Đi gặp mùa xuân

Chú bé ngày xưa và chú bé ngày nay

Trên cốc Ngồi Yên ở Xóm Thượng có một tấm hình của Thầy chụp vào năm mười sáu tuổi. Hồi đó, Thầy mới đi tu được chừng sáu tháng. Mỗi khi nhìn vào tấm hình ấy, Thầy thấy trong lòng dâng lên một niềm cảm thương, tại vì ở tuổi đó, Thầy đang còn khờ khạo, ngây thơ, chưa biết gì về con đường tương lai, cũng chưa biết được bản chất của Phật pháp, cũng không biết rằng sau này lớn lên mình sẽ tu học như thế nào và hành đạo ra sao ?

Hôm trước trên cốc Ngồi Yên, Thầy hỏi sư chú Pháp Cảnh, sư chú trẻ nhất ở trong xóm Thượng, trẻ nhất không có nghĩa là tu sau nhất vì sư chú Pháp Cảnh bây giờ là sư anh của nhiều sư em rồi. “Bây giờ con có muốn Thầy biến thành một chú bé mười sáu tuổi hay hai mươi tuổi hay không? Thầy có thể làm được điều đó.” Sư chú không trả lời. Chắc có lẽ sư chú nghĩ Thầy mình có phép lạ, có thể biến một ông già bảy mươi tuổi thành một chú bé mười sáu tuổi hay một chàng thanh niên hai mươi tuổi.

Trong thiền quán, nhìn sâu sắc vào bản thân của mình và vào sự sống, Thầy thấy: mình đã biến thành một chú bé mười sáu tuổi hay một chàng thanh niên hai mươi tuổi. Thầy thấy sư chú Pháp Cảnh cũng như sư chú Pháp Niệm chính là Thầy. Tuy nhiên, giữa sư chú ngày xưa của năm mươi bốn năm về trước và sư chú ngày hôm nay có nhiều sự khác biệt. Sư chú ngày xưa chỉ có một năng lượng rất lớn ở trong lòng: muốn tu và muốn đem đạo Bụt ra làm đẹp cho cuộc đời. Ý niệm muốn tu và muốn đem đạo Bụt ra làm đẹp cho cuột đời rất mạnh ở trong lòng chú bé mười sáu tuổi. Tu như thế nào thì chưa biết, làm đẹp cho cuộc đời như thế nào thì chưa biết, nhưng năng lượng ấy rất lớn ở trong trái tim chú bé ngày xưa.

Chú bé ngày hôm nay cũng thế nhưng lại giàu có hơn nhiều. Năm mươi bốn năm tu học và hành đạo cộng với kinh nghiệm khổ đau đã đem lại cho chú bé ngày xưa nhiều tuệ giác để truyền lại cho chú bé ngày nay. Chú bé ngày nay biết con đường mình đi và chứng kiến được sự thành công của sự tu tập chung quanh mình. Chú bé ngày nay tới tham dự vào những khóa tu được tổ chức ở Âu châu, Mỹ châu hay Làng Mai, có thể thấy được sự chuyển hóa và an lạc của những thiền sinh tới tu tập. Chú bé được trao truyền những phương pháp thực tập rất cụ thể như ăn cơm, uống trà, thở, ngồi thiền, lạy v.v… Sự thực tập được soi sáng bởi những lời giảng giải mà chú bé có thể hiểu được một cách rõ ràng.

Như vậy, so với chú bé ngày xưa, chú bé ngày hôm nay may mắn và giàu có hơn nhiều. Biết được con đường trước mặt mình là con đường nào, biết được những khó khăn mà mình sẽ đương đầu trong tương lai. Giữa hai chú bé có sự khác biệt, và khi thực tập nhìn sâu, Thầy thấy Thầy là sư chú Pháp Niệm, là sư chú Pháp Cảnh, là sư cô Tuệ Nghiêm, là sư cô Định Nghiêm, v.v… Trong cái thấy đó, không có sự phân biệt ta và người. Khi tu tập quán chiếu sâu sắc, mình không còn thấy ranh giới giữa mình và người. Người kia bây giờ là mình, người kia bây giờ đang tiếp tục sự sống và sự nghiệp mình. Và khi mình thấy được như vậy thì ý niệm về chia ly, về xa cách, về vĩnh biệt, về chết sống sẽ tan biến mất và mình trở nên một con người tự tại và an lạc.

Thực tại đẹp hơn giấc mơ

Cuộc đời có những khổ đau, có những khó khăn. Nhiều người trong chúng ta không đủ sức để đối phó với những khổ đau và khó khăn đó, cho nên hay có khuynh hướng đi tìm và trú ẩn nơi những giấc mơ. Mơ ước rằng ngày mai mình sẽ được như thế này, ngày kia mình sẽ được như thế nọ. Có khi thiên đường hay cực lạc cũng chỉ là những giấc mơ mình tạo ra cho mình để trốn chạy thực tại, trốn chạy những khó khăn của chính mình trong ngày hôm nay.

Các văn nghệ sĩ, các nhà làm phim và các nhà làm kịch biết nhu yếu đó của con người. Họ biết con người không có an lạc trong giây phút hiện tại, cho nên họ luôn luôn muốn tạo ra những giấc mơ để giúp người ta có thể lẩn tránh, giúp người ta có thể quên bớt những đau khổ và những khó khăn của cuộc sống hiện thực. Viết một cuốn tiểu thuyết, làm một cuốn phim, kể một câu chuyện là để cống hiến cho người ta những giấc mơ để người ta được vỗ về, nuôi nấng và ấp ủ, để quên đi những đau khổ trong hiện tại. Con đường văn nghệ, con đường sáng tác của số đông là như vậy. Có nhiều nhà nghệ sĩ nói: “Nếu đời không có những giấc mơ thì làm sao sống được!” Vì vậy, phận sự của các nhà nghệ sĩ là tạo ra những giấc mơ: mơ ước cái này, mơ ước cái khác.

Trong khi đó, sự thực tập của chúng ta tại Làng Mai đi ngược hẳn lại với khuynh hướng trốn chạy đó. Chúng ta được dạy rằng: “Tất cả những gì mầu nhiệm của sự sống nằm ngay trong giây phút hiện tại.” Và nếu bỏ giây phút hiện tại thì chúng ta không còn gì nữa. Thiên đường, cực lạc, niết bàn v.v… và những gì mà chúng ta trân quý và ước ao như an lạc, vững chãi, thảnh thơi, v.v… tất cả những cái đó, theo lời Bụt dạy, đều phải được tìm ngay trong giây phút hiện tại. Vì vậy, trở về giây phút hiện tại, chọc thủng giây phút đó để đi vào trái tim của sự sống, đó là sự thực tập của chúng ta. Tại Mai Thôn đạo tràng, chúng ta không chạy theo con đường mà đa số đang chạy theo là tìm tòi sự lãng quên, nương náu vào những giấc mơ để quên đi đau khổ, quên đi những khó khăn hiện thực của cuộc sống.

Trong một buổi thiền tọa, Thầy tự hỏi: “Mình có còn giấc mơ nào cần thực hiện không? Mình có còn ao ước nào nữa không?” Trong một thời gian khá lâu, Thầy tìm tòi, phơi bày chiều sâu tâm thức ra mà vẫn không tìm thấy được một đối tượng nào của ước mơ chưa được thực hiện. Ai mà lại không có những giấc mơ? Ai mà lại không có những ước mộng chưa thành? Nhưng hôm ấy trong khi ngồi thực tập quán chiếu, Thầy không thấy có một giấc mơ nào hay một ước vọng nào chưa thành cả. Đó là một điều rất là ngộ nghĩnh.

Có khi nhìn trời, nhìn trăng, nhìn sao, nhìn cây, nhìn cỏ, nhìn các sư cô, sư chú, Thầy thấy rằng: “Thực tại đẹp hơn bất cứ giấc mơ nào mà mình có thể mơ tưởng.” Chỉ cần so sánh chú bé ngày xưa, năm mươi bốn năm về trước, với chú bé ngày nay là mình đã thấy được nụ cười rồi. Thấy rõ ràng rằng sự thực tập của mình, con đường mình đi đã đem lại cho mình rất nhiều hạnh phúc. Được sống với tăng thân, được sống với các bạn từ mấy mươi nước tới, được sống với người tại gia và người xuất gia, cùng nhau thực tập con đường của vững chãi, của an lạc, của thảnh thơi, đó đã là một nguồn hạnh phúc lớn. Nó có thể lớn hơn bất cứ một ước mơ nào, vì đây không phải là ước mơ, đây là sự thực.

Giờ đây, mỗi khi đi thiền hành ngang qua những cây tùng ở xóm Thượng, Thầy thường dừng lại để ngắm nhìn. Những cây tùng đó tên là Tùng Đại Tây (Cèdre Atlantica). Những cây tùng này được trồng cách đây mười lăm năm và bây giờ đã lên cao, rất hùng vĩ, rất vững chãi. Thầy hay nhìn chúng mỉm cười. Thầy thấy những cây tùng đó là những sư cô và sư chú đang đứng vững vàng trong gió, trong tuyết, trong mưa và Thầy cảm thấy rất hạnh phúc. Một người tu tập cũng vậy, một sư chú, một sư cô, một người Tiếp Hiện, nếu tu tập vững chãi, thảnh thơi, trải qua mưa gió, khắc phục được những khó khăn, đứng vững trong cuộc đời này, một người như vậy có thể đem lại rất nhiều niềm tin, an lạc và hạnh phúc cho những người xung quanh, cho cảnh vật xung quanh.

Hiện Pháp Lạc Trú

Giờ phút này, trong khi ngồi đây, chúng ta có thể có hạnh phúc rất lớn. Điều quan yếu là chúng ta đang ngồi đây với nhau. Thân của mình thực sự có mặt và tâm của mình cũng thực sự có mặt. Mình không có nhu yếu muốn chạy trốn. Mình ngồi đây với Thầy, với bạn, với sư anh và sư chị trong một buổi pháp thoại. Ngay sự kiện đó đã là một nguồn hạnh phúc, đã là một phép lạ rồi. Còn bài pháp thoại là gì? Có phải mình ngồi đây để nghe pháp thoại không? Và ngồi với nhau có phải là một phương tiện để đi tới một cứu cánh? Hoặc giả bài pháp thoại là một phương tiện để chúng ta có thể tới ngồi chung với nhau trong một buổi sáng hay không? Ngồi là một phương tiện hay pháp thoại là một phương tiện? Đó là những câu hỏi mà chúng ta có thể đặt ra mà không cần trả lời, để thấy rằng pháp thoại cũng là một cái gì rất mầu nhiệm. Ngồi với nhau, chỉ ngồi với nhau để thở, để có mặt bên nhau cũng là một hạnh phúc rất lớn, cũng là một cái gì rất mầu nhiệm.

Phương pháp mà chúng ta thực tập tại Làng Mai là “hiện pháp lạc trú” (drstadharmasukhavihara), nghĩa là sống từng giây, từng phút có hạnh phúc ngay trong hiện tại. Căn bản của sự thực tập là những mầu nhiệm của sự sống, những điều kiện của hạnh phúc đã có sẵn trong ta và xung quanh ta. Nếu ta biết ngồi yên, nếu ta biết thực tập đem thân và tâm về một mối, thì tự nhiên ta có thể tiếp xúc với những điều kiện đó của hạnh phúc và ta có hạnh phúc ngay tức khắc. Ta không cần phải chạy đi tìm hạnh phúc ở đâu nữa. Từ hạnh phúc nhỏ, chúng ta đi tới hạnh phúc lớn. Hạnh phúc lớn không thể có mặt ngoài những hạnh phúc nhỏ.

Khi nhìn một bông hoa, ban đầu ta thấy màu hoa, rồi đến hình dáng của từng cánh hoa. Nếu biết nhìn sâu thì ta có thể thấy được rằng bông hoa chứa đựng tất cả những mầu nhiệm của vũ trụ, của sự sống. Bông hoa mang tất cả những mầu nhiệm của vũ trụ trong lòng nó. Khi nhìn bông hoa, có người chỉ mới thấy được một phần mười cái đẹp của bông hoa, một phần mười cái mầu nhiệm của bông hoa. Nhưng những người đã có kinh nghiệm, đã có tuệ giác tuy cũng nhìn vào bông hoa đó, cũng nhìn trong thời gian đó nhưng cái thấy rất sâu sắc. Càng thấy sâu sắc chừng nào, hạnh phúc càng lớn chừng đó.

Ngồi thiền cũng vậy. Người mới ngồi thì có thể có một phần hạnh phúc. Người đã biết ngồi và có khả năng ngồi thì tuy cũng ngồi như người kia, cũng ngồi một thời gian ngắn như người kia, nhưng trong thời gian ngồi đó sự vững chãi, sự thảnh thơi và sự hạnh phúc lớn lao hơn nhiều. Do đó, chúng ta biết rằng: hạnh phúc lớn không thể nào có được nếu ta không có hạnh phúc nhỏ. Tu tập là làm thế nào để ta có được rất nhiều hạnh phúc nho nhỏ trong đời sống hằng ngày và như vậy hạnh phúc lớn là điều kiện chắc chắn sẽ xảy ra với chúng ta. Cũng như khi đi thiền hành, chúng ta không nghĩ đến chuyện tới, tại vì đi thiền hành có nghĩa là đi mà không cần tới. Mỗi bước chân đều có thể đem lại an lạc và hạnh phúc cho chúng ta rồi và càng thực tập chúng ta càng có nhiều an lạc.

Tại Làng Mai, chúng ta không mơ ước xây một ngôi chùa lớn. Chúng ta không có mơ ước gì cả. Chúng ta chỉ mơ ước một điều mà chúng ta có thể làm ngay hôm nay. Đó là đi cho vững, ngồi cho vững, thở cho có ý thức, biết mỉm cười và biết ăn cơm trong chánh niệm. Mà điều đó không còn là ước mơ nữa. Đó là chuyện mà ta có thể làm được hàng ngày. Đó là sự thực. Sự thực này có thể đẹp hơn bất cứ một ước mơ nào.

Đốn Một Cây Tre

Có cái ước mơ ngày xưa: khi già, mình muốn trẻ lại. Nhưng ước mơ đó bây giờ cũng không còn nữa, vì ước mơ đó đã thành sự thực rồi. Các sư chú, các sư cô đang là mình và sẽ làm hay hơn mình. Chú bé ngày xưa còn ngây thơ, còn khờ khạo chưa biết đường đi, nhưng các sư chú sư cô ngày nay đã biết phương pháp, biết đối tượng của sự tu tập. Vì vậy cái ước mơ trở về một chú bé mười sáu tuổi hay hai mươi tuổi không còn là ước mơ nữa. Sự thực là Thầy đã hóa phép để trở thành sư chú Pháp Cảnh. Nhìn sư chú Pháp Cảnh, Thầy nói: “Con cũng vậy! Con cũng có thể hóa phép để trở thành ông già bảy mươi tuổi”.

Cái phép lạ đó chỉ có thể thực hiện khi mình nắm được bản chất sự thật về dòng sinh mạng của mình. Mình không phải sinh vào năm đó, mình đã sinh từ lâu. Mình sẽ không chết vào năm đó, mình sẽ tiếp tục hoài hoài. Mình có thể vượt thoát sinh tử. Thầy có nói: “Này con! Hôm nay Thầy đã trao truyền cho con một cây đèn mà khỏi phải đi vào thiền đường Nước Tĩnh, khỏi phải đốt hương. Và Thầy mong rằng sau này con có thể truyền lại cây đèn đó cho những người học trò của con. Cố nhiên, con sẽ không cần trao truyền theo phương pháp của Thầy. Con làm sao cũng được miễn là học trò của con cũng nhận được tuệ giác đó.”

Bây giờ, Thầy muốn kể vài kỷ niệm về Sư Ông của các con để các con biết rõ thêm về nguồn gốc của mình. Sư Ông pháp danh là Thanh Quý, là người học trò chót của thế hệ Thanh trong giới xuất gia, thuộc dòng Lâm Tế chánh tông. Sư Ông của các con đi xuất gia từ hồi còn rất nhỏ. Tuy nhiên, ở chùa đã lâu nhưng chú bé ngày xưa chưa được chính thức thọ giới sa di vì còn quá nhỏ! Đến khi hòa thượng Hải Thiệu viên tịch, thì sư anh của Sư Ông là hòa thượng Thanh Thái, hiệu Tuệ Minh, đã làm lễ thế độ cho Sư Ông trước Linh Cửu của Bổn Sư, và đặt pháp danh cho Sư Ông là Thanh Quý. Thanh Quý có nghĩa là người đệ tử út mang pháp danh có chữ Thanh đứng đầu. Sư Ông được sư anh nuôi lớn, dạy dỗ, rồi sau đó được sư anh (hòa thượng Tuệ Minh) truyền đăng cho và đặt pháp tự là Cứu Cánh, pháp hiệu là Chân Thật. Bài kệ phó pháp mà sư anh Thanh Thái Tuệ Minh trao cho sư em Thanh Quý Chân Thật là:

Chân Thật duy tùng thể tánh trung
Thâm cùng vọng thức bổn lai không
Thỉ tri thị vật nguyên vô vật
Diệu dụng vô khuy chỉ tự công

Đây là một bài kệ mà ý nghĩa rất thâm sâu để chúng ta học hỏi và hành trì theo. Thầy được làm thị giả cho Sư Ông chỉ một mùa thôi, vào khoảng ba tháng, và không được làm lần thứ hai vì sau đó còn có nhiều sư em. Có một lần dọn cơm cho Sư Ông, không biết vì thiếu chánh niệm thế nào Thầy đã quên không để một đôi đũa vào trong mâm cơm. Mâm cơm Việt Nam mà thiếu đũa thì nguy lắm! Sau khi đặt mâm cơm trên bàn của Sư Ông, Thầy lui ra đứng khoanh tay sau lưng Sư Ông để chờ xem Sư Ông có cần sai bảo gì không.

Hồi đó, Thầy dại lắm! Thầy nghĩ rằng: “Đứng mà không làm gì hết thì rất uổng thì giờ”. Vì vậy Thầy đã lấy cuốn kinh đứng sau lưng Sư Ông mà học; hành động mà bây giờ ta gọi là “tranh thủ thời gian”. Thầy mải đọc kinh nên không thấy rằng mâm cơm của Sư Ông không có đũa. Ấy thế mà Sư Ông không nói gì hết. Sư Ông lấy thìa để ăn cơm, từ đầu đến cuối. Ăn cơm xong, Sư Ông gọi: “Này chú”, Thầy bỏ cuốn kinh xuống, đứng chắp tay. Sư Ông hỏi: “Ngoài vườn của mình còn nhiều tre không?” Ngây thơ Thầy trả lời: Dạ! Bạch Sư Ông! Ngoài vườn mình còn nhiều tre lắm. Nhất là tre cán giáo (tre cán giáo có nhiều măng, ăn ngon lắm!). Sư Ông nói: Vậy thì ăn cơm xong, chú ra vườn đốn một cây tre đem vào đây! Thầy lại: “Dạ.” Rất ngây thơ. Đột nhiên Thầy nghĩ: “Đốn tre làm chi vậy ?” Thầy chắp tay: Bạch Sư Ông! Đốn tre để làm gì ạ ? Sư Ông cười nói: Để vót vài đôi đũa. Chú nhìn xem: trong mâm cơm này không có đôi đũa nào hết. Lúc đó, Thầy mới giật mình sợ hãi. Bài học đó Thầy không bao giờ quên. Bài học thiếu chánh niệm.

Ở Làng Mai, chuyện này cũng đã thường xảy ra. Có một lần sư chú Pháp Tạng làm thị giả cho Thầy. Sư chú dọn cơm cho Thầy với một thiền sư khách. Không biết loay hoay làm sao đó sư chú quên đem cơm mà chỉ đem thức ăn thôi! Hôm đó, vị thiền sư khách và Thầy chỉ ăn thức ăn suông.

Tiếp Nhận Và Trao Truyền

Hồi còn thơ ấu, Thầy được ra ngoài Bắc học, nên bị ảnh hưởng của người Bắc. Thay vì nói theo kiểu Huế: “Mời Sư Ông thời cơm” thì Thầy lại nói: “Mời Sư Ông dùng cơm!” Nghe từ “dùng cơm”, Sư Ông hơi lấy làm lạ nhưng Sư Ông đã chấp nhận dễ dàng. Có một hôm, Sư Ông dẫn Thầy đi và chỉ cho Thầy những cây me đất mọc ở chỗ ẩm thấp và chung quanh mái tam quan. Những cây me đất cao chừng hai tấc, có bốn cánh, năm cánh, vị chua chua. Sư Ông nói: “Có một món này con có thể học được, đó là món canh khoai me đất.” Sư Ông dạy: “Mình chỉ cần đổ một ít nước vào xoong rồi cắt khoai lang ra từng miếng nhỏ bỏ vào nấu cho sôi, khi mềm thì nêm muối rồi cắt vào đó một mớ me đất.” Sư Ông rất ưa món canh này. Lâu lâu, Thầy nấu món canh khoai đó để cúng dường Sư Ông. Trước khi nấu món canh khoai đó, Thầy thường đến chắp tay thưa: “Bạch Sư Ông, hôm nay con muốn cúng dường món canh khoai me đất, Sư Ông có dùng không?” Sư Ông mỉm cười trả lời: “Dùng!”. Thế là Sư Ông đã dùng cái động từ mà Thầy đã dùng.

Không bao giờ Sư Ông nói ra bằng lời rằng Sư Ông thương Thầy, nhưng Thầy biết là trong trái tim của Sư Ông luôn có đầy ắp yêu thương… một tình thương ấm áp và cao cả của Thầy đối với trò. Người Á đông vốn là kín đáo. Khi thương, người ta để trong lòng không chịu nói ra. Vì vậy có những đứa con và những đứa học trò cứ tưởng rằng cha mình không thương, Thầy mình không thương. Ở Tây phương, thương thì nói ra. Đôi khi thương ít mà nói thương nhiều, làm cho người ta tưởng là thương nhiều thật. Đó là sự khác biệt giữa hai nền văn hóa.

