Bài kệ 20

Diệc vô nhật nguyệt tưởng

亦 無 日 月 想

Vô vãng vô sở huyền

無 往 無 所 懸

Ngã dĩ vô vãng phản

我 已 無 往 反

Bất khứ nhi bất lai

不 去 而 不 來

Cũng không có ý niệm về mặt trời và mặt trăng đang có mặt

Không đi cũng không ở lại

Không có một cái ngã để đi và để về

Thì không có cái đi và cái về.

Diệc vô nhật nguyệt tưởng: Không có tri giác về mặt trời, mặt trăng nữa. Bụt đang nói đến các nhà thiên văn học. Chúng ta tưởng tượng có những thiên hà (galaxy), những thế giới, những ngôi sao cách xa mình hàng ngàn, hàng triệu năm ánh sáng và ta nghĩ tất cả đều nằm trong không gian ngoài tâm thức ta. Khi đạt tới cái thấy bất nhị, Niết bàn, thì ta không còn kẹt vào tri giác về mặt trăng, mặt trời nữa.

Vô vãng vô sở huyền: Không cần đi cũng không ở lại.

Ngã dĩ vô vãng phản: Khi cái ngã đã không có (ngã dĩ vô) thì làm gì còn chuyện đi hay chuyện về (vô vãng phản). Vãng là đi, phản là trở về.

Bất khứ nhi bất lai: Không có khứ cũng không có lai. Người ta đặt cho đức Thế Tôn là Như Lai, có nghĩa là không từ đâu tới và cũng không cần đi về đâu (Tùng vô sở lai, diệc vô sở khứ, thị cố danh Như Lai). Không phải chỉ có đức Thế Tôn mà chúng ta cũng vậy, bản chất của chúng ta là không tới cũng không đi.

Bài kệ 19

Vô hữu hư không nhập

無 有 虛 空 入

Vô chư nhập dụng nhập

無 諸 入 用 入

Vô tưởng bất tưởng nhập

無 想 不 想 入

Vô kim thế hậu thế

無 今 世 後 世

Không đi vào cõi hư không

Không có cái nơi đi vào để đi vào

Không đi vào cõi tưởng hay cõi vô tưởng

Không đi vào đời này hay đời sau.

Vô hữu hư không nhập: Trong thiền định, có thể ta đi vào cõi hư không vô biên (infinity of space), tức không vô biên xứ. Không vô biên xứ là một trạng thái thiền định. Không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ là bốn đối tượng của vô sắc định. Cõi vô tưởng (phi tưởng xứ) là cõi không còn tri giác.

Vô hữu hư không nhập: Không có cái cõi gọi là không vô biên xứ để mình đi vào, tại vì không có người để đi vào cõi đó.

Vô chư nhập dụng nhập: Không có những nơi đi vào để ta đi vào. Đi vào, hàm chứa chủ thể đi vào và đối tượng đi vào và khi thấy còn một chủ thể đi vào và một đối tượng đi vào hiện hữu độc lập với nhau, thì chưa thấy được sự thật. Biết được mình là ai rồi, ta vượt thoát được ý niệm về chủ thể và đối tượng riêng biệt. Không có người đi vào thì không còn lo lắng về chỗ mình sắp đi vào.

Vô tưởng bất tưởng nhập: Không đi vào cõi tưởng (cõi có tri giác) hay cõi phi tưởng (cõi không có tri giác).

Vô kim thế hậu thế: Không còn có đời này và đời sau, không còn sự phân biệt giữa hiện tại và tương lai, tức là đã vượt thoát thời gian.

Niết bàn là sự tự do, không bị hạn chế bởi thời gian và không gian. Vì vậy có Big Bang hay không có Big Bang, không phải là chuyện quan trọng. Không có bắt đầu, không có chung cục, không có nơi này, không có nơi kia, không có sự co lại hay phình ra. Hiện nay, có lý thuyết cho rằng vũ trụ đang giãn ra do Big Bang, rồi tới một lúc nào đó vũ trụ sẽ co lại.

Đối với Niết bàn, không có tương lai, không có quá khứ, không có thời gian, không có sự co lại, không có sự giãn ra. Kinh Niết Bàn không phải là kinh nói về chuyện siêu hình, kinh Niết Bàn rất thực tế, liên hệ tới sự sống hàng ngày. Chúng ta phải học kinh Niết Bàn như vậy, vì Phật học của chúng ta là Phật học ứng dụng. Ý nghĩa đầu tiên của chữ Niết bàn là sự mát lạnh. Định nghĩa thứ nhất của Niết bàn là sự vắng mặt của nóng bức, vì đam mê, sợ hãi, hận thù có khả năng đốt cháy; mà khi có sự đốt cháy thì không có Niết bàn. Niết bàn là chấm dứt sự đốt cháy (extinction).

Trong tâm học Phật giáo có tâm hành tham (đam mê), tâm hành sân (hận thù). Khi đam mê và hận thù bừng cháy lên thì có sức nóng đốt cháy và không có Niết bàn. Nhưng trong tâm học đạo Phật cũng có tâm hành vô tham, vô sân. Có những giây phút mà ta không bị ngọn lửa của đam mê, hận thù đốt cháy. Niết bàn có mặt khi những tâm hành vô tham, vô sân biểu hiện. Niết bàn không phải là cái gì quá xa vời mà ta tưởng tượng ra trong thế giới siêu hình. Niết bàn không phải là đối tượng của siêu hình học. Niết bàn là đối tượng của sự thực tập hàng ngày: Khi có tham, có sân là không có Niết bàn; khi có vô tham, vô sân là có Niết bàn. Trong đời sống hàng ngày, chúng ta có những giây phút có Niết bàn và những giây phút không có Niết bàn, tùy theo ý chúng ta chọn, cũng như con chim muốn chui vào trong lồng hay muốn trở về trời mây, cũng như con nai chọn vào ở trong sở thú hay chọn trở về đồng quê. Ta chọn đi về không gian của tự do, tươi mát hay không là tùy ta.

Định nghĩa đầu tiên của chữ Niết bàn là chấm dứt sự đốt cháy, là làm nguội xuống. Chúng ta có một vị Bồ tát tên là Thanh Lương Địa (the Bodhisattva of earth cooling). Chúng ta rất cần vị Bồ tát này, chúng ta phải gọi Ngài về lập tức tại vì chúng ta đang ở trong giai đoạn hâm nóng toàn cầu (global warming). Thanh lương là không có sự đốt cháy. Làm thế nào để Bồ tát Thanh Lương Địa có mặt trong từng giây phút của đời sống hàng ngày, tức là ta có Niết bàn. Niết bàn không phải là cái gì quá xa vời phải tu 10, 20 năm mới có.

