Tinh Yếu Kinh Quán Niệm Hơi Thở

(Sư Ông nói bài pháp thoại về kinh Quán Niệm Hơi Thở này nhân dịp có một đoàn làm phim từ Việt Nam qua thăm và tu tập tại Làng Mai. Khi ấy đoàn phim đang làm một bộ phim về Kinh Quán Niệm Hơi Thở, và họ đã thỉnh Sư Ông giảng về đề tài này.)

Tinh Yếu Kinh Quán Niệm Hơi Thở

Hồi tôi viết cuốn sách Đường Xưa Mây Trắng là vào mùa đông, trời rất lạnh, không có lò sưởi như bây giờ. Trong phòng chỉ có một cái lò củi, tôi hơ tay trái trên lò cho ấm, còn tay phải thì viết sách. Mỗi ngày tôi viết rất nhiều giờ. Tôi đã rất hạnh phúc trong khi viết cuốn sách ấy. Tuy trong nhà không có lò sưởi, thiếu thốn tiện nghi nhưng niềm hạnh phúc của tôi rất lớn. Trong khi viết, tôi biết chắc rằng người đọc sẽ rất hạnh phúc, tại vì người viết sách hạnh phúc thì người đọc cũng sẽ có hạnh phúc. Khi ông tỷ phú Modi đề nghị làm phim “Đường Xưa Mây Trắng”, tôi có đề nghị rằng với ông ta rằng: Quý vị làm phim này thì phải vừa làm vừa tu phim mới có giá trị. Trong khi làm mà mình có hạnh phúc, có sự tu tập thì những người xem phim mới có hạnh phúc. Cho nên từ đạo diễn đến diễn viên tất cả phải tu trong khi làm việc. Để sau khi làm phim xong thì mình đã chuyển hóa rồi, đã thay đổi rồi và chắc chắn là những người xem phim họ sẽ có hạnh phúc, họ cũng sẽ chuyển hóa. Nhà xuất bản Parallax Press, hay nhà xuất bản Lá Bối cũng vậy, hai nhà xuất bản này thường in những cuốn sách về sự thực tập. Nếu muốn bán sách để cho người đọc tu thì với cương vị là nhà xuất bản mình cũng phải tu. Khi in những cuốn sách về thực tập thì mình phải thực tập những cái mà mình nói trong sách trước đã. Cái nhân tốt thì mới có quả tốt. Vậy nên tôi rất mong quý vị trong khi làm phim, muốn chia sẻ phương pháp thở cho nhân gian thì mình phải thực tập trong suốt quá trình đó. Thực tập như vậy đem lại hạnh phúc cho chúng ta ngay bây giờ và ở đây trong lúc làm việc.

Tôi nghĩ là trong khi quý vị làm phim này, quý vị dựng ra những cốt truyện thì quý vị cũng phải sống với chánh pháp đó, thì người xem mới tiếp thu được một cách cụ thể. Và họ có thể đem ra áp dụng trong đời sống hằng ngày.

Ngày tôi khám phá ra kinh Quán Niệm Hơi Thở tôi rất hạnh phúc, tôi xem như mình đã tìm ra một kho báu, tôi có cảm tưởng tôi là người hạnh phúc nhất trên đời. Vì vậy tôi đã từng giảng dạy, từng trình bày và từng hướng dẫn cho rất nhiều người tu tập. Trong khi hướng dẫn người khác tu tập tôi luôn luôn có hạnh phúc và những người được nghe và tu tập theo cũng có hạnh phúc. Do đó tôi nghĩ rằng trong phạm vi một giờ đồng hồ tôi sẽ trình bày mười sáu hơi thở như thế nào để quí vị có thể sống và thực tập được ngay bây giờ, và trong khi quý vị tìm cách chia sẻ các phương pháp này với những người khác thì quý vị đã hưởng cái hạnh phúc đó rồi.
Tôi đã nghiên cứu rất kỹ 16 hơi thở mà Đức Thế Tôn đề ra. Tôi đã áp dụng chúng vào đời sống hàng ngày. Những điều tôi giảng dạy đều xuất phát từ kinh nghiệm chứ không phải từ sự nghiên cứu và học hỏi trong sách.

Hơi thở thứ nhất: Nhận diện hơi thở

Thở vào, tôi biết đây là hơi thở vào
Thở ra, tôi biết đây là hơi thở ra.

Trong hơi thở đầu mà Đức Thế Tôn đề nghị là nhận diện hơi thở. Khi thở vào thì mình biết là mình đang thở vào, khi thở ra thì mình biết là mình đang thở ra. Mục đích của hơi thở thứ nhất là nhận diện hơi thở vào và nhận diện hơi thở ra. Bài tập này không khó, trẻ em cũng có thể làm được. Nhưng hiệu quả của nó thì vô song, tại vì nếu muốn nhận diện thì mình phải có mặt đó mới nhận diện được. Trong lúc thở vào mà biết đây là hơi thở vào thì tự nhiên tâm của mình bám lấy hơi thở vào. Khi đã để tâm vào hơi thở thì không còn lo nghĩ về chuyện quá khứ, hay tương lai nữa. Tâm của mình có mặt với thân. Đó là kết quả có liền lập tức khi mình nhận diện hơi thở.

Chúng ta thường sống trong thất niệm, thân ở một nơi mà tâm ở một ngả. Vì vậy nên mình không thực sự có mặt trong giây phút hiện tại, không sống được sâu sắc với giây phút hiện tại, vì thế hơi thở đầu có công năng đưa tâm trở về với thân. Khi thân tâm đã nhất như rồi thì lúc đó mình mới có mặt thực sự để tiếp xúc sâu sắc với những mầu nhiệm của sự sống đang có ở trong mình và xung quanh mình. Bài thực tập này có thể sử dụng ở mọi lúc mọi nơi: Khi lái xe, khi rửa bát, khi rửa tay… Chỉ cần thở vào biết rằng mình đang thở vào, thở ra biết mình đang thở ra. Bất cứ một giây phút nào của đời sống hằng ngày mình cũng có thể thực tập hơi thở này. Đem tâm trở về với thân để thực sự có mặt mà sống với giây phút đó.

Bài tập thứ hai: Đi theo hơi thở.

Thở vào một hơi dài hoặc một hơi ngắn hành giả biết rằng hơi thở của mình dài hay ngắn
Thở ra một hơi dài hoặc một hơi ngắn hành giả biết hơi thở của mình dài hay ngắn

Hơi thở có chiều dài của nó. Nó có điểm bắt đầu và chỗ chấm dứt. Trong khi thở vào mình phải bám sát lấy hơi thở từ đầu cho đến cuối. Tôi đang thở vào và tôi biết tôi đang thở vào. Tâm của mình hoàn toàn bám lấy hơi thở và không có một giây phút nào rời hơi thở. Bám lấy hơi thở gọi là đi theo hơi thở (tùy tức). Ví dụ: Cái bút này là hơi thở, ngón tay của tôi là cái tâm. Thì khi bắt đầu thở, ngón tay của tôi bám lấy cây bút. Tâm của tôi bám sát vào hơi thở. Trong suốt hơi thở vào tôi hoàn toàn chú tâm vào hơi thở, do đó cái định của tôi không bị gián đoạn. Có thể trong hơi thở đầu, tuy là tâm tôi đã có khả năng nhận diện được đây là hơi thở vào, đây là hơi thở ra nhưng mà cái định chưa thể sánh bằng so với hơi thở thứ hai. Bởi vì trong hơi thở thứ hai tôi hoàn toàn bám sát hơi thở, không hề rời hơi thở.

Trong bài tập thứ hai này mình thấy rõ ràng niệm và định của mình vững chãi, sâu sắc hơn. Cố nhiên khi niệm, định vững chãi hơn thì sự có mặt của mình trong giây phút hiện tại cũng vững chãi hơn. Và mình có thể tiếp xúc được với những mầu nhiệm của sự sống một cách sâu sắc hơn, khi ấy mình mới thực sự sống đời sống của mình. Ví dụ như khi đứng trước cảnh tượng mặt trời mọc rất huy hoàng, nếu cái tâm của mình không có mặt ở đó, mình cứ nghĩ về quá khứ, hay mải mê với những dự tính trong tương lai hoặc lo lắng sầu khổ thì cảnh mặt trời mọc đẹp đẽ kia không phải để dành cho mình. Trong khi người khác thực sự có mặt ở đó nên họ hưởng được cảnh tượng đẹp đẽ đang diễn ra trước mặt.

Vì vậy, hơi thở đầu là đem tâm trở về với thân và hơi thở thứ hai là có mặt một cách liên tục không gián đoạn. Tất cả những mầu nhiệm của sự sống ở trong ta và quanh ta luôn luôn có đó nhưng ta đã không có mặt cho nên ta không thừa hưởng được. Hơi thở thứ hai giúp ta trở về với chính mình để có mặt thực sự mà tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống. Cái đó gọi là “sống”. Từ một người “chết” trở thành một người “sống”. Khi tâm của mình trở về với thân thì mình mới thực sự sống, sống như một người sống. Nhà văn pháp  …… tác giả của cuốn Người Xa Lạ đã nói : “Sống như một người chết” để chỉ những người sống trong thất niệm.

Bài tập thứ ba: Ý thức toàn thân

Thở vào tôi ý thức được toàn thân tôi
Thở ra tôi biết hình hài tôi có đó.

Trong khi thở vào và thở ra mình chế tác một năng lượng chánh niệm. Năng lượng này giúp mình có mặt trong giây phút hiện tại. Vì vậy mình có thể định nghĩa: năng lượng chánh niệm là năng lượng giúp mình thực sự có mặt trong giây phút hiện tại để biết được những gì đang xảy ra trong giây phút ấy. Năng lượng này do chính mình chế tác ra trong khi thở vào và thở ra. Với năng lượng đó, mình tiếp tục nhận diện sự có mặt của thân thể mình, đó là mục đích của bài tập thứ ba.
Thở vào tôi ý thức được sự có mặt của toàn thân thể tôi, dùng năng lượng chánh niệm để ôm lấy cơ thể, một sự đoàn tụ của thân và tâm rất sâu sắc. Mình bắt đầu một cuộc trở về mà hơi thở là cửa ngõ. Trước hết mình trở về với hơi thở, khi trở về được với hơi thở rồi thì mình có mặt với thân thể.
Giống với bài thực tập thứ nhất và thứ hai, bài thực tập này cũng có thể thực tập ở mọi lúc mọi nơi: khi đang lái xe, khi đang quét nhà, đang, uống trà.v.v… Khi có mặt với thân thể thì mình có thể khám phá ra trong thân thể có những đau nhức, căng thẳng bị dồn chứa lâu ngày. Nhờ trở về với thân nên mình giác ngộ ra một điều, vì không tu nên những căng thẳng đau nhức mới có cơ hội tích tụ như vậy, đây chính là nguyên nhân phát sinh bệnh tật. Do đó mình cần đến bài thực tập thư tư

Bài tập thứ tư: Buông thư toàn thân

Tôi đang thở vào và làm cho toàn thân tôi an tịnh
Tôi đang thở ra và làm cho toàn thân tôi an tịnh

Buông thư toàn thân có nghĩa là làm cho hình hài lắng dịu xuống, làm cho những căng thẳng đi ra khỏi thân thể. Khi những căng thẳng dịu xuống thì những đau nhức cũng theo đó mà giảm thiểu. Nếu mình căng thẳng nhiều thì đau nhức cũng sẽ nhiều và từ căng thẳng đau nhức này sẽ phát sinh ra vô số bệnh tật. Trước hết là những bệnh về thân rồi sau đó là những bệnh về tâm. Nếu có ý thức tu tập thì mình sẽ vượt thoát khỏi những căng thẳng, đau nhức và không mang nhiều chứng bệnh nữa. Vì vậy bài tập thứ ba và thứ tư không chỉ có công năng trị liệu mà còn có giá trị phòng ngừa rất lớn lao. Rất là hay, chỉ cần thở là có thể ngăn ngừa bệnh tật.

Chúng ta có thể buông thư toàn thân trong tư thế ngồi, trong tư thế nằm, trong tư thế đứng, và ngay cả trong tư thế đi mình cũng có thể buông thư toàn thân được. Mỗi bước chân thảnh thơi giúp mình loại bỏ những căng thẳng ra ngoài. Đi như là đi chơi, đường dài em bước như dạo chơi. Đi như vậy thì đường không còn dài nữa, mình không đi như bị ma đuổi và mình có hạnh phúc trong từng bước chân. Vì vậy trong khi đi, mình có thể buông thư toàn thân, buông thư tất cả những căng thẳng. Thiền đi trước hết là buông bỏ tất cả những căng thẳng để mình có thể bước được trong tịnh độ. Một khi đã buông bỏ và đi được những bước chân chánh niệm thì mỗi bước chân như vậy giúp cho mình tiếp xúc được với những mầu nhiệm của đất trời: Bầu trời xanh, mây trắng, chim hót, thông reo, hoa nở, tịnh độ có mặt trong giây phút hiện tại là vậy.

Tịnh độ không còn là mơ ước của tương lai nữa. Tại vì trời xanh, mây trắng, chim hót, thông reo, hoa nở là những mầu nhiệm của sự sống đang thực sự có mặt. Những cái đó không thuộc về tịnh độ thì thuộc về cái gì? Chính mình đây cũng vậy, mình cũng thuộc về tịnh độ nhưng tại vì không biết cho nên mình tự gây ra cho mình những đau nhức, những sầu khổ. Một khi tâm đã trở về với thân, buông thư và an trú trong giây phút hiện tại thì tự nhiên mình tiếp xúc được với tịnh độ ở trong mình và xung quanh mình. Cơ thể của mình cũng thuộc về tịnh độ cũng là vật sỡ hữu của đức A Di Đà, của đức Thích Ca, đừng làm hư thân thể mình mà tội nghiệp. Bốn hơi thở đầu này nó có liên hệ đến thân thể – quán thân ở trong thân. Và nó có thể đem lại rất nhiều hạnh phúc. Mình mới trở về với hơi thở, mới chỉ tu thân thôi chưa tu tâm mà đã có thể buông bỏ được khổ đau và bắt đầu có những hạnh phúc rồi.

Bốn bài thực tập đầu của kinh Quán Niệm Hơi Thở thuộc về thân, đó là nhận diện hơi thở, nhận diện toàn thân và làm lắng dịu toàn thân. Qua bài tập thứ năm và thứ sáu ta bắt đầu bước sang lĩnh vực cảm giác. Bụt đã dạy rất nhiều phương pháp để chế tác ra niềm vui. Bài tập thứ bảy và thứ tám là cách nhận diện và ôm ấp niềm đau. Sang bài tập thứ chín và thứ mười, đang từ lĩnh vực thân (bốn hơi thở đầu), thọ (bốn hơi thở tiếp theo) chúng ta bước sang lĩnh vực của tâm. Kính mời các bạn tiếp tục học về phần 2 của kinh Quán Niệm Hơi Thở từ bài tập thứ 5 cho đến bài tập thứ 10

 

Bài tập thứ năm: Chế tác mừng vui

Ta đang thở vào và cảm thấy mừng vui
Ta đang thở ra và cảm thấy mừng vui

Với hơi thở thứ năm, chúng ta đi sang lĩnh vực cảm giác. Chúng ta có thể nhìn cơ thể mình như một dòng sông. Trong dòng sông đó mỗi tế bào là một giọt nước. Tại vì cơ thể chuyển biến, thay đổi trong từng giây, từng phút. Giây phút nào cũng có những tế bào mới sinh ra. Nó không phải là một thực thể bất động. Nó là vô thời gian. Nó là một dòng sông và bây giờ chúng ta ngồi trên bờ của một dòng sông thứ hai trong cơ thể, đó là dòng sông cảm giác. Trong cơ thể của mình có một dòng sông cảm giác tuôn chảy đêm ngày, mỗi cảm giác là một giọt nước của dòng sông. Những cảm giác đó được phát triển, tồn tại một thời gian rồi tiêu diệt để nhường chỗ cho những cảm giác mới phát triển. Và bài tập thứ năm là học cách làm như thế nào để đem lại những cảm giác mừng vui. Người hành giả phải có khả năng đem lại cảm giác mừng vui cho chính mình. Tại vì mình cần được nuôi dưỡng bằng những niềm vui.

Bài tập thứ sáu: Chế tác hạnh phúc

Ta đang thở vào và cảm thấy an lạc
Ta đang thở ra và cảm thấy an lạc

Mỗi chúng ta phải có khả năng chế tác sự mừng vui, phải có khả năng chế tác hạnh phúc. Nếu anh chưa có khả năng chế tác niềm vui cho anh thì anh thực tập chưa giỏi. Nếu chị chưa có khả năng chế tác hạnh phúc cho chị thì chị thực tập vẫn chưa giỏi. Chúng ta rất cần những giây phút có sự mừng vui, cần những giây phút có hạnh phúc để được nuôi dưỡng. Tại vì chúng ta có những nỗi đau cần phải được ôm ấp và chuyển hóa. Mà nếu chúng ta không đủ mạnh thì sẽ không thể ôm ấp và chuyển hóa được những nỗi khổ, niềm đau đang có mặt. Muốn có đủ sức mạnh để ôm lấy và chuyển hóa những niềm đau thì mình phải tự nuôi mình bằng những niềm vui, những hạnh phúc mà mình có thể chế tác được. Vậy nên hơi thở thứ năm là chế tác niềm vui, hơi thở thứ sáu là chế tác hạnh phúc. Niềm vui trong kinh gọi là Hỷ. Chế tác hạnh phúc ở trong kinh gọi là Lạc. Vậy làm như thế nào để chế tác mừng vui, chế tác hạnh phúc?

Bụt đã dạy cho chúng ta rất nhiều phương pháp để đem lại cảm giác mừng vui, hạnh phúc. Bất cứ lúc nào, nếu muốn là mình có thể có niềm vui, mình có thể có hạnh phúc ngay được. Hay như vậy đó! Và đây là những phương pháp:

1. Ly sinh hỷ lạc:
Trước hết là phương pháp buông bỏ để đạt tới hỷ lạc. Buông bỏ có thể đem tới niềm vui và hạnh phúc. Ví dụ: Mình đang ở một thành phố lớn ồn ào, bụi bặm. Ngày cuối tuần mình muốn thoát khỏi thành phố đó nên đã chuẩn bị đồ ăn, nước uống và lên xe đi về một miền quê để sống hai ngày. Chỉ sau một giờ đồng hồ xe chạy mình đã rời khỏi thành phố, tiếp xúc với ruộng nương xanh tốt, nghe được tiếng chim hót, gió thổi, và không khí trong lành khiến tâm tư khỏe nhẹ, tâm hồn thư thái. Đạt được điều đó là do mình có khả năng bỏ lại cái thành phố ồn ào bụi bặm kia. Vì vậy đây là một trong những phương pháp thực tập để đem lại niềm vui và hạnh phúc. Có rất nhiều cái mình có thể buông bỏ được. Ví dụ khi mình có một ý niệm như: Nếu tôi không có được cái đó thì tôi sẽ không bao giờ có hạnh phúc. Nếu tôi không loại trừ được kẻ đó thì tôi sẽ không bao giờ có hạnh phúc. Mình có những ý niệm như vậy và những ý niệm đó làm mình đánh mất đi cơ hội có hạnh phúc. Tại vì có thể mình có ý niện đó nhưng không bao giờ ý niệm đó thành hiện thực. Nếu tôi không cưới được người đó thì chắc là tôi không sống nổi. Nếu tôi không có bằng cấp đó, không có địa vị đó thì sống có nghĩa gì nữa đâu? Nếu cứ đưa vào trong đầu những ý niệm như vậy thì mình cứ khổ hoài, không thể có niềm vui hạnh phúc. Nhưng nếu mình bỏ được những ý niệm ấy ra ngoài thì niềm vui hạnh phúc ào ào đi tới. Thành ra những ý niệm, những tư tưởng của mình cũng là những nguyên do làm cho mình đau khổ. Vì vậy mình phải xét xem mình có những ý niệm nào, thành kiến nào cần phải buông bỏ. Càng buông chừng nào thì càng có hạnh phúc chừng đó. Cái đó gọi là ly sinh hỷ, ly sinh lạc. Hạnh phúc, niềm vui có được nhờ buông bỏ.

2. Niệm sinh hỷ lạc:
Phương pháp thứ hai mà Bụt dạy để chế tác niềm vui và hạnh phúc là phương pháp chánh niệm. Niệm là năng lượng giúp cho mình có mặt thật sự trong giây phút hiện tại. Biết được, nhận diện được những cái gì đang thực sự xảy ra trong giây phút đó. Niệm giúp cho mình biết rằng đây là hơi thở vào. Và khi thở vào mình biết rằng mình là một sinh vật. Mình là một người đang còn sống. Biết rằng mình đang còn sống, đó là một hạnh phúc rất lớn. Tại vì những người chết rồi thì làm sao mà thở vào được? Vì vậy cho nên khi thở vào tự nhiên mình giác ngộ được một sự thật là mình đang còn sống và đang còn sống là một phép lạ. Mình có thể ăn mừng phép lạ đó bằng cách thở vào và thở ra. Chỉ cần thở vào, thở ra thôi là đã có hạnh phúc rồi. Tự mình thở vào có chánh niệm, thở ra có chánh niệm cho nên năng lượng của chánh niệm cho mình biết mình là một thực tại mầu nhiệm và xung quanh mình là những sự sống mầu nhiệm. Cho nên khi có chánh niệm thì tức là sống có niềm vui và hạnh phúc. Vì thế có thể nói chánh niệm là một nguồn sống vô tận của hạnh phúc. Ví dụ, tôi thở vào và có ý thức về trái tim tôi, trái tim tôi rất là dễ thương với tôi. Nó làm việc đêm ngày để bơm máu nuôi các tế bào trong cơ thể. Tôi thì có thể được ngủ năm hoặc sáu giờ trong một ngày đêm, còn trái tim của tôi thì phải làm việc liên tục. Ấy vậy mà tôi chưa bao giờ lân mẫn, để ý thương yêu lưu tâm đến trái tim của tôi. Tôi có thể đã hút thuốc. Tôi có thể đã uống rượu. Tôi có thể đã thức đêm và tôi làm cho trái tim của mình mệt nhoài. Bây giờ tôi thở vào một hơi và tôi đem năng lượng chánh niệm nhận diện sự có mặt của trái tim. Và mình ôm lấy trái tim bằng sự trân quý, bằng ý thức của mình. Thở vào: trái tim của ta ơi, ta biết ngươi có đó. Mình phải biết rằng mình đã đối xử với trái tim không được dễ thương lắm do chuyện mình hút thuốc, mình uống rượu. Nghĩ tới đó tự nhiên tình thương đối với trái tim được phát triển và mình nghĩ từ đây về sau mình sẽ không uống rượu, hút thuốc, thức khuya nữa để cho trái tim của mình có hạnh phúc. Khi ôm lấy trái tim với chánh niệm thì mình nhận ra một điều rất mầu nhiệm là trái tim của mình nó đang vận hành một cách bình thường. Có những người không có một trái tim bình thường, họ có vấn đề về tim mạch, trái tim của họ có thể ngừng đập bất cứ lúc nào và họ luôn sợ hãi. Điều mong muốn sâu sắc nhất của họ là có một trái tim bình thường như là trái tim của bất cứ ai. Khi thở vào, mình giác ngộ một sự thực là mình có một trái tim bình thường. Và mình có thể ăn mừng sự kiện là có một trái tim bình thường. Đó là niềm vui có được nhờ có chánh niệm.
– Thở vào tôi ý thức về trái tim của tôi. Tôi ý thức rõ sự có mặt của trái tim tôi.
– Thở ra tôi biết trái tim tôi là một trái tim bình thường, mạnh khỏe.
Ý thức đó đưa tới niềm vui và hạnh phúc. Cái đó gọi là niệm sinh hỷ lạc. Mà đâu phải trong cơ thể chỉ có mỗi trái tim thôi. Lá gan của tôi, thận của tôi cũng còn tốt. Hai chân của tôi còn mạnh. Tôi có thể chạy nhảy được. Biết bao nhiêu là những điều kiện hạnh phúc có đó mà tôi vì không có ý thức, không có niệm cho nên không có hạnh phúc. Vì vậy, trở về với năng lượng chánh niệm. Nhận diện những điều kiện của hạnh phúc mình đang có thì tự nhiên sẽ có vô số hỷ, vô số lạc. Khi nhìn ra ngoài, mình cũng thấy trời xanh hoa nở, biết bao nhiêu là mầu nhiệm của sự sống. Người thương của mình vẫn còn và mình được sống chung với nhau dưới một mái nhà. Biết bao nhiều là điều kiện của hạnh phúc. Nó dư dả để cho mình không cần đi tìm thêm nữa. Tất cả những cái đó là điều nhờ công dụng của niệm. Vì vậy hễ thực tập thở vào – thở ra, trở về tiếp xúc được với những điều kiện hạnh phúc mà mình đang có thì tự nhiên niềm vui, hạnh phúc được sinh ra liên tiếp. Đó là phương pháp Bụt dạy để có niềm vui và hạnh phúc. Và mình có thể khẳng định rằng chánh niệm là một nguồn suối vô tận của hạnh phúc. Năng lượng chánh niệm có thể được chế tác bằng hơi thở vào và hơi thở ra.

3.  Định sinh hỷ lạc:
Phương pháp thứ ba mà Bụt dạy, đó là định sinh hỷ lạc. Định cũng là một loại năng lượng. Có chánh niệm thì bắt đầu có định. Ví dụ như khi ý thức được sự có mặt của bông hoa thì mình có chánh niệm về bông hoa. Nhưng nếu duy trì chánh niệm được lâu dài thì mình chú tâm vào bông hoa đó nhiều hơn. Và như vậy thì cái định nó sinh ra từ cái niệm. Định càng hùng thì niệm càng hùng và hạnh phúc càng lớn. Ví dụ: Khi uống một tách trà thơm mà nếu có niệm thì mình thực sự có mặt trong giây phút hiện tại. Mình có mặt trong giây phút hiện tại thì chén trà trở thành một cái gì có thật. Còn nếu mình không có mặt. Nếu tâm mình ở chỗ khác thì rõ ràng mình uống trà mà không biết là mình đang uống trà. Mình là một bóng ma không có thực mà chén trá cũng là một bóng ma không có thực. Tại vì mình đang bị kẹt vào trong cái lo lắng, buồn khổ, đang toan tính thì không có ai ngồi đó để mà uống trà hết, mà cũng không có trà để uống. Mình uống trà như một cái máy. Trong khi đó, nếu có hơi thở chánh niệm thì tự nhiên mình có mặt thật sự, thân tâm nhất như và mình có mặt thực sự thì trà cũng có mặt thực sự. Lúc ấy sự tiếp xúc giữa mình với trà là sự sống đích thực. Khi uống trà như vậy, có niệm có định thì chén trà rất là ngon. Còn nếu không, tách trà chỉ là một bóng ma mà thôi. Người thương của mình cũng vậy. Nếu mình không có niệm, không có ý thức rằng người thương của mình ở đó thì người thương của mình cũng như là một bóng ma. Mình chỉ sống với bóng ma. Vì vậy cho nên có niệm, có định thì tất cả đều trở thành sự thật. Điều đó đem lại rất nhiều niềm vui và hạnh phúc.

4. Tuệ sinh hỷ lạc:
Tuệ tức là cái thấy. Nếu mình có chánh niệm và mình tập trung cho vững thì mình sẽ có cái thấy, cái thấy này đem lại cho mình rất nhiều niềm vui và hạnh phúc. Càng tập trung chừng nào thì hạnh phúc càng lớn chừng đó. Đó gọi là tuệ sinh hỷ lạc. Là người hành giả khôn ngoan, ta phải có khả năng chế tác được niềm vui trong mọi giây phút bằng những phương pháp pháp buông bỏ, chánh niệm, chánh định và tuệ giác. Khi có niệm, có định thì sẽ có tụê.

Bài tập thứ bảy: Nhận diện niềm đau

Ta đang thở vào và có ý thức về những hoạt động tâm ý trong ta
Ta đang thở ra và có ý thức về những hoạt động tâm ý trong ta

Bài tập thứ tám: Ôm lấy niềm đau

Ta đang thở vào và làm cho những hoạt động tâm ý trong ta được an tịnh
Ta đang thở ra và làm cho những hoạt động tâm ý trong ta được an tịnh

Khi nào chúng ta có đủ Hỷ và Lạc thì chúng ta có khả năng sử lý những nỗi khổ niềm đau ở trong ta và xung quanh ta dễ dàng hơn. Vì vậy cho nên phải có bài tập thứ năm và thứ sáu trước khi chúng ta đi vào bài tập thứ bảy. Bài tập thứ bảy là nhận diện niềm đau. Bài tập thứ tám là ôm lấy niềm đau. Người hành giả, người thực tập không tìm cách trốn chạy niềm đau của mình, không tìm cách khỏa lấp niềm đau của mình bằng tiêu thụ, bằng rượu, bằng ma túy, bằng thức ăn, bằng những phương tiện tiêu khiển khác. Người hành giả biết tu thì có khả năng đối diện trực tiếp với niềm đau, ôm lấy niềm đau của mình mà chuyển hóa. Trước hết, tôi nói đến một chút về sự khác biệt giữa Hỷ và Lạc. Ở trong kinh có nói, ví dụ mình đi trong sa mạc mà khát nước cháy cả cổ, tự nhiên mình trông thấy một lùm cây và một hồ nước. Mình thấy mừng quá đi, tuy chưa thực sự được uống nước và ngồi dưới bóng mát nhưng mình đã có niềm vui rồi. Cái này gọi là Hỷ. Và khi mình tới nơi, quỳ xuống vốc nước uống, trong khi vốc nước uống mình có hạnh phúc. Cái đó gọi là Lạc. Hỷ và Lạc khác nhau ở chỗ đó. Trong Hỷ còn có sự xôn xao, còn có sự mong đợi. Nhưng trong Lạc thì mình hoàn toàn không còn sự xôn xao, còn sự mong đợi nữa. Mình thực sự hạnh phúc. Thành ra các pháp môn thực tập là đưa tới Hỷ, rồi đưa tới Lạc. Khi có Hỷ và Lạc rồi thì mình đủ mạnh và mình có khả năng nhận diện và ôm lấy niềm đau mà không trốn chạy, không khỏa lấp, không đàn áp niềm đau. Thở vào, tôi biết có một niềm đau trong tâm tôi. Đây là một cảm giác đau khổ, một khổ thọ. Chúng ta có ba loại cảm giác: cảm giác dễ chịu, cảm giác khó chịu và cảm giác trung tính. Bài tập thứ năm là để chế tác những cảm giác dễ chịu. Bài tập thứ sáu cũng là để chế tác những cảm giác dễ chịu. Còn bài tập thứ bảy là để xử lý những cảm giác đau buồn, để ôm lấy niềm đau. Niềm đau là đối tượng cần được ôm ấp, cần được công nhận. Niềm đau của ta ơi, ta biết rằng ngươi đang có mặt đó, ta không trốn chạy. Ta không giả bộ rằng ta không có niềm đau. Mình phải có can đảm chấp nhận sự có mặt của những niềm đau, nỗi khổ. Và phải dùng những năng lượng chánh niệm mà mình đã chế tác để nhận diện và ôm ấp lấy niềm đau nỗi khổ của mình. Đó là bài tập thứ bảy, bài tập này bất cứ người hành giả nào cũng có thể làm được. Nếu mình dạy cho trẻ em thì các em cũng có thể làm được chuyện đó. Ở trong bài tụng Hướng Về Tam Bảo dành cho thiếu nhi có câu:

…Con xin lạy Bụt
Đã ban cho con
Giáo pháp nhiệm mầu
Giúp con nuôi dưỡng
Tình nghĩa, hạnh phúc
Nụ cười, niềm tin
Dạy con biết thở
Ôm lấy niềm đau
Những lúc tâm con
Tham đắm, giận hờn
Si mê, ganh tỵ….

Đó là những bài kinh cho các em thiếu nhi nhưng kỳ thực đó là phương pháp cho các em thực tập. Con lạy Bụt tại vì Bụt đã ban cho con giáo pháp, giúp cho con biết thở, biết ôm lấy niềm đau những lúc tâm con bị tham đắm giận hờn, si mê, ganh tỵ nó làm cho con đau khổ. Đây là sự thực tập. Khi mình đã thực tập được thì mình cũng có thể chỉ cho các em nhỏ thực tập theo. Các em nhỏ từ nhiều quốc gia khác nhau khi tới Làng Mai đã chứng tỏ rằng các em cũng có thể thực tập được. Thở vào, tôi nhận diện những nỗi khổ niềm đau trong thân tâm và tôi ôm lấy niềm đau đó. Nếu mình không có năng lượng chánh niệm và không ôm ấp được nỗi khổ, niềm đau thì mình sẽ để cho nỗi khổ, niềm đau tràn ngập. Muốn cho nỗi khổ niềm đau không tràn ngập thì mình phải có chánh niệm và chánh định. Nếu mình biết thực tập hơi thở thì mình liên tục chế tác ra chánh niệm, có năng lượng chánh niệm đó thì mình có khả năng ôm lấy niềm đau của mình. Mà đã ôm lấy nó thì tự nhiên mình bớt khổ. Cũng như khi một người mẹ đang làm việc ở trong bếp, nghe tiếng khóc của em bé, bà liền bỏ công việc xuống, đi vào và ôm lấy em bé một cách rất dịu hiền. Tuy bà mẹ chưa biết con mình có vấn đề gì, nhưng nội chuyện ôm lấy bé với tất cả sự trìu mến và thương yêu thì em bé đã hạnh phúc rồi.

Ở đây cũng vậy, khi mình có niềm đau, nỗi khổ nếu mình biết dùng năng lượng chánh niệm để nhận diện và ôm lấy niềm đau nỗi khổ ấy thì dù chưa làm gì hết mình đã bớt khổ rồi. Năng lượng thứ nhất là năng lượng khổ được năng lượng thứ hai là chánh niệm săn sóc, bảo hộ. Năng lượng thứ hai làm công việc của người chị lớn, người mẹ ôm lấy đứa con là khổ đau. Đó là sự mầu nhiệm của hơi thở thứ bảy, mà bất cứ một hành giả nào cũng phải làm cho được. Tại vì trong chúng ta người nào cũng có nỗi khổ, niềm đau mà chúng ta chỉ biết trốn chạy, khỏa lấp. Trong khi đó thì Bụt dạy đừng có trốn chạy, đừng có khỏa lấp, phải có can đảm nhận diện và ôm lấy niềm đau. Nhưng nếu quý vị không thực tập hơi thở chánh niệm thì làm sao quí vị có được những năng lượng đó để làm cái công việc là ôm ấp niềm đau. Phải có bà mẹ mới ôm đứa con được. Mình phải thực sự có mặt mới ôm lấy những nỗi khổ, niềm đau được. Mà muốn thực sự có mặt để ôm lấy nó thì mình phải thực tập hơi thở. Thực tập hơi thở mình sẽ làm phát khởi năng lượng của chánh niệm. Và kết quả là hơi thở thứ tám giúp mình có thể làm lắng dịu niềm đau. Mình chưa thể chuyển hóa được niềm đau tận gốc. Nhưng sự kiện là mình đã có thể nhận diện được nó, ôm lấy nó một cách rất là dịu dàng, rất là trìu mến thì niềm đau đó sẽ dịu xuống, khổ đau đã vơi bớt rất nhiều rồi. Với những bài tập tiếp theo, mình có thể đi xa hơn để có thể chuyển hóa hoàn toàn gốc rễ của những nỗi khổ, niềm đau. Nhưng ở đây chỉ nói nhận diện và ôm ấp thôi cũng đã có thể bớt khổ rồi.

Bài tập thứ chín: Nhận diện tâm

Ta đang thở vào và có ý thức về tâm ý ta
Ta đang thở ra và có ý thức về tâm ý ta

Tám hơi thở vừa qua thuộc về lĩnh vực cảm giác. Tới hơi thở thứ chín chúng ta bước sang lĩnh vực của tâm. Trong bài tập đầu chúng ta có nhận diện hơi thở, bài tập thứ ba có nhận diện toàn thân,  bài tập thứ tư làm lắng dịu toàn thân. Chúng ta cũng đã học cách nhận diện niềm đau, ôm ấp niềm đau qua hơi thở thứ bẩy, và làm lắng dịu niềm đau qua hơi thở thứ tám. Sang bài tập thư chín phương pháp cũng giống như vậy. Lúc đầu là thân, sau đó tới thọ và bây giờ sang lĩnh vực tâm. Tâm ở đây tức là tâm hành, trong đạo Bụt có nói tới 51 tâm hành (buồn, vui, thương, ghét, tuyệt vọng,.v.v..) Tâm ở đây không phải là cái gì trừu tượng nữa mà là cái mình biết rất rõ. Tâm tựa như là một dòng sông trong đó có 51 tâm hành đang tuôn chảy trên dòng sông ấy. Khi vào trường Phật học thì mình phải học thuộc tên của 51 tâm hành đó để khi chúng phát hiện thì mình nhận ra liền và gọi tên chúng: A! Bạn là giận, tôi biết bạn tên là giận. Cũng giống như một sinh viên trường Dược phải thuộc tên của những dược phẩm. Mình cũng phải nhận diện được tâm hành gì đang diễn ra trong mình. Trong 51 tâm hành có những loại tâm hành như tích cực như: Thảnh thơi, thương yêu, bao dung, … Có những loại tâm hành tiêu cực như: giận hờn, ganh tị, thù hận, … Trong bài tập thứ chín, nhiệm vụ của chúng ta là nhận diện và gọi được tên của tâm hành mỗi khi chúng phát khởi. Giống như mình ngồi trên bờ sông tâm hành và quan sát, chỉ nhìn và quan sát vậy thôi chứ mình không bám lấy chúng cũng không xua đuổi chúng dù chúng là tâm hành tích cực hay tâm hành tiêu cực. Nó xấu cũng đừng tìm cách đuổi đi mà nó tốt cũng đừng nắm giữ. Nhận diện tâm đây không còn là một cái gì trừu tượng nữa mà rất là cụ thể. Cảm thọ (cảm giác) cũng là một loại tâm hành nên tâm ở đây còn 50 tâm hành. Niềm vui, nỗi khổ là những cảm thọ. Người tu phải luôn luôn có mặt nhờ sự thực tập hơi thở có chánh niệm. Phải luôn luôn có mặt để khi nào có một tâm hành biểu hiện thì mình phải kịp thời nhận diện không để cho nó tác yêu, tác quái. Như vậy là mình làm chủ được tâm.