Sư Ông có viết di chúc để lại mà không cho Thầy và ai biết cả. Trong di chúc ghi là sau khi Sư Ông tịch thì Thầy phải kế thế để làm trụ trì tổ đình Từ Hiếu. Nhưng hình như Thầy đã được sinh ra không phải để làm trụ trì, cho nên khi Sư Ông tịch, sư anh của Thầy là thượng tọa Chí Niệm đứng ra đảm trách chức vụ trụ trì của tổ đình Từ Hiếu. Năm 1966 là năm mà Thầy phải rời quê hương để đi vận động hòa bình, bởi vì chiến tranh Việt Nam vào lúc đó đã đến giai đoạn khốc liệt. Khốc liệt đến nỗi ban đêm mình không ngủ được vì sự chết chóc diễn ra hằng ngày, hằng đêm. Ngay tại xung quanh thành phố Sài Gòn, sự chết chóc cũng diễn ra từng ngày, từng đêm. Vì vậy, Thầy nói với các vị cộng sự xuất gia và tại gia: hãy lo lắng mọi công việc ở quê nhà để Thầy có thể xuất ngoại đi vận động chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam.

Thầy lên đường vào ngày 11 tháng 5 năm 1966. Năm đó có Nhuần hai tháng Ba. Sau khi bà bác sĩ Hiệu, chị Uyên và chị Phượng, chị Phượng là sư cô Chân Không bây giờ, vận động xin được cho Thầy giấy xuất ngoại. Thầy liền bay về Huế để từ biệt Sư Ông: Bạch Sư Ông! Con phải đi xuất ngoại, ít nhất là ba tháng. Con sẽ cố gắng vận động dư luận thế giới, tìm cách chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam. Thầy không biết lần đó là lần cuối cùng được gặp Sư Ông. Nhưng hình như có linh tính báo cho Sư Ông biết trước nên Sư Ông nói: Con hãy ở lại thêm một ngày nữa để Thầy làm lễ truyền đăng cho con trước khi con đi. Khuya hôm sau, một lễ truyền đăng được tổ chức trong chánh điện. Sư Ông đã ban cho Thầy bài kệ truyền đăng mà các con đã thấy treo ở trên tường:

Nhất hướng Phùng Xuân đắc kiện hành
Hành đương vô niệm diệc vô tranh
Tâm đăng nhược chiếu kỳ nguyên thể
Diệu pháp Đông Tây khả tự thành

Ngày xuất gia và được thọ giới sa di, Thầy được trao pháp danh là Trừng Quang, pháp tự là Phùng Xuân. Phùng Xuân nghĩa là gặp mùa xuân. Thầy không thích cái pháp tự này mấy, vì Thầy cho rằng pháp tự này giống tên con gái. Hồi đó, Thầy chưa biết rằng Phùng Xuân là một từ để đối lại với từ Khô Mộc. Khô Mộc tức là cây khô. Giọt nước cam lồ của bồ tát Quan Thế Âm một khi rưới lên cây khô, cây khô đó biến thành một mùa xuân mới.

Trong thiền môn, có những đoàn thể không hiểu tu tập như thế nào mà người ta trở thành những cây khô. Vì vậy ngày nay chúng ta có những danh từ Khô Mộc Đường, Khô Mộc Chúng, v.v… Họ ngồi thiền ngày đêm, mục đích là làm sao để những ước muốn, những mơ tưởng của mình khô cạn hết, như một cây khô vậy thôi; làm sao để giải thoát ra khỏi những khổ đau, những bức rức ở trong lòng để đừng đau khổ. Truyền thống thiền đó gọi là “Khô Mộc Thiền”.

Đi Về Hướng Mùa Xuân

Thiền của chúng ta là thiền của tình thương. Chúng ta thực tập thương yêu hai mươi bốn giờ trong một ngày. Chúng ta đi, cốt yếu vì thương mà đi, chúng ta ngồi cũng vì thương mà ngồi, chúng ta ăn cơm cũng vì thương mà ăn cơm, chứ không phải là để làm khô kiệt dòng suối thương yêu trong lòng của chúng ta. Bụt là một con người của tình thương. Chúng ta phải tiếp nối tình thương của Bụt mới được. Ngày xưa, có một vị thiền sư tên là Đại Hải. Ngài có một bài thơ như sau:

Suy tàn khô mộc ỷ hàn lâm
Kỷ độ phùng xuân bất biến tâm
Tiều khách ngộ chi giao bất cố
Dĩnh nhân ná đắc khổ truy tầm

Suy tàn khô mộc ỷ hàn lâm: Nghĩa là một cây khô đang suy tàn, dựa vào một khu rừng lạnh.Kỷ độ phùng xuân bất biến tâm: Bao nhiêu lần gặp mùa Xuân nhưng cây khô vẫn giữ nguyên thái độ khô khan của nó.Tiều khách ngộ chi giao bất cố: Người tiều phu đi ngang qua, gặp cây khô đó nhưng không thèm nhìn vì nó khô khan, nó lạnh lùng, trông chán lắm! Dĩnh nhân ná đắc khổ truy tầm: Dĩnh tức là kinh đô của nước Sở (bây giờ là Hồ Bắc). Người nước Sở cực nhọc đi tìm mà không thấy được đối tượng của mình, vì cây khô đó chỉ muốn là một cây khô mà thôi. Trong giới tu học chúng ta, có những người đã quá đau khổ. Mục đích của họ là muốn biến thành cây khô. Tu như vậy không có lợi ích gì mấy cho cuộc đời xung quanh. Vì vậy, ta không thể hiểu được ý nghĩa của Phùng Xuân nếu ta không thấy được bối cảnh của Khô Mộc Thiền.

Trong sách Ngũ Đăng Hội Nguyên, có câu chuyện của một bà cụ. Bà cúng dường cho một vị tu sĩ ở trong một am cốc suốt 20 năm. Ngày nào Bà cũng đem cơm đến để cúng dường cho vị tu sĩ đó. Khi không đi được thì bà nhờ cô con gái đem cơm đến cho Thầy. Suốt 20 năm như vậy. Một hôm, bà cụ nói với con gái: Này con, con lên ngồi chơi với Thầy, con xin Thầy ôm con, thử xem Thầy phản ứng như thế nào? Cô thiếu nữ lên am cốc và làm y như vậy. Thầy kia xích ra một bên và đọc hai câu kệ:

Khô mộc ỷ hàn nham
Tam đông vô noãn khí

Nghĩa là:
Cây khô dựa vào hòn núi lạnh. Suốt trong ba mùa đông nó không hề có một chút hơi ấm nào cả! Khi cô gái về báo cáo với mẹ, bà cụ ngửa mặt than rằng: Hai mươi năm cúng dường rất là uổng. Ông Thầy tu này không được tích sự gì hết! Chiều hôm đó, bà đến châm lửa đốt cháy túp lều của vị tu sĩ.

Chúng ta tu như thế nào để tình thương trong ta luôn đầy tràn, để niềm tin trong ta không cạn mất. Nếu tu chỉ để làm dịu bớt một vài khổ đau ở trong lòng, hay để chạy trốn khổ đau ở cuộc đời thì chưa phải là tu đúng phương pháp. Tu mà không thấy được những khổ đau ở xung quanh, không đem lại sự chuyển hóa, sự tươi mát và hạnh phúc cho người xung quanh ta thì cách tu đó không phải là bản hoài của Đức Thế Tôn. Vì vậy phải vượt qua giai đoạn “Khô mộc”, phải đi để gặp mùa xuân!! Đó là pháp tự mà Sư Ông đã đặt cho Thầy: Phùng Xuân. Nó có một ý nghĩa rất sâu sắc mà hồi đó vì chưa hiểu, vì dại dột, Thầy đã cho rằng cái tên này giống tên con gái.

Nhất hướng Phùng Xuân đắc kiện hành
Hành đương vô niệm diệc vô tranh

Câu đầu có chữ Nhất. Câu hai có chữ Hành. Nhất hướng là đi chuyên về một hướng. Hướng đó là hướng Phùng Xuân. Do đó, các học trò của Thầy hãy cứ an tâm nhắm vào hướng mùa Xuân mà đi tới. Đắc là được. Kiện hành là một thế đi rất hùng dũng và vững chãi. Đó là Lăng Nghiêm. Tiếng Pháp gọi là “La marche héroique”. Danh từ “la marche héroique” là để dịch chữ surangama. Dịch tiếng hán việt là kiện hành, tức là thế đi hùng dũng. Thế đi của người xuất gia phải là một thế đi dũng cảm. Cho nên, các sư cô và sư chú nên biết mình phải đi như thế nào. Nhất hướng Phùng Xuân đắc kiện hành: Đi về một hướng thôi: gặp được mùa xuân và đạt tới một thế đi vững chãi. Hành tức là hành động. Nếu là động từ thì ta đọc là hành. Nếu là danh từ thì ta đọc là hạnh. Hành tức là active, còn hạnh là action. Hành đương vô niệm diệc vô tranh: Trong hành động, ta phải theo các nguyên tắc vô niệm và vô tranh.

Vô Niệm và Vô Tranh

Vô niệm tức là không để bị kẹt vào ý niệm. Vô tranh nghĩa là không có óc hơn thua, ganh tỵ với người. Trong bao nhiêu năm hành đạo, Thầy thấy vô tranh dễ làm hơn vô niệm. Trong công cuộc hành đạo, khi có người đến tranh chấp và hơn thua với mình thì Thầy buông bỏ rất dễ, còn vô niệm thì phải thực tập nhiều mới có thể buông bỏ được. Vô niệm là không bị kẹt vào bất cứ một khái niệm hay một ý niệm nào cả.

Trong kinh Pháp Bảo Đàn, tổ Huệ Năng định nghĩa vô niệm như sau: nhược kiến nhất thiết pháp bất nhiễm trước thị vi vô niệm. Nghĩa là khi mình đối diện với các pháp mà tâm không bị dính kẹt vào đó thì gọi là vô niệm. Như khi thấy một cái hoa thì ta liền khởi lên ý niệm về nó, cho nó là đẹp và muốn nó thuộc về mình. Đó không phải là vô niệm mà là đang kẹt vào một cái niệm. Có một ý niệm về Thầy, về bạn, về người hàng xóm của mình, chúng ta có thể bị kẹt vào ý niệm đó và chúng ta vướng mắc, giận hờn hoặc tham đắm là do ý niệm đó. Một khi chúng ta đã bị kẹt vào bởi ý niệm đó rồi thì hành động của ta không còn tự do nữa.

Chẳng hạn như chúng ta có một ý niệm về hạnh phúc. Chúng ta cho rằng phải như thế này, phải như thế kia mình mới có hạnh phúc, và vì chúng ta bị kẹt vào ý niệm hạnh phúc ấy nên chúng ta không có hạnh phúc. Trong khi đó, hạnh phúc có thể đến với ta một cách rất dễ dàng nếu ta có tự do, nếu ta không bị kẹt vào một ý niệm nào. Ví dụ có một sinh viên nghĩ rằng: “mình phải có bằng Tiến sĩ thì mới có hạnh phúc.” Vậy là chết anh ta rồi. Anh ta bị kẹt vào một ý niệm: phải có bằng Tiến sĩ mới có hạnh phúc.

Trong khi đó, rất nhiều người hạnh phúc quá chừng mà không cần có bằng Tiến sĩ gì cả! Tại sao anh lại giam anh vào trong một ý niệm để rồi anh khổ? Cho nên những ý niệm của mình rất nguy hiểm, dù là ý niệm về hạnh phúc, ý niệm về lý tưởng, về Bụt. Mình phải có tự do hoàn toàn. Cho nên trong hành động, chúng ta phải có tự do, phải vô niệm, phải vô tranh thì hành động đó mới là hành động đích thực.

Trong ba mươi năm ở quốc ngoại, Thầy đã cố gắng đi theo lời chỉ dẫn của Sư Ông. Trong những năm hành đạo ở quê nhà, Thầy đã sáng lập Viện Đại Học Vạn Hạnh, trường Cao Đẳng Phật Học, trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội, nhà xuất bản Lá Bối, tuần san Hải Triều Âm, tuần san Thiện Mỹ, v.v… Trong lĩnh vực văn hóa và xã hội, Thầy đích thực thấy câu thứ hai này là kim chỉ nam hướng dẫn cho đời mình. Thầy luôn sống và hành động với tất cả con tim mình để phụng sự mà cố gắng không bị dính kẹt vào một ý niệm, một phe phái hay một sự tranh chấp nào cả.

Tâm Đăng Nhược Chiếu Kỳ Nguyên Thể

Tâm đăng là cây đèn trong tâm. Mỗi chúng ta đều có một cây đèn bên trong. Chính cây đèn này chúng ta phải thắp lên. Đó là ánh sáng chánh niệm. Ánh sáng duy nhất để chiếu soi vào những ngõ ngách của tâm hồn. Tâm đăng nhược chiếu kỳ nguyên thể: lấy ngọn đèn tâm mà soi rọi trở lại cái bản chất, cái thể tính của mình. Làm được như vậy thì: Diệu pháp Đông Tây khả tự thành. Cái chánh pháp mầu nhiệm tự động được thành tựu thôi, dù ở phương Đông hay phương Tây. Những năm gần đây, có khi Thầy bất giác giật mình. Dường như Sư Ông đã biết trước rằng Thầy có thể đóng góp được ít nhiều cho công trình hoằng pháp ở cả Tây phương và ở Đông phương. Ngày xưa, khi leo lên máy bay để qua Tây phương, Thầy không hề có ý niệm ở lại Tây phương để hoằng pháp. Nhưng sau khi Thầy đã lên tiếng kêu gọi hòa bình rồi, thì các chánh phủ ở Việt Nam không cho phép Thầy trở về nước nữa.

Bây giờ chúng ta đi sang danh từ Nhất hành. Nhất là một và hành là hành động. Có một tam muội gọi là nhất hạnh tam muội, có khi gọi là chân như tam muội, có khi gọi là nhất tướng trang nghiêm tam muội. Kinh luận giải thích: trong tam muội này ta quán chiếu được cái tướng nhất như bình đẳng của tất cả các pháp. Đưa mắt nhìn ra, ta thấy vạn sự vạn vật muôn hình vạn trạng, khác biệt nhau và tách rời nhau ra. Nhưng nếu quán chiếu thì ta sẽ thấy tất cả những cái khác nhau đó đều cùng chung một bản thể. Tuy là đa dạng, nhưng nằm dưới cái đa dạng đó có cái một, cái nhất như và cái bình đẳng, vì vậy không cái nào hơn cái nào. Đứng về phương diện hình tướng thì một trái núi lớn hơn một hạt sỏi và chúng ta thấy có sự chênh lệch giữa một trái núi và một hạt sỏi. Nhưng đứng về phương diện nội dung thì trái núi và hạt sỏi là một, chứ không có sự khác biệt. Trái núi mầu nhiệm bao nhiêu thì hạt sỏi cũng mầu nhiệm bấy nhiêu. Nếu không có trái núi thì không có hạt sỏi. Nếu không có hạt sỏi thì không có trái núi.

Đứng về phương diện Bụt và chúng sanh cũng vậy. Nếu nhìn về phía hình thức, chúng ta sẽ thấy Bụt khác, chúng sanh khác. Bụt có đại từ, đại bi và đại trí, có thọ mạng vô lượng, còn chúng sanh có tham, sân, si, có sanh tử luân hồi. Nhưng sự phân biệt đó sẽ tan biến đi khi ta an trú vào trong “nhất hạnh tam muội”. Khi quán chiếu ta sẽ thấy được tính cách bình đẳng và nhất tướng của mọi sự và mọi vật trong pháp giới. Tướng đó gọi là tướng “vô sai biệt”.

Tâm Đăng

Theo phương pháp quán chiếu của nhất hạnh tam muội, trong những tư thế hằng ngày của ta như đi, đứng, nằm, ngồi, tâm ta luôn hướng về cái “định” đó để ta có thể thấy được không có cái gì lớn hơn cái gì, không có cái gì nhỏ hơn cái gì, không có cái gì cao hơn, không có cái gì thấp hơn và chúng ta thấy được tính cách nhất như bình đẳng của vạn sự vạn vật. Ta không cần bước ra khỏi đạo tràng mà vẫn có thể đi vào cõi Hoa nghiêm, cõi Tịnh độ. Đó là định nghĩa của Thầy Long Thọ trong tác phẩm Đại Trí Độ Luận.

Thực tập theo khuynh hướng tịnh độ, ban đầu tâm của chúng ta duyên tưởng tới một vị Bụt như Bụt Thích Ca, Bụt Từ Thị hay Bụt Di Đà. Chúng ta để tâm của ta quán chiếu thường trực từ giây phút này tới giây phút khác. Qua vị Bụt đó, chúng ta liên hệ được với tất cả các vị Bụt trong quá khứ, hiện tại và vị lai. Chúng ta thấy rằng dù cho tất cả các vị Bụt đông đảo bằng số cát sông Hằng, chúng ta vẫn có thể tiếp xúc được qua một vị Bụt và chính bản thân ta cũng là một vị Bụt. Qua bản thân ta, ta có thể tiếp xúc được với tất cả các vị Bụt ở quá khứ, hiện tại và tương lai. Đó là định nghĩa trong kinh Văn Thù Sư Lợi Sở Thuyết Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa.

Tại đạo tràng Làng Mai, chúng ta thường thực tập theo tinh thần này. Ban đầu, chúng ta dùng chánh niệm, để thắp lên ngọn đèn tâm. Trong bài kệ này Sư Ông gọi ngọn đèn ấy là “tâm đăng”. Khi ăn cơm, ta biết là ta ăn cơm. Ngồi với tăng thân, ta biết ta đang ngồi với tăng thân. Ngọn đèn của ta đang cháy. Nếu ngồi với tăng thân mà mơ tưởng đến chuyện khác, đến quá khứ, đến tương lai, hoặc lo âu buồn rầu là ngọn đèn của ta đang tắt. Dù Thầy đã có truyền cho ta cây đèn rồi thì cây đèn ấy cũng đang bị tắt như thường. Tâm đăng là cây đèn của lòng mình, phải thắp sáng không những mỗi ngày một lần mà phải thắp sáng suốt ngày trong mỗi giây mỗi phút, tại vì ngọn đèn đó là để chiếu sáng hiện hữu của chúng ta.

Trong bài kệ của Sư Ông, ta thấy: “Tâm đăng nhược chiếu kỳ nguyên thể”, nếu cây đèn tâm chiếu được vào nguồn gốc của nó thì ngọn đèn đó là một năng lượng ánh sáng rất thật, chứ không phải là một cái gì trừu tượng. Tất cả chúng ta đều biết ngọn đèn đó là ngọn đèn gì. Trong chúng ta đây ai cũng đều đã học được cách thắp nó lên và giữ cho nó cháy sáng từ niệm này sang niệm khác, từ giờ phút này sang giờ phút khác. Nhờ ánh sáng đó mà chúng ta thấy biết chuyện gì xảy ra trong giây phút hiện tại.

Trong thế giới của cảm thọ, khổ thì ta biết là khổ, vui thì ta biết là vui, không khổ không vui thì ta biết là không khổ không vui. Trong thế giới của tri giác, có một ý niệm thì biết là mình có một ý niệm, có một tri giác thì biết là mình có một tri giác. Đó là cái nguyên thể, tức là tâm của mình. Đèn tâm thắp lên từ tâm, trở lại chiếu rọi vào tâm. Phải thắp lên mới thấy được tâm của mình.

Nhiều khi tâm của mình đi những nước cờ rất lạ lùng, mình không thể biết. Mình tưởng là mình không như vậy, kỳ thực là mình đang như vậy. Mình có những ganh tỵ, giận hờn, đam mê, v.v… mà mình không biết là mình có. Rồi mình dùng những lý luận rất hay, tự biện hộ rằng: “cái đó không phải đam mê, cái đó không phải là giận hờn, v.v…” Trong tất cả chúng ta luôn luôn có mặt một ông trạng sư. Ông này tìm cách bào chữa cho ta để cho ta có những cảm giác dễ chịu. Nếu không cẩn thận, không có chánh niệm ta sẽ bị đánh lừa, dễ gây đổ vỡ và khổ đau cho chính ta và những người xung quanh, những người mà ta đã nguyện thương yêu và che chở.

Thực tập của chúng ta là thắp ngọn đèn tâm lên và giữ cho nó sáng cả ngày đêm. Khi nó tỏa ra ánh sáng thì ta phải theo ánh sáng đó mà nhìn, mà quan sát. Chính nhờ sự quan sát này mà chúng ta thấy được sâu sắc trong lòng của sự vật, trong lòng của những tri giác và những cảm thọ của chính mình và nhờ đó mà mình hiểu được mình. Chính từ cái thấy của mình mà mình được chuyển hóa, được giải thoát. Sự cứu độ, sự cứu chuộc (tiếng Pháp gọi là le salut) và sự giải thoát (la liberation) hoàn toàn căn cứ vào cái yếu tố gọi là “cái hiểu”.

Trong Cơ Đốc giáo, chúng ta nghe nói đến sự cứu chuộc bằng ân sủng của thượng đế. Trong đạo Bụt, sự cứu độ chính là bằng sự hiểu biết, bằng tuệ giác (la compréhension). Tuệ giác của ta giải phóng cho ta. Có thể gọi Tuệ giác là Thượng đế cũng được. Nhưng Tuệ giác làm sao có được nếu đèn tâm không được thắp lên? Chúng ta, những thiền giả đang thực tập, mỗi người đều có một ngọn đèn trong tâm. Sự thực tập của chúng ta là thắp ngọn đèn đó lên để quán chiếu ngày đêm, từ giây phút này sang giây phút khác, không ngừng nghỉ. Cái đó gọi là “nhất hạnh tam muội”. Khi đã quán chiếu sâu sắc, ta sẽ thấy ta và Thầy là một, ta với muôn loài chúng sanh là một. Có được cái thấy bình đẳng và nhất như đó, ta đạt đến cái trí gọi là “vô phân biệt trí”. Nhất hạnh tam muội là như thế đó! Vậy là quý vị có thể hiểu được ý nghĩa của hai chữ “nhất hạnh” rồi.

Công Án

Năm 1946, nước ta đang có chiến tranh với Pháp. Việt Nam tuyên bố độc lập năm 1945, nhưng với sự che chở và nâng đỡ của phái bộ Anh, quân đội Pháp trở lại. Quân đội nhân dân tổ chức kháng chiến để chống lại quân Pháp. Và khi thành phố Huế bị phong tỏa, tất cả Thầy trò đang ở chùa Từ Hiếu được lệnh phải tản cư. Mọi người khăn gói đem theo một ít lương thực cùng vài chai tương. Tưởng rằng chỉ đi vài tuần rồi trở về chứ không ngờ phải đi hàng tháng. Cuối cùng, thức ăn hết. Chỉ còn một phần ba chai tương, thầy trò mới lấy muối và nước sôi đổ thêm vô cho đầy. Ăn xuống còn nửa chai, lại thêm muối và nước sôi nữa. Rốt cuộc tương không còn mùi tương nữa, chỉ là nước muối. Nhiều khi phải đi hái rau tàu bay, rau dền, rau sam ở dưới lòng suối mà ăn.