Niết bàn, trước hết là sự vắng mặt của những ngọn lửa đang đốt cháy, ngọn lửa của tham, sân, nghi ngờ. Định nghĩa thứ hai của Niết bàn là sự vắng mặt của tri giác sai lầm, của cái nhìn nhị nguyên. Thấy có cái tâm hiện hữu ngoài vật, có cái trong đối lập với cái ngoài, có cái ta và có cái người, có chủ thể tồn tại độc lập ngoài đối tượng, là cái thấy nhị nguyên, cái thấy đó gây ra đau khổ và những nhận thức sai lầm. Niết bàn là sự vắng mặt của phiền não chướng và sở tri chướng. Phiền não chướng (kleśa- āvaraṇa) là tham, sân, si, mạn, nghi. Sở tri chướng (jñeya- avāraņa) là những cái kẹt về nhận thức. Đó là những nhận thức sai lạc: thân kiến, biên kiến, kiến thủ kiến và giới cấm thủ kiến. Đạt tới vô ngã là đạt tới Niết bàn.

Khi vượt khỏi cái nhìn nhị nguyên “có hiện tại và tương lai”, vượt thoát được thời gian, thì không còn kỳ thị, phân biệt. Lúc đó, những câu hỏi về nguyên ủy của vũ trụ như vũ trụ do ai sáng tạo ra, khi vũ trụ tiêu diệt thì sẽ có gì, hoặc những ý niệm về các cặp đối lập như có-không, còn-mất, tới-đi không còn nữa và Niết bàn có mặt. Ta không còn lo lắng (vô ưu) nữa và sự rong chơi được thỏa mãn một trăm phần trăm.

Bài kệ 18

Chư khổ pháp dĩ tận

諸 苦 法 已 盡

Hành diệt trạm nhiên an

行 滅 湛 然 安

Tỳ-kheo ngô dĩ tri

比 丘 吾 已 知

Vô phục chư nhập địa

無 復 諸 入 地

Nếu khổ đau đã hết và các hành đã lắng dịu

Thì hạnh phúc sẽ có mặt một cách lặng lẽ, và sẽ có bình an

Này các vị Tỳ-kheo, tôi đã thực chứng điều này

Cho nên tôi không cần phải đi tìm vào một cõi nào nữa.

Chư khổ pháp dĩ tận: Chư khổ pháp là những hiện tượng đem tới khổ đau như vô minh, buồn giận, đam mê, lo lắng, u sầu, sợ hãi. Dĩ tận là đã hết. Khi những pháp khổ đau đã hết.

Hành diệt trạm nhiên an: Tất cả các hành trở thành vắng lặng. Chữ diệt phải được hiểu là vắng lặng, lắng dịu, không còn xôn xao. Chữ diệt ở đây không có nghĩa diệt và sinh, có hay không có. Chữ diệt trong Niết bàn, có nghĩa là vắng lặng, là lắng dịu, là mát mẻ và an ổn. Hành là tất cả những hiện tượng như sông núi, mặt trăng, mặt trời, con người, chim muông, cây cỏ, đất đá, thân thể của chúng ta… Hành là saṃskāra, tiếng Anh là formations. Bông hoa là một hành, được tập hợp bởi những yếu tố như đất, nước, lửa, gió, sức nóng và người làm vườn. Cái bàn cũng là một hành, trái núi là một hành, ngôi sao kia là một hành. Đó là những hành vật lý (physical formations). Hình hài của chúng ta cũng là một hành, gọi là hành sinh lý (physiological formation). Cái giận, cái buồn, cái vui của chúng ta cũng là những hành, gọi là hành tâm lý (mental formations). Tất cả hành có thể có tác dụng gây đau khổ nếu ta bị dính vào chúng, nếu ta có cái thấy sai lạc về chúng.

Chúng ta không biết được bản chất của các hành, chúng là vô thường mà ta tưởng là thường, là vô ngã mà ta tưởng là ngã. Chính cái thấy sai lạc đó đưa tới đau khổ, chứ không phải các hành làm cho ta đau khổ. Hình hài của chúng ta làm cho ta đau khổ, tại vì ta có một quan niệm sai lầm về hình hài của mình. Đối tượng đam mê mà ta chạy theo kia không làm cho ta đau khổ, mà chính tại vì ta có một cái nhìn sai lạc về nó nên ta bị dính vào nó. Ta có vọng tưởng về đối tượng đam mê, nên ta có dục tưởng. Dục là sự đam mê, và chính vì có dục tưởng cho nên ta khổ, chứ không phải đối tượng đam mê làm cho ta khổ. Danh lợi không làm cho ta khổ, nhưng cái thấy của ta về danh lợi làm cho ta khổ.

Cái ví dụ về con chó bị anh chàng liệng cục đá lại chạy theo sủa cục đá rất hay. Cục đá, thật ra, đâu có tội tình gì, nguyên do làm cho con chó đau khổ là anh chàng liệng cục đá. Con chó vô minh tưởng cục đá là kẻ thù của nó. Khi đau khổ, chúng ta nghĩ rằng thế giới này hay hình hài, năm uẩn này làm cho mình đau khổ. Thật ra, chỉ vì ta có nhận thức sai lầm về thế giới, về năm uẩn, nên ta mới đau khổ.

Hành diệt, có nghĩa là những cái thấy sai lầm của chúng ta về hành không còn nữa và các hành, tuy là còn đó, nhưng không còn làm cho mình đau khổ nữa. Những cái thấy thì ta vẫn còn thấy, những cái nghe thì ta vẫn còn nghe, những cái suy nghĩ thì ta vẫn còn suy nghĩ; nhưng cái thấy, cái nghe, cái suy nghĩ của ta không còn sai lạc nữa và ta không còn đau khổ nữa. Trạm nhiên, có nghĩa là rất yên tĩnh. Khi tri giác sai lầm không còn, thì có sự vắng lặng, có sự thanh tịnh, an bình. Sự an bình đó là Niết bàn. Nếu khổ đau đã hết và các hành đã lắng dịu thì hạnh phúc sẽ có mặt một cách lặng lẽ và sẽ có bình an.

Tỳ kheo ngô dĩ tri: Ngô là cái ngã. Dĩ tri là đã biết. Ngày xưa, có khi người ta dịch “vô ngã” là vô ngô.

