Lớp học vui vẻ

    Lớp học vui vẻ
(Con đường đến với Wake Up Schools)

Thầy kính thương,

Tuần trước con được tham gia khóa bồi dưỡng dành cho giáo chức tại chùa Sơn Hạ, xóm Thượng, trong dịp Làng Mai tổ chức khóa tu năm mới 2017 cho thiền sinh quốc tế. Dịp cuối năm thiền sinh về Làng rất đông. Nhờ sự yểm trợ đắc lực của thầy Pháp Lưu và nhóm Wake Up Schools mà những người hoạt động trong ngành giáo dục và những ai có quan tâm tới chương trình đem chánh niệm vào giáo dục có cơ hội đến với nhau cùng thực tập các pháp môn căn bản như nghe chuông, ngồi thiền, thiền hành, thiền ăn, thiền buông thư, nghe pháp thoại, thực tập ái ngữ và lắng nghe. Trong buổi hướng dẫn tổng quát, thầy Pháp Lưu (người Mỹ) và thầy Bảo Tạng (người Indonesia) đã chia sẻ với khoảng 40 thiền sinh đến từ nhiều nước: Pháp, Tây Ban Nha, Anh, Ý, Nhật, Mỹ, Bolivia, Hà Lan, Đức, Bỉ, Columbia, v.v.. về thực tập chánh niệm trong trường học và những lời dạy của Sư Ông dành riêng cho các vị giáo chức. Chúng con có cơ hội thực tập trở về với chính mình trong giây phút hiện tại để học cách lắng nghe, chuyển hóa những nỗi khổ niềm đau và chế tác niềm vui. Sư Ông thường nhấn mạnh đến tầm quan trọng của thân giáo. Chúng con ý thức được rằng chỉ khi nào chúng con biết tự chế tác hạnh phúc và an lạc trong thân tâm thì mới có thể hiến tặng sự tươi mát và có mặt thật sự cho học sinh của mình.

Ngoài thời khóa bình thường của một khóa tu chánh niệm thì trong tuần qua chúng con còn có cơ hội học cách giới thiệu các trò chơi vừa vui, vừa có tính giáo dục và tính thiền, cũng như học cách giới thiệu các pháp môn căn bản như nghe chuông, theo dõi hơi thở, ngồi thiền, và thiền hành cho học sinh. Ngoài ra, chúng con còn được tham dự một buổi vấn đáp với quý thầy có nhiều kinh nghiệm đưa chánh niệm vào học đường như: thầy Pháp Lai, thầy Pháp Lưu, thầy Bảo Tạng và thầy Bảo Tích. Thiền sinh  được  đặt câu hỏi về cách ôm ấp và chuyển hóa những cảm xúc mạnh, cũng như về cách xử lý các tình huống trong lớp học khi có học sinh gây rối, hoặc cách tiếp cận với ban giám hiệu để xin phép giới thiệu thực tập chánh niệm trong lớp học. Các vị giáo chức đều rất phấn khởi khi được nghe những chia sẻ vừa sâu sắc vừa thực tế từ quý thầy.

Vào buổi chiều cùng ngày có bốn vị giáo chức được mời thuyết trình trước đại chúng về kinh nghiệm thực tập và giảng dạy các lứa tuổi khác nhau từ mầm non đến đại học; cũng như kinh nghiệm xây dựng tăng thân trong bối cảnh bốn nước khác nhau: Hà Lan, Pháp, Singapore và Tây Ban Nha. Sau đây, con xin chia sẻ cuộc hành trình mười năm học hỏi, chuyển hóa thân tâm, cũng như đổi mới cách giảng dạy và đóng góp xây dựng tăng thân của con.

Truyền thông bằng trái tim

Tháng Tư năm 2007, lần đầu tiên con được gặp Sư Ông và tăng thân tại khách sạn Melia Hà Nội. Hồi đó, con đang giảng dạy bộ môn tiếng Anh  và giao thoa văn hóa tại một trường đại học ở Hà Nội. Bài pháp thoại của Sư Ông: “Làm thế nào để tìm được sự bình an và hạnh phúc đích thực” đã đánh động tâm con sâu sắc. Lần đầu tiên con nhận ra rằng: con không cần phải chạy đến tương lai để có hạnh phúc, mà chỉ cần trở về với giây phút hiện tại, nhận diện những điều kiện hạnh phúc đang có mặt. Trong buổi vấn đáp, con đã được đặt một câu hỏi với Sư Ông về cách truyền thông với những người có văn hóa và tôn giáo khác nhau. Câu trả lời ý nghĩa của Sư Ông về “truyền thông bằng trái tim” từ đó đã trở thành kim chỉ nam hướng dẫn con trong cách hành xử và giao tiếp hàng ngày. Lời dạy “truyền thông bằng trái tim” càng đặc biệt có giá trị khi con chuyển sang sống và làm việc tại Singapore – nơi mà đồng nghiệp và sinh viên đến từ hơn 100 quốc gia trên thế giới. Câu danh ngôn của nhà hiền triết Aristotle: “Giáo dục trí năng mà không giáo dục tấm lòng thì không phải là giáo dục” (Educating the mind without educating the heart is no education at all) cũng là kim chỉ nam hướng dẫn con trong phương pháp giảng dạy và thiết kế chương trình học cho sinh viên.

Trước khi bắt đầu một học kỳ mới, con thường lắng nghe nhu cầu học tập, mong đợi của các em sinh viên khi tham gia khóa học tiếng Việt và văn hóa Việt Nam. Sau đó, con thiết kế các hoạt động trong lớp cũng như ngoại khóa phù hợp để có thể đạt được ba mục tiêu chính: am hiểu về ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam; hiểu về thói quen, sở thích và quan điểm sống của các bạn cùng lớp và hiểu về chính mình. Con thường nhấn mạnh cho các em biết mục tiêu thứ ba là quan trọng nhất. Bởi vì đó là nền tảng để hiểu thế giới xung quanh.

Khi chuyện trò với các đồng nghiệp đến từ khắp năm châu, con thường nhắc nhở mình áp dụng cách giao tiếp bằng trái tim. Phần lớn các đồng nghiệp của con đều sống xa nhà, làm việc trong một môi trường nhiều áp lực, nên nhiều khi họ cảm thấy trống trải vì không có liên hệ thực sự với những người xung quanh mình. Trên con đường đi tìm hạnh phúc qua sự nghiệp, do phải chịu quá nhiều áp lực cạnh tranh để giữ vị trí số một, nhiều người đã phải trả giá đắt. Khi mang chứng bệnh trầm cảm hoặc suy nhược về sức khỏe, họ đã không còn hứng thú với công việc nữa.

Lắng nghe để hiểu, nhìn lại để thương

Con về Làng lần đầu vào một ngày giữa tháng 7 năm 2012. Lúc đó, con mới được xuất viện, mệt mỏi cả thân lẫn tâm, nhưng nhờ được thực tập hơi thở, nghe chuông, ngồi thiền, đi thiền, ăn cơm chánh niệm,… con dần dần bình phục. Khi được nghe Sư Ông giảng về hạnh lắng nghe của đức Bồ tát Quán Thế Âm, con đã rất xúc động. Tham dự các buổi pháp đàm, con càng thấm thía một điều là chỉ cần biết lắng nghe sâu thôi thì cũng đã làm vơi nhẹ nỗi đau trong lòng rồi. Con phát nguyện thọ năm giới, và nguyện thực tập thật tốt giới thứ tư “Ái ngữ và lắng nghe”, để hiểu được chính mình, các bạn đồng nghiệp, cũng như các em sinh viên.

Trong môi trường giáo dục con đang sống và làm việc cũng có rất nhiều sự cạnh tranh và căng thẳng. Ai cũng muốn là số một, và vì vậy đã gây ra bao nhiêu nỗi khổ niềm đau. Rất đông sinh viên và đồng nghiệp   của con cảm thấy cô đơn, mệt mỏi. Các em sinh viên thiếu tự tin vì luôn cảm thấy mình cố gắng thế nào cũng không bao giờ đủ. Ít ai có thời gian ngồi lại chia sẻ và lắng nghe nhau. Con có cảm giác trên đường đua đến vị trí số một, ai cũng đói hiểu và đói thương. Mấy năm gần đây, trường con được xếp hạng số một châu Á về chất lượng nghiên cứu và giảng dạy. Nhưng tiếc thay, càng ngày càng có nhiều sinh viên bị các chứng rối loạn về tâm lý cần được sự giúp đỡ của chuyên gia tâm lý. Do đó, con muốn thực tập giới thứ tư, nói lời tích cực để tưới tẩm hạt giống tốt lành, để lắng nghe và hiểu các em. Thật may mắn và hạnh phúc khi con được nhận Năm giới quý báu.

Trở lại Singapore sau khóa tu mùa Hè, con tiếp tục thực tập những gì con đã học được ở Làng. Mỗi ngày, con tự nhắc mình chú ý theo dõi hơi thở và tập đi những bước nhẹ nhàng, thảnh thơi. Tuy nhiên, cuộc sống bận rộn và căng thẳng cứ kéo con đi. Con giống như một giọt nước đang bốc hơi ngay giữa trưa hè oi bức. Vài tháng trôi qua, sự thực tập của con không còn được tinh tấn như trước, nhưng có một điều con vẫn đặc biệt chú trọng thực tập mỗi ngày, đó là giới thứ tư – ái ngữ và lắng nghe. Sau mỗi ngày làm việc, con tập ngồi yên và lắng nghe chính mình. Mỗi lần tới với các em sinh viên, con đều tập lắng nghe những khó khăn, thách thức, áp lực của các em. Khi giảng dạy, con cũng chú ý nói những lời có tính khích lệ động viên để tưới tẩm những hạt giống tốt lành trong các em.

Thầy cô giáo hạnh phúc sẽ thay đổi thế giới

Về Làng dự khoá tu 21 ngày vào tháng 6 năm 2014, con may mắn được nghe quý thầy giới thiệu về phong trào "Wake Up School" – mang chánh niệm vào trường học. Đó là lần đầu tiên con được nghe về chương trình này. Ngay sau buổi đó, con đã viết thư cho Sư Ông, chia sẻ rằng con đã tìm được khát vọng sâu sắc nhất trong tâm mình. Đó là đem chánh niệm vào trường học. Nhưng con chưa biết phải bắt đầu từ đâu? Con nhớ sư cô Chân Không đã gặp con và nói: “Sư cô đã đọc thư của con rồi. Bức thư con viết dễ thương lắm. Con có thể bắt đầu bằng việc xây dựng một tăng thân”.

Nghe sư cô chia sẻ, con như được tiếp thêm năng lượng và cảm hứng. Con biết ngọn lửa phụng sự bắt đầu được thắp sáng trong tâm. Tuy nhiên, thời gian đầu con thấy khá lúng túng và thiếu tự tin. Con chưa có nhiều kinh nghiệm thực tập và hướng dẫn thiền tập trước đám đông thì làm sao có thể xây dựng tăng thân? Về Singapore, con kết nối được với tăng thân trẻ Joyful Garden Sangha – tăng thân “Khu vườn vui vẻ”. Con bắt đầu sinh hoạt với tăng thân này và từng bước tham gia hướng dẫn thiền tập trong ngày quán niệm hàng tháng. Dần dần, con có thêm tự tin và động lực để bắt đầu xây dựng một tăng thân tại trường   đại học nơi con làm việc. Con đường giới thiệu chánh niệm vào trường học của con đã bắt đầu  từ lớp tiếng Việt, sau đó phát triển dần ra câu lạc bộ chánh niệm cho sinh viên, và câu lạc bộ chánh niệm cho giáo viên.

Cô giáo hạnh phúc và lớp học vui vẻ

Mỗi sáng thức dậy, con theo dõi hơi thở với bài kệ Thức dậy. Con tập sống trọn vẹn và sống vui từng ngày, không để công việc kéo mình đi nữa. Con tự nhắc mình theo dõi hơi thở và bước chân mỗi khi đi bộ tới văn phòng và lớp học. Sự thực tập này giúp con tiếp xúc với giây phút hiện tại, để có thể hiến tặng sự có mặt đích thực của mình cho các em sinh viên. Con muốn mình có mặt thực sự khi các em vào lớp nên thường tới phòng học mười phút trước khi giờ học bắt đầu. Con cho các em năm phút im lặng trước mỗi tiết học để tập buông thư. Có khi con giới thiệu với các em một bài hát Việt để các em có thể vừa thư giãn vừa học. Con tạo cơ hội cho các em chia sẻ niềm vui trong tuần, để nhắc nhở rằng dù có bao nhiêu bài tập và bài thi, mình vẫn có thể có những giây phút vui vẻ và thư giãn. Con cũng tạo giờ tập nói, giúp các em học cách chia sẻ và lắng nghe chính mình, hiểu chính mình và hiểu nhau hơn. Cứ thế mỗi ngày, con thực tập chế tác hạnh phúc và cùng các em sinh viên có những lớp học vui vẻ.

Câu lạc bộ chánh niệm sinh viên

Sau thành công của chương trình “Phật giáo ở châu Á” trong chuyến đi Việt Nam năm 2015, các em sinh viên đã thân nhau hơn nên muốn tiếp tục gặp nhau thực tập chánh niệm hàng tuần. Thế là các em quyết định thành lập Câu lạc bộ chánh niệm sinh viên (Mindfulness Interest Group) để giới thiệu việc thực tập chánh niệm tới các bạn khác trong trường. Con rất vui khi nhận lời mời làm cố vấn cho các em. Các em thường gặp nhau vào tối thứ Tư hàng tuần, cùng nhau ăn tối trong im lặng rồi ngồi thiền, đi thiền, thiền buông thư, hoặc thực tập chia sẻ và lắng nghe sâu. Có một số em thấm được giá trị của việc thực tập (giúp các em thư giãn trước khi có bài thi lớn, giúp các em hiểu chính mình và kết nối với các bạn tốt hơn, v.v.) nên đã mời các bạn đến tham gia. Vì vậy, gần như tuần nào câu lạc bộ chánh niệm cũng có thành viên mới tham dự. Vào cuối mỗi học kỳ, con cùng với một đồng nghiệp dạy môn Tâm lý học chánh niệm (Psychology of mindfulness) tổ chức buổi ngồi thiền công cộng (Mindfulnesss flash mob) thu hút các em sinh viên và nhân viên của trường đến tham gia. Con rất vui khi dần dần gieo được hạt giống chánh niệm trong trường.

Cộng đồng thực tập chánh niệm

Cuối năm 2014, con đã cùng với một số đồng nghiệp tổ chức câu lạc bộ chánh niệm cho giảng viên và người nhà của họ trong khuôn viên khu tập thể của trường. Chúng con gặp nhau mỗi tối thứ Sáu để thực tập ngồi thiền, mười động tác chánh niệm, thiền buông thư, thiền ăn hoặc chia sẻ. Những người tham gia phần lớn là người Mỹ hoặc đã từng nghe về chánh niệm khi sống ở Mỹ. Dần dần, có thêm người ở các nước khác như Ấn Độ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Malaysia, v.v. Mọi người rất vui khi có cơ hội ngồi lại với nhau cùng thực tập để buông thư toàn thân sau một tuần làm việc căng thẳng. Nhiều đồng nghiệp của con rất vhạnh phúc khi được học thiền buông thư, và đã ngủ ngon hơn sau mấy tuần bị mất ngủ. Một số đồng nghiệp bày tỏ ý muốn giới thiệu việc thực tập cho con cái ở nhà để giúp các cháu bớt căng thẳng  vì  áp  lực  học  đường. Thế  là  chúng con quyết định mở lớp “Thiền tập cho trẻ em” mỗi tháng một lần.