Bài tập thứ mười: Làm cho tâm hoan lạc

Ta đang thở vào và làm cho tâm ý ta hoan lạc
Ta đang thở ra và làm cho tâm ý ta hoan lạc

Mục đích của bài thực tập này là làm cho tâm hoan lạc. Mình rất cần năng lượng để tiếp tục thực tập. Cho nên phải nhận diện tâm và làm cho tâm phấn chấn, tươi vui. Bài thực tập này là sự tiếp nối của bài thực tập thứ 5 và thứ 6 nhưng nó đi sâu hơn vào những tâm hành khác. Nó cũng liên hệ tới Tứ Chánh Cần. Trong con người mình có những tâm hành như: tha thứ, bao dung, niềm vui, hạnh phúc, tình thương, chí nguyện độ đời… Tất cả những cái đó rất quý giá. Cho nên chúng ta phải làm như thế nào để những tâm hành đó được phát triển và đi lên. Cũng giống như nhà mình có cái CD nhạc rất hay nhưng mình cứ để bụi bặm bám vào từ năm này qua năm khác mà không đem ra nghe, rất là uổng. Mình vốn có sẵn những tâm hành rất thiện, rất lành được gia đình tổ tiên trao truyền nhưng mình không biết cách xử lý mà cứ để cho những tâm hành buồn giận, lo lắng, sầu khổ trấn ngự. Giống như mình có một cái CD hát những bài nhạc tình sầu đứt ruột nhưng mình cứ nghe đi nghe lại tới nỗi điên cái đầu luôn mà không chịu dừng. Vì vậy vấn đề ở đây là chọn CD. Nếu cái CD nào không thích hợp, không đem lại sự thoải mái cho ta thì ta không nên tiếp tục nghe nó nữa. Nếu cái CD đó không hay thì ta phải thay bằng cái CD mới, cái đó gọi là làm cho tâm mình hoan lạc. Thiếu gì những bản nhạc hay mà cứ phải nhai đi nhai lại những bài hát sầu đời để mặc cho nó kéo tâm mình chìm nghỉm xuống? Một ông thợ mộc thường dùng cái chốt mới để thay thế cho cái chốt cũ đã bị mục. Khi cái chân bàn hay chân ghế bị lung lay ông ta làm một chiếc chốt mới thay vào nơi chiếc chốt cũ, khi ấy chiếc bàn hay chiếc ghế lại trở nên vững chắc. Cái đó gọi là phương pháp thay chốt. Ngày nay nếu cái bàn hay cái ghế bị hư thì thường là người ta mua cái mới chứ không “thay chốt” nữa, vì vậy ngày xưa Bụt gọi là “phương pháp thay chốt”, còn ngày nay chúng ta gọi là “phương pháp thay CD”, hay “phương pháp thay DVD”. Ví dụ khi xem một bộ phim quá tệ mà ta cứ ráng ngồi chịu trận thì thật là dại, tại sao không đi thay bằng một bộ phim khác hay hơn? Cái đó là sự thực tập làm cho tâm hoan lạc. Mỗi chúng ta có bao nhiêu là tâm hành tốt ở trong mình: Vị tha, đại nguyện, đại trí, đại bi, tha thứ, bao dung, niềm vui, tình yêu, hạnh phúc.v.v.. nhưng mình không chịu phát triển nó mà cứ để cho đau khổ, buồn rầu chiếm cứ lấy. Đây chính là nội dung của bài thực tập thứ mười, là người hành giả ta gắng phải thực tập cho được. Một người tu khôn ngoan là một người biết cách làm hạnh phúc cho chính mình và làm hạnh phúc cho người khác. Đức Thế Tôn đã trao truyền cho chúng ta biết bao nhiêu là phương pháp hay, vấn đề là chúng ta có chịu thực tập hay không mà thôi.

Bài tập thứ mười một và mười hai vẫn thuộc về tâm nhưng bốn hơi thở cuối từ hơi thở thứ mười ba cho tới hơi thở thứ mười sáu có liên hệ tới tri giác. Tri giác của mình có thể sai lầm, thấy sợi dây mà tưởng con rắn. Tri giác sai lầm gọi là vọng tưởng. Mình khổ là vì vọng tưởng. Vì vậy mục đích tối hậu của đạo Bụt là đào tận gốc vọng tưởng liệng đi.

Ta đang thở vào và thu  nhiếp tâm ý ta vào định
Ta đang thở ra và thu  nhiếp tâm ý ta vào định

Tâm của mình có thể bị phân tán và thất niệm, khi ấy ta dùng chánh niệm để đưa tâm trở về và đem tâm vào trong định. Khi tâm được tập trung, được gom lại thì tâm trở nên rất hùng tráng, từ đó có thể làm được những việc rất hữu ích. Cũng giống như ánh sáng, ánh sáng truyền đi bằng đường thẳng nhưng khi ta sử dụng thấu kính thì thấu kính đó giúp tập trung ánh sáng vào một điểm duy nhất. Một khi chumg ánh sáng hội tụ tại một điểm thì nó tạo nên một sức nóng rất lớn có thể đốt cháy một tờ giấy. Tương tự như vậy, những si mê, lầm lạc của mình một khi mình có định thì những si mê lầm lạc ấy bị đốt cháy.

Định có nhiều loại định: Định về không, định vô thường, định vô ngã, định tương tức, vô tướng, vô tác,…. biết bao nhiêu là định. Chỉ cần có định thì phiền não sẽ bị đốt cháy. Nhiệm vụ của hơi thở thứ mười một là đưa tâm vào định, đưa tâm vào định thật ra không khó khăn gì mấy, khi định tâm hùng hậu thì nó bắt đầu đốt cháy những phiền não, tháo bỏ những sợi dây trói buộc.

Vô thường là một loại định chứ không phải là một lý thuyết. Ví dụ: Khi mình giận người kia, mình muốn trừng phạt người kia, mình tính nói một câu để người ấy khổ một chút cho vui. Tại vì người kia dám làm cho mình khổ. Hoặc có thể mình đánh người kia một cái để cho người kia khổ, tại vì người kia dám làm cho mình đau khổ. Mình làm như vậy bởi vì trong mình có sự đau khổ giận hờn. Thì bây giờ mình sẽ thực tập một loại định gọi là định vô thường, mình nhắm mắt lại và bắt đầu thực tập:

Thở vào tôi quán chiếu để thấy được sau 300 năm nữa thì tôi sẽ trở thành cái gì?
Thở ra tôi quán chiếu cái người đứng trước mặt tôi sau 300 năm nữa sẽ trở thành cái gì?

Mà định vô thường đâu cần tới 300 năm. Chỉ cần vài chục năm nữa là mình và người kia đã thành tro cả rồi. Thấy thế thì tội gì mà lại đi giận nhau? Mình chỉ có mấy chục năm để chơi với nhau thôi, vậy mà bây giờ hai đứa giận nhau, muốn làm khổ nhau thì đó là chuyện rất là ngu dốt. Và mình chỉ cần cái định đó trong vòng hai giây thôi là cơn giận hờn kia nó tan biến. Khi mở mắt ra mình chỉ muốn ôm người đó vào lòng. Biết em còn sống anh mừng quá đi. Biết con còn sống mẹ mừng quá đi. Biết bố còn sống con mừng quá đi

Bài tập thứ mười hai: Cởi trói cho tâm giải thoát

Ta đang thở vào và cởi mở cho tâm ý ta được giải thoát tự do
Ta đang thở ra và cởi mở cho tâm ý ta được giải thoát tự do

Tâm mình nó bị những sợi dây ràng buộc. Sợi dây sân hận, thù oán, tuyệt vọng làm cho mình đau khổ. Nhờ những cái định đó mà mình đốt cháy, mình tháo gỡ được, cởi trói được cho tâm, đó gọi là tâm giải thoát. Giống với hơi thở thứ chín và thứ mười, hơi thở thứ mười một và mười hai cũng thuộc về tâm hành

Bài tập thứ mười ba: Quán chiếu về vô thường

Ta đang thở vào và quán chiếu về tính vô thường của vạn pháp
Ta đang thở ra và quán chiếu về tính vô thường của vạn pháp

Với hơi thở thứ mười ba mình đi sang lĩnh vực của tri giác. Khi nhìn cây bút mình biết đây là cây bút, đó là một tri giác. Danh từ chuyên môn là Tưởng, Tưởng là một tri giác. Tưởng là một trong năm uẩn: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức –  năm yếu tố tạo nên cơ thể. Chữ Tưởng  trong chữ Hán có chữ tướng ở trên (tướng mạo). Mình nhận diện được cây bút vì nó có tướng mạo của vây bút. Mình nhận diện được bông hoa vì có tướng mạo của bông hoa. Nhờ nó có cái tướng cho nên mình tưởng được và phần dưới là chữ tâm. Cái tâm nhận ra được cái tướng đó nên gọi là tưởng (tri giác). Tri giác của mình có thể là sai lầm. Thấy sợi dây mà tưởng là con rắn. Tri giác sai lầm gọi là vọng tưởng. Mình khổ là vì vọng tưởng. Vì vậy mục đích tối hậu của đạo Bụt là đào gốc vọng tưởng liệng đi hết. Bốn hơi thở cuối có liên hệ tới tri giác. Và tri giác là một trong 51 tâm hành.

Quán chiếu vô thường: Khi nhìn vào hình hài của mình, mình thấy nó là một dòng sông. Mỗi tế bào là một giọt nước. Mình thấy hình hài của mình không phải là một cái bất động mà là một dòng chuyển biến, qua đó mình thấy được tự tính vô thường, thấy được sự chuyển biến của cơ thể. Nhìn vào tập album ta thấy cái hình của mình lúc 5 tuổi khác xa so với bây giờ. Rõ ràng là không có cái gì giống nữa. Về sắc, thọ, tưởng, hành, thức không có cái gì giống hết vậy mà mình vẫn là cái tên đó. Cái tên của mình thì còn mà cả năm cái: sắc, thọ, tưởng, hành, thức đều thay đổi. Vô thường và vô tướng là một phép quán rất mầu nhiệm. Tuy trong lý thuyết là sự vật vô thường, vậy mà mình vẫn cư xử như sự vật mãi là thường. Trên lý thuyết thì mình đều biết là cái người sống với mình đó mai mốt cũng sẽ chết nhưng trên thực tế mình cứ nghĩ người đó cứ sống hoài và mình đối xử tệ với người đó, mình không dễ thương với người đó. Nếu mình biết người đó vô thường thì ngày hôm nay mình có thể làm những điều đem lại hạnh phúc cho người ấy, nếu để đến ngày mai thì quá trễ. Vì vậy cho nên quán chiếu vô thường đem lại rất nhiều hạnh phúc. Mình biết rằng những cái gì mình có thể làm được cho người đó hạnh phúc thì phải làm ngay hôm nay chứ không thể đợi tới ngày mai. Và mình cũng biết rằng những công trình, những dự án mà không có lợi ích, không thiết thực thì mình không theo đuổi nữa. Mình buông bỏ. Hay lắm! Phải thực tế mới được. Vì vậy quán chiếu vô thường đem lại rất nhiều hạnh phúc cho mình và người thương của mình.

Bài tập thứ mười bốn: Quán chiếu vô dục

Ta đang thở vào và quán chiếu về tính không đáng tham cầu và vướng mắc của vạn pháp
Ta đang thở ra và quán chiếu về tính không đáng tham cầu và vướng mắc của vạn pháp

Vô dục có nghĩa là không đáng để cho mình thèm khát. Không đáng để cho mình theo đuổi. Khi quán chiếu còn mình thì như con thiêu thân, mình muốn lao mình vào mà không biết rằng làm như thế thì mình sẽ bị cháy xèo một cái. Cho nên phương pháp quán chiếu để giúp ta thấy được đối tượng của thèm khát kia vốn chứa đựng những hiểm nguy độc hại. Ví dụ con cá thấy một miếng mồi rất là hấp dẫn nó bèn tiến tới đớp một cái, đâu ngờ bị mắc câu? Mà hiện nay người ta bán những mồi câu bằng nhựa trông rất giống thật nhưng không phải là mồi thật. Vì vậy phải nhìn cho kỹ đối tượng mà mình đang theo đuổi. Đó là danh hoặc là lợi hoặc là sắc hoặc là dục. Tất cả đều có những hiểm nguy ở trong, nó không đáng để mình theo đuổi, không đáng để mình hy sinh cuộc đời vì nó. Cái đó gọi là quán chiếu vô dục. Khi quán chiếu vô dục được rồi thì mình có tự do, có thảnh thơi và hạnh phúc. Ví dụ bây giờ có người mời tôi làm bộ trưởng Bộ Giáo Dục hay là làm Thủ Tướng thì tôi thấy rằng làm thầy tu sướng hơn nhiều, làm thầy tu an lạc thảnh thơi, tự dưng làm cái kia làm chi cho cực. Tôi đang hạnh phúc như vậy ai mà dại gì đi vào chỗ đó cho khổ. Tôi không mảy may ham muốn, hoàn toàn lạnh lẽo với chuyện đó, ấy vậy mà hạnh phúc của tôi rất lớn. Bởi vì thấy được những hoạn nạn, tai ương trong những cái đó nên mình không hề muốn dính tới. Đó là kết quả của sự quán chiếu vô dục. Ở trong kinh Samadhi Đức Thế Tôn có dạy rằng

Không biết rõ ái dục
Mới vướng vào ái dục
Tâm ái dục không sinh
Ai quyến rũ được mình

Mình là người tự do. Người tự do thì có hạnh phúc, không có tự do thì không có hạnh phúc. Là một người tu, cái quan trọng nhất chính là tự do.

Bài tập thứ mười lăm: Quán chiếu vô sinh, niết bàn

Ta đang thở vào và quán chiếu về bản chất không sinh diệt của vạn pháp
Ta đang thở ra và quán chiếu về bản chất không sinh diệt của vạn pháp

Đây là một pháp tu rất là mầu nhiệm. Bề mặt thì có tới có đi, có sinh có diệt, có còn có mất. Mà nhìn cho kỹ thì bản chất của vạn hữu là vô sinh bất diệt, không tới không đi, không có không không. Đây chính là đối tượng của Tâm Kinh Bát Nhã mà người tu tụng mỗi ngày. Ví dụ đám mây, bản chất của nó là vô sinh, bất diệt. Đám mây không phải từ không mà trở thành có. Trước khi nó là đám mây thì nó là nước của đại dương nhờ sức nóng của mặt trời mà nước bốc hơi, khi lên cao gặp khí lạnh nó ngưng tụ thành mâu. Sự có mặt của đám mây chỉ là sự tiếp nối của sức nóng và nước thôi. Vì vậy đám mây không phải từ không mà trở thành có, đám mây chẳng qua chỉ là sự nối tiếp, bản chất của nó là vô sinh. Tại vì sinh là gì ? là từ không mà trở thành có. Mà đám mây đâu có thể từ không mà trở thành có được ? Không có cái gì từ không mà trở thành có được hết. Anh cũng vậy, chị cũng vậy và tôi cũng vậy. Mình không tới từ không, cho nên nói từ hư không tới lại trở về hư không là không đúng đâu. Khi đám mây chết, đám mây thì làm sao mà chết được ? Chết tức là từ có mà trở thành không. Làm sao mà đám mây trở thành không được ? Đám mây chỉ có thể trở thành tuyết, trở thành mưa, trở thành sương mù, thành nước đá chứ mây không thể nào trở thành hư vô được. Vì vậy cho nên bản chất của đám mây là vô sinh, vô diệt. Bản chất của Đức Thế Tôn là vô sinh bất diệt. Bản chất của mình cũng vậy là vô sinh bất diệt. Khi thấy được bản chất của mình là vô sinh bất diệt thì mình không sợ hãi nữa mình sẽ đạt được sự vô úy. Không có sự sợ hãi thì hạnh phúc mới thật là toàn hảo. Chừng nào còn sợ chừng đó hạnh phúc chưa toàn vẹn. Ví dụ một đợt sóng đi lên đi xuống, sóng có bắt đầu, có chung kết. Đợt sóng có thể nói mình cao hay mình thấp hơn ngọn sóng khác, mình đẹp hay là mình xấu hơn những ngọn sóng khác. Tất cả những so sánh đó chỉ khiến cho con sóng lao đao, buồn khổ. Nhưng nếu đợt sóng quán chiếu thấy bản chất của mình là vô sinh, nếu nó thấy rằng bản chất của nó là nước, trước khi là sóng nó vốn là nước, trong khi là sóng nó vẫn đang là nước, nếu thấy được như vậy thì dù lên hay xuống, đẹp hay xấu nó cũng vui. Nó thấy được bản chất của nó là nước, mà bản chất của những ngọn sóng khác cũng là nước thì nó sẽ thấy nó đẹp mà những ngọn sóng khác cũng đẹp. Vì vậy khi tiếp xúc được với bản chất của mình, tiếp xúc với tự tính của mình cái đó gọi là vô sinh. Vô sinh có nghĩa là vô dục, có nghĩa là vô khứ – vô lai, phi hữu – phi không…..vô sinh đại diện cho tám cái vô gọi là bát không.

Khi đám mây thấy được tự tính vô sinh bất diệt của mình thì là đám mây nó cũng hạnh phúc mà khi trở thành cơn mưa nó cũng hạnh phúc, trở thành dòng sông cũng hạnh phúc. Mình cũng vậy nếu thương xuyên duy trì sự quán chiếu về vô sinh thì mình không còn sợ chết, không còn sợ sinh nữa. Tại vì sinh diệt chỉ là ý niệm. Thực tập được hơi thở thứ 15 rồi thì hơi thở thứ 16 rất là dễ thực tập.

Bài tập thứ mười sáu: Quán chiếu buông bỏ

Ta đang thở vào và quán chiếu về sự buông bỏ
Ta đang thở ra và quán chiếu về sự buông bỏ

Buông bỏ đây là buông bỏ cái gì ? Đó là buông bỏ những ý niệm, những ý niệm về trước về sau, về trong về ngoài, về sinh về diệt. Ta phải buông bỏ hết tất cả những ý niệm đó. Nếu mình sợ, mình buồn, mình lo là vì có những ý niệm. Khi tiếp xúc được với bản chất vô sinh rồi thì mình có thể buông bỏ được tất cả. Ví dụ mình có một ý niệm về thời gian. Thời gian là một dòng trôi chảy liên tục nhưng vì mình có một ý niệm về thời gian cho nên mình mới chọn một điểm trong thời gian đó làm điểm sinh của mình. Và tại vì mình đã sinh ra rồi cho nên mình phải chết đi. Cho nên phải có một điểm nào đó gọi là tử. Rồi từ hai ý niệm sinh – tử, mình có ý niệm thọ mạng (kiếp). Mình có thể thọ 20 năm hay 100 năm. Từ đó mình nghĩ rằng trước khi sinh ra thì mình không có, mình chỉ có từ khi được sinh ra và mình sẽ chấm dứt khi mình chết, nghĩa là mình từ không mà trở thành có, rồi từ có lại trở thành không, thế nên mới có ý niệm : có – không ; trước – sau ; sinh – tử làm cho mình điên đầu. Vì vậy, buông bỏ ở đây là buông bỏ tất cả những ý niệm đó. Buông bỏ được thì mình trở thành một con người tự do, một người hạnh phúc, không còn sợ hãi nữa. Đó là hạnh phúc của một Đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn đã dạy rằng hễ là con người thì ai cũng có thể đạt được tới cái đó hết.

Đây là cốt lõi của sự sống. Mình cần phải học hỏi thêm và phải đem áp dụng cho được vào đời sống hằng ngày thì cái hiểu của mình mới càng ngày càng sáng rõ.

Chánh kiến nền tảng của đạo đức

Dừng lại và buông thư

Thiền – Dhyana – Có hàm chứa nghĩa: dừng lại và làm cho buông thư. Sự dừng lại và buông thư được gọi là thiền chỉ. Trong sự thực tập, nếu chưa có khả năng dừng lại và buông thư, mình không thể đi xa hơn. Bởi không thành công thiền chỉ, khó có thể nhìn sâu, thấy rõ bản chất của các hiện tượng – Thiền quán.

Mỗi người đều sẵn có hạt giống rong ruổi, tìm kiếm, chúng ta không thể ở yên được, hạt giống này chúng ta được tiếp nhận từ tổ tiên. Sở dĩ, mình không dừng lại được, bởi vì mình thiếu buông thư. Không buông thư được, những căng thẳng trong cơ thể bị dồn nén và yếu tố trầm tĩnh của đời sống mất đi. Nếu thực tập vững vàng phương pháp thở và đi trong chánh niệm, mình sẽ dừng được sự chạy đua. Lúc ấy, sự buông thư và niềm an lạc sẽ lập tức có mặt.

Ngồi thiền là cơ hội để thực tập dừng lại hoàn toàn. Trong khi ngồi, chúng ta sử dụng hơi thở có ý thức để hỗ trợ cho việc dừng lại ấy. Dừng lại được là bắt đầu có chủ quyền đối với thân và tâm của chính mình. Ngồi thiền trước hết là dừng lại và buông thư. Nếu trong khi ngồi mà phải đấu tranh, phải gồng mình, và xem việc ngồi thiền như một lao tác mệt nhọc thì đó chưa phải là cách ngồi thiền đúng. Khi ngồi, tư thế phải thật thoải mái, lưng thẳng nhưng buông thư, và khởi sự thực tập theo kinh quán niệm hơi thở. Thở vào, tôi ý thức về toàn thân của tôi, thở ra, tôi buông thư toàn thân. Và mình đem cái tâm đi vào cái thân. Cái tâm của mình chỗ nào cũng có cái thân hết, tức là tâm đầy trong thân. Giống như việc mình ngâm đậu xanh với nước ấm vậy, đậu xanh được ngâm trong nước ấm một hồi, nước sẽ thấm vào trong hạt đậu, hạt đậu sẽ nở ra gấp ba bốn lần ban đầu. Sở dĩ, cái thân khô héo là bởi vì cái tâm không thấm vào trong thân được. Nếu muốn cái thân được tươi mát, được thấm nhuận thì cần phải để cho tâm đi vào trong thân. Lúc ấy, thân của mình không còn là một xác chết nữa.  Thân của mình sẽ trở thành một thực thể linh động, vì tâm được thấm vào trong từng cái tế bào. Tức là cái thân đầy cả cái tâm. Trong khi ngồi thiền, thiền hành… mình làm như thế nào để thân của mình đầy tâm mà tâm của mình cũng đầy thân. Khi thân và tâm hợp lại với nhau, mình thật sự có được những giây phút sống sâu sắc. Thiền là một phương pháp thực tập, và nếu thực tập đúng mình sẽ có hành phúc liền. Hạnh phúc này bắt đầu từ sự dừng lại và buông thư. Không có sự dừng lại và buông thư, thì không thể nào có hạnh phúc được. Hạnh phúc này được gọi là thiền duyệt. Thiền duyệt tức là niềm vui trong sự thực tập thiền. Và người tu phải lấy niềm an lạc mà thiền tập đem lại làm thực phẩm hàng ngày (Thiền duyệt vi thực). Trong nghi thức cúng ngọ có câu: “Nhược phạn thực thời, đương nguyện chúng sanh, thiền duyệt vi thực, pháp hỷ sung mãn”. Khi ăn cơm, khi cúng ngọ ngày nào mình cũng nguyện cho tất cả chúng sanh đều hưởng được “thiền duyệt”, và niềm vui ấy đầy tràn: “pháp hỷ sung mãn”, nhưng chính mình đâu có chịu làm. Mình đã để cho chính mình bị đói và những người bạn đến với mình cũng bị đói. Những người bạn tin tưởng vào mình, trông cậy vào mình, nhất là khi mình là một vị giáo thọ, nhưng mình quên mất vai trò của chính mình. Đôi khi mình bỏ đói đại chúng, bỏ đói các bạn đến với mình. Nếu mình bắt đầu dừng lại và buông thư được, tức khắc mình sẽ có được hỷ lạc. Khi có được hỷ lạc, mình mới khởi sự quán chiếu vào lòng sự vật để thấy được bản chất của sự vật.

Mình có thể thực tập theo những hướng dẫn của đức Thế Tôn để dừng lại. Thở vào, con ý thức về hình hài của con. Thở ra, con ý thức về toàn thể hình hài con. Lúc đó, cái tâm đi vào cái thân và cái thân đi vào cái tâm. Tiếp tục thực tập như vậy, mình để cho tâm dần thấm vào trong thân. Mình có thân đầy trong tâm và tâm cũng đầy trong thân. Kế tiếp, mình buông thư thân thể, tâm hồn dựa vào hơi thở có ý thức. Thở vào, con buông thư thân thể con, tâm hồn con. Thở ra, con tiếp tục để cho tâm hồn con, thân thể con được buông thư. Hãy cho ra ngoài hết tất cả những dồn nén, những căng thẳng. Sự buông thư này sẽ mang lại sự trị liệu. Do vậy, khi đề cập đến khổ hay gọi tên những nỗi khổ, mình đừng quên đề cập đến những căng thẳng trong thân thể và tâm hồn. Bởi nó đích thực là một nỗi khổ và rất quan trọng, cần được chúng ta quan tâm đến. Chúng ta đừng nói đến đói, đến nghèo, hãy nói đến sự căng thẳng trước tiên.

Niệm là giới

Khi thực tập thiền hành phải thực tập như thế nào để dừng lại được trong khi đi. Đi như là đi chơi trong Tịnh Độ mà không đi như bị ma đuổi, buông thư được trên từng bước chân. Đường dài, em bước như dạo chơi. Đường càng dài càng hay, vì mình có thể dạo chơi càng nhiều. Mặc dù chưa là giáo thọ nhưng mình cũng không được bỏ đói các bạn thiền sinh đến với mình, mình có bổn phận phải giúp họ. Vì mỗi ngày, mình được hưởng thức ăn của thiền tập, và khi có ai đến, mình phải hỏi: Các anh, các chị có đói không? Thực phẩm đây! Tức là phương pháp giúp họ biết thở, biết đi, biết cười. Do vậy, khi ngồi thiền, cho dù nửa giờ hay bốn mươi lăm phút, cũng phải biết tận dụng khoảng thời gian ấy để nắm lấy chủ quyền, phải để cho thân tâm được buông thư, nghỉ ngơi. Nếu không làm được như vậy thì mình đã phung phí một cách oan uổng nguồn thời gian quý báu của chính mình.

Ở ngoài đời, người ta có thể có nhiều tiền, nhiều bạc, nhưng có thời gian để được ngồi yên thì rất hiếm. Được ngồi yên là một cơ hội để nuôi dưỡng và trị liệu thân tâm. Nếu thực tập thiền chỉ giỏi, tất nhiên mình sẽ có niệm và định. Niệm tức là sự chú tâm, biết rõ cái gì đang xảy ra. Ví dụ, khi theo dõi hơi thở, thở vào mình biết rõ đây là hơi thở vào, thở ra mình biết rõ đây là hơi thở ra. Đó gọi là chánh niệm về hơi thở. Khi đang đi, mình biết mình đang đi, mà không để cho đầu óc trôi dạt ở một phương nào. Đó gọi là niệm bước chân. Còn khi uống trà, mình biết là mình uống trà thì gọi là niệm uống trà. Khi chải răng, mình biết là mình chải răng, chải cho có hạnh phúc, chải cho buông thư thì gọi là niệm chải răng. Khi mình đi tiểu, đi cầu cũng vậy. Mọi lúc mọi nơi đều là cơ hội cho mình thực tập chánh niệm. Chánh niệm là phép tu căn bản, và nó cũng là nền tảng đạo đức của Phật giáo.

Trong đạo Bụt có đề cập tới ba phép thực tập để đưa tới giải thoát: Giới – Định – Tuệ đó là tam vô lậu học. Thực tập giới đưa tới định lực. Khi giới và định hùng hậu, mình có khả năng chọc thủng được màng vô mình, và tiếp xúc được với thực tại, tức là có tuệ giác. Mà có tuệ giác là có sự giải thoát. Thông thường, giới được hiểu như là đạo đức, nhưng tại Làng Mai hiểu giới như là sự thực tập chánh niệm. Do vậy, theo truyền thống Làng Mai, Giới – Định – Tuệ  còn được gọi là Niệm – Định – Tuệ. Cách đây bốn chục năm, tôi đã đã khám phá ra điều này: Giới tức là Niệm. Tại vì niệm có nghĩa là ý thức được những gì đang xảy ra trong mình và xung quanh mình.  Ví dụ, khi có sự căng thẳng và mình biết rằng, mình đang có sự căng thẳng. Thở vào, tôi ý thức được sự căng thẳng trong thân tâm tôi. Thở ra, tôi buông bỏ sự căng thẳng trong thân tâm tôi. Trước hết, mình nhận diện được sự căng thẳng đang có mặt, và sự căng thẳng là một nỗi khổ. Nếu có niệm lực hùng hậu, định sẽ xuất hiện. Khi để hết tâm ý vào sự căng thẳng tức là khổ đế thì mình sẽ tìm ra được nguyên nhân dẫn đến sự căng thẳng (tập đế), đó là cách sống hấp tấp, vụt chạc, dồn nén, mà không chịu buông thư trong đời sống hằng ngày. Rõ ràng, niệm giúp mình nhận diện ra cái khổ, và giúp mình thấy được gốc rễ của cái khổ. Niệm đi cùng định tìm đến với tuệ. Tuệ tức là thấy được cái nguyên nhân dẫn đến sự căng thẳng. Khi biết được nguyên nhân của sự căng thẳng, mình sẽ thực tập và lấy được những căng thẳng ra khỏi thân tâm, tức là diệt đế. Phương pháp buông thư, phương pháp thực tập để chuyển hóa tận gốc những căng thẳng chính là đạo đế. Vì vậy, niệm là cái đầu dây mối nhợ. Nhờ có niệm mà có định, nhờ có định mà có tuệ. Nhờ niệm định tuệ, ta thấy được chân tướng của bốn sự thật.

Trong văn học Phật giáo, chữ học có nghĩa là thực tập, tam học là ba sự thực tập. Khi người còn cần phải thực tập thì gọi là hữu học. Người đã thực tập thành công rồi, không còn phải học nữa gọi là vô học. Vô học không có nghĩa là vô giáo dục. Chữ vô học trong Phật giáo là địa vị rất cao. Các bậc vô học cao hơn các bậc hữu học nhiều. Khi nói tôi là một người hữu học có nghĩa tôi là người đang còn thực tập. Bạn là một người vô học có nghĩa bạn đã thực tập thành công rồi. Chữ học ở trong đạo Phật có nghĩa là thực tập. Mình thực tập niệm tức là mình thực tập giới. Vì vậy, mình cần biết rằng, nền tảng của đạo đức Phật giáo là chánh niệm. Đầu dây mối nhợ bắt đầu từ chánh niệm. Có chánh niệm, mình biết, mình cần làm gì, và không nên làm gì. Giới cũng có nghĩa là đạo đức. Đạo đức là những quy tắc, những tuệ giác giúp mình biết được nên làm gì và không nên làm gì để tránh khổ đau và mang lại hạnh phúc cho mình và cho người.

Dành cho tất cả mọi người

Trong quá khứ, có thể nhiều vị thầy đã thấy được giới tức là niệm. Nhưng có lẽ tôi là người đầu tiên nói ra điều đó. Chúng ta biết, nếu niệm hùng hậu sẽ mang theo định. Nếu niệm, định hùng hậu ắt sinh tuệ. Trong phạm vi đạo đức học, tuệ tức là cái thấy. Như ví dụ về sự căng thẳng vừa xét trên, mình thấy được sự căng thẳng đang diễn ra trong thân tâm mình, mình cũng biết rằng mình có thể buông thư và có những phương pháp cụ thể để đạt tới sự buông thư, chấm dứt căng thẳng. Cái thấy này gọi là tuệ. Tuệ rất quan trọng, bởi không có tuệ, mình chẳng biết đường đâu mà thực tập. Tuệ tức là chánh kiến.  Khi có chánh kiến, mình sẽ có chánh tư duy, và hẳn nhiên là sẽ nói năng đúng phép. Khi có chánh kiến, mình sẽ hành động đúng, tức là chánh nghiệp. Và khi có chánh kiến, mình sẽ biết tìm nghề nghiệp mà không gây khổ đau, không tàn hại sinh môi, không gây tác hại cho những sự sống khác đó là chánh mạng. Tư duy, ngôn ngữ, hành động và nghề nghiệp đúng, không gây khổ đau cho mình và cho người khác là nhờ có tuệ hay chánh kiến. Sự siêng năng trong các hoạt động để phục vụ cho hạnh phúc của người và của mình gọi là chánh tinh tấn. Tinh tấn có khi còn được gọi là cần. Bát chánh đạo là con đường của tám sự hành trì chân chính có thể được coi như nền tảng của nền đạo đức phật giáo. 

Nhìn tổng quan, ta thấy rằng, nền đạo đức phật giáo, giáo lý bát chánh đạo không phải chỉ dành riêng cho những vị tu sĩ. Giáo lý bát chánh đạo dành cho tất cả mọi người trong xã hội. Bởi khi sống trong xã hội, mình phải tiếp xúc với mọi người và mọi loài. Do vậy, hành động, ngôn ngữ của mình đừng gây đổ vỡ, khó khăn cho người khác, cho các loài khác. Bát chánh đạo là căn bản của một nền đạo đức, được áp dụng trong xã hội chứ không chỉ áp dụng riêng trong chùa hay trong các tu viện. Rõ ràng, đạo phật có tính cách nhập thế. Cho nên chúng ta khả quyết xác định rằng, bát chánh đạo là nền tảng của nền đạo đức cho toàn xã hội. Đạo phật nhập thế, đạo phật đi vào đời có cơ sở ngay từ giáo lý bát chánh đạo. 

Bất nhị

Sự quán chiếu trong đạo Bụt phải dùng đến năng lượng niệm và định. Đối tượng của niệm và định trước hết là những đau khổ, những khó khăn trong đời sống. Đạo phật không chủ trương về những vấn đề siêu hình như sự quán sát trăng sao, vũ trụ, nguồn gốc của thế giới này,… Đạo Bụt đưa con người trở về với vấn đề của hiện tại, vấn đề của những khổ đau, những khó khăn đang tồn tại trong cuộc sống, và giúp đưa ra phương pháp chuyển hóa những khổ đau và khó khăn ấy để mọi loài có thể sống hạnh phúc. Vậy nên nền đạo đức phật giáo có tính cách thực dụng. Nếu quay trở về quán chiếu sự thật về khổ, mình sẽ khám phá ra được khổ đau và hạnh phúc đều có gốc rễ. Tập là gốc rễ của khổ và Đạo là gốc rễ của hạnh phúc. Qua đó có thể thấy thấy được bốn sự thật nương vào nhau mà có, bốn sự thật tương tức không thể tách rời nhau. Do đó, tuệ giác là nền tảng của đạo đức phật giáo. Nhưng làm sao để có tuệ? Cần phải có niệm và định. Có tuệ thì tư duy đúng, nói năng đúng, hành động đúng, phương thức sống đúng, tinh tấn đúng. Một khi đã có tuệ thì không còn khổ đau nữa. Do đó, bát chánh đạo bắt đầu bằng chánh kiến – Chánh kiến là cái thấy đúng. Cái thấy đúng tức là cái thấy tương tức. Nếu đạt được cái thấy tương tức thì sự thực tập bảy chi phần còn lại của bát chánh đạo mới sâu sắc được. Ví dụ, khi nhìn cây bắp, mình thấy được hạt bắp, cây bắp và hạt bắp không ở ngoài nhau, chúng trong nhau.