Trước khi tản cư, thầy trò đã đào những cái hố rất lớn ở ngoài vườn, đặt xuống những cái chum, cái lu rồi trút lúa vào, lấp đất lại. Phải chôn đi để khi về có lúa mà ăn. Sau khi hồi cư, Thầy nhớ, một hôm Sư Ông gọi hai sư chú Phùng Xuân và Thiên Chân ra đào một chum lúa về xay để ăn. Hôm đó, Sư Ông cũng ra làm việc với hai chú. Trời nắng gắt, làm được một lúc, Sư Ông đứng dậy. Hai chú ngừng lại nhìn thấy Sư Ông mồ hôi ra nhễ nhãi. Sư Ông nói: “Mệt quá! Chắc khi nào chết thì mới hết mệt”. Thầy còn đang ngơ ngẩn nhìn Sư Ông thì Sư Ông nhìn thẳng vào mắt Thầy và nói tiếp: “Nhưng nếu chết rồi thì ai hết mệt?” Câu nói rất đơn sơ mà Thầy nhớ mãi. Nó trở thành một công án của Thầy. Làm thị giả cho Thầy, đôi khi một câu nói của Thầy cũng đủ để cho mình tu suốt đời, đủ để quán chiếu suốt đời.

Có chánh niệm thì ta học rất mau và tiến rất mau trên đường tu tập. Ta sẽ không lặp lại những lầm lỗi mà ta đã vấp phải trong quá khứ. Có một lần được Sư Ông sai bảo, Thầy đã hăng hái đi làm, do đó đã mở cửa ra và đóng cửa lại thiếu chánh niệm. Sư Ông kêu vào, không la mắng gì cả. Ngài bảo: Bây giờ con hãy đi ra lại, rồi mở cửa và đóng cửa thế nào cho hay hơn hồi nãy. Thầy xá rồi đi ra. Lần này, Thầy mở cửa và đóng cửa rất có chánh niệm. Sư Ông chỉ cần dạy một lần đó thôi! Sư Ông không cần phải dạy lần thứ hai. Nếu tâm ta không có chánh niệm thì những câu nói đó sẽ qua đi như làn gió thoảng. “Nhưng nếu chết rồi thì ai hết mệt ?” Đó là một công án rất sâu sắc.

Chúng ta ai cũng có thể gây lầm lỗi, không ai tránh thoát, vì chúng ta không phải là thánh. Tu tập chánh niệm giúp ta thấy được điều đó. Đôi khi một vài năm sau, chúng ta mới biết là chúng ta có lỗi. Có thể chúng ta đã lỡ lời, có thể chúng ta đã xúc phạm. Điều quan trọng là khi đèn tâm của chúng ta thắp lên thì ta biết rằng: ta đã làm một điều vụng dại. Nếu thấy được như vậy và dặn lòng là sẽ không lặp lại điều lầm lỗi đó nữa thì chỉ một lần lầm lỗi kia thôi cũng đủ để ta học suốt đời.

Trong cuộc tấn công tết Mậu Thân 1968, tức là hai năm sau khi Thầy rời bỏ quê hương, có một trái bom rơi vào chùa Từ Hiếu nhưng chỉ làm sập đổ một góc mái nhà mà không gây thiệt hại nào khác. Sau đó, chừng một vài tháng Sư Ông qua đời. Thầy nhận được tin từ Pháp. Sư Ông qua đời mà Thầy không về được, vì Thầy không được phép về quê hương. Thầy buồn lắm!

Trong những người Thầy viết thơ để than thở có một ông Thầy tu người Cơ Đốc giáo. Đó là cha Thomas Merton, ở tu viện Trappist tiểu bang Kentucky. Cha Merton là một người tri kỷ của Thầy, đã cùng Thầy trao đổi rất nhiều kinh nghiệm tu học. Thầy viết cho Thomas về cái tin buồn đó. Cha Thomas viết lại an ủi Thầy một câu rất hay: “Thầy của Thầy bây giờ hoàn toàn tự do, chúng ta nên vui về sự ra đi tự do của ngài.” Thầy cảm thấy được an ủi rất nhiều nhờ câu nói đó.

Nhiều khi Thầy nằm mơ về chùa, thấy mình bước lên tam cấp vào Ái Nhật Đường. Liêu của Sư Ông nằm về phía tay trái, mỗi khi đi đến đó Thầy luôn cúi đầu xuống dù Sư Ông có ngồi đó hay không. Đó là một tập quán. Mỗi lần nằm mơ được đi về chùa, Thầy thấy Sư Ông vẫn còn đó, Sư Ông ra đón Thầy. Tình Thầy trò vẫn luôn đậm đà, ấm áp như cũ. Sự cung kính, sự thương yêu vẫn còn nguyên vẹn, dầu Sư Ông đã tịch hay chưa tịch, bởi trong trái tim của Thầy luôn có Sư Ông.

Hôm nay, chúng ta ngồi đây có Sư Ông đang ngồi với chúng ta -Sư Ông Thanh Quý hiệu Chân Thật- một con người bản tính rất chân thật, rất hiền từ. Thầy còn nhớ rõ là mỗi buổi sáng, khi tăng thân ra làm các công việc thì Sư Ông cũng ra làm việc với mọi người. Ngài đội chiếc nón vành rất lớn, tay cầm chiếc gậy, tới làm việc với nhóm này một chút, nhóm kia một chút. Đó là niềm vui buổi sáng của Sư Ông. Thầy có bổn phận phải trao truyền Sư Ông lại cho các con.

Hiện bây giờ, Sư Ông đang nằm trong trái tim của mỗi người chúng ta. Thầy cũng như các con là sự tiếp nối của Sư Ông, của Bụt, của Tổ. Chúng ta có chung một dòng sinh mạng. Mỗi ngày chúng ta càng có thêm Tuệ giác: Tuệ giác của Bụt, của Tổ, của cha ông và của tổ tiên để lại. Chúng ta phải tiếp tục chế tác Tuệ giác đó để có thể sống an lạc và tỉnh thức trong từng phút, từng giây, và mang sự an lạc và hạnh phúc đó trao truyền cho con cháu thế hệ mai sau. Chúng ta không thể chỉ trao truyền một mớ kiến thức khái niệm mà phải trao truyền sự sống an lạc, giải thoát của chúng ta. Chúng ta phải làm sao để cho tình thương và tuệ giác mãi mãi tuôn chảy bất tuyệt trong cuộc đời này. Đó là cách hay nhất, cao quý nhất mà chúng ta báo ơn Thầy Tổ, báo ơn Bụt.

________
Pháp thoại ngày 3 tháng 3 năm 1996, tại thiền đường Nến Hồng

Nuôi lớn bốn vị bồ tát

https://www.youtube.com/watch?v=U0dR5kuQgek&list=PLMG8i-w8rYWm-hwFeM-HD9YE02FNqLty2&index=5

Bốn lời quán nguyện hướng về bốn vị bồ tát lớn: bồ tát Quan Thế Âm, bồ tát Văn Thù, bồ tát Phổ Hiền và bồ tát Địa Tạng là để đánh động những hạt giống vững chãi, thảnh thơi và hiểu biết trong con người của mỗi chúng ta. Ban đầu những vị bồ tát lớn như Quan Thế Âm, Văn Thù Sư Lợi, Phổ Hiền và Địa Tạng có thể được nhìn nhận như những vị bồ tát ở ngoài ta. Nhưng nếu thực tập tinh chuyên và vững chãi ta sẽ thấy được rằng những vị bồ tát đó đang ở trong ta và ta cũng có những hạt giống năng lượng của các vị bồ tát ấy. Có thể những nhà khảo cứu sẽ đặt câu hỏi rằng các vị Quan Thế Âm, Văn Thù Sư Lợi, Phổ Hiền, Địa Tạng có phải là những nhân vật lịch sử không, họ sinh ở đâu năm nào, họ xuất gia năm nào. Được hỏi như vậy chúng ta có thể sẽ bối rối tại vì chúng ta không có những tư liệu đó. Nhưng vì thực tập theo con mắt đại thừa, nên ta thấy được rằng những chi tiết kia không quan trọng. Quan trọng là cái tên ấy và con người ấy có đại diện được cho một cái gì không. Tình thương và khả năng lắng nghe là một cái gì có thật, nhưng ta chỉ tiếp xúc được với tình thương và khả năng lắng nghe khi mà ta tiếp xúc được với một con người. Bồ Tát Quan Thế Âm là một con người, nhưng chúng ta không nghĩ rằng chỉ có con người ấy mới có tình thương và khả năng lắng nghe, tại vì chung quanh ta, trong đoàn thể chúng ta sống, cũng có những người có tình thương và khả năng lắng nghe. Có những người có tình thương khá lớn, có khả năng lắng nghe khá lớn. Có người thì tình thương nhỏ hơn, khả năng lắng nghe nhỏ hơn. Nhưng ai cũng có tình thương, ai cũng có khả năng lắng nghe. Vì vậy cho nên Quan Thế Âm là một nhân vật có thiệt, không phải chỉ trong quá khứ, mà còn có thiệt ngay trong hiện tại. Và chính trong mỗi chúng ta cũng có Bồ Tát Quan Thế Âm. Vì vậy cái quan trọng là cái chất liệu có thật, còn cái hình tướng để biểu lộ chất liệu đó có thể là thiên hình vạn trạng. Cho nên vấn đề Bồ Tát Quan Thế Âm có phải là một nhân vật lịch sử không, điều đó không trở thành một vấn đề quan trọng nữa. Bồ Tát Quan Thế Âm có thể đang có mặt và đang ngồi sát cạnh ta mà ta không biết.

Trước hết ta có thể nghĩ rằng Quan Thế Âm Bồ Tát là một khía cạnh của Bụt Thích Ca. Bụt Thích Ca là một nhân vật lịch sử, và trong Bụt Thích Ca cũng có khả năng thương yêu và lắng nghe. Vậy thì ta có thể nói một cách rất đơn giản và rõ ràng rằng Bồ Tát Quan Thế Âm là một khía cạnh của đức Bổn Sư. Đức Bổn Sư có lòng thương lớn và có khả năng lắng nghe, nên là học trò của đức Bổn Sư thì ta phải thực tập thế nào để nuôi lớn cái tình thương ấy và cái khả năng lắng nghe ấy trong ta. Cho nên đức bồ tát Quan Thế Âm là một thực thể có thật, ít nhất là trong đức Thích Ca, trong ta và cố nhiên là trong các vị tổ sư qua các triều đại.

Bồ tát Văn Thù Sư Lợi cũng là một khía cạnh khác của đức Bổn Sư, tại vì trong đức Bổn Sư có tuệ giác lớn. Bồ tát Văn Thù Sư Lợi là biểu trưng cho tuệ giác lớn đó. Vậy thì khi ta xướng lên câu Nam Mô Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi ta cũng tỏ bày sự cung kính của ta đối với đức Bổn Sư, tại vì bồ tát Văn Thù Sư Lợi nằm ngay trong đức Bổn Sư. Và hơn nữa bồ tát Văn Thù Sư Lợi cũng nằm ở trong ta, tại vì ta cũng có hạt giống của tuệ giác. Nếu ta tu hành cho đàng hoàng thì hạt giống của tuệ giác cũng lớn lên và bồ tát Văn Thù Sư Lợi cũng được thể hiện trong ta và ta trở thành bồ tát Văn Thù Sư Lợi. Vì vậy cho nên vấn đề Ngài có phải là một nhân vật lịch sử hay không không còn quan trọng nữa. Bồ tát Văn Thù Sư Lợi không những có mặt trong quá khứ mà cũng đang có mặt trong hiện tại và cũng sẽ có mặt trong tương lai. Cũng như Bụt Thích Ca đã có mặt trong quá khứ và đang có mặt trong hiện tại. Tại vì ta đang có mặt đây cho nên ta biết rằng đức Bổn Sư cũng đang có mặt và đức Bổn Sư sẽ có mặt trong tương lai. Ta biết điều đó vì ta sẽ có con cháu và con cháu ta sẽ tiếp nối ta nghĩa là tiếp nối đức Bổn Sư. Cho nên ngay cả vấn đề Bụt Thích Ca có phải là một nhân vật lịch sử không cũng không quan trọng mấy, tại vì nếu ta thấy được và tiếp xúc được với đức Thích Ca một cách rất thực tế thì ta đâu cần phải hỏi những câu hỏi như vậy.

Đức Bồ Tát Phổ Hiền cũng thế. Ngài biểu trưng cho hành động lớn. Đức Thích Ca là người có hành động lớn, bởi vì nếu không có hành động lớn thì Ngài đã không thiết lập tăng đoàn, đã không đi giáo hóa từ nước này sang nước khác, đã không dựng nên được một nếp sống văn minh tinh thần mà nhân loại đã và đang được thừa hưởng trong 2600 năm qua. Vì vậy cho nên đức Thích Ca là bồ tát Phổ Hiền, và bồ tát Phổ Hiền là một phần của đức Thích Ca. Khi ta lạy, ta lạy một cái gì rất cụ thể, tại vì ta biết rằng cái ước muốn hành động lớn và cái khả năng hành động lớn cũng có ở trong ta. Tuy rằng nó có thể đang còn yếu kém nhưng nếu ta thực tập nó sẽ lớn lên.

Nói tới bồ tát Địa Tạng ta thấy rằng ngài tượng trưng cho đại nguyện. Chữ nguyện này ta có dịch là vow, aspiration, deep longing, promesses. Nguyện là lời thề. Lời thề của đức Địa Tạng là không bỏ nhau. Dầu sao đi nữa tôi sẽ không bỏ anh, dầu sao đi nữa tôi sẽ không bỏ em, nhất là trong khi anh đang còn bị kẹt trong tình trạng đau khổ, tuyệt vọng thì tôi sẽ không thể bỏ anh. Đó là tinh thần bất xả. Trong đạo Bụt có danh từ xả nghĩa là buông bỏ. Có những cái mà ta cần phải buông bỏ thì ta mới có hạnh phúc. Nhưng có những cái ta không thể buông bỏ: đó là những người thương của ta. Ta buông bỏ những người thương của ta thì ta là kẻ không có giá trị gì cả. Mà những người thương của bồ tát Địa Tạng là những người đang đau khổ dưới địa ngục. Đó là tinh thần bất xả. Một mặt ta thực tập xả, một mặt ta thực tập bất xả. Xả là releasing, bất xả là not abandoning. Hai cái có thể đi đôi với nhau, và phải đi đôi với nhau.

Trái tim của sự thực tập là chánh niệm. Chánh niệm trong khi ăn, uống, đi, đứng, nằm, ngồi… Chánh niệm này tạo thành năng lượng. Năng lượng được thể hiện ra bốn mặt. Mặt thứ nhất là mặt Bi, tức là tình thương. Thử tưởng tượng đức Bổn Sư Thích Ca không có tình thương. Không tình thương thì đâu phải là đức Bổn Sư nữa. Tình thương là một yếu tố trong bản chất của đức Bổn Sư Thích Ca. Thứ hai là tuệ giác, là trí tuệ, là understanding, là wisdom. Nếu không có đại trí, thì đức Bổn Sư cũng đâu phải là đức Bổn Sư nữa. Và vì vậy đại trí là bản chất thứ hai của Bụt. Trí và Bi viên mãn, đó là lời khen ngợi đức Bổn Sư. Thứ ba là Hạnh (action). Khi đã thấy và hiểu rồi thì thế nào cũng phải thương, mà đã thương rồi thì không thể nào bỏ được. Cái đó gọi là bất xả. Năng lượng của tình thương đưa tới hành động. Thương tức là hành động. Và cuối cùng là khi có hiểu và thương rồi thì cũng có nguyện tức là có lời thề, và lời thề của đức Địa Tạng là “Địa ngục vị không thề bất thành Phật” có nghĩa là “khi nào địa ngục còn chưa trống trơn thì con chưa thành Phật”. Lời nguyện đó cũng là lời nguyện của những người muốn hành động, muốn đi tới những vùng tối tăm nhất, khổ đau nhất để đem tới ánh sáng và niềm an ủi. Vì vậy chánh niệm ở đây được thể hiện bởi lời thề, và đại diện là bồ tát Địa Tạng. Tình thương được thể hiện bằng đức Quan Âm và ngài được nhận diện như là một người có khả năng lắng nghe. Đức Văn Thù đại diện cho Đại Trí. Và Hành Động là đức Phổ Hiền. Phổ có nghĩa là cùng khắp, Hiền có nghĩa là cái lòng tốt. Phổ Hiền được dịch là Universal Goodness. Vì vậy ta đi tới kết luận là bốn vị bồ tát này có mặt trong quá khứ, có mặt trong hiện tại và có mặt trong tương lai. Bốn vị bồ tát này không cần phải là nhân vật lịch sử. Bốn vị bồ tát đó là những thực thể, tại ta biết rằng khả năng thương yêu, khả năng hiểu biết, khả năng hành động và cái nguyện lớn của chúng ta là những điều có thật trong ta, trong đức Bổn Sư và trong những người khác. Tụng đọc bốn lời này là để nuôi lớn lên những năng lượng như vậy trong ta, những năng lượng ấy có ở nơi đức Bổn Sư một cách tràn đầy, có nơi các vị tổ sư một cách tràn đầy và cũng đang có trong những người chung quanh ta. Người nào cũng có những năng lượng ấy cả. Thành thử ta không cần biết đức Văn Thù, đức Phổ Hiền, đức Địa Tạng và đức Quan Thế Âm là những nhân vật lịch sử có thiệt hay không. Ta chỉ cần biết rằng những năng lượng đó là những gì có thật và ta đang tiếp xúc với những gì có thật. Ta không đang vẽ cho ta những hình bóng vẩn vơ để mà thờ phụng.

Vấn đề đức tin là vấn đề lớn. Có những người hoài nghi nói rằng giả sử mình thờ phụng Thượng Đế, mà nếu Thượng Đế không có thì mình mất công quá. Ngày nào cũng cầu nguyện, ngày nào cũng đầu tư vào Thượng Đế, lỡ Ngài không có thiệt, thì có phải là uổng công hay không. Mình tính toán, mình quen thói làm nhà buôn, mình đầu tư, cho nên mình xem việc tu hành cũng là một cách đầu tư. Trong lịch sử tư tưởng loài người đã có những câu hỏi như vậy, đã có những người tính toán như vậy. Có người nói: cứ thờ phụng Thượng Đế đi, nếu có Thượng Đế thì mình về thiên đường, nếu không có Thượng Đế thì mình đâu có mất gì. Đó là thói quen tính toán thiệt hơn của những nhà buôn.

Tôi biết bằng kinh nghiệm trực tiếp của tôi là đức Quan Âm có thật, tại kinh nghiệm ấy cho biết tình thương có thật. Tôi biết bằng kinh nghiệm trực tiếp của tôi là đức Địa Tạng có thật, tại vì ý chí đi tới những vùng khổ đau để làm công việc nâng đỡ và cứu giúp là năng lượng có thật. Bây giờ trên thế giới có những người đang đi về những phía có đau khổ như vậy. Có những Địa Tạng tuổi còn rất nhỏ nhưng đang đi vào những chốn địa ngục mong cứu giúp và làm nhẹ bớt khổ đau. Đức Địa Tạng đang có mặt trong giây phút hiện tại khắp nơi trên thế giới. Trong lòng ta cũng có một đức Địa Tạng, nhưng có thể là đức Địa Tạng trong ta chưa đủ lớn thành ra bây giờ ta đang không ở địa ngục mà thôi. Nếu đức Địa Tạng lớn thì ta đang ở trong địa ngục, đang làm công việc cứu giúp cho những người khổ đau trong địa ngục. Tuy nhiên ở trong địa ngục mà ta không đau khổ những cái khổ đau của những người đang ở trong địa ngục. Trong ta có nhiều tình thương, tình thương đi tới đâu là đem tịnh độ theo tới đó. Ta ở dưới địa ngục mà vẫn hạnh phúc như thường, càng ở dưới địa ngục lâu thì hạnh phúc của ta càng lớn, tại vì ở đó ta làm những cái có thể thỏa mãn được tình thương của ta, được nhu yếu thương yêu của ta. Địa ngục chính là cái đạo tràng tốt nhất. Chính trong môi trường đó mà ta có thể nuôi dưỡng tình thương và hạnh phúc của ta. Vì vậy cho nên khi một vị Bồ Tát có mặt dưới địa ngục thì địa ngục sáng lên. Vị Bồ Tát không đau khổ vì sự có mặt của vị Bồ Tát làm nhẹ đi rất nhiều những đau khổ của địa ngục. Trong ta ai cũng có một Bồ Tát Địa Tạng. Nếu chúng ta thờ ơ, nếu chúng ta làm lơ và phớt tỉnh về những đau khổ của mọi loài là vì đức Địa Tạng trong ta chưa được ta tiếp xúc. Vậy câu hỏi đức Địa Tạng có phải là một nhân vật lịch sử hay không không phải là một vấn đề với tôi, vì tôi biết đức Địa Tạng có thật bằng kinh nghiệm trực tiếp, vì mắt tôi đã trông thấy những bồ tát Địa Tạng ở khắp nơi, ở trong tổ chức Médecins Sans Frontière, ở trong các tổ chức những người thiện nguyện đang đi vào các vùng đói kém khổ đau ở trên thế giới. Họ không phải là những Địa Tạng thì họ là gì nữa, những vị Địa Tạng lớn tuổi, những vị Địa Tạng nhỏ tuổi, những vị Địa Tạng không muốn trở về với đời sống tiêu thụ của xã hội mà nguyện ở lại càng lâu càng tốt ở những vùng đói kém khổ đau. Địa Tạng là những nhân vật có thiệt, chúng ta phải trả lời như vậy. Đức Địa Tạng cũng đang có ở trong tôi và tôi đang nuôi lớn đức Địa Tạng trong tôi. Với tuệ giác đó, chúng ta đọc những lời quán nguyện này và chúng ta thấy rằng những lời quán nguyện này hoàn toàn không có tính cách cầu khẩn mê tín mà là sự thực tập vun tưới những hạt giống tốt ở trong ta và trong những người sống xung quanh ta.

