc lên từ bùn. Chúng ta cần có bùn để cho hoa sen mọc được.

    Cô Oprah: Chúng ta không thể có cái này mà không có cái kia.

    TS Nhất Hạnh: Vâng. Ta chỉ có thể thấy rõ hạnh phúc của ta dựa trên quá khứ khổ đau. Nếu bạn chưa bao giờ bị đói, bạn sẽ không trân quý khi được ăn. Nếu bạn chưa bao giờ thấy chiến tranh, bạn sẽ không thấy được giá trị của hòa bình. Vì thế ta không nên trốn chạy khó khăn này đến khó khăn khác. Nhận diện cái khổ của bạn, nhìn sâu và tìm cách đi ra khỏi khó khăn kia để đến được hạnh phúc.

    Khi thiền quán ta tập bốn câu thần chú của thiền sư Thích Nhất Hạnh

    Cô Oprah: Ngày nào thầy cũng đều thiền quán chứ ?

    TS Nhất Hạnh: Chúng tôi thiền quán không phải mỗi ngày mà mỗi giây phút của sự sống. Khi chúng tôi uống, khi nói chuyện, khi viết lách, khi tưới cây trong vườn… và chúng tôi tập để sống trong hiện tại để nhìn sâu hơn vào cái hiện tại đó (và tiếp xúc với những gì tích cực mầu nhiệm trong hiện tại đó).

    Cô Oprah: Nhưng thầy không có ngồi im lặng để đọc thần chú sao ?

    TS Nhất Hạnh: Có, chúng tôi ngồi một mình, chúng tôi ngồi chung.

    Cô Oprah: Càng nhiều người cùng ngồi càng tốt phải không ?

    TS Nhất Hạnh: Vâng, năng lượng tập thể giúp ta nhiều lắm. Tôi muốn chia sẻ với cô về những thần chú mà cô vừa mới nhắc đến. Thần chú thứ nhất “Em yêu ơi, anh có mặt với em đây !***” Khi ta thương ai, món quà quý nhất mà ta có thể tặng cho người kia là sự có mặt, sự hiện diện của mình. Làm sao mà ta có thể nói là ta thương người kia được nếu ta không có mặt ?

    ***ghi chú: ngôn ngữ Việt rất đặc biệt, chữ my darling tiếng Anh, có thể dịch là anh yêu (nếu vợ nhìn mặt chồng mà đọc thần chú), hay em yêu (nếu chồng nhìn mặt vợ mà đọc thần chú, hay mẹ yêu (nếu con nhìn mặt mẹ mà đọc thần chú), hay bố yêu (nếu con nhìn mặt bố mà đọc thần chú), hay con yêu (nếu mẹ hay bố nhìn mặt con mà đọc thần chú), tùy theo đối tượng.

    Cô Oprah: Thật là một thần chú đáng yêu.

    TS Nhất Hạnh: Bạn phải nhìn sâu vào mắt người kia (mẹ của các cháu) và nói với tất cả tấm lòng của mình “Bạn nói : “Em em yêu ơi, em có biết gì không, em có biết là anh đang có mặt cho em đây không ?” hay là với mẹ của mình: “Mẹ yêu ơi, mẹ có biết là con đang có mặt cho mẹ không ?” hay là “Con yêu của mẹ ơi, con có biết là mẹ đang có mặt cho con không ?” Ta hiến dâng cho người kia sự có mặt trọn vẹn của ta. Ta không bị bực mình của quá khứ, dự án của tương lai lôi kéo. Ta có mặt hoàn toàn với người ta thương. Thần chú thứ hai là : “Mẹ yêu ơi, con biết là mẹ còn đó, hiện diện bên con và con thật hạnh phúc.” Nếu bạn là cha thì nhìn vào mắt con bạn nói: “Con trai thương của ba, ba biết là con đang có mặt bên ba, nên ba rất hạnh phúc.” Bởi vì bạn đang có mặt, bạn nhận diện sự có mặt của người mà bạn rất thương kia đang còn đó, thật là quý báu. Bạn ôm trọm người kia bằng ánh mắt chánh niệm của bạn. Và người kia sẽ nở ra như một đóa hoa. Được thương có nghĩa là được công nhận sự hiện diện của nhau. Và hai câu thần chú đó đủ đem cho ta hạnh phúc ngay, dù rằng người kia không ở gần thì mình cũng đọc thần chú được bằng điện thoại.

    Cô Oprah: Hoặc bằng điện thư.