Con vẫn nhớ buổi thực tập đầu tiên có hơn mười người tới, em bé nhất chỉ mới hai tuổi đi cùng với mẹ, còn em trai lớn nhất khoảng mười một tuổi. Lúc đầu, con hơi lo lắng, không biết giới thiệu việc thực tập thế nào cho hợp lý vì trong nhóm có cả người lớn, trẻ em lẫn thiếu niên. Sau đó, con nghĩ quan trọng nhất là tưới tẩm hạt giống hạnh phúc, nên con bắt đầu bằng bài hát “I like the roses” (Tôi yêu những đóa hồng). Các cháu rất thích bài này nên học hát và làm các động tác rất nhanh. Sau đó, con bảo các cháu tự đặt lời mới cho bài hát bằng cách chọn một loại trái cây mà các cháu thích, làm động tác miêu tả trái cây đó rồi cho cả nhóm làm theo. Các cháu rất hứng khởi và thay nhau hát lời mới: “I like the mango/ I like strawberry/ I like bananas…” (Tôi yêu trái xoài/ Tôi yêu quả dâu/ Tôi yêu trái chuối). Có nhiều động tác rất dễ thương nên mọi người vừa hát vừa cười. Vui ơi là vui! Sau khi hát, con cho các cháu đứng thành vòng tròn rồi bắt đầu nghe chuông và thở. Các cháu rất thích nghe chuông và đếm hơi thở của mình. Sau đó con giới thiệu các cháu một số động tác chánh niệm, và kết thúc bằng việc giới thiệu thiền cam. Buổi thực tập đầu tiên đó rất vui nên sau đó chúng con quyết định tổ chức hai tuần một lần. Càng ngày càng có nhiều cháu nhỏ và phụ huynh cùng tham dự. Sau buổi thực tập cuối cùng trước khi con đi sang Pháp, một bé trai người Pháp sáu tuổi, thường đến thực tập cùng mẹ và em gái hai tuổi, nói với con: “Cô yên tâm. Cô sắp đi xa nhưng cuối tuần này cháu sẽ hướng dẫn em gái cháu thở!”. Câu nói đó làm con thấy rất hạnh phúc.

Con nhớ hồi khóa tu mùa Hè năm 2013, trong buổi pháp thoại cho người Việt, Sư Ông có chia sẻ là Sư Ông rất hạnh phúc khi mỗi ngày có dịp tưới tẩm hạt giống tốt trong người khác. Và Sư Ông có nhắc con: “Một ngày nào đó con sẽ tiếp tục cho Thầy”. Ngẫm lại con đường của con mười năm qua, con thấy mình hạnh phúc khi được học cách sống hạnh phúc và chia sẻ điều đó với những người xung quanh.

 

Trồng cây, gieo hạt cho thế hệ tương lai

 

Thầy cô giáo hạnh phúc sẽ làm thay đổi thế giới, đó là chủ đề cho những khóa tu giáo dục, tổ chức cho các thầy cô giáo, cho các nhà giáo dục, xảy ra ở Làng Mai, ở Anh quốc, Ấn Độ và Bhutan. Mới đây cũng đã xảy ra ở Thái. Mong rằng ở Việt Nam mình cũng sẽ tổ chức được những khóa tu như thế. Trong những khóa tu này, các thầy cô giáo được học cách thở, cách đi, cách ngồi, cách ăn… trong chánh niệm, nhận diện những gì đang xảy ra trong thân tâm và môi trường để chế tác hạnh phúc, chuyển hóa khó khăn và khổ đau. Học những điều mà họ có thể ứng dụng được trong đời sống hằng ngày. Khuyến khích các thầy cô giáo tạo ra một gia đình thứ hai ở trường học để những em nào không có hạnh phúc trong gia đình thì có cơ hội hạnh phúc khi đến trường.

Có những em học sinh không may mắn khi ba mẹ không có hạnh phúc, điều đó đã ảnh hưởng đến tâm lý của các em, ảnh hưởng đến kết quả học tập cũng như đạo đức của các em, vì vậy mà trong khóa tu mình khuyến khích các thầy cô giáo, các nhà giáo dục tạo ra một môi trường ở trường học như thế nào để các em thấy được trường học là nhà mình. Lớp học là nhà mình. Tạo cho các em một cơ hội thứ hai, một gia đình thứ hai có hạnh phúc. Các thầy cô giáo có thể kết hợp với nhau để làm điều đó. Hạnh phúc rất quan trọng. Có hạnh phúc con người sẽ sống tốt hơn, nhẹ nhàng hơn, siêng năng hơn, ý thức hơn, dễ dàng thương yêu và hiến tặng hơn.

 

Trồng cây, gieo hạt cho thế hệ tương lai

Mỗi lần đi đến đâu có những cây cổ thụ cao lớn, vững chãi là tôi thấy mình được nuôi dưỡng nhiều. Nhìn những cây cổ thụ cao lớn, mình cũng thấy mình được cao lớn và vững mạnh lên. Tôi thấy lòng biết ơn tràn dâng, biết ơn những người đã trồng lên những cây cổ thụ này. Những cây cổ thụ này có thể là đã mấy chục năm hay mấy trăm năm. Và chắc chắn người trồng lên những cây cổ thụ này không nghĩ là họ trồng cho họ mà họ trồng cho con cháu họ, trồng cho những thế hệ tương lai. Học sinh và sinh viên là tương lai rường cột của đất nước. Đầu tư cho tuổi trẻ là một đầu tư xứng đáng. Người trẻ luôn có tâm nhiệt huyết muốn đóng góp, xây dựng. Nếu các em có hạnh phúc các em sẽ hiền thiện, và chắc chắn các em sẽ xây dựng nên một xã hội lành mạnh, an vui. Mình là cái gì thì mình sẽ xây dựng nên cái đó. Mình có hạt bắp thì mình sẽ gieo lên những cây bắp, mình có hạt xoài mình sẽ trồng lên những cây xoài. Mình có đạo đức mình sẽ trồng lên những con người có đạo đức.

 

 

 

Ai là người thầy cô giáo ảnh hưởng đến cuộc đời của bạn?

Tôi nhớ ngày đầu tiên ra trường, đứng trên bục giảng, tôi cảm thấy lúng túng, không biết mình phải làm gì, mặc dù giáo án đã chuẩn bị đầy đủ. Trong những giây phút lúng túng, ngỡ ngàng ấy tự nhiên những hình ảnh, những cử chỉ yêu thương của các thầy cô giáo hiện về trong tôi, những người thầy, người cô đã từng tận tụy, thương yêu, nâng đỡ tôi, cho tôi biết tôi phải làm gì, những hình ảnh đó giúp tôi đứng lớp một cách tự tin và vững vàng. Tôi thấy biết ơn rất nhiều. Những thầy cô giáo đã giúp tôi, không những khi tôi còn ngồi trên ghế nhà trường mà còn giúp tôi khi tôi đứng trên bục giảng. Mà họ giúp tôi không phải là những kiến thức họ giảng dạy, thật ra những kiến thức ấy sau mỗi mùa thi thì tôi đều để lại trường học, nhưng chính những cử chỉ, nhân cách của họ đã theo tôi suốt cuộc đời.

Có một người thầy trong cuộc đời mà tôi không thể nào quên được, đó là ba tôi. Ba tôi là một thầy giáo già tận tụy, hết lòng với học sinh và được học sinh thương mến. Bây giờ thì ba tôi đã về hưu. Đó là người thầy ảnh hưởng nhiều nhất trong cuộc đời của tôi. Các bạn hãy nhắm mắt lại thở thật sâu và thật yên, hồi tưởng lại xem ai là người thầy ảnh hưởng đến cuộc đời của bạn nhiều nhất?

Ba tôi là người thầy giáo đầu tiên của tôi, kể từ khi tôi còn rất bé. Giai đoạn em bé từ một đến năm tuổi là giai đoạn mà nó học hỏi và tiếp thu nhiều nhất trong cuộc đời. Những gì đi vào tâm thứ nó thì khó mà mất được, những buồn đau và hạnh phúc đã tạo nên những dấu ấn trong tâm thức nó. Và nó sẽ mang theo suốt đời.

Tôi nhớ lúc tôi khoảng ba, bốn tuổi, trưa nào ba tôi cũng bắt tôi đi ngủ trưa, tôi ngủ với ba mà không phải ngủ với mẹ. Trưa nào cũng nằm trằn trọc, xoay qua xoay về. Thế là ba tôi bảo, coi phim kìa. Ba tôi chỉ lên trần nhà, những bóng cây cứ đung đưa chạy qua chạy lại. Hồi đó làm gì có phim mà coi, làm gì mà biết ti vi là gì. Số là những tấm tôn của nhà tôi bị lủng, lủng rất nhiều lỗ, to có nhỏ có và vì thế mà mỗi lần trời mưa là dột. Mỗi lần trời mưa là nhà tôi cứ lấy thau, lấy thùng, lấy xoong đi hứng nước dột. Riêng chỗ giường là ba tôi căng một tấm ni long trắng từ bên này qua bên kia. Để khi mưa dột xuống thì nước mưa nằm trên tấm ni long đó mà không rơi xuống, khi nước mưa nhiều thì ba tôi lại trút xuống trong một chiếc thau. Những ngày trời nắng, những tán cây trên mái nhà in bóng xuống tấm ni long đó, và khi có những cơn gió thổi qua thì những bóng cây này di chuyển, cứ đi qua đi về như thế rất đẹp, ba tôi gọi đó là phim. Cứ như vậy ngày nào tôi cũng xem phim cho đến khi mỏi mắt rồi rơi vào giấc ngủ lúc nào không hay. Có những ngày trời đứng gió, những bóng cây cũng đứng im, không di chuyển được, tôi hỏi ba tôi: “Sao hôm nay không có phim?” Rồi tôi cứ đòi coi phim cho bằng được mà không chịu ngủ. Đối với tôi phim là phải chạy chạy mới đúng, chứ phim thì không thể đứng yên được. Thế là ba tôi phải đi ra ngoài leo lên cây, đung đưa những nhánh cây cho tôi xem phim. Rồi ba tôi hỏi vói vào: “Có phim chưa?” Những hình ảnh ấy không biết ba tôi có còn nhớ không, nhưng nó đã đi suốt cuộc đời tôi. Mỗi lần nhớ lại là mỗi lần tôi được nuôi dưỡng và trân quý. Thấy mình hạnh phúc bởi một quá khứ đẹp.

Các bạn có dành thời gian cho con mình không? Các bạn có chơi với con mình không? Cái mà con mình cần không phải là tiền bạc của cải mình để lại đâu. Mà chính là sự có mặt của mình, là hạnh phúc của mình. Thầy đã từng nói: “Gia tài quý nhất để lại cho con là hạnh phúc của ba mẹ”. Thầy cô giáo cũng vậy. Cái mà các em học sinh cần không phải là kiến thức mình giảng dạy. Với thời đại ngày nay, các em có thể tìm thấy tất cả những kiến thức ấy trên mạng lưới internet. Cái mà các các em cần là nhân cách của thầy cô giáo, là cách sống của thầy cô giáo, là tình thương và hạnh phúc của thầy cô giáo. Vậy mình cũng có thể nói: “Nguồn sống quý nhất mà thầy cô giáo trao truyền cho học sinh chính là hạnh phúc của thầy cô giáo.” Những người thầy cô giáo ảnh hưởng đến cuộc đời tôi không phải là những kiến thức họ trao truyền cho tôi mà là những cử chỉ, cung cách của họ.

Thầy cô giáo hạnh phúc thì học sinh sẽ thoải mái, không căng thẳng, từ đó sẽ biết nghe lời và học giỏi. Ba mẹ hạnh phúc thì con cái biết vâng lời và ngoan hiền. Anh chị hạnh phúc thì em sẽ hạnh phúc… vì chúng được giáo dục và lớn lên trên nền tảng thương yêu và hạnh phúc. Có hạnh phúc là có thương yêu. Có tình thương yêu thì không có gì mà không làm được, không có gì mà không thay đổi được.

Nếu mình đang có một học sinh, một người con, một người em ngỗ nghịch, không biết vâng lời, không chịu học hành… thì mình khoan vội la mắng, trách móc. Hãy nhìn lại xem mình đã hiến tặng cho người đó đủ hạnh phúc và tình thương chưa, hay là mình cũng đang cau có, bực bội, giận dữ, chỉ biết la mắng, trách móc và buộc tội?

 

Mình chỉ hiến tặng những gì mình có

Muốn hiến tặng cho ai cái gì trước hết mình phải có cái đó. Nếu mình không có cái đó làm sao mình có thể hiến tặng được, cho dù mong muốn của mình có lớn bao nhiêu đi chăng nữa mà mình không có thì cũng không thể hiến tặng được. Vì vậy muốn hiến tặng hạnh phúc và niềm vui cho người khác trước hết mình phải tự chế tác niềm vui và hạnh phúc cho chính mình. Hạnh phúc là điều mình có thể đạt được ngay bây giờ trong giây phút này. Các bạn cứ thử đi. Hãy dừng lại, khoan đọc tiếp đã, khoan làm tiếp đã, đừng cố gắng làm cho xong, dừng lại một phút, nhận diện những gì mình đang có, mình còn một thân thể nguyên vẹn, khỏe mạnh, mình còn đôi mắt sáng để nhìn, mình còn tấm lòng để thương yêu và hiến tặng, mình đang có một bông hoa tươi mát trước mặt, mình có thể thở được, mình có thể cười được, mình có thể đi được, mình có thể chơi được, mình có thể nói chuyện được… Bạn không hạnh phúc với những điều đó sao? Mình đang có một căn nhà ấm cúng. Chỉ cần ý thức và nhận diện những gì mình đang có thôi cũng đủ làm cho mình hạnh phúc rồi. Và nuôi lớn ý thức này cho thường xuyên và lâu dài thì hạnh phúc của mình sẽ lớn  lên. Đừng đòi hỏi, mong cầu, đừng đổ lỗi, trách móc. Dừng lại những tâm hành ấy thì hạnh phúc có mặt.

 

 

Hạnh phúc với những điều đơn giản.

Bạn cứ lập nên những kế hoạch lớn lao trong cuộc đời bạn và thành công với những kế hoạch đó, nhưng điều đó không ngăn cản bạn hạnh phúc với những điều đơn giản trước mắt như bạn đang có một không gian bao la để hít thở, bạn có một mái nhà để ở, bạn có điều kiện để học hành, bạn có thể tự mỉm cười với chính mình, bạn đang có một ly nước để uống, bạn đang có một bát cơm để ăn… Hạnh phúc với những điều đơn giản sẽ từ từ hình thành nên tính cách và thói quen của bạn, đó là thói quen hạnh phúc. Cái gì cũng làm cho bạn hạnh phúc được. Chính hạnh phúc sẽ nuôi lớn thành công của bạn. Bạn cứ lập nên những phương án như mua xe hơi, xây dựng nhà cửa, thành lập xí nghiệp, thi đậu đại học, có công ăn việc làm ổn định, lập gia đình, nuôi con hạnh phúc… nhưng đừng đợi đến khi bạn đạt được những thứ đó rồi mới hạnh phúc. Nếu bạn đợi cho đến lúc có được những thứ đó mới hạnh phúc thì bạn chẳng bao giờ hạnh phúc cả bởi vì bạn đã đang tạo cho mình một thói quen là hạnh phúc chỉ có thể có được ở tương lai mà tương lai thì không bao giờ có. Ngày mai là tương lai của bạn? Đúng rồi. Nhưng ngày mai ấy có hay không? Khi cái ngay mai ấy trở thành hiện tại của bạn thì liệu bạn có khả năng sống hạnh phúc hay không? Hay rồi bạn cũng hẹn tới cái ngày mai khác?

Khi mình hạnh phúc được với những điều đơn giản như thế, tự nhiên trong lòng mình cũng thoải mái, không gian trong mình cũng thoáng rộng, mình dễ dàng chấp nhận, dễ dàng tha thứ, bao dung, dễ dàng thương yêu. Có hạnh phúc là có thương yêu. Có hạnh phúc là có quan tâm chăm sóc.

 

Chữa trị niềm đau.

Để cho hạnh phúc mình lớn rộng thì tâm mình cũng phải lớn rộng. Làm sao mình hạnh phúc được khi trong thân tâm mình có những đau nhức? Vì vậy khi trong thân tâm có những đau nhức mình phải chữa trị cho nó. Đừng sợ những khó khăn đau khổ của mình. Trịnh Công Sơn có nói: “Hãy đi đến tận cùng của tuyệt vọng để thấy rằng tuyệt vọng cũng đẹp như một bông hoa.” Khi bạn đau khổ và ý thức về những đau khổ của bạn thì bạn có cơ hội nhận diện, ôm ấp và chuyển hóa. Bạn sẽ làm cho chúng lắng dịu và không muốn làm cho ai đau khổ nữa. Nếu bạn không ý thức về điều ấy thì khi khổ đau  đến bạn sẽ dễ đòi hỏi, trách móc… và như thế bạn sẽ làm cho người khác khổ đau. Cho dù bạn không nói ra thì chính năng lượng ấy cũng làm cho người khác khổ đau rồi, bởi vì chúng ta đến với nhau trước hết bằng một nguồn năng lượng. Chúng ta có hạnh phúc thương yêu thì người kia cũng nhận được nguồn hạnh phúc thương yêu của ta, mà ta đang khổ đau, trách móc thì người kia cũng nhận được. Đó là lý do tại sao có những lúc ta không nói gì cả mà thấy gần gũi thân thương, rồi có khi không nói gì cả mà sao thấy nặng nề. Vì thế mỗi khi có một niềm đau xuất hiện dù trên thân hay trên tâm, bạn hãy trở về chăm sóc niềm đau đó, đừng suy nghĩ, đừng phán xét, đừng đổ lỗi, đừng nghĩ về người làm cho mình đau (vì có thể càng nghĩ thì sẽ càng đau). Chỉ cần ôm ấp niềm đau với hơi thở ý thức, có mặt cho niềm đau, từ từ niềm đau sẽ được lắng dịu.