Trong khóa tu tổ chức đầu năm 2008 tại Ý, tôi có phát cho mỗi thiền sinh một hạt bắp. Tôi yêu cầu họ đem hạt bắp về trồng trong chậu, chăm sóc cho đàng hoàng. Khi cây bắp nẩy mầm, ra lá thì đến nói chuyện với nó, hỏi nó như thế này: "Cây bắp ơi, em có nhớ rằng, ngày xưa em đã từng là hạt bắp không?" Hỏi xong, hãy lắng nghe cây bắp trả lời. Giả sử cây bắp quên đi mất thì phải nhắc lại cho nó nhớ. Cũng có thể cây bắp lúng túng: “Tôi hả? Tôi đã từng làm hạt bắp hả? Lạ quá tôi không nhớ chuyện đó”. Nếu nó quên, mình cần nhắc cho nó nhớ: Mình là người đã trồng ra nó. Mình đã mang nó từ khóa tu về. Mình đã chăm sóc nó, quan sát nó từ khi nó nẩy mầm, ra lá đầu, lá thứ hai, lá thứ ba… Đôi khi, mình cũng giống như cây bắp, khi giận cha, giận mẹ, mình quên mất mình được sinh ra như thế nào, lớn lên như thế nào. Mình nghĩ, cha mẹ là những thực thể ngoài mình. Mình không còn nhớ cha mẹ là người đã từng sinh ra mình, và mình đang mang cha mẹ trong người. Mình đâu biết, mình bước được một bước, nở được nụ cười là cha mẹ mình cũng được hưởng những điều ấy. Nếu thấy được như vậy thì mình không thể nào giận cha mẹ được. Đối với người Hồi giáo và Ấn Độ giáo hay giữa người Palestine và người Do Thái, nếu thấy được tính tương tức, họ sẽ không còn chống đối nhau, kỳ thị nhau nữa. Tất cả chúng ta cùng một tổ tiên, cho dù chúng ta mang màu da khác nhau. Nếu thấy được rằng, chúng ta có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, chúng ta sẽ không còn làm khổ nhau nữa. Tương tức là cái thấy căn bản do đức Thế Tôn khám phá ra.

Các nhà khoa học đặt ra câu hỏi: bộ não của mình và tâm thức của mình có dính líu với nhau không? Có phải tâm thức là do não bộ sanh ra không? Bộ óc và tâm thức là hai cái hay là một cái? Có cái chủ thể nhận thức nằm ở trong bộ não không? Có một thế giới được nhận thức ở bên ngoài không? Cái tâm thức chủ quan và cái thế giới khách quan có liên quan với nhau không? Đây là những mối quan tâm nhất hiện nay của các nhà khoa học. Nhưng ba mươi mấy năm nay, phần lớn giới khoa học chủ trương theo đường hướng nhị nguyên. Còn đạo phật quan niệm rằng, tâm thức và pháp – đối tượng của tâm thức – ở trong nhau. Thân ở trong tâm và tâm ở trong thân. Thân và tâm không thể ở ngoài nhau. Đó là cái nhìn tương tức, bất nhị. Theo cái nhìn bất nhị, não bộ với tâm ý chứa đựng nhau, trong não bộ có tâm ý, trong tâm ý có não bộ. Trong cây bắp có hạt bắp, trong hạt bắp có cây bắp. Con có cha có mẹ, cha mẹ có trong con.

Một trong những phép tu của Đạo Bụt là phép quán: quán vô thường, quán vô ngã, quán duyên sinh, quán không, quán tương tức. Nhưng chúng ta phải thấy được các phép quán này có tính tương tức. Nếu mình thực tập thành công một phép quán thì mình có thể hiểu được những phép quán khác. Ví dụ, đứng về phương diện thời gian, cái chuông này vô thường, nhưng đứng về phương diện không gian, cái chuông này vô ngã. Cái chuông không có một thực thể riêng biệt. Nó được tạo thành từ rất nhiều yếu tố. Và nó biến chuyển không ngừng theo thời gian. Do vậy, vô thường là vô ngã. Hơn nữa, tất cả các hiện tượng đều do nhân duyên mà thành, mà biểu hiện, nên vô ngã cũng chính là duyên sinh. Từ đóa hoa, chiếc bàn, vì sao… đều do những điều kiện hội tụ mà thành. Mọi hiện tượng do duyên sinh, mọi hiện tượng đều vô ngã, vô thường. Vô thường tức vô ngã, vô ngã tức duyên sinh. Duyên sinh tức không. Không tức là không có mặt riêng biệt. Hạt bắp làm sao có mặt riêng biệt với cây bắp được. Cây bắp làm sao có mặt riêng biệt với hạt bắp được. Cha làm sao có mặt riêng biệt với con được. Con làm sao có mặt ngoài cha được. Mình cần thấy được tính tương tức giữa các sự vật, hiện tượng. Về mặt hình thức, về bề mặt, đôi lúc, mình dường như thấy có những cái chống đối nhau, nhưng sự thực chúng không chống đối nhau, chúng tương tức với nhau. Nếu mình quán chiếu tứ đế dưới ánh sáng của chánh niệm, mình sẽ thấy được, có khổ cho nên mới có vui, có vui cho nên mới có khổ, khổ và vui tương tức. Và cái thấy này cũng đúng với tất cả các hiện tượng hiện hữu trong vũ trụ.

Như đã nói ở trên, mọi sự vật hiện tượng đều có tính vô thường, vô ngã, tương tức, không. Nhưng nếu dùng chữ không, nhiều người sẽ hiểu lầm là đạo Phật chủ trương đoạn diệt, bi quan. Trong đạo Bụt, có nhiều phép quán, mình có thể đem niệm, đem định chuyên chú về một phép quán. Nếu mình thành tựu được định đó thì mình sẽ có tuệ. Định này có thể là định vô thường, định vô ngã, định duyên sinh, định không hay định tương tức. Khi có tuệ, mình sẽ có được nền tảng đạo đức không sai lạc. Lúc này, mình không còn bị kéo theo những cái thấy tà kiến. Tà kiến là những cái thấy đi ngược lại với tính không, vô thường, vô ngã, duyên sinh, tương tức. Nếu lấy tà kiến làm nền tảng thì tư duy sẽ sai lầm, ngôn ngữ sẽ sai lầm, hành động sẽ sai lầm, gây khổ đau cho mình và cho người khác. Ở đây, mình xác quyết, chánh kiến là nền tảng của nền đạo đức chân chính. Nhưng chánh kiến này từ đâu đến? Nó đến từ công phu quán chiếu. Nó không đến từ một đấng thượng đế. Chúng ta phải dùng niệm, định khảo sát tứ đế, và đạt tới cái thấy về không, về tương tức, vô thường, vô ngã, duyên sinh, tương tức. Đây là cái thấy bất nhị. Chư tổ có dạy, chánh kiến chính là tuệ, trước hết là cái thấy về bốn sự thật. Nếu thấy được bốn sự thật trong chân tướng của nó thì sẽ thấy được bản chất của toàn bộ vũ trụ.

Cái thấy của tôn giáo

Triết gia Aristotle có để lại thuyết Natural law (luật tự nhiên). Thuyết này ra đời nhiều trăm năm trước Chúa giáng sinh. Thuyết này đã được một người đệ tử của Aristotle là Platome ghi chép lại. Aristotle nói, mình phải đặt câu hỏi về bản chất và công dụng của sự thật đang hiện hữu trong vũ trụ này. Cần hỏi rằng, cái này là cái gì? Cái này làm bằng gì? Nó được làm ra như thế nào? Dùng vào việc gì? Ví dụ, ta cầm con dao lên hỏi, cái này là cái gì? Con dao. Làm bằng gì? Sắt. Cái này do đâu mà có? Do ông thợ rèn. Dùng để làm gì? Cắt, gọt. Aristotle thấy sự xuất hiện của tất cả mọi vật, mọi hiện tượng trong vũ trụ đều lý do tồn tại và mục đích, chứ không phải là sự tình cờ. Còn khoa học thì tin vào sự tình cờ, vào sự chọn lọc tự nhiên. Nhưng có một điều rất thú vị, khi Aristotle được hỏi, vi trùng vì sao mà có, lý do tồn tại của nó, mục đích của bệnh tật là gì thì ông ta hơi bỡ ngỡ, hơi lúng túng. Hoặc những trận bão, những trận hỏa hoạn có lợi ích và công dụng gì? Thật là khó hiểu, khó trả lời. Mình loanh quanh, lẩn quẩn, và mình cho rằng, đó là những hình phạt của Thượng Đế đối với những con người sống không đàng hoàng. Rõ ràng thuyết tự nhiên có những khó khăn. Còn Cơ Đốc giáo và Do Thái giáo nói rằng, chính Thượng Đế đã tạo ra thế giới này. Và Thượng Đế đã đặt vào trong lòng sự vật những luật lệ, và khi nhìn vào sự vật thì mình thấy được những ý định của thiên chúa. Do Thái giáo và Cơ Đốc giáo dạy rằng, vũ trụ đã được một Thượng Đế toàn năng và đầy thương yêu tạo ra để làm chỗ ở cho con người. Con người được tạo ra từ thượng đế. Sự có mặt của vũ trụ này có ý nghĩa và có mục đích.  Và vũ trụ này là nơi để thực hiện các chương trình và mục đích của thượng đế. Đó là cái nhìn theo Do Thái giáo và cơ đốc giáo.

Căn cứ trên cái thấy đó, một nền đạo đức mà trong đó có mệnh lệnh của Thượng Đế được thành lập. Thượng đế nói rằng, cái này là đúng, cái này là sai; không được làm cái này, không được làm cái kia; phải làm cái này, phải làm cái kia. Vì vậy, đạo đức học của Cơ Đốc giáo và Do Thái giáo căn cứ vào mệnh lệnh của đấng thượng đế. Và mười giới gọi là Ten Commencement of God đã xuất hiện trong đạo Cơ Đốc và Do Thái.  Trong khi đó, năm giới của đạo Bụt không xuất phát từ phán quyết của Bụt mà xuất phát từ nhận thức của Bụt và tăng đoàn. Nhận thức này do sự thực tập mà có. Ý thức được rằng, những cái khổ đau do sát hại ngây ra  đó chính là niệm. Ý thức được chính những tà kiến, chính từ cái nhìn lưỡng nguyên, từ sự kỳ thị, lo lắng, giận hờn, sợ hãi mà đưa tới sự giết hại lẫn nhau. Con nguyện thực tập giới thứ nhất là buông bỏ tà kiến. Đi theo chánh kiến, tập nhìn bằng cái nhìn bất nhị, tương tức, để con có thể bảo hộ được sự sống của mọi người và mọi loài.

Chúng ta thấy, trong mười bốn giới tiếp hiện có những giới liên hệ tới tuệ tức là chánh kiến. Giới thứ nhất là không lạc vào tà kiến, không nắm giữ tà kiến, không bị kẹt vào cái thấy, và phải sẵn sàng buông bỏ cái thấy. Cho nên có những ý trong các giới tiếp hiện có thể bổ túc cho năm giới. Khi nói về giới thứ nhất là bảo hộ sinh mạng, không sát sanh, chúng nói rằng: ý thức những khổ đau do sự sát hại gây ra – đó là niệm.  Khổ đau là sự thật thứ nhất –khổ đế. Giết hại sinh mạng là nguồn gốc của khổ đau tức là sự thật thứ hai –tập đế.  Nhưng trong ánh sáng của bát chánh đạo thì nguồn gốc khổ đau không phải chỉ là giết hại, sự giết hại đó là do mình không có chánh kiến. Mình không thấy được, người đó là anh em của mình, là chính mình. Do vậy, giới thứ nhất của năm giới cần được tu chỉnh lại để người hành trì thấy rõ rằng, khi người ta giết là vì người ta có tà kiến.  Cũng như các giới khác của năm giới để năm giới có thể trở thành một đóng góp của đạo Bụt.

Ở Bombay vừa có một loạt thảm sát, gây chết và bị thương hàng mấy trăm người. Khổ đau rất lớn là khủng bố và giết hại gây ra. Sự giết hại đó đã tới từ những cái thấy sai lạc. Đôi khi mình tưởng người ta sắp giết mình, nhưng thực tế có thể người ta không có ý định giết mình, mình sợ nên ra tay giết người ta trước cho chắc ăn. Sự sợ hãi nằm ở mặt sau của sự giết hại. Mặt sau của giết hại cũng có thể có sự kỳ thị – kỳ thị tôn giáo, kỳ thị chủng tộc. Mặt sau của sự giết hại cũng có thể là tham lam. Nhưng tựu trung lại, nguyên nhân của sự giết hại đến từ tà kiến. Bụt đã dùng quán niệm để chế giới nhằm mục đích đối trị với những khổ đau đó. Do đó, giới tức là niệm, từ niệm mà sinh ra. Niệm sinh ra một nền đạo đức. Và nhờ có niệm, có định mà sinh ra tuệ – chánh kiến. Chánh kiến làm nền tảng trở lại cho sự hành trì, cho những hành động của chúng ta.

Những đóng góp của Đạo Bụt cho nền đạo đức toàn cầu

Đạo đức học là một môn học cần tới tư duy, lý tính. Đạo đức học có mục đích tìm ra cái gì là cái cần làm, cái gì là cái không nên làm, không được làm. “What is the right thing to do?”. Khi nói đến đạo đức học tiêu chuẩn “normative ethic”. Thì chúng ta phải nói tới tiêu chuẩn khổ – vui. Những cái gì đem lại cái khổ thì chúng ta không nên làm. Những cái gì đem lại cái vui thì ta có thể làm. Đó là một trong những tiêu chuẩn. Nhưng tiêu chuẩn đó không tuyệt đối.

Sinh diệt nương nhau

Một hôm đi thiền hành xuống chùa Sơn Hạ, Thầy đã tiếp xúc sâu sắc với những chiếc lá sồi trên đường đi. Những chiếc lá sồi đó đã rụng xuống từ hai tháng nay và bắt đầu mục ra thành đất. Nếu để ý  một chút thì sẽ thấy rằng trong một thời gian ngắn nữa tất cả những lá sồi đó sẽ trở thành đất. Khi nó đã trở thành đất rồi thì mình không còn thấy lá sồi nữa, mà chỉ thấy đất thôi. Nếu có con mắt quán chiếu ta có thể thấy được trong đất có lá sồi. Nhìn cho kỹ sẽ thấy đất ôm ấp rất nhiều thứ, đất không chỉ có lá sồi mà còn có xương, có da, có thịt của những loài động vật khác nữa. Khi lá sồi rơi xuống, nó không buồn đau vì nó biết rằng nó sẽ trở về lại với đất. Người Việt mình có câu: “Lá rụng về cội”. Cội tức là cái gốc cây. Nên lá sồi rụng xuống là nó đi về cội nguồn của nó, nó là cuộc trở về. Mình có thể nói cội nguồn của nó là đất và nó sẽ hoà nhập thành đất, trở thành những chất dinh dưỡng nuôi lại cây sồi để rồi mùa xuân sang năm, cây sồi sẽ cho ra đời những lá sồi mới. Nhìn vào những lá sồi mới mình thấy sự tiếp nối của những lá sồi cũ từ lòng đất đi lên. Đối với những người biết quán chiếu, khi nhìn vào một cái có thể thấy được nhiều cái. Nhìn vào lòng đất mình có thể thấy được những lá sồi, nhìn vào những lá sồi mới mình thấy được đất và lá sồi năm xưa. Không có gì mất đi hết. Cái này ôm lấy cái kia, chúng tương tức với nhau, cái này cũng là cái kia. Đất là đất, lá sồi là lá sồi. Nhưng mà đất cũng là lá sồi và lá sồi cũng là đất. Khi nhìn vào bản thân, mình thấy mình là con của bố mẹ. Nhưng mình cũng chính là bố mẹ. Tại vì bố mẹ và tất cả tổ tiên cũng ở trong mình. Mình không thể lấy bố mẹ, tổ tiên ra khỏi mình được, không thể tách rời được. Đi đâu đứa con cũng mang cha mẹ tổ tiên đi theo. Vì vậy cho nên bố mẹ cho mình sự sống, nhưng kỳ thực bố mẹ đã trao bản thân của bố mẹ cho mình. Người cho, người nhận và vật được cho chỉ là một. Cái này ôm lấy cái kia. Không có cái này thì không có cái kia. Một người không có con thì không ai gọi người đó là mẹ được. Người đó chỉ có thể là mẹ khi người ấy có con thôi. Cho nên có con thì mới có mẹ và có mẹ thì chắc chắn phải có con. Nếu mình nghĩ con là con, mẹ là mẹ thì không đúng. Con và mẹ tương tức với nhau.

Ta tưởng rằng cái trái đối chọi với cái phải như mặt trăng với mặt trời. Nhưng nhìn cho kỹ thì cái này ôm lấy cái kia, chỗ nào có trái thì chỗ đó có phải, và ngược lại chỗ nào có phải thì chỗ đó có trái. Ta tưởng rằng trái và phải đối lập nhau nhưng thật ra chúng nương vào nhau mà có. Và mình đi đến kết luận là giữa cái sống và cái chết cũng như vậy. Cái sống và cái chết liên hệ tới nhau mật thiết. Cái sống ôm lấy cái chết. Nhìn trong cái sống thì thấy cái chết. Và nhìn trong cái chết thì thấy cái sống. Vì vậy cho nên nhìn cái chết cho sâu thì thấy rõ ràng  nếu không có nó thì không có sự sống. Cũng như khi nhìn vào hồ sen ta thấy cả bùn lẫn sen. Trong bùn có sen và trong sen có bùn. Không có bùn thì không có sen và không có sen thì không có bùn. Nên khi thấy bùn thì đừng sợ mà hãy biết rằng bùn này có thể trở thành sen.

Cái chết và cái sống tưởng chừng chống đối nhau, là kẻ thù của nhau. Nhưng kỳ thực trong tuệ giác của đạo Bụt, cái sống và cái chết tương tức với nhau, nó dựa vào nhau để làm ra nhau. Không có cái chết thì không bao giờ có cái sống. Và không thể có cái sống nếu không có cái chết. Biết được điều đó chúng ta sẽ không có sợ hãi nữa.

Khi quán chiếu chiếc lá sồi rơi xuống, rồi lá sồi sinh trở lại trên cây, cũng như quán chiếu sự có mặt của bố mẹ ở trong mình và mình thấy rằng mình chính là bố mẹ thì tất cả những cái thấy sai lầm, những tà kiến không còn nữa. Và chánh kiến mà mình đạt được làm cho mình không còn buồn đau, không còn tủi hận, không còn giận hờn, không còn sợ hãi nữa. Nếu trân quý sự sống thì mình biết rằng sự chết là một phần của sự sống, nó là một nguyên tố để làm ra sự sống. Giống như cánh hoa phải chết đi để cho quả lớn lên. Cái vỏ cứng phải vỡ ra thì hạt mới này mầm. Chúng ta biết rằng trong cơ thể chúng ta có rất nhiều tế bào, các tế bào sinh diệt không ngừng. Ngày nào cũng có các tế bào cũ chết đi để các tế bào mới sinh ra. Lúc đó, mình thấy mình ôm hết cả cái chết và cái sống ở trong lòng. Khi mình thấy cần phải trân quý sự sống thì không có nghĩa là mình sợ chết. Và sự thực tập ở Làng Mai là Chánh niệm. Trong mỗi bước đi, mỗi hơi thở mình đều thấy được rằng mình đang có mặt.

Ăn mừng sự sống

Thường thường chúng ta hay chạy đi tìm những hạnh phúc đâu đâu trong tương lai xa xôi mà không thấy thoả mãn trong giây phút hiện tại. Vì vậy chúng ta không có cơ hội để nhận diện những màu nhiệm của sự sống đang có mặt trong giây phút hiện tại. Đức Thế Tôn dạy rằng chúng ta có thể sống hạnh phúc được ngay trong phút giây hiện tại mà không cần phải phóng tâm về tương lai tìm cầu một cái gì khác nữa. Giáo lý đó được gọi là giáo lý vô nguyện hay vô đắc. Giáo lý đó cũng không có gì khó hiểu lắm và cũng không khó thực tập lắm. Vô đắc, vô nguyện tức là không chạy theo một bóng dáng hạnh phúc ở tương lai hoặc ở nơi khác mà có thể sống hạnh phúc liền ngay trong giây phút hiện tại. Đầu năm mình nên quyết tâm học và sống cho được như vậy.

Hạnh phúc là những gì có được ngay bây giờ, và ngay ở đây. Trước hết là với hơi thở, với bước chân chánh niệm. Mình thấy được rằng sự sống đang có mặt với tất cả những cái màu nhiệm của nó. Sự sống đang có mặt ở trong cơ thể của mình, ở trong tâm hồn của mình. Sự sống đang có mặt ở chung quanh mình và mình phải tiếp xúc với sự sống. Tiếp xúc sự sống bằng năng lượng chánh niệm của một người tỉnh thức. Không có chánh niệm thì mình không tiếp xúc được với sự sống và những màu nhiệm của sự sống. Khi đã nhận diện được sự sống với những màu nhiệm của nó rồi thì mình thấy rằng mỗi giây phút rất là quý giá. Buổi sáng sớm, khi hít thở mình thấy không khí rất trong lành và điều đó đem lại hạnh phúc liền lập tức, đó chính là tiếp xúc với sự sống màu nhiệm.

Chúng ta nên biết rằng giờ phút chúng ta sinh từ bụng mẹ ra là giờ phút rất là khó khăn. Ở trong bụng mẹ chúng ta ấm áp và êm ái lắm. Thai nhi nằm trong nước nên rất êm, một cái đệm bằng nước thật là tuyệt. Trong bụng mẹ thì không bao giờ quá nóng, cũng không bao giờ quá lạnh. Mẹ thở cho mình, Mẹ ăn cho mình, mình khỏi làm gì hết, chỉ cần nằm yên ở trong đó thôi. Đó là những tháng tuyệt vời ở trong cung điện của đứa con. Tử cung tức là cung điện của con.

Đến khi sinh ra hài nhi bị sốc rất lớn, đang từ chỗ rất êm ái, nó đi ra một nơi buộc phải đụng chạm đến những cái cứng và điều quan trọng nhất là phải thở, phải tự mình thở. Khi ấy trong phổi của em bé có những chất nước và nó phải hắt hơi ra để cho nước từ trong phổi đi ra. Bé bắt đầu thở vào hơi đầu tiên. Đó là giây phút rất quan trọng của đời nó. Nếu lúc ấy nó không thở được thì nó sẽ chết. Đây  là giây phút rất khó khăn. Để thở được hơi thở đầu tiên thì phải hắt hơi, đẩy ra những chất nước có sẵn ở trong phổi. Lúc đó em bé phải tự thở lấy. Bây giờ ta đã vượt qua giai đoạn đó rồi, giai đoạn đó chỉ diễn ra chừng mấy giây thôi. Ta sống hay chết tuỳ thuộc vào mấy giây đó, nay thì mình có thể thở tự do bằng hai lá phổi của mình, chỉ nội chuyện được thở không khí trong lành thơm thôi tho đã đem lại hạnh phúc rồi.

Mỗi khi bước đi, mình bước những bước chân nhẹ, tiếp xúc được với cỏ, với cây, với sỏi, với đá. Rồi tiếp xúc được với màu sắc, với những hình ảnh, âm thanh. Và những màu nhiệm của sự sống mình vẫn chưa thể giải nghĩa được. Mỗi cọng cỏ, mỗi cành hoa đều rất là màu nhiệm. Trăng, sao, mây, suối… tất cả những cái đó đều rất là màu nhiệm. Nếu quên lãng, không có chánh niệm, thì mình không nhận diện được những điều kỳ diệu ấy, rồi mình tự giam mình trong những cái vỏ của sự buồn khổ, giận hờn, lo lắng, tuyệt vọng. Mình đánh mất hết tất cả những mầu nhiệm đó của sự sống tại vì mình không tiếp xúc được. Cho nên giáo pháp hiện pháp lạc trú của đạo Bụt rất hay và quan trọng. Mình không cần phải chạy về tương lai để đuổi bắt một hạnh phúc xa xôi. Hạnh phúc vốn có sẵn trong mình và xung quanh mình, chỉ cần mình trở về và tiếp xúc với nó bằng chánh niệm thì hạnh phúc sẽ xuất hiện ngay trước mặt mình. “This is it”. Tức là cái mà mình đang tìm kiếm nó đang sờ sờ ở trước mặt đó.

Khi chúng ta trở về được với giây phút hiện tại, thì chúng ta sẽ tiếp xúc được với biết bao màu nhiệm của sự sống, và biết bao những điều kiện hạnh phúc mà chúng ta đang có. Ví dụ như là chúng ta đang được thở, thở ra, thở vào dễ dàng, không có nguy hiểm như cái thời mới sinh nữa, đó là một điều kỳ diệu. Chúng ta có thể bước những bước chân bình an trên thảm cỏ xanh. Chúng ta có thể ngồi uống trà,. Chúng ta có thể ngắm nhìn những đám mây trắng bay, thấy trái trăng vàng huyền diệu lơ lửng trên bầu trời. Chúng ta có thể mỉm cười nhìn nhau. Tất cả những cái đó là những cái mình đang có và mình có thể sử dụng được để đạt tới hạnh phúc. Mình đã sẵn có một kho tàng hạnh phúc trước mặt. Tuy rằng sức khoẻ của mình không tuyệt hảo (thật ra thì không có gì là tuyệt hảo hết), nhưng mình có dư sức để có hạnh phúc trong giây phút hiện tại. Mình có thể ăn mừng sự sống.

Mỗi bước chân thiền hành là mình đang ăn mừng sự sống, mỗi hơi thở bình an là mình đang ăn mừng sự sống, mỗi khi nâng ly nước lên uống là mình đang ăn mừng sự sống, khi rửa bát, nấu cơm đó đều là những hành động ăn mừng sự sống, ăn mừng sự sống trong mỗi giây phút của đời sống hàng ngày. Sướng quá, mình đang có mặt, sự sống đang có trong mình và chung quanh mình. Sống được như vậy thì tự nhiên đời sống hàng ngày của mình trở thành một cái gì rất là thiêng liêng. Mình không cần phải trở thành người khác, không cần phải thành Phật hay thành Tiên, không cần có bằng cấp, hay một địa vị nào cả. Chỉ cần tỉnh dậy, tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống thì tự nhiên mình có được cái mà mình đang mải miết rong ruổi kiếm tìm. Phải sống như thế nào để mỗi phút giây trở thành phút giây của sự ăn mừng. Sống như thế nào để mỗi giây phút của đời sống đều trở thành một huyền thoại cho con cháu của mình. Đó, ông bà của các con ngày xưa sống như vậy đó. Giây phút nào cũng vui, giây phút nào cũng hạnh phúc. Và điều này có thể làm được với giáo lý của Đức Thế Tôn. Ai cũng có khả năng sống hạnh phúc và khả năng sống hạnh phúc là cái đức hạnh, cái quý nhất nơi một con người. Người nào mà có khả năng sống hạnh phúc, người đó là người có giá trị cao nhất. Có những người rất giàu, có những người rất quyền thế, có những người nhan sắc rất mặn mà nhưng mà họ không có khả năng sống hạnh phúc thì tất cả những thứ đó: quyền hành, tiền bạc, nhan sắc cũng bằng không. Thành ra có khả năng sống hạnh phúc đó là cái quý giá nhất. Và cái đó chúng ta có thể tập được.

Khi sống hạnh phúc rồi thì một cách rất tự nhiên, mình làm hạnh phúc cho những người chung quanh thật dễ dàng. Mỗi nụ cười, mỗi ánh mắt, mỗi lời nói của mình đều tỏa chiếu bình an và mình trở thành một nguồn suối hạnh phúc cho những người khác. Năm mới mình nên phát tâm sống như thế nào để mình có thể có hạnh phúc ngay ngày hôm nay. Mình vốn có đủ hết rồi, không cần thêm một điều kiện nào khác nữa.

Tiêu chuẩn về đạo đức

Đạo đức học là một môn học cần tới tư duy, lý tính. Đạo đức học có mục đích tìm ra cái gì là cái cần làm, cái gì là cái không nên làm, không được làm. “What is the right thing to do?”. Khi nói đến đạo đức học tiêu chuẩn “normative ethic”. Thì chúng ta phải nói tới tiêu chuẩn khổ – vui. Những cái gì đem lại cái khổ thì chúng ta không nên làm. Những cái gì đem lại cái vui thì ta có thể làm. Đó là một trong những tiêu chuẩn. Nhưng tiêu chuẩn đó không tuyệt đối. Có những cái nhìn qua thì tưởng là khổ nhưng kỳ thực nó không phải là khổ. Tuỳ theo cách nhìn của mình mà cái đó là khổ hay không khổ. Ví dụ như chùi cầu tiêu, chùi cầu tiêu là khổ hay vui? Có những nơi dân cư rất nghèo khổ, họ không có cầu tiêu tiện lợi như mình để chùi. Có người có cầu tiêu nhưng hết xà bông nên không chùi được, có người có xà bông nhưng không có thời gian để chùi. Vì vậy cho nên đối với những người đó chùi cầu tiêu là một hạnh phúc. Có cầu tiêu để chùi, để rồi có cầu tiêu sạch mà đi thì trong khi chùi có thể có hạnh phúc. Còn nếu mình nói rằng “Mình như thế này mà phải đi chùi cầu tiêu à?” nghĩ thế thì tự nhiên mình đau khổ, buồn bực. Thành ra cái khổ hay là cái vui nó tuỳ theo mỗi người.

Ví dụ như chuyện đi học. Có nhiều đứa trẻ con nó đặt câu hỏi rằng: “Tại sao ngày nào cũng phải đi học? Chán quá!”. Nhưng những đứa khác lại nói: “Ôi, được đi học, sướng quá”. Thành ra cái khổ và cái vui không có giá trị tuyệt đối, nó tuỳ theo cái tâm của mình.

Khi uống rượu hay sử dụng ma túy thì có vui đấy chứ. Nó đem lại cảm giác khoái lạc. Cái đó là vui. Nhưng mà cái đó mình có nên làm hay không? Tại vì cái đó sẽ đem tới đau khổ trong tương lai. Vì vậy tiêu chuẩn về cái vui này cần phải xét lại. Chữ khổ và chữ vui chỉ có nghĩa tương đối.

Có những học thuyết đạo đức nói rằng cái gì đem lại hạnh phúc, thì hành động đó là hành động đúng, còn cái gì mà đem lại những khổ đau thì hành động đó là sai, không nên làm. Chuyện khổ vui là như vậy. Nhưng nội một chuyện định nghĩa thế nào là khổ, thế nào là vui cũng khó. Rồi còn cái khổ, chính bản thân cái khổ cũng là một yếu tố, làm nên cái vui. Chúng ta đã học về lý thuyết tương tức rồi. Làm sao mà có cái vui nếu không có cái khổ? Làm sao có cái phải nếu không có cái trái? Làm sao có cái sống nếu không có cái chết? Không có bùn thì không thể có sen. Vì vậy cho nên cái khổ đau đóng một vai trò khá là quan trọng để tạo ra niềm vui. Ví dụ như không bị đói thì mình không thể nào thấy được cái hạnh phúc khi ngồi vào mâm cơm có đầy thức ăn ngon. Phải đói ăn mới ngon.

Có những người thanh niên lớn lên chưa biết chiến tranh là gì, nên không biết sợ chiến tranh, thành ra sẵn sàng để gây chiến. Nhưng những người đã đi qua chiến tranh rồi thì thấy rõ ràng rằng chiến tranh là một cái không bao giờ nên có. Và những người ấy họ rất trân quý hòa bình. Họ không muốn đánh mất hoà bình. Vì vậy cho nên mỗi khi đi ngang qua một khổ đau thì người ta lớn lên một chút và người ta có khả năng nhận diện được hạnh phúc. Cho nên cái khổ cũng có giá trị tích cực của nó. Khổ đau cho ta những bài học rất giá trị. Chính nhờ khổ đau mà mình có thể phát khởi hiểu biết và thương yêu. Nếu không có hiểu và không có thương thì không thể nào có hạnh phúc được. Đó là cái thấy tương tức của đạo Bụt. Do đó, tiêu chuẩn về khổ vui không đủ để tạo dựng một nền đạo đức vững chãi.


Lợi và hại

Tiếp đến chúng ta bàn tới tiêu chuẩn lợi và hại. Cái gì nó có hại tới sức khoẻ, có hại tới niềm an vui của  mình thì cái đó không nên làm. Ngược lại, cái gì đem đến lợi ích thì cái đó nên làm. Có phải chúng ta nghĩ như vậy không? Trong đạo Bụt, khi nói tới lợi hại tức là mình nói tới cái lợi và cái hại cho chuyện tu học. Ví dụ hoàn cảnh giúp cho mình có được chánh niệm, chánh định, có trí tuệ thì được gọi là lợi. Còn sống trong hoàn cảnh khiến cho mình bị thất niệm, làm cho mình chất chứa những tà kiến thì đó gọi là hại. Thành ra tiêu chuẩn lợi và hại tới có thể bổ túc được cho tiêu chuẩn khổ và vui. Nếu cái khổ đó có lợi cho mình thì tại sao mình không chấp nhận nó? Khi mình chấp nhận nó rồi thì cái khổ không có làm cho mình bị khổ nữa.

Ví dụ như chuyện leo núi. Có những người không thích, họ nói: tại sao phải đày đọa thân mình như thế, tại sao phải bỏ thời gian leo lên tận đỉnh ngọn núi, mệt phờ cả người, áo quần rách, mình mầy lấm lem. Sao không ở nhà mà xem ti vi cho khỏe? Đối với những người ấy thì leo núi là không có lợi. Ở nhà có lợi hơn. Nhưng đối với những người thích leo núi thì họ lại hạnh phúc vô cùng. Tại vì tuy mệt như vậy nhưng họ thấy khoẻ khoắn trong người. Đối với họ thì leo núi là có lợi.

Ban đầu thấy ăn chay khổ quá, tại sao lại phải ăn chay? Nhưng nếu ăn chay với trí tuệ thì mình thấy ăn chay hạnh phúc hơn ăn mặn nhiều. Khi ăn chay ta bảo vệ được sinh mạng, bảo vệ được trái đất, thấy như vậy thì ăn chay không cảm thấy khổ nữa, mà ăn chay lại là một niềm vui, một điều may mắn. Hơn nữa, khi ăn chay một thời gian mình quen với thức ăn chay, khi ấy mình lại thấy thức ăn mặn rất là tanh hôi, gớm giếc và mình không thể ăn được. Thành ra tất cả mọi tiêu chuẩn đạo đức học đều tương đối, tiêu chuẩn lợi hại tới bổ túc cho tiêu chuẩn khổ vui

Mê và Ngộ

Bây giờ mình nói đến tiêu chuẩn mê – ngộ. Đây là những tiêu chuẩn của đạo Bụt đưa ra. “Mê” tức là mình đang không tỉnh táo, sáng suốt. Khi không tỉnh táo, sáng suốt thì những quyết định của mình có thể là sai lầm. Ví dụ có lần giận con quá, mình đã làm di chúc là sau khi mình chết đứa con này sẽ không được lãnh một chút gia tài nào của mình hết. Nếu mình viết di chúc trong cơn thịnh nộ như vậy thì đó là một quyết định sai lầm, một quyết định mù quáng và con mình sẽ bị  lãnh đủ. Cho nên không được đưa ra một quyết định nào trong lúc nóng giận hết. Hoặc nếu mình không đang giận thì mình đang đam mê. Cũng không được  đưa ra quyết định trong lúc mình đang đam mê, vì đam mê cờ bạc mà mình vội vàng bán nhà đi để nướng tiền vào sòng bạc mặc cho tương lai vợ con sẽ ra đường. Những quyết định trong lúc không tỉnh táo ấy sẽ làm hại cả cuộc đời mình.

Khi đang ở trong trạng thái mê thì cái thấy của mình về lợi – hại, khổ – vui sai lầm vô cùng. Vì vậy chúng ta phải lấy tư tưởng này làm một tiêu chuẩn quan trọng. “Ngộ” tức là khi mình tỉnh táo, mình có chánh kiến, thấy biết sự thật một cách rõ ràng, khách quan.  Đây là một tiêu chuẩn, nó tới, giúp bổ túc cho hai tiêu chuẩn đầu là khổ – vui và lợi – hại.

Khai và Giá

“Khai” tức là mở cửa ra. “Giá” tức là chặn đường lại. Hai chữ này nằm trong đạo Phật. Bất cứ một luật lệ nào, một tiêu chuẩn đạo đức nào cũng không thể tuyệt đối được. Vì vậy phải có “Khai”, tức là dành cho những trường hợp đặc biệt. Ví dụ như không nói dối là tiêu chuẩn đạo đức. Nhưng nếu có tên sát nhân nó tới hỏi mình “có thấy người đó trốn ở đây hay không?”. Nếu mình nói là biết và chỉ cho tên sát nhận thì người kia đã bị giết rồi. Cho nên trong trường hợp này nếu nói ra sự thật như vậy thì không đúng đạo đức. Thành ra, tuy thật thà là tiêu chuẩn đạo đức, nhưng thỉnh thoảng cũng phải “Khai”, đối với những trường hợp đặc biệt là mình cũng phải nói dối.

Có nhiều trường hợp như là trường hợp đôi khi phải giết người. Ví dụ như là có những căn bệnh không thể chữa được, bệnh nhân phải sống hết sức đau đớn trong những cơn đau kéo dài khổ sở khôn cùng và họ muốn chấm dứt đau khổ, họ muốn được chết mau, chết không đau đớn. Nhưng mà mình theo luật gọi là bất sát nên mình nhất định không giết.