Ta chưa biết ta là ai! Trong Thiền tông thường có câu hỏi: “Anh là ai?” (Who are you?) Đó là một công án. Một công án khác cũng rất phổ thông, nổi tiếng ở Trung Quốc là câu hỏi: “Niệm Phật thị thùy?” (Who is the one that invokes the Buddha’s name?). Niệm Phật thị thùy có nghĩa là: Ai là người đang niệm Phật? Công án này là một câu hỏi: Anh là người đang niệm Phật, nhưng anh là ai? Người đang niệm Phật đó là ai? Anh đã biết anh là ai chưa? Ta tu để nhìn sâu và để biết ta là ai. Nhưng trong công án này có một lỗ hổng và nhiều người không thành đạt được công án này, tại vì họ không biết lấp lỗ hổng đó. Lỗ hổng nằm ở chỗ ta hỏi người niệm Phật là ai như thể ta đã biết Phật là ai rồi. Có Phật và có người niệm Phật. Thật ra, chúng ta cũng chưa biết Phật là ai? “Who is the Buddha whose name you invoke?” Tôi đề nghị công án thứ hai: “Phật thị thùy?”(Who is the Buddha?) Trong công án “Niệm Phật thị thùy?” ta muốn biết người niệm Phật là ai và ta tưởng ta đã biết Phật là ai rồi.

Khi ta biết ta là ai, thì ta cũng biết Bụt là ai và khi ta biết Bụt là ai, thì ta cũng biết ta là ai. Hai câu hỏi “Niệm Phật thị thùy?” và “Phật thị thùy?” là một. Chúng ta đã học một bài kệ rất hay:

Bụt đang thở, Bụt đang đi

Mình đang thở, mình đang đi

Ngoài chuyện thở và chuyện đi, có một người thở và đi. Ta nghĩ phải có một chủ thể, thì hành động mới xảy ra được. Nhưng trong tuệ giác vô ngã, thì có hành mà không cần phải có hành giả, có tác mà không cần có tác giả. Khi nói “gió thổi”, ta nghĩ có “gió” và có “một người thổi”, nhưng sự thật là chỉ có gió (wind) mà không có người thổi (blower). Nếu không có thổi (blowing), thì không có gió (wind). Gió mà không thổi, thì không phải là gió; hễ có gió là có thổi. Chúng ta chỉ cần gió mà không cần một người đứng ngoài để thổi, cũng như niệm Phật là niệm Phật, mà không cần có người niệm Phật. Chỉ có chuyện niệm Phật đang xảy ra, vì niệm là một tâm hành. Trong tâm hành niệm có năng niệm và sở niệm, niệm luôn là niệm cái gì, ví dụ như niệm hơi thở, niệm bước chân hay niệm Bụt. Có chủ thể niệm và đối tượng niệm, nhưng cả chủ thể và đối tượng đều nằm trong niệm, vì không thể nào có chủ thể mà không có đối tượng. Bụt có dạy, nơi nào có chủ thể thì nơi đó có đối tượng và nơi nào có đối tượng thì nơi đó có chủ thể. Chủ thể và đối tượng đi đôi với nhau. Không thể có chủ thể niệm đứng riêng, rồi ta đem chủ thể đó đến đối tượng niệm như là ta đem cây thước tới đo cái bàn rồi đo cái ghế. Tâm của ta gồm cả chủ thể và đối tượng, nếu cho tâm chỉ là chủ thể thì đó là một sự sai lạc căn bản mà chính khoa học bây giờ cũng chưa thoát ra khỏi. Khoa học nghĩ rằng, có một cái tâm bên trong và cái tâm đó vươn ra để nắm bắt thế giới bên ngoài. Khoa học kẹt vào cái thấy lưỡng nguyên, cho tâm và vật là hai cái riêng biệt. Chỉ một số rất ít nhà khoa học đang tìm cách vượt khỏi chướng ngại đó, còn phần lớn vẫn còn kẹt vào trong cái thấy lưỡng nguyên, tức cho rằng tâm tồn tại độc lập ngoài vật.

Người niệm Phật là ai, có nghĩa là người niệm là một thực tại riêng biệt và Phật được niệm là một thực tại riêng biệt. Thấy mình và Phật là hai thực tại riêng biệt là một cái thấy sai lầm. Niệm là một tâm hành, hễ là tâm hành thì phải có đối tượng và chủ thể. Khi niệm Phật xảy ra, thì năng niệm và sở niệm đều có mặt trong niệm; chúng ta không cần có một người đứng ngoài để làm chuyện niệm, cũng như có gió mà không cần một người đứng ngoài để thổi. Đây là phương diện của tâm học sâu sắc.

Bài tập của chúng ta rất hay, ban đầu ta tưởng Bụt và mình là hai thực thể:

Bụt đang thở, Bụt đang đi

Con đang thở, con đang đi

Nhưng sau đó, ta tìm ra được:

Bụt là thở, Bụt là đi

Con là thở, con là đi

Ngoài cái thở và đi không có Bụt, không có con. Con và Bụt nằm ngay trong cái thở, cái đi. Khi Bụt thở thì hơi thở rất có phẩm chất; vì hơi thở có phẩm chất, nên chúng ta thấy có Bụt trong hơi thở.

Tỳ kheo ngô dĩ tri: Này các vị Tỳ kheo, tôi đã biết rồi. Tôi đã thực chứng điều này rồi.

Vô phục chư nhập địa: Tôi đã biết mình là ai rồi, thì không cần có một cõi để đi vào, dù cõi ấy là Niết bàn.

Ta nghĩ khi chết rồi, ta sẽ đi vào một cõi nào đó,ta sẽ xuống địa ngục hay lên thiên đường, ta lên cõi trời này, cõi trời kia hay vào Tịnh độ. Đó là cái thấy nhị nguyên: có một người và người đó sẽ đi vào cõi này hay cõi kia. Nhưng khi hiểu được vô ngã, không còn đi, không còn tới thì ta không còn lo lắng ta sẽ đi về đâu nữa, tại vì sẽ không có chuyện đi, chuyện tới.

Trong bài kệ này, Niết bàn được diễn tả rất cụ thể và sâu sắc. Nếu ta đã biết mình là ai rồi, thì ta không còn phải lo lắng sau này mình sẽ đi vào cõi nào: Tịnh độ, Thiên đường hay Cực lạc thế giới.

Bài kệ 17

Tùng thực nhân duyên hữu

從 食 因 緣 有

Tùng thực trí ưu lạc

從 食 致 憂 樂

Nhi thử yếu diệt giả

而 此 要 滅 者

Vô phục niệm hành tích

無 復 念 行 迹

Cái gì cũng do thức ăn mà tồn tại

Ngay cả cái buồn, cái vui cũng phải cần thức ăn mới có

Nếu cái chất liệu thiết yếu ấy không còn

Thì không còn dấu vết nào của hành mà mình có thể nhận diện.