Mỗi lần có những căng thẳng, bực bội, giận dữ… ta nhớ trở về với hơi thở, nhận diện và ôm ấp cho chúng lắng dịu, để trả lại không khí nhẹ nhàng tươi vui cho những người chung quanh. Khi có những căng thẳng, bực bội ở trường học, ta đừng mang nó về nhà, và khi ở nhà có những bực bội căng thẳng, ta đừng mang nó đến trường.

 

Ai là người thầy của mình?

Ai không là thầy cô giáo? Cha mẹ là những người thầy đầu tiên của con mình. Anh chị cũng có thể là thầy cô của mình. Em mình cũng có thể là người thầy của mình. Học sinh cũng có thể là người thầy của mình. Kinh nghiệm của một số thầy cô giáo và phụ huynh cho biết rằng họ học hỏi được từ học sinh và con cái họ rất nhiều. Như vậy thì mọi người đều có thể là thầy cô giáo của mình và mình cũng có thể là thầy cô giáo của tất cả mọi người. Thầy cô giáo hạnh phúc sẽ làm cho học sinh hạnh phúc, ngoan hiền, lễ phép và đạo đức. Ba mẹ hạnh phúc sẽ làm cho con cái hạnh phúc, hiền thiện. Vợ hạnh phúc sẽ làm cho chồng thay đổi, chồng hạnh phúc sẽ làm cho vợ dịu hiền… Nếu mình thấy gia đình mình chưa hạnh phúc thì mình khoan đổ lỗi trách cứ người kia đã, hãy trở về chăm sóc hạnh phúc cho chính mình. Nếu mình đang có một người con khó dạy, đừng nản chí, hãy trở về chăm sóc hạnh phúc cho mình, khi mình có hạnh phúc mình sẽ biết cách đem hạnh phúc cho người khác. Bởi vì những gì mình nói ra đều là những lời thương yêu, quan tâm, chăm sóc và hạnh phúc. Khi bạn có niềm vui và hạnh phúc thì những gì bạn làm đều là một sự hiến tặng vì năng lượng hạnh phúc đó sẽ ảnh hưởng đến chung quanh bạn và đồng thời cũng trở lại nuôi dưỡng bạn. Người hạnh phúc sẽ sống tốt hơn, lành mạnh hơn, hiền thiện hơn. Bạn có muốn thay đổi người kia không? Nếu quả thực như vậy, bạn phải trở về chăm sóc hạnh phúc cho chính bạn. Bạn phải đặt câu hỏi cho chính mình là: «Mình có đang hạnh phúc không? Mình có đang hành xử bằng tình thương không, hay bằng sự cau có bực bội?»

 

Một đức Bụt không đủ

Thầy từng nói: “Đức Bụt tương lai không phải là đức Bụt cá nhân mà là đức Bụt tăng thân, đức Bụt tập thể”. Với tình hình xã hội hiện nay thì một đức Bụt không thể giúp xã hội cứu vãn được tình thế mà phải cần một đức Bụt tập thể, nghĩa là nhiều đức Bụt. Một thầy cô giáo sẽ không giúp được cho học sinh, nhưng nhiều thầy cô giáo thì sẽ làm được. Một người hạnh phúc sẽ không làm cho xã hội đổi thay, nhưng nhiều người hạnh phúc sẽ làm cho xã hội thay đổi. Hạnh phúc sẽ giúp mình sống hiền thiện lành mạnh và đời sống hiền thiện lành mạnh sẽ giúp mình nhiều hạnh phúc vì mình sẽ không bị lương tâm cắn rứt, dày vò, mình sẽ có những giấc ngủ ngon, sẽ buông bỏ dễ dàng.

Bạn có muốn làm một người hạnh phúc như thế không? Bạn có muốn làm một đức Bụt như thế không? Sống hạnh phúc không khó đâu các bạn. Làm một đức Bụt cũng vậy. Thầy từng dạy, ngay trong khoảnh khắc này nếu bạn buông xuống những trách móc, giận hờn, những tính toán, lo toan, những si mê hiềm hận thì bạn đã là Bụt trong khoảnh khắc này rồi, và nếu bạn có nhiều khoảnh khắc như thế trong ngày thì bạn làm Bụt được nhiều khoảnh khắc, và nếu nhiều ngày bạn làm được như thế thì bạn thành Bụt trong một tháng, nhiều tháng như thế sẽ được một năm, nhiều năm như thế sẽ hình thành nên cuộc đời của bạn.

“Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao”. Một đức Bụt thì không đủ nhưng nhiều đức Bụt thì đủ, một khoảnh khắc thì không đủ nhưng nhiều khoảnh khắc thì đủ. Một người hạnh phúc thì không đủ những nhiều người hạnh phúc thì đủ. Bạn có muốn nhập cuộc không? Bạn không cần phải đi đâu xa, bạn không cần phải làm gì khác cả, ngay trong phút giây này, ngay nơi bạn đang ngồi, bạn có thể tiếp tục làm công việc bạn đang làm, nhưng làm cho thảnh thơi, làm cho hạnh phúc, làm trong ý thức biết rõ tình trạng thân tâm của mình…

Chúng ta cùng nắm tay nhau để xây dựng xã hội trong tình thương yêu hạnh phúc này.

Kính chúc các bạn có nhiều niềm vui và hạnh phúc trong cuộc sống.

Chân Hội Nghiêm

Đem chánh niệm vào giáo dục Việt Nam

 

Kính gửi: Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phạm Vũ Luận

Chúng tôi là một tổ chức gồm các giáo viên và những người thực tập chánh niệm, hoạt động với mục tiêu đưa chánh niệm vào trong lĩnh vực giáo dục. Chúng tôi có khả năng tổ chức những khóa hướng dẫn thực tập và các khóa đào tạo về chánh niệm tại châu Âu, châu Mỹ và châu Á nhằm giúp giới giáo chức và sinh viên  nâng cao năng lực và nuôi dưỡng sự bình an, lành mạnh cho chính bản thân cũng như cho môi trường học đường. Chúng tôi đã và đang xây dựng những chương trình đào tạo chánh niệm nhằm đáp ứng những nhu yếu của xã hội Tây phương trong thế kỷ XXI.

Chúng tôi mong được hợp tác với Việt Nam – các giáo chức, các trường học cũng như các tổ chức về giáo dục –  nhằm tìm cách đưa sự thực tập chánh niệm vào trong chương trình giáo dục của Việt Nam.

Các đối tác của chúng tôi
Trong 30 năm qua, chúng tôi đã tiến hành đào tạo cho các giáo chức tại Mỹ, Vương quốc Anh, Pháp, Hồng Kông, Thái Lan, Ấn Độ và Bhutan. Cách đây hai năm, Thống đốc tiểu bang California, Hoa Kỳ Jerry Brown đã cho áp dụng chương trình của chúng tôi vào hai trường học (charter schools)  của bang California sau khi có cuộc gặp gỡ và trao đổi với nhóm Wake Up Schools. Ở các nước tiến bộ mà chúng tôi đã nêu, chính phủ cũng như các trường trung học và đại học của các nước này đều đầu tư rất nhiều nguồn lực cho sự phát triển lành mạnh và hạnh phúc của đội ngũ giáo viên cũng như các cán bộ trong ngành giáo dục. Một trong những trường hợp điển hình là Bhutan, nơi mà sự phát triển kinh tế luôn đi đôi với hạnh phúc của người dân, sự phát triển bền vững của môi trường sinh thái và việc bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc. Chúng tôi tin tưởng rằng Việt Nam và các nước khác trong ASEAN cũng sẽ cam kết đi theo chiều hướng tiến bộ này.

Các chương trình đào tạo
Các nghiên cứu khoa học cho thấy rằng sự căng thẳng – stress – là nhân tố gây ức chế sự phát triển và khả năng học hỏi của con người. Đặc biệt là đối với giới trẻ, họ rất cần những công cụ, những phương pháp để xử lý căng thẳng và cảm xúc mạnh, giúp họ nhanh chóng vượt qua những cơn bão cảm xúc. Các nghiên cứu cũng đồng thời cho thấy khả năng sống hạnh phúc có thể giúp các em học sinh, sinh viên phát triển một cách khỏe mạnh và có sự ổn định về mặt cảm xúc cũng như khả năng hòa nhập với mọi người trong trường học cũng như ngoài xã hội. Những người trẻ cần học cách sống chậm lại, cách dừng lại và buông thư để trở nên sáng suốt, minh mẫn và học tập có hiệu quả hơn. Sự dừng lại và buông thư cũng đồng thời giúp các bạn trẻ nhận ra rằng hạnh phúc phụ thuộc vào thái độ sống lành mạnh, chứ không phải là những điều kiện vật chất bên ngoài. Các chương trình đào tạo về chánh niệm của chúng tôi có khả năng trang bị cho các bạn trẻ những kỹ năng quan trọng nói trên, đồng thời giúp phát triển sức khỏe tâm lý, khả năng sáng tạo, tính hiệu quả và khả năng làm việc theo nhóm. Các chuyên gia đã dự đoán rằng việc rèn luyện tinh thần cho học sinh, sinh viên cũng sẽ đóng một vị trí quan trọng không kém gì việc rèn luyện thể chất trong các chương trình giáo dục của thế kỷ tới.

Đầu năm nay, các nhà giáo dục tại Singapore và Hàn Quốc – các quốc gia vốn nổi tiếng với hệ thống giáo dục có chất lượng cao – đã mời chúng tôi đến tổ chức chương trình đào tạo nhằm đưa chánh niệm vào trường học ở các nước này. Trong các khóa đào tạo, chúng tôi nhận ra một điều rõ ràng rằng giáo viên và học sinh của các nước này đều rất cần những phương pháp thực tiễn để xử lý những căng thẳng và lo lắng do áp lực cạnh tranh trong một nền kinh tế toàn cầu hóa. Những phương pháp thực tập mà chúng tôi giới thiệu cũng đồng thời giúp tạo ra một môi trường học tập lành mạnh, tích cực và vui tươi trong các trường học.

Các nước tiên tiến trên thế giới đã bắt đầu nhận ra rằng họ cần một nền đạo đức toàn cầu để song hành với sự phát triển kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hóa. Họ cũng đồng thời nhận ra rằng trong thế kỷ XXI, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia cũng quan trọng và thiết yếu không kém gì sự độc lập của một quốc gia. Sự phát triển và tiến bộ của một quốc gia không còn là vấn đề của riêng quốc gia đó và những gì xảy ra với một quốc gia đều có ảnh hưởng đến các quốc gia khác. Sự đầu tư vào một nền kinh tế dựa trên trí tuệ song hành với nền kinh tế dựa trên tri thức sẽ đảm bảo cho sự phát triển bền vững của một quốc gia. Hầu hết các quốc gia đều mong muốn thế hệ trẻ của đất nước mình không chỉ giỏi giang về mặt tri thức mà còn có được tuệ giác về tương tức, về tính chất gắn kết và phụ thuộc lẫn nhau giữa mọi người, mọi loài. Với tuệ giác đó, họ sẽ có thể đưa ra những quyết định và lựa chọn sáng suốt, đóng góp tích cực cho sự phát triển của quốc gia cũng như cho môi trường sống. Các bộ trưởng giáo dục ở Thái Lan và Hồng Kông, cũng như các nhà hoạnh định chính sách giáo dục tại Mỹ và Vương quốc Anh đã tham gia vào các chương trình đào tạo của chúng tôi. Họ đã công nhận rằng các chương trình đào tạo về chánh niệm có khả năng đáp ứng một cách cụ thể những nhu cầu của nền giáo dục ở đất nước họ.

Việt Nam
Chúng tôi hoan nghênh và đánh giá cao những bước tiến mà Việt Nam đã đạt được trong công cuộc cải cách hệ thống giáo dục, đảm bảo cho các giáo viên và học sinh, sinh viên được trang bị đầy đủ những điều kiện cần thiết nhằm đáp ứng được những đòi hỏi và thách thức của nền kinh tế hiện đại. Chúng tôi ý thức rằng Ngài Bộ trưởng đang cố gắng hết sức trong khả năng và quyền hạn của mình để giúp cho thế hệ trẻ Việt Nam có được những kỹ năng và trình độ chuyên môn cần thiết để có thể cạnh tranh trên trường quốc tế.

Có thể Việt Nam đang nhìn về phương Tây để tìm kiếm một mô hình giáo dục cho đất nước mình. Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy rằng Việt Nam vốn là một đất nước giàu truyền thống văn hóa, trong đó giáo dục là một khía cạnh thiết yếu và quan trọng của nền văn hóa dân tộc. Lịch sử Việt Nam đã có biết bao vị thầy lỗi lạc đáng để chúng ta kính ngưỡng và học hỏi. Tình nghĩa thầy trò cũng là một di sản văn hóa quý giá và độc đáo của Việt Nam. Thật vậy, nghề giáo luôn được đánh giá cao và rất được quý trọng trong xã hội Việt Nam. Vào dịp lễ Tết, các bậc phụ huynh và học sinh đều đến thăm thầy cô giáo để bày tỏ tấm lòng quý kính và biết ơn của mình. Không những vậy, Việt Nam còn có ngày lễ truyền thống để tôn vinh các nhà giáo, đó là ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11. Tuy nhiên, chúng tôi cũng đồng thời nhận thấy rằng truyền thống giáo dục của Việt Nam hiện đang gặp nhiều khó khăn và thách thức trước tình trạng các trường học hiện chú trọng quá nhiều vào thi cử và bằng cấp, giáo viên và học sinh ngày càng bị áp lực căng thẳng và không có sự thực tập để giúp họ lắng dịu thân tâm và chăm sóc các cảm xúc mạnh. Chính vì vậy mà chúng tôi mong muốn cung cấp một chương trình đào tạo có khả năng đưa sự thực tập chánh niệm vào trong mô hình giáo dục hiện đại, đồng thời giúp duy trì và nuôi dưỡng tình nghĩa thầy trò trong trường học.

Những điều mà chúng tôi mong muốn hiến tặng
Chương trình đào tạo của chúng tôi có hai mô hình khác nhau: một là hình thức hội thảo đào tạo (training conference) dành cho các giáo viên và các nhà quản lý giáo dục đến từ nhiều cơ sở giáo dục khác nhau; mô hình thứ hai là một khóa đào tạo dành riêng cho một trường học hoặc một cơ sở giáo dục, trong đó đối tượng tham gia là toàn bộ giáo viên, học sinh và cả các bậc phụ huynh của trường học đó. Chẳng hạn như tại Vương quốc Anh, chúng tôi đã tổ chức một hội thảo đào tạo trong bốn ngày tại American School ở Luân Đôn dành cho 350 giáo chức đến từ khắp nơi trên thế giới. Trong thời gian hội thảo, các giáo chức được học về các phương pháp thực tập chánh niệm để có thể chăm sóc cho bản thân và giúp ích cho nhiều người. Không những vậy, họ còn có cơ hội chia sẻ quan điểm, ý kiến của mình về những cách thức cải thiện môi trường học đường cũng như chia sẻ những mục tiêu giáo dục mà họ đang theo đuổi. Trong khi đó, tại một trường học ở Ấn Độ, chúng tôi có cơ hội tổ chức một khóa đào tạo về chánh niệm trong 7 ngày dành cho các giáo viên, học sinh và cả các bậc phụ huynh. Kết quả là mọi người trong trường từ giáo viên cho đến học sinh và cả các bậc phụ huynh đều có cơ hội cùng nhau thực tập và tạo nên một bầu không khí vui tươi và an lành cho cả trường học.