Vấn đề này là vấn đề “Khai”, có nên mở cửa không? Có nên để cho người đó chết hay không? Đây là vấn đề đang xảy ra ở nhiều nước. Bây giờ trên thế giới chỉ có ba đến bốn nước cho phép điều đó thôi. Tất cả các nước khác đều không cho phép trích thuốc để bệnh nhân chết không đau đớn. Tại vì họ sợ rằng khi mở ra như vậy người ta sẽ lợi dụng và đi quá đà

Đối với vấn đề phá thai. Giáo hội Cơ Đốc giáo, Giáo hội La Mã vẫn có một lập trường rất vững chãi về chuyện phá thai. Tại vì phá thai tức là giết người. Có một giai đoạn Giáo hội nghĩ rằng khi cái thai còn nhỏ chưa hẳn là một con người thì có thể phá được. Nhưng tới một giai đoạn khác người ta bắt đầu nghĩ, tuy cái thai mới tượng hình nhưng đã có con người trong đó rồi, cho nên phá thai tức là giết người. Hiện tại lập trường của Giáo hội là phá thai tức giết người, là không thể được. Trong khi đó thì đi lính, đi ra trận để tham dự cuộc chiến tranh thì lại không bị cấm? Ra trận cũng là chuyện giết người. Còn chuyện kiểm soát sinh nở thì nói là chống lại ý muốn của Chúa, của Thượng Đế. Thượng Để muốn thì phải để phải để tự nhiên. Vì vậy có một thời, chính ngay bây giờ cũng có rất nhiều người chống lại chuyện kiểm soát sinh nở. Và chúng ta biết rằng nạn nhân chính là những đứa con sinh ra không được thừa nhận. Rồi khi chúng lớn lên bị xã hội hắt hủi, ghẻ lạnh. Những người con trai Mỹ đi công tác ở các nước Châu Á để lại rất nhiều những đứa con vô thừa nhận, ở Cao Ly, ở Nhật Bản, ở Việt Nam, và các nước khác. Ngay ở trên đất Mỹ, mỗi năm có hàng trăm ngàn đứa trẻ sinh ra không được thừa nhận. Bố nó không thừa nhận mà mẹ nó cũng không muốn giữ lại nuôi. Có thể 250.000 đến 350.000 đứa trẻ mỗi năm. Trong khi đó thì cấm không có được kiểm soát sinh nở? Thành ra tất cả những vấn đề đó là những vấn đề có thật trong thế giới của mình. Và đạo đức học của mình phải làm sao áp dụng được vào đời sống để làm giảm thiểu những khổ đau chứ không chỉ là những lý thuyết xuông.

Ngày xưa có chế độ đa thê. Tức là một ông có nhiều bà. Ở Tây Phương thì theo nguyên tắc hình thức hơn, tức là một ông chỉ có một bà. Nhưng mà có thể năng lượng tình dục mạnh quá, sự thực tập không đàng hoàng, cho nên có những người có những liên hệ vợ chồng, những liên hệ tình dục không chính thức. Vì vậy có rất nhiều những đứa con vô thừa nhận. Những đứa trẻ không được bố công nhận, không được mẹ nuôi dạy mà phải  sống trong cô nhi viện rất nhiều.

Trong chế độ đa thê, nếu người vợ không sinh được con, hoặc không sinh được con trai thì bà phải cưới cho chồng một người vợ thứ hai, thư ba…Tuy là đứng về phương diện hình thức nó mang tính cách đa thê. Nhưng ở đây không có những đứa trẻ vô thừa nhận. Đó là những vấn đề có thật trong xã hội mà đạo đức học của mình phải trực tiếp giải quyết. Gọi là đạo đức học ứng dụng. Tức là đạo đức học đem ứng dụng vào những trường hợp cụ thể như vậy.

Ví dụ trong giải quyết vấn đề những người đồng tính luyến ái. Lâu nay, giáo hội công giáo có một lập trường rất cứng. Cho rằng là tình dục giữa những người đồng tính là một cái gì rối loạn. Theo cái thấy của nhà thờ thì những người đồng tính luyến ái không nên có tình dục đó. Quan niệm gần nhất của nhà thờ là những người đồng tính từ khi sinh ra đã thế rồi và họ đâu có muốn như vậy. Thành ra mình phải chấp nhận họ. Phía nhà thờ mới đi được tới chỗ đó thôi. Còn chuyện những người đồng tính quan hệ tình dục với nhau thì nhà thờ chưa chấp nhận. Khi những người đồng tính nói tới một cái quyền là những người đồng tính  có thể cưới nhau, có thể làm hôn thú đàng hoàng thì Giáo hội nói rằng không, cái đó là không có đạo đức. Mà không có đạo đức thì không có quyền làm. Lập trường của Giáo hội Công giáo hiện bây giờ là đang như vậy.

Ngày xưa Natural law. Aristote khởi xướng lý thuyết gọi là “Luật lệ thiên nhiên”. Ông nói, bất kỳ cái gì ở trong vũ trụ cũng đều có một công dụng hết. Ví dụ Trời sinh ra cái răng để nhai thức ăn, sinh ra cái lưỡi để nếm, sinh ra con mắt để nhìn. Sau nay Giáo hội đã chấp nhận lý thuyết đó. Nói rằng đó là chính là Thượng đế đã sanh ra như vậy. Hỏi : ” Thượng đế sinh ra tình dục để làm gì ? ” Trả lời một cách rất là dĩ nhiên : ” Sở dĩ con người có năng lượng tình dục là để có con, để có sự nối dõi. Tại vì bất cứ một hiện tượng nào trong vũ trụ đều phải có một mục đích hết… Đó là ý muốn của Thượng đế. ” Vì vậy cho nên tình dục chỉ là để có con thôi. Còn đối với những người đồng tính luyến ái thì họ đâu có con ? Vậy nên tình dục của họ là  không đúng. Do đó tình dục của những người đồng tính luyến ái bị lên án. Đó là lý luận của nhà thờ trong một giai đoạn nào đó, của lịch sử. Và họ căn cứ trên cái gọi là ” luật tự nhiên “. Luật tự nhiên là bất cứ một hiện tượng nào trong vũ trụ đều có một mục đích, có một công dụng rõ ràng. Cái răng để nhai, con mắt để thấy thì tình dục để tạo ra những em bé. Mà nếu tình dục không phải để tạo ra em bé thì đó là sử dụng sai. Nhưng có những người họ lý luận như thế này : Con mắt là để thấy, nhưng có nhiều người dùng con mắt trừng lên một cái để cấm đoán thì con mắt đó đâu phải để thấy, mà là để cấm. Con mắt còn dùng để đưa tình, chứ con mắt đâu phải chỉ để thấy không thôi. Vậy thì tình dục cũng thế. Tình dục, mục đích của nó là làm ra những đứa con nhưng mà tình dục cũng có thể dùng để tỏ bày tình cảm của mình đối với một người mà mình thương rất nhiều, coi người đó là người mình tin tưởng nhất trên đời. Những người nghĩ như vậy họ chấp nhận chuyện tình dục giữa những người đồng tính luyến ái. Cũng như là con mắt tuy là để nhìn nhưng con mắt cũng có thể để háy, để nguýt, để trừng trừng, để ngăn cấm .v.v… Cho nên trong đạo Phật có rất nhiều không gian tại vì đạo Phật có chữ “Khai”. Khai tức là khai mở, có những trường hợp đặc biệt mình có thể khai mở. Trong những trường hợp đặc biệt mình có thể phá thai để kiểm soát sinh nở được. Có những trường hợp mà  mình có thể giúp người kia chết một cách an lành, có những trường hợp mình có thể nói dối. Nhưng tất cả những cái đó đều phải làm trên căn bản của tình thương. Nếu không có tình thương, nếu không theo tiêu chuẩn mê – ngộ, lợi – hại, khổ – vui thì mình không thể làm được.

Có những triết gia như là Kant không chịu như vậy. Kant nói rằng có những mệnh lệnh, những nguyên tắc tuyệt đối phải tuân theo. Ví dụ không nói dối là tuyệt đối không nói dối, không thể lấy cớ này, cớ nọ để nói dối được. Mọi trường hợp đều phải nói thật 100%. Tại vì mình muốn làm như thế nào để tất cả những người khác đều làm như mình hết. Đó là một thái độ rất cứng.

Quan điểm đó cho rằng, cái đúng và cái sai, cái chánh và cái tà là do Thượng Đế quyết định chứ không phải do con người quyết định. Cái đó nó đúng vì Thượng đế bảo là nó đúng. Cái đó sai vì Thượng đế nói nó sai. Mình chỉ đi theo thôi. Thượng đế là tạo hoá còn mình là tạo vật. Khi tạo hoá dựng ra con người, dựng ra vạn vật thì tạo hoá bỏ cái đúng và cái sai vào trong đó. Vì vậy cho nên cái đó gọi là mệnh lệnh của Thượng đế. Và nó có tính cách tuyệt đối.

Đạo Phật thì không cứng nhắc như vậy, nền đạo đức của đạo Phật có phương tiện quyền xảo gọi là “Khai”, đó là sự linh động. Một mặt là “khai”, một mặt là “giá”. Giá tức là ngăn lại. Ngăn lại cái hành động đó, tuy là nó không gây ra đau khổ, nhưng nếu để cho đi quá đà thì nó sẽ gây ra tai hại. Ví dụ như có rất nhiều vụ tai nạn giao thông xảy ra do tài xế đã uống qúa nhiều rượu trước khi lái xe. Khi uống rượu mà lái xe thì rất nguy hiểm cho tính mạng của mình và những người khác. Cho nên Bộ giao thông mới cấm người điều khiển xe có lượng cồn trong máu quá mức cho phép.

Vì vậy cho nên khi uống ly rượu đầu tuy là không tai hại, nhưng ly đầu có thể dẫn tới ly thứ hai, rồi ly thứ ba và lúc ấy thì tai nạn sẽ xảy ra. Sự thật là nếu không có ly thứ nhất thì làm gì có ly thứ hai, ly thứ ba ? Vì vậy cho nên đừng có uống ly thứ nhất. Cái đó gọi là giá tức là ngăn chặn.

Tuy mình làm điều đó không nguy hiểm gì nhưng điều đó sẽ kéo mình đi xa hơn và một khi đã đi xa rồi thì tai nạn sẽ xảy tới. Có một bà người Anh, sau khi được nghe trình bày về năm giới, bà nói tôi xin thọ 4 giới thôi, còn giới thứ 5 là không có uống rượu thì tôi không thể thọ được, vì mấy chục năm nay ngày cuối tuần nào tôi cũng uống một ly rượu mà không làm sao hết. Tại sao tôi phải thọ giới thứ năm giới để bỏ đi thú vui uống một ly rượu cuối tuần của mình ? Khi ấy tôi nói với bà ta rằng : Tôi công nhận là trong 30 năm nay mỗi cuối tuần bà đều uống một ly rượu và không có chuyện gì xảy ra cho bà hết. Đứng về phương diện sức khoẻ cũng như đứng về những phương diện khác. Nhưng mà bà nên biết rằng, những đứa con của bà khi thấy bà uống thì nó cũng uống, có thể nó có hạt giống của sự say sưa. Bà có thể uống mỗi tuần một ly nhưng các con bà khó có thể được như bà, chúng có thể đi vào con đường nghiện ngập. Vì vậy bà ngưng ly rượu đó không phải vì bà mà là vì các con của bà. Tại thường thường, cha mẹ làm gì thì con cái sẽ bắt chước làm theo. Cha mẹ hút thuốc thì con hút thuốc. Tôi nói với bà ta như vậy và thật may mắn là bà ta đã ngộ ra, hôm sau bà quyết định thọ cả năm giới. Cái đó gọi là “giá”, tức là nó có tác dụng ngăn ngừa những hậu quả có thể xảy ra trong tương lai. “Khai” và cái “Giá” là một tiêu chuẩn trong đạo Phật.

Theo giới luật hiện thời của Làng Mai thì mỗi khi một Thầy, hay một Sư cô cần phải lên Internet thì luôn phải có một thầy hay một sư cô khác ngồi một bên để làm đệ nhị thân. Có thể là Thầy đó, Sư cô đó lên Internet một mình nhiều lần cũng không sao hết. Nhưng mà có một người đi theo bảo hộ để ngăn ngừa cái chuyện có thể xảy ra, cái đó gọi là “Giá”. Tại vì trong mạng lưới Internet có thể có những vùng nguy hiểm. Không biết là các bậc làm cha, làm mẹ có thể áp dụng chuyện này với con cái mình được không ? Tại vì bây giờ trẻ con mới 7 tuổi, 10 tuổi đã bắt đầu lên mạng Internet một mình rồi. Và chúng có thể đi lạc vào những vùng rất là nguy hiểm. Có nên cấm nó hay không? Cấm nó chắc cũng không được. Nhưng giới luật đưa ra là mỗi lần con lên mạng internet thì phải có mẹ hoặc bố ngồi cùng. Không biết cái đó quý vị có thể làm được không? Cũng như khi uống rượu say có thể quý vị lái xe mà không gặp phải một tai nạn nào hết. Nhưng đó là may mắn thôi. Vì vậy cho nên không uống rượu vẫn hay hơn.

Trì và Phạm

Trì và phạm là nói về giới. Khi giữ giới thì gọi là trì giới, khi không giữ giới thì gọi là phạm giới. Trì là giữ cho nó còn nguyên vẹn. Còn phạm tức là để nó vỡ nát. Giới thân nói là không được làm cái đó mà mình cứ làm là ” phạm giới”, còn khi mình tuân theo giới, mình không làm thì gọi là “trì giới”. Những người trì giới là những rất hạnh phúc, rất thanh tịnh. Khi mình không uống rượu, không sử dụng ma túy tức là mình trì giới, nhờ vậy mà thân tâm mình khỏe mạnh an vui. Còn nều mình cứ sử dụng, mình phạm giới thì mình bị nô lệ cho sự nghiện ngập, sự nô lệ ấy làm mình mất tự do và làm khổ cả những người xung quanh

Trong trường hợp nói dối. Nếu một tên sát nhân đi kiếm người ta để thủ tiêu mà tới hỏi mình anh có thấy người đó không. Mình biết nhưng mà mình phải nói dối. Mà trong trường hợp này mình nói dối tức là mình trì. Nếu mình không nói dối tức là mình phạm. Nếu mình không nói dối thì mình gián tiếp giết người rồi. Vì vậy cho nên có những trường hợp vì tình thương mình bắt buộc phải nói dối. Ví dụ khác, khi thấy một người đang đau khổ, đang gặp hiểm nghèo mà mình không ra tay cứu giúp, thì tuy rằng mình không giết người đó nhưng mà mình đã phạm giới. Khi thấy một người đang đàn áp, đang giết người khác mà mình ngồi yên, bình chân như vại, không tới can ngăn thì mình cũng phạm giới như thường.

Cho nên, có khi trên hình thức là phạm nhưng kỳ thực là mình đang trì, có khi  trên hình thức là trì nhưng mà mình đã phạm giới. Đạo đức học trong đạo Phật rất là linh động, nó phải có tính cách khế cơ tức là phải phù hợp với từng hoàn cảnh. Mình có đạo đức học tiêu chuẩn nhưng mà phải đi tới đạo đức học ứng dụng. Và tất cả những cái đó đều phải dựa trên tuệ giác gọi là cái tuệ giác tương tức, tuệ giác bất nhị.

Bất nhị tức là không có hai. Khi chúng ta nói chánh và tà, khổ và vui, lợi và hại, thì theo cách nhìn của đạo Phật thì hai cái đó nương nhau mà thành. Cái này làm nên cái kia, cái kia làm nên cái này. Vì vậy đạo Phật có một quan niệm rất mềm dẻo.

Khi nói Phật và chúng sinh thì mình có một cặp đối lập nhau giống như là lợi và hại, hay là mê và ngộ. Như bùn và sen, nhưng bùn và sen vốn ôm lấy nhau, chúng nương vào nhau mà có, không có bùn thì không có sen, không có sen thì không có bùn. Phật và chúng sanh cũng như vậy. Phật ôm lấy chúng sanh và chúng sanh ôm lấy Phật. Tìm Phật ở trong chúng sanh và tìm chúng sanh ở trong Phật. Phật và chúng sanh không thể tách rời. Cho nên ở trong đạo Phật có giáo lý gọi là “Phật sinh bất nhị”. Phật tức là người tỉnh thức, sinh tức là chúng sinh. Phật và chúng sinh không thể tách rời ra được gọi là bất nhị. Nếu mà không nắm được điều này thì không thể nắm được nền đạo đức Phật học. Nếu mình muốn đi tìm Phật thì phải tìm ngay ở chúng sinh, vì ngoài chúng sinh ra không thể nào có Phật. Khi đã thành Phật rồi không phải mình hết làm chúng sanh. Cho nên hôm trước Thầy có nói rằng là Phật cũng có Phật thân. Phật không có thân thì làm sao gọi là Phật được? Do đó Phật và chúng sinh không phải là hai cái đối lập. Cũng như hoa sen và bùn không phải là hai cái gì đối lập. Vì vậy cho nên cái thấy lưỡng nguyên là cái ngăn ngừa không cho mình thấy được nền tảng của đạo đức Phật giáo.

Khi tụng Tâm kinh, ta có chữ “Không”. Trong ánh sáng của Tâm kinh, trong ánh sáng của cái không, thì những cặp đối lập như là sanh – diệt, thêm – bớt, có – không, còn – mất đều là những cái gì tương đối hết. “Nghe đây Xá Lợi Tử, sắc chẳng khác gì không, không chẳng khác gì sắc”. Thấy rõ ràng là tính tương tức của vạn vật. Sắc nó ôm lây không, không nó ôm lấy sắc. Ngoài sắc không có không, ngoài không không có sắc. Thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như vậy. Ngoài không không có thọ, ngoài thọ không có không. Thọ ôm lấy không, không ôm lấy thọ. “Nghe đây Xá Lợi Tử, sắc chẳng khác gì không, không chẳng khác gì sắc. Xá Lợi Tử nghe đây, thể mọi pháp đều không, không sinh cũng không diệt, không nhơ cũng không sạch, không thêm cũng không bớt”. Không tức là cái thấy vượt thoát tất cả mọi cặp đối lập. Vì vậy cho nên trong ánh sáng của cái không, nó vượt thoát chánh tà, vượt thoát khổ vui, vượt thoát lợi hại, vượt thoát mê ngộ, cái này ôm lấy cái kia, cái kia nó ôm lấy cái này. Mà khi thấy được như vậy rồi thì mình mới có khả năng thiết lập một nền đạo đức. Lĩnh vực này ở ngoài đời gọi là “Siêu đạo đức học”. Gọi là Meta ethic. Và siêu đạo đức học sẽ trở thành rất quan trọng trong thời đại hiện nay. Người ta đã nói về applied ethics tức là đạo đức học ứng dụng.

Siêu đạo đức học

– Semantic. Có ngành gọi là nhận thức luận – epistemology. Nó có ngành bản thể học – ontology. Cho nên trong đạo Phật có rất đầy đủ. Đạo Phật nói về cái danh, tức là danh từ. Đạo Phật nói về nhận thức luận, tức là cái đó mình có thể nhận thức được không hay là không nhận thức được, nhận thức bằng lý luận hay nhận thức bằng trực giác ? Cái đó là bản thể học, nó là nền tảng của tất cả mọi cái. Khi đọc Tâm Kinh Bát Nhã vào mỗi buổi sáng là mình đang tiếp xúc với cái bản thể học. Nếu không nắm vững được cái thấy bất nhị, cái thấy tương tức của Tâm Kinh thì mình không thể thiết lập được một nền đạo đức dựa trên tuệ giác của đạo Phật được. Cho nên khi nghiên cứu về đạo đức học Phật giáo mình cũng có thể trình bày theo cái thấy của các nhà triết học bên ngoài. Tức là mình phải trình bày cái meta ethic (tương tức) của đạo Bụt, mình phải trình bày cái normative ethic (tiêu chuẩn đạo đức học) của đạo Bụt. Mình phải trình bày cái applied ethic (đạo đức học ứng dụng) của đạo Bụt. Khi tân tu lại giới bổn 5 giới hay 14 giới thì mình phải sử dụng cái thấy của mình về cả 3 lĩnh vực đó. Mình sẽ cố gắng làm thế nào để cho 5 giới hay là 14 giới được trình bày mà những người không phải là Phật tử cũng có thể chấp nhận, có thể hiểu được. Đây là công trình mà Đức Thế Tôn muốn chúng ta tiếp nối. Tại vì nền đạo đức Phật giáo mà Ngài đã xướng xuất cách đây đã 2500 năm, Ngài chưa hoàn tất, Ngài chỉ có 45 năm để làm việc ấy. Trước khi Ngài mất, Ngài dặn Thầy Anan là phải tiếp tục công trình đó. Chúng ta đang sống trong thời đại có rất nhiều vấn đề. Chúng ta phải làm công việc này, tu bổ lại giới bổn, và chúng ta không thể nào làm được nếu chúng ta không nắm được bản ý của Đức Thế Tôn. Vì vậy cho nên khoá tu này là một cơ hội để cho tất cả chúng ta có thể ngồi lại với nhau, để làm thử công việc đó. Cống hiến cho thế giới một đề nghị về một nền đạo đức toàn cầu.

Người ta đã nói rằng tiêu chuẩn đạo đức học normative ethics và tìm cách để nói rõ ra cái gì đáng làm, cái gì không nên làm để có hạnh phúc. Nhưng mà siêu đạo đức học đặt lại tất cả các vấn. Anh nói chánh thì thế nào gọi là chánh ? Anh nói tà thì thế nào được gọi là tà ? Anh nói khổ thì thế nào gọi là khổ? Anh nói vui thì thế nào gọi là vui? Anh nói mê cái gì gọi là mê? Anh nói ngộ thế nào gọi là ngộ? Vì vậy đòi hỏi nền siêu đạo đức học này thế nào cũng phải đưa tới cái thấy bất nhị, cái thấy tương tức của đạo Phật. Đứng về phương diện siêu đạo đức học thì có những nhận thức là ngữ nghĩa họcMình phải trở về với hiện thực của thế giới, xét xem cái gì có thể đưa thêm vào để bổ túc cho văn bản đó. Trong giới thứ ba mà mình đang tân tu đó, giới thứ ba nói về vấn đề quan hệ bất chính. Buổi giảng kỳ trước mình phải nhắc lại một sự thật là trong thời đại chúng ta, tình dục qúa nhiều mà tình yêu thì quá ít. Giới thứ ba có liên hệ tới tình dục và liên hệ tới tình yêu. Vì vậy trong giới thứ ba chúng ta phải đưa vào tứ vô lượng tâm, tức là tình yêu đích thực như trong đạo Bụt dạy. Tình yêu là phải có từ, phải có bi, phải có hỷ và phải có xả. Chúng ta phải làm sống dậy tình yêu và làm giảm thiểu tình dục. Đó là đối tượng của giới thứ ba. Từ, bi, hỷ, xả là những năng lượng tạo ra rất nhiều hạnh phúc. Năng lượng thứ tư, năng lượng xả là năng lượng hết sức màu nhiệm. Xả có nghĩa là không có kỳ thị, không phân biệt. Mở lòng ra để ôm lấy tất cả mọi người và mọi loài. Tình yêu đích thực là tình yêu lớn lên mỗi ngày. Tình yêu càng lớn thì hạnh phúc càng lớn. Xả cũng là không bị kẹt vào cái ngã, không bị kẹt vào cái ích kỷ của mình. Cho nên chữ upeksa mình dịch là xả. Trước đây mình thường dịch là equanimity. Có người dịch là indifference thì nó sai. Equanimity có khi mình dịch là inclusiveness, có khi mình dịch là nondiscrimination và trong ngành đạo đức học ngoài đời họ còn dùng một chứ mà mình có thể dùng được là impasibility(?). Tức là mình muốn cho người nào cũng được như vậy. Mình ôm lấy tất cả, mình không cho mình là đặc biệt.

Tân tu giới bản làm sao để khi đọc tụng phải thấy được cái tuệ giác và từ bi trong đó, để người trì giới tiếp xúc được với cái thấy bất nhị, cái thấy tương tức. Nó làm nền tảng cho hành động của chúng ta. Cố nhiên năm giới mới nó phải dài hơn 5 giới cũ nhưng nó thật sự phản chiếu được tuệ giác của đạo Bụt và sự thực tập của đạo Bụt.

 

Thầy Làng Mai giảng ngày 4.1.2009

Lịch sử đạo Bụt nhập thế

Dẫn lược

Trong những ngày đầu của khóa tu bảy ngày bằng tiếng Anh tại Hà Nội, các bạn thiền sinh về dự khóa tu đã có một cơ hội hiếm hoi được nghe Thầy chia sẻ những kỷ niệm ngày Thầy mới bắt đầu sự nghiệp. Từ đây có thể thấy rõ Thầy vừa là nhà giáo, vừa là nhà hoạt động xã hội, nhà văn với tác phẩm phong phú và là người làm cách mạng tạo nên phong trào đạo Bụt nhập thế, đạo Bụt dấn thân mà gần đây bắt đầu được gọi là đạo Bụt ứng dụng. Theo Thầy: “Đạo Bụt nhập thế trước hết là một đạo Bụt có mặt từng giây từng phút trong đời sống hằng ngày. Đạo Bụt có mặt khi ta chải răng, khi ta lái xe; khi đi siêu thị đạo Bụt cũng có mặt để giúp ta biết cần mua những gì và không cần mua những gì. Đạo Bụt dấn thân cũng là một nguồn tuệ giác để đáp ứng lại những gì đang xảy ra trong hiện tại, bây giờ và ở đây – tình trạng trái đất nóng lên, khí hậu thay đổi, môi trường sinh thái bị phá hủy, thiếu truyền thông, chiến tranh, xung đột, tự tử, ly hôn. Nếu có thực tập chánh niệm, chúng ta ý thức được  những gì đang diễn ra trong cơ thể mình, những cảm xúc, cảm thọ trong ta và những gì đang xảy ra với môi trường của chúng ta. Đó chính là đạo Bụt nhập thế. Đạo Bụt nhập thế là một đạo Bụt đáp ứng được với bất kỳ điều gì đang xảy ra trong hiện tại, bây giờ và ở đây.”

Vào năm 1949, tôi đã cùng thầy Trí Hữu, một vị Thượng tọa từ Đà Nẵng thành lập nên Phật Học Đường Ấn Quang ở Sài Gòn. Tôi dạy lớp sơ cấp đầu cho các vị Sadi. Hồi đó tên chùa là Ứng Quang. Chùa vách tre lợp lá rất đơn sơ. Khi đó chiến tranh đang diễn ra giữa quân đội Pháp và lực lượng kháng chiến Việt Minh.

Năm năm sau, vào năm 1954, Hiệp định Geneve được ký kết chia đất nước thành hai phần: miền Bắc theo chủ nghĩa cộng sản và miền Nam chống cộng sản. Hơn một triệu người, rất đông trong số đó là tín đồ Công giáo, đã di cư từ Bắc vào Nam. Một không khí hoang mang bao trùm đất nước.

Thỉnh thoảng lại có một vài người lính Pháp vào thăm viếng chùa Ứng Quang, họ đang chuẩn bị rút khỏi Việt Nam Vì sau chiến thắng Điện Biên Phủ, chiến tranh với người Pháp chấm dứt, các bên thỏa thuận chia đất nước làm hai phần, và người Pháp phải rút khỏi Việt Nam. Tôi vẫn còn nhớ, tôi đã nói chuyện với những người lính Pháp đó. Rất nhiều người Pháp tới Việt Nam và đã chết trên đất Việt Nam.

 

Đạo Bụt qua nhận thức mới

Trong năm 1954, người dân Việt Nam rất hoang mang, đặc biệt là giới thanh niên, tăng ni xuất gia cũng như cư sĩ tại gia. Miền Bắc theo chủ nghĩa Mác-Lênin, trong khi tại miền Nam, tổng thống Ngô Đình Diệm, một tín đồ Công giáo được Mỹ ủng hộ lại đang cố gắng lái đất nước đi theo một ý thức hệ khác, “chủ nghĩa nhân vị”. Dường như sắp bắt đầu một cuộc chiến tranh ý thức hệ.

Đạo Bụt là một truyền thống lâu đời ở Việt Nam, hầu hết người dân Việt đều mang trong mình hạt giống đạo Bụt. Ông Vũ Ngọc Các, chủ bút tờ nhật báo Dân Chủ đã tới chùa Ứng Quang nhờ tôi viết một loạt bài về đạo Bụt. Ông Các muốn tôi chia sẻ tuệ giác, chỉ ra một hướng đi tâm linh có khả năng giúp người dân thoát khỏi tình trạng hoang mang đang bao trùm đất nước. Và tôi đã viết loạt 10 bài đăng trong 10 số báo liên tục với tựa đề “đạo Phật qua nhận thức mới”. Trong loạt bài này, tôi đã đưa ra ý tưởng về đạo Bụt nhập thế – đạo Bụt trong lĩnh vực giáo dục, kinh tế, chính trị, v.v… Đạo Bụt nhập thế như vậy là đã xuất hiện vào năm 1954.

Tôi còn nhớ hồi đó tôi không dùng máy chữ mà viết tay theo lối truyền thống. Người của tòa soạn tới lấy bài và cho đăng ngay trên trang nhất, với tựa đề in chữ lớn màu đỏ. Tờ báo bán rất chạy vì tình trạng hoang mang đã lên tới cực độ và người dân đang rất khao khát một đường hướng tâm linh.

 

Trà tường vi và bắp luộc

Sau đó, loạt bài đã được tập hợp lại và in thành sách. Không lâu sau, tôi về thăm Huế. Thầy Đức Tâm, bạn học cũ của tôi hồi ở Phật Học Đường Báo Quốc, khi đó cũng đang là chủ biên tạp chí Phật Học Liên Hoa. Chùa của thầy Đức Tâm ở Cồn Hến, một hòn đảo nhỏ giữa dòng sông Hương. Bắp trồng ở Cồn Hến rất thơm và ngon. Thầy Đức Tâm mời tôi ở lại chùa chơi vài tuần. Mỗi sáng thầy Đức Tâm đều mời tôi một ly trà tường vi. Tường vi là một loại hoa hồng cánh nhỏ xíu, ướp trà rất thơm. Rồi cả hai đi thiền hành quanh Cồn và thầy Đức Tâm đãi tôi bắp luộc. Thầy nuôi tôi bằng trà tường vi và bắp luộc, rồi thầy ngỏ lời mời tôi viết một loạt bài về Đạo Bụt nhập thế. (đại chúng cười) Và tôi lại viết một loạt 10 bài nữa, nhan đề “đạo Phật ngày nay”,  cũng về đề tài đạo Bụt nhập thế. Loạt bài này được nhà nghiên cứu nhân chủng học Lê Văn Hảo đang sống tại Paris dịch sang tiếng Pháp, lấy tựa đề Aujourd’hui le Boudhisme. Năm 1964, trong khi đi giảng dạy tại Hoa Kỳ, tôi đã gặp linh mục Thomas Merton và đã tặng cha một cuốn Aujourd’hui le Boudhisme. Cha đã viết lời tựa cho cuốn sách.

 

Đạo Bụt đi vào cuộc đời

Vào năm 1963-1964, tôi giảng dạy về đạo Bụt tại trường đại học Columbia, Mỹ. Tại Việt Nam, phong trào biểu tình đòi nhân quyền do giới Phật tử lãnh đạo đã lật đổ được chế độ Ngô Đình Diệm. Có thể các bạn đã nghe nói tới Hòa thượng Thích Quảng Đức, người đã tự thiêu, dùng chính cơ thể mình làm ngọn đuốc để báo động cho thế giới về tình trạng vi phạm nhân quyền tại Việt Nam. Đó quả thực là hành động đấu tranh cho nhân quyền hoàn toàn bất bạo động. Khi chính quyền Diệm sụp đổ, các bạn trong tăng thân mời tôi về để giúp.

Sau khi trở về Việt Nam, tôi đã thành lập Viện Đại Học Vạn Hạnh. Tôi tập hợp những bài đã viết trước đó và in thành cuốn sách đạo Bụt đi vào cuộc đời. Đó là đầu năm 1964. Có thể đây là lần đầu tiên các bạn được nghe những thông tin này. Cuộc đời có nghĩa là cuộc sống hay xã hội. Đạo Bụt nhập thế tiếng Việt được hiểu là đạo Bụt đi vào cuộc sống, đạo Bụt đi vào xã hội. Tiếng Trung Quốc gọi là nhân gian Phật giáo, tiếng Việt gọi là đạo Bụt nhập thế.

Sáu tháng sau, tôi cho ra đời một cuốn sách khác có tên gọi đạo Phật hiện đại hóa. Tất cả những danh từ đó, những cuốn sách đó đều chỉ diễn đạt cái mà mình gọi là đạo Bụt nhập thế. Sau đó tôi lại tiếp tục viết nhiều sách khác, như cuốn đạo Phật ngày mai. (đại chúng cười)

Nhưng hồi đó tên của tôi đã bắt đầu bị chính quyền chống cộng miền Nam bôi đen vì tôi đã  lên tiếng kêu gọi hòa bình, kêu gọi hòa giải giữa hai miền Nam Bắc. Tôi trở thành người tha hương. Tôi không thể trở về quê hương, tôi bị lưu đày.

Và vì vậy, cuốn sách đạo Phật ngày mai của tôi đã không được in tại Việt Nam dưới tên thật của tác giả, phải lấy bút danh là Bsu Danglu. Chắc các bạn tò mò muốn biết cái tên này từ đâu ra. Đó là vào năm 1956, tôi đã mua một mảnh đất của hai người Thượng tên là K’Briu và K’Broi ở buôn Bsu Danglu trên cao nguyên Bảo Lộc và cùng các bạn dựng nên Phương Bối Am. Bsu Danglu có xuất xứ như vậy.

 

Tuệ giác bây giờ và ở đây

Tôi tiếp tục xuất bản các cuốn sách khác dưới những bút danh khác nhau. Tôi đã viết bộ Việt Nam Phật Giáo Sử Luận ba tập và dùng bút danh Nguyễn Lang. Dù tôi phải rời xa quê hương đã 39 năm nhưng tôi vẫn tiếp tục viết sách và sách của tôi được xuất bản tại Việt Nam dưới rất nhiều bút danh.

Chúng ta đã được giải thích ý nghĩa đầu tiên của Đạo Bụt nhập thế là đạo Bụt có mặt trong mọi giây phút của cuộc sống hằng ngày. Đạo Bụt có mặt khi mình chải răng, khi mình lái xe, đạo Bụt có mặt khi mình đi chợ để nhắc mình ý thức cần mua những gì và không cần mua những gì.

Đạo Bụt nhập thế cũng có nghĩa là một nguồn tuệ giác có thể đáp lại được những gì đang xảy ra bây giờ và ở đây, như là tình trạng trái đất nóng lên, thay đổi khí hậu, hệ sinh thái bị phá hủy, thiếu truyền thông, chiến tranh, xung đột, tự tử, ly hôn… Là một người biết tu tập chánh niệm, ta phải ý thức được những gì đang diễn ra trong cơ thể, cảm thọ, cảm xúc và những gì đang xảy ra với môi trường bên ngoài. Đó là đạo Bụt nhập thế. Đạo Bụt nhập thế là đạo Bụt đáp ứng được với những gì đang diễn ra bây giờ và ở đây.

 

Cái nhìn mới về “bốn sự thật mầu nhiệm”

Chúng ta có thể nói về đạo Bụt nhập thế từ góc độ Tứ Diệu Đế – bốn sự thật mầu nhiệm. Sự thật thứ nhất là Khổ – dukkha. Định nghĩa truyền thống về sự thật thứ nhất thường là: sinh là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, oán ghét mà phải gặp nhau là khổ; yêu nhau mà phải biệt ly là khổ, mong ước mà không được là khổ. Đó là cách định nghĩa rất xưa. Ngày nay thực tập chánh niệm, chúng ta phải xác định được những hình thức của Khổ đang thực sự có mặt. Nỗi khổ trước tiên là sự căng thẳng đang có mặt trong cơ thể mình, rất nhiều căng thẳng. Chúng ta có thể khẳng định rằng nỗi khổ của thời đại ngày nay là căng thẳng, stress, lo lắng, sợ hãi, bạo lực, gia đình tan vỡ, tự tử, chiến tranh, xung đột, khủng bố, hệ sinh thái bị phá hủy, trái đất nóng lên, v.v..

Chúng ta cần có mặt hoàn toàn trong giây phút hiện tại, bây giờ và ở đây để nhận cho được bản lai diện mục của khổ. Chúng ta có khuynh hướng tự nhiên là chạy trốn khổ đau, không muốn đối diện với chúng. Chúng ta thấy mình không đủ sức xử lý khổ đau nên tìm mọi cách trốn chạy. Nhưng Bụt khuyên chúng ta không nên làm vậy, trái lại Ngài khuyên chúng ta nên đối diện khổ đau, nhận diện khổ đau, nhìn sâu vào bản chất của khổ đau để học hỏi từ nó. Bụt dạy rằng nếu chúng ta không thấu hiểu được bản chất của khổ thì không thể thấy được con đường của sự chuyển hóa, con đường đưa tới sự chấm dứt khổ đau.

Chúng ta đều biết rằng sự thật thứ nhất là Khổ và sự thật thứ tư là Đạo, con đường dẫn đến sự chấm dứt khổ đau. Nếu không hiểu được sự thật thứ nhất thì sẽ không bao giờ có cơ hội thấy sự thật thứ tư, con đường đưa tới sự chấm dứt khổ đau.

Chúng ta nên học cách trở về nhà, trở về giây phút hiện tại để nhận diện những nỗi khổ niềm đau đang thật sự có mặt. Và khi tập nhìn sâu vào sự thật thứ nhất – Khổ, chúng ta sẽ khám phá ra sự thật thứ hai – gốc rễ hay nguyên nhân của khổ.

Mỗi chúng ta phải tự tìm ra nguyên nhân nỗi khổ niềm đau của mình. Cuộc sống hiện đại thật sôi động, chúng ta có quá nhiều việc để làm, quá nhiều thứ muốn đạt tới. Nhà chính trị, nhà doanh thương, hay ngay cả người nghệ sĩ đều muốn thành công nhiều hơn nữa, hơn nữa. Chúng ta thèm khát thành công. Chúng ta không có khả năng sống sâu sắc từng giây phút trong cuộc sống hằng ngày. Chúng ta không cho cơ thể mình cơ hội nghỉ ngơi, thư giãn và trị liệu.