Đức Bồ tát Quán Thế Âm

Lạy đức Bồ Tát Quan Thế Âm, chúng con xin học theo hạnh bồ tát, biết lắng tai nghe cho cuộc đời bớt khổ“. Khả năng lắng nghe của con đang còn yếu kém. Mỗi khi buồn giận, con không có khả năng lắng nghe người kia một cách sâu sắc được. Vậy nên những lúc như vậy con rất cần tới ngài, con cần thực tập như ngài. Chúng ta biết chỉ cần lắng nghe người khác trong vòng một giờ đồng hồ với tất cả trái tim thì người kia đã bớt khổ nhiều rồi. Vậy mà ta không biết cách nuôi dưỡng khả năng lắng nghe của mình. Thực tập lời quán nguyện này là thực tập khả năng lắng nghe. “Con xin học theo hạnh bồ tát“, nghĩa là con xin bắt chước bồ tát, biết lắng tai nghe cho cuộc đời bớt khổ. “Ngài là trái tim biết nghe và biết hiểu“. Nghe ở đây không phải là nghe bằng hai tai mà nghe bằng trái tim. Nghe như vậy thì mới có thể hiểu được, và khi hiểu được rồi thì khổ đau của người kia sẽ tự nhiên nhẹ bớt. Người đau khổ nhất trên đời là người có cảm tưởng rằng không ai hiểu được mình. Giờ phút có một người chứng tỏ là đã hiểu được mình, và nghe được mình, thì cái khổ đau đó không còn lớn lao như trước nữa. Cho nên trong số chúng ta nếu ai tìm ra được một người có thể nghe mình và hiểu được mình thì người đó được xem như là đã có hạnh phúc. Ta phải tự đào luyện mình thành một hành giả biết nghe và biết hiểu.

Khả năng biết nghe và biết hiểu là khả năng của đức bồ tát Quan Thế Âm và của bồ tát Văn Thù Sư Lợi. Câu này cho chúng ta thấy đức Văn Thù Sư Lợi nằm ở trong đức Quan Thế Âm. Biết nghe tức là biết hiểu, biết hiểu tức là biết nghe, Quan Âm và Văn Thù không phải là hai thực thể riêng biệt. Văn Thù là hiểu mà Quan Âm là nghe. Trong Quan Âm có Văn Thù, trong Văn Thù có Quan Âm. Đó là sự tương tức của hai vị bồ tát lớn. “Chúng con xin tập ngồi nghe với tất cả sự chú tâm và thành khẩn của chúng con“. Chú tâm ở đây là định. Nghe thì thân và tâm phải nhất như, mình phải có mặt thật sự. Hoàn toàn có mặt trong giây phút hiện tại để lắng nghe một cách đích xác. Thành khẩn ở đây cũng chỉ có nghĩa là có mặt hoàn toàn. Mỗi người trong chúng ta ai cũng đều có thể làm được như vậy, nhưng chúng ta chưa chịu làm đấy thôi. Chúng ta ai cũng biết thở. Khi thực tập thở có ý thức ta đưa thân và tâm về một mối, để ta có mặt thật sự trong giây phút hiện tại. Ta không đánh mất ta trong tương lai, trong quá khứ, ta có mặt hoàn toàn trong giây phút hiện tại để lắng nghe người kia.

Chúng con xin tập ngồi nghe với tâm không thành kiến“. Thành kiến là những ý kiến đã có sẵn trước. Vì có những ý kiến có sẵn trước rồi nên những điều đang nói không lọt được vào tâm hồn mình. Mình bóp méo tất cả những điều người kia nói. Đức Quan Thế Âm là người biết nghe với tâm không thành kiến. Chúng ta còn có những thành kiến. Khi nghe chúng ta thường bị những thành kiến đó bít lấp và vì vậy ta không chấp nhận và không hiểu được người kia. Thành kiến ở đây là những vọng tưởng mà ta đã chứa chấp sẵn. Tu tập thiền quán là để đả phá những thành trì của thành kiến và cố chấp. Nếu không phá được thành trì của thành kiến và cố chấp thì ta sẽ khổ, và ta sẽ làm cho người khác khổ. Do đó thực tập nghe với tâm không thành kiến là một phương pháp tu hành rất sâu sắc. “Chúng con xin tập ngồi nghe mà không phán xét, không phản ứng“. Chúng ta có tập khí muốn làm quan tòa. Nghe cái gì là muốn phán xét liền, giống như một bức tường hất trái bóng trở lại. Đó là một tập khí xấu. Chúng ta đừng làm một bức tường. Chúng ta phải làm không gian để khi trái bóng được liệng tới thì ta có thể tiếp đón được. Phạm Duy có một bài hát “Em là khoảng trống cho tình đong vào”. Nếu mình là bức tường thì làm sao trái bóng có thể đi vào được. Phải làm khoảng trống thì mới có thể lắng nghe.

Có một câu chuyện thiền: Một ông giáo sư triết học tới tham vấn với một thiền sư. Thiền sư mời ông giáo sư uống trà. Trong khi vị thiền sư pha trà, thì ông giáo sư cứ nói liên tục không ngừng. Vị thiền sư muốn dạy cho ông giáo sư một bài học. Ngài rót trà vào ly, và không ngừng rót làm nước trà tràn ra ngoài chén, để trà tràn ra khay, rồi tràn ra bàn. Lúc đó ông giáo sư mới ngừng nói lại và la lớn: “Thôi đừng rót nữa! Thầy không thấy sao, nước tràn ra ngoài như vậy mà cứ rót hoài”. Thiền sư ngưng lại, nhìn lên vị khách quý mỉm cười và nói: “Ông giáo sư cũng đầy như chén trà vậy, làm sao tôi có thể rót thêm trà vào được nữa. Làm sao tôi có thể nói cho ông nghe chút gì về thiền được?”

Chúng con xin tập ngồi nghe để hiểu“. Mục đích ngồi nghe là để hiểu. Ta có những cái mê muội trong ta. Khi biết nghe thì nghe những lời nói đúng ta hiểu, mà nghe những lời nói sai ta cũng hiểu. Nghe điều gì ta cũng quán chiếu điều đó. Người ta nói đúng mình cũng học được, nói sai mình cũng học được. Mình học được trong chiều sâu, mình biết tại sao người ta nói như vậy. “Chúng con xin nguyện ngồi nghe chăm chú để có thể hiểu được những điều đang nghe và cả những điều không nói“. Có những điều người kia nói ra không được, tại vì họ không có khả năng nói. Khi một thiền sinh có những nỗi khổ niềm đau tới với chúng ta, lúc đầu họ làm như không có nỗi khổ niềm đau nào hết. Nhưng khi đã thực tập vài ngày, cảm được tình thân của ta thì họ bắt đầu nói ra được những khổ đau của họ. Tuy nhiên, họ vẫn giấu không dám nói tới điểm chính, mà chỉ nói những điểm xung quanh thôi. Họ ít dám nói thẳng niềm đau của họ. Ta phải lắng nghe rất kỹ để không những nghe được điều họ đang nói mà còn nghe được những điều họ chưa dám nói. Nếu ta khéo léo hỏi đúng một câu thì họ òa lên khóc và nói cho ta tất cả sự thật. Một cặp vợ chồng nọ có khó khăn với nhau, người vợ tới không nói thẳng là mình có khó khăn với chồng, chỉ nói tới những khó khăn của riêng mình và của các con thôi. Bởi vì cảm thấy ngại ngùng khi phải thổ lộ với một người ngoài rằng tôi có khó khăn với chồng tôi. Chỉ khi tin tưởng lắm thì họ mới dám nói. Do đó khi  ngồi nghe, nếu ta không nghe bằng tất cả trái tim thì  không thể hiểu được, không thể hỏi được những câu hỏi khiến cho người kia bật ra sự thật.” Chúng con biết chỉ cần lắng nghe thôi chúng con cũng đã làm vơi bớt rất nhiều khổ đau của kẻ khác rồi“.

Bồ tát lắng nghe làm cho người bớt khổ. Lắng nghe là một phương pháp mầu nhiệm để thiết lập lại sự cảm thông. Trong thời đại chúng ta có những phương tiện truyền thông rất hiện đại như email, fax, điện thoại,… Chỉ cần nửa phút thôi là có thể gởi tin tức tới những nơi rất xa, trong khi đó sự truyền thông giữa những người thân trong gia đình đã trở nên khó khăn. Truyền thông giữa cha con, anh em, vợ chồng hầu như bị cắt đứt. Nền văn minh của chúng ta đang bị phá sản về phương diện đó. Đời sống gia đình không hạnh phúc, giao hảo quốc tế giữa nước này và nước khác trở nên khó khăn, những sắc tộc khác nhau trong một thành phố chống báng và kỳ thị nhau. Cá nhân cũng như đoàn thể không có khả năng truyền thông với nhau nên nảy sinh ra những chống đối, những hiểu lầm. Do đó hạnh tu của bồ tát Quan Thế Âm rất thiết yếu. Ai cũng phải học hạnh lắng nghe để có thể thiết lập lại sự truyền thông.

Đức Bồ tát Văn Thù Sư Lợi

Lạy đức bồ tát Văn Thù Sư Lợi, chúng con xin học theo hạnh bồ tát biết dừng lại và nhìn sâu vào lòng sự vật và vào lòng người”. Trong đời sống hiện nay, chúng ta chỉ quen “chạy”. Chúng ta chạy trong lòng, chạy như bị ma đuổi. Tuy đang ngồi uống trà hoặc đang ăn cơm ta vẫn tiếp tục chạy, vì thế ta không thấy được sự thật đang xảy ra. Muốn nhìn sâu và hiểu rõ thì chúng ta thì phải dừng lại. “Dừng” là chỉ, “thấy” là quán. Đức bồ tát Văn thù là người thực tập thiền quán, ngài biết dừng lại và biết nhìn sâu. Biết dừng lại và nhìn sâu vào lòng sự vật và vào lòng người. Lòng người là lòng mình và lòng những người xung quanh mình. Lòng đây là những tâm hành như ghét, thương, vui, buồn, giận, sợ hãi, chán nản, hy vọng… tất cả những tâm tư ấy là đối tượng của cái nhìn. Thực tập nhìn như thế nào để thấy được chiều sâu của các tâm hành. Muốn nhìn sâu thì phải dừng lại.

Trong khi ngồi, khi đi, khi đứng, khi ăn cơm ta phải thực tập dừng lại. Có thể là mình đang ngồi ăn cơm cùng với đại chúng cả trăm người. Trong số đó có những người đã thực sự dừng lại được để ăn cơm, nhưng một số khác vẫn tiếp tục rong ruổi. Chúng ta chạy đi đâu mà chạy dữ như vậy? Vào giờ ăn mà vẫn còn chạy nữa? Nếu không có khả năng dừng lại thì làm sao có khả năng có hạnh phúc? Hãy dừng lại trong khi ăn cơm. Trong khi ăn cơm ta chỉ ăn cơm mà thôi. Anh có thể làm được chuyện đó không, chị có làm được chuyện đó không? Chúng ta đã chạy trong bao nhiêu đời, trong bao nhiêu kiếp rồi? Bây giờ có cơ hội này, vậy mà ta cũng còn chạy nữa. Tại sao ta không ngồi ăn cơm cho đàng hoàng, tại sao ta không ngồi uống trà cho đàng hoàng, tại sao ta không ngồi thiền cho đàng hoàng, không đi thiền cho đàng hoàng? Thiền hành tuy là đi nhưng mà cũng một pháp môn thực tập để dừng lại.

Thiền chỉ và thiền quán là bản chất của sự thực tập. “Chúng con xin tập nhìn bằng tất cả sự chú tâm và thành khẩn của chúng con“. Chú tâm và thành khẩn tức là có mặt thật sự. Thân, khẩu và ý hợp nhất. “Chúng con xin tập nhìn với con mắt không thành kiến“. Phải phá đổ hàng rào của thành kiến và cố chấp thì ta mới có thể thấy được. Một người Do Thái khi nhìn một người Palestinien thì phải nhìn bằng cách ấy mới thấy được những sợ hãi, khổ đau và ước mơ của người Palestinien. Một người Palestinien khi nhìn một người Do Thái cũng phải nhìn bằng cách ấy mới thấy được những sợ hãi, đau khổ và những ước mơ của người Do Thái. Nếu cả hai bên đều có thể nhìn nhau một cách sâu sắc như vậy thì sẽ thấy rằng bên nào cũng tội nghiệp, bên nào cũng có sợ hãi, hận thù, cũng bị trấn ngự bởi cảm giác không có an ninh. Và khi cả hai bên đều thấy được như vậy thì mới phát kiến ra được sự thật là nếu cứ tiếp tục trừng phạt nhau thì tình trạng sẽ không đi đến đâu. Chi bằng cùng nắm tay nhau ngồi xuống để tìm ra một giải pháp thiết lập lại truyền thông. Nếu người Do Thái và người Palestinien chưa làm được thì chúng ta-những người không phải là Do Thái hay Palestinien, chúng ta phải làm được với nhau. Để rồi chúng ta có thể tới với họ và giúp họ. Nếu có hai người không tới được với nhau, không hiểu nhau thì ta phải đến với cả hai người để giúp cho hai người đó dừng lại việc làm khổ nhau, và tập lắng nghe nhau, nhìn nhau bằng con mắt không thành kiến. Lắng nghe bằng lỗ tai không thành kiến và nhìn bằng con mắt không thành kiến là một phương pháp thực tập rất quan trọng.

Chúng con xin tập nhìn mà không phán xét, không phản ứng“. Chúng ta không nhìn bằng con mắt của quan tòa, chúng ta phải nhìn bằng con mắt của người thương. Chúng con nguyện tập nhìn sâu để thấy và để hiểu những gốc rễ của mọi khổ đau. Đây là thực tập Tứ diệu đế. Khổ đau có mặt. Nhìn sâu vào khổ đau để thấy và để hiểu được gốc rễ của nó. Để thấy được tự tính vô thường và vô ngã của vạn vật. Khi thấy được tự tánh vô thường và vô ngã là tự nhiên ta có thể thay đổi cái nhìn và ta chấp nhận được người khác một cách dễ dàng. Tôi với anh không phải là hai thực thể riêng biệt. Nếu anh còn khổ thì tôi còn khổ, nếu tôi còn khổ thì anh còn khổ. Vì vậy chúng ta phải nương vào nhau và giúp đỡ nhau thay vì trách móc hay trừng phạt nhau. “Chúng con xin học theo hạnh bồ tát dùng gươm trí tuệ để đoạn trừ phiền não“. Phiền não tức là tham, sân, si, mạn, nghi và tà kiến. Phiền não ở đây chỉ có thể bị chặt đứt bằng thanh gươm của trí tuệ. Đức Văn Thù có thanh gươm ấy. Ngày xưa dưới cây bồ đề đức Thế Tôn đã dùng thanh gươm ấy. Và giờ đây chúng ta đã được trao truyền thanh gươm ấy. Đó là phương pháp chỉ và quán. Tức là dừng lại và nhìn sâu. Nhìn sâu để thấy bản chất của khổ đau. Nếu không dùng thanh gươm chỉ và quán chúng ta sẽ không đoạn trừ được những sợi dây phiền não đang trói buộc ta. Nếu ta đang khổ, đó là tại vì ta đang bị trói buộc bởi những sợi dây của thèm khát, của giận hờn, của thù oán, của ngã mạn. Và ta phải thực tập ngày đêm để chuyển hóa những tập khí đó.”Dùng gươm trí tuệ để đoạn trừ phiền não, giải thoát khổ đau cho chúng con và cho mọi giới“. Nếu mình không có khả năng tự cởi trói cho mình được thì làm sao mong cởi trói cho người khác?

Đức bồ tát Phổ Hiền

Lạy đức bồ tát Phổ Hiền, chúng con xin học theo hạnh nguyện của bồ tát, biết đem con mắt và trái tim đi vào cuộc sống“. Ta đi vào cuộc sống với hành trang nào, nếu không phải với con mắt và trái tim của ta? Con mắt nào có thể đem vào cuộc đời nếu không phải là con mắt của Văn Thù Sư Lợi? Nếu không có con mắt ấy, đi vào cuộc đời ta sẽ bị cuộc đời kéo theo như một dòng nước lũ. Anh đã có con mắt ấy chưa, em đã có con mắt ấy chưa? Nếu chưa có con mắt ấy thì đừng nên vội vã đi vào trong cuộc đời để trở thành chàng dũng sĩ trong truyện Cửa Tùng Đôi Cánh Gài. Ta phải có con mắt của bồ tát Văn Thù và trái tim của bồ tát Quan Thế Âm để đi vào đời. Mà có con mắt của Văn Thù và trái tim của Quan Thế Âm thì ta cũng trở thành bồ tát Phổ Hiền, nghĩa là mình có bàn tay hành động của bồ tát Phổ Hiền. Trong bồ tát Phổ Hiền có bồ tát Quan Âm và bồ tát Văn Thù. Các vị bồ tát có mặt trong nhau. Chúng con nguyện buổi sáng dâng niềm vui cho người, buổi chiều giúp người bớt khổ. Đạo pháp không phải là vấn đề miệng lưỡi, đạo pháp là vấn đề thực tập. Anh làm sao để buổi sáng có thể đem đến niềm vui ít nhất cho một người, và buổi chiều ít nhất làm cho một người bớt khổ. Những điều anh nói không đủ để tạo ra sự chuyển đổi. Ta đâu cần làm gì nhiều. Chỉ cần đi, đứng, nằm, ngồi, ăn sáng cho có chánh niệm là đã có thể mang đến niềm vui cho rất nhiều người. Khi trả lời cho anh, cho em, ta trả lời với một nụ cười, đó đã là trái tim của sự thực tập.

Chúng con biết hạnh phúc của người chính là hạnh phúc của mình, và nguyện thực hiện niềm vui trên con đường phụng sự“. Đây là một câu nói diễn tả được giáo lý của Làng Mai: “hạnh phúc không phải là vấn đề cá nhân”. Trong liên hệ giữa mình và người kia, nếu kẻ kia khổ đau thì sao mà mình có hạnh phúc cho được. Làm cho người kia nở được nụ cười là mình đã thấy nhẹ trong lòng. Trên con đường lý tưởng, phải làm sao cho con đường ta đi trở thành  con đường vui, bởi nếu không vui thì tu để làm gì? Điều này phải nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Ngoài đời người ta đã rầu rĩ khổ đau rồi, mình đi tu mà cũng rầu rĩ khổ đau nữa thì đâu có thể giúp đỡ được ai? Trong bài Quy Nguyện có câu: “Tăng là đoàn thể đẹp, cùng đi trên đường vui”. Ngày nào cũng cần chế tác niềm vui. Nếu chưa biết làm cho mỗi giây phút trong đời sống hằng ngày trở thành một giây phút an lạc thì mình chưa nắm được phép tu. Tu cùng nhau là hợp tác với nhau để tạo ra niềm vui trong đời sống hằng ngày. Ta sẽ được nuôi nấng bởi những niềm vui ấy. Tu là nghệ thuật chế tác niềm vui và chuyển hóa khổ đau. Phải đem tài năng và sáng kiến của mình ra để áp dụng trong sự tu tập. Làm sao để mỗi ngày là mội hội vui, mỗi ngày là một ngày tết.

Chúng con biết mỗi lời nói, mỗi cái nhìn, mỗi cử chỉ và mỗi nụ cười đều có thể đem lại hạnh phúc cho mình và cho người.” Chúng ta giàu có hơn chúng ta nghĩ. Mỗi cử chỉ đều có thể đem lại hạnh phúc cho người, vậy mà mình cứ quen thói hà tiện. “Chúng con biết rằng nếu chúng con siêng năng tu tập thì tự thân chúng con là một nguồn an lạc bất tuyệt cho mọi người và cho cả muôn loài“. Ta rất giàu có, ta có thể bố thí, có thể đem lại niềm vui cho rất nhiều người, có thể ban tặng hạnh phúc cho mọi loài. Chỉ cần sống tỉnh thức để bồ tát Quan Âm có mặt trong trái tim, để bồ tát Văn Thù có mặt trong đôi mắt, thì tự nhiên những cử chỉ, những hành động, những lời nói của ta sẽ tạo ra niềm vui cho mình và cho mọi người.

Đức bồ tát Địa Tạng

Lạy đức bồ tát Địa Tạng, chúng con xin học theo hạnh bồ tát, tìm cách có mặt ở bất cứ nơi nào mà bóng tối, khổ đau, tuyệt vọng và áp bức còn đang trấn ngự để có thể đem đến nơi ấy niềm tin, hy vọng và giải thoát. Chúng con nguyện không bao giờ quên lãng và bỏ rơi những người còn đang bị kẹt trong những tình huống tuyệt vọng, nguyện cố gắng thiết lập liên lạc với những ai không còn lối thoát, những ai còn bị bưng bít không có phương tiện lên tiếng kêu gọi công bình nhân phẩm và quyền được làm người“. Có những người đang ngồi dưới đáy vực thẳm nhưng không có cách nào để có thể truyền thông được với bên ngoài, có những người đang bị kẹt vào những tình huống khó khăn và tuyệt vọng. Hiện giờ trên thế giới có rất đông những người như vậy. Nếu không có bồ tát Địa Tạng thì ai có thể đem ánh sáng tới những vùng đó? Trong thế giới chúng ta có rất nhiều người trẻ muốn làm những vị bồ tát Địa Tạng, muốn đem ánh sáng tới những vùng xa xôi và sâu thẳm như vậy. Ở trong một hoàn cảnh đầy đủ về vật chất, có nhân quyền, có tự do, vậy mà chúng ta lại giận hờn nhau, ganh tị với nhau, rồi xâu xé nhau. Chúng ta đau khổ mà không biết rằng cái đau khổ của chúng ta không thấm gì so với đau khổ của những người hiện đang ở trong những  tình huống của địa ngục. Chúng ta phải tu tập như thế nào để trở thành một Địa Tạng trong vô số các vị Địa Tạng? Cánh tay của ta phải với tới được những tình trạng khổ đau và tuyệt vọng đó.