    TS Nhất Hạnh: Vâng, bằng điện thư. Và ta không đọc thần chú bằng tiếng Phạn hay tiếng Tây Tạng, ta có thể đọc thần chú bằng ngôn ngữ ngọt ngào thường ngày của ta.

    Cô Oprah: Con yêu ơi, mẹ đang có mặt cho con này.

    TS Nhất Hạnh: Và mẹ đang hạnh phúc.

    Ta tập thốt lên thần chú thứ ba khi người ta thương đang khổ. “Mẹ ơi, con biết mẹ đang khổ, và vì thế con đang có mặt với mẹ đây.” Trước khi mình làm được gì cho mẹ, chỉ cần nói lên câu thần chú đó là mẹ khoẻ liền

    Cô Oprah: Thấy được cái khổ của người kia, sự tổn thương của người kia.

    TS Nhất Hạnh: Đúng vậy. Còn câu thần chú thứ tư mới là khó nhất. Đọc thần chú này khi mà mình đang khổ và mình biết rõ là nỗi khổ của mình do chính người mà mình yêu thương và tin cậy nhất gây ra. Nếu ai khác mà làm điều sai trái ấy thì mình cũng khổ nhưng khổ ít hơn. Đằng này, người kia chính là người mình yêu thương tin tưởng nhất cho nên mình khổ vô cùng. Mình chỉ muốn vào phòng riêng, đóng cửa lại và ôm nỗi khổ một mình.

    Cô Oprah: Đúng vậy !

    TS Nhất Hạnh: Mình bị tổn thương, mình muốn phạt người đó (mẹ hay ba mình hay người yêu của mình) vì đã nở tâm làm cho mình khổ. Đọc thần chú này để vượt thoát cái cách hành sử thường tình ấy : “Mẹ, con đang khổ, con đang cố gắng hết sức, nhưng mẹ phải giúp con.” (hay bố ơi, con đang khổ, con đang cô gắng hết sức nhưng bố phải giúp con hay Anh ơi, em đang khổ, em đang cô gắng hết sức nhưng anh phải giúp em) Mình phải tới với người đó, với chính đương sự làm khổ mình và phải vượt qua mặc cảm, nói thẳng với người đó bằng thần chú kia thì bạn sẽ nhẹ vơi đi nhiều lắm. Tại vì bạn không còn bị cái tự ái đó nó chận đường giữa bạn và người kia. Làm được như thế bạn sẽ nhẹ bớt đi nhiều.

    Cô Oprah: “Anh yêu, em đang khổ ! Anh phải giúp em!”

    TS Nhất Hạnh: “Mẹ ơi, con đang khổ, mẹ giúp con với !”

    Cô Oprah: Nhưng nếu anh chàng hay cô nàng không muốn giúp mình ?

    TS Nhất Hạnh: Trước nhất khi mình thương ai, mình muốn chia sẻ hết tất cả những gì mình đang mang trong lòng với người đó. Vì thế đó là bổn phận mình phải nói câu đó với người đó : “Con khổ, con muốn mẹ biết điều đó. Hay anh khổ, anh muốn em biết điều đó” Và chắc chắn là người kia sẽ đánh giá cao câu nói chí tình ấy.

    Cô Oprah: Nếu người đó thương mình.

    TS Nhất Hạnh: Vâng, trong trường hợp hai người thương nhau. Đây là câu thần chú với người mình thương.

    Cô Oprah: Đồng ý.

    TS Nhất Hạnh: Và khi mình tìm mọi cách để nhìn sâu hơn, để thấy rằng niềm đau đó có thể là do tri giác sai lầm của mình và mình đang tìm cách chứng minh là tri giác ấy của mình là sai (thí dụ như thấy người yêu của mình đang líu lo vui vẻ với cô nàng khác). Nhưng trong trường hợp ta không tìm ra được cái thấy kia là sai thì ta phải nhờ người kia giúp ta. (Phần chú thích của Phù Sa: “Anh ơi, em đang khổ, Anh phải giúp em, hôm qua anh không nhìn thấy em, anh líu lo vui vẻ quá với cái cô mặc áo xanh đó” Bằng cách đó mình diễn tả sự tin tưởng nơi người kia, mình có niềm tin nơi người kia, mình không muốn phạt người ấy nữa. Làm được như thế bạn sẽ bớt khổ tức thì. Và anh ta có thể ngạc nhiên thốt lên : Ồ em không biết sao? Cô ấy là em con của dì của anh mà!).

    Cô Oprah : Hay quá.