Nếu biết sống như Bụt, an trú trong giây phút hiện tại, để cho những yếu tố tươi mát và trị liệu thấm vào trong mình, chúng ta sẽ không trở thành nạn nhân của stress, của căng thẳng và của rất nhiều căn bệnh phát sinh từ đó. Có thể nói một trong những gốc rễ của khổ đau là do chúng ta không có khả năng sống sâu sắc trong từng giây phút.

Khi trong thân tâm ta đầy căng thẳng và khó chịu, ta sẽ không thể lắng nghe được người khác, ta cũng không thể nói lời ái ngữ. Ta không thể cởi bỏ tri giác sai lầm. Tri giác sai lầm gây nên sợ hãi, hận thù, bạo động. Chúng ta phải nhận diện những nguyên nhân của khổ đau. Công việc này vô cùng quan trọng. Chúng ta nói tới tình trạng tự tử và gia đình tan vỡ. Chúng ta biết rằng nếu truyền thông giữa vợ và chồng, giữa cha và con trai, mẹ và con gái gặp khó khăn thì mọi người không còn hạnh phúc. Vô số người trẻ rơi vào tình trạng tuyệt vọng và chỉ muốn tự vẫn, vì không biết cách xử lý cơn tuyệt vọng và những cảm xúc của họ, họ nghĩ rằng cách duy nhất để chấm dứt khổ đau là kết liễu đời mình. Mỗi năm ở Pháp có khoảng 12.000 thanh niên tự tử, chỉ vì không biết làm sao làm chủ những cảm xúc mạnh như tuyệt vọng. Cha mẹ họ cũng không biết cách làm chuyện đó. Cha mẹ không dạy con cái cách xử lý cảm xúc, ngay cả thầy cô giáo cũng không biết cách dạy học trò cách nhận diện và ôm ấp cảm xúc.

Khi không thể truyền thông với nhau, con người không thể hiểu nhau và thấy được khổ đau của nhau, và như vậy không thể có tình thương, không thể có hạnh phúc. Chiến tranh và khủng bố cũng do tri giác sai lầm sinh ra. Những kẻ khủng bố đinh ninh rằng phía bên kia đang tìm cách tiêu diệt mình, tiêu diệt tôn giáo mình, lối sống của mình hay đất nước mình. Một khi chúng ta tin rằng đang có người tìm cách thủ tiêu mình, chúng ta sẽ tìm cách tiêu diệt họ trước để tránh mối nguy hại.

Sợ hãi, hiểu nhầm và tri giác sai lầm là nền tảng của mọi hành động bạo lực. Cuộc chiến ở Iraq, cái được gọi là cuộc chiến chống khủng bố, thực tế đã không làm giảm số lượng những kẻ khủng bố, trái lại chính cuộc chiến đó càng khiến lực lượng khủng bố càng ngày càng đông đảo thêm. Để thực sự xóa bỏ khủng bố, chúng ta phải xóa bỏ tri giác sai lầm. Chúng ta biết quá rõ rằng phi cơ, súng đạn, bom mìn không thể xóa bỏ tri giác sai lầm. Chỉ có ái ngữ và lắng nghe mới có thể giúp con người cởi bỏ tri giác sai lầm. Nhưng các vị lãnh đạo của chúng ta lại không được đào tạo theo hướng đó nên họ chỉ biết dựa vào lực lượng vũ trang để chống lại khủng bố. Vậy nên khi nhìn sâu, ta có thể thấy nguyên nhân, gốc rễ của khổ đau bằng cách nhận diện khổ đau là một sự thật và nhìn sâu vào bản chất của chúng.

Sự thật thứ ba là Diệt – sự chấm dứt khổ đau, nghĩa là sự có mặt của hạnh phúc, cũng như sự vắng mặt của bóng tối là sự có mặt của ánh sáng. Vô minh diệt minh sinh. Lấy đi bóng tối thì ánh sáng xuất hiện. Vậy thì sự chấm dứt khổ đau nghĩa là sự có mặt của hạnh phúc, ngược lại với sự thật thứ nhất.

Giáo lý đạo Bụt khẳng định rằng hạnh phúc là điều có thể. Bởi vì có khổ đau nên có hạnh phúc. Nếu khổ đau được miêu tả trước hết là căng thẳng, stress, nặng nề thì hạnh phúc sẽ là sự nhẹ nhàng, an lạc, thư giãn. Bằng cơ thể mình, bằng hơi thở và bước chân chánh niệm, bạn có thể làm giảm căng thẳng và đem lại sự nhẹ nhàng, an lạc, buông thư.

Chúng ta có thể nói về sự thật thứ tư một cách rất cụ thể. Đó là những phương pháp, cách thức thực tập giúp ta giảm căng thẳng, stress, khổ đau – gọi là Đạo. Các vị giáo thọ thời nay có thể gọi sự thật thứ tư là con đường của hạnh phúc. Sự chấm dứt khổ đau nghĩa là sự khởi đầu của hạnh phúc – rất đơn giản!

 

Từ nhiều vị thần tới một vị thần

Chúng ta hãy quay trở về một chút với lịch sử đạo Bụt nhập thế. Trong thập niên 50, tôi bắt đầu viết bởi vì khi đó người dân đang rất cần một đường hướng tâm linh có thể giúp họ vượt qua tình trạng hoang mang. Một hôm tôi viết một bài về mối liên hệ giữa niềm tin tôn giáo với phương pháp chúng ta tổ chức xã hội. Tôi tóm lược lại lịch sử tiến hóa xã hội.

Tổ chức xã hội sơ khai là các bộ tộc. Dần dần, các bộ tộc họp lại với nhau và cuối cùng hình thành nên vương quốc, có nhà vua trị vì và khi thấy đã có quá đủ các vị vua, con người lại muốn lập nên nền dân chủ hay cộng hòa. Niềm tin tôn giáo của chúng ta cũng thay đổi theo. Ban đầu chúng ta có thuyết đa thần. Song song với sự hình thành các bộ tộc là thuyết tin rằng có nhiều vị thần và mỗi vị thần sở hữu một quyền năng, mỗi người được tự do lựa chọn một vị thần để thờ phụng và vị thần đó sẽ bảo hộ mình trong liên hệ với các vị thần khác và các bộ tộc khác. Khi chế độ quân chủ hình thành, thuyết đa thần chuyển thành thuyết nhất thần – chỉ còn duy nhất một vị Chúa tối cao và chúng ta chỉ thờ phụng một Thượng Đế.

Tới chế độ dân chủ, vua không còn nữa. Mọi người đều bình đẳng với nhau và chúng ta sống dựa vào nhau. Đó là nguyên do tại sao thuyết nhất thần chuyển thành thuyết tương lập – tương tức – ở đó không còn chỗ cho thần linh nữa. Chúng ta phải chịu trách nhiệm hoàn toàn đối với cuộc sống của chúng ta, thế giới của chúng ta, hành tinh của chúng ta. Tôi đã viết những điều đó trong khi đang cố gắng hình thành đạo Bụt nhập thế.

 

Sự ra đời của dòng tu Tiếp Hiện

Dòng tu Tiếp Hiện ra đời năm 1964, và sự ra đời của nó rất có ý nghĩa. Chúng ta chỉ cần học 14 Giới Tiếp Hiện là có thể hiểu được tại sao dòng tu Tiếp Hiện được hình thành và được hình thành như thế nào. Khi đó chiến tranh đang leo thang ác liệt. Đó là cuộc chiến giữa hai ý thức hệ giữa miền Bắc và miền Nam, một bên theo chủ nghĩa Mác-Lênin, còn bên kia theo thuyết nhân vị và chủ nghĩa tư bản. Đó là cuộc chiến tranh không chỉ giữa những ý thức hệ từ bên ngoài mà còn bằng vũ khí của nước ngoài – súng, đạn, bom của Mỹ, Trung Quốc và Liên Xô. Là những Phật tử thực tập theo con đường hòa giải, hòa bình và tình huynh đệ, chúng tôi không chấp nhận một cuộc chiến như thế. Làm sao có thể chấp nhận được một cuộc chiến mà anh em một nhà dùng ý thức hệ và vũ khí của bên ngoài để tàn sát lẫn nhau.

Dòng tu Tiếp Hiện là một phong trào kháng chiến tâm linh. Các giới điều được hoàn toàn lấy từ giáo lý đạo Bụt. Giới thứ nhất – tự do nhận thức là câu trả lời trực tiếp cho chiến tranh, vì khi đó ai cũng sẵn sàng chết hay chiến đấu để bảo vệ niềm tin của mình.

Giới thứ nhất “Ý thức được những khổ đau do thái độ cuồng tín và thiếu bao dung gây ra, con xin nguyện thực tập để đừng bị vướng mắc vào bất cứ một chủ nghĩa nào, một lý thuyết nào, một ý thức hệ nào, kể cả những chủ thuyết Phật giáo…”

Đây quả là tiếng gầm sư tử lớn!

Những giáo nghĩa Bụt dạy phải được nhận thức như những pháp môn hướng dẫn thực tập để phát khởi tuệ giác và từ bi mà không phải là những chân lý để thờ phụng và bảo vệ, nhất là bảo vệ bằng những phương tiện bạo động.

Những lời Bụt dạy được ghi lại trong Kinh Tập (Sutta Nipata) về kiến chấp thật rõ ràng. Chúng ta không nên để bị vướng mắc vào bất kỳ quan điểm nào, chúng ta phải vượt thoát mọi quan điểm.

Chánh kiến trước tiên có nghĩa là sự vắng mặt của mọi quan điểm. Vướng vào quan điểm là nguồn gốc khổ đau. Ví như khi mình leo tới bậc thang thứ tư và nghĩ rằng đó là nấc thang cao nhất, vậy là mình sẽ chỉ dừng tại đó! Mình phải biết từ bỏ nấc thang thứ tư để có khả năng bước lên được nấc thang thứ năm. Trong lĩnh vực khoa học, để có thể tới gần với chân lý hơn, các nhà khoa học phải biết buông bỏ những kiến thức cũ. Bụt dạy rằng: khi ta chấp nhận một điều gì đó là chân lý và bị  kẹt vào đó, ta phải biết buông bỏ để đạt tới cái thấy cao hơn.

Không kẹt vào kiến chấp (phá chấp) là tinh thần của đạo Bụt. Quan điểm không phải là tuệ giác. Quan điểm không phải là trí tuệ. Chúng ta phải luôn trong tư thế sẵn sàng buông bỏ ý kiến, quan điểm của mình để đạt tới tuệ giác. Giả sử mình có một khái niệm về vô thường, vô ngã, tương tức và bốn sự thật mầu nhiệm, điều này rất nguy hiểm vì tất cả những cái đó chỉ là khái niệm. Ta tự hào rằng mình đã hiểu về Tứ Diệu Đế, về tương tức, về duyên sinh, về niệm, định, tuệ, nhưng những kiến thức đó chỉ là phương tiện để giúp mình đạt tới tuệ giác. Nếu bị kẹt vào những kiến thức đó, mình sẽ lỗ lắm. Giáo lý về vô thường, vô ngã, tương tức có mục đích giúp mình đạt được tuệ giác về vô thường, vô ngã và tương tức. Giáo lý không phải là tuệ giác.

Bụt dạy rằng “Giáo lý Bụt dạy như ngón tay chỉ mặt trăng. Mình phải thông minh và khéo léo. Mình phải nhìn theo hướng ngón tay chỉ mới thấy được mặt trăng, nếu cho rằng ngón tay là mặt trăng mình sẽ không bao giờ thấy được mặt trăng”. Như vậy ngay cả giáo lý Bụt dạy cũng không phải là chân lý mà chỉ là phương tiện để đạt tới chân lý. Điều này rất cơ bản trong giáo lý đạo Bụt.

Chiến tranh là hậu quả của thái độ cuồng tín, cố chấp. Nhìn sâu vào bản chất cuộc chiến tranh tại Iraq, ta có thể thấy đó cũng là một cuộc chiến tranh tôn giáo. Người ta lợi dụng niềm tin tôn giáo để phát động chiến tranh. Tổng thống Bush được các nhà truyền giáo cánh tả yểm trợ, trong khi đạo Hồi là điểm tựa cho lực lượng kháng chiến và khủng bố ở Iraq. Vậy nên ở mức độ nào đó, đây là cuộc chiến tranh tôn giáo.  Hòa bình không thể tồn tại nếu chúng ta cứ khăng khăng giữ thái độ cuồng tín.

 

Hoa sen trong biển lửa

Vào năm 1966, tôi có viết một cuốn sách nhỏ về cuộc chiến ở Việt Nam, cuốn Hoa Sen Trong Biển Lửa, được nhà xuất bản Hill and Wang xuất bản tại Hoa Kỳ. Cuộc chiến khi đó đang diễn ra rất dữ dội, chẳng khác gì một biển lửa. Con người giết hại lẫn nhau, máy bay Hoa Kỳ được phép đem bom thả trên những cánh rừng, lên đầu người dân. Vũ khí của Trung Quốc và Liên Xô cũng có mặt. Nhưng giới Phật tử đã cố gắng làm một điều gì đó để tìm lối thoát. Những ai không chấp nhận chiến tranh đã muốn làm gì đó để phản đối chiến tranh. Thỉnh thoảng lại có những cuộc tự thiêu để bày tỏ cho mọi người biết rằng chúng tôi không muốn có chiến tranh này. Giới Phật tử không có đài phát thanh hay truyền hình. Họ không có phương tiện nào để bày tỏ hết.

Có trăng sao mười phương
Có nhân loại, có anh em đây
Cho tôi cất cao lời tố cáo cuộc
chiến tranh này
Cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn
dã man thảm khốc
Ai xô chúng tôi vào vũng lầy giết chóc?
Xin làm chứng cho tôi
Hãy nghe tôi đây
Tôi nói rằng: Tôi không chấp nhận
cuộc chiến tranh này
Chưa bao giờ và không bao giờ
chấp nhận cuộc chiến tranh này
Tôi muốn nhắc lại một ngàn lần, trước khi
tôi bị giết.

Tôi đã viết những dòng thơ như thế.

 

Kẻ thù chúng ta không phải con người.

Kẻ thù chúng ta là hận thù, cuồng tín, bạo động. Kẻ thù chúng ta không phải con người. Nếu giết hết con người, ta sẽ ở với ai? Phong trào hòa bình ở Việt Nam rất cần sự yểm trợ của cộng đồng quốc tế, nhưng các bạn quốc tế không thể nghe thấy chúng tôi. Vậy nên thỉnh thoảng chúng tôi lại phải tự thiêu để báo cho thế giới rằng chúng tôi không muốn cuộc chiến tranh này. Xin hãy giúp chúng tôi chấm dứt cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn này! Đạo Bụt giống như một bông hoa sen đang cố sức vươn lên trong biển lửa.

Tôi đã dịch cuốn sách sang tiếng Việt và một người bạn Mỹ trong phong trào hòa bình mang giúp cuốn sách về Việt Nam. Cuốn sách được in lậu và rất nhiều bạn trẻ đã âm thầm phổ biến cuốn sách, hành động đó cũng giống như hành động kháng chiến vậy.

Sư cô Chân Không, khi đó đang là giảng viên khoa sinh học, đại học Huế, đã cầm theo một bản của cuốn sách ra Huế cho một người bạn. Sư cô đã bị bắt bỏ tù vì bị phát hiện mang trong người cuốn sách. Sau đó sư cô được chuyển ra nhà tù ở Sài Gòn.

 

Trường thanh niên phụng sự xã hội

Nhiều bạn trẻ tới yêu cầu tôi xuất bản tập thơ về hòa bình. Các bạn gọi đó là thơ phản chiến. Tôi chiều ý. Các bạn trẻ đã thu thập được 60 bài thơ về hòa bình của tôi và trình cho chính quyền miền Nam để xin phép xuất bản. Chỉ có vài bài được chấp nhận, 55 bài bị kiểm duyệt. Nhưng các bạn không nản chí, họ đã cho in chui tập thơ và tập thơ bán hết rất mau. Ngay cả một số mật vụ cũng thích tập thơ bởi vì chính họ cũng đang là nạn nhân của cuộc chiến, họ tới hiệu sách và nói “đừng nên bày tập thơ ra như thế, phải giấu đi”. (đại chúng cười)

Các đài phát thanh ở Sài Gòn, Hà Nội, và Bắc Kinh bắt đầu lên tiếng công kích tập thơ vì chúng kêu gọi hòa bình. Không ai muốn hòa bình, bên nào cũng chỉ muốn đánh cho đến cùng.

Năm 1964 tôi cùng các bạn thành lập trường Thanh Niên Phụng Sự Xã hội (TNPSXH). Trường đào tạo hàng ngàn thanh niên, trong đó có cả các thầy và sư cô trẻ, để đi về miền quê giúp những người nông dân tái thiết thôn làng. Chúng tôi hỗ trợ dân làng trong bốn lĩnh vực: giáo dục, y tế, kinh tế và tổ chức. Các tác viên xã hội về các thôn làng, chơi với trẻ em và dạy các em đọc, dạy viết và múa hát. Đến khi người dân làng bắt đầu quý mến các tác viên, chúng tôi mới đề nghị xây dựng trường học cho các cháu. Người góp tre, nhà góp lá dừa để lợp mái, và thế là các em có một ngôi trường. Các tác viên đều làm việc không lương. Sau khi dựng trường, chúng tôi dựng trạm y tế để phát các loại thuốc chữa những căn bệnh thông thường cho dân làng. Chúng tôi cũng mời sinh viên y dược hay bác sĩ về làng trong 1-2 ngày để giúp. Chúng tôi tổ chức các hợp tác xã, cố gắng hướng dẫn người dân những nghề thủ công mà họ có thể làm để cải thiện thu nhập cho gia đình. Những người dân phải tự mình bắt đầu. Trường TNPSXH được tổ chức trên tinh thần không chờ đợi, dựa dẫm vào sự trợ giúp của chính phủ.

 

Đoàn thanh niên cho một xã hội lành mạnh và từ bi

Chúng tôi đã đào tạo rất nhiều bạn trẻ, các thầy, các sư cô trẻ. Cuối cùng chúng tôi có tới hơn mười ngàn tác viên hoạt động từ Quảng Trị trở vào. Trong suốt cuộc chiến tranh, chúng tôi đã bảo trợ cho hơn mười ngàn trẻ em mồ côi. Người trẻ là một phần của phong trào đạo Bụt nhập thế.

Năm nay chúng tôi muốn thành lập một tổ chức cho thanh niên Phật tử và không Phật tử ở Âu châu, gọi là đoàn thanh niên cho một xã hội lành mạnh và từ bi. Rất nhiều bạn trẻ đã tới với chúng tôi, tới dự những khóa tu của chúng tôi ở Âu châu, Mỹ châu và Á châu, và chúng tôi muốn tập hợp các bạn trẻ ấy lại, tổ chức thành đoàn thể. Đoàn thanh niên sẽ thực tập năm phép thực tập chánh niệm (năm giới) và sẽ đi vào cuộc đời để giúp tạo dựng một xã hội lành mạnh hơn, từ bi hơn.

Nếu các bạn ở đây có cảm hứng với ý tưởng này thì xin mời các bạn, sau khi trở về nhà, hãy mời những người bạn của mình lập thành một nhóm “thanh niên cho một xã hội lành mạnh và từ bi.”

Tháng trước, khi mở khóa tu ở Ý, chúng tôi đã tổ chức một ngày thực tập với các bạn trẻ ở thành phố Napoli (Naples). Cả 500 nam nữ thanh niên tới dự khóa tu đều rất thích. Họ đã sẵn sàng cho sự thực tập an lạc, giúp tạo dựng một xã hội lành mạnh hơn, từ bi hơn. Các thầy, các sư cô trẻ của chúng tôi cũng sẽ tham gia tổ chức này.

 

Viện Phật Học Ứng dụng

Chúng tôi cũng vừa thành lập Viện Phật Học Ứng Dụng Châu Âu (VPHUDCA). Tôi hy vọng trong khóa tu này, sư cô Chân Đức sẽ có một buổi thuyết trình về VPHUDCA. VPHUDCA cũng sẽ có những khuôn viên trực thuộc ở châu Mỹ và châu Á. Ai đã tham dự trọn vẹn khóa An Cư Kiết Đông ba tháng ở Làng Mai hay tu viện Lộc Uyển đều sẽ được Viện cấp chứng chỉ hoàn thành khóa học. VPHUDCA sẽ tổ chức rất nhiều khóa học lý thú. Các bạn cũng có thể tự tổ chức những khóa tu tại địa phương mình và chúng tôi sẽ gửi các vị giáo thọ Làng Mai tới hướng dẫn. Một trong những khóa tu có thể là khóa tu 21 ngày dành cho các bạn nam nữ thanh niên đang chuẩn bị kết hôn. Các bạn sẽ được học cách để thành công trong cuộc sống lứa đôi.

Cũng sẽ có những khóa tu dành cho những người nhiễm AIDS hay mắc bệnh ung thư, để họ có thể sống chung an lạc với căn bệnh của mình. Nếu chúng ta biết học cách chấp nhận và sống chung với bệnh tật thì có thể sống thêm được 20 – 30 năm. Cũng sẽ có những khóa học dành cho các doanh nhân, giáo viên, v.v… Chứng chỉ được cấp sẽ giúp các bạn trở thành một vị giáo thọ chính thức. Một ngày nào đó bạn sẽ mong muốn trở thành một vị giáo thọ để đi vào đời giúp mọi người, để tiếp nối sự nghiệp của đức Thế Tôn.

Ngày nay chúng ta dùng danh từ “đạo Bụt ứng dụng”, cũng chỉ là một cách nói khác của “đạo Bụt nhập thế”.

 

 


 

Phiên tả pháp thoại của TS. Nhất Hạnh ngày 6 – 7 tháng 5 năm 2008
tại khách sạn Kim Liên, Hà Nội trong khóa tu cho các thiền sinh Tây phương nhân dịp Đại lễ Phật Đản Quốc Tế Liên Hiệp Quốc 2008.

Xây dựng ngôi nhà tình thương đích thực

Xây dựng ngôi nhà cho chính mình

Mỗi người trong chúng ta đều đang cố gắng đi tìm cho mình một ngôi nhà đích thực. Chúng ta biết rằng ngôi nhà đó đang ở trong ta và với năng lượng chánh niệm, ta có thể trở về mái ấm đích thực của mình ngay trong giây phút hiện tại, bây giờ và ở đây. Tăng thân cũng là nhà chúng ta.

Ở Việt Nam, người chồng gọi vợ mình là “nhà tôi” và người vợ cũng gọi chồng mình là “nhà” của cô ấy. “Nhà tôi” có nghĩa là căn nhà của tôi. Khi có người hỏi: “Vợ anh đâu rồi?” người kia sẽ trả lời: “Nhà tôi đang ra bưu điện.” Cũng đã có một vị khách hỏi người vợ: “Ai trang trí nhà bạn mà đẹp quá vậy?” Cô vợ trả lời: “Nhà tôi sửa soạn cái nhà tôi”, điều đó cũng có nghĩa là “chồng tôi đã làm cho ngôi nhà của chúng tôi trở nên đẹp như vậy đó”. Hay khi người chồng gọi vợ: “Nhà mình ơi!” (nhà của tôi), cô vợ sẽ đáp là: “Em đây! Nhà mình ơi.”

Khi quý vị có một mối liên hệ như vậy, nghĩa là người kia là ngôi nhà của quý vị, thì quý vị cũng hãy là một ngôi nhà đích thực cho người đó. Tuy nhiên, trước nhất, quý vị phải là ngôi nhà đích thực cho chính mình thì mới có thể là ngôi nhà cho người thương của quý vị. Và chánh niệm là sự thực tập để có thể là một ngôi nhà đích thực cho chính ta và cho những người ta thương.

Ở Làng Mai, mỗi khi nghe chuông, chúng ta ngừng lại mọi suy nghĩ, nói năng hoặc hành động. Chúng ta để sự chú tâm vào hơi thở vào ra và đọc thầm: “Lắng lòng nghe, lắng lòng nghe. Tiếng chuông huyền diệu đưa về quê hương.” Ngôi nhà đích thực của ta đang ở trong ta. Ngôi nhà đích thực của chúng ta là bây giờ và ở đây. Vì vậy sự thực tập quay về nhà là điều mà chúng ta làm suốt mỗi ngày, bởi vì trong chúng ta, ai cũng chỉ thấy thoải mái khi được ở trong nhà của mình. Ngôi nhà của chúng ta đang có đó và chúng ta có thể quay về nhà trong mỗi phút mỗi giây. Ngôi nhà của chúng ta phải là một nơi an toàn, thân thương và ấm cúng. Do đó, chính chúng ta phải là người xây dựng nên ngôi nhà của mình bằng những yếu tố đó.

Tuần trước, tôi có ngồi uống trà với một cặp vợ chồng người Anh. Họ đã sống hai tuần ở Làng Mai với quý thầy ở xóm Thượng. Người vợ nói: “Thật lạ. Đây là lần đầu tiên con sống ở một nơi có cả trăm người đàn ông và không có phụ nữ. Vậy mà con cảm thấy rất an toàn ở xóm Thượng. Con chưa bao giờ cảm thấy an toàn như vậy.” Ở xóm Thượng, cô ta là người phụ nữ duy nhất, nhưng cô thấy rất an toàn. Và nơi nào mà cô ta cảm thấy an toàn thì nơi đó là nhà cô ta, bởi vì ngôi nhà phải là nơi mà khi sống trong đó ta cảm thấy an toàn. Vậy, quý vị có phải là một nơi an toàn cho những người thương của quý vị không? Quý vị có đủ vững chãi, mạnh mẽ để bảo vệ cho người thương của mình không?

Người chồng nói: “Hai tuần vừa qua có lẽ là hai tuần tuyệt nhất trong đời con.” Đó chính là nhờ công trình xây dựng tăng thân. Khi quý vị xây dựng một tăng thân thì quý vị cũng đang xây dựng một mái ấm cho chính mình. Ở nơi đó, quý vị cảm thấy như nhà của mình, dễ chịu và an toàn. Nếu quý vị không thấy an toàn trong tự thân thì quý vị không phải là ngôi nhà cho chính mình và không thể là một ngôi nhà cho người thương của quý vị. Đó là lý do tại sao quay trở về với chính mình để tạo nên một nơi an toàn cho mình và cho những người mình thương lại quan trọng đến như vậy.

Nếu quý vị cảm thấy cô đơn, trống vắng, cảm thấy bị mất gốc, đau khổ và cần được trị liệu thì quý vị không thể mong đợi một sự trị liệu bằng việc quan hệ tình dục với người khác. Quan hệ tình dục không thể giúp quý vị trị liệu. Quý vị sẽ gây thêm nhiều đau khổ cho người kia cũng như cho chính quý vị. Trong Giới thứ ba, chúng ta biết rằng tình dục không phải là tình yêu. Và một khi không có tình yêu thì những quan hệ tình dục sẽ mang lại nhiều đau khổ cho quý vị và cho người khác. Cô đơn không thể được giải tỏa bằng dục tình và quý vị không thể trị liệu cho mình bằng cách ấy. Quý vị phải học cách trị liệu cho chính mình, làm thế nào để trong mình được thoải mái và bắt đầu xây dựng ngôi nhà cho chính mình. Như vậy, quý vị mới có cái gì đó để hiến tặng cho người khác. Bên cạnh đó, người kia cũng phải tự trị liệu để thấy khỏe nhẹ, dễ chịu và có thể trở thành ngôi nhà cho quý vị. Nếu không, thì những gì người đó chia sẻ với quý vị chỉ toàn là cô đơn, bệnh hoạn và đau khổ. Điều đó không giúp trị liệu cho quý vị được một chút nào.

Lắng nghe nỗi khổ niềm đau trong tự thân

Có ba loại quan hệ. Thứ nhất là quan hệ về thân thể và tình dục. Thứ hai là quan hệ tình cảm và thứ ba là quan hệ tâm linh. Quan hệ tình dục không thể tách rời khỏi quan hệ tình cảm. Chúng đi đôi với nhau. Và nếu quan hệ tâm linh có mặt thì những quan hệ về thân thể và tình dục sẽ trở nên ý nghĩa, lành mạnh và có tác dụng trị liệu. Ngược lại, sẽ đưa đến tàn hoại.

Mỗi người trong chúng ta đều đang đi tìm kiếm những mối quan hệ tình cảm. Chúng ta muốn hiểu nhau, muốn có truyền thông thực sự và muốn trao đổi tâm tư tình cảm cho nhau. Dưới ánh sáng của sự thực tập đạo Bụt, chúng ta phải lắng nghe nỗi đau khổ của chính mình. Có những đau khổ bên trong quý vị và những đau khổ trong lòng người kia. Nếu không lắng nghe nỗi khổ đau của chính mình, quý vị sẽ không hiểu được nó và quý vị sẽ không có từ bi với chính mình. Trong khi đó từ bi là yếu tố giúp quý vị trị liệu.

Điều đầu tiên Bụt dạy là những đau khổ bên trong. Nhiều người trong chúng ta thường hay sợ hãi. Chúng ta không muốn quay về với chính mình vì ta tin rằng quay về với chính mình ta sẽ phải đối đầu với khối phiền não nội tại của ta và bị nhận chìm trong ấy. Thay vào đó, chúng ta cố khỏa lấp bằng việc tiêu thụ. Chúng ta tiêu thụ thức ăn, âm nhạc và rất nhiều thứ khác, trong đó có tình dục. Thế nhưng những điều ấy chẳng giúp ích được gì cho ta. Vì vậy Bụt dạy chúng ta phải dũng cảm quay về nhà của mình, để nhận diện và lắng nghe một cách sâu sắc những đau khổ trong ta. Chúng ta có thể sử dụng năng lượng chánh niệm được chế tác bằng những hơi thở và bước chân có ý thức, để nhẹ nhàng ôm ấp những đau khổ đó: “Nỗi đau của tôi ơi, tôi biết em đang có đó. Tôi đang ở đây và tôi sẽ chăm sóc cho em.”

Có những lúc chúng ta đau khổ mà không hiểu được bản chất của những nỗi khổ đó. Tổ tiên, cha mẹ ta có lẽ đã không thể chuyển hóa được những nỗi khổ niềm đau của họ nên đã trao truyền nó lại cho ta. Giờ đây, chúng ta đã có cơ may gặp được Pháp Bụt, chúng ta có cơ hội để nhận diện, ôm ấp và chuyển hóa cho chính ta và cho cả tổ tiên, ông bà, cha mẹ ta: “Kính lạy liệt vị tổ tiên, ông bà, cha mẹ, con đã tiếp nhận những đau khổ này từ liệt vị. Giờ đây, con có giáo pháp, con có các pháp môn thực tập. Con sẽ học hỏi để nhận diện những đau khổ đã được trao truyền cho con và con sẽ cố gắng chấp nhận, chuyển hóa nó bằng tình thương yêu.” Quý vị có thể làm điều đó vì tình thương. Quý vị làm cho cha mẹ, cho tổ tiên, bởi vì quý vị cũng chính là tổ tiên của quý vị.

Theo giáo lý Tứ Diệu Đế, chúng ta sẽ không hiểu được gốc rễ khổ đau nếu chúng ta không biết lắng nghe nỗi khổ niềm đau, không biết nhìn sâu và ôm ấp nỗi khổ niềm đau một cách nhẹ nhàng bằng năng lượng chánh niệm. Khi bắt đầu hiểu được gốc rễ của khổ đau thì tự nhiên năng lượng từ bi, hiểu biết sẽ phát khởi. Từ bi và hiểu biết có công năng trị liệu. Ôm ấp và lắng nghe khổ đau sẽ mang lại cho chúng ta nhiều hiểu biết và từ bi. Khi cam lộ của từ bi ứa ra, chúng ta sẽ thấy ít đau khổ và ít cô độc hơn. Chúng ta bắt đầu thấy ấm áp trong lòng và có thể bắt đầu xây dựng một ngôi nhà cho chính mình. Bụt khuyên chúng ta nên xây dựng cho chính mình một ngôi nhà, một hải đảo tự thân. Hãy là hải đảo cho chính mình. Quý vị sẽ cảm thấy thoải mái, ấm áp và có thể trở thành một nơi nương tựa cho người khác.

Một khi đã hiểu được những nỗi khổ niềm đau, hiểu được sự cô đơn của chính mình, quý vị sẽ thấy nhẹ nhàng hơn và có thể lắng nghe nỗi khổ niềm đau của những người khác. Nỗi đau khổ của ta mang trong nó những đau khổ của tổ tiên, của thế giới và của xã hội. Tương tức có nghĩa là đau khổ của tôi có trong đau khổ của quý vị và ngược lại, những đau khổ của quý vị cũng có trong những đau khổ của tôi. Đó là lý do tại sao khi tôi hiểu được những đau khổ của tôi thì tôi dễ dàng hiểu được những đau khổ của quý vị. Khi chúng ta hiểu được nỗi đau khổ của ai đó thì đó là một món quà lớn mà chúng ta có thể hiến tặng cho người đó. Người kia sẽ cảm thấy đây là lần đầu tiên mình được hiểu. Hiến tặng sự hiểu biết, cảm thông có nghĩa là hiến tặng tình thương. Tuy nhiên, chúng ta không thể hiểu được một người nào khác trong khi chưa hiểu được bản thân mình. Xây dựng ngôi nhà phải bắt đầu với chính quý vị. Và người thương của quý vị cũng xây dựng một ngôi nhà bên trong người đó. Như vậy, quý vị có thể gọi cô ta là nhà mình và cô ta cũng gọi quý vị là nhà của cô ta.

Ở Xóm Thượng, chúng ta xây dựng tăng thân như xây nhà cho mình. Quý vị cũng xây dựng gia đình quý vị như một tăng thân, bởi vì “tăng thân” đơn giản nghĩa là “một cộng đồng, một đoàn thể”. Xây dựng tăng thân là một nhiệm vụ cao đẹp. Sau khi Bụt giác ngộ, điều đầu tiên Ngài dạy chúng ta là tìm kiếm những yếu tố để xây dựng tăng thân. Tăng thân là nơi nương tựa cho chính chúng ta và cho rất nhiều người.

Vì vậy, chúng ta hãy trở về nhà, lắng nghe những đau khổ trong thân tâm ta. Ôm ấp những nỗi khổ, niềm đau, sự cô đơn của mình bằng năng lượng chánh niệm. Tuệ giác đó sẽ giúp chuyển hóa những đau khổ trong ta. Chúng ta cảm thấy nhẹ nhàng hơn và bắt đầu cảm nhận được một sự ấm áp, bình an nội tâm. Rồi khi có một người đến với ta để xây dựng tổ ấm, ta sẽ có đồng minh. Ta sẽ giúp người đó và người đó cũng giúp ta. Cả hai cùng có được một tổ ấm. Ta có một ngôi nhà trong tự thân ta. Ta cũng có một ngôi nhà trong người kia. Nếu không thiết lập được mối liên hệ tình cảm mật thiết đó thì quan hệ tình dục có thể gây ra nhiều thảm họa. Đó là lý do tại sao trước đó tôi nói quan hệ thân thể và tình dục không thể tách rời khỏi quan hệ tình cảm.

Mối liên hệ giữa tâm linh và tình cảm

Giữa tâm linh và tình cảm có một sự liên kết chặt chẽ với nhau. Tâm linh không chỉ là đức tin về một giáo pháp nào đó mà là sự thực tập. Thực tập luôn mang lại sự khỏe nhẹ, truyền thông và chuyển hóa. Mỗi người cần có một đường hướng tâm linh trong cuộc sống của mình. Không có hướng đi tâm linh trong cuộc đời, chúng ta không thể xử lý được những khó khăn gặp phải. Chúng ta phải biết sống một đời sống tâm linh, một đời sống có giáo pháp. Chúng ta phải học cách đưa giáo pháp vào sự thực tập. Và với cách thức thực tập đó, chúng ta có thể giải quyết được những khó khăn mà ta gặp phải trong đời sống hàng ngày.

Sự thực tập tâm linh có thể giúp quý vị rất nhiều trong việc đối trị những cảm xúc của mình, giúp quý vị lắng nghe, ôm ấp những đau khổ của chính mình cũng như nhận diện và ôm ấp nỗi khổ niềm đau của người khác. Vì vậy hai loại quan hệ (tình cảm và tâm linh) này tương tức nhau. Quý vị phải biết cách chăm sóc những cơn cảm xúc mạnh như giận dữ, lo sợ hay tuyệt vọng. Từ đó quý vị sẽ có nhiều an lạc hơn trong tự thân. Sự thực tập tâm linh giúp quý vị xây dựng một ngôi nhà cho chính quý vị, cho lợi ích của quý vị và lợi ích của người khác. Cho nên quan hệ tình cảm không thể tách rời quan hệ tâm linh. Cả ba loại quan hệ này đều tương tức với nhau.

Tình dục và tình yêu

Tình dục mà không có tình yêu gọi là “tình dục rỗng” (empty sex). Tình dục rỗng rất phổ biến trong xã hội chúng ta và là nguyên nhân gây nên nhiều đau khổ cho giới trẻ. Nếu quý vị là giáo viên, là các bậc làm cha mẹ, quý vị phải giúp cho con em và sinh viên của mình tránh khỏi tình trạng “tình dục rỗng” này. “Tình dục rỗng” đang mang lại nhiều tàn hại cho thân tâm chúng. Và thảm kịch sẽ còn lan rộng cho đến về sau dưới dạng trầm cảm, rối loạn tâm thần, tự tử… Nhiều người trẻ không thấy được sự liên hệ mật thiết giữa “tình dục rỗng” với những rối loạn về tâm sinh lý trong họ.