Chúng tôi luôn coi Việt Nam là gốc rễ tâm linh quan trọng và là quê hương yêu dấu của vị Thầy tâm linh của chúng tôi. Chính vì vậy mà chúng tôi mong muốn được cộng tác với Bộ Giáo dục và Đào tạo của Việt Nam để tìm ra những cách thức đưa sự thực tập chánh niệm vào trong các trường học ở Việt Nam. Cũng giống như tại Vương quốc Anh và Ấn Độ, nhóm Wake Up Schools của chúng tôi có thể tổ chức một hội thảo đào tạo trong khoảng thời gian từ 3 đến 6 ngày dành cho các giáo viên tại Hà Nội, Đà Nẵng hoặc Thành phố Hồ Chí Minh; hoặc có thể tổ chức một chương trình đào tạo kéo dài một tuần dành cho một trường học nào đó tại các thành phố kể trên.

Cuối cùng, chúng tôi xin hân hạnh kính mời Ngài Bộ trưởng tham dự một hội thảo đào tạo được tổ chức trong 6 ngày tại thành phố Toronto, Canada từ ngày 11 đến ngày 16 tháng 8 năm 2013, với tư cách là khách mời danh dự của chúng tôi. Hội thảo sẽ diễn ra với chủ đề “Những nhà giáo hạnh phúc có thể làm thay đổi thế giới”. Chúng tôi đã dành ba chỗ tại Hội thảo cho Ngài Bộ trưởng và hai cộng sự của Ngài. Thông qua cuộc hội thảo, Ngài Bộ trưởng sẽ có cơ hội tiếp xúc với các nhà giáo cũng như những người làm việc trong lĩnh vực giáo dục ở khắp nơi trên thế giới, và có cơ hội trực tiếp khám phá những lợi ích mà chương trình đào tạo về chánh niệm có khả năng mang lại cho nền giáo dục. Nếu Ngài Bộ trưởng có thể đến tham dự hội nghị thì xin cho chúng tôi biết theo địa chỉ liện hệ sau:Elli Weisbaum – email: elli@wakeupschools.org .

Thông tin chi tiết về cuộc hội thảo có thể được tìm thấy tại trang web:

http://tnhtoronto.ca/#The+Retreat.

Chúng tôi rất mong nhận được lời phúc đáp của Ngài Bộ trưởng. Và nếu Ngài Bộ trưởng có bất kỳ câu hỏi nào về chương trình của chúng tôi, xin liên hệ với nhóm Wake Up Schools của chúng tôi theo địa chỉ email:  info@wakeupschools.org.

Kính thư,

Thầy Pháp Dung
Wake Up Schools

(Bản tiếng Anh Letter to Viet Nam Ministry of Education and Training)

Xem thêm:

 

 


 

Thầy Pháp Dung


Một số hình ảnh về các chương trình đào tạo cho các giáo chức trên thế giới


Bhutan 2012

Công chúa Bhutan và một số quan chức trong Hoàng gia tham dự buổi lễ khai mạc đầu tiên của 4 ngày hội thảo với chủ đề “Chánh Niệm là Nguồn Hạnh Phúc”

 

Sinh viên người Bhutan cùng với các Sư cô bản xứ và các thầy sư cô Làng Mai sau một ngày tu tập

Các em lớp 3, 4 và 5 của trường Vassant Valley đang thực tập thở trong chánh niệm

 

Hàn Quốc – Korea 2013

 

Thái Lan 2013

 

 

Israel 2013

Thầy cô giáo hạnh phúc sẽ thay đổi thế giới

Các bạn thân mến, các đồng nghiệp thân mến,

Chào mừng quí vị đến tham dự khóa tu tiếng Pháp dành cho các thầy cô giáo và các nhà giáo dục. Tôi cũng là một giáo viên và tôi rất yêu nghề. Quí vị cũng yêu nghề của mình, đó là một điều rất đáng quý! Quý vị có sứ mệnh ươm mầm, và nuôi dưỡng những người trẻ lành mạnh, có khả năng tạo dựng hạnh phúc cho mình và cho xã hội. Sứ mệnh của chúng ta không chỉ là trao truyền kiến thức mà còn là xây dựng con người, xây dựng một xã hội nhân bản để có thể chăm sóc và bảo hộ hành tinh xinh đẹp của chúng ta.

Tôi rất may mắn vì những người trẻ đến với tôi đều có chung một lý tưởng. Họ muốn học cách chuyển hóa tự thân, sống hạnh phúc và giúp cho những người khác cũng sống hạnh phúc như mình. Mỗi khi vào lớp, tôi luôn cảm thấy hạnh phúc vì giữa thầy và trò có sự cảm thông, có tình huynh đệ. Điều này giúp cho việc trao truyền và tiếp nhận trở nên dễ dàng hơn rất nhiều. Tôi hỏi thăm các đệ tử về hạnh phúc và khó khăn của họ, và tôi cũng kể cho đệ tử nghe những khó khăn cũng như những ước mong của tôi. Chúng tôi luôn luôn có liên hệ thầy trò rất sâu sắc.

Những khó khăn trong việc giáo dục

Những người trẻ, và các em học sinh trong thời đại của chúng ta có rất nhiều khổ đau trong lòng. Bởi vì cha mẹ các em có khó khăn, gia đình các em không hạnh phúc. Cha mẹ không truyền thông được với nhau, hay cha mẹ và con cái không thể nói chuyện được với nhau dễ dàng. Trong lòng các em có nhiều cô đơn, trống vắng. Không biết cách chăm sóc khổ đau của mình, các em tìm cách khỏa lấp nỗi cô đơn và trống vắng bằng những trò chơi điện tử hay những thú vui tiêu khiển độc hại khác. Người trẻ thời đại ngày nay có rất nhiều nỗi khổ niềm đau và điều này làm cho công việc giáo dục trở nên khó khăn hơn.

Chính chúng tôi cũng gặp không ít khó khăn. Nhưng chúng tôi luôn cố gắng làm hết khả năng của mình. Thật khó khi môi trường xã hội, gia đình và những đồng nghiệp hợp tác với chúng tôi cũng đang có nhiều khổ đau trong chính bản thân họ. Nếu những người giáo viên không có hạnh phúc thì làm sao có thể mang lại hạnh phúc cho học sinh của mình? Đây là một vấn đề lớn!

Chúng ta không có đủ kiên nhẫn, hiểu biết, tươi mát và tình thương để giải quyết vấn đề đó. Chúng ta cần một chiều hướng tâm linh có thể giúp cho ta chuyển hóa tự thân. Sau đó giúp chuyển hóa những người xung quanh. Mà đầu tiên là người bạn đời của ta, hay những thành viên trong gia đình ta. Nếu thực tập thành công thì ta sẽ trở nên nhẹ nhàng hơn, dễ chịu hơn, tươi mát hơn, và có nhiều tình thương hơn. Ta sẽ giúp được cho những bạn đồng nghiệp cũng làm được như mình và ta có thể áp dụng sự thực tập vào lớp học.

Như vậy bước đầu tiên là thực hiện một cuộc trở về, trở về với chính mình. Tìm một lối ra, nhưng “lối ra tùy thuộc đường vào nội tâm” (The way out is in).

Như vậy bước đầu tiên là thực hiện một cuộc trở về, trở về với chính mình. Tìm một lối ra, nhưng “lối ra tùy thuộc đường vào nội tâm” (The way out is in).

Trở về chăm sóc tự thân

Trở về với tự thân để chăm sóc cho chính mình. Để ôm ấp và xử lý những nỗi khổ niềm đau trong mình. Có những phương pháp thực tập mà chúng ta có thể làm cùng nhau với niềm vui. Bằng hơi thở chánh niệm, ta đem tâm trở về với thân. Trước hết ta trở về chăm sóc hình hài của mình. Trong thân thể ta đã tích tụ nhiều căng thẳng và đau nhức. Trở về với thân giúp ta nhận diện rằng trong thân của ta đang có sự căng thẳng, đau nhức và ta thở như thế nào để làm lắng dịu sự đau nhức đó. Chỉ cần thực tập buông thư, và ý thức về hơi thở trong một giờ đồng hồ sẽ  giúp cho ta rất nhiều.

Bụt đã dạy cho ta một phương pháp:

“Thở vào, tôi ý thức rõ rệt về thân thể tôi.

Thở ra, tôi buông thư những căng thẳng trong thân thể tôi”.

Tôi trở về với hình hài của tôi, hình hài tôi là một mầu nhiệm nhưng nó không có đủ sự bình an trong giờ phút này.

Nếu không có sự bình an trong thân thì cũng không có sự bình an trong tâm. Thân và tâm nhất như. Chúng ta phải bắt đầu bằng sự thực tập trở về với thân. Ta có thể tập buông thư trong khi đi, đứng, nằm, ngồi. Đây là những thực tập căn bản và thiết yếu. Ta có thể tập buông thư khi ngồi trong xe bus hay trong xe hơi. Ta cũng có thể tập buông thư khi nấu bữa  sáng hay khi rửa bát. Trong ngày ta có rất nhiều cơ hội để thực tập buông thư. Điều này rất quan trọng!

Có những phương pháp thực tập giúp ta nhận diện được những mầu nhiệm của sự sống và vẻ đẹp của thiên nhiên ngay trong giây phút hiện tại. Nếu thở vào một hơi và đặt hết sự chú tâm vào hơi thở vào thì có thể ngưng lại tất cả sự suy tư. Chúng ta suy tư rất nhiều nhưng những suy tư của ta đều không mang đến cho ta nhiều lợi lạc. Càng suy tư thì ta càng trở nên lộn xộn hơn. “Tôi suy tư nên tôi không thật sự có mặt, tôi suy tư nên tôi đánh mất mình trong sự suy tư đó” (Je pense donc je ne suis pas vraiment là,  je pense donc je suis perdu dans ma pensée).

Nếu chỉ chú tâm vào hơi thở vào, dù hơi thở đó chỉ kéo dài trong hai hay ba giây thì ta cũng đã ngưng lại được sự suy tư của mình. Ta có tự do đối với quá khứ, đối với tương lai, đối với những dự án trong hiện tại.  Hơi thở vào đó có thể rất dễ chịu.

Thực tập thở một hơi thở vào có ý thức có thể giúp ta cảm thấy rất dễ chịu. Mình đang còn sống đây, mình đang thở vào. Đó là một mầu nhiệm! Những người đã mất không còn thở vào được nữa. Tôi đang thở vào, tôi đang còn sống. Và còn sống là một điều mầu nhiệm, mầu nhiệm lớn nhất trong tất cả những mầu nhiệm trên thế giới. Ta có niềm vui khi thở vào. Trong khi thở vào ta đem tâm trở về với thân. Trong đời sống hàng ngày, thường thì thân ta ở đây mà tâm ta thì ở chỗ khác. Tâm ta rong ruổi về quá khứ, hoặc tương lai, hay đắm chìm trong những lo âu và giận hờn. Tâm không ở cùng với thân và như vậy thì ta đang không thật sự sống.

Để thật sự có mặt và sống sâu sắc mỗi giây phút của đời sống thì tâm ta phải có mặt với thân ta. Khi thân và tâm là một thì ta hoàn toàn có mặt và nhận diện được những mầu nhiệm của sự sống xung quanh. Như mặt trời, cây xanh, tiếng chim hót,…Vương quốc của Thượng đế đang có mặt bây giờ và ở đây. Nhận diện đơn thuần những mầu nhiệm của sự sống. Nhận ra rằng mình đang có nhiều điều kiện hạnh phúc hơn rất nhiều người khác. Mình may mắn được sống hạnh phúc bây giờ và ở đây. Nếu có thời gian quí vị có thể lấy một tờ giấy rồi viết xuống những điều kiện hạnh phúc mà mình đang có trong hiện tại. Những hạnh phúc ấy mình không cần phải chạy đi tìm trong tương lai. Tôi tin chắc là một tờ giấy, hai tờ không đủ để viết hết. Mà ba hay bốn tờ cũng không đủ. Quí vị đang có rất nhiều may mắn và có rất nhiều điều kiện hạnh phúc. “Hạnh phúc có thể có được ngay bây giờ và ở đây”, đó là lời Bụt dạy. Người Pháp cũng có câu: Qu’est-ce qu’on attend pour être heureux? (Chúng ta còn chờ gì nữa để có hạnh phúc?)

Sự thực tập giúp cho ta nhận diện được những mầu nhiệm của sự sống, nhận diện được vương quốc của Thượng đế và những điều kiện hạnh phúc đang có mặt trong giây phút hiện tại. Ta có thể chế tác được niềm vui và hạnh phúc bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào. Một người thực tập chánh niệm giỏi là người có khá năng chế tác niềm vui và hạnh phúc bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu. Đó là nghệ thuật hạnh phúc. Rất dễ dàng và đơn giản, bất cứ ai cũng có thể làm được.

Nghệ thuật khổ đau

Làm thế nào để lắng dịu những khổ đau khi chúng phát sinh? Khi một cảm thọ khổ đau bắt đầu xuất hiện thì ta thở như thế nào để có thể chế tác được năng lượng của chánh niệm. Năng lượng chánh niệm này giúp cho ta có mặt, nhận diện, và ôm ấp cảm xúc đó một cách dịu dàng. Như một bà mẹ ôm lấy đứa con đang khóc vào lòng. Cảm nhận được sự săn sóc của bà mẹ, đứa bé nín khóc ngay. Chỉ cần vài phút thực tập là ta có thể làm lắng dịu được những cảm xúc của mình. Thực tập này rất  quan trọng!

Lắng nghe những nỗi khổ niềm đau trong hình hài, trong cảm thọ và trong tâm hành của mình. Người kia cũng vậy, người kia cũng có nỗi khổ niềm đau trong họ. Vì họ khổ đau, nên lời nói và hành động của người đó đã gây cho ta nhiều đau khổ. Chỉ vì người kia không biết cách xử lý nỗi khổ niềm đau của họ, chứ họ không cố ý làm cho ta đau khổ. Là một người có tu học, chúng ta phải biết  cách xử lý nỗi khổ niềm đau của mình.

Xử lý khổ đau là một nghệ thuật. Chúng ta nói tới nghệ thuật hạnh phúc nhưng cũng có thể nói tới nghệ thuật khổ đau. Chúng ta phải học cách khổ đau. Người biết cách khổ đau thì sẽ ít khổ hơn những người khác. Quí vị hãy tin tôi: “Ai biết cách khổ đau thì khổ ít hơn những người khác.” Đó là một sự thật! Nếu mình có khả năng thấy được nỗi khổ niềm đau trong người kia thì mình sẽ không còn khổ nữa: “Tội cho người ấy, tội cho bạn tôi, tội cho đồng nghiệp của tôi, họ có bao nhiêu là khổ đau trong lòng mà không biết cách để xử lý. Họ tự làm họ khổ và làm khổ luôn những người khác.” Nếu mình thấy được như vậy thì tự nhiên mình có khả năng nhìn người kia với đôi mắt từ bi. Khi trong lòng có từ bi, có hiểu, có thương thì mình sẽ không đau khổ nhiều nữa. Từ bi là liều thuốc chữa trị được giận hờn.

Chúng ta có thể chế tác ra năng lượng từ bi một cách dễ dàng. Chỉ cần thấy và hiểu được nỗi khổ niềm đau của người kia thì tự nhiên chất liệu tình thương sẽ ứa ra trong trái tim ta. Và ta có thể mỉm cười với người kia một cách nhẹ nhàng. Người kia sẽ rất ngạc nhiên và tự hỏi: “Tại sao anh ta có thể làm được như thế? Nếu gặp trường hợp này thì những người khác sẽ phản ứng lại một cách giận dữ, nhưng sao anh lại có thể tươi cười và đầy tình thương như vậy?” Khi đó, chúng ta có cơ hội giúp được cho những người kia. Thực hiện một cuộc trở về  với chính mình là bước thứ nhất. Sau đó ta có thể giúp cho người bạn đời của mình hay những người thân trong gia đình. Thấy được sự chuyển hóa và thành công của ta họ sẽ có niềm tin vào những phương pháp mà ta đang thực tập.

Thực tập ái ngữ và lắng nghe để tái lập truyền thông và đem lại sự hòa giải

Tái lập truyền thông và đem lại sự hòa giải là chuyện ta có thể làm được. Sự thực tập nói lời ái ngữ và lắng nghe sâu giúp cho chúng ta thiết lập lại truyền thông và đưa tới sự hòa giải.