Tùng thực nhân duyên hữu: Do nhân duyên thực phẩm mà có hữu, có vô. Hữu (abhāva) và vô (abhāva) có nguyên do của nó, đó là bốn loại thực phẩm: đoàn thực, xúc thực, tư niệm thực và thức thực. Từ những nguồn thực phẩm khác nhau mà có sự lo lắng hay hạnh phúc. Thực phẩm nuôi hữu vô là vô minh cho nên mới thấy hành là những thực tại riêng biệt có ngã có pháp.

Tùng thực trí ưu lạc: Ngay cả cái buồn, cái vui cũng do thức ăn mà sinh ra.

Nhi thử yếu diệt giả: Nếu chất liệu ấy khôngcòn, nếu cắt đứt nguồn thực phẩm đó thì,

Vô phục niệm hành tích: Không có dấu vết nào của hành mà mình có thể nhận diện được. Tích là dấu vết. Vọng niệm về các hành, thấy các hành là ngã là pháp thì ta bị ràng buộc. Nếu thấy được bản chất các hành là duyên sinh, vô ngã, tương tức, thì ta có giải thoát, thấy được Niết bàn.

Khi bị trầm cảm, ta biết không phải tự nhiên mà ta bị trầm cảm, mà là do ta đã sử dụng, đã nuôi mình bằng loại thực phẩm đưa tới sự trầm cảm. Khi ta quán chiếu, tìm ra được nguyên do của sự trầm cảm chính là nguồn thực phẩm không lành mạnh đó và quyết tâm chấm dứt không sử dụng loại thực phẩm đó nữa, thì trầm cảm sẽ tan biến, không còn lưu lại dấu vết nào cả.

Kinh này, tuy có đề tài là Niết bàn, nhưng thật sự không đi vào tư duy siêu hình. Kinh có giáo lý rất thực tiễn để chúng ta có thể chứng nghiệm được.

Bài kệ 16

Tắc sinh hữu đắc yếu

則 生 有 得 要

Tùng sinh hữu dĩ khởi

從 生 有 已 起

Tác hành trí tử sinh

作 行 致 死 生

Vi khai vi pháp quả

為 開 為 法 果

Vì hữu nên mới phải có sinh

Và vì sinh cho nên hữu lại tiếp tục

Có tác, có hành, thì có tử, có sinh

Đó là cánh cửa sinh tử mở ra, để đưa đến sự phát khởi của các pháp.

Tắc sinh hữu đắc yếu: Đắc yếu là đạt tới chỗ thiết yếu. Vì có sinh nên hữu mới có chân đứng. Có quan niệm về sinh diệt cho nên mới có quan niệm về hữu vô.

Tùng sinh hữu dĩ khởi: Có ý niệm về sinh (diệt) nên ý niệm về hữu (vô) mới khởi ra.

Tác hành trí tử sinh: Những ý niệm về công việc (tác) và những ý niệm về hình thành (hành) cũng đem tới ý niệm sinh tử (saṃsāra). Tác là động tác và hành là sự hình thành của các pháp hữu vi.

Vi khai vi pháp quả: Và mở cửa ra cho tất cả các pháp.

Vì ý niệm hữu vô nên phải có ý niệm sinh diệt, và vì có ý niệm sinh diệt nên ý niệm hữu vô mới được khởi ra. Các pháp biểu hiện ra từ tâm ý phân biệt và vì phân biệt có ngã, có pháp, có tác, có hành cho nên có đau khổ, nên gọi là pháp quả.

Bài kệ 15

Sinh hữu tác hành giả

生 有 作 行 者

Thị vi bất đắc yếu

是 為 不 得 要

Nhược dĩ giải bất sinh

若 已 解 不 生

Bất hữu bất tác hành

不 有 不 作 行

Thấy có sinh, có hữu, có tác, có hành

Là chưa đạt tới chỗ thiết yếu

Nếu hiểu được thế nào là bất sinh (bất diệt)

Thì không thấy còn hữu (và vô) và cũng không còn thấy có tạo tác và hình thành.

Sinh hữu tác hành giả

Thị vi bất đắc yếu

Còn thấy có sinh, có hữu, có người làm, có người thực tập thì chưa đạt tới chỗ thiết yếu, tức là chưa đạt tới cái thấy sâu sắc nhất.

Nhược dĩ giải bất sinh

Bất hữu bất tác hành

Khi hiểu được không có sinh (và không có tử) thì sẽ thấy không còn hữu (và không còn vô), không còn tác và không còn hành. Tác là hành động, là tạo tác. Hành là các hiện tượng tâm lý và vật lý mà mình cho là có bản chất tồn tại thực sự, có mặt một cách độc lập, cái này nằm ngoài cái kia. Đó là những hình ảnh sáng tạo của tâm thức, không phải là bản chất thực sự của các hành. Bản chất thực sự của các hành là duyên khởi, là tương tức, là y tha khởi, là viên thành thật.

Bài kệ 14

Phù duy vô niệm giả

夫 唯 無 念 者

Vi năng đắc tự trí

為 能 得 自 致

Vô sinh vô phục hữu

無 生 無 復 有

Vô tác vô hành xứ

無 作 無 行 處

Chỉ khi đạt được vô niệm

Mới có thể tới được Niết bàn

Nếu đã là vô sinh diệt thì không còn hữu vô nữa

Lúc ấy không còn thấy sự tạo tác, cũng không còn thấy sự hình thành

Phù duy vô niệm giả: Chỉ có những người đạt được vô niệm. Vô niệm là không còn ý niệm (conceptualization), như ý niệm về sinh, diệt, có, không, cái này, cái kia. Vô niệm là một giáo lý rất cao siêu, muốn đạt tới chỗ thấy và hiểu được thực tế, thì phải buông bỏ tất cả mọi ý niệm sinh-diệt, có-không, còn-mất. Duy là chỉ có, giả là người.

Vi năng đắc tự trí: Mới có thể có khả năng đạt tới chỗ đó. Tự là tự mình.

Chỉ có những người đạt được vô niệm mới có khả năng tự mình đạt tới chỗ đó. Chỗ đó là Niết bàn.