Những gì xảy ra cho thân thể đều ảnh hưởng đến tâm lý và ngược lại. Tâm dựa vào thân để biểu hiện và thân phải dựa vào tâm để tồn tại, để thực sự là một thân thể sống. Khi thương một người nào đó, không phải quý vị chỉ kính trọng tâm tư người đó mà còn phải kính trọng cả thân thể họ. Quý vị kính trọng thân thể mình và kính trọng thân thể của người kia. Tình yêu thương đích thực phải có bản chất của sự tôn kính. Trong truyền thống Á Đông, quý vị phải đối đãi với vị hôn thê của mình một cách trân trọng, giống như một vị khách quý. Và để tôn trọng người kia, quý vị phải tôn trọng chính mình trước. Tôn kính là bản chất của tình yêu thương.

Ở Việt Nam, cha mẹ thường tự hào giới thiệu con mình với những người khách đến chơi và khách thường hỏi: “Con có thương ba mẹ con không?” Đứa con sẽ trả lời: “Dạ có, con thương ba mẹ con lắm.” Người khách sẽ hỏi tiếp: “Thương ba mẹ, con để ở đâu?” Đứa trẻ sẽ trả lời rằng: “Dạ, thương ba mẹ, con để trên đầu.” Không phải “trong tim” mà là “trên đầu”. Khi một vị tu sĩ đắp y vàng cho một buổi lễ, người đó sẽ nâng chiếc y trong tay một cách trân kỉnh, tương tự như khi cầm một quyển kinh. Nếu quý vị đến gần để xá chào họ mà họ không tìm thấy một nơi nào cao ráo sạch sẽ để đặt chiếc y xuống thì họ sẽ đặt nó lên đầu, bởi vì đó là một nơi cao quý. Giống như cái bàn thờ vậy. Vì vậy trong phong tục tập quán của người Việt, quý vị không được sờ lên đầu người khác nếu quý vị không biết rõ về người đó. Đầu là một trong những nơi linh thiêng của thân thể, là nơi để thờ tổ tiên và thờ Bụt.

Có những bộ phận khác của thân thể cũng linh thiêng mà quý vị không được chạm tới. Cũng giống như trong Thành Nội có Tử Cấm Thành là nơi mà gia đình hoàng tộc đang ở. Quý vị không được đến những nơi đó. Nếu xâm phạm, quý vị sẽ bị bắt và bị chém đầu. Tương tự như vậy, trên cơ thể con người, có những vùng mà quý vị không được phép chạm đến. Nếu quý vị không tôn trọng, nếu quý vị chạm đến phần thân thể đó thì có nghĩa là quý vị đang xâm nhập vào Tử Cấm Thành. Khi một đứa trẻ bị lạm dụng tình dục, nó sẽ đau khổ cùng cực. Người đó đã xâm phạm đến Tử Cấm Thành của nó và nó không đủ khả năng để tự vệ. Có những đứa trẻ đã bị lạm dụng ở tuổi lên tám, lên chín hoặc lên mười và chúng cực kỳ đau khổ. Chúng trách móc cha mẹ đã không bảo vệ chúng và những liên hệ của chúng với cha mẹ trở nên rất khó khăn. Kế đó là những mối liên hệ với bạn bè và người yêu trong tương lai của chúng cũng sẽ rất khó khăn. Những vết thương sẽ cứ còn đó hoài.

Tình trạng lạm dụng tình dục ở trẻ em đang tràn ngập khắp nơi. Ở Mỹ, có 5 đến 15% bé trai và 15 đến 35% bé gái bị lạm dụng tình dục. Như vậy là quá nhiều. Khi một đứa trẻ bị lạm dụng như vậy, nó sẽ đau khổ suốt đời, bởi vì nó thấy thân thể nó đã không được tôn trọng.

Trong gia đình và trường học, chúng ta cần dạy cho những đứa trẻ biết kính trọng chính mình, biết kính trọng thân thể mình và kính trọng thân thể của người khác. Nếu là một nhà lãnh đạo tâm linh, là một chính trị gia, là phụ huynh, là giáo viên hoặc nhà giáo dục, xin quý vị hãy quan tâm về điều này. Chúng ta có thể học những lời Bụt dạy để tổ chức đời sống của mình trong gia đình, trường học và xã hội như thế nào mà ta được bảo hộ và con em chúng ta cũng luôn luôn được bảo hộ.

Bạn chỉ đẹp khi là chính mình (Be beautiful, be yourself)

Triển lãm thư pháp ABC New York 2013 (2).jpg

Như chúng ta đã nói ở trước rằng thú vui nhục dục, sự ham muốn dục tình, không phải là tình yêu, thế nhưng xã hội đã tạo nên một cách sống mà người ta thấy rằng thú vui nhục dục trở thành quan trọng nhất. Để bán được những sản phẩm của mình, các công ty kinh doanh thường chế ra những mẫu quảng cáo làm tưới tẩm những hạt giống thèm khát trong con người. Họ muốn ta phải tiêu thụ, vì vậy trong ta càng ngày càng tăng trưởng thêm sự thèm muốn về thú vui nhục dục. Và chính những thú vui này sẽ hủy hoại chúng ta. Cái chúng ta cần không phải là tình dục mà là tình thương, hiểu biết, cảm thông, tin tưởng, những liên hệ mật thiết về tình cảm và tâm linh. Tuy nhiên, chúng ta không có cơ hội đáp ứng được những nhu cầu sâu sắc đó trong ta.

Những tạp chí thời trang phụ nữ nói rằng, để được thành công, quý vị phải có một dáng vẻ như thế này và phải sử dụng những loại sản phẩm như thế kia. Do vậy, nhiều người trẻ trong xã hội phải tìm đến giải phẫu thẩm mỹ để đạt được tiêu chuẩn đẹp đó. Họ rất đau khổ vì không thể chấp nhận được thân thể mình. Nếu không chấp nhận được thân thể mình thì quý vị không phải là ngôi nhà đích thực cho quý vị. Mỗi đứa trẻ đã được sinh ra như một bông hoa trong vườn hoa nhân loại. Thân thể quý vị cũng là một bông hoa và không có bông hoa nào giống bông hoa nào. Thở vào, tôi thấy tôi là một bông hoa. Thở ra, tôi thấy tôi tươi mát. Nếu quý vị có khả năng chấp nhận thân thể mình thì quý vị có cơ hội để thấy được thân thể mình là một ngôi nhà. Nếu quý vị không chấp nhận thân thể mình thì quý vị không thể có được một ngôi nhà. Nếu quý vị không thể chấp nhận được tâm tư của mình thì quý vị cũng không thể là ngôi nhà cho chính mình. Có rất nhiều người trẻ không chấp nhận được thân thể họ, không chấp nhận được chính họ, họ muốn trở thành một ai khác. Chúng ta phải nói với những người trẻ rằng là họ vốn như vậy đã đẹp rồi, không cần phải là một ai khác.

Thầy có câu thư pháp: Be beautiful, be yourself (“Bạn chỉ đẹp khi là chính mình”). Đây là một sự thực tập rất quan trọng. Chúng ta phải chấp nhận mình như chính mình. Thực tập xây dựng ngôi nhà trong tự thân, chúng ta sẽ trở nên càng ngày càng đẹp hơn. Chúng ta có an lạc, có nhiệt huyết, có niềm vui. Chúng ta sẽ thấy, ngay trong tự thân chúng ta đã rất tuyệt diệu rồi. Và người khác sẽ nhận ra được vẻ đẹp của bông hoa mình.

Chánh niệm là một loại năng lượng có thể giúp quý vị trở về ngôi nhà của chính mình, an trú trong giây phút hiện tại, bây giờ và ở đây. Vì thế, quý vị biết được những gì nên làm và những gì không nên làm để giữ gìn, bảo hộ chính mình, để xây dựng ngôi nhà đích thực cho chính mình, để chuyển hóa phiền não và để làm nơi nương tựa cho những người khác. Năm giới là con đường thực tập chánh niệm rất cụ thể. Trong truyền thống đạo Bụt, chất thánh được chế tác từ chánh niệm. Chánh niệm mang trong nó năng lượng của định và tuệ. Niệm, định và tuệ tạo nên con người thánh thiện trong quý vị.

Sự thánh thiện không chỉ có trong cuộc sống độc thân. Có những người sống độc thân nhưng không có chất thánh trong họ, bởi vì họ không có đủ niệm, định và tuệ. Ngược lại, có những người sống đời sống vợ chồng nhưng nếu họ có niệm, định và tuệ thì họ có được những yếu tố thánh thiện. Liên hệ tình dục có thể rất đẹp nếu trong đó có niệm, định, tuệ, có tình yêu thương và sự hiểu biết lẫn nhau. Ngược lại, nó sẽ gây ra rất nhiều tai hại. Trong kinh kể rằng khi hoàng hậu Mahamaya mang thai Bụt, bà nằm mơ thấy một con voi trắng, mang trên cái vòi của nó một đóa sen. Con voi dùng đóa sen chạm vào người bà và từ từ đi vào bụng bà một cách rất, rất nhẹ nhàng. Sau đó bà mang thai Siddhartha. Đó là cách người ta miêu tả về sự liên hệ tình dục, trong cung điện, trước khi Siddhartha được tượng hình: rất nhẹ nhàng và rất đẹp. Nếu không có sự đồng cảm, không có sự hiểu biết, không chia sẻ được về tâm tư tình cảm thì không nên có quan hệ tình dục. Ngược lại, khi những yếu tố này có mặt thì quan hệ thân xác và tình dục có thể trở nên thánh thiện.

Theo truyền thống đạo Bụt thì người tu sĩ luôn thực tập dễ dàng hơn người cư sĩ. Tục ngữ Việt Nam có câu: Khó nhất tu chợ, khó nhì tu nhà, khó ba tu chùa. Vì thế, không quan hệ tình dục thì dễ hơn nhiều so với có quan hệ tình dục. Để mối quan hệ tình dục có được sự hiểu biết, cảm thông và thương yêu, quý vị cần thực tập rất nhiều. Nếu không sẽ gây ra rất nhiều đau khổ cho người kia và cho chính quý vị.

Có một nữ bác sĩ người Thụy Sĩ đến thực tập ở Làng Mai. Cô ta đã đau khổ mấy lần vì những mối liên hệ của mình. Khi còn trẻ, mỗi khi có người đàn ông nào đến đề nghị quan hệ tình dục với cô, cô đều đồng ý chấp nhận cho dù cô thấy không sẵn sàng, bởi vì cô sợ. Rất nhiều người trẻ vị thành niên trong thời đại chúng ta rơi vào tình trạng đó. Chúng không thích, không muốn và chưa thấy sẵn sàng nhưng chúng không đủ can đảm để từ chối, bởi vì chúng sợ người ta xem chúng là những người không tự nhiên, không bình thường. Chúng không muốn bị chối bỏ. Chúng muốn được chấp nhận. Đây là vấn đề tâm lý mà các bậc cha mẹ và các thầy cô giáo phải ý thức đến. Chúng ta phải nói với giới trẻ rằng chúng phải học cách từ chối khi chúng chưa sẵn sàng hoặc khi chúng sợ hãi. Nếu không, chúng sẽ tự tàn phá thân tâm mình. Hãy lắng nghe những người trẻ, hãy từ bi với chúng và giúp đỡ chúng. Chúng ta phải giúp con em mình tìm ra cách khéo léo để từ chối.

Khi đến Làng Mai, cô bác sĩ đó được học những cách từ chối khéo léo. Và trong mối liên hệ gần đây nhất, cô ta đã có khả năng từ chối. Cô nói: “Em cần anh, em cần sự có mặt của anh. Em cần ai đó giúp em và hiểu em khi em gặp những khó khăn. Chúng ta cần hiểu nhau.” Họ đã sống với nhau một năm rưỡi mà không có quan hệ tình dục. Và khi chúng tôi đến nước cô ta để giảng dạy, cô đã rất tự hào giới thiệu chồng cô ta với chúng tôi. Mối liên hệ của họ rất tuyệt vời, rất thành công, bởi vì cô ta đã có khả năng từ chối cho đến khi cô ta thấy sẵn sàng và cùng với nhau họ có thể xây dựng một mối quan hệ bền vững lâu dài.

Pháp thoại Giáng Sinh, 26.12.2010 – Sr. Duyệt Nghiêm chuyển ngữ)=
Nguồn: “”Make a True Home of Your Love” edited by Barbara Casey – Mindfulness Bell.

Chiếc đũa thần chánh niệm


 

Trong bài thuyết pháp đầu tiên của Bụt tại Vườn Nai có nói tới Tứ Đế và Bát Chánh Đạo. Tứ Đế và Bát Chánh Đạo là giáo lý căn bản. Nhiều khi chúng ta nghĩ rằng mình đã hiểu được giáo lý Bốn Sự Thật và Tám Phép Hành Trì Chân Chính, nhưng càng hành trì thì cái hiểu của chúng ta càng sâu hơn. Mình đừng bao giờ nên cho rằng mình đã hiểu đầy đủ.

Khổ đau là chất liệu của hạnh phúc

Mình có thể hiểu giáo lý Bốn Sự Thật (khổ, tập, diệt, đạo) một cách sâu hơn. Đức Thế Tôn bắt đầu bằng sự thật về khổ đau tại vì Ngài muốn bàn tới những chuyện rất thực tế: Có những khổ đau ở trong mình và chung quanh mình. Khổ là ngược lại với vui, mình nhận ra khổ đau tại vì mình so sánh nó với hạnh phúc. Sự thật thứ ba (diệt) là sự vắng mặt của khổ tức khổ diệt, mà sự vắng mặt của khổ là sự có mặt của hạnh phúc.

Khi giảng về Tứ Đế Bụt không chỉ nói tới khổ mà còn nói tới lạc. Mình nhận ra lạc là nhờ mình so sánh nó với khổ cũng như bên trái mà bên phải, không có bên trái thì không có bên phải. Có lạc là có khổ, công nhận có khổ thì đồng thời mình cũng công nhận có lạc, chỉ có khổ mà không có lạc là chuyện không hợp lý. Nếu công nhận có tay trái thì đồng thời mình cũng công nhận có tay phải. Công nhận sự có mặt của khổ thì đồng thời cũng công nhận sự có mặt của lạc.

Chúng ta thường rất ngây thơ, muốn đi tìm một chỗ chỉ có lạc mà không có khổ. Tìm một chỗ chỉ có tay phải mà không có tay trái, chỉ có trên mà không có dưới thì làm sao có? Vậy mà hầu hết chúng ta đều mơ ước tìm tới một chỗ chỉ có hạnh phúc mà không có khổ đau.

Ngày xưa có một em bé nói: Con muốn tới ở chỗ nào mà buổi sáng có hạnh phúc, buổi trưa cũng có hạnh phúc, buổi chiều cũng có hạnh phúc. Em bé đó về sau đi xuất gia và trở thành sư cô Nho Nghiêm. Những người theo đạo Chúa nghĩ rằng Thiên quốc là một chỗ hoàn toàn không có khổ mà chỉ có lạc. Những người cầu sinh Tịnh độ nghĩ rằng cõi của Đức A Di Đà không có khổ tại vì có một câu kinh chứng minh điều đó: “Này Xá Lợi Phất, đất nước ấy vì sao có tên là Cực Lạc? Bởi vì dân chúng trong nước ấy không biết khổ là gì, chỉ hưởng thụ mọi thứ an lạc, cho nên cõi ấy được gọi là Cực Lạc”. Tưởng tượng rằng có một cõi mà nơi đó chỉ có hạnh phúc không có khổ đau là một tri giác sai lầm gọi là tà kiến. Sự thật là hễ có trái là có phải, không có trái thì không có phải. Mình được nghe nhiều lần rằng chính với chất liệu của khổ đau mà mình làm ra an lạc. Nhờ có bùn mà nuôi lớn hoa sen. Mình biết đau khổ đóng một vai trò nào đó trong sự tạo dựng hạnh phúc. Đau khổ là chất liệu cần thiết để tạo dựng hạnh phúc cũng như bùn là chất liệu cần thiết để làm ra hoa sen. Trong một bài giảng tôi có nói tôi không muốn gửi con cháu, đệ tử của tôi tới một chỗ không có khổ đau. Tôi không tin có một cõi như vậy, nhưng giả dụ có cõi đó đi nữa thì tôi cũng không muốn gửi con cháu, đệ tử của tôi tới đó tại vì tôi biết ở đó các đệ tử và con cháu của tôi sẽ không có cơ hội lớn lên. Sống trong khổ đau người ta mới tìm hiểu khổ đau, có hiểu rồi mới có thương. Không có hiểu, không có thương thì không có hạnh phúc. Vì vậy tôi biết nơi đó không phải là cõi hạnh phúc dù cho đó là Thiên quốc cũng như tôi biết chỗ nào không có bùn thì chắc chắn nơi đó không có sen. Tư tưởng Thiên quốc hay Cực lạc là một chỗ không có khổ đau, chỉ có toàn hạnh phúc, trong đạo Bụt gọi đó là một tà kiến.

Chế tác hạnh phúc

Là những người thực tập mình phải có khả năng đối diện với khổ, phải chuyển hóa khổ đau và chế tác hạnh phúc. Mình đừng nên nghĩ là mình giỏi đến độ có thể làm cho khổ đau hoàn toàn vắng mặt chỉ còn lại hạnh phúc đứng một mình. Chỉ có hạnh phúc đứng một mình là chuyện không thể có. Trong sự sống phải có khổ đau, bất cứ ở đâu hễ có sự sống là có khổ đau, ở Thiên quốc hay ở Cực lạc cũng vậy. Nhưng người tu thì không sợ hãi khổ đau, người tu biết xử lý khổ đau và tạo dựng hạnh phúc từ những khổ đau đó. Người tu không có vọng tưởng lấy hết khổ đau đi để còn lại chỉ toàn hạnh phúc. Mình phải có chánh kiến đối với vấn đề khổ đau và hạnh phúc, đó là chính khổ đau làm ra hạnh phúc. Nếu không biết cách duy trì thì hạnh phúc sẽ biến thành khổ đau giống như hoa và rác. Tu là một nghệ thuật giúp mình chuyển khổ đau thành hạnh phúc và khi hạnh phúc trở thành khổ đau thì mình có thể chuyển nó thành hạnh phúc trở lại. Mình sử dụng những chất liệu khổ đau để tạo dựng hạnh phúc. Hạnh phúc cũng vô thường như khổ đau. Người tu không mong ước chỉ có hạnh phúc mà không có khổ đau. Người tu mong ước mình có đủ khả năng để có thể chuyển hóa khổ đau khi hạnh phúc trở thành khổ đau.

Trong năm uẩn có cảm thọ:  khổ thọ  (苦 壽), lạc thọ (樂 壽) và xả thọ (捨 壽). Xả thọ là cảm thọ không khó chịu cũng không dễ chịu. Trong quá trình tu tập mình khám phá ra xả thọ là một cảm thọ rất ngộ nghĩnh. Xả thọ là cảm giác trung tính, nhưng bằng kinh nghiệm mình tìm ra rằng nếu mình chạm vào xả thọ với chánh niệm thì xả thọ có thể trở thành lạc thọ. Ví dụ mình đang ngồi dưới gốc một cây cổ thụ, không có tin vui mà cũng không có tin buồn. Một người bạn hỏi:
–          Anh làm gì đó?
–          Tôi không làm gì cả.
–          Có gì đặc biệt không?
–          Thường thôi,  không vui cũng không buồn.
Người bạn nói:
–          Anh có biết không, gốc cây anh đang ngồi rất mát. Ngồi đó nhìn lên anh thấy trời xanh mây trắng. Hiện bây giờ bên Nga đang rất nóng đã có nhiều người chết ở đó. Anh đang ngồi dưới gốc cây tận hưởng không khí mát mẻ. Đó là một điều rất mầu nhiệm!
Đó là ý thức, là chánh niệm mà người bạn đem tới và tự nhiên mình thấy cảm thọ trung tính kia trở thành lạc thọ. Ngón tay của chánh niệm giống như chiếc đũa thần của nàng tiên chấm vào, biến áo quần sơ mướp của cô Tấm thành xiêm y lộng lẫy. Đũa chánh niệm có phép thần thông, người tu dùng đũa chánh niệm điểm vào, biến xả thọ trở thành lạc thọ. Làng Mai nói chánh niệm là một nguồn suối của hạnh phúc. Chuyện này không khó, ai cũng có thể làm được và lúc nào cũng có thể làm được. Ngồi trên bờ sông cảm thọ mà quán sát chúng ta thấy thường là ta có chừng 10% khổ thọ, 5% lạc thọ và 85% xả thọ. Với chiếc đũa chánh niệm mình biến 85% xả thọ trở thành lạc thọ. Chúng ta ai cũng đã từng làm được việc đó, nhưng có điều chúng ta không tiếp tục, không được khuyến khích, nâng đỡ để làm việc đó. Ai cũng có khả năng nhận diện được điều kiện hạnh phúc hiện đang có mặt, không cần đi tìm trong tương lai. Trong dòng sông cảm thọ của ta, đa số là cảm thọ trung tính, nếu biết dùng chiếc đũa thần mình sẽ biến cảm thọ trung tính thành lạc thọ nuôi dưỡng và trị liệu cho mình.

Sống trong tăng thân, người nào cũng nên có một chiếc đũa thần. Mình lấy đũa thần chạm vào người kia cho họ có hạnh phúc. Kỹ thuật sử dụng là sự đối chiếu, mình thấy rất rõ khi đem cảm thọ đó đối chiếu với cảm thọ khác. Ví dụ sáng hôm nay mình đang đi thiền hành trong thiền đường Hội Ngàn Sao và đột nhiên mình nhớ tới thiền đường Cánh Đại Bàng. Cánh Đại Bàng bây giờ không còn nữa, mình đã bao nhiêu lần mong ước được trở về đi trên sàn của thiền đường Cánh Đại Bàng. Nhưng hiện giờ mình đang đi trên sàn của thiền đường Hội Ngàn Sao. Sàn này cũng rất mầu nhiệm, mỗi bước chân đặt lên sàn cũng có thể đem lại cho mình hỷ lạc cũng như ngày xưa mình đã từng cảm thấy hỷ lạc khi bước lên sàn của thiền đường Cánh Đại Bàng. Tùy theo cách sư cô bước mà bước chân đó có hỷ lạc hay không. Đem bối cảnh của Bát Nhã tới để so sánh, mình nhận ra rằng được an tịnh, cùng chị em bước đi trong thiền đường mà không có sự đe dọa, truy bức, đập phá của những người quá khích là một hạnh phúc rất lớn, nghĩ như vậy thì tự nhiên mỗi bước chân có hỷ lạc liền. Cũng bước chân đó, cũng sàn gỗ đó nhưng có chiếc đũa chánh niệm chạm vào thì có hỷ và lạc. Chánh niệm là nhớ lại những lúc mình không có tự do, không có thanh thản, hạnh phúc để trân quý sự thanh thản, hạnh phúc hiện giờ mình đang có.

Trong Lá thư Làng Mai số 33, thầy Pháp Hữu có viết một bài về quá trình xây dựng thiền đường Nước Tĩnh ở Xóm Thượng. Lúc đang xây cất tôi cũng có mặt chứng kiến các thầy, các sư chú và lâu lâu cũng có các sư cô tới làm việc chung. Tôi nhớ rất rõ, mỗi ngày diện tích sàn thiền đường được lát gỗ tăng lên, cho tới hôm được ngồi nghe pháp thoại trong thiền đường lần đầu tiên thì hạnh phúc của đại chúng lớn vô cùng, nhất là mình biết rằng cả thiền đường là do các anh chị em mình làm ra.

Sáng nay đi trên con đường lát gạch từ thiền đường về Cốc Ngồi Yên, tôi thấy rất rõ những viên gạch đó do các thầy, các sư chú, các sư cô lót chung. Không ai biết viên gạch nào là của thầy nào hay sư chú, sư cô nào lót. Nhưng mình biết trong đó có tình anh chị em, có niềm vui khi ngồi làm việc với nhau. Nếu có chánh niệm mình nhớ lại lúc mình chưa có con đường đó thì tự nhiên hạnh phúc trào dâng lên. Hỷ và lạc là cái mình có thể chế tác rất dễ. Con đường còn đó và sẽ còn lâu dài cho mình đi những bước chân chậm rãi, những bước chân chế tác được hỷ và lạc. Mình cần được nuôi dưỡng bằng hỷ và lạc để có đủ sức giúp đời, giúp người.

Tôi đề nghị Xóm Hạ và Xóm Mới cũng nên làm những con đường gạch và mời các xóm khác tới làm chung. Khi bước đi trên con đường đó mình biết đây là do sư anh, sư chị, sư em của mình lót gạch. Những bước chân sẽ làm cho trái tim mình ngập tràn tình thương.

Hàng ngày, mỗi sớm mai hay mỗi chiều hôm mình đều đi từ tăng xá tới thiền đường để ngồi thiền, mình đã có biết bao nhiêu là cơ hội bước đi trên con đường đó. Buổi sáng, buổi trưa, buổi tối, mình bước những bước chân thảnh thơi, ý thức và nuôi dưỡng. Mình có rất nhiều cơ hội để chế tác hạnh phúc, niềm vui, chế tác tình anh chị em. Đó chính là chánh niệm. Chánh niệm là trái tim của sự thực tập. Có niệm là có định, có hạnh phúc. Niệm và định đưa tới tuệ và có tuệ thì hạnh phúc càng lớn hơn nữa.

Chữ niệm trước tiên có nghĩa là nhớ lại, đem tâm trở về giây phút hiện tại để tiếp xúc được với giây phút hiện tại và đồng thời cũng tiếp xúc được với giây phút hiện tại trong bối cảnh của quá khứ. Nhiều khi hạnh phúc có đó nhưng mình không nhận diện được. Cái khổ và cái vui chỉ được nhận diện khi có sự so sánh với nhau. Trong bối cảnh của khổ đau mình nhận diện được hạnh phúc dễ dàng. Dù có nhiều điều kiện hạnh phúc mà không có niệm thì cũng như không có. Sự thật thứ nhất (khổ) và sự thật thứ ba (lạc) có liên hệ với nhau rất mật thiết. Không có khổ thì không có lạc, vì vậy mình đừng nên có tư tưởng sai lầm là phải xóa hết dấu vết của khổ đau đi thì mới có hạnh phúc. Đó là một nhận thức sai lầm gọi là tà kiến. Mình phải học lại Tứ Diệu Đế, đừng nghĩ rằng phải đá cái khổ đi ngàn dặm và chỉ giữ lại cái lạc. Không có cái khổ thì đố anh có cái lạc! Người tu là người khéo léo sử dụng cái khổ để làm thành cái lạc. Với đau khổ các anh, các chị có thể chế tác ra hỷ và lạc để nuôi mình và giúp cho thế giới. Đó là cái nhìn bất nhị của đạo Bụt về khổ (duhkha) và lạc (sukha).

Mình nên pháp đàm, chiêm nghiệm để viết một bài về sự thực tập: Tôi chế tác hỷ lạc như thế nào? Là người tu có nghệ thuật, tôi có thể chế tác hỷ lạc trong đời sống hàng ngày và giúp cho bạn tu cũng chế tác được hỷ lạc như tôi. Hạnh phúc và khổ đau tùy ở tâm mình chứ không phải do hoàn cảnh bên ngoài. Nếu có pháp môn, có phương pháp thực tập thì trong bất cứ hoàn cảnh nào mình cũng có thể chuyển hóa khổ đau và chế tác hạnh phúc.

Nếu có hứng quí vị có thể viết cho tôi một bài ngắn “Con đã chế tác hỷ lạc như thế nào.” Quí vị chắc chắn dùng chánh niệm, nhưng cũng phải dùng phương pháp tương phản: đem khổ đau lên nhận diện để thấy rõ hơn hạnh phúc mà mình đang có. Khổ đau rất cần thiết cho sự thực tập của chúng ta.

Thầy Làng Mai giảng ngày 09-01-2011 trong khóa An cư kiết Đông

Con người ý thức và Pháp thân

Phật thân

Pháp thân (dharmakaya) là một trong ba thân: Phật thân (Buddhakaya), Pháp thân (Dharmakaya) và Tăng thân (Sanghakaya). Đức Thế Tôn có Phật thân, Pháp thân và Tăng thân. Nhưng không chỉ riêng gì Đức Thế Tôn, chúng ta ai cũng có thể có ba thân, mỗi người chúng ta đều có Phật thân, nhưng Phật thân của ta chưa biểu lộ được một cách toàn vẹn. Phật có nghĩa là sự tỉnh thức, là sự hiểu biết lớn và tình thương lớn. Chúng ta đã có hạt giống của tỉnh thức, của tình yêu và hiểu biết trong ta rồi. Nhưng trong đời sống hàng ngày có nhiều lo lắng, giận dữ, buồn khổ đã không cho phép Phật thân trong ta lớn lên và được biểu hiện toàn vẹn. Phật thân của chúng ta còn đang nằm dưới dạng hạt giống, chúng ta có khả năng thương yêu, có khả năng tỉnh thức chỉ vì chưa được chăm sóc đúng mức nên chúng chưa lớn mạnh được mà thôi.

Trong Thiền có câu hỏi: “Con chó có Phật thân hay không?” Người ta thường phân biệt loài người với tất cả những loại động vật khác, nghĩ rằng chỉ có con người mới có Phật thân còn con chó thì không thể nào thành Phật. Nhưng trong ánh sáng của Tiến Hóa Luận, trong con chó cũng có khả năng hiểu và thương tuy không đến mức độ như của con người. Con chó, con ngựa, con khỉ,… đều có trí thông minh, có khả năng thương con của mình. Nó cũng có hạt giống của thương yêu, hiểu biết nhưng trên nấc thang tiến hóa thì loài vật phải đi tới mức con người khi ấy khả năng hiểu và thương mới có cơ hội phát triển toàn vẹn. Hơn nữa, khi nhìn lại mọi loài chúng ta thấy tuy là có chia ra từng loài rõ rệt nhưng tất cả mọi loài đều là chung. Là con người nhưng chúng ta cũng là con vật, trong chúng ta còn rất nhiều thú tính và trong loài thú cũng đã có tiềm tàng nhân tính. Nếu không thì con vượn làm sao trở thành con người? Chỉ cần 3 triệu năm là con vượn có thể trở thành con người. Vì vậy trong con người có thú tính và trong con thú có nhân tính. Chúng ta đừng nên phân biệt quá rạch ròi giữa người và vật .

Chính những loài thảo mộc cũng có trí tuệ của nó. Trong hạt bắp rất nhỏ đã có cái biết, nó biết làm thế nào để nẩy mầm thành cây bắp, làm ra lá bắp và trái bắp. Chúng ta thấy có sự hiểu biết trong đó, nó không phải là những vật vô tri. Cả những lượng tử, những hạt bụi cũng có trí tuệ trong nó. Hiện nay các nhà khoa học thấy được các lượng tử cũng có sự thông minh của nó cho nên chúng ta không thể nói vật chất là vô tri. Trong đạo Phật có câu tụng:

Tình dữ vô tình
Đồng viên chủng trí

Mong cho các loài vô tình và hữu tình đều hoàn thành quả vị nhất thiết chủng trí. Loài có nhận thức và loài coi như không có nhận thức đều có thể thành Phật. Theo đạo Phật sự sống là một. Ta không thể chia sự sống ra thành từng ô, ô này có Phật tính, ô kia không có Phật tính hay ô này có trí tuệ, ô kia không có trí tuệ.

Ngày xưa có một vị thiền sinh lên hỏi thầy của mình: “Thưa thầy, con chó có Phật tính không ạ?”. Vị thầy trả lời: “Có! Con chó có Phật tính”. Người thầy trả lời như vậy để giúp vị thiền sinh có được cái thấy sâu sắc hơn, cái thấy không kỳ thị. Nhưng hôm sau, một thiền sinh khác lại lên hỏi câu ấy: “Thưa thầy, con chó có Phật tính không ạ?” Lần này vị thầy trả lời: “Không! Con chó không có Phật tính!” Người thiền sinh này hỏi chỉ để xác nhận lại một kiến thức mà anh ta mới vừa thu lượm được. Đối với người tu thì kiến thức không quan trọng, sự chứng ngộ mới là quan trọng. Nếu thầy trả lời: “Con chó có Phật tính!” thì anh thiền sinh lại có thêm một ý niệm, chồng thêm một kiến thức, không có ích lợi gì cho anh ta. Người thầy trả lời một câu hỏi bằng hai cách khác nhau để đối trị với cái tâm của người hành giả. Đó là một công án thiền. Trong mỗi người đều có Phật tính, đi sâu hơn thì không phải chỉ con người mà những loài động vật, thực vật, khoáng vật cũng có Phật tính.

Pháp thân

Bụt được làm bằng Pháp, nhưng người thực tập theo Bụt cũng có Pháp thân. Pháp thân trước hết là cái hiểu và cái hành của ta về Phật pháp. Nếu Pháp thân của mình èo uột, yếu đuối là do chúng ta tu tập không thành công và ta không có hạnh phúc. Nếu Pháp thân ta ốm yếu thì ta không đủ sức để quản lý, hành xử trong những lúc có khó khăn của đời sống hàng ngày. Ta phải có Pháp thân khá vững, khi pháp thân vững mạnh thì ta đối phó và xử lý dễ dàng những khó khăn trong đời sống hàng ngày. Chúng ta ai cũng có Pháp thân nhưng vấn đề là Pháp thân đó đã đủ lớn mạnh chưa? Ta tu học để Pháp thân càng ngày càng vững chãi để chúng ta dễ dàng vượt thắng khổ đau và chuyển hóa phiền não.

Chữ Pháp thân trước hết có nghĩa là cái hiểu biết và sự thực tập của ta về chánh pháp. Thứ hai, Pháp thân cũng có nghĩa là những điều Bụt dạy bằng lời và bằng cách sống hàng ngày của Ngài. Ngày xưa thầy Vakkali rất mê Bụt, thầy thấy Bụt đẹp quá nên thầy cứ lò dò đi phía sau Bụt. Thầy thích ngồi ngắm Bụt mà không chịu nghe pháp thoại nên bị Bụt quở trách. Lúc đầu thầy được làm thị giả cho Bụt nhưng sau Bụt thấy thầy bị dính mắc quá nên không cho làm thị giả nữa. Thầy rất đau khổ, nhưng sau thầy chuyển hóa được và tu tập cũng khá. Ngày thầy Vakkali bị bệnh sắp chết Bụt có tới thăm và hỏi:

–  Thầy Vakkali, trong người thầy có đau nhức không?
–  Dạ, Bạch Đức Thế Tôn con không khỏe, con đau nhức lắm, con sắp chết.
–  Thầy có thực tập không?
–  Dạ, con có thực tập.
– Thầy có tiếc nuối gì không?
–  Dạ, con không tiếc nuối gì, con chỉ tiếc một điều là mỗi ngày không được đi theo Ngài, không được trông thấy Ngài.
Bụt nói:
–  Này thầy Vakkali, hình hài của tôi thế nào một ngày kia cũng sẽ tan hoại. Thầy đừng chấp vào hình hài này. Nếu đang thực tập thì thầy đã có Pháp thân của tôi rồi, chính cái đó sẽ trường tồn mãi mãi. Thầy nên nắm giữ Pháp thân chứ đừng nắm giữ nhục thân này.

Câu nói của Bụt chứng tỏ ngoài hình hài vật chất này mình còn có một hình hài khác gọi là Pháp.

Thầy mình có Pháp thân và nếu mình đã có Pháp thân của thầy thì mình không còn lo ngày mà nhục thân của thầy tan hoại. Tiếp nối được Pháp thân của thầy là có thầy hoài mãi

Trong bài hô canh sáng có câu: “Pháp thân tỏa sáng buổi ban mai”. Buổi sáng thức dậy sau một giấc ngủ dài nên cơ thể của mình khỏe khoắn, tỉnh táo nhờ đó sự thực tập của mình được dễ dàng. Mình phải sống đời sống hàng ngày như thế nào, mình phải tu như thế nào để Pháp thân của mình càng ngày càng vững chãi, càng tỏa sáng. Đừng để một ngày đi qua mà Pháp thân không lớn lên, Pháp thân lớn lên thì Phật thân trong mình cũng lớn lên.

Tăng thân

Thân thứ ba của mình là Tăng thân. Theo truyền thống thì mình phải nương tựa Tăng. Ngày xưa ở Việt Nam có một vị cư sĩ học Phật pháp rất giỏi, ông nói: “Tôi chỉ quy y hai bảo là Phật bảo và Pháp bảo thôi, còn các thầy, các sư cô thì tôi không phục lắm!” Ông không biết rằng nếu không có Tăng thân thì lấy gì để chuyên chở Phật thân và Pháp thân? Chính Tăng thân là cỗ xe chuyên chở Phật thân và Pháp thân. Nếu không quy y Tăng thì làm sao quy y Phật và Pháp được?  Quy y Tăng rất quan trọng, quan trọng hơn cả quy y Phật tại vì quy y Tăng thì trong Tăng đã có Phật và Pháp. Đánh mất và xa lìa Tăng thân là một tai nạn rất lớn cho đời một người tu. Danh từ Tăng thân chưa được dùng trong Phật giáo, nhưng Làng Mai dùng rất nhiều danh từ này. Tăng thân có ngoài mình nhưng cũng có trong mình. Sống trong Tăng thân mà mình liên hệ tốt với các anh chị em trong đạo của mình thì đi đâu mình cũng có Tăng thân trong mình.