    Thầy Thích Nhất Hạnh chia sẽ về những  cái thấy của mình mà mình thường chắc chắn là đúng.

    Cô Oprah: Bây giờ đây, tôi xin hỏi thầy một số câu hỏi về cách sống của người tu. Thầy có tập thể dục để cho mạnh khỏe không ?

    TS Nhất Hạnh: Có chứ. Hằng ngày chúng tôi tập 10 động tác chánh niệm, cùng đi thiền hành chung với nhau một giờ đồng hồ mỗi ngày và ăn cơm chung trong chánh niệm.

    Cô Oprah: Thầy có ăn chay không?

    TS Nhất Hạnh: Vâng, chúng tôi ăn chay. Hoàn toàn chay tịnh, không có thực phẩm từ thú vật.

    Cô Oprah: Vậy thầy không ăn trứng sao ?

    TS Nhất Hạnh: Không trứng, không sữa bò, không phô mai bò. Bởi vì chúng tôi biết cách ăn chánh niệm này sẽ cứu vãn hành tinh của ta.

    Cô Oprah: Thầy có xem truyền hình không ?

    TS Nhất Hạnh: Không. Nhưng tôi vẫn tiếp xúc được với thế giới. Khi có sự kiện nào quan trọng, thế nào cũng có người kể cho tôi nghe.

    Cô Oprah: Tôi cũng nghĩ như thế !

    TS Nhất Hạnh: Ta không cần nghe bản tin mỗi ngày ba lần. Hay là đọc hết tờ báo này tới tờ báo khác.

    Cô Oprah: Đúng vậy. Giờ thầy nói cho chúng tôi nghe đi. Đời sống của ông thầy tu là sống độc thân, đúng không ?

    TS Nhất Hạnh: Đúng.

    Cô Oprah: Thầy có khó khăn gì về ý niệm nên hay không nên bỏ đời thầy tu để có gia đình rồi có con không ?

    TS Nhất Hạnh: Một hôm đó, khi tôi vào khoảng 30 tuổi, trong khi tôi đang đi thiền hành ở một công viên bên Pháp, tôi thấy một bà mẹ trẻ đang đang đùa với một đứa bé rất xinh. Trong một thoáng rất nhanh, tôi đã nghĩ là nếu tôi không đi tu thì tôi cũng sẽ có người vợ trẻ và đứa con như thế. Ý niệm đó chỉ thoáng qua trong một giây thôi rồi thì tôi vượt qua ngay ý tưởng ấy.

    Cô Oprah: Đó không phải là nếp sống của thầy. Ta đang nói về sự sống. Thế thì cái chết thì sao ? Chuyện gì xảy ra khi ta chết, thầy tin về cái chết ra sao ?

    TS Nhất Hạnh: Tôi có thể trả lời câu đó khi tôi trả lời được câu này : Những gì đang xảy ra trong lúc này đây ? Trong phút giây hiện tại, ta đang chế tác tư duy, ngôn từ và hành động. Chúng đang phát ra ba thứ đó và chúng đang ảnh hưởng cùng khắp. Mỗi tư duy, mỗi lời nói mỗi hành động của ta đều mang chữ ký của ta. Đó là nghiệp của ta. Đó là sự tiếp nối của ta. Khi thân xác này tàn hoại, ta vẫn được tiếp nối bằng những nghiệp lực ấy. Cũng như đám mây trên trời kia. Khi đám mây không thể giữ được hình thái đám mây nữa thì đám mây đang tiếp tục bằng những hình thái khác như là mưa, tuyết, nước đá. Bản chất của của chúng ta là không sinh, không diệt. Không thể nào một đám mây lại có thể thành hư không được. Và điều đó cũng đúng với người thương của ta. Họ không có chết đâu. Họ đang tiếp tục trong nhiều hình thái khác, nếu ta nhìn sâu, ta sẽ nhận diện ra sự luân hồi của người kia, cùng khắp quanh ta và ngay cả trong ta.

    Cô Oprah: Có phải đó là ý nghĩa của bài thơ của thầy “Hãy gọi đúng tên tôi” bài thơ tôi mà tôi thích nhất.