Vô sinh vô phục hữu: Nếu không còn sinh thì không còn hữu. Sinh là birth, là arising. Chúng ta có thể hiểu chữ sinh là được sinh ra, tiếng Phạn là jāti. Vô sinh là unborn, non-being. Chữ sinh đại diện cho nhiều khái niệm khác, tại vì sinh đi đôi với diệt, vô sinh đi đôi với vô diệt. Hữu là existence, tiếng Phạn là abhāva. Vô hữu là abhava. Không sinh, không diệt, không có, không không, không tới (vô lai), không đi (vô khứ), không một (vô nhất), không khác (vô dị), đó là những ý niệm chúng ta phải vượt thắng, vượt thắng được thì gọi là vô niệm. Chữ vô sinh đại diện cho tất cả những cái vô. Nó là Niết bàn, tại vì Niết bàn là thể tánh không sinh, không diệt, không tới, không đi, không có, không không, không còn, không mất. Đạt tới vô sinh là đạt tới Niết bàn, không còn sinh diệt, khứ lai, nhất dị. Hữu không còn thì vô cũng không còn, tại vì hữu-vô là một cặp đối nghịch. Có người sợ chết vì họ sợ trở thành hư vô, nhưng có người lại sợ sống, sợ phải sống hết đời này sang đời khác. Nhiều người trong chúng ta ước có thuốc trường sinh để được sống hoài không chết. Trong lịch sử văn học Tây phương và Đông phương, đều có nói tới những người đi tìm thuốc trường sinh. Nhưng có người trong chúng ta lại rất sợ sống hoài. Nếu bị một quan tòa lên án: “Anh phải sống hoài, không bao giờ được chết” thì chúng ta có bằng lòng không? Có người thèm hữu (abhāva), nhưng có người thèm vô (abhāva), như những người tự tử chẳng hạn. Nhưng abhāva hay abhāva đều là những ý niệm. Niết bàn vượt thoát being và non-being, nếu tiếp xúc được Niết bàn thì thoát khỏi hữu và vô.

Vô tác vô hành xứ: Không có chỗ để tác và hành. Tác là tạo tác (action), hành là hình thành.

Làng Mai có một bài kệ được sử dụng khi thực tập thiền thở, thiền đi, thiền ngồi rất hay. Bài kệ bắt đầu bằng nhận thức lưỡng nguyên:

Để Bụt thở, để Bụt đi

Mình khỏi thở, mình khỏi đi

Tại vì trong ta có tính làm biếng, thấy thực tập hơi khó nên ta để Bụt làm. Là học trò, là con của Bụt, đã từng nghe giáo lý và đã từng thực tập nên ta hiểu có Bụt trong mỗi tế bào của ta. Bụt ở trong ta chứ không phải ở ngoài ta. Ta làm biếng nên ta để Bụt thở, để Bụt đi, ta khỏi thở, ta khỏi đi. Bụt rất siêng năng nên khi được mời thì Bụt thở, Bụt đi ngay, nhờ đó ta có cơ hội được thở, được đi.

Tôi đã thực tập theo bài này bao nhiêu năm rồi mà vẫn còn thấy hay.

Để Bụt thở, để Bụt ngồi

Mình khỏi thở, mình khỏi ngồi.

Để Bụt thở, để Bụt rong chơi

Mình khỏi thở, mình khỏi rong chơi.

Để Bụt thở, để Bụt nghỉ ngơi

Mình khỏi thở, mình khỏi nghỉ ngơi.

Có thì giờ nghỉ mà chúng ta không chịu nghỉ, nhiều khi đã lên giường rồi mà vẫn còn tranh đấu. Vì vậy, khi Bụt thở, Bụt nghỉ ngơi, thì ta được thở, được nghỉ ngơi.

Bụt đang thở, Bụt đang rong chơi

Mình được thở, mình được rong chơi

Đó là bài kệ hay nhất, dễ nhất và hạnh phúc nhất để thực tập.

Bụt đang thở, Bụt đang ngồi

Mình được thở, mình được ngồi

Bụt đang thở, Bụt đang nghỉ ngơi

Mình được thở, mình được nghỉ ngơi

Bài kệ này tôi thực tập luôn luôn thành công, không lần nào mà không thành công.

Bụt là hơi thở, Bụt là rong chơi

Mình là hơi thở, mình là rong chơi

Chúng ta bắt đầu đi sang tuệ giác vô ngã. Ban đầu, chúng ta tưởng Bụt là một thực tại riêng và thở là một thực tại riêng, có một người tên là Bụt và có một động tác tên là thở, có một người tên là mình và có một người đang thực tập. Nhưng bây giờ, ta thấy rõ khi Bụt thở, thì hơi thở này rất có phẩm chất, hơi thở rất có chánh niệm, rất thoải mái. Chúng ta thấy được Bụt trong hơi thở đó chứ không cần phải tìm Bụt ở ngoài. Không có chủ thể thở, chỉ có động tác thở (there is only the breathing, there is no breather). Khi chúng ta để Bụt thở, thì Bụt thở rất hay, rất có phẩm chất và chính trong phẩm chất của hơi thở mà chúng ta nhận diện ra Bụt, ngoài hơi thở không có Bụt. Nói có một người thở và có một hơi thở là không đúng. Bụt là ai? Bụt là đi, Bụt là thở, Bụt là ngồi. Chúng ta phải nhận ra Bụt nơi hơi thở, nơi dáng ngồi đó tại vì nếu là một người khác thì sẽ không thở, không ngồi được như vậy. Ngoài hơi thở và dáng ngồi, không có một chủ thể Bụt riêng. Có động tác thở, rong chơi hay nghỉ ngơi; nhưng không cần phải có một chủ thể để thở, để rong chơi hay nghỉ ngơi.

Chúng ta nói: Mưa rơi! Gió thổi! Mưa thì phải rơi, mưa mà không rơi thì không thể gọi là mưa, gió mà không thổi thì không thể gọi là gió. Có mưa mà không cần có chủ thể mưa. Khi xem tuồng múa rối, chúng ta thấy các con rối cử động; nhưng phía sau đó có bàn tay của người nghệ sĩ tác động vào. Còn ở đây, không có người ở phía sau, không có chủ thể đứng ở ngoài để thổi, gió chính là thổi và cũng không có một người đứng ở trên để thả mưa xuống, mưa chính là rơi.

Bụt là thở, Bụt là đi

Mình là thở, mình là đi

Trong khi thực tập, ta tiếp xúc được với sự thật là chỉ có thở, chỉ có đi và phẩm chất của hơi thở, của bước chân rất cao. Ta sẽ không tìm được Bụt ngoài hơi thở và bước chân đó. Lúc bắt đầu, ta và Bụt là hai thực thể khác nhau, nhưng khi tới câu kệ này, thì ta và Bụt trở thành một, chỉ có động tác mà không có người làm động tác. Đó gọi là vô tác.