Đôi khi vì hoàn cảnh khó khăn mình phải xa lìa Tăng thân, nhưng một khi đã có Tăng thân trong trái tim thì không sao. Nếu không có Tăng thân trong trái tim thì rất nguy, đời sống tu tập của mình sẽ rất bấp bênh. Là người tu mình phải để thì giờ và tâm lực mà xây dựng Tăng thân tại vì Tăng thân là chỗ nương tựa của mình. Dù cho mình là thầy, mình đã thành đạo, mình cũng cần có Tăng thân, đó là trường hợp của Đức Thích Ca. Ngài đã thành Phật mà Ngài cũng cần nương tựa Tăng thân. Vì vậy trong đời sống hàng ngày mình phải sống như thế nào để có thể liên hệ tốt với các thành phần khác trong Tăng thân. Trong Tăng thân có những thành phần rất dễ liên hệ, nhưng cũng có những thành phần khó liên hệ hơn. Mình phải thực tập như thế nào để có liên hệ tốt với tất cả thành phần trong Tăng thân. Lúc đó sự thực tập của mình mới vững và Phật thân, Pháp thân trong mình mới có cơ hội ngày một lớn mạnh.

Những mầu nhiệm của vũ trụ là sự biểu hiện của Pháp thân

Trong đạo Bụt đại thừa, chữ “Pháp thân” dần dần mang tính chất bản thể học. Ban đầu Pháp thân có nghĩa là giáo lý của Bụt dạy và sự thực tập của mình. Nhưng về sau, Phật giáo đại thừa diễn tả Pháp thân như những mầu nhiệm của thiên nhiên mà nếu sống có ý thức thì chúng ta sẽ nhìn thấy được. Ví như trúc tím, hoa vàng, trăng trong, mây bạc đều là biểu hiện của Pháp thân. Như vậy chúng ta có thêm một cách hiểu thứ ba. Pháp thân là nền tảng bản thể cho tất cả mầu nhiệm của vũ trụ.

Ở xóm Thượng khi đi thiền hành tôi đạp lên rất nhiều lá sồi. Ở Nội Viện khi đi thiền hành tôi đạp lên vừa lá sồi, vừa lá tre, vừa lá phong. Ở Việt Nam chúng ta có nhiều lá tre, đi thiền hành trên lá tre cũng rất mềm. Buổi chiều ở làng quê Việt Nam, những bà mẹ thường quét lá tre gom thành từng đống rồi đốt lên, khói tỏa ra trông rất đẹp. Khi bước lên lá sồi ta có thể tiếp xúc được với Pháp thân tại vì lá sồi cũng là biểu hiện của Pháp thân mầu nhiệm. Ví dụ như bỗng nhiên trên mặt trăng có một chiếc lá sồi hay có một cọng cỏ mọc lên, khi ấy chắc chắn trên trái đất các nhà báo sẽ nói rất nhiều về sự kiện đó tại vì nó rất lạ kỳ. Và lúc bấy giờ các thương gia sẽ bắt đầu nghĩ tới chuyện lên mặt trăng để làm ăn, xây cất nhà cửa cho thuê và làm giàu trên ấy.

Nhưng trên mặt trăng hiện chưa có những mầu nhiệm đó, chưa có lá tre, lá sồi, lá phong, chưa có một cọng cỏ, chưa có một đám mây. Trong khi đó trên trái đất của mình có tất cả những mầu nhiệm đó. Mỗi khi thực tập thiền đi quí vị có thể dẫm lên lá sồi, lá tre, nghe nước róc rách chảy, thấy một đám mây bay qua biến thành mưa rất kỳ diệu. Chỉ cần so sánh trái đất với mặt trăng thì mình thấy cho tới nay trong hệ mặt trời của mình và những hệ mặt trời mà hiện giờ mình biết đến chưa tìm thấy một hành tinh nào có sự sống như trái đất xinh đẹp của chúng ta. Trong khi đó mình được sinh ra trên cõi này, được hít thở không khí, được ngắm nhìn bầu trời và những mầu nhiệm xung quanh mà mình không thấy hạnh phúc, mình vẫn đau buồn, vẫn là hét, giận dữ, tủi thân thì rất uổng.

Con người ý thức

Những loài khác như con chó, con vượn, con nai, con sư tử, cũng sống trong những mầu nhiệm này. Nhưng không biết chúng nó có thấy được sự quí giá đó hay không? Con cá có biết là nó đang bơi lượn trong không gian như bích ngọc, con chim có biết là nó đang bay trong Niết bàn và con nai có biết là nó đang chạy chơi trong cõi tịnh độ hay không? Khi đang còn là con vượn, con người đi khom khom bằng hai chân và hai tay. Tới một lúc nào đó thì con người đứng thẳng dậy, hai tay được giải phóng để cầm, để đan kết. Vì sử dụng mười ngón tay nên bộ óc lớn lên rất mau. Lúc con người vừa mới đứng dậy thì khối óc của họ chỉ bằng 1/3 khối óc của mình bây giờ. Nhờ biết sử dụng hai bàn tay và dụng cụ nên tự nhiên những tế bào trong não được sinh trưởng và trở thành con người khôn ngoan.

Con người sống trong vũ trụ đầy những mầu nhiệm: trăng trong, mây bạc, trúc tím, hoa vàng. Con người có khả năng thấy được đó là những mầu nhiệm nhưng chưa chắc con chó, con khỉ, con vượn đã thấy được như vậy. Cầm một bông hoa trên tay con người biết màu sắc của bông hoa tươi đẹp, hương của bông hoa thơm ngát, cắt một trái cam ra con người biết trái cam ngọt ngon chín mọng. Nhưng chưa chắc loài vật đã biết được điều ấy. Nhìn những thứ này chúng nghĩ ngay tới việc cái đó có ăn được hay không?

Nhìn những con cá bơi lượn trong hồ nhẹ nhàng mình thấy rất đẹp nhưng con cá mập thì không nghĩ như vậy, nó chỉ nghĩ phải đớp như thế nào để ăn được nhiều cá. Người con trai nhìn một người con gái thấy cô gái đẹp quá, hai mắt trong như nước hồ thu, có đêm u huyền ngủ trên mái tóc và làm thơ ca ngợi. Nhưng con khỉ không khen “mắt em đẹp như nước hồ thu”, nó chỉ nghĩ nó có thể giao hợp với con kia mà không bị những con khỉ khác tới đánh hay không. Khi mình thành một con người khôn ngoan, tự nhiên khả năng nhận diện những mầu nhiệm của vũ trụ trong mình phát hiện. Mình ý thức được mình đang có mặt trên thế gian này. Những con vật kia có biết là nó đang có mặt trên thế gian này hay không?  Là con người mình đang ngồi đây, thở vào và mình biết mình đang thở vào trong giờ phút hiện tại. Đó gọi là chánh niệm. Con người khôn ngoan trở thành con người ý thức (homo conscius). Ý thức mình đang có mặt, “tôi đang có mặt trong trời đất”, là chánh niệm. Người đại diện xứng đáng cho giống homo conscius là Phật Thích Ca và chúng ta là con cháu của loại người đó.

Ý thức giúp cho mình thấy được tất cả những gì trong tự thân và những gì bao quanh mình, có nghĩa là ý thức giúp mình tiếp xúc được với Pháp thân tại vì Pháp thân là bản chất của hiện hữu, là nền tảng bản thể (base ontologique) của tất cả mầu nhiệm. Trong đạo Phật thường dùng hình ảnh của trăng trong, mây bạc, hoa vàng, trúc tím để chỉ những mầu nhiệm của cuộc đời. Chúng ta nhận diện được là nhờ có ý thức. Hạnh phúc của con người rất lớn, con người thấy được cái đẹp, thấy được cái mầu nhiệm của sự sống mà các loài vật chưa thấy được.

Mỗi khi đi thiền, bước từng bước chân mình tiếp xúc được tất cả những mầu nhiệm, nó nuôi dưỡng và trị liệu cho mình. Mỗi khi ngồi thiền mình có cơ hội thấy được mình đang có mặt, đã mang tiếng là được ở trong trời đất mình phải thấy được mình đã từng có đó. Có những người sống được 100 năm rồi chết đi mà không chứng tỏ được cho con cháu biết là họ đã có mặt tại vì họ không tu tập chánh niệm. Một trăm năm đi qua rất mau. mỗi ngày chúng ta thực tập chánh niệm để thấy mình đang có mặt, chúng ta có thể nói với con cháu sau này là “ta đã có mặt, ta đã từng sống trên trái đất này”.

Mối ưu tư của muôn đời

Hạnh phúc của con người có thể rất lớn, lớn hơn của các loài khác. Nhưng ý thức đó cũng làm cho con người đau khổ tại vì con người biết rằng thế nào mình cũng phải chết. Những con vật không nghĩ về cái chết, nó không có những câu hỏi về siêu hình như: “Mình từ đâu sinh ra? Mình từ đâu tới đây? Tại sao mình chỉ ở lại chừng 100 năm rồi cuối cùng mình tan thành tro bụi?” Con người hỏi những câu vớ vẩn như vậy cũng là do ý thức mà ra. Tôi yêu em nhưng tôi biết thế nào em cũng phải chết, đó là niềm đau của tôi. Làm con người thì phải trả một giá rất đắt, đó là cái ưu tư thế nào mình cũng phải chết. Con người không thể quên được mối ưu tư đó, nó là nguyên do của những ý tưởng siêu hình và những chứng bệnh tâm thần.

Những con vật không suy nghĩ như vậy. Cây thông đứng reo ngoài kia, hình như nó không suy nghĩ về chuyện sống chết. Thi sĩ Nguyễn Công Trứ có viết:

Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo

Tại sao mình sinh ra để rồi mình phải chết đi?

Hoa thiều lá nó xanh xanh
Thân ta biết thế đừng sanh ra đời

Sinh ra đời làm chi để rồi chết? Không có ý nghĩa gì cả! Con người bị bấn loạn bởi những ý niệm có và không, hữu thể và vô thể. Tại sao mình trở thành có và từ có mình lại trở thành không? Muốn được sống sót con người phải tìm ra đường hướng để trị cái bệnh ưu tư của mình. Do đó mới sinh ra tôn giáo. Con người nghĩ rằng thế giới này do một đấng tạo hóa tạo dựng ra. Đấng tạo hóa luôn luôn có đó, không sinh cũng không diệt. Đấng tạo hóa tạo dựng ra con người và thế giới, và khi chết mình được trở về ngồi dưới chân Thượng đế lúc ấy linh hồn mình trở thành bất diệt. Đó là phương thuốc mình đặt ra để đối trị với mối ưu tư của mình, phương thuốc này là tôn giáo. Đấng tạo hóa không sinh không diệt tạo dựng ra thế giới có sinh có diệt và mình là vật được tạo dựng, sau khi chết mình sẽ trở về sống đời đời với Thượng đế. Đó là một loại thuốc an thần để trị chứng bệnh ưu tư của mình.

Sự nghiệp trí tuệ của người tu

Đức Thích Ca không bằng lòng với lối trị bệnh này. Ngài muốn sử dụng tận lực trí tuệ của con người, dùng niệm-định-tuệ để khám phá ra bản chất thật của sự sống. Cuối cùng Ngài đã tìm ra Niết bàn, Niết bàn là bản chất không sinh không diệt. Những cái mình thấy có sinh có diệt chỉ là biểu tượng bên ngoài mà thôi. Quán chiếu một đám mây mình thấy nó không có sinh cũng không có diệt. Trước khi có đám mây thì đám mây đã có dưới hình thức của ánh sáng mặt trời, của sông hồ. Sau khi đám mây không có nữa thì nó vẫn còn dưới hình thức của cơn mưa, của ruộng đồng, của ngàn dâu xanh tốt. Dùng niệm-định- tuệ để quán chiếu, để đi sâu vào, mình khám phá ra được thế giới vô sinh bất diệt và mối ưu tư đó tan biến không còn nữa. Đó là cái mà đạo Bụt cống hiến cho con người để đối trị với ưu tư kia.

Là người tu, là con người có ý thức, mình tin vào Phật thân, tin vào khả năng có thể với tới cái thấy, cái hiểu của mình. Nhờ Tăng thân và Pháp thân mình đạt tới Phật thân, đạt tới cái thấy giải phóng cho mình ra khỏi những ưu tư, lo sợ tại vì bản chất của mình là vô sinh bất diệt. Như một đợt sóng rất sợ sinh diệt, lên xuống, nó tự hỏi: “Bây giờ tôi ở đây nhưng một lát nữa thì tôi không có!” Nó lo lắng, đau khổ. Nhưng khi khám phá ra mình đã là nước rồi thì nó không còn lo lắng, đau khổ nữa. Có hay không có không còn là vấn đề, lên hay xuống cũng là vui. Vì vậy, Niết bàn là chỗ mát mẻ, vững chãi, không còn ưu tư. Mục đích của sự tu học là tiếp xúc được với Niết bàn. Niết bàn trong giây phút hiện tại mà không phải là một sự hứa hẹn trong tương lai ở một cõi khác.

Ba triệu năm không có ý nghĩa gì, con người còn rất trẻ trên trái đất này. Thời gian từ khi mình đứng dậy và sử dụng hai tay cho đến bây giờ chỉ có ba triệu năm mà chúng ta đã sản xuất được những vị Bụt, những vị Bồ tát. Đó là một sự mầu nhiệm rất lớn, mình phải tiếp nối sự nghiệp này, sự nghiệp của trí tuệ. Trong đạo Bụt nói: Sự nghiệp lớn nhất đáng để chúng ta theo đuổi là sự nghiệp trí tuệ. Duy tuệ thị nghiệp 惟 慧 是 業, đó là bốn chữ trong kinh Bát Đại Nhân Giác: Chỉ có trí tuệ mới xứng đáng là sự nghiệp của mình mà thôi.

Trở về tiếp xúc với đất Mẹ

Trở về tiếp xúc với cội nguồn

Thiền hành là một phép thực tập rất dễ chịu, nhất là vào lúc ban mai, khi không khí rất là trong lành. Trong khi đi thiền chúng ta phải hợp nhất thân với tâm và phối hợp hơi thở với bước chân.Thở vào ta có thể bước hai, ba hay bốn bước; thở ra ta có thể bước nhiều bước hơn. Ví dụ thở vào ta bước hai bước thì thở ra ta bước ba bước, nếu thở vào ta bước ba bước thì thở ra ta nên bước năm bước, nếu thở vào ta bước bốn bước thì thở ra ta có thể bước sáu bước, thở vào ta bước năm bước thì thở ra ta bước tám bước. Đó là kinh nghiệm của tôi.

Nếu có một cái đồng hồ tíc-tắc trên bàn ngủ, ban đêm khi nằm xuống chúng ta ngưng suy nghĩ, thở vào ta đếm ba giây, thở ra ta đếm năm giây, v.v… cho đến khi ngủ.  Tiếng tíc-tắc của đồng hồ giúp ta rất nhiều. Trong thiền đường, nếu có một cái đồng hồ thì ta có thể thở theo tiếng tíc-tắc của đồng hồ. Chúng ta chấm dứt sự suy nghĩ và chỉ thở thôi. Thở như vậy rất là dễ chịu.

Chúng ta có thể đặt ra những câu thiền ngữ dùng để đi thiền hành.
Ví dụ như thở vào đi hai bước ta nói: Đã về,đã tới.
Thở ra đi ba bước ta nói: Con đã về, con đã tới.
Mình thật sự về, thật sự tới, mình không rong ruổi nữa và mình thích thú với giây phút hiện tại “đã về đã tới“.

Pháp môn Làng Mai rất đơn giản, bài thuyết pháp sâu và ngắn nhất của Làng Mai là: Đã về đã tới, đem thân tâm trở về hiện tại, tiếp xúc với những mầu nhiệm của giây phút hiện tại, những mầu nhiệm đang có trong mình và chung quanh mình để được nuôi dưỡng và trị liệu. Mình thấy thoải mái, an ổn, mãn ý với giây phút hiện tại. Mình không còn muốn chạy đi tìm gì khác nữa. Người nào trong khi ngồi hay khi đi mà thấy thích thú, mãn ý với giây phút hiện tại là người đó thành công. Mình không còn đi tìm gì nữa.

Thở vào, đi ba bước ta; thở ra, ta đi năm bước: Con đã về / con đã về thật sự
hoặc mỗi bước chân / con đi vào Tịnh độ
hoặc là mỗi bước chân / con trở lại suối nguồn.

Khi ngồi chúng ta cũng có thể nói: Mỗi hơi thở/ con đi vào Tịnh độ
hay là mỗi hơi thở / con trở lại suối nguồn.
Chúng ta đặt ra những câu thiền ngữ mình thích, khi mình dùng câu này, lúc mình dùng câu kia.

Thở vào đi bốn bước, thở ra đi sáu bước ta nói: Đã về đã tới, con đã về con đã tới.

 

 

Có những con đường thiền hành rất đẹp, một con đường đất, hai bờ cỏ xanh và màu đất hồng tươi. Ngày xưa tôi làm một bài thơ tựa là: Cẩn trọng

Qua ngõ vắng
Lá rụng đầy
Tôi theo con đường nhỏ
Đất hồng như môi son bé thơ
Bỗng nhiên tôi cẩn trọng
Từng bước chân đi

Thấy được vẻ đẹp, thấy được sự mầu nhiệm đó, tự nhiên mình tỉnh dậy, mình thấy mình đang sống trong một thế giới hết sức mầu nhiệm, mà nếu tâm bị vướng bận bởi những lo lắng, sầu khổ thì mình sẽ không thể thấy được. Khi tỉnh dậy mình thấy rất quí mỗi giây mà cuộc đời đã cho mình sống. Tôi trân quí từng bước chân đi và trong mỗi bước chân tôi đều có hạnh phúc .

Vì trái đất có lực hấp dẫn (gravity) nên bước chân nào mình cũng phải đi chấm đất, nếu không mình sẽ bay lơ lững trên không. Lực hấp dẫn làm cho bước chân của mình dính vào mặt đất. Với mỗi bước mình dính và tiếp xúc với đất Mẹ tức là mình tiếp xúc được với cội nguồn của mình.

 

Cái nhìn bất nhị

Ý thức của chúng ta có tính cách phân biệt, chia sự vật ra thành từng cặp đối lập. Ví dụ như chúng ta cho tay trái không phải là tay phải và tay trái có thể tồn tại ngoài tay phải, đó là sự phân biệt. Nhưng ta không biết rằng tay trái nương vào tay phải để thành lập. Chúng ta phân biệt tâm và vật, danh thân và sắc thân. Danh thân là tâm, tức là thọ, tưởng, hành, thức của mình của mình. Sắc thân là hình hài của mình. Chúng ta phân biệt một bên là hình hài (sắc) và một bên là tâm lý (danh), danh từ khoa học gọi là psychosoma. Psycho là tâm và soma là vật. Sự thật là tâm không thể có được nếu không có vật, tâm và vật là hai mặt của một thực tại. Không có vật thì không có tâm và không có tâm thì không có vật. Chúng ta phải tập nhìn bằng con mắt bất nhị.

Trong khi đó, khoa học chia thành hai ngành, một nghành chuyên về tâm gọi là tâm lý học và một nghành nghiên cứu về thân gọi là sinh lý học. Thực ra nếu lấy tâm đi thì không có thân và nếu lấy thân ra thì tâm cũng không còn. Thân và tâm dựa vào nhau mà thành lập như tay trái và tay phải, lấy một cái đi thì cái kia cũng không còn. Vì vậy chúng ta phải thấy tâm ở trong vật và vật ở trong tâm, đó gọi là vô phân biệt trí. Có vô phân biệt trí, chúng ta biết tâm và vật nương nhau mà có như trái và phải, như trên và dưới. Có khi vô phân biệt trí còn được gọi là bất nhịtrí (advaya-jñāna) tức tuệ giác không chia chẻ làm hai: trong và ngoài, vật chất và tinh thần.

Hiện nay nhiều nhà khoa học vẫn còn vướng vào ý niệm: tâm thức là cái ở trong và thế giới được nghiên cứu là vật ở ngoài, tức: tâm thức là chủ thể và thế giới khách quan là đối tượng. Khi nào còn sự phân chia giữa chủ thể và đối tượng, giữa tâm và vật thì vẫn còn sự kỳ thị, phân biệt. Muốn đi được xa, nhà tu cũng như nhà khoa học phải biết sử dụng bất nhị trí hay vô phân biệt trí. Trong lĩnh vực khoa học người ta đã bắt đầu thấy được điều đó. Nếu không buông bỏ sự phân biệt thì khó mà đi vào được sư tìm hiểu về thực tại.

 

 

Dẫm lên đất Mẹ

Khi đi thiền hành chúng ta không chỉ đi bằng thân mà phải đi bằng tâm của mình, gọi là thân tâm nhất như. Miệng (khẩu) của mình cũng phải đi theo, cho nên trong khi thiền hành mình không được nói chuyện. Thân, khẩu, ý hợp nhất gọi là tương ưng. Trong khi dẫm lên mặt đất, chúng ta không thấy đất là vật chất. Cho đất là vật chất tức theo chủ trương duy vật luận. Nếu thấy đất là ý niệm, là tâm như vị cố đạo Berkely thì đó là duy tâm luận. Duy vật luận là một cực đoan và duy tâm luận là một cực đoan khác, căn cứ trên ý niệm vật và tâm là hai cái khác nhau. Nhiều nhà khoa học cho rằng tâm là do vật chất tạo ra, thức là một sản phẩm của não bộ. Khuynh hướng này rất gần với chủ nghĩa duy vật. Nhiều người khác lại cho rằng chính tâm tạo ra vật chất.

Nhưng khi quán chiếu thân, mình thấy rằng hình hài của mình không phải chỉ là vật chất. Trong hình hài có tâm, có cái biết và có sự thông minh của nó. Một tế bào cơ thể là một thực tại linh động có cái tâm trong đó, mà nếu lấy cái tâm đi thì nó trở thành một tế bào chết. Trong cơ thể của chúng ta có hàng tỷ tế bào và mỗi tế bào có sự thông minh, có cái biết rất sâu sắc. Vì vậy nói hình hài chỉ là vật, chỉ là sinh lý là không đúng.

Nhìn vào thế giới, ví dụ như nhìn vào một cọng cỏ hay một cái cây, mình thấy đó không phải là vật chất vô tri, mà nó có cái biết trong đó. Mình không thể nói hạt bắp là vật chất, tại vì trồng hạt bắp xuống đất thì hạt bắp biết nẩy mầm, lên cây, làm lá, làm hoa và làm trái bắp. Như vậy, hạt bắp có cái biết và nói hạt bắp là vật chất là sai. Nhìn trái đất, mình thấy trái đất là một thực tại mầu nhiệm như tế bào trong cơ thể mình. Trái đất có cái biết trong nó. Hành tinh Đất có khả năng hiến tặng và nuôi dưỡng sự sống. Cho rằng hành tinh Đất là một khối vật chất là sai. Với trí bất nhị mình thấy rằng hành tinh Đất không phải là một khối vật chất, tại vì nó có sự thông minh, sự sáng tạo trong đó. Hành tinh này đã sản xuất ra những cái hết sức mầu nhiệm. Loài người là một trong bao nhiêu loài mà hành tinh này đã sản xuất ra. Bụt Thích ca hay Chúa Jésus cũng là con của hành tinh này. Mình và mẹ mình cũng là những đứa con của hành tinh này. Nếu thấy được mình là con của mẹ mình thì cũng thấy được mình và mẹ mình cũng là con của trái đất. Trái đất là một thực tại mầu nhiệm, tuy không phải là con người nhưng trái đất cũng là Mẹ, là đất Mẹ.

Rất nhiều nền văn minh đã nhìn trái đất như một bà mẹ. Nhà sinh vật học Mỹ, Thomas Lewis, viết một cuốn sách về hành tinh trái đất, cuốn sách có tên “The Lives of a Cell“ (sự sống của một tế bào). Trong đó ông nói rằng theo ông thì trái đất giống như một tế bào trong cơ thể con người. Trong trái đất có sự sống, có sự thông minh, tại vì khi nghiên cứu về tế bào trong cơ thể ông thấy mỗi tế bào mầu nhiệm vô cùng. Nhìn trái đất, ông thấy trái đất cũng là một sinh vật biết đau, biết buồn, biết suy tư, có thông minh, có trí tuệ, có tài năng.  Khi đi thiền hành chúng ta phải sử dụng trí bất nhị để thấy, mình đừng cho là mình đang dẫm lên trên vật chất. Mình phải thấy mình đang tiếp xúc với đất mẹ, tại vì đất mẹ là một thực tại rất mầu nhiệm.

 

Trái đất là một vị Bồ tát

Không hẳn là con người mới được gọi là mẹ, mình có thể nhìn trái đất như một vị bồ tát, bồ tát Thanh Lương Đại Địa. Mình có thể chắp tay lại và niệm danh hiệu: Nam mô bồ tát Thanh Lương Đại Địa, tại vì vị bồ tát này là mẹ của muôn loài, có khả năng chuyên chở, nuôi dưỡng và trị liệu. Mỗi khi đau ốm hay đánh mất mình, mình phải trở về lại với bà mẹ này để được nuôi dưỡng và trị liệu

Vì vậy thiền hành là một phương pháp thực tập rất hay để chúng ta có thể trở về tìm sự nuôi dưỡng và trị liệu từ đất mẹ. Tuy không phải dưới hình thức của một con người, nhưng đất mẹ đích thực là một vị bồ tát, tại vì đất mẹ có những đức rất lớn như sự vững chãi, sự kiên nhẫn. Trong kinh Địa tạng có câu: Địa ngôn kiên hậu quảng hàm tàng (đất có nghĩa là kiên cố, dày dặn và cất chứa được rất nhiều).

Đất có khả năng nuôi dưỡng, che chở, trị liệu và có khả năng cho ra đời biết bao nhiêu là mầu nhiệm. Nhiều vị Phật và bồ tát đã được đất sinh ra. Chính chúa Ki Tô cũng do đất sinh ra. Mình không biết chúa Ki Tô có phải do Thượng đế sinh ra thật hay không, nhưng mình biết chắc là chúa Ki Tô do trái đất sinh ra. Có những lúc mình lao đao, cô đơn, lạc hướng hay ốm đau thì mình phải trở về tiếp xúc đất Mẹ để được nuôi dưỡng.

Trong khóa tu mùa Đông này, chúng ta nên đưa vị bồ tát đất Mẹ vào trong danh sách đảnh lễ:
Nhất tâm kính lễ bồ tát Thanh Lương Đại Địa,
Mẹ của muôn loài, luôn luôn chở che, nuôi dưỡng và trị liệu cho chúng con.

 

 

Mặt trời cũng là một vị Bồ tát

Mặt trời cũng là một vị bồ tát lớn, là một vị Bụt. Không có mặt trời thì không có ánh sáng, sức nóng và không có sự sống. Mặt trời có tên là “Đại Nhật Như Lai“ (Vairochana Tathagata). Không có mặt trời thì không có sự sống trên trái đất. Chúng ta có thể xướng:
Nhất tâm kính lễ đức Tỳ Lô Giá na Như lai, Bụt Vô lượng thọ, Vô lượng quang
hiến tặng sự sống cho hành tinh đại địa.

Tiếp xúc với những vị bồ tát để được nuôi dưỡng và trị liệu

Đây là những vị Bụt, những vị bồ tát có thật mà mình phải lạy xuống. Những vị đó có ở trong mình chứ không chỉ có ở ngoài mình mà thôi. Đi thiền hành chúng ta phải tiếp xúc được với các vị bồ tát đó. Đất mẹ là một vị bồ tát, mặt trời là một vị bồ tát đã cho chúng ta sự sống và các vị đó không phải ở ngoài ta mà còn ở trong ta. Có được tuệ giác đó thì mình không còn thấy trái đất, mặt trời là vật chất và mình có thể tiếp xúc được thật sự với nó. Khi tiếp xúc được thật sự thì mình sẽ nhận được sự nuôi dưỡng và trị liệu.

Mỗi bước chân là nuôi dưỡng,
mỗi bước chân là trị liệu.

Con người hiện nay bị bệnh rất nhiều, chúng ta phải học cách chữa trị, và đi thiền hành là một trong những phương pháp chữa trị rất hay. Đang ở tại Làng Mai mình phải biết lợi dụng pháp môn thiền hành, tại vì đi thiền hành ở những thành phố lớn như Los Angeles hay thành phố Hồ Chí Minh không sướng chút nào. Ở đây chúng ta có không khí rất trong lành, có cây cối xanh tươi, có những con đường thiền hành rất mầu nhiệm. Vì vậy chúng ta đừng bỏ cơ hội, trong khi đi chúng ta dùng cả thân, khẩu, ý để tiếp xúc với đại đị, với bồ tát Thanh Lượng Địa. Trong đất có sức nóng, có không khí và có nước. Vòng khí quyển bao chung quanh trái đất cũng thuộc về bồ tát Thanh Lương Địa. Đất mẹ đã cho chúng ta nước để uống, không khí để thở; vì vậy đất cũng là nước, là không khí. Lớp ozon phía trên che chở cho chúng ta để những tia phóng xạ độc hại không thể đi vào trong trái đất. Đất mẹ chở che, nuôi dưỡng và trị liệu.

Trong khi đi thiền chúng ta có thể đạt tới những cái thấy rất sâu. Nhìn vào đất mẹ, ta thấy đất mẹ chứa cả tam thiên, đại thiên thế giới, có cả vũ trụ trong đất mẹ. Các nhà khoa học cũng có thể đóng góp cho cái thấy đó, tại vì họ có một vài ý niệm về sự thành lập của trái đất. Họ biết rằng trái đất được làm bằng những yếu tố không phải đất. Các hành tinh khác cũng đã gửi tới cho chúng ta những đóng góp, cũng như một bông hoa được làm bằng những yếu tố không phải hoa. Hành tinh Đất cũng là một bông hoa rất đẹp được làm bằng những yếu tố không phải Địa cầu. Nhìn vào hành tinh Đất mẹ ta thấy được cả vũ trụ. Nhìn vào bông hoa ta thấy cả vũ trụ như đám mây, mặt trời, v.v… Khi bước chân trên trái đất ta thấy đất Mẹ đang có mặt trong mình. Mình và đất mẹ không phải là hai thực tại tách rời nhau.

Trở về đất Mẹ trong từng giây từng phút

Có được tuệ giác đó chúng ta có thể đạt tới “không sợ hãi”, mình thấy mình với đất Mẹ là một. Nếu đất Mẹ đưa mình ra thì đất Mẹ sẽ tiếp nhận mình về, không có gì mất đi, không có sinh không có diệt. Mình không bị kẹt vào ý niệm “một cái ngã“, rồi đặt vấn đề: Sau khi xác thân này tan hoại mình sẽ đi về đâu? Còn hay không còn? Không phải chỉ khi nào xác thân mình tan hoại và những tác dụng tâm lý của mình không còn biểu hiện nữa thì mình mới về đất Mẹ. Sự thật là mình đang về đất Mẹ trong từng giây từng phút. Mỗi khi thở, mỗi khi bước đi là chúng ta đang trở về. Luôn luôn có những “input” và “out put” đang xảy ra, vì vậy chúng ta đừng nghĩ rằng sau khi xác thân tan hoại rồi ta mới trở về. Chúng ta đang trở về và trở ra trong từng giây phút của đời sống hằng ngày.

Tâm mình có thể làm thay đổi cục diện

Tuy đất Mẹ có sự vững chãi, có tài ba, có khả năng nuôi dưỡng và trị liệu nhưng có khi đất Mẹ cũng đau khổ. Cũng như bà mẹ của mình, tuy có rất nhiều tình thương nhưng có khi mẹ cũng đau khổ. Hành tinh Đất cũng có khi đau khổ giống như một bà mẹ, vì vậy có khi có núi lửa phun ra, có khi có bão tố, địa chấn hay hải chấn. Ta rất đau khổ mỗi lần xảy ra như vậy và ta cho đó là vì trời phạt. Nhưng thật ra chúng ta cũng có một phần trách nhiệm về những gì xảy ra cho trái đất.

Ví dụ như trong vùng đất này gần cả năm không có mưa, chúng ta than phiền tại sao đất Mẹ không cho mưa; còn ở Thái Lan thì mưa đến ngập lụt khiến cho 500-600 người chết. Chúng ta trách trời trách đất tại sao bất công như vậy. Đó là tại vì nghiệp, tại hành động của chúng ta đã làm mất đi thế thăng bằng. Hôm trước có một vị đề nghị chúng ta nên gửi năng lượng để cầu mưa cho vùng này. Chúng ta cầu mưa không phải bằng cách hướng về một vị thần ở đâu đó. Tôi nghĩ cầu mưa ở đây cũng rất khoa học: Chúng ta ngồi ở đây như một tăng thân, tập trung tâm ý và gửi năng lượng tập thể cho đất Mẹ. Trong năng lượng tập thể có chất liệu của từ bi, của tuệ giác, ý thức được rằng con người đã làm mất đi cái thăng bằng và có tâm niệm muốn hối cải, muốn sống lành mạnh.

Khi chúng ta ngồi với nhau và gửi năng lượng tới đất Mẹ thì đất Mẹ có thể sắp đặt trở lại để mưa có thể rơi xuống vùng này của trái đất. Chuyện đó có thể xảy ra được. Lực lượng tâm ý của chúng ta cũng là một năng lượng có thể làm thay đổi cục diện. Cầu mưa không phải là mê tín mà có thể rất khoa học, tại vì tâm của mình có thể thay đổi được tình trạng. Tâm mà có từ bi, có tuệ giác, có năng lượng an lành thì tâm có khả năng chữa trị, thay đổi. Nếu tâm có hận thù, bạo động, tuyệt vọng thì sẽ tạo ra những khổ đau trên thế giới.

 

 

Đây là cầu nguyện:

Lạy Mẹ, Bồ tát Thanh Lương Đại Địa, có những lúc chúng con đau khổ thật nhiều vì thiên tai xảy ra. Chúng con ý thức rằng trong lúc chúng con khổ thì mẹ cũng đang khổ. Có khi chúng con hướng về mẹ và hỏi: Chúng con có thể trông cậy và nương tựa vào mẹ hay không? Nhưng lúc ấy Mẹ không trả lời ngay cho chúng con. Sau đó mẹ nhìn chúng con bằng con mắt xót thương và nói: Cố nhiên là các con có thể nương tựa vào Mẹ, tại vì Mẹ sẽ luôn luôn có mặt đó cho chúng con, nhưng các con cũng nên tự hỏi câu hỏi này: Liệu Mẹ có thể tin tưởng và trông cậy vào các con hay không?

Lạy Mẹ chúng con đã thức nhiều đêm không ngủ vì cái công án đó. Và bây giờ đây với những khuông mặt đầm đìa nước mắt, chúng ta đến quỳ dưới chân Mẹ và dâng lên Mẹ câu trả lời chân thành này: Mẹ từ bi và thánh thiện của chúng con ơi, Mẹ có thể trông cậy và tin tưởng ở chúng con.

Khi đi thiền hành chúng ta cũng thấy được phần trách nhiệm của mình. Mình phải thức dậy, phải biết vai trò của mình và bảo hộ Mẹ chứ mình không thể hoàn toàn chỉ trông cậy ở Mẹ. Mình là một phần của Mẹ, mình là Mẹ. Khi có bất nhị trí, mình sẽ thoát khỏi phiền não như sợ hãi, hận thù, thèm khát và tuyệt vọng. Mình sẽ không gây đổ vỡ hay tàn hại cho chính mình, cho chủng loại khác và cho đất Mẹ.

Quán chiếu về sống chết

 

Đối diện với cái chết

Chúng ta có bài tập:

Thở vào tôi biết tôi đang còn sống
Thở ra tôi mỉm cười với sự sống trong tôi và chung quanh tôi

Bài thực tập này giúp chúng ta có mặt thật sự và tiếp xúc được với sự sống. Theo nguyên tắc, khi thở vào, đem thân trở về với thân, tiếp xúc được với sự thật là ta đang còn sống và sự sống đang có mặt trong ta và chung quanh ta thì sự thực tập chế tác được niềm vui, niềm vui được biết là ta đang còn sống. Ta có tuệ giác là mình phải sống như thế nào cho xứng đáng, để không làm uổng phí sự sống mà mình đã được ban tặng. Thở vào tôi biết là tôi đang còn sống, ta có niềm vui do ý thức tạo ra.

Nhưng niềm vui nhờ ý thức được rằng mình đang còn sống có hàm chứa sự lo lắng mà mình không muốn đối diện. Mình lo lắng một ngày nào đó mình sẽ phải chết tại vì có sống thì phải có chết. Niềm vui đó có thể không trọn vẹn, mình trận quí sự sống, mình trân quí giây phút hiện tại nhưng phía sau vẫn còn một sự lo lắng nào đó: Ngày mai mình sẽ nằm xuống và thân xác của mình sẽ cứng đơ. Mình không còn thở, không còn cảm xúc, không còn cảm giác nữa, mình không còn suy tư và không còn có mặt trong cuộc đời.