“Anh ơi, em biết là anh có rất nhiều khổ đau trong những năm vừa qua. Em đã không giúp gì được cho anh mà còn làm cho tình trạng trở nên tệ hại hơn. Em xin lỗi anh! Em không cố ý làm cho anh khổ. Nhưng em đã không thấy và không hiểu được nỗi khổ niềm đau trong anh, vì vậy anh phải giúp cho em. Anh phải nói cho em biết những gì trong lòng anh, những khó khăn và những khổ đau của anh. Em tin chắc rằng nếu hiểu được khổ đau trong anh thì em sẽ không hành xử như những gì em đã từng hành xử những năm qua. Anh phải giúp cho em. Anh phải nói cho em biết những khổ đau chất chứa trong lòng.” Đó là lời nói ái ngữ. Là chìa khóa để mở cửa trái tim của người kia. Sự thực tập này rất hiệu nghiệm, cho dù là giữa hai người đã có khó khăn trong hơn 5 năm rồi. Người kia sẽ mở lòng nói cho ta nghe những gì chất chứa, dồn nén trong trái tim họ. Lúc này ta thực tập lắng nghe với hạnh của Bồ tát Quán Thế Âm (Bồ tát Avalokiteshvara). Chỉ cần lắng nghe với tâm từ bi là ta cũng đã làm vơi nhẹ rất nhiều khổ đau trong người khác rồi. Lắng nghe với tâm từ bi có khả năng giúp cho người kia trải hết lòng ra để cho họ bớt khổ.

Nếu người kia có những cái thấy và tri giác sai lầm thì ta cũng không nên cắt ngang lời họ. Ta phải để cho người kia nói. Sau này, nếu có thì giờ thì ta sẽ cung cấp vài dữ kiện để người kia thấy được tri giác sai lầm đó, nhưng bây giờ thì chưa phải lúc. Lúc này là lúc ta cần thiết lập lại sự truyền thông và hòa giải với nhau.

Sau này, khi các giáo viên cùng thực tập với nhau và cùng thực tập với người thân trong gia đình thì chúng ta sẽ tiến thêm một bước nữa. Chúng ta có thể đến gần với môi trường của trường học, trong đó có những bạn đồng nghiệp và những học sinh của mình. Chúng ta biết rằng hầu hết những người bạn đồng nghiệp của ta cũng có nỗi khổ niềm đau trong lòng. Vì vậy nếu ta có hiểu và có thương thì khi người đó “bùng nổ” với ta, ta sẽ dễ dàng cảm thông và bớt khổ hơn nhiều.

Mỗi giáo viên phải là một người xây dựng Tăng thân

Chúng ta phải nghĩ tới việc xây dựng tăng thân. Tức là một đoàn thể trong đó có những bạn đồng nghiệp hay những người làm trong lĩnh vực giáo dục, có thể là 3 hay 4 người mà ta dễ dàng truyền thông được với. Chúng ta phải xây dựng một tăng thân. Cùng đến với nhau để có thể nuôi dưỡng và duy trì sự thực tập. Thực tập không phải với tư cách một cá nhân hay một gia đình mà là với tư cách một đoàn thể. Xây dựng tăng thân là công việc tối cần thiết. Chúng ta có thể đi thiền hành cùng nhau, uống trà cùng nhau hay tổ chức một buổi thiền buông thư chung.

Chúng ta xây dựng một đoàn thể nhỏ gồm những thầy cô giáo có hạnh phúc, “thầy cô giáo hạnh phúc sẽ làm thay đổi thế giới”. Với tăng thân nhỏ bé đó ta có thể làm làm thay đổi cả tập thể trường học. Chúng ta có thể viết một lá thư: “Chúng tôi là một nhóm người, chúng tôi đã thực tập những phương pháp như vậy(…) và đã đạt được nhiều sự chuyển hóa trong đời sống, trong công việc cũng như trong lớp học. Chúng tôi nghĩ rất lợi lạc nếu quí vị cùng thực tập với chúng tôi”. Như vậy những đồng nghiệp khác cũng sẽ có cơ hội nếm được bình an, tình huynh đệ và sự buông thư ấy.

Chúng ta không thể tiếp tục như hiện nay, tại vì nếu chính các giáo viên không có hạnh phúc, không bình an và không hòa hợp với nhau thì làm sao mà có thể giúp được cho những người học sinh bớt khổ và thành công trong học tập. Xây dựng một tăng thân là công việc tối hậu. Mỗi giáo viên phải là một người dựng tăng. Sau khi giác ngộ, công việc đầu tiên mà Bụt làm là xây dựng một tăng thân. Ngài biết rõ là nếu không có tăng thân thì mình sẽ không thể nào hoàn thành được sự nghiệp của một vị Bụt.

Giáo viên là một nghề rất cao quí, rất đẹp, rất đáng kính. Nhưng nếu không có một tăng thân thì mình cũng không làm được gì nhiều. Vì vậy xây dựng tăng thân là một việc cấp thiết!

Các bạn thân mến, chúng ta có một khóa tu, điều này rất ý nghĩa. Chúng ta có cơ hội cùng nhau thực tập những điều này. Tôi chúc các bạn có một khóa tu hạnh phúc và đạt được nhiều chuyển hóa.

Xin cảm ơn các bạn.

Đem chánh niệm vào trường học

Các em nhỏ trong khóa tu tại tu viện Mộc Lan năm 2013

Khi nói về đời sống của giáo viên, chúng ta biết rằng trong thầy cô giáo cũng có những khổ đau và trong các học sinh cũng có nhiều khổ đau. Và đó là lý do vì sao một nhà giáo cần phải biết cách xử lý, chăm sóc khổ đau của chính mình và biết cách chế tác niềm vui, niềm hạnh phúc cho chính mình. Nếu các nhà giáo đều làm được như vậy thì họ sẽ trở thành những nhà giáo hạnh phúc, họ sẽ bớt khổ đau và khi đến lớp học, họ cũng sẽ giúp các học trò của mình làm được tương tự như vậy.

Nghệ thuật chế tác hạnh phúc và xử lý khổ đau

Trong kinh Quán niệm hơi thở, Bụt dạy cho chúng ta 16 bài tập về hơi thở ý thức. Đây là những bài tập rất thực tiễn, không phức tạp mà ai cũng có thể làm được. Chúng ta có thể nhận thấy ngay được hiệu quả chỉ sau một hoặc hai giờ thực tập.

Bài tập thứ nhất hết sức đơn giản, đó là: phát khởi ý thức về hơi thở vào và hơi thở ra. “Thở vào, tôi ý thức đây là hơi thở vào; thở ra, tôi ý thức đây là hơi thở ra”. Ta chỉ cần nhận diện hơi thở vào và hơi thở ra. Bài tập này rất đơn giản và dễ làm, nhưng hiệu quả thì rất lớn lao. Khi thở vào, ta đặt toàn bộ sự chú tâm vào hơi thở vào. Hơi thở vào trở thành đối tượng duy nhất của tâm và nếu ta thực sự chú tâm vào hơi thở vào thì ta có thể buông bỏ tất cả những cái khác. Ta buông bỏ quá khứ, buông bỏ tương lai, buông bỏ luôn những dự án, những sợ hãi, giận hờn, bởi vì tâm ta chỉ có một đối tượng duy nhất lúc đó là hơi thở vào. Những tiếc nuối, đau buồn của quá khứ, những sợ hãi và lo lắng về tương lai, tất cả những thứ đó ta đều buông bỏ hết chỉ trong một hoặc hai giây, bởi vì ta đang tập trung toàn bộ tâm ý vào hơi thở vào. Vì vậy, hơi thở ý thức giải phóng cho ta, giúp cho ta được tự do. Và khi ta phải làm một quyết định nào đó thì điều quan trọng là ta cần phải có đủ tự do khi làm việc đó. Ta không bị ảnh hưởng bởi giận hờn, sợ hãi, khi đó ta sẽ có thể đưa ra một quyết định sáng suốt. Chỉ cần một hơi thở vào thôi là ta được tự do rồi. Vì vậy có thể nói bài tập này rất đơn giản nhưng hiệu quả thì thật là lớn lao.

Bài tập thứ hai là theo dõi hơi thở vào từ đầu cho đến cuối và theo dõi hơi thở ra từ đầu cho đến cuối. Thở vào, ta theo sát hơi thở vào trong suốt chiều dài của hơi thở vào, không để bị gián đoạn dù chỉ là trong một mili giây. Và trong khi theo sát hơi thở vào, ta chế tác năng lượng định tâm. Ta không chỉ ý thức về hơi thở vào mà còn tập trung toàn bộ tâm ý vào hơi thở vào. Năng lượng chánh niệm mang theo trong nó năng lượng của định. Ý thức và tập trung tâm ý vào hơi thở vào có thể mang lại cho ta cảm giác rất dễ chịu. Ta không phải khổ nhọc gì khi thực tập, mà sự thực là chỉ cần một hơi thở vào thôi là ta đã cảm thấy dễ chịu rồi, đặc biệt là khi không khí mát mẽ, trong lành và mũi của ta không có vấn đề gì.  Vì vậy, bài tập thứ hai này là theo dõi hơi thở vào và hơi thở ra trong suốt chiều dài của nó. Và ta có thể thực tập bài tập 1 và 2 này vào bất kỳ lúc nào và ở bất cứ nơi đâu.

Bài tập thứ ba là ý thức về cơ thể. Thở vào, ta ý thức rõ rệt về toàn bộ thân thể ta. Ta đưa tâm trở về với thân, thiết lập trạng thái thân tâm nhất như. Khi đó ta thực sự có mặt trong giây phút hiện tại, bây giờ và ở đây. Ta thực sự đang sống và ta có thể sống giây phút này một cách sâu sắc hơn. Bài tập thứ ba này giúp ta phục hồi được sự toàn vẹn của thân và tâm. Nhiều khi ta ngồi trước máy tính cả hai tiếng đồng hồ nhưng ta hoàn toàn quên mất về thân của mình. Ta không thực sự sống trong giây phút đó. Ta chỉ có thể thực sống sống khi tâm của ta có mặt với thân. Chỉ khi đó ta mới có thể có mặt trọn vẹn trong giây phút hiện tại, bây giờ và ở đây, và ta có thể tiếp xúc được với những mầu nhiệm của sự sống trong ta và xung quanh ta. Ở Làng Mai, các thầy, các sư cô thường cài chương trình chuông chánh niệm vào máy tính của mình và mỗi 15 phút, các thầy các sư cô sẽ nghe một tiếng chuông từ máy tính, khi đó họ sẽ dừng lại những công việc đang làm để trở về với hơi thở, thưởng thức hơi thở vào, hơi thở ra, mỉm cười và buông thư những căng thẳng trong thân. Và đó là những gì mà Bụt đã dạy cho chúng ta cách đây 2600 năm.

Bài tập thứ tư: ta đang thở vào và làm cho toàn thân an tịnh; ta đang thở ra và làm cho toàn thân an tịnh. Với hơi thở vào, ta trở về tiếp xúc với cơ thể và nhận diện trong thân có những chất liệu của sự bất an, căng thẳng. Tự nhiên ta muốn làm một điều gì đó để giúp cơ thể ta lắng dịu và bớt căng thẳng. Và với hơi thở ra, ta buông thư hết những căng thẳng và bất an trong thân. Đó là bài tập thứ tư về hơi thở ý thức mà Bụt muốn ta thực tập để chăm sóc cho thân thể của mình.

Bài tập thứ năm là chế tác niềm vui (hỷ). Với bài tập thứ 5, ta bước sang lĩnh vực cảm thọ. Ta đang thở vào và cảm thấy mừng vui, ta đang thở ra và cảm thấy mừng vui. Một hành giả giỏi là người biết cách làm phát khởi một niềm vui, bởi vì người đó biết rằng chánh niệm có thể giúp người đó nhận diện được tất cả những điều kiện hạnh phúc đang có sẵn trong giây phút hiện tại. Chúng ta có thể tự nhắc mình và những người thương của mình rằng chúng ta rất may mắn và chúng ta có thể hạnh phúc liền ngay bây giờ và ở đây. Chúng ta không phải chạy về tương lai để tìm kiếm hạnh phúc. Bụt đã dạy cho chúng ta về giáo lý Hiện pháp lạc trú. Sự sống chỉ có mặt trong giây phút hiện tại mà thôi. Và nếu ta biết trở về với giây phút hiện tại thì ta sẽ nhận ra rằng có vô số những điều kiện hạnh phúc đang có sẵn đó cho ta, và thế là niềm vui, niềm hạnh phúc sẽ phát khởi ngay lập tức. Cụm từ “Hiện pháp lạc trú” được nhắc lại năm lần trong kinh. Bụt giảng kinh này cho ngài Anathapindika (còn được gọi là Ngài Cấp Cô Độc) – một thương gia ở thành phố Savatthi. Ngày hôm đó, Anathapindika đến thăm Bụt cùng với hàng trăm vị thương gia khác và Bụt đã dạy cho họ rằng: “Này quý vị, quý vị có thể hạnh phúc liền ngay bây giờ và ở đây, quý vị không phải chờ đến tương lai. Quý vị không phải đợi đến khi có thành công trong tương lai mới có thể hạnh phúc.” Tôi nghĩ Bụt biết rất rõ là các nhà doanh thương thường hay lo nghĩ quá nhiều về tương lai, về những thành công trong tương lai. Vì vậy mà cụm từ Hiện pháp Lạc trú được Bụt sử dụng đến năm lần trong kinh. Hiện pháp Lạc trú trong tiếng Phạn là Drstadharmasukhavihara. Vihara nghĩa là an trú; sukha nghĩa là hạnh phúc; drstadharma là giây phút hiện tại. Một hành giả giỏi không bao giờ tìm kiếm hạnh phúc nơi tương lai. Người đó biết cách trở về trong giây phút hiện tại và nhận diện tất cả những điều kiện hạnh phúc đã sẵn đó cho mình, và tự nhiên người đó có hỷ, có lạc ngay tức thì. Người đó thực tập như vậy không chỉ cho chính mình mà còn cho những người khác. Chế tác hạnh phúc là một nghệ thuật, nghệ thuật sống hạnh phúc.

Bài tập thứ sáu là chế tác hạnh phúc.

Bài tập thứ bảy là ý thức về cảm thọ đau buồn trong ta. Ta đang thở vào và ý thức về sự có mặt của cảm thọ đau buồn trong ta. Một người biết thực tập không bao giờ cố gắng chống lại niềm đau, tìm cách khỏa lấp hoặc trốn chạy khỏi niềm đau trong lòng mình. Là một hành giả, người đó biết làm thế nào để chế tác năng lượng chánh niệm và sử dụng năng lượng chánh niệm để nhận diện và nhẹ nhàng ôm ấp niềm đau đó. “Niềm đau ơi, xin chào bạn! Mình biết bạn đang có mặt đó và mình sẽ chăm sóc bạn chu đáo”. Dù đó là cơn giận hay cảm giác sợ hãi, tỵ hiềm hoặc tuyệt vọng, chúng ta đều phải có mặt đó để nhận diện và ôm ấp. Chúng ta không vật lộn với những cảm thọ đó. Chúng ta không hành xử một cách bạo động với niềm đau, nỗi khổ trong lòng mình. Ngày hôm qua, chúng ta đã nói về cách một người mẹ ôm đứa con đang khóc; cũng như vậy, niềm đau, nỗi khổ trong ta cũng là một em bé cần được ôm ấp, vỗ về. Và năng lượng chánh niệm mà ta chế tác được chính là người mẹ. Người mẹ cần phải nhận ra rằng đứa con của mình đang khóc, và điều mà người mẹ cần làm là bế đứa con lên và ôm nó thật nhẹ nhàng trong vòng tay của mình. Đây chính là những gì mà một hành giả giỏi phải làm khi có một cảm thọ đau buồn phát khởi. Ta cần phải có mặt đó cho niềm đau, nỗi khổ trong lòng mình. Ta cần phải duy trì hơi thở ý thức và bước chân chánh niệm để cho năng lượng chánh niệm liên tục được chế tác. Và với năng lượng chánh niệm đó, ta nhận diện và ôm ấp niềm đau trong mình với tất cả sự dịu dàng và thương yêu.