Chúng con biết địa ngục có mặt khắp nơi trên thế giới và chúng con nguyện sẽ không bao giờ tiếp sức xây dựng thêm những địa ngục trần gian như thế.” Địa ngục có thật. Có những vị Địa Tạng đang tìm tới những nơi ấy. Có những địa ngục vắng Địa Tạng, nhưng cũng có những địa ngục bắt đầu có mặt Địa Tạng. Chúng ta phải nhận diện sự có mặt của những địa ngục như vậy ở khắp nơi trên thế giới. Không cần phải đi tới một cõi nào xa xôi mới thấy được địa ngục. Địa ngục nằm ngay bên cạnh chúng ta. Trong những thành phố lớn như Chicago, như New York, như Manila, như thành phố Hồ Chí Minh. Hoặc ngay ở Paris cũng có những vùng địa ngục. Chúng ta phải khám phá ra những địa ngục đó, để đưa bàn tay Quan Thế Âm tới. Ta phải nhờ bồ tát Địa Tạng dẫn ta tới. Đôi khi tưởng rằng ta không góp phần tạo ra các địa ngục ấy, nhưng kỳ thật có thể là ta đã tiếp tay xây dựng chúng. Ta là đồng lõa. Ta bận rộn tiêu thụ. Và trong cuộc sống hằng ngày, ta kẹt vào những nhỏ mọn, ganh tị, buồn chán mà không biết rằng có những địa ngục đang được dựng lên chỗ này hay chỗ khác. Thái độ thờ ơ bất cần của chúng ta là một yếu tố góp phần xây dựng lên những địa ngục như vậy trên trần gian. Chúng ta phải nói rất rõ là :”Con không muốn tiếp sức vào sự xây dựng những địa ngục ấy. Trái lại chúng con xin nguyện nỗ lực giải trừ những địa ngục còn đang có mặt. Chúng con nguyện tu học để đạt tới đức vững chãi và kiên trì của đất. Bồ tát“. Địa Tạng có hai đức lớn là đức vững chãi và đức kiên trì. Có vững chãi thì mới kiên trì được. Kiên trì là không dễ dàng bỏ cuộc, dù khó khăn cách mấy cũng bám lấy. “Địa ngôn kiên hậu quảng hàm tàng”. Đất “kiên” và “hậu” nghĩa là vững và dày. “Quảng hàm tàng” là có khả năng chứa đựng lớn. Trong ấy có tình thương, có sự hiểu biết, có thể nâng đỡ, có thể làm chỗ nương tựa. Đó là lời ngợi khen bồ tát Địa Tạng. “Chúng con nguyện tu học để đạt tới đức vững chãi và kiên trì của đất, để trở thành trung kiên và không kỳ thị như đất, và cũng được như đất có thể làm nơi nương tựa cho tất cả những ai cần đến chúng con.” Đất không kỳ thị, dù đổ phân rác vào đất thì đất cũng chấp nhận, đổ sữa lên đất thì đất cũng chấp nhận. Vì đất chuyển hóa được sữa, đất cũng chuyển hóa được phân rác. Đất có khả năng xả, nghĩa là không kỳ thị, không phân biệt, chấp nhận được tất cả để có thể chuyển hóa. Ta hãy tự hỏi mình là ta có khả năng làm chỗ nương tựa cho người khác hay không. Nếu thấy ta còn mong manh, đức còn mỏng, chưa có đủ vững chãi thì ta phải thực tập như thế nào để nuôi lớn thêm đức vững chãi mà làm chỗ nương tựa cho những người xung quanh.

Đây là một lá thư nhận được từ địa ngục gởi ra. Lá thư này của anh Nicolas người Mỹ. Lá thư gởi ra được là nhờ một Địa Tạng đã đưa vào địa ngục cuốn The joyful path và cuốn Peace is every step. Các bạn thiền sinh Hoa kỳ đã phát tâm bồ đề mua những cuốn sách ấy gởi vào trong các nhà tù. Có những tù nhân đọc được những cuốn sách ấy đã bắt đầu tu tập và chuyển hóa. Lá thư của Nicolas là một trong hằng ngàn lá thơ gởi tới. Nicolas đã bị kết án tử hình và đang chờ ngày lên ghế điện. Anh cũng đã có dịp được đọc cuốn Living Buddha Living Christ trong tù. Nhà tù này ở tiểu bang Pennsylvania. Thơ viết bằng tiếng Mỹ. Đây là bản dịch:

Ngày 28 tháng 12 năm 1997

Thưa Thầy,

Con không biết là lá thơ này tới được tay Thầy không. Nhưng con mong rằng có một người nào sống cùng địa chỉ của Thầy mở được lá thơ này ra mà đọc để cho con bớt khổ. Địa chỉ Thầy con tìm ra sau cuốn Living Buddha Living Christ mà người ta cho con. Con đã bị lên án tử hình mười bảy năm rồi và tuy rằng cuộc đời của con trong thời gian đó có bao nhiêu khổ đau, bao nhiêu thất vọng, nhưng trong con lại có ý chí muốn vượt thắng những vết thương và những cái sẹo tâm lý và tình cảm đã hằn lên tâm hồn. Những vết thương đó con đã mang theo vào trong tù và chúng đã được chất chứa và lớn lên trong tù. Con đã từng tranh đấu, đã từng vùng vẫy rất khó khăn với sự thù hận trong con. Có những lúc con nghĩ con không thể vượt thoát được. Những lúc đó con cảm thấy bị chúng đè bẹp và nghiến nát. Nhưng lạ thay, con đã học được cách sống sót từ những giờ phút khổ đau quằn quại đó, những giờ phút hờn oán hận thù ấy. Và ước muốn duy nhất bây giờ của con là có thể sống sót được mà không bị điên loạn bởi những hận thù kia, hận thù đối với những người đã bắt con, đã hành hạ con, đã làm cho con khổ đau đến mức cùng tận. Con không biết tại sao con lại có thể làm được chuyện đó, nghĩa là con có thể vượt thoát được những giờ phút mà con sắp hóa điên, để còn có thể giữ được sự an lành trong con. Con đâu có bao giờ nghĩ là con hơn ai, hơn người bên cạnh con chút nào đâu. Con chỉ là một con người tầm thường và con rất biết ơn dù sống trong tù qua mười bảy năm, con còn giữ được cái thăng bằng trong con và con chưa trở thành điên loạn. Với niềm biết ơn đó, con đã có thể trân quý được những gì xảy ra trong đời sống hằng ngày của con. Mỗi khi con nhìn mặt trời lặn, con cảm thấy hạnh phúc vô cùng. Chỉ cần ngồi sau khung cửa sắt nhìn ra ngoài, con cũng có khả năng hưởng thụ được cái đẹp của cảnh mặt trời lặn. Trong nhà tù trước, con đã ở mười hai năm, và ngày nào con cũng chỉ được nhìn bức tường. Khi con được chuyển sang nhà tù này cánh cửa sổ trong nhà tù mới đã cho phép con thấy được một phần của thành phố với rất nhiều cây xanh. Lần đầu tiên được tiếp xúc với cây cối và một phần của thành phố, con cảm động quá cho đến nỗi con đã khóc nức nở.

Khi con đọc cuốn Peace is every step của Thầy và nghe được giáo pháp an trú trong hiện tại thì con lập tức hiểu ngay được giáo lý đó. Lâu nay con có thái độ thù ghét các tôn giáo tại tôn giáo nào cũng có khuynh hướng loại trừ những người không đi theo mình. Vì thế nên con đã gắng đi vào trong con, đã theo đường nội hướng để mong tìm sự an lành bên trong mà thôi. Con biết rằng con chỉ mới bắt đầu học Phật thôi, nhưng con đã có thể thấy được cái đẹp đơn giản trong sự đi tìm và chứng nhập với giây phút hiện tại và nhu yếu phải sống trong chánh niệm. Đời sống trong tù của con rất khó khăn, rất lao khổ, nên con đã học được phương pháp biết trân quý những giây phút ngắn ngủi, và nhờ vậy mà những lo lắng, sợ hãi về tương lai và cái chết không làm cho con điên loạn nữa và không có thể tiêu diệt được tính người trong con. Nhờ vậy mà bây giờ con đã học được cách hành xử như một người Phật tử. Con tin rằng nếu con tiếp tục thực tập thì con sẽ tìm được sự cải hóa từ từ cho đời sống tâm linh của con. Điều con mong ước sâu sắc nhất của con là dầu con có bị hành xử một cách tàn tệ và bạo động đi nữa thì con cũng hy vọng rằng từ cái rác đó con có thể biến nó thành hoa, và con có thể tìm ra cái an bình trong con. Và trong khi đi tìm sự an bình trong con, con có thể chấp nhận được con và con có thể sống rất thoải mái với chính con. Ước mơ của con là một ngày nào đó con được thả ra, và có người tới gặp con, nhìn con một lát rồi nói: “À, anh này đã ở trong tù hai mươi năm với tư cách của một người tử tội vậy mà bây giờ xem cũng còn được quá chứ.” Con chỉ có ước mơ có như vậy thôi. Con viết cho Thầy lá thơ này, hy vọng rằng lời nói của con có thể chia sẻ được với Thầy cái chất người ở trong con, không phải với tư cách của một người tử tù đợi ngày hành quyết, nhưng với tư cách một người đã được gởi vào đây để học hỏi và lớn lên trong một hoàn cảnh không có một hy vọng tối thiểu nào cho tương lai. Xin Thầy hãy bảo trọng sức khỏe của Thầy, hoặc ai đó đang đọc lá thơ này cũng nên tự bảo trọng lấy mình. Cám ơn Thầy hoặc ai đó đã đọc những lời này của con. Nicolas

Sau khi đọc xong lá thơ này, tôi có nhờ sư cô Thục Nghiêm gởi cho anh ta một cuốn Thiền Hành Yếu Chỉ, và có viết cho anh một lá thơ ngắn như sau:

Dear Nicolas,Thank you for writing. It is very encouraging for us here in Plum Village to know that you are practicing being in the present moment and giving a chance for the best in you to manifest. These jewels are seeds transmitted to you by spiritual and blood anscestors. True freedom is the freedom from afflictions such as despair, anger and hate. There are so many in the world who are not free and who suffer tremendously. They do not have the space within.
(Tôi muốn nói rằng nếu trong tù mà anh chưa điên loạn và anh còn giữ được chất người trong anh, và anh không hiểu tại sao anh làm được như vậy thì anh nên biết rằng cái châu báu đó là do tổ tiên tâm linh và tổ tiên huyết thống đã truyền cho anh. Nhờ đó mà bây giờ anh còn sống sót được. Và tuy là anh ở trong tù mà có tự do nhiều hơn chúng tôi, những người ở ngoài này nhưng đang bị hận thù, thèm khát và hối hận giam giữ).

We are trying to send you a small book on walking meditation. We hope you can practice mindful walking in your cell and also outside. Please invite others to join you. Try to help other inmates, sharing with them your peace and your capacity to enjoy the wonders of life that are available around and inside of you.

(Chúng tôi gởi cho anh tập Thiền hành yếu chỉ. Anh thực tập đi, trong phòng giam của anh và nếu được thì thực tập ở bên ngoài. Anh có thể mời những người bạn tù khác thực tập với anh, giúp đỡ những người đó và làm cho họ nếm được chút ít an lạc và hạnh phúc mà anh có trong khi tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống.)

We will be glad to learn about your success. You can be a truly free person wherever you are.
(Chúng tôi ở đây sẽ rất sung sướng nếu được biết anh thực tập thành công ở trong đó. Anh có thể là một người tự do dầu anh đang ở trong tù.)

Nurture and develop your compassion and understanding and helping other people around you. That will make you happy and bring a lot of joy to all of us here. Please feel free to write to Parallax or Community of Mindful Living to ask for more books and tapes on the teaching. When you write us please address yourself to sister Thục Nghiêm. She is a nun of American origin, so she can write and read English well. She will represent all of us.
Take good care. Love.
Thầy

(Hãy nuôi dưỡng chất liệu từ bi và hiểu biết trong anh, điều này sẽ làm cho anh tự do và hạnh phúc. Và nếu cần anh cứ viết thơ cho nhà xuất bản Parallax hay Community of Mindful Living để xin thêm sách và băng giảng. Viết thơ cho chúng tôi thì anh đề cho sư cô Thục Nghiêm vì sư cô là người Mỹ, có thể hiểu và viết tiếng Anh một cách rất dễ dàng, sư cô sẽ đại diện tất cả chúng tôi. Hãy bảo trọng. Thầy.)

Đây là một lá thơ khác từ trong nhà tù gởi ra. Nhà tù này ở tiểu bang Washington. Đây là một người tù gốc Việt.

Đầu thư con xin chúc Thầy được dồi dào sức khỏe và mọi sự được thuận lợi ở Làng Mai. Đệ tử tên là Hùng, là một người rất ngưỡng mộ Thầy và hiện đang cư ngụ tại Airway Correction Center. Trong thời gian qua, đệ tử nhờ ơn những cuốn sách của Thầy chỉ dạy mà đã hấp thọ được rất nhiều về đời sống tươi đẹp và thương yêu. Thời gian xa cha mẹ hiền và bỏ nước ra đi, đệ tử đây đã đi vào con đường tội lỗi. Vì quá ham vui nên đệ tử đã quên mất con đường về nhà mà tổ tiên đã chỉ bảo cho. Nhờ ơn Thầy chỉ dạy qua các cuốn sách mà đệ tử đã may mắn được đọc trong tù, cuốn Being Peace và cuốn A Joyful Path. Những cuốn đó đã giúp cho đệ tử rất nhiều như sự thực tập trở về nguồn gốc và đi trên lối đi của tổ tiên. Trong dòng họ của đệ tử ai nấy đều hướng về Phật giáo và có đôi người đã từng xuất gia. Đệ tử đội ơn Thầy đã mở rộng tầm mắt của đệ tử và mở đường cho đệ tử trở về với con đường của tổ tiên. Nhờ cuốn A Joyful Path, trang 14, mà đệ tử đã có thể viết cho ba của đệ tử một lá thơ để nối lại tình cha con. Ba đệ tử là một người say mê rượu chè và thường đánh đập má đệ tử lúc đệ tử còn nhỏ. Lớn lên con không hết lòng thương ba con. Qua cuốn sách của Thầy con mới thấy được những đau khổ mà ba con đã chịu đựng và con đã có thể viết thơ để hòa giải với ba con và con biết phải làm thế nào để độ cho gia đình con và để cho mọi người có thể hiến tặng nhiều tình thương cho nhau. Đệ tử xin hết lòng cảm tạ công lao của Thầy đã bỏ ra để soạn những cuốn sách quý báu cho con và cho tất cả mọi người. Những cuốn sách của Thầy đã giúp cho rất nhiều người ngay ở trong nhà tù này. Con cũng đồng thời xin thay mặt cho những anh em nào đến sau mà cảm tạ ơn Thầy đã biếu cho những cuốn sách quý đó để chúng con có thể tu luyện trong tù. Con xin chúc cho toàn thể chúng sanh và cho gia đình con nhiều điều an lành. Hùng.

Chúng ta không cần đi đâu xa. Chúng ta chỉ cần ở ngay tại chỗ thôi mà vẫn có thể tiếp xúc được với địa ngục. Cánh tay của chúng ta có thể với ra rất dài. Ở bên Anh, tăng thân Anh và Việt của chúng ta cũng đã gởi rất nhiều bản tin, những tờ tạp chí, những cuốn sách viết bằng tiếng Việt và tiếng Anh cho các nhà tù. Và các bạn ở bên Đức cũng đã bắt đầu làm như vậy. Trong khi đó ở bên Mỹ có rất nhiều người đang thực tập thiền quán ở trong tù và nhờ đó họ bớt đau khổ rất nhiều. Có một người thực tập thiền hành trong một nhà tù ở California đã viết thơ cho Thầy và nói:

“Con đứng ở trên đầu cầu thang, đang thở và định đi xuống cầu thang có chút việc. Con thấy có những người tù khác đang đi lên và đi xuống. Họ chạy như bị ma đuổi, và nhìn cách đi đứng của họ con thấy được tất cả những đau khổ của họ. Con thấy họ như những trái bom sắp nổ. Con ao ước rằng người nào cũng có thể leo lên cầu thang và bước xuống cầu thang một cách nhẹ nhàng và chánh niệm như con để cho họ bớt khổ.”

Có một anh chàng đã viết được nguyên một cuốn sách về sự thực tập của mình ở trong tù và sách đã được một nhà xuất bản tên là Padma Publishing House in ra. Anh ta đã có cơ hội được quy y với một Thầy người Tây Tạng. Thầy đó đã vào trong tù để truyền tam quy và ngũ giới cho anh. Anh tên là Jarvis Master. Trong sách này anh kể nhiều chuyện vui. Có một hôm anh tù ở phòng bên đập cửa và chửi ầm lên, trong khi Jarvis đang thực tập: thở vào tâm tĩnh lặng, thở ra miệng mỉm cười. Anh Jarvis phải ngưng thực tập vì anh chàng bên kia đập phá quá. Chàng kia đang nổi điên. Chàng la: “Thằng chó chết nào đang hút thuốc bên kia, mày phải cho tao nửa điếu.” Anh ta chắc là Jarvis đang hút thuốc mà không chịu chia cho nó hút. Nhưng Jarvis đã bỏ thuốc từ khi mới bắt đầu tập thiền. Anh ta lớn tiếng với người bạn tù bên kia: “Mày là thằng chó chết nào? Tao đã bỏ thuốc từ lâu rồi. Mày xin thuốc hút mà la lối như vậy thì chó nào mà cho. Nếu mày dễ thương nói năng có lễ độ thì họa may tao cũng tìm cách kiếm thuốc cho mày. Anh bên kia nghe như vậy thì ngưng đập phá. Jarvis tuy đã bỏ thuốc lâu rồi nhưng vẫn còn giữ một gói thuốc rê. Anh tính cho, nhưng anh nghĩ là chỉ nên cho một chút ít thôi. Anh lấy ra một tờ giấy, gói lại một phần nhỏ của gói thuốc rồi chuyền qua cho người bạn tù. Tờ giấy anh ta dùng để gói thuốc là một tờ photocopie trang đầu của sách Being Peace mà tác giả là Nhất Hạnh. Chính nhờ nhận được từ ngoài gởi vào một bản photocopie của sách này mà anh Jarvis mới biết thực tập thiền. Anh ta tự nói là nếu mình gởi cho anh chàng kia trang một, có thể nó sẽ đọc và sẽ hưởng được chút ít pháp bảo. Anh bạn tù bên kia có vẻ rất sung sướng khi nhận được gói thuốc của Jarvis. Ba bốn ngày sau Jarvis chuyền qua một ít thuốc nữa và dùng trang thứ hai của sách Being Peace để gói. Rốt cuộc ước mơ của Jarvis đã thành tựu, vì khi đã chuyền hết cả cuốn sách qua rồi thì anh bạn tù trở nên rất im lặng dễ thương, vì anh cũng đang thực tập thiền ở khám bên kia. Từ đó về sau phòng tù bên phải của Jarvis rất yên, vì người kia không những đã nhận được thuốc, được tình thương mà còn nhận thêm giáo lý trong sách Being Peace nữa. Sau đó mấy tháng anh kia được thả. Ngày được phóng thích anh đi qua và dừng lại để cám ơn Jarvis. Hai người, một người ở trong, một người ở ngoài, cùng đọc lên một câu trong sách Being Peace: If you are peaceful, if you are happy, if you can smile, then everyone in our family in our entire society will benefit from our peace (Nếu anh tĩnh lặng, hạnh phúc, nếu mà anh có thể mỉm cười thì tất cả mọi người ở trong gia đình của anh và ở trong xã hội của anh đều được thừa hưởng sự tĩnh lặng và hạnh phúc của anh). Hai bên dị khẩu đồng âm cùng đọc lớn lên câu đó vì cả hai đều thuộc nằm lòng câu kia, trước con mắt ngơ ngác và thán phục của những người cai tù. Cuốn sách của Jarvis viết nhan đề là Finding Freedom: writngs from Death row, do nhà xuất bản Padma Publishing ấn hành năm 1997.

Chúng ta đã biết Địa Tạng không phải là một nhân vật thần thoại, Địa Tạng có thật bây giờ và có thể đang ở trong tù để giúp những người bạn tù. Do đó chúng ta không nên phí thì giờ vào những chuyện vô ích không đâu vì chúng ta có thể đóng vai của bồ tát Địa Tạng ngay bây giờ và ở đây, đưa cánh tay ra mà tiếp xúc với những khổ đau không bờ không bến trong những địa ngục đang có mặt ở khắp nơi trên thế giới.

______________________________
(Pháp thoại ngày 15 tháng giêng năm 1998 tại Xóm Mới
___________
Quán Nguyện

Lạy đức Bồ Tát Quan Thế Âm, chúng con xin học theo hạnh Bồ Tát, biết lắng nghe cho cuộc đời bớt khổ. Ngài là trái tim biết nghe và biết hiểu. Chúng con xin tập ngồi nghe với tất cả sự chú tâm và thành khẩn của chúng con. Chúng con xin tập ngồi nghe với tâm không thành kiến. Chúng con xin tập ngồi nghe mà không phán xét, không phản ứng. Chúng con xin nguyện ngồi nghe để hiểu. Chúng con xin nguyện ngồi nghe chăm chú để có thể hiểu được những điều đang nghe và cả những điều không nói. Chúng con biết chỉ cần lắng nghe thôi, chúng con cũng đã làm vơi bớt rất nhiều khổ đau của kẻ khác rồi.

Lạy đức Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, chúng con xin học theo hạnh Bồ Tát, biết dừng lại và nhìn sâu vào lòng sự vật và vào lòng người. Chúng con xin tập nhìn với tất cả sự chú tâm và thành khẩn của chúng con. Chúng con xin tập nhìn với con mắt không thành kiến. Chúng con xin tập nhìn mà không phán xét, không phản ứng. Chúng con nguyện tập nhìn sâu để thấy và để hiểu những gốc rễ của mọi khổ đau, để thấy được tự tánh vô thường và vô ngã của vạn vật. Chúng con xin học theo hạnh Bồ Tát, dùng gươm trí tuệ để đoạn trừ phiền não, giải thoát khổ đau cho chúng con và cho mọi giới.

Lạy đức Bồ Tát Phổ Hiền, chúng con xin học theo hạnh nguyện của Bồ Tát, biết đem con mắt và trái tim đi vào cuộc sống. Chúng con xin nguyện buổi sáng dâng niềm vui cho người, buổi chiều giúp người bớt khổ. Chúng con biết hạnh phúc của người chính là hạnh phúc của mình và nguyện thực hiện niềm vui trên con đường phụng sự. Chúng con biết mỗi lời nói, mỗi cái nhìn, mỗi cử chỉ và mỗi nụ cười đều có thể đem lại hạnh phúc cho người. Chúng con biết rằng, nếu chúng con siêng năng tu tập, thì tự thân chúng con có thể là một nguồn an lạc bất tuyệt cho những người thân yêu của chúng con và cho cả muôn loài.