Tuy niềm vui chế tác bởi ý niệm “mình đang còn sống” có mặt thật sự, nhưng phía sau còn lãng vãng một nỗi sợ, một nỗi buồn. Niềm vui đó không được trọn vẹn tại vì mình biết rất rõ đã có sự sống thì thế nào cũng có cái chết, không chết ngay bây giờ nhưng sẽ chết một ngày nào đó. Vì vậy trong đạo Bụt chúng ta có những phép thực tập quán chiếu về cái chết. Đức Thế Tôn nói quán chiếu về cái chết đem lại rất nhiều lợi lạc. Chúng ta sợ cái chết, chúng ta không cảm thấy thoải mái khi nghĩ tới cái chết và ta có khuynh hướng đẩy ý niệm chết ra. Ta không dám đối diện với cái chết, nhưng trong tiềm thức ta biết thế nào ta cũng phải đối diện với nó. Chúng ta có nhiều bài tập quán chiếu về cái chết mà bài tập thông thường nhất là:

Tôi thế nào cũng phải chết. Tôi không thể nào tránh khỏi cái chết.

Trong chiều sâu tâm thức của chúng ta có hạt giống sợ chết. Nhưng thay vì trốn chạy hay khỏa lấp nó thì ta đưa nó lên và nhìn thẳng vào nó. Ta đối diện với nỗi sợ của mình, nỗi sợ khi chết phải đi vào hư vô, phải từ lĩnh vực của hữu thể đi vào lĩnh vực của vô thể. Mỗi người trong chúng ta đều có hạt giống của sự sợ hãi đó nên bài tập dạy chúng ta: thay vì chạy trốn nó thì ta nâng nó lên cao và nhìn thẳng vào mặt nó. Trụ Vũ có viết một bài thơ:

Tôi đi giữa sa mạc hiu quạnh
Một con gấu bỗng đến vồ tôi
Nhưng tôi nhìn thẳng vào mặt nó
Để mặc cho nó xé nát cho rồi

Nhưng bài thơ của Trụ Vũ có vẻ bi thảm. Đáng lý ra mình phải xé nát con gấu thay vì để con gấu xé nát mình. Cái chết chỉ là một ý niệm, con gấu đó là một con gấu giấy mà không phải là con gấu thật.

Bài thực tập này Bụt đưa ra cho các thầy gồm có năm phần:

1.Thế nào tôi cũng phải già, tôi không thể nào tránh thoát cái già.

    Ta đem cái sợ già lên nhìn và mỉm cười với nó. Người tu phải có can đảm đối trị cái sợ của mình, nếu không nó sẽ âm thầm tàn phá mình, tại vì tiềm thức mình hoạt động ngày đêm và nó chi phối cách suy tư, cách nói năng, cách hành động của mình mỗi ngày.

    Phương pháp của đạo Bụt là không trốn chạy mà phải đem cái sợ lên mà nhìn cho kỹ, trước hết là nhìn cái già của mình: mình thế nào cũng phải già, mình còng lưng xuống chống gậy và đi những bước run rẩy.

    2.Tôi thế nào cũng phải bệnh, tôi không thể nào thoát khỏi bệnh.

      Trước khi chết thế nào mình cũng phải bệnh, không bệnh này thì bệnh khác. Mình rất sợ giờ phút mình nằm trên giường bệnh, bác sĩ chăm sóc cho mình bớt đau nhức. Khi mình trực tiếp nhìn vào mặt của cái bệnh thì nó sẽ không ở bên dưới thầm thầm chi phối mình nữa.

      3.Tôi thế nào cũng phải chết, tôi không thế bào tránh khỏi cái chết.

      4.Những gì tôi trân quí hôm nay như địa vị, bằng cấp, danh vọng, tài sản, những người thương thì đến giờ phút đó tôi đều phải buông bỏ, tôi không đem theo được gì hết.

        Mình phải thấy được sự thật đó. Có những người chết rất khó tại vì họ không buông bỏ được. Chúng ta học quán chiếu để buông bỏ ngay từ bây giờ.

        5.Cái mà tôi đem theo là tất cả hành động của tôi. Những gì, tôi nghĩ, những gì tôi nói, những gì tôi làm sẽ không mất đi, tôi sẽ đem chúng theo và hoàn toàn chịu trách nhiệm về chúng nó.

          Những tư duy của tôi, những lời nói, những hành động của tôi (hoặc lành hoặc dữ) đều mang chữ ký của tôi. Tôi không thể nào chối là tôi đã không nghĩ, không nói, không làm như vậy. Đó là những nghiệp mà tôi đã tạo ra trong đời này và nó sẽ đi theo tôi.

          Đức Thế Tôn đã dạy các thầy, các sư cô quán chiếu như vậy với mục đích là cho chúng ta cơ hội đưa cái sợ lên, nhìn thẳng vào mặt nó để làm cho nó yếu bớt đi, không cho nó âm thầm chi phối những tư tưởng, những ngôn ngữ hay những hành động của mình trong đời sống hằng ngày. Chúng ta nên có một bài tập nữa để bổ túc cho bài tập”Thở vào tôi biết đang còn sống, thở ra tôi ăn mừng sự sống”.

          Thở vào, tôi biết ngày nào đó tôi sẽ chết và tôi sẽ không đem theo được gì ngoài hành động (karma) của tôi mà thôi.

          Bài tập thứ hai này không dễ chịu bằng bài tập thứ nhất nhưng nếu mình biết thực tập thì bài tập thứ nhất sẽ đem lại cho mình hạnh phúc nhiều hơn. Đức Thế Tôn có nói: nếu chúng ta quán chiếu được về cái chết thì công đức sẽ vô lượng. Theo tiêu chuẩn ngoài đời, một người đang còn trẻ mà quán chiếu về cái chết thì không lành mạnh (morbide). Nhưng sự thật thì ngược lại, nếu quán chiếu và thấy được bản chất của cái chết thì ta sẽ trân quí sự sống và ta sẽ sống sâu sắc và hạnh phúc hơn nhiều.

          Đức Khổng Tử nói: Mình chưa biết xử lý sự sống thì làm sao mà xử lý được cái chết? (Vị năng sự sinh, yên năng sự tử?). Nhưng nếu mình quán chiếu và có được một cái thấy chính xác về cái chết thì lúc đó mình sống mới thật là sống, tại vì cái sống và cái chết nương vào nhau mà có.

          Quán chiếu về không sinh không diệt

          Đứng về phương diện tích môn thì có sống và chết, có sinh và diệt; nhưng đứng về phương diện bản môn thì không có sinh, không có diệt. Quán chiếu về chết và sống rồi, mình có thể đi tới bước thứ hai là quán chiếu về không sinh không diệt.

          Khoa học hiện đại đang vật lộn với quan niệm sống-chết, có-không và khoa học đã khám phá ra nhiều điều tương đương với tuệ giác của đạo Bụt. Lavoisier đã nói: Không có gì sinh cũng không có gì diệt (Rien ne se crée, rien ne se perd). Khoa học đã nêu ra luật bảo tồn năng lượng và luật bảo tồn vật chất (la loi de la conservation de l’énergie, la loi de la conservation de la matière). Các nhà khoa học nhìn vào vật chất, nhìn vào năng lượng và thấy rằng: bản chất của vật chất cũng như của năng lượng là không sinh không diệt. Chúng ta không thể nào làm ra vật chất mới, làm cho vật chất từ có mà trở thành không. Chúng ta cũng không thể nào tạo ra năng lượng mới hay làm cho năng lượng từ có mà trở thành không. Đó lá cái thấy của những nhà khoa học.

          Lavoisier nói: Không có gì sinh, không có gì diệt, tất cả đều chuyển biến (Rien ne se crée, rien ne se perd, tout se transforme). Tất cả đều biến đổi, mà biến đổi khác với sinh diệt. Sinh là từ không mà trở thành có, diệt là từ có mà trở thành không, còn chuyển biến là thay đổi mà thôi. Vì vậy cái thấy của Lavoisier rất sâu sắc, ông đã khám phá ra sự thật là các pháp không sinh cũng không diệt, các pháp là vô thường chuyển biến. Nhưng không biết Lavoisier có áp dụng được cái thấy đó vào trong đời sống của ông hay không? Năm 51 hay 52 tuổi thì ông bị lên máy chém. Vợ của Lavoisier rất dễ thương, ông đã cưới cô lúc cô chưa được 14 tuổi. Cô rất xinh đẹp và yêu chồng, cô nguyện học tiếng Anh để dịch những tác phẩm khoa học của các nước cho chồng tham khảo và cô cũng trở thành một nhà khoa học. Nhưng sau cuộc cách mạng Pháp thì Lavoisier và ông bố vợ đều bị lên máy chém.

          Tôi đặt câu hỏi là khi lên máy chém Lavoisier có áp dụng được cái thấy bất sinh bất diệt hay không? Chính Lavoisier đã nói rằng không có gì sinh cũng không có gì diệt và nếu quả thật Lavoisier có cái thấy đó như một tuệ giác sống mà không phải là lý thuyết thì khi lên máy chém ông có thể mỉm cười được. Cái thấy của Lavoisier và cả Lavoisier vẫn còn tiếp tục cho tới bây giờ, Lavoisier đang có mặt trong thiền đường này ngày hôm nay, Lavoisier không chết được. Cũng như đám mây trên trời, đám mây không chết khi trở thành mưa, nó chỉ tiếp tục dưới hình thức của cơn mưa. Những khám phá của khoa học không những chỉ được áp dụng vào lĩnh vực kỹ thuật mà còn phải được áp dụng vào đời sống tâm linh và đời sống tình cảm của con người. Vì vậy nhà khoa học phải nắm tay với nhà Phật học tại vì hai bên khám phá ra những điều tương đương với nhau rất hay.

          Không có cũng không không

          Nếu đã không có sinh, không có diệt thì cũng không có có, không có không tại vì sinh là từ không mà trở thành có và diệt là từ có mà trở thành không. Đã đạt tới không sinh không diệt, nhưng khoa học không chấp nhận được là đã không sinh không diệt thì cũng không có không không. Nhiều nhà khoa học vẫn còn kẹt vài ý niệm có và không. Theo nguyên tắc thì nếu đã chấp nhận sự thật là không sinh cũng không diệt thì cũng phải chấp nhận luôn sự thật là không có cũng không không. Chúng ta không thể nói rằng vũ trụ bây giờ đang có và mai mốt nó sẽ trở thành không, hay là vũ trụ bây giờ đang có nhưng trước khi có nó đã là không. Nếu chấp nhận sự thật đó khoa học sẽ không đi tìm giây phút đầu tiên, giây phút mà vũ trụ từ không trở thành có gọi là Big Bang, và một khi đã có Bia Bang thì khoa học phải tưởng tượng ra ngày nào đó vũ trụ sẽ bị tiêu diệt gọi là Big Crunch.

          Là nhà Phật học mình phải nói với nhà khoa học: Nếu đã chấp nhận không sinh không diệt rồi thì phải tiến tới một bước nữa là chấp nhận không có cũng không không, phải thoát ra ý niệm being và non-being. Đối với nhà thần học cũng vậy, nếu đã làm việc với nhà Phật học và nhà khoa học thì nhà thần học cũng phải chấp nhận điều đó. Định nghĩa Thượng đế là nền tảng của hữu thể (the ground of being) là còn kẹt vào ý niệm có và không. Nếu Thượng đế là nền tảng của cái có thì ai là nền tảng của cái không? Thượng đế phải thoát ra ý niệm có và không, cho nên đặt vấn đề Thượng đế có hay không có là vô nghĩa. Chúng ta không thể gán cho Thượng đế ý niệm có và không hay sinh và diệt, tại vì ta không thể gán niệm có và không hay sinh và diệt cho một đám mây hay một năng lượng thì làm sao mà ta có thể gán nó cho Thượng đế? Ta đừng cho rằng Thượng đế đứng về phe hữu thể và Satan đứng về phe vô thể, tại vì nếu như vậy thì Thượng không phải là tất cả, Thượng đế có kẻ thù là Satan cũng như hữu thể là kẻ thù của vô thể. Hữu và vô là hai ý niệm cũng như hai ý niệm sinh và diệt.

          Sống và chết tương tức

          Chúng ta thử vạch một đường tượng trưng cho thời gian từ quá khứ đi tới hiện tại, và tương lai.

          Mình ngồi ở điểm hiện tại và nói:

          Thở vào tôi biết là tôi đang còn sống

          Điều đó có nghĩa là tôi bắt đầu sống ở điểm sinh ra và sẽ tiếp tục sống cho đến điểm chết đi. Khi nói như vậy thì phía sau mình có một niềm đau, một sự lo lắng cho nên niềm vui không được trọn vẹn. Vì vậy ngồi ở giây phút hiện tại chúng ta làm thêm một bài tập:

          Thở vào tôi biết tới lúc nào đó tôi cũng phải chết

          Tôi từ vô thể mà đi vào hữu thể, rồi tới điểm chết tức là tôi sẽ từ hữu thể mà đi vào vô thể, đó là cái thấy của chúng ta. Cái thấy đó đưa tới sự lo lắng, nó nằm như một khối trong tiềm thức và chi phối đời sống của mình. Mình đẩy, mình chạy trốn, mình khỏa lấp cái sợ đó, nhưng nó vẫn còn đó, tại vì sự thật là hễ có sinh thì có tử, không có tử thì không có sinh. Mình cứ tưởng có  một cái sinh ra trước, rồi lâu lắm thì cái kia mới sinh ra. Điều này không đúng tại vì sinh và tử có mặt cùng một lần, chúng đi sát với nhau như một cặp bài trùng và có mặt ngay bây giờ chứ không đợi đến một trăm năm sau. Cũng như bên trái và bên trái, không phải là bên trái có trước và saư đó bên trái mới sinh ra, hễ có trái thì có phải ngay lúc đó. Phải làm nền tảng cho trái xuất hiện và trái làm nền tảng cho phải xuất hiện, phải và trái sinh ra cùng một thời, không có cái này thì không có cái kia. Phải và trái tương tức (inter-being), đó gọi là câu hữu (co-being), tiếng Phạn là sahabhu, bhu là có mặt (hữu), saha là cùng nhau. Cái có không thể có mặt một mình, cái có phải cùng có mặt với cái không. Cái sinh không thể có mặt một mình, cái sinh phải cùng có mặt với cái tử.

          Tất cả những gì chúng ta thấy và tiếp xúc hằng ngày cũng đều như vậy. Trong và ngoài cùng xuất hiện một lần, cha và con cùng xuất hiện một lần. Trước khi con anh sinh ra thì anh không được gọi là cha, anh chỉ được gọi là cha khi con của anh sinh ra mà thôi. Có con thì mới có cha, có cha thì mới có con, con và cha tương tức. Cha dựa trên con mà con và con cũng dựa trên cha mà có. Phật là người giác ngộ và chúng sanh là người mê lầm, nhưng có chúng sanh mới có Phật và có Phật mới có chúng sanh. Phật và chúng sanh đi đôi với nhau, chúng ta đừng nên chọn một cái và vứt cái kia đi. Hạnh phúc và khổ đau cũng như vậy, đó là hai mặt của một thực tại. Hạnh phúc dựa trên khổ đau mà có và khổ đau dựa trên hạnh phúc mà có, vì vậy chạy trốn khổ đau và đi tìm hạnh phúc là một chuyện rất buồn cười. Giải thoát có nghĩa ngược lại với triền phược, nhưng nếu không có triền phược thì làm gì có giải thoát và không có giải thoát thì làm gì có triền phược? Giải thoát và triền phược tương tức, câu hữu.

          Theo nguyên tắc, mình sinh ra lúc 0 hay 1 tuổi và chết đi lúc 100 tuổi, nhưng mình có thể chết đi bất cứ lúc nào. Giữa sinh và tử không có khoảng cách mà chúng dính vào nhau như mặt trái và mặt phải của một tờ giấy. Chúng ta thấy rất rõ nếu không có mặt trái thì không có mặt phải và ngược lại. Trái và phải, trên và dưới sinh ra cùng một lần. Đó gọi là tương tức.

          Chúng ta đừng nên nghĩ rằng sự sống có mặt bây giờ và cái chết sẽ đến trong tương lai. Khi đi từ Boston tới New York chúng ta nghĩ có Boston và có New York, ta phải lái xe mấy giờ đồng hồ mới từ Boston tới New York. Nhưng trong mỗi bước chân của mình, bước chân nào cũng có Boston và New York. Mình đang hướng về New York và quay lưng về Boston, nhưng Boston và New York có ngay ở đây mà không phải chỉ có ở hai đầu mà thôi.

          Cái chết và cái sống cũng vậy, nó không bị ngăn cách bởi một khoảng thời gian và không gian, nó có mặt ngay trong hiện tại, nó gần với nhau hơn là bề mặt và bề trái của tờ giấy. Không có cái chết thì không thể nào có sự sống, không có diệt thì không thể nào có sinh.

          Các nhà khoa học cũng tìm ra được điều đó. Họ thấy rõ ràng trong cơ thể của mình lúc nào cũng đều có cái chết đang xẩy ra. Trong lĩnh vực sinh học cũng như trong lĩnh vực lượng tử, cái gọi là vô thường (transformation) đạt tới trình độ cao nhất. Nhìn vào trong cơ thể của mình chúng ta thấy trong mỗi giây phút có hàng triệu tế bào chết đi và có hàng triệu tế bào sinh ra, và cái sống cùng cái chết dựa vào nhau mà có. Nếu những tế bào kia không chết đi thì những tế bào này không sinh ra, sinh dựa vào tử và tử dựa vào sinh. Nếu nhìn bằng kính hiển vi thì ta sẽ thấy bề dày của tờ giấy còn lớn hơn nhiều so với khoảng cách giữa sinh và diệt trong một giây phút, tại vì khoa học hiện nay đã chứng thực được rằng cái chết và cái sống cùng phát hiện trong mỗi giây phút của đời sống hằng ngày.

          Hàng triệu tế bào đang chết mà mình không đau buồn và hàng triệu tế bào đang sinh ra mà mình cũng không vui mừng. Thông thường nếu có một người chết thì mình làm đám ma, nhưng trong giây phút hiện tại có hàng triệu tế bào chết mà mình không có thì giờ để  làm đám ma cho từng tế bào, và có hàng triệu tế bào mới sinh ra mà mình không có thì giờ để ăn mừng ngày ra đời của chúng. Sự sống chết đang nương vào nhau và xẩy ra ngay bây giờ thì tại sao mình lại phải sợ chết? Mình sợ  tại vì mình có cái thấy lệch lạc, mình lấy lưỡi dao ý niệm để tách sự thật ra làm hai phần, một bên là sự sống và một bên là cái chết; bên này là hình hài nhảy múa, cười đùa, ăn uống và bên này là thân thể cứng đơ không có suy tư. Mình cho là mình đang ở bên sự sống, nhưng thật ra là cái sống đang ở bên cái chết và cái chết đang ở bên cái sống. Sống và chết tương tức với nhau.

          Niết bàn: Tuệ giác vượt thoát ý niệm sống và chết, có và không

          Quán chiếu bài tập đến câu thứ năm chúng ta thấy: Những gì mà tôi đem theo khi xác thân này tan hoại chỉ là những hành động của tôi. Tất cả những gì tôi chế tác bằng năm uẩn của tôi tức tư tưởng, lời nói và hành động đều mang chữ ký của tôi và khi tôi chết thì chúng nó sẽ đi theo tôi.

          Đứng về phương diện khoa học thì không có gì mất đi, không có cái chết. Đám mây trên không thể chết, nó không thể nào từ hữu thể mà trở thành vô thể. Khi trở thành mưa thì tất cả đám mây đều nằm trong mưa, nó không mất đi một nguyên tử nào. Khi thí nghiệm một phản ứng hoá học, chúng ta chế chất này vào trong chất kia thì phản ứng hóa học có thể cho chúng ta có cảm tưởng là có một chất gì đó mất đi và một chất gì đó hiện ra. Nhưng nhìn cho kỹ thì các nhà khoa học thấy rằng tất cả những nguyên tử đi vào phản ứng vẫn còn nguyên khi đi ra khỏi phản ứng hóa học, không có gì cũ bị mất đi và không có gì mới được tạo nên.

          Trong Thất Ngồi Yên của tôi có ống kính vạn hoa (kaleidoscope) rất đẹp. Nhìn vào, mình thấy một hệ thống hình ảnh và màu sắc tuyệt vời. Chỉ cần xoay một cái là mình có hình ảnh mới đẹp tương đương, có khi còn đẹp hơn hình ảnh cũ. Không có hình ảnh nào giống hình ảnh nào, nhưng hình ảnh nào cũng đều tuyệt vời. Những hình ảnh thay đổi, nhưng không có gì mất đi, không có gì sinh ra và mình không có thương tiếc tại vì hình ảnh này tiếp nối hình ảnh kia rất đẹp. Không có gì thêm vô, không có gì mất đi, tất cả đều chuyển biến. Đám mây trên trời đẹp thật, nhưng khi trở thành mưa thì nó cũng đẹp. Tất cả những gì có trong đám mây bây giờ đều có mặt trong cơn mưa. Đó gọi là bảo tồn (conservation). Nếu nghĩ chết là không còn gì nữa thì rất sai lầm. Nhìn cho kỹ thì không có cái sinh, không có cái tử. Chúng ta phải sử dụng tuệ giác đó, và ngay chính trong khoa học cũng phải áp dụng tuệ giác đó. Thấy được không sinh không tử mình sẽ giải quyết được vấn đề sợ hãi, tại vì sự sợ hãi là gánh nặng nhất của con người.

          Bông hoa hay con chim kia đang sống, nhưng chúng không có nỗi sợ hãi đó. Con người phải trả cái giá văn minh của mình bằng nỗi lo sợ phập phồng về cái chết và về cái vô thể.  Vì thế  sự quán chiếu giúp con người vượt thoát ý niệm có và không, sống và chết. Khi khi vượt khỏi ý niệm có và không, sống và chết rồi thì nỗi lo sợ của mình sẽ không còn và mình có được niềm vui thật sự. Mục đích cao nhất của người tu là đạt tới Niết bàn. Niết bàn là tuệ giác, là cái thấy vượt thoát ý niệm có và không, sống và chết. Nhưng Niết bàn không phải là cái gì xa lắc xa lơ, Niết bàn nằm trong những cái mà chúng ta tiếp xúc hằng ngày như đám mây kia. Đám mây thuộc về thế giới hiện tượng; quán sát nó mình thấy nó có khi có có khi không, có khi sinh có khi diệt. Nhưng nhìn kỹ bản chất của đám mây, mình thấy tự tính của nó là không sinh không diệt, không có không không. Khoa học cũng có thể làm được điều đó. Đám mây không cần phải đi tìm cái không sinh không diệt, không có không không tại vì nó đang ở trong đó rồi. Có, không, sinh, diệt chỉ là ý niệm của mình. Không những đám mây mà tất cả vạn vật đều như vậy.

          Chúng ta hãy tưởng tượng có một đám mây mà 50% biến thành mưa và 50% vẫn còn bay lơ lững trên trời. Một nửa đám mây nhìn xuống và nhìn thấy một nửa của nó đã trở thành dòng nước. Nó nhận ra được dòng nước đó là sự tiếp nối của mình, nó thấy nó bay ở trên cũng vui mà nó trôi chảy ở dưới cũng vui. Nó chào phân nửa của nó ở dưới: Hello, you are half of me down there, I go join you very soon. Đám mây không có sợ hãi, nó biết bản chất của nó là không có không không, không sinh không diệt. Chỉ có sự biến chuyển mà không có sự sinh diệt. Đám mây không có sự lo lắng của con người.

          Niết bàn không phải là cái mình đi tìm. Mình đang ở trong Niết bàn tức trong thể tính không sinh không diệt, không có không không của mình. Cũng như đợt sóng kia đang sợ hãi vì sự lên xuống, có không; nhưng khi đợt sóng biết mình là nước rồi thì nó không còn sợ hãi nữa, đi lên nó cũng vui mà đi xuống nó cũng vui. Nó không cần phải đi tìm nước, nó đã là nước rồi. Niết bàn cũng vậy, Niết bàn không phải là trạng thái tâm lý hay nơi chốn mà mình phải đi tìm. Niết bàn là bản chất của mình, mình đang ở trong Niết bàn. Chúng ta nói “nhập Niết bàn”, như vậy có nghĩa là mình ở ngoài và mình đi vô Niết bàn. Điều này không đúng, nói như vậy giống như mình là một cái khác, Niết bàn là một cái khác và mình đi vô Niết bàn. Mình đang ở trong Niết bàn thì cần gì phải nhập Niết bàn. Niết bàn nằm ở đâu? Niết bàn nằm ngay ở chỗ sinh tử. Đi tìm nước ở đâu? Tìm ngay ở sóng. Trong sóng có nước, trong sinh tử có Niết bàn. Nhìn bề ngoài, đám mây có sinh, có tử; nhưng trong bề sâu đám mây không có sinh, không có tử.

           

           

          Địa xúc – tuệ giác vô ngã

          Tiếp xúc với tự tính vô ngã

          Vô ngã là một cái định (concentration) mà không phải là triết học hay ý niệm. Nếu chỉ sử dụng trí năng thì chúng ta sẽ không chứng đạt được vô ngã. Phải thực tập định thì ta mới chứng được vô ngã, tại vì có thể ta nói về vô ngã rất hay nhưng cái ngã của ta vẫn còn rất lớn. Cái ngã càng lớn thì ta càng đau khổ và càng làm cho những người khác đau khổ. Vấn đề không phải là nói về vô ngã mà ta phải thực tập như thế nào để vượt thoát được ý niệm về ngã.

          Trong khi thực tập địa xúc (thiền lạy), chúng ta quán tưởng tới đất Mẹ. Chúng ta nhắc lại lúc Bụt Thích Ca sắp thành đạo. Ngài có linh cảm rằng trong 24 giờ đồng hồ nữa thì Ngài sẽ đạt được đạo nên Ngài rất phấn khởi. Lúc đó ma vương Ba Tuần hiện ra nói với Ngài:

          • Ông có chắc là trong 24 giờ đồng hồ nữa ông sẽ chứng đạo không? Ông đừng nên lạc quan nhiều như vậy. Ai sẽ làm chứng là ông đã làm được chuyện đó? Làm sao mà ông đạt được đạo? Thế giới nằm dưới quyền của tôi, quyền của u mê, quên lãng. Làm sao ông có thể vượt thoát ra sự kiểm soát của tôi?

          Bụt làm ấn địa xúc, dùng tay trái sờ vào đất Mẹ và nói:

          • Có đất này làm chứng cho tôi là tôi đã từng thành công và tôi sẽ thành công trong 24 giờ đồng hồ nữa.

          Khi được Siddharta chạm tới thì đất Mẹ đã rung động bảy lần. Ma vương biết mình đã thua liền biến mất. Trong khi thực tập địa xúc chúng ta biết Đức Thế Tôn đã thành đạo nhiều lần trên trái đất này. Ngày xưa đức Konāgamana (Câu Na Hàm Nâu Ni) cũng là Bụt. Ngày mai khi đức Di Lặc ra đời thì cũng là Bụt. Đất Mẹ vẫn tiếp tục cho ra những vị Bụt. Thấy được điều đó ta sẽ quay về nương tựa nơi đất Mẹ. Ta sẽ không bao giờ chết, ta luôn luôn trở về đất Mẹ và ta sẽ được đất Mẹ đưa ra trở lại cho tới khi ta có thể thành công được như Đức Thế Tôn, thầy của chúng ta.

          Nguồn: An cư kết đông 2013-2014 tại Làng Mai, Pháp

          Sau khi quán tưởng, đại chúng thực tập địa xúc ba lần. Mỗi khi tôi thực tập địa xúc, hoặc một mình hoặc cùng với đại chúng, lúc chắp tay lạy, trong quá trình năm vóc gieo xuống, tôi luôn quán tưởng rằng đây không phải là một cá nhân đang lạy xuống mà là cả một dòng họ, một đất nước, một dòng tâm linh và huyết thống đang lạy xuống. Và trong suốt thời gian gieo xuống năm vóc như vậy thì mình được giải thoát, giải thoát ra khỏi ý niệm mình là một cái ta riêng biệt tách rời. Sự thật thì chúng ta không có một cái ta riêng biệt. Nhìn vào năm uẩn tôi thấy sự có mặt của cha mẹ, của ông bà tổ tiên tâm linh và huyết thống, tôi thấy đại chúng và tôi cùng lạy xuống như một tập thể, như một dòng họ, như một truyền thống. Tôi không lạy xuống như một cá nhân riêng lẻ.

          Chỉ cần có một chút niệm và định thì ta thấy được, tức là ta có tuệ. Trong khi gieo năm vóc xuống mà có niệm, định và tuệ thì ta trở thành một con người tự do, ta không còn bị tư tưởng về cái ngã khống chế nữa. Định lực “không có cái ngã“ có mặt trong suốt thời gian gieo xuống năm vóc. Khi trán tiếp xúc với đất thì ta cũng tiếp xúc luôn với tổ tiên tâm linh, với các vị Bụt và các vị Bồ tát. Mấy năm nay tôi thường quán chiếu:

          Chúng con (tăng thân xuất sĩ, cư sĩ và cả dòng họ, ông bà, tổ tiên) xin Tam bảo (Bụt, Pháp và Tăng) gia hộ cho chúng con có đủ sức mạnh, đủ kiên nhẫn để vực dậy một nền đạo lý toàn cầu ứng dụng để làm cho thế gian này bớt khổ.

          Đây không phải là lời nguyện của một người mà là lời nguyện của cả tăng thân, dòng họ. Ta được tuệ giác vô ngã tiếp tục soi sáng trong thời gian ta thở ba hơi thở vào và ra. Theo sự thực tập của Làng Mai thì trong khi năm vóc lạy xuống, ta thở vào và thở ra ba lần. Vị tri chung phải để cho đại chúng đủ thì giờ để thở vào và thở ra ba lần trong khi quán chiếu. Trong khi thở vào và thở ra ba lần, ta duy trì được định vô ngã. Ta thấy ta cũng là dòng họ, là tổ tiên tâm linh huyết thống, là cả một đất nước mà không phải là một cá nhân.

          Khi nghe tiếng chuông nhấp thì ta đứng dậy, không phải với tư cách một người mà ta đứng dậy với tư cách của tăng thân, của dòng họ quá khứ, hiện tại và tương lai. Tôi hy vọng đại chúng cũng thực tập địa xúc như vậy.

          Khi nhìn một người, người đó có thể là sư anh, sư chị, sư em của ta, một thiền sinh cư sĩ hay một em bé, ta cũng phải thực tập nhìn với tuệ giác vô ngã. Ta không nhìn người đó như một cá nhân đơn độc tách rời mà ta phải thấy được cả dòng họ của người đó. Sự thật người đó không phải là một cá nhân biệt lập. Trong người đó có tất cả tổ tiên huyết thống và tâm linh, không chỉ tổ tiên loài người mà còn có các loài khác, tại vì các loài khác đã có mặt trước khi loài người xuất hiện. Trước khi có loài động vật thì đã có các loài thực vật và khoáng vật. Vì vậy ta có tổ tiên loài người, nhưng ta cũng có tổ tiên động vật, thực vật và khoáng vật. Nhìn một người ta phải thấy cả quá trình tiến hóa của sự sống. Ta thấy được lịch sử của sự sống trong con người đó. Người đó từ khoáng, từ khí, từ sương, từ cây cỏ, từ động vật mà trở thành con người homo sapiens. Thấy được như vậy thì ta mới thấy được người đó, nếu chưa thấy như vậy thì ta chưa thấy được người đó. Thấy được người đó là thấy được tính vô ngã của người đó. Người đó có đức hạnh, tài năng nhưng cũng có những khiếm khuyết và những tật xấu. Đức hạnh, tài năng hay khiếm khuyết, tật xấu không phải là của người đó mà là của cả một dòng tiếp nối. Thấy được như vậy là ta thấy được người đó, nếu không thì ta chỉ có ảo tưởng về người đó mà thôi.

          Khi thương một người ta nghĩ là ta đã biết người đó là ai và ta đã nắm được người đó rồi. Ta đã lầm, ta chưa biết gì nhiều về người đó đâu, ta bị hình thức bên ngoài của người đó làm chóa mắt. Khi thương một người ta phải thực tập, ta phải thấy rằng người này là một mầu nhiệm mà ta chưa biết rõ được. Ta chỉ có một quan niệm, một cái thấy rất cạn cợt về người này mà thôi. Ta phải quán chiếu theo lời Bụt dạy thì mới thật sự thấy được người này. Ta phải thấy cha, mẹ, ông, bà, tổ tiên huyết thống và tâm linh, thấy quá trình lịch sử diễn biến trong sự sống thì ta mới thấy được người đó. Nếu thấy được như vậy thì ta cũng thấy được ta ở trong người đó.

          Cũng như một vị tổng thống tiếp nhận một vị đại sứ mới, viên đại sứ khi mới tới phải gặp tổng thống hoặc vua hoặc thủ tướng để trình ủy nhiệm thư, vị tổng thống không nhìn viên đại sứ với tư cách của một cá nhân mà phải thấy viên đại sứ là đại diện cho cả một nước, một dân tộc, một quốc gia. Nói với người đó một câu là nói với cả đất nước, dân tộc của người đó. Trách cứ người đó một câu là trách cứ cả dân tộc, đất nước của người đó.

          Khi nhìn một người, dù người đó là người ta thương hay là người ta không thương thì ta cũng đừng nhìn người đó với tư cách một cá nhân đơn độc, lẻ loi. Ta phải thấy trong người đó, sau lưng người đó là cả một dòng họ, một đất nước với tất cả những cái hay, cái tốt và cái yếu kém của họ. Nhìn như vậy là thấy được cái vô ngã trong người đó. Người ta thương ta phải nhìn như vậy mà người ta giận ta cũng phải nhìn như vậy. Nếu nhìn được sâu thì ta sẽ thấy rõ ràng là ta đang ở trong người đó và người đó cũng đang ở trong ta. Ví dụ như bông hoa này, ta nghĩ là ta đã biết bông hoa này rồi. Nhưng nhìn kỹ thì ta thấy trong bông hoa có đám mây, mặt trời, đại địa, v.v. Ta đã nhìn kỹ mảnh đất nuôi bông hoa hay chưa? Nếu nhìn kỹ ta sẽ thấy trong đất có xương của các loài động vật, những loài thực vật và cũng có thể có xương của ông bà tổ tiên và cả xương của mình. Có thể trong kiếp trước ta đã sống và xương thịt của ta đã tiêu hoại thành đất. Nhìn bông hoa, không những ta thấy tổ tiên ta mà ta còn thấy ngay cả ta trong đó. Ta có trong hoa và hoa có trong ta. Ta đã dùng thực vật làm thức ăn, ta đã ăn trái, ăn lá và ăn cả hoa. Thấy được như vậy thì ta mới thật sự thấy được bông hoa, thấy được người kia, có nghĩa là thấy trong tuệ giác vô ngã.

          Vậy từ nay, khi gặp người thương hay người ta đang giận thì ta hãy nhìn họ với con mắt của niệm, định và tuệ, ta sẽ thấy cái thương ghét của ta được thay đổi. Ta sẽ được giải thoát nhờ tuệ giác vô ngã.

          Hình hài là một cộng đồng

          Trong lúc đi, đứng, nằm, ngồi, ta phải quán chiếu để thấy hình hài ta là hình hài của tổ tiên và con cháu. Phải thấy rằng ta chính là một cộng đồng của cả hàng trăm tỷ các tế bào trong cơ thể đang cùng chung sống. Không chỉ là tế bào của con người mà còn là tế bào của hàng tỷ sinh vật đơn tế bào khác đang sống chung trong cơ thể, nhất là trong hệ thống tiêu hóa của ta có nhiều loài vi sinh rất cần thiết cho sự sống của cơ thể.

          Mỗi khi nhìn vào một người đang ngồi trước mặt hoặc đang từ xa đi tới, ta cũng có thể quán chiếu để thấy được người đó không phải chỉ là một cá nhân, mà người đó đại diện cho cả một dòng họ, một đất nước và một dân tộc. Thấy được như thế thì ta mới thực sự thấy được những tài năng của người ấy, những tài năng mà tổ tiên người ấy đã trao truyền cho người ấy mà nhiều khi chính người ấy cũng không nhận diện được. Thấy được như thế ta mới có thể giúp cho người ấy vượt thoát khỏi mọi mặc cảm, trong đó có mặc cảm thua người, hơn người hoặc bằng người. Thực tập nhìn ta và nhìn người như thế, ta có cơ hội chứng đạt được chân lý vô thường và vô ngã. Vô thường và vô ngã không còn là những ý niệm để học hỏi nữa mà đã trở thành tuệ giác đích thực có thể giải phóng cho ta và cho người.

          ************************

          Về sự thực tập địa xúc (thiền lạy), đại chúng được nhắc nhở là mỗi khi lễ lạy, ta không nên chỉ lạy xuống với tư cách một cá nhân mà nên lạy xuống như một dòng chảy có đầy đủ tổ tiên và con cháu của cả hai dòng tâm linh và huyết thống. Như vậy trong khi lạy, mình tiếp xúc được tự tính vô ngã trong thân tâm mình. Khi đi cũng vậy, mình có thể quán chiếu là mình bước đi một lần và với tất cả tổ tiên và con cháu tâm linh và huyết thống. Ta có thể đi bằng chân của Bụt, của Tổ, của ông bà, cha mẹ và con cháu chúng ta. Ta có thể bước như thế nào để tất cả dòng họ đều được tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống, để tất cả được nuôi nấng và trị liệu trong từng bước chân. Sáng nào, sau khi ngồi thiền, đại chúng cũng có thực tập địa xúc, sử dụng Sám Pháp Địa Xúc và lạy xuống trong tuệ giác vô ngã.