Trong đạo Bụt, khi nói về thức, ta thường chia ra ít nhất là hai phần: tàng thứcý thức. Phần bên dưới của thức được gọi là tàng thức. Những sợ hãi, giận hờn, tuyệt vọng trong ta đều nằm sâu trong tàng thức dưới dạng các hạt giống. Chúng ta biết là hạt giống giận của ta đang nằm trong tàng thức và nếu nó chịu ngủ yên ở dưới đó thì ta sẽ được an ổn. Ta có thể vui cười. Nhưng nếu một ai đó đến và nói một điều gì hoặc làm một điều gì chạm đến hạt giống giận trong ta thì nó sẽ phát khởi thành một loại năng lượng. Khi ở dưới tàng thức, nó được gọi là một hạt giống, một chủng tử, nhưng khi nó biểu hiện lên trên bề mặt ý thức thì nó trở thành năng lượng, được gọi là tâm hành. Khi một hành giả nhận thấy tâm hành giận đang phát khởi thì ngay lập tức người đó phải trở về với hơi thở và mời hạt giống chánh niệm biểu hiện lên trên ý thức dưới dạng năng lượng chánh niệm.  Nếu chúng ta thực tập giỏi thì hạt giống chánh niệm trong ta mỗi ngày một lớn lên và trở thành một hạt giống rất quan trọng. Và khi cần, ta chỉ cần chạm nhẹ vào hạt giống đó là năng lượng chánh niệm phát khởi ngay tức thì. Còn nếu ta không thực tập thì hạt giống chánh niệm vẫn có đó nhưng nó chỉ bé xíu thôi. Mỗi ngày, nếu ta thực tập thở và đi trong chánh niệm thì hạt giống chánh niệm trong ta sẽ lớn lên mỗi ngày. Và bất cứ khi nào cần đến năng lượng chánh niệm, ta chỉ cần chạm nhẹ là có thể làm phát khởi nguồn năng lượng hùng hậu, có thể giúp ta xử lý với bất cứ điều gì đang xảy ra với ta trong giây phút đó. Chẳng hạn như trong trường hợp cơn giận phát khởi thì chính năng lượng chánh niệm mà ta chế tác được sẽ chăm sóc năng lượng giận trong ta. Ta không vật lộn, không bạo động với những cảm xúc mạnh trong ta. Chánh niệm ít nhất có hai tác dụng: trước hết là nhận diện đơn thuần sự có mặt của một niềm đau, nỗi khổ trong ta. Đó là nội dung của bài tập thứ 7. Ta đang thở vào và ý thức cơn giận (hay cảm xúc ganh ghét hoặc tuyệt vọng, v.v) đang có mặt trong ta. Ta chỉ đơn giản nhận diện sự có mặt của các cảm thọ đó mà thôi, không tìm cách đàn áp hay vật lộn với chúng. Và tác dụng thứ hai của chánh niệm là ôm ấp các cảm thọ đó. Đây là nội dung của bài tập thứ 8.

Bài tập thứ 8: làm lắng dịu niềm đau như một người mẹ ôm ấp đứa con của mình. Người mẹ chưa biết chuyện gì xảy ra với đứa bé nhưng chỉ cần bà dịu dàng ôm đứa bé trong vòng tay thôi cũng đủ làm cho đứa bé bớt khổ rồi. Điều này cũng tương tự đối với một hành giả. Mặc dù chưa biết nguyên nhân dẫn đến cơn giận hoặc nỗi sợ hãi đang phát khởi, nhưng chỉ cần người đó biết nhận diện và ôm ấp năng lượng đó thì chỉ trong một hoặc hai phút thôi là người đó đã bớt khổ nhiều lắm rồi.

Tám bài tập trên đây giúp cho chúng ta học được cách chế tác hỷ, lạc và cách chăm sóc một cảm thọ đau buồn và làm lắng dịu niềm đau. Đây chính là nghệ thuật chế tác hạnh phúc và xử lý khổ đau.

Với những bài tập tiếp theo, chúng ta có thể đi sâu hơn, chuyển hóa niềm đau, nỗi buồn, sự sợ hãi thành năng lượng tích cực hơn, cũng giống như sử dụng bùn để trồng nên sen. Vì vậy, một hành giả giỏi là người không sợ khổ đau, không tìm cách trốn chạy khổ đau, mà ngược lại, người đó biết cách có mặt cho niềm đau, nỗi khổ trong lòng mình. Người đó biết cách xử lý một niềm đau, một cảm xúc mạnh và biết cách sử dụng chất bùn đó để chế tác hiểu biết và thương yêu – hai yếu tố căn bản để làm nên hạnh phúc chân thực.

Có thể nói rằng với một nền đạo đức toàn cầu, với sự thực tập chánh niệm và với một hướng đi tâm linh áp dụng trong đời sống hằng ngày, chúng ta sẽ biết cách vượt qua những khó khăn của đời sống. Và đó là lý do vì sao mỗi người trong chúng ta nên có một hướng đi tâm linh như vậy trong cuộc đời mình. Nếu không có điều đó, chúng ta sẽ không biết xử lý như thế nào trước những khó khăn của đời sống.

Hình ảnh người mẹ ôm đứa con vào lòng là một hình ảnh rất hay. Nếu năng lượng chánh niệm trong ta đủ mạnh thì ta có thể ôm ấp niềm đau, nỗi khổ trong lòng mình. Trong khi ôm ấp cảm thọ, ta tiếp tục duy trì hơi thở hoặc bước chân chánh niệm trong vòng 3 hoặc 5 hoặc 10 phút, giống như ta mở ra một con đường chánh niệm cho năng lượng sợ hãi hoặc giận hờn trong ta. Sau khi đi theo con đường chánh niệm, năng lượng đau buồn, hờn giận hay sợ hãi trong ta sẽ trở về lại tàng thức dưới hình tướng hạt giống như xưa nhưng đã yếu đi ít nhiều.  Đó là sức mạnh của chánh niệm.

Trong truyền thống đạo Bụt, chúng ta thường nói về 51 tâm hành. Khi còn là một sa di, tôi phải học thuộc lòng tất cả 51 loại tâm hành này. Và mỗi khi một tâm hành phát khởi, tôi có thể gọi đúng tên của tâm hành đó. “Chào anh bạn sợ hãi, tôi biết tên anh rồi đó. Tôi sẽ chăm sóc cho anh thật chu đáo.” Nhận diện và ôm ấp tâm hành, đó là bước đầu tiên của sự thực tập.

Trong tàng thức của chúng ta có rất nhiều những hạt giống tích cực như hạt giống niệm, định, tuệ, từ, bi, hỷ, xả, v.v. Là một hành giả giỏi, chúng ta phải biết cách nhận diện những hạt giống tốt và giúp cho những hạt giống này phát khởi thường xuyên, bởi vì khi những hạt giống này biểu hiện sẽ làm cho quang cảnh của tâm ý ta đẹp hơn lên. Và chúng ta sẽ hạnh phúc nếu biết cách mời những hạt giống tốt biểu hiện lên trên ý thức dưới dạng các tâm hành tích cực.

Đối với các tâm hành tiêu cực như giận hờn, sợ hãi, tuyệt vọng thì chúng ta nên giữ cho chúng ở dưới tàng thức, đừng cho chúng cơ hội biểu hiện lên trên ý thức, và như vậy thì chúng sẽ yếu dần, yếu dần…Chúng ta làm điều đó cho chính chúng ta và chúng ta cũng đồng thời giúp cho những người thương của mình cũng làm được như vậy.

Áp dụng sự thực tập chánh niệm trong lớp học

Khoảng hai thập kỷ cuối của thế kỷ trước, có một giáo sư toán học ở Toronto, ông dạy tại trường Toronto French School. Sau khi tham dự một khóa tu được tổ chức tại Montreal, ông trở về trường và tìm cách áp dụng sự thực tập hơi thở ý thức và thiền hành vào lớp học. Tên của ông là Henri Kỷ Cương. Khi đó, Henri là Chủ nhiệm khoa Toán của trường Toronto French School.

Một hôm, có hai nhà báo của The Globe and Mail, một tờ báo lớn ở Toronto, tìm đến lớp học của Henri và phỏng vấn ông. Hai phóng viên muốn điều tra xem Henri có đem Phật giáo vào trường học không, vì đó là điều rất cấm kỵ ở Canada. Henri vui vẻ mời hai phóng viên vào một lớp học của mình để xem cách ông dạy học sinh của mình như thế nào. Cái ngày mà Henri trở về từ khóa tu tại Montreal, khi vào lớp học, ông đi rất chậm rãi và nhẹ nhàng, khi lên lau bảng ông cũng lau thật thong thả và chánh niệm. Học sinh của Henri lấy làm lạ, chúng bèn hỏi: Papa (cách gọi thân mật mà học trò gọi Henri), Papa đang bị ốm phải không? Henri mỉm cười trả lời: Không, thầy không ốm, thầy đang thực tập chánh niệm. Và rồi Henri kể cho học sinh của mình nghe về những điều mình đã học được tại khóa tu: cách thở, cách đi, cách làm lắng dịu thân tâm, v.v. Henri đề nghị kể từ nay, cứ mỗi 30 phút, một học sinh tình nguyện vỗ tay lên ba tiếng “bốp, bốp, bốp” (để thay thế cho tiếng chuông chánh niệm) và tất cả thầy trò đều dừng lại thở vào thở ra ba lần để lắng dịu thân tâm. Nhờ vậy mà học trò của Henri học tiếng bộ lên rất nhiều, có rất nhiều niềm vui và sự hứng khởi trong các giờ học. Henri đã áp dụng phương pháp này cho nhiều lớp học mà mình dạy. Vì vậy mà khi hai nhà báo vào lớp của Henri, họ được chứng kiến cảnh Henri cùng các học trò của mình cùng học và cười thật thoải mái với nhau. Mỗi khi có tiếng vỗ tay là cả thầy và trò đều dừng lại việc dạy và học để thưởng thức hơi thở vào và hơi thở ra. Điều này tạo ra ảnh hưởng rất tích cực đến việc dạy và học của trường. Khi Henri đến tuổi về hưu, Ban Giám hiệu của trường đã đề nghị ông tiếp tục dạy thêm ba năm nữa. Và nhiều lớp học khác trong trường cũng đã áp dụng cách dạy này của Henri.

Đối với một giáo viên, điều trước tiên cần phải làm là trở về và chăm sóc cho chính mình. Để có thể đi ra giúp mọi người thì trước tiên ta phải biết trở về chăm sóc cho chính mình. Người giáo viên cần phải học cách chế tác niềm vui, niềm hạnh phúc, học cách xử lý một cảm thọ đau buồn, học cách lắng nghe khổ đau và làm phát sinh năng lượng hiểu biết, thương yêu để ôm ấp khổ đau đó. Đây là bước đầu tiên mà một giáo viên cần phải thực tập. Mình phải bắt đầu với chính mình trước tiên.

Người giáo viên còn có gia đình, có vợ/chồng và các con của mình. Vì vậy, sau khi đã thực tập với chính mình, người đó có thể giúp những người thân trong gia đình mình thực tập theo. Điều này sẽ dễ dàng hơn. Nếu không thay đổi chính mình trước thì ta khó mà giúp được người khác thay đổi, khó mà giúp người khác chuyển hóa khổ đau. Vì vậy, với sự thực tập ái ngữ và lắng nghe, với sự bình an và nhẹ nhàng trong tự thân, ta sẽ trở nên dễ chịu hơn đối với người khác, vì vậy mà ta có thể giúp được cho người khác dễ dàng hơn.

Vợ hay chồng của ta cũng cần phải thực tập tương tự như vậy. Và cả hai sẽ trở thành đạo hữu của nhau. Cả hai vợ chồng cùng chia sẻ sự thực tập, và như vậy, không khí gia đình sẽ thay đổi, sẽ có nhiều bình an, nhiều niềm vui và những khổ đau cũng vơi đi rất nhiều. Và khi đã có một gia đình hòa thuận, êm ấm, ta có thể mang sự thực tập đến nơi làm việc của mình. Ta bắt đầu áp dụng sự thực tập với lớp học của mình, với các học trò của mình. Với sự thực tập, ta có thể làm cho lớp học trở thành một nơi hạnh phúc hơn.

Lớp học có thể trở thành gia đình thứ hai của các em học sinh. Bởi vì có nhiều trẻ em không được may mắn có một gia đình êm ấm, cha mẹ của các em thường xuyên bất hòa, họ đánh đập, cãi vã với nhau. Các em không có cơ hội để biết thế nào là tình thương yêu. Vì vậy, lớp học có thể đem lại cho các em cơ hội thứ hai và người giáo viên có thể đóng vai trò một người cha, người mẹ để dạy cho các em biết thế nào là thương yêu và mang lại cho các em niềm tin rằng tình thương là một điều có thật trong cuộc đời này.

Thầy nhớ trong khóa tu mùa hè vừa rồi ở Làng Mai, có một em nhỏ lên đặt câu hỏi trong buổi vấn đáp và em đã làm cho cả đại chúng rơi nước mắt. Em nói rằng cha mẹ của em đã ly dị nhau, họ đánh đập, cãi vả với nhau và làm cho nhau đau khổ. Nhiều khi họ còn đánh đập nhau trước mặt con cái. Và em đặt câu hỏi rằng: tình yêu là gì? con không biết thế nào là tình yêu. Tại sao cha mẹ của con lại đánh đập nhau ngay cả trước mặt chúng con? Nhiều người đã khóc khi nghe câu hỏi đó, rất là đau lòng. Vì vậy, Thầy nghĩ rằng chúng ta có thể mang lại cho những trẻ em như vậy một cơ hội thứ hai bằng cách biến lớp học thành một gia đình. Giáo sư Henri Kỷ Cương đã làm được như vậy. Sau khi thành công với lớp học của mình rồi, ta có thể áp dụng sự thực tập với các lớp khác trong trường, với Ban Giám hiệu, và như vậy chúng ta sẽ có thể nâng cao chất lượng dạy và học trong cả trường học.

 

Xem thêm:

– Nền tảng của một nền đạo đức toàn cầu (pháp thoại tại đại học Brock – phần I) >>

– Khóa tu dành cho giáo chức tại đại học Brock, Canada >>

– Thầy cô giáo hạnh phúc sẽ làm thay đổi thế giới >>

– Thiền trong lớp học >>

 

 

Nền tảng của một nền đạo đức toàn cầu

Kính thưa đại chúng,

Khi nghe một tiếng chuông, chúng ta hãy mời tất cả các tế bào trong cơ thể cùng lắng nghe với ta. Chúng ta biết rằng cha mẹ và ông bà tổ tiên của chúng ta cũng đang có mặt trong từng tế bào của cơ thể ta. Vì vậy khi nghe chuông, chúng ta nghe như thế nào để năng lượng của bình an, của chánh niệm có thể đi vào trong từng tế bào của cơ thể. Đó là sự thực tập lắng nghe sâu.

Nếu chúng ta đã quen với sự thực tập thì khi nghe chuông, chúng ta có thể dễ dàng dừng lại những nghĩ suy, nói năng của mình và để hết sự chú tâm vào hơi thở. Chúng ta thưởng thức hơi thở vào và tự nhủ: “lắng lòng nghe, lắng lòng nghe”, ý thức rằng mọi tế bào trong cơ thể đang lắng nghe tiếng chuông cùng với ta. Và ta để cho tiếng chuông cùng với năng lượng bình an thấm vào trong từng tế bào của cơ thể. Khi thở ra, chúng ta nhủ thầm “Tiếng chuông huyền diệu đưa về quê hương”. Quê hương đích thực của chúng ta là bây giờ và ở đây. Chỉ trong giây phút hiện tại này, sự sống mới có mặt. Và khi 1000 người cùng thở như vậy thì năng lượng bình an và chánh niệm sẽ hùng hậu vô cùng. Năng lượng đó rất nuôi dưỡng và trị liệu. Nếu có các em nhỏ ngồi cùng với ta thì các em sẽ cảm nhận ngay được năng lượng đó.

 

Thầy và trẻ em Hà Lan 2006

Sư Ông và trẻ em Hà Lan

Điều lợi lạc nhất mà chúng ta được hưởng từ một khóa tu chính là năng lượng chánh niệm tập thể này. Nguồn năng lượng chánh niệm, bình an và thương yêu đó có công năng trị liệu cho chúng ta. Khi chúng ta đi thiền hành cũng vậy. Nếu tất cả mọi người cùng chú tâm vào hơi thở và từng bước chân trong khi đi thiền hành thì chúng ta cũng sẽ chế tác được năng lượng tập thể rất hùng hậu, đó là năng lượng của bình an, chánh niệm và niềm vui.