Chỉ có hơi thở, chỉ có rong chơi

Không ai đang thở, không ai rong chơi

Chúng ta không cần có một chủ thể đứng ở ngoài, đó là vô ngã. Vô ngã tức là Niết bàn, đạt được vô ngã là đạt được Niết bàn. Bài tập này tuy đơn sơ, nhưng đem lại rất nhiều hạnh phúc và giúp ta tiếp xúc được với vô sinh.

Trong khóa tu dành cho xuất sĩ tại Pak Chong, Thái Lan, có một số các thầy Nam tông tới tham dự. Các thầy không tu theo Tịnh độ như các Phật tử Việt Nam. Nếu ta nói: “Mỗi bước chân đi vào Tịnh độ” thì các thầy sẽ không hiểu, nên chúng ta đã đổi lại là: “Mỗi bước chân đi vào vô sinh”. Vô sinh là Niết bàn.

Sự đi đang diễn ra nhưng không có người đi, người đi không tách ra được khỏi sự đi. Ngoài chuyện thở và chuyện đi, không có người thở và người đi. Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ chủ trương “không có ngã, chỉ có pháp”, tức không có người thở nhưng có cái thở, không có người đi nhưng có cái đi, không có người ngồi nhưng có cái ngồi, không có người rong chơi nhưng có cái rong chơi. Đó gọi là Ngã không pháp hữu.

Khi đạt tới cái thấy đó, thì không có tác, không có hành, không có hữu cũng không có vô.

Chỉ có thở nhẹ, chỉ có rong chơi

Không ai thở nhẹ, không ai rong chơi

Chúng ta không cần có một chủ thể đứng ngoài, có tác nghiệp mà không cần tác giả. Có cái thở, cái đi đang xảy ra, nhưng không có một cái ta núp đằng sau để điều khiển cái thở và cái đi. Có sự suy nghĩ, tư duy đang xảy ra, nhưng không có người suy nghĩ núp phía sau.

An khi thở nhẹ, lạc trong rong chơi

An là thở nhẹ, lạc là rong chơi

An và lạc là những cái có thật. Có thể có an, có lạc, có thở nhẹ và rong chơi mà không cần phải có một chủ thể núp phía sau như những bàn tay điều khiển con rối. Bài kệ này đơn sơ nhưng rất sâu sắc.

Đạt tới vô sinh thì không còn có hữu, nghĩa là không còn có vô, không có tác giả, tác nghiệp và cũng không có hành động và tạo tác.

Bài kệ 13

Tỳ-kheo hữu thế sinh

比 丘 有 世 生

Hữu hữu hữu tác hành

有 有 有 作 行

Hữu vô sinh vô hữu

有 無 生 無 有

Vô tác vô sở hành

無 作 無 所 行

Này các vị khất sĩ, trên đời có cái sinh, có cái hữu, có cái tạo tác và có cái hình thành. Nhưng cũng có cái không sinh, không hữu, không tạo tác và không hình thành để làm nẻo thoát cho những cái có sinh, có hữu, có tạo tác và có hình thành ấy.

Bài kệ 13 là bài kệ khó nhất, mà cũng là bài hay nhất trong kinh.

Tỳ kheo hữu thế sinh: Tỳ kheo là này các vị khất sĩ. Thế là trong cuộc đời này (sur la terre, ici bas, in this world). Hữu thế sinh là trên đời có cái sinh ra.

Hữu hữu hữu tác hành: Hữu hữu là có cái đang có.

Hữu tác hành là có cái tạo tác và có cái hình thành.

Sinh là born, hữu là being (existence), tác là made, hành là formed hay compounded, created. Trên đời có cái sinh, cái có, cái tạo tác và cái hình thành. Trên bình diện hiện tượng, ta thấy có cái sinh để rồi diệt, có cái có để rồi không, có cái sáng tạo ra để tiêu diệt, có cái hình thành để tan rã. Trên phương diện tích môn, ta thấy có sinh, có diệt, có có, có không, có tạo tác, có hình thành, có hư hoại và có tan rã.

Chữ hành, tiếng Phạn là saṃskāra, tiếng Anh là formation. Tất cả hiện tượng đều là những hành và tất cả các hành đều vô thường. (All formations are impermanent.) Chúng do nhiều cái tụ hợp làm thành (compounded). Vì là một hành (formation) nên nó được hình thành (formed). Ta thấy giống như nó được tạo tác (made). Cái bàn, bông hoa, trái đất… đều là tạo tác.

Being là có (exist). Being là brought into being, brought into existence. Nhưng trong đạo Bụt ta hay dùng chữ becoming, chữ becoming hay hơn chữ being, tiếng Phạn là bhāva. Trong chữ becoming có ý của sự chuyển biến; chúng ta không có mặt, chúng ta đang trở thành tại vì ta của phút sau không còn là ta của phút trước. Chữ bhāva, dịch là being hay existence cũng được, nhưng dịch là becoming thì hay hơn, tại vì trong becoming có cái nghĩa luôn luôn có chuyển biến, vì hành không là một cái chắc thật đồng nhất trong thời gian.

Đứng về phương diện tích môn, ta thấy có những cái được sinh ra, có những cái được có mặt, có những cái được tạo tác ra và có những cái được hình thành ra.

Hữu vô sinh vô hữu

Vô tác vô sở hành

Nhưng nhìn kỹ dưới chiều sâu của “những cái có sinh, có có, có tác, có hành” thì ta thấy có “cái vô sinh, vô hữu, vô tác và vô hành”. Đó là Niết bàn.

Vô sinh là unborn. Vô hữu không phải là không có (non-being). Vô hữu là không có (being) cũng không không (non-being). Vô hữu là vượt thoát cả có và không. Ví dụ một đám mây, khi thấy đám mây ta cho nó là có (being, existing). Nhưng lúc chưa thấy đám mây, mà ta cho nó là không (non-existing) là không đúng, vì trước khi là đám mây nó đã là hơi nước và ta đã không thấy được hơi nước. Trong phòng này có biết bao nhiêu hơi nước. Ta thở ra rất nhiều hơi nước, nhưng ta không thấy và ta nói đám mây không có mặt. Nói không có đám mây cũng sai mà nói có đám mây cũng sai. Cái không và cái có đều là cái thấy của ta. Sự thật vượt ra ngoài cái không và cái có. Cái ta cho là không, thật ra là có và cái ta cho là có, chưa chắc đã thật có, nó có thể là không.