Lạy đức Bồ Tát Địa Tạng, chúng con xin theo hạnh Bồ Tát, tìm cách có mặt ở bất cứ nơi nào mà bóng tối, khổ đau, tuyệt vọng và áp bức còn đang trấn ngự, để có thể mang đến những nơi ấy ánh sáng, niềm tin, hy vọng và giải thoát. Chúng con nguyện không bao giờ quên lãng và bỏ rơi những người còn đang bị kẹt trong những tình huống tuyệt vọng, nguyện cố gắng thiết lập liên lạc với những ai đang không còn bị lối thoát, những ai bị bưng bít không có phương tiện lên tiếng kêu gọi công bình, nhân phẩm và quyền được làm người. Chúng con biết địa ngục có mặt khắp nơi trên thế giới và chúng con nguyện sẽ không bao giờ tiếp sức xây dựng thêm những địa ngục trần gian như thế; trái lại, chúng con xin nguyện nỗ lực giải trừ những địa ngục còn đang có mặt. Chúng con nguyện tu học để đạt được đức vững chãi và kiên trì của Đất, để có thể được trung kiên và không kỳ thị như Đất, và cũng được như Đất có thể làm nơi nương tựa cho tất cả những ai cần đến chúng con.

Hành trì sám hối và phát nguyện

Buổi công phu chiều Chủ nhật trong sách Nhật Tụng Thiền Môn Năm 2000 bắt đầu bằng bài tụng Sám Nguyện. Sám Nguyện gồm có hai phần là sám hối và phát nguyện. Sám nghĩa là làm mới trở lại, bắt đầu trở lại, cam kết rằng ta sẽ không làm như ngày xưa nữa, sẽ không gây ra thêm những lỡ lầm và vụng dại như đã gây ra trong quá khứ. Sám được dịch là bắt đầu trở lại, làm mới trở lại. Nguyện nghĩa là quyết tâm không làm những điều đã từng gây ra đổ vỡ, và quyết tâm làm những điều có thể hàn gắn, thay đổi và đưa tới sự chuyển hóa, gây an lạc cho ta và cho người khác. Nguyện là mong ước, là quyết tâm thực hiện được điều ta mong ước. Mong ước nối lại tình thâm, làm mới và chuyển hóa những khổ đau, tạo ra hạnh phúc. Trong khi tụng bài Sám Nguyện, ta có thể đi ngang qua một quá trình chuyển hóa, tại vì tụng bài này không phải là để cầu xin một đấng tối cao làm cho chúng ta những điều mà ta không làm được. Bài tụng này sẽ hướng dẫn cho chúng ta thực tập. Chúng ta sẽ thấy rằng đây là ánh sáng chiếu vào tự thân và vào hoàn cảnh hiện tại của ta để ta thấy rõ được tình trạng. Khi đã thấy được hiện tại và đã có tuệ giác thì ta biết được con đường đi, tức là biết nên làm gì và không nên làm gì để có thể bắt đầu làm mới. Chúng ta luôn bắt đầu trở lại, nhất định không chịu thua. Bài tụng này là một cơ hội để chúng ta rọi ánh sáng chánh niệm vào tự thân và hoàn cảnh để thấy được những vụng dại và những lỡ lầm trong quá khứ của chính ta. Ta sẽ thấy được con đường tương lai của ta, một con đường trên đó ta sẽ không lặp lại những lỗi lầm và vụng dại ngày xưa. Đây là sự thực tập và ta đừng nghĩ rằng đây là lời cầu xin đối với các đấng thần linh. Sám là công nhận với bản thân là ta đã có những hành động vụng dại, thiếu chánh niệm vì thế đã gây nên đổ vỡ. Nguyện là mong muốn quyết tâm hành động để thay đổi. Bài Sám Nguyện được bắt đầu bằng một đoạn sáu câu giúp ta có thể quán tưởng, hình dung ra một khung cảnh thuận lợi cho sự thực tập sám và nguyện. Đó là khung cảnh mà trong đó chúng ta có thể thiết lập được sự truyền thông:

Trang nghiêm đài sen ngự tọa
Đại hùng từ phụ Thích Ca
Đệ tử lắng lòng thanh tịnh
Bàn tay chắp thành liên hoa
Cung kính hướng về Điều Ngự
Dâng lời sám nguyện thiết tha.

Chúng ta quán tưởng đức Thích Ca đang ngồi trên tòa sen. Có bàn thờ hoặc không có bàn thờ, có tượng Bụt hoặc không có tượng Bụt thì ta vẫn quán tưởng được. Đức Thích Ca đối với chúng ta như là một vị thầy, một vị cha tinh thần đầy thương yêu nên ta gọi là từ phụ. Người cha lành ấy có rất nhiều sức mạnh, sức mạnh của trí tuệ, của thương yêu và hiểu biết, chứ không phải là sức mạnh của quyền bính hay tiền bạc. Sức mạnh của đức Từ Phụ đã phát sinh từ hiểu biết và thương yêu lớn, từ sự không sợ hãi khổ đau và lỗi lầm. Sức mạnh này giúp ta biết là ta có thể vượt được khổ đau và lỗi lầm, sẽ không bị chết đuối trong đại dương của đau khổ. Đó gọi là đại hùng, là can đảm lớn. Chúng ta thường ca ngợi Bụt Thích Ca là bậc đại hùng, đại lực và đại từ bi. Chúng ta quán tưởng Đức Thích Ca hiện đang ngự tọa trên một đài sen đẹp, trang nghiêm có nghĩa là đẹp. Đài sen đó là đài sen trong trái tim chúng ta và đức Thích Ca cũng đang ngự tọa trên đài sen ấy. Ngồi bên cạnh đức Thích Ca có một vị Bụt khác cũng đang ngồi trên tòa sen, như trong kinh Pháp Hoa, Bụt Đa Bảo đang ngồi trên tòa sen và xích ra một bên để mời đức Thích Ca cùng ngồi. Hai Bụt ngồi chung. Trong trái tim ta hiện giờ cũng có hai Bụt ngồi chung, đó là Bụt Thích Ca và Bụt của chính ta, tại vì trong mỗi chúng ta đều có sẵn một vị Bụt tương lai. Tất cả chúng sanh đều là Bụt tương lai. Hai vị Bụt là một, không phải ở trong mà cũng không phải ở ngoài. Chúng ta siêu việt ý niệm trong và ngoài. Bụt Thích Ca chính là Bụt của ta, Bụt của ta chính là Bụt Thích Ca. Tọa là ngồi, ngự là chỉ sự có mặt của những bậc đại nhân, như vua hay Bụt. Khi có chánh niệm thì ta cũng đang ngự, ngự trên một tảng đá, một bãi cỏ hay trên chiếc gối ngồi thiền của ta, ngồi một cách rất đẹp đẽ, uy hùng.

Đệ tử lắng lòng thanh tịnh

Nhờ quán tưởng như vậy mà tâm ta lắng xuống, không còn bận rộn bởi những lo âu, thổn thức và giận hờn. Tâm tư ta an tịnh trở lại. Lắng lòng tức là có sự bình an, trong lòng không dậy sóng. Lắng lòng thanh tịnh là cả một sự thực tập. Chúng ta ngồi thiền, tụng kinh, thực tập hơi thở chánh niệm và lễ Bụt là để lắng lòng thanh tịnh. Tất cả những sự thực tập đó là để trái tim chúng ta lắng xuống, thanh tịnh lại. Làm cho êm dịu lại, tập trung lại, đó là chỉ, là samatha.

Gần Wasington DC, tại Oakton, có một trung tâm thực tập chánh niệm (Mindfulness Practice Center) nằm ngay trong thành phố. Các vị giáo thọ bên đó cho biết là mỗi khi họ tổ chức một khóa tu ở xa thành phố thì thiền sinh phải lái xe ra khỏi thành phố và đi khoảng một hai giờ đồng hồ mới tới địa điểm của khóa tu. Từ chỗ đậu xe đi vào khóa tu để ghi tên họ phải đi bộ. Khi tới được chỗ khóa tu thì tâm của họ đã lắng lại được nhiều rồi, họ đã rũ bỏ bớt được một số những lo âu phiền muộn. Họ chứng nghiệm được một ít ly sinh hỷ lạc, nghĩa là đã rời bỏ được một ít những phiền muộn trên con đường từ thành phố tới khóa tu. Những bụi bặm trong tâm đã rơi rớt ở dọc đường trong hai giờ lái xe và trong lúc đi bộ, nhờ đó cho nên khi tới nơi tâm họ đã lắng lại, đã thanh tịnh được khá nhiều. Nhưng tại MPC, Trung Tâm Thực Tập Chánh Niệm trong thành phố, thiền sinh đi thẳng từ cửa xe vào ngay trong thiền đường. Sự căng thẳng của thân thể cũng như sự căng thẳng của tâm hồn còn nhiều, vì thế họ mang vào trong thiền đường rất nhiều bụi bặm của tâm. Khi đang ngồi trong thiền đường mà có chừng năm người như vậy đi vào thì ta thấy không khí đột nhiên trở nên nặng nề ra một cách rõ ràng. Chúng ta phải thực tập lắng lòng thêm, họ cũng thực tập lắng lòng thêm thì trong vòng mười hay mười lăm phút sau, không khí thiền đường mới nhẹ ra như trước được. Tôi có đề nghị là khi tổ chức một trung tâm tu học ta phải làm thế nào để cho thiền sinh đậu xe xa thiền đường. Đậu xe rồi thiền sinh sẽ được hướng dẫn đi thiền hành ngay trên con đường từ bãi đậu xe đến thiền đường. Đi bộ thong thả theo kiểu thiền hành chừng mười lăm phút thì họ đã làm rơi rụng ở dọc đường khá nhiều những bụi bặm của cuộc sống hàng ngày, những lo lắng, những sự căng thẳng trong thân tâm họ. Con người ta nhẹ ra và ta không làm phiền đến những người đang ở trong thiền đường. Quý vị nào đang thiết kế tổ chức một trung tâm tu học, thì nên nghĩ tới điều này, rất quan trọng.

Lắng lòng thanh tịnh là để cho những bụi bặm của phiền não, của sự căng thẳng rơi rụng bớt và tâm ta yên lại. Khi tâm đã thanh tịnh thì ta mới có định và mới tiếp xúc được với đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn ở trên bàn thờ và đức Thế Tôn ở ngay trong lòng chúng ta.

Đệ tử lắng lòng thanh tịnh
Bàn tay chắp thành liên hoa

Khi chắp tay lên, hai bàn tay của chúng ta trở thành một đóa sen. Bao nhiêu chuyện quá khứ, tương lai, và dự án đều được bỏ đi hết. Chúng ta trở về đối diện với chính mình, với đức Thế Tôn. Đó là sự thực tập. Chúng ta thực tập buông bỏ trong khi chúng ta tụng mười hai chữ ấy với hai bàn tay chắp thành liên hoa. Chúng ta làm thành búp sen và dâng lên đức Thế Tôn một đóa hoa đàng hoàng chứ không phải dâng lên một lò lửa. Chúng ta có được đóa sen đó là do sự thực tập lắng lòng mà có. Nhờ sự thực tập mà lò lửa đã biến thành hoa sen. Lò lửa biến thành đóa sen hồng, liên phát lô trung, là một hình ảnh trong thi ca Phật giáo, bông sen phát sinh từ lò lửa. Chúng ta có một lò lửa ở trong tâm nhưng cũng có một đóa sen thật tươi, thật mát trong tâm. Nếu ta biết thở và biết đi thiền hành thì lò lửa sẽ biến thành hoa sen. Đóa sen của trái tim này không héo được, vì nó không phải được mua ở ngoài chợ hay là hái ở hồ, đóa sen này sinh ra từ sự thực tập của chúng ta. Đóa sen đó làm bằng sự lắng lòng thanh tịnh. Khi muốn có một đóa sen để dâng cúng đức Thế Tôn thì chúng ta liền có.

Đệ tử lắng lòng thanh tịnh
Bàn tay chắp thành liên hoa
Cung kính hướng về Điều Ngự
Dâng lời sám nguyện thiết tha

Điều Ngự là một danh hiệu của Bụt, nói đủ là Điều Ngự Trượng Phu. Trượng Phu là loài người, Bụt có khả năng điều phục con người trong đó có những thành phần cứng đầu, hung dữ, khó trị.

Bài tụng này là về sám và về nguyện, là một cuộc đối thoại giữa chúng ta và đức Thế Tôn. Vì vậy sáu câu tụng đầu tiên này là để giúp chúng ta tạo ra được khung cảnh trang nghiêm và thanh tịnh trong đó sự đối thoại giữa chúng ta với đức Thế Tôn có thể bắt đầu được tự nhiên và dễ dàng. Ngay sáu câu đầu chúng ta đã phải thực tập cho thành công. Đó là khả năng của quán tưởng. Chúng ta quán tưởng có tòa sen, có đức Từ Phụ đang ngồi. Sự quán tưởng đó tạo ra sự thanh tịnh của trái tim, và búp sen này chính là trái tim của chúng ta để dâng lên đức Từ phụ.

Đoạn thứ hai của bài là một đoạn sám. Đây là đoạn sám đầu nên chúng ta có thể đánh dấu S1 (sám một). Trong đoạn này chúng ta sám tổng quát, chúng ta nhìn lại tổng quát rồi sau đó chúng ta sẽ nhìn lại những chi tiết trong những đoạn sám khác.

Đệ tử phước duyên thiếu kém
Sống trong thất niệm lâu dài
Không được sớm gặp chánh pháp
Bao nhiêu phiền lụy đã gây
Bao nhiêu lỡ lầm vụng dại
Vô minh che lấp tháng ngày
Vườn tâm gieo hạt giống xấu
Tham, sân, tự ái dẫy đầy
Những nghiệp sát, đạo, dâm, vọng
Gây nên từ trước đến nay
Những điều đã làm, đã nói
Thường gây đổ vỡ hàng ngày.
Bao nhiêu não phiền nghiệp chướng
Nguyện xin sám hối từ đây.

Đó là sự thực. Sự thực là chúng ta thiếu phước và thiếu duyên cho nên đã được gặp chánh pháp và đức Thế Tôn hơi trễ. Gặp trễ là vì phước còn ít. Duyên là những điều kiện thuận lợi đưa chúng ta tới chánh pháp. Chúng ta đã thiếu duyên rồi lại còn thiếu phước nữa. Vì thiếu duyên thiếu phước nên ta đã sống trong thất niệm một thời gian khá lâu. Chúng ta đã ngủ một giấc ngủ khá lâu, một giấc ngủ dài có thể từ năm này sang năm khác, hay là từ kiếp này sang kiếp khác. Cho đến khi được gặp chánh pháp thì giấc mơ đã quá dài, và trong giấc mơ thất niệm đó bao nhiêu lỡ lầm vụng dại đã được tạo ra, gây đau khổ cho chúng ta và cho bao nhiêu người khác. Cái không may của chúng ta là thiếu phước và thiếu duyên không gặp được chánh pháp. Ta nhận thấy rõ ràng nguyên do sâu xa nhất của đau khổ là thất niệm. Phiền lụy là phiền não và hệ lụy. Phiền não là những tâm tư đốt cháy con người và làm cho chúng ta điêu đứng như tham dục, giận hờn, si mê, ganh tỵ, sợ hãi, lo lắng và buồn phiền. Hệ lụy là những hoàn cảnh khó gỡ, những tình huống chìm đắm, vướng mắc, không thoát ra được. Hệ lụy là bị kẹt. Phiền não là những tâm hành trói buộc.Vụng dại là không khôn khéo. Dù ta không có ác ý làm cho người kia khổ, không muốn làm cho tự thân ta khổ nhưng vì vụng dại ta đã vẫn gây nên đổ vỡ. Ta không biết cách hành xử, nói năng khéo léo, chưa biết dùng lời ái ngữ cho nên đã làm đổ vỡ và gây khổ đau cho ta và cho những người khác. Lỡ lầm là những điều sai lạc ta đã làm, có khi biết là không nên làm nhưng mà vẫn cứ làm. Ai cũng vậy, ai cũng đã có những lần lầm lỡ. Bây giờ đây, trong khi tụng đọc đoạn này, ta công nhận một cách tổng quát rằng trong quá khứ ta đã có những lầm lỡ và những vụng dại.

Vô minh che lấp tháng ngày

Cái gốc của tất cả những lỡ lầm, vụng dại là vô minh, nghĩa là sự thiếu sáng suốt. Vô minh cũng là thất niệm, là bóng đêm, là sự thiếu thốn ánh sáng. Minh là ánh sáng, vô là không. Chúng ta đã sống trong bóng tối, đã sống không chánh niệm và đã bước những bước vấp ngã. Chúng ta đã để bóng tối bao trùm ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác.

Vườn tâm gieo hạt giống xấu
Tham sân tự ái dẫy đầy

Trong tự thân của mỗi chúng ta đều có một khu vườn với cây lành trái ngọt. Vì vô minh chúng ta đã để cho những hạt giống xấu rơi xuống vườn tâm và mọc lên quá nhiều gai góc khổ đau. Ta đọc sách, tiểu thuyết, coi ti vi, chuyện trò, giải trí và để cho vườn tâm của ta bị xâm chiếm bởi những độc tố và phiền não. Máy vô tuyến truyền hình được chúng ta tiêu thụ mỗi ngày nhiều giờ. Con cháu chúng ta còn tiêu thụ nhiều hơn. Trong thời gian đó những hạt giống xấu của những chương trình kia đi vào trong tâm thức của trẻ thơ và của chúng ta, những hạt giống bạo động, căm thù và thèm khát cứ tiếp tục được gieo và tưới tẩm. Ta không biết giữ khu vườn của ta, không biết thực tập Năm giới, cứ để vườn tâm gieo hạt giống xấu. Đó là chuyện đang xảy ra cho hàng triệu người trên thế gian. Là người có tu học ta không nên cho phép những hạt giống xấu đó gieo vào ruộng tâm thức của mình. Ta phải là những người làm vườn có ý thức. Tham, sân và tự ái là ba trong những hạt giống xấu nhất.

Những nghiệp sát, đạo, dâm, vọng
Gây nên từ trước đến nay

Trong quá khứ, ta cũng đã gây ra những lỗi lầm, những nghiệp xấu. Cha ăn mặn thì con khát nước, điều này cũng nằm trong lý nhân quả. Cha với con không phải là hai, cha với con cùng thuộc về một dòng sống liên tục, cha làm lành thì con được hưởng, cha làm dữ thì con cũng lãnh hậu quả. Những gì tổ tiên đã làm thì chúng ta thừa tự. Trong quá khứ những nghiệp sát, đạo, dâm, vọng đã được tạo ra. Sát nghĩa là giết hại, giết hại con người và những loài khác. Đạo là tham lam, trộm cướp, sử dụng và chiếm hữu những cái không phải của mình làm ra, giành quyền lợi cho riêng mình và để cho những người khác đói khổ. Không phải chỉ trong kiếp này mà trong những kiếp trước chúng ta đã có những hành động sát, đạo, dâm và vọng. Dâm tức là tà dâm, những liên hệ tà dục tạo ra sự đổ vỡ trong gia đình, làm khổ người kia, làm tan nát đời người kia và làm tan nát chính đời mình. Có thể ông bà cha mẹ của ta đã từng làm điều đó và bây giờ ta lãnh hậu quả. Vọng là nói dối, nói thêu dệt. Lời nói dối cũng có thể giết người được, cũng có thể làm cho người ta đau khổ đến phải đi tự tử. Phần lớn khổ đau được gây ra do cái miệng. Giữ gìn được cái miệng thì hạnh phúc tăng tiến rất lớn. Trong quá khứ ta đã từng gây nghiệp vọng ngữ, đã nói năng không khéo léo, đã vụng dại gây ra những xáo trộn, nghi ngờ, đã nói những điều không cần thiết làm mất niềm tin. Tu học với nhau ta phải sử dụng chánh niệm trong lúc nói năng. Riêng chuyện giữ gìn được cái miệng và đừng bao giờ nói ra một câu nói ác ngữ đã có thể đem lại hạnh phúc nhiều lắm rồi. Chúng ta hãy thực tập nói những câu chuyện xây dựng, tạo thành những niềm vui.

Những điều đã làm đã nói
Thường gây đổ vỡ hàng ngày
Bao nhiêu não phiền nghiệp chướng
Nguyện xin sám hối từ đây

Những điều đã làm đã nói gây đổ vỡ là chuyện thường xảy ra. Chúng ta muốn thương yêu, muốn cho người kia có hạnh phúc, nhưng chúng ta vẫn nói và vẫn làm những điều làm cho người đó đau khổ liên miên. Chúng ta gây ra đổ vỡ. Liên hệ giữa ta với người kia càng ngày trở nên khó khăn. Khó khăn là do chúng ta đã nói và làm không chánh niệm. Ta đã gây ra những phiền não cho chính mình và cho những người khác. Những chướng ngại đó bít lấp sự truyền thông làm mất đi hạnh phúc trong đời sống hàng ngày. Ta nhận diện tất cả những thiếu kém, vụng dại, lỡ lầm, vô minh, nghiệp chướng và đổ vỡ. Nhận rõ chúng là nguyên do của khổ đau, ta sám hối với đức Thế Tôn và nguyện không làm như vậy nữa từ giờ phút này.

Bây giờ chúng ta đi sang phần kế tiếp gọi là S2. Đoạn này quán chiếu về liên hệ giữa ta và người khác. Phần lớn khổ đau của ta phát sinh từ liên hệ giữa ta với người thân và những người chung quanh ta. Người đó có thể là bạn hôn phối của ta hay là con của ta, hoặc cha, mẹ, anh, chị, em, thầy, hay là huynh đệ của ta. Đó là liên hệ giữa người và người.

Đệ tử thấy mình nông nổi
Con đường chánh niệm lãng xao
Chất chứa vô minh phiền não
Tạo nên bao nỗi hận sầu;

Nông nổi là sống cạn cợt, không tuệ giác, không tiếp xúc sâu sắc trong từng giây phút của đời sống hàng ngày, nghĩa là không có năng lượng của chánh niệm. Ta đã không có chánh niệm khi nhìn, nghe, nói và làm việc trong đời sống hàng ngày. Lãng xao là quên lãng, là không duy trì chánh niệm, không thực tập miên mật. Vì sống trong thất niệm lãng quên như vậy cho nên trong mỗi giây phút ta đều chất chứa thêm vô minh và phiền não, tạo ra thêm những nỗi oán hận và sầu đau cho ta và cho người khác. Hận là sự giận hờn, sự oán thù, và sầu là nỗi buồn đau của ta và của người kia.