Khi nói đến một nền đạo đức toàn cầu, chúng ta nói đến một sự thực tập tâm linh mà bất kỳ ai cũng có thể thực tập, không phân biệt tôn giáo, chủng tộc, quốc gia, văn hóa. Chúng ta không cần phải là một Phật tử mới có thể thực tập hơi thở chánh niệm. Hay nói  cách khác, chỉ cần ta thở có chánh niệm thì lập tức ta có được niềm vui, hạnh phúc và trị liệu. Trong đạo Bụt, chúng ta biết rằng đạo Bụt được làm từ những yếu tố không phải là đạo Bụt. Cũng giống như một bông hoa. Khi nhìn vào một bông hoa, ta thấy bông hoa được làm từ những yếu tố không phải là hoa. Nhìn vào bông hoa, ta có thể thấy được ánh nắng mặt trời. Ánh nắng mặt trời không phải là bông hoa nhưng nếu không có ánh mặt trời thì bông hoa không thể nào có mặt. Trong bông hoa đó, ta còn có thể thấy mây, thấy mưa. Mây và mưa không phải là hoa, nhưng nếu không có những yếu tố không phải là hoa này thì bông hoa không thể nào biểu hiện được.

Thiền có nghĩa là nhìn sâu, và khi nhìn sâu vào một đối tượng nào đó, chẳng hạn như một bông hoa, ta sẽ có được một cái thấy (insight) là bông hoa đó được làm bằng những yếu tố không phải là hoa, và nếu ta lấy những yếu tố không phải là hoa đó ra khỏi bông hoa thì bông hoa không thể nào tiếp tục tồn tại. Đạo Bụt cũng tương tự như vậy. Đạo Bụt được làm từ những yếu tố không phải là đạo Bụt. Và nếu ta có được tuệ giác đó thì sẽ không còn bất kỳ một chủ nghĩa nào, một học thuyết nào hay một tôn giáo nào có thể tạo ra sự chia rẽ, sợ hãi và hận thù được nữa. Vì vậy, có thể nói rằng một người không phải là Phật tử vẫn hoàn toàn có thể thực tập chánh niệm.

Sự thực tập chánh niệm – sự thực tập của một nền đạo đức toàn cầu (global ethics) – đem lại cho chúng ra rất nhiều lợi lạc, thể hiện ở nhiều khía cạnh:

Sự thực tập chánh niệm có thể giúp ta buông bỏ những căng thẳng trong thân

Điều này không chỉ người lớn mới có thể làm được mà trẻ con cũng có thể làm được. Ở Làng Mai, chúng tôi đã tổ chức nhiều khóa tu cho trẻ em, và chúng tôi thấy rằng các em thực tập rất giỏi. Trẻ em có khả năng an trú trong hiện tại còn giỏi hơn cả người lớn. Trong thân của chúng ta có rất nhiều căng thẳng và chúng ta đã để cho những căng thẳng này tích tụ trong một thời gian dài, đây chính là yếu tố căn bản làm phát sinh các loại bệnh tật. Vì vậy, sự thực tập hơi thở chánh niệm có khả năng giúp chúng ta buông bỏ những căng thẳng trong thân, và chúng ta có thể thực tập khi đang ngồi trên xe bus hay trong lớp học hoặc ở sân bay.

Thực tập hơi thở chánh niệm có thể giúp ta buông bỏ căng thẳng và khi căng thẳng không còn thì những đau nhức trong cơ thể chúng ta cũng giảm bớt rất nhiều. Sở dĩ chúng ta hay đau nhức là vì có sự căng thẳng trong thân, vì vậy nếu buông bỏ được căng thẳng thì ta cũng đồng thời làm giảm những đau nhức trong thân. Dù trong bất kỳ tư thế nào, khi đứng, khi ngồi, khi nằm hay khi đi, ta vẫn có thể thực tập buông thư cơ thể.

Khi ngồi thiền, ta có thể thực tập buông hết những căng thẳng trên khuôn mặt, trên hai bờ vai và ta chỉ ngồi yên để thưởng thức hơi thở vào và hơi thở ra. Ta không vật lộn, đè nén  trong khi ngồi thiền, ta để cơ thể hoàn toàn buông thư, buông thả hết những căng thẳng trong thân. Có khoảng 300 cơ trên khuôn mặt của chúng ta, vì vậy mà khi ta căng thẳng thì khuôn mặt của ta sẽ không đẹp chút nào. Nhưng nếu ta biết thở, biết cười thì tất cả những căng thẳng trong 300 cơ  mặt sẽ tan biến rất nhanh. Ai trong chúng ta cũng có thể học được cách buông thư những căng thẳng trong thân dù là khi đang ngồi hay nằm hay đang đi. Chúng ta có thể thực tập bất cứ lúc nào và bất cứ nơi đâu.

Sự thực tập chánh niệm giúp ta chế tác niềm vui, niềm hạnh phúc

Một người thực tập giỏi là người có thể chế tác niềm vui (hỷ), niềm hạnh phúc (lạc) bất cứ khi nào người đó muốn. Đây là điều tương đối đơn giản mà ai cũng có thể làm được. Chúng ta biết rằng khi ta thở vào và đặt sự chú tâm vào hơi thở vào, ta sẽ đưa tâm trở về với thân, và khi thân tâm hợp nhất, ta mới có thể thực sự có mặt trong giây phút hiện tại, bây giờ và ở đây. Chỉ trong trạng thái thân tâm nhất như ta mới thực sự sống, thực sự có mặt, và ta có cơ hội tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống trong ta và xung quanh ta. Khi đó, ta sẽ nhận ra những điều kiện hạnh phúc đang có sẵn đó cho ta, ta có biết bao nhiêu điều để hạnh phúc.

Chánh niệm cho ta thấy rằng ta đang rất may mắn, may mắn hơn rất nhiều người. Chẳng hạn như khi ta thở vào và chú tâm vào đôi mắt: “Thở vào, tôi ý thức về đôi mắt của tôi”, đó gọi là chánh niệm về mắt. Năng lượng chánh niệm mang lại cho ta một cái thấy ngay lập tức: “Ồ, hai mắt mình vẫn còn sáng”, và vì hai mắt ta vẫn còn sáng nên ta có thể tận hưởng một thiên đường của hình ảnh và màu sắc. Ta chỉ cần mở mắt ra thôi là có cả một thiên đường. Trong khi đó, đối với những người bị mất thị giác thì thiên đường đó không còn dành cho họ, vì vậy mơ ước lớn nhất của họ là có lại được một đôi mắt sáng như xưa. Vì vậy, khi tiếp xúc với hai mắt còn sáng, ta tiếp xúc được với một trong những điều kiện hạnh phúc mà chúng ta đang có trong giây phút hiện tại.

 

 

Còn có cả hàng ngàn những điều kiện tương tự như vậy trong cơ thể chúng ta. Khi ta thở vào và tiếp xúc với trái tim, “thở vào, tôi ý thức về trái tim tôi”, ta khám phá ra trái tim ta vẫn đang hoạt động một cách bình thường. Thật là hạnh phúc khi có một trái tim hoạt động bình thường, bởi vì có nhiều người bị đau tim, họ đêm ngày chỉ mong ước cho trái tim của họ hoạt động trở lại bình thường. Họ mơ ước có một trái tim khỏe mạnh như trái tim của chúng ta. Vì vậy, có một trái tim hoạt động bình thường là một điều kiện hạnh phúc nữa mà ta đang có.

Khi thực tập quán niệm thân thể, quán thân trong thân, ta trở về tiếp xúc với toàn bộ cơ thể, khi đó, ta khám phá ra rằng có quá nhiều những điều kiện hạnh phúc đang có mặt trong ta và xung quanh ta. Ta có bao nhiêu điều để mà vui mừng, để mà hạnh phúc liền ngay bây giờ và ở đây. Ta không cần phải chạy về tương lai để tìm kiếm thêm những điều kiện hạnh phúc, bởi vì ta đã có quá đủ, nếu không muốn nói là dư thừa, những điều kiện để có thể hạnh phúc trong giây phút hiện tại. Do đó, với ý thức sáng tỏ đó, một người thực tập giỏi có thể  làm phát khởi một cảm thọ vui mừng (hỷ), một niềm hạnh phúc (lạc) bất cứ khi nào người đó muốn. Chỉ cần dùng chánh niệm để tiếp xúc với những điều kiện hạnh phúc đang có sẵn trong mình và xung quanh mình thì mình sẽ có hỷ, có lạc liền lập tức.

Khi thực tập chánh niệm – nền tảng của đạo đức toàn cầu (global ethics), chúng ta cần phải học cách buông bỏ những căng thẳng trong thân thể, làm lắng dịu những đau nhức trong thân và chế tác hỷ, lạc. Người Pháp có một bài hát khá nổi tiếng, đó là bài “Qu’est qu’on attend pour être heureux?”, nghĩa là: chúng ta còn cần thêm gì nữa, còn chờ đợi gì nữa mà không hạnh phúc liền giây phút này?

Sự thực tập chánh niệm còn giúp chúng ta chăm sóc một niềm đau, nỗi khổ

Khi một cảm thọ đau buồn phát khởi, một người thực tập chánh niệm sẽ biết phải làm gì để chăm sóc cảm thọ đó. Một người thực tập giỏi là người có khả năng xử lý, điều phục một cảm xúc mạnh hay một niềm đau khi chúng phát khởi. Chỉ cần thực tập trong vòng vài phút là người đó cảm thấy nhẹ nhàng liền. Nếu tiếp tục thực tập sâu hơn nữa, người đó sẽ có khả năng chuyển hóa cảm thọ đau buồn đó thành một niềm vui, niềm hạnh phúc. Vì vậy có thể nói, một hành giả giỏi là người biết xử lý khổ đau, người đó không sợ khổ đau. Với năng lượng chánh niệm, người đó biết nhận diện, ôm ấp và làm lắng dịu niềm đau, nỗi khổ trong lòng mình. Người đó còn có thể đi xa hơn nữa, đó là chuyển hóa khổ đau trở thành hỷ lạc.

Có một mối liên hệ mật thiết giữa khổ đau và hạnh phúc. Nhiều người trong chúng ta có thói quen trốn chạy khổ đau, chúng ta không hề biết rằng khổ đau cũng có thể rất hữu ích. Nó cũng tương tự như muốn trồng được sen thì cần phải có bùn vậy. Hoa sen không thể nào mọc lên từ cẩm thạch được. Không có bùn thì cũng không có sen. Tương tự như vậy, không có khổ đau thì cũng không có hạnh phúc. Một hành giả giỏi là người biết cách tận dụng khổ đau để làm nên hạnh phúc. Chúng ta có thể nói về lợi ích, về sự cần thiết của khổ đau. Nếu chúng ta biết cách ôm ấp khổ đau với tất cả sự dịu dàng và nhìn sâu vào khổ đau đó, chúng ta sẽ có khả năng chế tác được năng lượng hiểu biết và từ bi – nền tảng của hạnh phúc chân thực. Không thể nào có hạnh phúc thực sự nếu không có hiểu biết và thương yêu. Nếu không có hiểu biết và thương yêu, chúng ta sẽ cô độc, ta không thể nào liên hệ được với bất kỳ ai. Vì vậy chúng ta cần phải biết rằng nền tảng của hạnh phúc chân thực chính là hiểu biết và thương yêu.

Cái hiểu trước hết phải là cái hiểu về khổ đau, khổ đau của chính mình và khổ đau của những người khác. Đối với Thầy, nước Chúa (Kingdom of God) hay cõi Tịnh Độ không phải là một nơi hoàn toàn không có khổ đau. Nếu không có khổ đau thì cũng không có hạnh phúc. Trong đạo Bụt, chúng ta hay nói về tính tương tức của vạn vật. Anh không thể nào có thể tồn tại một cái biệt lập được, anh phải tương tức với mọi người và mọi loài. Chẳng hạn như tờ giấy này, ta thấy có bên phải, bên trái. Nhưng bên trái không thể nào có mặt nếu không có bên phải. Bên trái dựa vào bên phải để biểu hiện. Ta không thể nào lấy bên trái ra khỏi bên phải được. Điều này cũng tương tự như vậy đối với bên phải. Anh không thể nào cử một người đến lấy bên phải mang về Boston và một người khác mang bên trái đi về New York được. Bên phải và bên trái luôn đi đôi với nhau, chúng cần có nhau. Hạnh phúc và khổ đau cũng tương tự như vậy.

Nếu chúng ta gửi con cái của mình đến một nơi không hề có khổ đau thì chuyện gì sẽ xảy ra? Chắc chắn là chúng sẽ không có cơ hội để hiểu thế nào là từ bi, là thương yêu. Chỉ khi nào tiếp xúc với khổ đau và hiểu về khổ đau thì chúng ta mới có thể làm phát khởi tình thương và lòng từ bi. Chỉ khi nào có bùn thì sen mới có thể mọc được. Vì vậy, ta cần phải thấy được mối liên hệ mật thiết giữa bên trái và bên phải, hạnh phúc và khổ đau, bên trong và bên ngoài, thân và tâm. Chúng ta cần phải học cách buông bỏ cái nhìn nhị nguyên, phân biệt. Một hành giả giỏi là người không chỉ biết cách xử lý khổ đau mà còn biết cách tận dụng khổ đau đó để chế tác chất liệu từ bi, hiểu biết và hạnh phúc.

Nhiều người trong chúng ta có thái độ trốn chạy khỏi khổ đau, đó là một thái độ không khôn ngoan. Sự thật là chúng ta cần phải trở về với chính mình để nhận diện khổ đau nơi mình, lắng nghe, ôm ấp niềm đau và chúng ta sẽ học hỏi được rất nhiều từ khổ đau đó. Nhìn sâu vào khổ đau của chính mình sẽ giúp chúng ta hiểu và thương được chính mình. Chất liệu hiểu biết và thương yêu đó sẽ giúp cho chúng ta chuyển hóa và giúp cho nhiều người khác cũng được chuyển hóa. Đó là lý do vì sao chúng ta nói về lợi ích của khổ đau.

Một hành giả giỏi là người biết lắng nghe. Vì biết lắng nghe chính mình, lắng nghe khổ đau của chính mình nên người đó có khả năng lắng nghe khổ đau của người khác. Có thể vợ hay chồng, hay con cái của mình có một nỗi khổ, niềm đau. Nếu mình hiểu được khổ đau của chính mình thì mình sẽ dễ dàng nhận diện và hiểu được khổ đau nơi những người thương của mình. Ta có thể nhận ra sự có mặt của khổ đau và thấy rằng người đó đang là nạn nhân của khổ đau trong tự thân. Và vì từ trước đến giờ, chưa từng có ai chỉ cho người đó phải làm gì với nỗi khổ, niềm đau trong lòng mình, cho nên người đó tự làm khổ chính mình và làm khổ luôn cả những người mình thương. Có thể ta là người đầu tiên có khả năng giúp cho người đó vơi bớt khổ đau. Với cái thấy đó, ta sẽ không còn giận người đó nữa, trái lại ta muốn làm hoặc nói một điều gì đó để giúp cho người đó bớt khổ. Vì đã biết lắng nghe và hiểu được khổ đau nơi chính mình nên ta có thể dễ dàng hiểu và cảm thông được cho người đó . Bây giờ chính là lúc chúng ta lắng nghe để hiểu khổ đau nơi người đó và giúp cho người đó bớt khổ.

Một hành giả giỏi còn có thể đi xa hơn. Người đó có khả năng lắng nghe với tâm từ bi và có thể sử dụng ngôn ngữ từ ái để giúp cho người đang có nhiều khổ đau có thể mở lòng ra để chia sẻ. Khi một người có quá nhiều khổ đau thì trái tim của họ cũng dường như đóng lại. Vì vậy nếu ta có đủ thương yêu và biết sử dụng ngôn ngữ từ ái thì ta có thể mở cửa được trái tim của người đó và giúp cho người đó trút hết nỗi lòng của mình, nhờ vậy mà họ bớt khổ. “Cha ơi, con biết là cha đã chịu rất nhiều khổ đau trong bao nhiêu năm qua. Con đã không giúp gì được cho cha, mà nhiều khi còn phản ứng lại và làm cho cha buồn khổ thêm. Con xin lỗi cha. Chỉ vì con không hiểu được những nỗi khổ, những khó khăn mà cha phải gánh chịu…Cha hãy giúp con, hãy nói cho con biết về những khó khăn, tuyệt vọng, những niềm đau trong lòng cha…con muốn hiểu cha hơn để con không lập lại những cách hành xử trước đây của mình. Nếu cha không giúp con thì còn ai có thể giúp con?”