    TS Nhất Hạnh: Vâng. Khi quý vị hỏi tôi có phải là người Âu Châu không ? Tôi sẽ nói vâng ạ, tôi là người Âu. Nếu quý vị hỏi tôi có phải là người Á Rập không ? Tôi sẽ nói : Vâng, tôi là người Á Rập. Nếu quý vị hỏi tôi có phải là người da đen không?, tôi sẽ nói vâng, tôi là người da đen. Nếu quý vị hỏi tôi có phải là người da trắng không, tôi cũng sẽ nói : Vâng, tôi là người da trắng. Bởi vì tôi có mặt trong các bạn và các bạn có mặt trong tôi. Chúng ta đã có nhau từ muôn vạn kiếp, cùng khắp trong vũ trụ…

    Cô Oprah: [đọc bài thơ] “Tôi là con phù du thoát hình trên mặt nước | Và là con chim sơn ca mùa xuân về trên sông đón bắt phù du | Tôi là con ếch bơi trong hồ thu, | và cũng là con rắn nước trườn đi | Tìm cách nuôi thân bằng thân ếch nhái | Tôi là em bé nghèo Uganda, bao nhiêu xương sườn đều lộ ra hai bàn chân bằng hai ống sậy, | Tôi cũng là người chế tạo bom đạn để cung cấp kịp thời cho Á Phi | Tôi là em bé mười hai bị làm nhục, nhảy xuống biển sâu | Tôi cũng là nguời hải tặc sinh ra với một trái tim chưa biết nhìn biết cảm | Hãy nhớ gọi đúng tên tôi | Cho tôi được nghe một lần tất cả những tiếng tôi khóc tôi cười | Cho tôi thấy nỗi đau và niềm vui là một | Hãy nhớ gọi đúng tên tôi | Cho tôi giật mình tỉnh thức | Và để cho cánh cửa lòng tôi để ngỏ | Cánh cửa Xót Thương.” Bài thơ đó nghĩa là sao thưa thầy ?

    TS Nhất Hạnh: Có nghĩa là lòng từ bi là sự tu tập quan trọng nhất của chúng tôi. Phải hiểu sâu thì mới phát sinh lòng từ bi được. Hiểu được nỗi khổ mà chúng sinh phải gánh chịu thì năng lượng từ bi mới trào dâng. Và với năng lượng đó ta mới biết phải làm gì.

    Cô Oprah: Xong rồi. Cuối bài này, tôi còn một đề tài nữa tên là : Làm sao mà tôi biết cái thấy của tôi là đúng. Làm sao mà thầy biết cái thấy của thầy là đúng nhất ?

    TS Nhất Hạnh: Tôi biết chắc chắn là tôi không bao giờ biết đúng, biết đầy đủ trọn vẹn hết. Tôi phải tập học hỏi thêm, phải sẳn sàng buông bỏ những cái biết trước đó của tôi để có thể thấy sâu hơn, hiểu rõ hơn về từng tình trạng, từng thực tại. Ta phải luôn luôn học hỏi. Phải mở lòng ra để buông bỏ ý kiến riêng của mình để có thể có cái thấy sâu sắc trọn vẹn hơn. Như khi ta leo lên một cái thang. Lên tới bậc thứ sáu và ta nghĩ là tới đây là cao nhất rồi, vì thế ta không có dịp leo lên bậc thứ bảy. Phương pháp là phải tập buông bỏ bậc thứ sáu để mới lên được bậc thứ bảy. Đó là sự thực tập của chúng tôi, tập buông bỏ cái thấy của mình. Không cố thủ cái thấy đang có, để có thể thấy được sâu hơn, rõ hơn, trọn vẹn hơn. Đó là cốt lõi của sự thực tập trong Phật giáo. Người ta đau khổ vì họ bị kẹt trong cái thấy của họ. Chắc mẻm là cái thấy của mình đúng nhất. Khi nào mà ta buông bỏ được cái thấy –không trọn vẹn ấy – của mình, thì ta mới giải thoát được và không còn khổ đau nữa.

    Cô Oprah: Có phải là sự thao thức là tìm cho được tự do phải không ?

    TS Nhất Hạnh: Vâng, nhưng tự do trước nhất là thoát được những cái thấy sai lầm phiến diện của mình. Chính cái thấy phiến diện sai lầm ấy là nền tảng của tất cả khổ đau, sợ hãi và bạo động.

    Cô Oprah: Thật là vinh dự cho tôi được hầu chuyện với thầy ngày hôm nay.

    TS Nhất Hạnh: Cám ơn cô. Tôi mong cái hạnh phúc chia sẻ này có thể giúp được mọi người.

    Cô Oprah: Tôi tin là nó sẽ giúp.


    PSN – 20.02.2010 | Phỏng vấn độc quyền của Oprah – Phù Sa chuyển ngữ
    Nguồn: http://www.oprah.com/spirit/Oprah-Ta…hich-Nhat-Hanh