Có lúc tâm tư buồn chán
Mang đầy dằn vặt lo âu

Có những lúc tâm tư ta bị tràn ngập bởi cái buồn và cái chán. Buồn vì không thấy niềm vui trong sự sống, ta sinh ra chán nản không còn nghị lực để đi tới. Buồn và chán là những năng lượng tiêu cực làm ta khổ đau và không còn muốn sống. Sự liên hệ giữa ta và người kia đã trở nên quá xấu, quá khó khăn và ta cảm thấy bất lực. Ta thấy hết hy vọng và tự thấy không có khả năng sống hạnh phúc nữa. Tâm tư ta buồn và chán. Chán ở đây cũng có nghĩa là hết hy vọng, muốn bỏ cuộc. Dằn vặt là hối hận, thứ hối hận không có ích lợi. Trong 51 tâm sở có tâm sở gọi là hối. Tâm sở hối này là một tâm sở bất định, vì nó có thể hoặc tốt hoặc xấu. Hối có thể là một tâm sở thiện hoặc một tâm sở bất thiện. Nó là tâm sở thiện khi nó có nghĩa là sám, là khả năng nhận diện được những lỗi lầm và quyết tâm sẽ không lặp lại. Còn nếu chỉ là mặc cảm tội lỗi đeo sát mình làm cho ta mất hết năng lượng thì nó là một tâm sở bất thiện. Mặc cảm tội lỗi làm cho ta không còn năng lượng để tu tập. Dằn vặt ở đây là sự đau khổ gây ra do mặc cảm tội lỗi. Dằn vặt là sự dày vò. Ta bị dằn vặt bởi những lỗi lầm trong quá khứ mà không vượt thoát lên được, không làm mới lại được. Lo âu cũng là một tâm hành xấu gọi là ưu. Ta sợ hãi về tương lai, ta sợ rằng những cái không tốt đẹp, không hạnh phúc sẽ xảy ra cho ta mà ta không biết làm sao để có thể ngăn chúng xảy ra. Vì không biết cách làm mới, không biết cách chuyển hóa nghiệp cũ cho nên ta cứ mãi sống trong lo âu.

Vì không hiểu được kẻ khác
Cho nên hờn giận oán cừu

Không hiểu được tức là không thấy được những khó khăn, những khổ đau và ước vọng của người kia. Theo giáo lý Bụt dạy, ta chỉ có thể thương khi ta đã hiểu. Hiểu biết là chất liệu cho thương yêu. Ta chưa bao giờ có thì giờ để nhìn kỹ người kia để hiểu được những khó khăn, những tập khí của người ấy. Ta không thấy được môi trường giáo dục và sinh hoạt gia đình của người ấy trong quá khứ cho nên ta mới giận hờn, buồn bực người ấy về những gì người ấy đã nói, đã làm, đã phản ứng. Muốn thương ta phải thấy và phải hiểu những khó khăn, những khổ đau và những tập khí của người ta thương. Ta phải quán chiếu để thấy tại sao người ấy có những khó khăn, những khổ đau, những tập khí đó và khi hiểu rồi thì ta có thể chấp nhận được, và ta sẽ không còn phản ứng một cách giận dữ nữa. Người kia cũng vậy, vì không hiểu được ta nên cũng đã hờn giận và oán cừu. Vì vậy thương nhau trước hết là hiểu nhau. Phải cùng nhau tu tập, phải nhờ tăng thân soi sáng để có thể hiểu được nhau. Thực tập được như vậy thì ta chấp nhận được nhau và tha thứ cho nhau rất dễ.

Lý luận xong rồi trách móc
Mỗi ngày mỗi chuốc khổ đau
Chia cách hố kia càng rộng

Đó là cái vòng luẩn quẩn trong liên hệ giữa ta với người kia. Ta thường hay lý luận để đổ lỗi cho người ấy. Ta lý luận rất hay nhưng lý luận không đưa tới kết quả gì. Vậy mà ta vẫn tiếp tục lý luận. Ta chỉ muốn dùng lý luận để giải quyết liên hệ giữa ta với người kia, dù ta biết lý luận chỉ làm cho cái hố ngăn cách giữa hai bên càng ngày càng rộng. Chúng ta phải tự nói với mình là hãy chấm dứt lý luận. Ta đã lý luận bao nhiêu năm rồi mà không thành công. Chỉ có chấp nhận và tha thứ mới có thể giúp ta thay đổi và giúp được người kia. Nếu ta chuyển hóa được thì ta sẽ bớt khổ đi nhiều lắm và người kia cũng nhờ đó mà bớt khổ. Cho nên ta quyết tâm là không lý luận nữa, và nhất là không trách móc. Muốn chuyển hóa liên hệ giữa ta với người kia, muốn thiết lập lại sự truyền thông, ta phải quyết tâm bỏ cái phương pháp lý luận và trách móc. Đó cũng là một trong năm điều nguyện ước trong nghi thức đám cưới của sách Nghi Thức Tụng Niệm Đại Toàn. “Chúng con nguyện tự nhắc nhở rằng sự trách móc, sự hờn giận và lý luận chỉ làm hao tổn hòa khí và không giải quyết được gì. Chúng con biết chỉ có sự hiểu biết và lòng tin cậy mới bồi đắp được hạnh phúc và sự an lạc.” Đó điều ước nguyện thứ tư. Không phải những người đang cưới nhau mới cần phát nguyện như vậy. Là những người sống chung với nhau, muốn có hạnh phúc, chúng ta cũng phải làm giống hệt như vậy. Không lý luận, không trách móc nữa vì mỗi lần lý luận, mỗi lần trách móc là mỗi lần tạo thêm khổ đau. Sở dĩ cái hố chia cách càng ngày càng rộng là vì lý luận và trách móc.

Có ngày không nói với nhau
Cũng không muốn nhìn thấy mặt
Gây nên nội kết dài lâu;

Điều này xảy ra rất thường. Thấy cái mặt dễ ghét quá, ta không muốn nói và không muốn nhìn nữa. Ta đã có nội kết với nhau. Trước kia ta đã nguyện thương yêu nhau, sống chung với nhau, chia xẻ tất cả với nhau, nhưng giờ đây cả hai không còn muốn nhìn thấy mặt nhau nữa, không muốn nói chuyện với nhau nữa. Đó là vì chúng ta đã gây quá nhiều khổ đau cho nhau. Rồi vì khổ đau quá nhiều nên ta có khuynh hướng trách móc, đổ lỗi cho nhau. Tôi khổ quá và tôi nghĩ rằng tất cả những cái khổ của tôi là do anh gây ra cho nên tôi ghét, tôi thù anh. Người kia cũng vậy. Sự chán ghét được thể hiện rõ ràng trên nét mặt mỗi người, vì vậy không muốn nhìn mặt nhau là điều tất nhiên. Nhìn nhau mà không hạnh phúc thì ta đâu muốn nhìn nữa. Không biết sử dụng ái ngữ nên khi nói với nhau ta cũng không có hạnh phúc và do đó ta không muốn nói nữa. Hai người cùng thầm lặng đồng ý với nhau là nên cùng nhìn về phía máy vô tuyến truyền hình cho đỡ khổ. Có một nhà văn Pháp tên là Antoine de Saint Exupery nói: ỀThương nhau không phải là nhìn nhau mà là cùng nhìn về một hướng.” Nhưng khi cả hai đều nhìn về hướng vô tuyến truyền hình và không muốn nhìn nhau nữa tức là tình trạng đã trở nên quá khó khăn. Đó là thảm kịch của không biết bao nhiêu gia đình. Có một phóng viên của tờ báo Elle, một tờ báo của phụ nữ tại Paris, tới Làng Mai sống một thời gian với các sư cô để học về phương pháp thực tập. Báo Elle bán rất chạy trong giới phụ nữ Pháp. Tôi có gặp vị ký giả này và đề nghị bà nên viết một bài thực tập để giúp cho phụ nữ Pháp. Tôi đề nghị rằng ở phòng khách của gia đình, trong khi bà với ông đang nhìn máy truyền hình, tức là cùng nhìn về một hướng, bà hãy quay về phía ông, nhìn ông và nói: “Này anh yêu của em! Anh có thể tắt cái máy truyền hình vài phút không? Em có một vài chuyện cần muốn nói với anh.” Bà phải bắt đầu sự thực tập. Cố nhiên là ông sẽ tắt máy truyền hình vì bà đã nói một cách dịu dàng khác với thường ngày. Bấy giờ, trong sự yên lặng bà nhìn ông và hỏi: “Này anh, chúng ta có phải là một cặp có hạnh phúc không?” Câu hỏi đó đã có thể được gọi là thiền rồi. Thiền là can đảm nhìn vào sự thật để tìm ra nguyên do của sự thật đó. Nhìn trực tiếp, không sợ hãi. Nhìn lại thì thấy hai vợ chồng có nhà, có xe, có tủ lạnh, có trương mục tiết kiệm, có đủ thứ, mỗi tuần có thể đi ăn tiệm một hai lần, có thể đi coi hát, vậy mà tại sao họ không có hạnh phúc? Tại vì sự liên hệ giữa hai vợ chồng đã hư xấu mất rồi, đã chứa đầy những khổ đau. Họ đã làm khổ cho nhau, đã gieo vào trong khu vườn của nhau những hạt giống rất xấu. Vì nhìn nhau và nói với nhau không có hạnh phúc cho nên cả hai phải cùng nhìn vào cái máy truyền hình cho đỡ khổ. Người đàn bà có thể hỏi một câu hỏi như thế. Này anh, chúng ta còn trẻ, chúng ta có nhiều điều kiện hạnh phúc, nhưng có thật là ta đang có hạnh phúc hay không? Nếu chúng ta không có hạnh phúc là tại vì sao? Hai chúng ta hãy thử quán chiếu lại để tìm ra những nguyên nhân của tình trạng. Nếu cả hai đồng ý rằng câu chuyện này quan trọng hơn việc coi truyền hình thì họ trở thành một cặp gọi là đồng minh trong chuyến đi tìm sự thật. Nếu thấy được sự thật là họ đã hành xử vụng dại với nhau, đã chỉ biết lý luận trách và móc nhau là họ đã thành công và họ có thể sám nguyện để bắt đầu làm mới. Làm như vậy tức là nhìn sâu để có được hiểu biết về sự thật. Có biết hiểu là có thể giúp nhau được. Nếu hai vợ chồng không có khả năng làm chuyện đó thì họ phải cần đến một người thứ ba, một người bạn. Một người bạn đã từng thực tập chánh niệm, đã từng thực tập thiền quán, đã từng thực tập hòa giải, sẽ giúp được cho hai vợ chồng trong việc thực tập làm mới. Người kia đóng vai trò của Bụt, vai trò của thầy, của thiện trí thức để giúp cặp vợ chồng này. Đôi khi không nhất thiết là cả hai vợ chồng cùng phải thực tập, có thể đọc xong bài báo là người đàn bà có thể tự mình thực tập, cộng với sự giúp đỡ khéo léo của một người bạn tu. Bởi vì sự chuyển hóa của chính mình sẽ dẫn đến sự chuyển hóa nơi người kia. Tự mình giác ngộ và từ sự giác ngộ đó mình giúp cho người bạn hôn phối của mình giác ngộ để hai vợ chồng có thể làm mới trở lại. Phải bắt đầu từ chính mình, phải học phương pháp lắng nghe với hiểu biết với từ bi, học phương pháp sử dụng ngôn từ hòa ái để có thể thiết lập lại truyền thông tại vì cả hai đều đã đánh mất khả năng lắng nghe và nói năng bằng ngôn ngữ từ ái.

Gây nên nội kết dài lâu

Nội kết là một khối đau khổ ở trong lòng. Nếu ta nhận diện được nội kết và thấy được nguyên do phát sinh ra nội kết thì đó đã là một sự giác ngộ rồi, và ta sẽ tiếp tục đi tới từ giác ngộ đó.

Nay con hướng về Tam Bảo
Ăn năn khẩn thiết cúi đầu.

Ăn năn là hối hận, là tâm sở thiện, là muốn làm mới. Con không muốn làm như vậy nữa, con muốn làm mới. Làm mới với tất cả trái tim của con. Con cúi đầu để phát nguyện với Bụt và với chính con rằng con muốn làm mới. Đó là kết thúc đoạn thứ ba nói về sám hối, làm mới về quan hệ giữa người với người.

Bây giờ chúng ta đi tới đoạn thứ tư có thể gọi là S3. Đoạn này có công năng giúp ta thấy được sự cần thiết của sự thực tập chánh niệm và sự nhận diện tập khí của riêng ta.

Đệ tử biết trong tâm thức
Bao nhiêu hạt tốt lấp vùi

Ban đầu ta nghĩ rằng trong ta chỉ có đau khổ, nhưng thật sự ta cũng đang có những hạt giống của hạnh phúc. Điều này rất là quan trọng. Đây là tuệ giác của Duy Biểu Học. Trong ta có những hạt giống xấu nhưng cũng có những hạt giống tốt, trong đó có hạt giống của đại từ, đại bi, đại hùng và đại lực.

Hạt giống thương yêu, hiểu biết
Và bao hạt giống an vui.
Nhưng vì chưa biết tưới tẩm,
Hạt lành không mọc tốt tươi.

Đây là một sự giác ngộ khác. Giác ngộ rằng trong ta có hạt tốt mà trong người kia cũng có hạt giống tốt. Người kia cũng có thể hiểu, có thể thương và cũng có thể có hạnh phúc. Nhưng trong quá khứ ta chưa bao giờ tìm cách để tưới tẩm những hạt giống ấy để chúng mọc lên và đơm hoa kết trái. Và những hạt giống tốt trong ta cũng chưa được ai tưới tẩm. Chính ta cũng không biết tưới tẩm, cho nên cả hai đều đã không có hạnh phúc. Ở Làng Mai, pháp môn tưới hoa được chỉ dạy rất thường. Ta phải tưới tẩm những hạt giống tốt mà đừng tưới tẩm những hạt giống xấu nơi ta và nơi người kia. Hai bên phải ngồi lại với nhau để ký một hiệp ước, hiệp ước sống chung an lạc. Này anh yêu của em, nếu anh thương em thì xin anh đừng tưới những hạt giống xấu nơi em. Đừng tưới tẩm hạt giống ghen tuông của em, nếu không sẽ em trở thành ra một bà chằng rất khó chịu. Không những em khổ mà em sẽ làm cho anh khổ. Trái lại, xin anh tưới giùm cho em mỗi ngày những hạt giống tốt trong em, hạt giống hiểu biết và thương yêu, những hạt giống của hạnh phúc. Em cũng có thể hiểu, có thể thương, có thể có hạnh phúc và như vậy anh cũng sẽ có hạnh phúc. Phương pháp này gọi là phương pháp tưới tẩm hạt giống một cách khôn khéo (selective watering). Ta biết là ta đang tưới hạt giống nào. Mỗi cái nhìn, mỗi hành động, mỗi lời nói đều có thể có tác dụng tưới tẩm hạt giống tốt nơi người khác. Chú ý để đừng tưới tẩm những hạt giống xấu nơi người kia. Chỉ tưới tẩm những hạt giống nơi người ấy tốt thôi, ta sẽ có hạnh phúc ngay. Nếu tưới tẩm có chánh niệm thì chỉ cần một ngày hoặc hai ngày người kia cũng đã thay đổi. Tôi xin cam kết rằng tưới tẩm một giờ đồng hồ cũng đủ cho quý vị thấy được kết quả tốt. Khi trồng hướng dương, trồng bưởi, trồng quít ta phải tưới nhiều tháng nhiều năm mới có hoa trái. Nhưng người kia rất nhạy cảm, ta chỉ cần tưới một giờ hoặc hai giờ đồng hồ là ta đã có hoa trái. Chúng ta tưới hoa bằng những lời nói dịu dàng, những hành động săn sóc, bằng ánh mắt thương yêu, bằng tuệ giác của ta. Tưới hoa ở đây không có nghĩa là nịnh nọt. Đây là nói lên sự thật, nói ra những điều tốt đẹp nơi người kia. Người kia thế nào cũng có những hạt giống tốt, những tài năng và khả năng làm hạnh phúc cho người và cho mình. Ta chỉ công nhận những hạt giống đó và tưới tẩm những hạt giống đó.

Tôi nhớ có lần một cặp vợ chồng ở Bordeaux về dự Phật Đản ở đây. Trong buổi pháp thoại, tôi đã giảng về phương pháp tưới tẩm hạt giống. Bà vợ khóc, hai con mắt đỏ hoe. Sau pháp thoại và thiền hành, tôi nói riêng với ông ấy “Bông hoa của anh héo rồi, anh phải tưới mới được.” Sau lễ Phật Đản, hai vợ chồng trở về Bordeaux. Người đàn ông nghe lời thầy vừa lái xe vừa thực tập tưới tẩm. Từ Làng Mai về Bordeaux đi xe hơi chỉ cần chừng một giờ hai mươi phút. Về tới Bordeaux, người đàn bà trở thành rất tươi mát. Mấy đứa con ngạc nhiên quá vì khi mẹ đi thì héo như thế mà đến khi về thì tươi như thế. Ba đưa mẹ đi và đem về cho các con một bà mẹ rất mới, rất tươi mát và hạnh phúc. Chỉ có hơn một giờ tưới hoa thôi mà kết quả đã tốt như vậy. Ta chỉ cần nói sự thật tích cực. Ta tưới hoa cho người đó và ta cũng đồng thời phải tưới hoa cho ta. Trong khi đi thiền, ngồi thiền, nấu cơm, giặt áo, tụng kinh, niệm Bụt, lễ lạy, nghe pháp và nói chuyện chúng ta hãy tưới tẩm những hạt giống tốt của chính mình và của người khác. Mỗi khi phát hiện rằng hạt giống xấu đang được tưới tẩm và phát triển, ta phải tìm cách ngăn chặn và quay sang tưới tẩm và chăm sóc những hạt giống tốt liền lập tức. Trong ta cũng có khả năng hiểu biết, thương yêu và hạnh phúc. Ta cần phải tưới mỗi ngày. Sự tưới tẩm đó ta áp dụng cho người kia và áp dụng cho ta. Ta phải có can đảm ngăn chặn sự tưới tẩm những hạt giống xấu và ngăn chặn một cách khéo léo, bằng lời ái ngữ kèm theo sự thương yêu. Cả hai vợ chồng đều cần tưới hoa cho nhau. Bởi vì nếu người này có hạnh phúc thì người kia cũng sẽ có hạnh phúc. Cả hai bên cùng ký với nhau một hiệp ước. Ta cũng ký hiệp ước với sư chị, với sư anh, với sư em của ta. Ký hiệp ước với cha, với mẹ ta và với người bạn hôn phối của ta. Đó có phải là lời nguyện mà chúng ta đã nói trong buổi ban đầu hay không?

Cứ để khổ đau tràn lấp
Làm cho đen tối cuộc đời
Quen lối bỏ hình bắt bóng
Đuổi theo hạnh phúc xa vời
Tâm cứ bận về quá khứ
Hoặc lo rong ruổi tương lai
Quanh quẩn trong vòng buồn giận
Xem thường bảo vật trong tay
Dày đạp lên trên hạnh phúc
Tháng năm sầu khổ miệt mài.

Những câu trên đây nói về sự tu tập. Ta sống như thế nào để có hạnh phúc ngay trong giờ phút hiện tại. Đây là trái tim của sự thực tập chánh niệm. Trong quá khứ ta cứ nghĩ là hạnh phúc không thể nào có mặt trong hiện tại. Ta phải đi tìm hạnh phúc trong tương lai. Vì nghĩ rằng những điều kiện của hạnh phúc bây giờ chưa có đủ nên ta mới chạy đi tìm chúng trong tương lai. Hoặc là ta tiếc nuối quá khứ. Trong khi đó giáo lý của Bụt dạy là hiện pháp lạc trú. Nếu chúng ta trở về giây phút hiện tại để nhận diện những điều kiện hạnh phúc đang có mặt thì tự nhiên hạnh phúc tới liền lập tức. Nếu ta không có khả năng an trú trong hiện tại thì ta sẽ dày đạp lên những điều kiện của hạnh phúc đang có mặt. Ta sẽ quanh quẩn trong vòng buồn giận, xem thường bảo vật trong tay. Bảo vật tức là những điều kiện quí báu mà ta đang có, như tuổi trẻ, như hai mắt còn sáng, đôi chân còn khỏe mạnh của mình. Tất cả những cái đó đều có khả năng giúp ta có hạnh phúc. Trở về giây phút hiện tại, ta nhận ra những yếu tố của hạnh phúc đang có mặt chung quanh ta. Nếu ta nhận diện được những điều kiện hạnh phúc đang có mặt trong hiện tại thì ta sẽ không dày đạp lên trên những điều kiện hạnh phúc đó và tháng năm sẽ không sầu khổ miệt mài như trong quá khứ. Vì vậy những câu này là ánh sáng chiếu soi cho ta để ta biết chấm dứt chuyện bỏ hình bắt bóng, kẹt vào quá khứ, rong ruổi về tương lai, biết trở về với hiện tại để nhận diện hạnh phúc đang có thật trong hiện tại.

Gìờ đây trầm xông bảo điện
Con nguyện sám hối đổi thay.

Sám hối cũng có nghĩa là đổi thay, đổi thay cũng có nghĩa là sám hối. Tóm lại trong đoạn S3 này, chúng ta được học là phải thực tập như thế nào, phải làm như thế nào để không gây ra khổ đau nữa. Dùng ánh sáng chánh niệm chiếu vào để thấy rõ ràng rằng là chúng ta cần phải thực tập tưới tẩm những hạt giống tốt đẹp ở trong ta và trong người kia. Chúng ta cần phải trở về để học sống trong giây phút hiện tại, nhận diện được những điều kiện hạnh phúc đang có mặt để có thể sống theo phương pháp Bụt dạy là hiện pháp lạc cư, sống hạnh phúc ngay trong giờ phút hiện tại, không cần phải có thêm một điều kiện nào nữa. Những điều kiện chúng ta đang có là đủ để có hạnh phúc rồi.