Trong bình diện bản môn, có cái không có sinh, nghĩa là không có diệt; có cái không có có, mà cũng không có không; có cái không chế tác, mà cũng không có không chế tác; có cái không hình thành, mà cũng không phải là không hình thành.

Câu này là câu then chốt mà chúng ta có thể tìm thấy trong kinh Như Thị Ngữ (Itivṛttaka) và trong kinh Vô Vấn Tự Thuyết (Udāna). Chính nhờ tìm được mà chúng ta dịch được bài kệ này. Pali Text Society dịch ra tiếng Anh như sau:

Bhikkhus, there is a not-born, a not-become, a not- made, a not-compounded. Bhikkhus, if that not-born, not- become, not-made, not-compounded were not, there could be apparent no escape from this here, that is born, become, made, compounded.

Này các vị khất sĩ, có một cái không có sinh, không có hữu, không có tác, không có hành. Này các vị khất sĩ, nếu cái không sinh, không hữu, không tác, không hành không có mặt thì không có nẻo thoát cho những cái trên cuộc đời có sinh, có hữu, có tác và có hành.

Chúng ta có thể dịch như thế này:

Này các vị khất sĩ, trên bình diện hiện tượng, chúng ta thấy có cái có sinh, có diệt, có tạo tác, có hình thành. Nhưng ở chiều sâu bản thể, ta thấy có cái không sinh, không diệt, không có, không không, không tạo tác cũng không hình thành. Cái ấy là Niết bàn. Nếu không có cái ấy, thì không có lối thoát cho những cái có sinh, có hữu, có tác và có hành.

Cũng như những đợt sóng kia đang khổ đau, đang vùng vẫy tuyệt vọng trong thế có cao có thấp, có sinh có diệt của chúng. Nhưng nếu đợt sóng biết nó là nước, thì nó thấy có một nẻo thoát. Thấy được nẻo thoát, biết mình là nước rồi, thì đợt sóng vượt thoát được cái sinh, cái diệt, cái lên, cái xuống, cái cao, cái thấp. Lúc đó nó mới thật sự vui. Chưa thấy được mình là nước, thì đi lên đợt sóng mới vui, còn đi xuống thì nó lo sợ. Niết bàn là cái không cần phải đi tìm cầu đâu xa, nó nằm ngay trong tự thân của mình.

Tỳ-kheo hữu thế sinh

Hữu hữu hữu tác hành

Hữu vô sinh vô hữu

Vô tác vô sở hành

Có ba chữ hữu đi với nhau. Tại vì trong một câu kệ chỉ có năm chữ, nếu không chúng ta sẽ có câu: Hữu hữu hữu tác hữu hành. Như vậy là có bốn chữ hữu.

Chữ thế có thể nằm trước chữ hữu.

Này các vị Tỳ kheo, trên đời này có cái sinh, có cái hữu, có cái tác, có cái hành. Nhưng cũng có cái không sinh, có cái không hữu, có cái không tác, có cái không hành để làm nẻo thoát cho những cái có sinh, có hữu, có tác, có hành ấy.

Vô tác ở đây có nghĩa là không có một tác giả tồn tại ngoài tác nghiệp. Tác giả là người làm, là chủ thể; tác nghiệp là việc làm, là hành động. Ví dụ nói “mưa rơi”, thì mưa là tác giả, còn rơi là hành động, là tác nghiệp. Nhìn kỹ thì ta thấy ngoài rơi không thể có mưa, và ngoài mưa không thể có rơi. Mưa mà không rơi thì đâu phải là mưa nữa, mà chỉ là mây. Nói mây rơi là rất buồn cười. Nói mưa là đủ rồi, không cần nói mưa rơi nữa. Cũng như nói gió thổi. Gió mà không thổi thì đâu phải là gió nữa. Vì vậy, cả mưa lẫn gió đều không cần một chủ thể, một tác giả. Tác giả và tác nghiệp là hai ý niệm, không phải là hai thực tại riêng biệt. Không thể lấy tác giả ra khỏi tác nghiệp, không thể lấy tác nghiệp ra khỏi tác giả. Cả hai cái tác giả và tác nghiệp đều không tự đứng vững một mình. Cả hai đều không có bản chất riêng biệt, cả hai đều không có tự tính.

Trong tác phẩm Những bài kệ Thắng Nghĩa của Bồ tát Vô Trước, có bài kệ:

Các hành sát na diệt

Trú còn không, huống dụng

Cái sinh khởi của chúng

Là dụng, là kẻ làm.

Tất cả các hiện tượng đều sinh diệt trong từng sát na, sự có mặt của chúng còn không có huống là công dụng (tác dụng) của chúng. Phải nói rằng sự sinh khởi của chúng chính là công dụng của chúng, và cũng chính là tác giả của chúng.

Vô tác như vậy có nghĩa là không có tác giả và tác nghiệp như những thực tại riêng biệt, không có năng tác và sở tác như những thực tại riêng biệt. Cái thấy vô tác giúp ta dẹp bỏ tà kiến chấp ngã và đạt được bình đẳng tánh trí.

Vô hành ở đây có nghĩa là các hiện tượng (hành) không có bản chất, không có tự tính, chỉ là những tập hợp nhất thời không có thực thể. Hành được dịch từ chữ saṃskṛta, nghĩa là những pháp hữu vi. Các pháp hữu vi sinh diệt trong từng sát na, không có tự tính, không có bản ngã, bên trong trống rỗng không có thực chất. Hành có hai nghĩa: được hình thành và giúp làm hình thành những cái khác. Các hành nương vào nhau mà hình thành, cũng như cái trái nương vào cái phải mà biểu hiện, cái trên nương vào cái dưới mà biểu hiện, cái chủ thể nương vào cái đối tượng mà biểu hiện. Tiếng Anh dịch là conditioned (được hình thành, được tập hợp bởi các điều kiện), và conditioning (giúp hình thành, giúp cho các hành khác được biểu hiện). Nói hành là những pháp hữu vi (composed things) có nghĩa là phải chấp nhận có những pháp vô vi (uncomposed things) như Niết bàn, như không gian. Bởi vì hữu vi và vô vi là một cặp đối lập, một cặp tương đãi, như sinh tử, có không, tác giả tác nghiệp, v.v… Sự thực là pháp vô vi không thể thành lập ngoài pháp hữu vi, cũng như cái trái không thể có mặt nếu không có cái phải. Do đó, tưởng tượng có một cái Niết bàn tồn tại ngoài cái sinh tử, đó cũng là một tà kiến. Cho nên Niết bàn, cũng như đám mây hay bất cứ một hiện tượng nào khác, theo chính kiến (kinh Ca Chiên Diên) đều nằm ngoài hai ý niệm có và không. Do đó ta thường nghe câu “Niết bàn sinh tử thị không hoa.” (Niết bàn và sinh tử như những thực tại tách biệt chỉ là hai ý niệm, giống như những hoa đốm trong hư không, không phải là thực tại.) Năng hành (conditioner) và sở hành (conditioned) không phải là những thực tại riêng biệt.