Khi trong trái tim ta có đủ tình thương thì ta có thể nói bằng ngôn ngữ như vậy, một loại ngôn ngữ có khả năng mở cửa trái tim của người khác và giúp cho người đó trút hết nỗi lòng của mình. Và khi người đó đã mở lòng chia sẻ thì khi đó ta có cơ hội thực tập lắng nghe với tâm từ bi, hay còn gọi là bi thính. Bi thính là sự thực tập lắng nghe sâu, có khả năng làm cho người khác bớt khổ liền chỉ trong vòng một giờ lắng nghe hoặc có thể ngắn hơn. Trong mỗi người chúng ta đều có một vị Bồ tát Lắng nghe, chúng ta phải giúp cho vị Bồ tát đó sống dậy để chúng ta có thể lắng nghe sâu và làm vơi nhẹ khổ đau trong lòng người. Chỉ cần  lắng nghe với tâm từ bi thôi là ta đã giúp được rất nhiều rồi.

Lắng nghe với tâm từ bi có nghĩa là ta giữ cho chất liệu từ bi luôn có mặt trong trái tim ta trong suốt thời gian lắng nghe. Ta duy trì hơi thở chánh niệm và luôn tự nhắc nhở: mình lắng nghe đây là để cho người kia có dịp nói ra hết những khổ đau trong lòng, nhờ vậy mà họ bớt khổ. Chỉ cần nhớ như vậy thôi! Và nếu ta giữ được ý thức đó thì ta sẽ được bảo hộ bởi năng lượng từ bi, và những gì người kia nói ra sẽ không thể làm cho ta bực bội hay giận hờn vì ta đã được bảo hộ bởi năng lượng từ bi. Nếu ta không thực tập chánh niệm và không có từ bi trong trái tim thì chúng ta sẽ không được bảo vệ và những gì người đó nói ra có thể chứa đầy cay đắng, trách móc và buộc tội, những điều đó có thể làm phát khởi tâm hành buồn giận và bực bội trong ta, ta sẽ không còn có thể tiếp tục lắng nghe được nữa. Và đó là lý do vì sao sự thực tập hơi thở ý thức và duy trì năng lượng từ bi có thể giúp ta trở thành một người thực sự có khả năng lắng nghe.

Và nếu ta có thể lắng nghe với tâm từ bi trong một giờ đồng hồ thôi, ta cũng đã giúp làm vơi nhẹ rất nhiều khổ đau nơi người khác rồi. Ta có thể tự nhủ rằng: người đó đang là nạn nhân của những tri giác sai lầm, nhưng ta sẽ không ngắt lời người đó, không giải thích gì thêm vào lúc này. Nếu làm như vậy thì ta sẽ biến buổi lắng nghe này thành một cuộc tranh cãi và như vậy thì sẽ phá hỏng hết mọi chuyện. Vì vậy ta chỉ lắng nghe thôi và để cho người đó có dịp trút hết nỗi lòng của mình. Khoảng 3-5 ngày sau, ta sẽ tìm cách chia sẻ với người đó những thông tin có thể giúp người đó điều chỉnh lại những tri giác sai lầm của mình, nhưng không phải là bây giờ. Đó là chánh niệm về từ bi. Và nếu ta giữ được sự thực tập chánh niệm về từ bi trong suốt thời gian lắng nghe thì ta có thể giúp được cho người đó, ta sẽ làm cho người đó bớt khổ liền. Khi đó ta đóng vai trò của Bồ tát Lắng nghe Quan Thế Âm, ta chính là một vị Bồ tát. Chỉ cần thực tập trong vòng bốn hoặc năm ngày là đủ để cho ta có thể làm một vị Bồ tát Lắng nghe.

Phép lạ của sự hòa giải

Trong những năm qua, Tăng thân Làng Mai đã tổ chức rất nhiều khóa tu chánh niệm ở  châu Âu, châu Mỹ và nhiều nơi khác trên thế giới. Trong các khóa tu này luôn có những phép lạ xảy ra, phép lạ của sự hòa giải.

Trong bốn ngày đầu tiên của khóa tu, chúng ta để cho những hạt giống tốt trong ta được tưới tẩm, những hạt giống hiểu biết, thương yêu.v.v.. Chúng ta học cách lắng nghe những khổ đau trong lòng mình, học cách chăm sóc những khổ đau đó và sau bốn ngày thực tập, những khổ đau trong ta đã vơi bớt rất nhiều. Chúng ta còn được học cách nói lời ái ngữ và lắng nghe sâu với tâm từ bi.

Và đến ngày thứ năm, chúng ta được khuyến khích áp dụng pháp môn lắng nghe sâu và nói lời ái ngữ để hòa giải với những người thương của mình. Có thể người mà mình muốn hòa giải cũng đang có mặt trong khóa tu và cũng đã biết về sự thực tập, vì vậy mà việc hòa giải sẽ dễ dàng hơn. Nhưng nếu người đó đang ở nhà thì ta có thể sử dụng điện thoại di động để thực tập hòa giải. Điều này thường xảy ra vào ngày thứ năm của khóa tu. Và rất nhiều người báo cáo lại với chúng tôi rằng họ đã thực tập thành công vào ngày thứ năm của khóa tu.

Chúng tôi thường thông báo với các bạn thiền sinh rằng: các bạn có thời gian từ bây giờ cho đến hết ngày hôm nay để thực tập pháp môn lắng nghe sâu và nói lời ái ngữ để hòa giải và khôi phục truyền thông với những người thương của mình. Và rất nhiều người đã sử dụng điện thoại di động để hòa giải với cha, mẹ, con cái của mình bằng sự thực tập lắng nghe sâu và nói lời ái ngữ. Đó là phép lạ của sự hòa giải luôn xảy ra trong các khóa tu.

Thầy chắc rằng nếu các bậc phụ huynh và các nhà giáo đều áp dụng sự thực tập này thì sẽ có thể biến gia đình và trường học trở thành những nơi rất dễ chịu, nơi nuôi lớn thương yêu và hạnh phúc. Có thể nói một nền đạo đức toàn cầu cần phải được xây dựng trên nền tảng các thực tập căn bản như: làm thế nào để lắng dịu những căng thẳng, đau nhức trong thân, giúp ngăn ngừa nhiều loại bệnh tật do stress gây ra; làm thế nào để chế tác niềm vui và hạnh phúc cho bản thân và cho những người thân yêu của mình; làm thế nào để xử lý một cảm xúc mạnh, một niềm đau; phải lắng nghe và nói năng như thế nào để có thể nối lại truyền thông và mang lại sự hòa giải. Và tất nhiên là các bạn không cần phải là một Phật tử mới có thể làm được những điều này. Các bạn hoàn toàn có thể mang những phương pháp thực tập này vào trường học và làm cho việc dạy và học trở nên dễ chịu và vui tươi.

 

Xem thêm:

– Thầy cô giáo hạnh phúc sẽ làm thay đổi thế giới >>

– Khóa tu dành cho giáo chức tại đại học Brock, Canada >>

– Thiền trong lớp học >>

Pháp thoại của Sư Ông dành cho giáo chức

Nền tảng của một nền đạo đức toàn cầu
Pháp thoại ngày 12 tháng 8 năm 2013 trong khóa tu “Thầy cô giáo hạnh phúc sẽ làm thay đổi thế giới” (“Happy teachers will change the world”) tại Đại học Brock (Toronto, Canada) – phần I.
Đem chánh niệm vào trường học
Pháp thoại ngày 12 tháng 8 năm 2013 trong khóa tu “Thầy cô giáo hạnh phúc sẽ làm thay đổi thế giới” (“Happy teachers will change the world”) tại Đại học Brock (Toronto, Canada) – phần II.
Thầy cô giáo hạnh phúc sẽ làm thay đổi thế giới
Pháp thoại của Sư Ông Làng Mai ngày 27.10.2014 trong khóa tu chánh niệm dành cho thầy cô giáo và các nhà giáo dục được tổ chức tại Làng Mai từ ngày 25/10 – 1/11/2014 (được chuyển ngữ từ tiếng Pháp)

Tâm Bình An Trái Tim mở rộng

 

Singapore là chặng đầu trong chương trình hoằng pháp Mùa Thu Đông Nam Á 2010 của Thiền sư Thích Nhất Hạnh và Tăng đoàn Quốc tế Làng Mai qua 5 quốc gia và vùng lãnh thổ gồm: Singapore, Malaysia, Indonesia, Thái lan, và Hongkong. Bắt đầu từ 5 tháng 9 đến 15 tháng 11 năm 2010.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh (còn được thiền sinh gốc Việt thương gọi là “Sư ông Làng Mai”, hay đơn giản một tiếng “Thầy” theo cách gọi của thiền sinh có gốc khác) và Tăng đoàn Quốc tế Làng Mai tại các nước: Pháp, Đức, Hoa kỳ, và khoảng 20 vị xuất sĩ đang hoằng pháp trong vùng Đông Nam Á (Hongkong, Thái lan, và Việt Nam) đã cùng đáp tới Singapore ngày 5.9.2010.

dna1

Thượng tọa Trụ trì Kong Meng San Phor Kark See Monastery
tiếp đón Thiền sư Thích Nhất Hạnh và Tăng đoàn Làng Mai

“Tâm bình an, trái tim mở rộng”

Chuyến hoằng pháp tại Singapore được tổ chức bởi Kong Meng San Phor Kark See Monastery (Thiền viện Quang Minh Sơn Phổ Giác). Được thành lập từ năm 1921, Thiền viện là trung tâm Phật giáo chính và lớn nhất của Singapore, và là cơ sở Đại học Phật giáo của đảo quốc này (Buddhist College of Singapore). Tháng 3 năm 2009, các thầy Pháp Đăng, Pháp Khâm, và các sư cô Bối Nghiêm, Khôi Nghiêm (người Singapore) đã tổ chức một khoá tu 3 ngày và một buổi pháp thoại công cộng tại đây.
Sau hai ngày nghỉ ngơi thăm viếng, giao lưu cùng Phật tử địa phương v.v… Ngày 8.9.2010 Thượng tọa Trụ trì Kong Meng San Phor Kark See Monastery (Thiền viện Quang Minh Sơn Phổ Giác), Tăng chúng, và khoảng 700 thiền sinh Singapore đã đón tiếp Thiền Sư và Tăng Đoàn vào thiền đường No Form Hall (Vô Tướng) để khai mạc khóa tu 5 ngày “Open Mind, Peaceful Heart” (Tâm bình an, trái tim mở rộng), bắt đầu từ ngày 8 đến 12.9.2010.
Tuy không nhỏ, nhưng Kong Meng San Phor Kark See Monastery đã không đủ chỗ cho 700 thiền sinh nội trú toàn khóa tu, nên một nửa trong số đó phải chấp nhận tu học bán trú, sáng đi chiều về.
Singapore là một nước có đời sống vật chất và dân trí cao, có nhiều tiện nghi. Để có được cuộc sống đó, người dân Singapore phải làm việc nhiều, nhịp độ sống nhanh và khá căng thẳng. Nhiều người nói đi vào khoá tu chỉ để được nghỉ ngơi và sống chậm lại, để tạo lại cân bằng trong cuộc sống. Tiếp xúc với những pháp môn thiền hành, ăn cơm im lặng, thiền buông thư,  ái ngữ và lắng nghe, làm mới … Tăng đoàn Làng Mai đã cung cấp cho họ những phương pháp cụ thể để áp dụng vào đời sống hàng ngày với tốc độ quá nhanh tại đây.  Sự có mặt của tăng thân xuất sĩ giúp cho họ có niềm tin vào con đường tu học.

 

dna3

dna2

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Singapore rất thiếu các vị xuất sĩ. Chỉ có một số ít là người Singapore, đa số các thầy sư cô ở đây đến từ Trung hoa, Mã Lai và Sri Lanka. Tăng thân Làng Mai có sư cô Chân Khôi Nghiêm là người Singapore. Sau khi tốt nghiệp trung học, sư cô đi du học tại Mỹ. Tốt nghiệp đại học, sư cô về Làng Mai tu học và xuất gia năm 2006, khi được 25 tuổi. Sư Cô đã cùng quý thầy Pháp Ấn, Pháp Khâm, và các sư cô Linh Nghiêm, Đàn Nghiêm tổ chức khóa tu 4 ngày và một buổi pháp thoại công cộng tại Poh Ern Shih Temple (Chùa Báo Ân) hồi tháng 5 năm nay.

Tăng thân Quốc tế Làng Mai Singapore chào đời

Ngày 11.9.2010, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã có một thời pháp thoại công cộng cho khoảng 4000 người. Thiền đường Vô Tướng chỉ chứa được một nửa, 2000 người còn lại phải xem qua video tại các phòng lớn khác. Trong bài pháp thoại Thiền Sư đã nhấn mạnh  về Tịnh Độ hiện tiền, tiếp xúc với Bụt A Di Đà, Tây phương cực lạc ngay trong  giây phút hiện tại. Thiền Sư cũng chia sẻ về Tăng thân 4 chúng, trong đó chúng cư sĩ cùng tu tập và hoằng pháp với chúng xuất sĩ. Các câu thần chú để thiết lập thương yêu và hiểu biết như “Con ơi, ba mẹ đang có mặt cho con” cũng được Thiền Sư chia sẻ để nuôi dưỡng hạnh phúc trong gia đình.

dna4

Chỉ có một nửa trong số 4000 người được nghe nhìn Thiền Sư thuyết giảng trực tiếp trong thiền đường này,
số còn lại phải nghe qua âm thanh và màn hình ở những phòng lớn khác của thiền viện (LM).

Có khoảng 250 vị nhận 5 giới trong khoá tu. Khi đã nhận giới thì phải hành trì và ôn tập thường xuyên. Các thiền sinh thường hỏi phải làm gì để có thể duy trì năng lượng tu học sau khoá tu?  Các thầy sư cô đã hướng dẫn cách thành lập Tăng thân địa phương để cùng nhau tu học.

dna5

Giới điệp trên tay,… những tân Phật tử này có thể là những hạt giống tốt
để trở thành chúng Chủ trì tương lai của Tăng thân Quốc tế Làng Mai tại Singapore (LM).

Ngày thứ bảy 18.09, một nhóm thiền sinh hẹn gặp nhau tại vườn Bách thảo Singapore để đi thiền hành. Các chương trình xây dựng chúng chủ trì (core Sangha members) và sinh hoạt đều đặn hàng tháng cũng được bàn đến. Hạt giống tu học và xây dựng Tăng thân tại Singapore đã được gieo và điều kiện cho hạt giống được nẩy mầm và lớn mạnh cũng đã được khởi đầu, chúc cho người dân Singapore có nhiều lợi lạc từ những thực tập đó.

dna6

Không đến không đi… Vòng thân ái trước khi Tăng Đoàn rời Singapore lên đường đi Kuala Lumpur (LM)
7 ngày hoằng pháp với chủ đề “Tâm bình an, trái tim mở rộng” cho người dân Singapore kết thúc vào cuối ngày 12.9.2010, cũng là lúc Thiền Sư và Tăng đoàn Làng Mai lên đường tới Malaysia với 1 chương trình đan kín suốt 2 tuần lễ từ 13 đến 27 tháng 9 năm 2010. Tại Vương quốc Hồi giáo này Thiền Sư và Tăng Đoàn sẽ tham dự Hội nghị Phật giáo Thế giới (World  Buddhist Conference) tổ chức tại thủ đô Kuala Lumpur

 

Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục Singapore thỉnh mời Sư Ông Làng Mai

 

dna1

 

Chuyến hoằng pháp của Sư Ông và tăng thân Làng Mai tại Singapore được thực hiện bởi lời thỉnh mời của Hòa Thượng chùa Quang Minh Sơn và ngài Bộ Trưởng Bộ Y Tế  Singapore, ông Khaw Boon Wan. Đoàn chỉ lưu lại ở Singapore có 7 ngày, trong đó 5 ngày dành cho khóa tu, nhưng đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng người dân nơi đây.

Kết thúc khóa tu, Ngài Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục Singapore, ông Ng Eng Hen, tới tìm gặp Hòa Thượng chùa Quang Minh Sơn và nhờ Hòa Thượng thỉnh ý Sư Ông rằng Bộ Giáo Dục muốn mời Sư Ông trở lại Singapore vào năm 2011 để hợp tác đưa chương trình tu tập chánh niệm vào học đường. Nhưng vì trong năm 2011, Sư Ông đã có lịch cho các chuyến hoằng pháp tại các nước khác nên khó có thể tới Singapore trong năm 2011 được. Nghe vậy, Ngài Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục ngỏ ý sẽ mời Sư Ông trở lại Singapore vào năm 2012, nếu sức khỏe và thời gian của Sư Ông cho phép.

(Mai Linh ghi lại)