Với vô hành, ta vượt được ý niệm vô vi và hữu vi, sinh tử và Niết bàn.

Bài kệ 12

Vãng lai tuyệt vô sinh tử

往來絕無生死

Sinh tử đoạn vô thử bỉ

生死斷無此彼

Thử bỉ đoạn vi lưỡng diệt

此彼斷為兩滅

Diệt vô dư vi khổ trừ

滅無餘為苦除

Cái qua lại đã hết, thì cái sinh tử cũng hết

Sinh tử hết thì làm gì còn phân biệt cái này cái kia?

Cái này và cái kia, cả hai ý niệm đều được chấm dứt

Cái tịch diệt tuyệt đối là cái vắng mặt của cảnh giới đau khổ.

Vãng lai tuyệt vô sinh tử: Vãng lai tuyệt là không còn có cái qua lại. No coming, no going. Cái qua lại chấm dứt thì làm gì có cái sinh tử nữa. Sinh tử là sự qua lại, sinh ra, chết đi, rồi sinh ra lại… Cái qua lại đã không còn, thì làm gì có sinh tử?

Sinh tử đoạn vô thử bỉ: Khi sinh tử đã chấm dứt, thì làm gì còn có cái này, cái kia? Cái này, cái kia là sự phân biệt. Cái này là tôi, cái kia là anh. Cái này là chủ thể, cái kia là đối tượng. Cái này là thân, cái kia là tâm. Tất cả mọi phân biệt đều không còn.

Thử bỉ đoạn vi lưỡng diệt: Cái này, cái kia chấm dứt, thì hai ý niệm cũng chấm dứt. Lưỡng có nghĩa là lưỡng nguyên (dualistic thinking, dualistic view). Đó là nhị thủ (double grasping). Chủ thể, đối tượng (thử, bỉ) đều bị diệt một lần.

Sinh tử hết thì cái này cái kia hết, cái này cái kia hết thì nhận thức lưỡng nguyên cũng bị tiêu diệt.

Diệt vô dư vi khổ trừ: Diệt hết, lấy đi hết làm cho yên lặng mọi ý niệm đó là sự chấm dứt khổ đau. Diệt vô dư là cái tịch diệt tuyệt đối. Đó là cứu cánh Niết bàn. Chữ diệt có nghĩa là diệt ý niệm của mình: ý niệm khổ- lạc, ý niệm động-tĩnh, ý niệm tới-đi…

Bài kệ 11

Ỷ tắc động hư tắc tịnh

猗則動虛則淨

Động phi cận phi hữu lạc

動非近非有樂

Lạc vô cận vi đắc tịch

樂無近為得寂

Tịch dĩ tịch dĩ vãng lai

寂已 寂已往來

Trong một bản in khác:

Ỷ tắc động hư tắc tĩnh

猗則動虛則静

Động phi cận phi hữu lạc

動非近非有樂

Lạc vô cận vi đắc tịch

樂無近為得寂

Tịch dĩ tịch vô vãng lai

寂已寂無往來

Ở trong hoàn cảnh động mà giữ được tâm thanh hư thì vẫn là tĩnh.

Trong cái động, không tiếp cận được Niết bàn, cũng không có an lạc.

Ý niệm về cái vui và cái khổ đã vượt qua rồi thì mới thực sự có cái tịch tĩnh

Vượt qua được cái ý niệm tịch tĩnh thì sẽ không còn cái qua lại nữa.

Ỷ tắc động hư tắc tĩnh: Chữ ở đây có nghĩa là tâm rỗng rang, tự do, lẳng lặng. Khi giữ được tâm lẳng lặng, rỗng rang thì dù ở trong hoàn cảnh có động thì tâm vẫn tĩnh. Chữ tịnh 淨 là in sai, phải là chữ tĩnh 静 mới đúng. Hư tắc tĩnh có nghĩa là nếu tâm ta rỗng rang, không vướng mắc thì dù ở trong hoàn cảnh động tâm vẫn yên lặng thanh tịnh.

Động phi cận phi hữu lạc: Trong cái động không tiếp cận được cảnh giới thanh tịnh của Niết bàn và không có an lạc.

Lạc vô cận vi đắc tịch: Vượt thoát ngay chính ý niệm về hạnh phúc (và về khổ đau) thì mới thật sự đi vào tịch tĩnh, tức đi vào Niết bàn.

Có cái khổ tương đối và cái vui tương đối, vượt thoát cái khổ tương đối và cái vui tương đối mới tới được cái vui tuyệt đối tức Niết bàn.

Tịch dĩ tịch dĩ vãng lai: Chữ 已 thứ hai là chép sai, trong một bản khác là chữ 無, vô vãng lai. Khi cái ý niệm về vắng lặng cũng đã vượt qua rồi, thì không còn có qua có tới.

Trước hết ta nghĩ Niết bàn là một không gian mà ta muốn đi tới. Ta muốn đi vào Niết bàn, nên ta có ý niệm về vãng lai. Vãng lai là đi vào, đi ra, đi tới, đi lui. Ta có những ý niệm như khổ hay vui, động hay tĩnh, tịch diệt hay không tịch diệt. Tất cả chỉ là những ý niệm. Khi ta đã vượt thoát những ý niệm đó rồi, ngay cả ý niệm Niết bàn là cái mà ta muốn đi vào, thì lúc đó ta không còn nhu yếu vãng lai, không còn chuyện từ ở ngoài đi vào Niết bàn, hay từ Niết bàn đi ra ngoài. Ta đã ở sẵn trong Niết bàn rồi.

Cũng như một đợt sóng đi tìm nước. Nó nghĩ: “Nếu mình là nước thì mình sẽ rất khỏe. Chỉ là sóng thì mình mới khổ, mình phải lên, phải xuống, phải có, phải không, phải cao, phải thấp. Đừng làm sóng nữa, phải làm nước đi thôi!” Và nó tìm cách đi vào nước. Nhưng thật ra, nó không cần phải đi vào nữa, tại vì sóng đã là nước rồi.