Hai đoạn tiếp theo chúng ta gọi là N1 và N2. N tức là nguyện. Sau khi đi qua phần thực tập sám, ta đi tới phần nguyện. Trong hai đoạn này ta sẽ thấy rõ cái gì cần phải làm, ta mở lời thề nguyện cam kết với ta, cam kết với Bụt, cam kết với người kia, dầu người kia không có mặt ở đó, là ta sẽ làm theo lời nguyện này. Phần thứ nhất có thể gọi là N1 và phần thứ hai gọi là N2. Phần thứ nhất N1 chú trọng về năng lượng của tha lực và N2 chú trọng tới năng lượng của tự lực. Nguyện tức là mong ước, là quyết tâm, là cầu thỉnh. Trong phần N1 này chúng ta mong ước và cầu thỉnh Tam Bảo Bụt, Pháp và Tăng yểm trợ để chúng ta có thể làm mới được một cách hữu hiệu. Nguyện là một năng lượng rất lớn trong con người chúng ta, với năng lượng đó chúng ta có thể làm được rất nhiều chuyện. Khi ta đã thấy được con đường và quyết tâm đi trên con đường đó, trong người chúng ta sinh ra rất nhiều năng lượng. Sám có công năng làm phát sinh năng lượng của Nguyện trong ta. Thực tập sám mà năng lượng của nguyện tràn đầy trong con người thì đó là thực tập thành công.

Đệ tử tâm thành quy ngưỡng
Hướng về chư Bụt mười phương
Cùng với các vị Bồ Tát
Thanh văn, Duyên giác, Thánh hiền
Chí thành cầu xin sám hối

Sự thực tập sám hối của chúng ta được đặt trong khung cảnh của sự chứng minh, hộ niệm và nâng đỡ của chư Bụt và chư Bồ tát. Các vị Bụt và các vị Bồ tát ngày xưa cũng đã từng làm ra lầm lỡ và các vị cũng đã biết ngưng lại, làm mới và phát nguyện đi trên con đường sáng ngời. Chúng ta hôm nay cũng làm như thế. Đã từng gây ra những lầm lỡ, bây giờ chúng ta quyết định chấm dứt những lầm lỡ đó và bắt đầu làm mới. Chúng ta cũng làm như chư Bụt và chư Bồ tát ngày xưa đã từng làm, sự kiện đó đưa chúng ta lại gần Bụt và Bồ tát, vì chúng ta là đương sự. Trong khung cảnh sám hối, ta thiết lập được liên hệ truyền thông với tất cả vị Bụt và Bồ tát trong ta và chung quanh ta. Năng lượng của ta là năng lượng cá nhân nhưng đồng thời cũng là năng lượng của tập thể, hai loại năng lượng nương vào nhau mà hình thành cũng giống như là cộng nghiệp và biệt nghiệp. Một cá nhân đang thực tập trong Tăng thân có thể chế tác năng lượng, nhưng Tăng thân cũng đang chế tác năng lượng. Nếu phối hợp được năng lượng của cá nhân vào năng lượng của Tăng thân và thừa hưởng được năng lượng ấy thì sự thành công sẽ rất lớn lao. Ta đóng góp vào năng lượng của Tăng thân bằng sự thực tập cá nhân và ta thừa hưởng năng lượng Tăng thân để cho năng lượng cá nhân được lớn. Tự lực luôn luôn đi đôi với tha lực, trong tự lực có tha lực, trong tha lực có tự lực. Vì vậy đoạn N1 tuy nói về tha lực nhưng cũng có phần tự lực và đoạn N2 tuy nói về tự lực nhưng cũng có phần tha lực; tự lực và tha lực ôm lấy nhau.

Cùng với các vị Bồ tát
Thanh văn, Duyên giác, Thánh hiền

Chúng ta đang hướng về chư Bụt mười phương. Các bậc giác ngộ bằng xương bằng thịt đang có mặt. Bụt là một vị Bồ tát và Bồ tát là một vị Bụt hiện tại hoặc tương lai. Bồ tát là những hữu tình, những chúng sanh, những con người đang thực tập giác ngộ, đang đi tới quả vị giác ngộ. Giác hữu tình hay hữu tình giác. Bồ tát là tiếng gọi tắt của Bồ Đề Tát Đỏa, Bodhisattva, có hai nghĩa: giác hữu tình và hữu tình giác, một chúng sanh đã giác ngộ và đang giúp người khác giác ngộ. Thanh văn tức là đoàn thể của những người xuất gia được trực tiếp nghe Bụt giảng dạy và hướng dẫn tu học. Duyên giác là các bậc tu hành không cần nghe giảng dạy khai thị mà vẫn có thể tự mình quán chiếu nguyên lý duyên sinh mà giác ngộ, có khi gọi là độc giác, tức là tự giác ngộ không cần có sự khai thị giúp đỡ của người khác. Thánh hiền tức là những bậc giác ngộ nằm trong phạm trù bốn đôi và tám bậc giải thoát. Đó là những người đã và đang đi trên con đường tới quả thứ nhất hay là đã đạt được quả thứ nhất, những người đang đi trên con đường đi tới quả thứ hai và những người đã đạt tới quả thứ hai, những người đang đi trên con đường tới quả thứ ba và những người đã đạt tới quả thứ ba, những người đang đi trên con đường tới quả thứ tư và những người đã đạt tới quả thứ tư tức là quả A La Hán. Đó gọi là bốn đôi, chia ra thành tám bậc thánh quả, tất cả đều gọi là Thánh hiền. Quả gần nhất là Nhập Lưu hay là Dự Lưu, tham dự vào trong dòng thánh. Khi thọ giới, bắt đầu thực tập niệm, định và tuệ thì ta đã được tham dự vào dòng thánh quả, tuy chưa đạt được quả thứ nhất nhưng đang đi trên con đường tới quả thứ nhất. Dự Lưu là tham dự vào dòng sông giác ngộ đang tuôn chảy về biển giác ngộ. Dự lưu cũng được gọi là Nhập lưu. Dự là tham dự. Nhập là đi vào. Chúng ta ít nhất cũng là những người đã tham dự vào dòng giác ngộ và đang được gọi là nhập lưu hướng. Khi đã hoàn toàn có mặt trong dòng sông đang xuôi chảy về biển cả thì ta sẽ đạt tới quả Dự lưu. Ai cũng là dự lưu hướng cả, nhưng có người đã đạt thành dự lưu quả, biết rõ ràng mình không bao giờ còn đi lui trở lại. Ví dụ chúng ta đi ra Ga St Foy la Grande, để lấy vé tàu TGV đi Paris. Chúng ta có nguyện là đi tới Paris, tuy chưa leo lên tàu nhưng ta biết rằng ta sẽ leo lên tàu, tại vì ta đã có vé rồi và có chủ định muốn đi Paris. Nếu có ai mời ở lại uống trà hoặc đi chơi ta cũng không ở lại. Không ai kéo ta ra khỏi việc đi Paris được là vì trong ta đã có nguyện và có năng lượng đi Paris. Khi đã leo lên tàu TGV, ta biết xe lửa này sẽ tới Paris trong vòng ba giờ đồng hồ và khi xe bắt đầu chuyển bánh thì ta đã bắt đầu nhập lưu nghĩa là sẽ không trở lui nữa. Tham dự vào rồi thì sớm muộn gì cũng tới. Nhập lưu hướng thế nào cũng đưa tới nhập lưu quả. Với quyết tâm đó chúng ta tham dự vào dòng thánh. Nếu tu học tinh chuyên ta sẽ đạt tới cả bốn quả. Tăng thân gồm những người thuộc về bốn đôi và tám bậc thánh quả, có những người đã đạt tới quả A La Hán. Ở đây chữ Thánh hiền có nghĩa là những bậc nằm trong bốn đôi và tám quả. Thanh văn, Duyên giác, Thánh hiền cũng là những người đã từng làm ra lầm lỗi và đã từng sám hối, đã từng phát nguyện và đã tu học thành công. Chúng ta giờ đây cũng đi theo bước chân họ.

Chí thành cầu xin sám hối

Chí thành là với tất cả sự thành thật và sự khẩn thiết ở mức độ cao nhất. Xin các vị chứng minh cho con. Ngày hôm nay con nguyện làm mới, nguyện không làm lặp lại những điều lỡ lầm ngày xưa, xin quý vị hãy chứng minh và yểm trợ cho con. Chúng ta cầu tới năng lượng của Thánh hiền và của Tăng thân để chúng ta có thể làm trọn việc này. Tăng thân của chúng ta là một thực tại, không phải là một ý niệm mơ hồ, gồm có những người đã từng làm lầm lỡ nhưng đã từng sám hối, phát nguyện và đang đi trên con đường chuyển hóa và giác ngộ, Tăng thân là chuyện có thật. Nương vào năng lượng này không phải là chuyện cầu xin mê tín. Ngồi trong Tăng thân ta thấy vững chãi hơn là khi ngồi một mình. Tại sao vậy? Tại vì Tăng thân phát ra năng lượng và khi ngồi trong Tăng thân ta tiếp nhận được năng lượng đó. Chúng ta có Tăng thân địa phương và cũng có Tăng thân mười phương. Trong Tăng thân địa phương có thể có những người đã đạt tới thánh quả và trong Tăng thân mười phương chắc chắn có rất nhiều người đạt tới thánh quả trong đó có quả vị La Hán, quả vị Bồ tát, quả vị Bụt. Chúng ta phải biết lợi dụng sự có mặt của Tăng thân trong mười phương, nương vào năng lượng của Tăng thân ấy để ta có thể đi mau trong việc chuyển hóa và trị liệu. Cũng như khi ta có quyết tâm đi Paris, ta sẽ đi Paris bằng cách này hay cách khác. Có những chiếc tàu chợ có thể dừng tại nhiều ga nhưng có những chiếc tàu như TGV đưa chúng ta tới rất mau chóng. Tăng thân cũng như vậy, trong Tăng thân có những vị Bụt và Bồ tát có khả năng giúp đỡ ta tới được mục đích giác ngộ và giải thoát rất mau. Bụt, Bồ tát, Thanh văn, Duyên giác và Thánh hiền là những thực tại có thật trong cuộc đời, là những người đã từng đau khổ, đã từng sám hối và phát nguyện. Vì vậy trong sự thực tập chúng ta phải biết lợi dụng năng lượng của các vị ấy trong mười phương. Đó là ý nghĩa của phần N1 này; nương vào năng lượng của tha lực để thực tập. Trong ánh sáng của năng lượng đó ta muốn được chứng minh là ta đã quyết tâm làm mới lại và sẽ không lặp lại những lỗi lầm ngày xưa. Ta cần sự chứng minh của Tăng thân và của chư Bụt, chư Bồ tát và chư Thánh hiền. Điều này rất là quan trọng, vì tuy một mình ta, ta cũng có thể làm mới và có thể phát nguyện được, nhưng khi ta phát nguyện và làm mới trong sự có mặt của một Tăng thân lớn gồm có Bụt, Bồ tát, Thanh văn, Duyên giác và Thánh hiền thì năng lượng sẽ tăng lên gấp bội. Cũng như khi chúng ta tiếp nhận Năm Giới quý báu với sự có mặt và chứng minh của một Tăng thân đông đảo thì năng lượng của Năm Giới phát hiện hùng hậu ở trong ta. Ở ngoài đời mỗi khi làm đám cưới người ta mời bạn bè tới để chứng kiến sự phối hợp. Sự có mặt của đông đảo bạn bè và gia đình hai bên là năng lượng giúp cho sự cam kết của họ được vững mạnh. Ở đây cũng vậy, sự tu hành, sự phát nguyện của ta cần được đặt dưới sự chứng minh và hỗ trợ của chư Bụt, Bồ tát, Thanh văn, Duyên giác và Thánh hiền. Vì vậy sám hối và phát nguyện trong khung cảnh của Tăng thân thì ta mới dễ thành công. Tăng thân địa phương và Tăng thân mười phương có mặt cùng khắp ở trong vũ trụ cho chúng ta.

Chí thành cầu xin sám hối
Bao nhiêu lầm lỡ triền miên
Xin lấy cam lồ tịnh thủy
Tưới lên dập tắt não phiền

Triền là trói lại, buộc lại, miên là kéo dài. Trong quá khứ ta đã gây ra lầm lỡ nhưng không phải một lần, mà nhiều lần. Vì ta đơn độc nên thất bại này đã đi theo thất bại khác. Bây giờ nhờ có Tăng thân nên ta được nâng đỡ, ta có thể chấm dứt được những lầm lỡ đó và chúng sẽ không còn kéo dài. Chư Bụt, chư Bồ tát, La hán, Thanh văn và Duyên giác có sự thanh tịnh, có lòng từ bi; đó là chất liệu cam lộ tịnh thủy ở trong lòng của quý vị. Đó là đại trí và đại bi, đó là nước mầu nhiệm. Chúng ta mở trái tim mình ra để xin chư Bụt, chư Bồ tát, Thanh văn, Duyên giác, Thánh hiền rưới vài giọt nước cam lộ ấy vào trong trái tim đang nóng hổi bốc cháy của ta. Trái tim ta tự nhiên dịu lại. Cam lồ tiếng Phạn là amrta, có khả năng dập tắt phiền não, có khả năng làm cho cây khô héo trở thành cây xanh tươi, làm cho một người chán chường trở nên người có năng lượng, biến sự chết thành sự sống. Thiền đường trong đó chúng ta đang ngồi tên là thiền đuờng Cam Lộ.

Xin lấy con thuyền chánh pháp
Đưa con vượt nẻo oan khiên

Chúng ta thường chìm đắm trong biển khổ đau và sinh tử. Tăng thân và đoàn thể các vị Bụt, Bồ tát, Thanh văn, Duyên giác và Thánh hiền là chiếc thuyền giúp ta vượt biển khổ đau và sinh tử đó. Khi có thuyền, ta chắc chắn sẽ không còn bị chìm đắm trở lại. Chừng nào còn nương vào Tăng thân thì chừng đó ta còn có thuyền.Giờ phút ta rời Tăng thân là ta rời bỏ chiếc thuyền, đánh mất năng lượng bảo hộ vững chắc và những nguy hiểm chìm đắm có thể xảy ra. Vì vậy ai cũng phải quay về nương tựa Tăng thân.

Tăng thân đang thực tập theo chánh pháp, vì vậy Tăng thân cũng là con thuyền chánh pháp. Sự thực tập của ta mà yếu đi thì ta có thể chìm đắm, nhưng con thuyền Tăng thân có đủ vững chãi để chuyên chở ta. Trong quá khứ ta đã đi về những nẻo khổ đau oan ức, nhiều khi ta không mở miệng mà diễn tả được những oan khổ ấy; bây giờ nhờ có con thuyền Tăng thân mà ta ra khỏi vùng tủi nhục, oan ức và hệ lụy để đi tới nơi hạnh phúc và tự do. Vì vậy tha lực trước hết được ví như cam lộ tịnh thủy có khả năng dập tắt những não phiền trong tâm, rồi lại được ví như một chiếc thuyền chở chúng ta ra khỏi nẻo hệ lụy và oan khiên. Tất cả chúng ta ai cũng đều cần tới tha lực ấy.

Xin nguyện sống đời tỉnh thức
Học theo đạo lý chân truyền

Đây là lời hứa của chúng ta. Ta đem tự lực này cầu tha lực kia. Cũng như đài phát thanh đang phát ra những chương trình, và tín hiệu của đài phát thanh có mặt khắp nơi trong không gian, nhưng ta phải có một máy thu thanh mở đúng luồng sóng điện thì mới nhận được tín hiệu và nghe được những buổi phát thanh. Ở đây cũng vậy, năng lượng của chư Bụt, chư Bồ tát và chư Thánh hiền đang phát ra rất hùng hậu và chúng ta phải đem máy thu thanh của chúng ta ra, tức là sự thực tập tự lực, thì mới có thể tiếp thu được những nguồn năng lượng ấy. Do đó phần tự lực rất quan trọng. Không có chút tự lực nào thì ta không thể nào hưởng được năng lượng của Bụt và Bồ tát. Niệm Bụt, đi thiền hành, thực tập chánh niệm là ta đặt ta vào trong vùng năng lượng của Bụt và Bồ tát để tiếp nhận được năng lượng lớn của Bụt và Bồ tát. Bụt và Bồ tát không phải là những thần linh trong tưởng tượng, đó là những người bằng xương bằng thịt đã và đang sống quanh ta, những người đã từng đau khổ, đã từng tu tập và đã thoát ra khỏi những khổ đau đó. Mỗi khi ta có niệm, định, tuệ và hướng về nguồn năng lượng của các vị thì ta tiếp nhận được năng lượng ấy. Nhờ tự lực ta tiếp nhận được tha lực, và tha lực ôm lấy tự lực, do đó tha lực với tự lực nương vào nhau mà có mặt.

Xin nguyện sống đời tỉnh thức
Học theo đạo lý chân truyền

Vì lâu nay sống thất niệm nên ta đã bỏ rơi rớt mất đi những gì quý báu đã được tổ tiên trao truyền lại. Có một nền đạo lý đã được truyền lại cho ta từ 2600 năm về trước, đạo lý đó là truyền thống của Bụt Thích Ca Mâu Ni. Đạo lý ấy đã được nhiều thế hệ truyền lại một cách chân chính, không bị bóp méo, không bị biến hình. Cốt tủy của giáo lý đó vẫn còn nguyên vẹn, không bị hiểu lầm và xuyên tạc, nên gọi là chân truyền.

Thực tập nụ cười hơi thở
Sống đời chánh niệm tinh chuyên

Thực tập hơi thở và nụ cười chánh niệm trong đời sống hàng ngày là chuyện mà tất cả chúng ta đều có thể làm. Trong những tư thế đi, đứng, nằm, ngồi và làm việc ta đều có thể đặt ta vào trong chánh niệm. Có niệm có định thì thế nào cũng có tuệ. Nhờ vậy mà chúng ta dự được vào dòng thánh, tiếp nhận được năng lượng của Bụt và Bồ tát. Tinh chuyên có nghĩa là không lười biếng.

Bây giờ chúng ta đi sang đoạn chót của bài Sám Nguyện, đoạn N2, là sự thực tập phát nguyện nương nhiều vào tự lực. Chúng ta sẽ thấy rõ ràng những điều mà chúng ta phát nguyện, làm theo và sống theo.

Đệ tử xin nguyền trở lại
Sống trong hiện tại nhiệm mầu

Đây là lời phát nguyện muốn buông bỏ những luyến tiếc hay ray rứt về quá khứ, những lo lắng và sợ hãi về tương lai. Có những lúc ta sống mà cứ luyến tiếc về quá khứ, tự hỏi tại sao mặt trời trong quá khứ đẹp hơn bây giờ, đời sống trong quá khứ đẹp hơn bây giờ. Đó là tâm trạng của những người luyến tiếc quá khứ, không tin rằng sự sống trong giây phút hiện tại cũng đẹp và cũng đáng sống. Thái độ sống đó không phải là thái độ sống của người có chánh niệm. Lại có lúc ta nghĩ rằng chỉ có trong tương lai ta mới hy vọng có hạnh phúc, ta chạy đi tìm hạnh phúc ở tương lai. Đó cũng là một thái cực khác mà chúng ta cần phải buông bỏ. Sự thực tập của chúng ta là hiện pháp lạc trú (drstadharma sukhavihara). Nguyên tắc đầu tiên là phải trở lại sống trong giây phút hiện tại. Nếu ta trở về được trong giây phút hiện tại, thân tâm nhất như, thì ta sẽ tiếp xúc được với những mầu nhiệm của sự sống có mặt trong giờ phút hiện tại. Mặt trời cũng còn sáng rỡ, bầu trời vẫn xanh, chim vẫn hót và những phép lạ của sự sống vẫn còn có trong ta và chung quanh ta. Ta trở về với hiện tại thì ta tiếp xúc được với sự sống. Ta phải làm chuyện đó trong mỗi giây phút của đời sống hàng ngày. Đây không phải là một sự hứa hẹn. Ngồi trong thiền đường, ta phải có an lạc hạnh phúc ngay trong khi ngồi trong thiền đường. Khi ăn cơm ta phải có an lạc ngay trong khi ăn cơm. Làm thức ăn sáng cho Đại chúng hay rửa bát, ta phải có mặt trong những giây phút đó để cho giây phút đó trở thành niềm vui. Bất cứ ngày nào cũng phải là một ngày hội, bất cứ giờ nào trong đời sống hàng ngày cũng là để ca ngợi, để ăn mừng sự sống, thì hạnh phúc sẽ có mặt liền lập tức. Tiếp xúc với sự sống, đó là phương pháp của chúng ta. Chúng ta tiếp xúc với sự sống trong khi ngồi thiền, khi đi thiền hành, rửa bát, nấu cơm, giặt rửa, trong khi thở, trong khi nói cười. Mỗi giây phút ta đều tiếp xúc được với sự sống. Đây là điều ta có thể làm được với điều kiện là ta buông bỏ được quá khứ, buông bỏ được những nỗi sợ hãi lo lắng và hy cầu về tương lai. Chỉ có khi nào hiện tại khổ quá ta mới hy cầu về tương lai mà thôi, nếu hiện tại có hạnh phúc thì tại sao ta phải hy cầu tương lai? Bỏ hiện tại tức là bỏ sự sống, tại vì sự sống chỉ có mặt trong giây phút hiện tại mà thôi.

Vườn tâm ươm hạt giống tốt
Vun trồng hiểu biết thương yêu

Tâm ta là một khu vườn và trong khu vườn phì nhiêu đó mỗi ngày ta nên ươm trồng hạt giống tốt, hạt giống của hiểu biết, của thương yêu, của tha thứ. Chuyện này ta thực tập hàng ngày. Ta đọc sách là để vườn tâm của ta được tiếp nhận những hạt giống tốt, còn nếu đọc sách mà để cho những hạt giống của nghi ngờ, chán nản và buồn bã rơi vào trong tâm thức thì đó là chúng ta đã làm không đúng. Nói chuyện cũng vậy, trong khi nghe một người bạn nói chuyện mà những hạt giống của sự bực bội, chán nản và nghi ngờ được gieo vào trong tâm thức là ta không làm đúng theo phương pháp vườn tâm ươm hạt giống tốt. Nói chuyện thị phi của người khác rất dễ gieo vào tâm thức ta những hạt giống xấu. Trong khi sử dụng máy vô tuyến truyền hình, sách vở, nghe những câu chuyện hàng ngày, ta có thể gieo vào tâm những hạt giống xấu hoặc những hạt giống tốt. Chúng ta quyết tâm chỉ gieo những hạt giống tốt mà thôi. Hai hạt giống tốt quan trọng nhất có trong ta là hạt giống hiểu biết và hạt giống thương yêu. Chúng ta phải tưới tẩm chúng mỗi ngày.

Ta thực tập như một người làm vườn, chịu trách nhiệm về khu vườn của mình. Ta nhất định không gieo vào vườn tâm những hạt giống của sự nghi ngờ, buồn phiền và ganh tị. Mỗi lời nói, mỗi hành động của người kia có thể gieo vào trong vườn tâm của ta những hạt giống xấu. Chúng ta là những người cùng thực tập với nhau, ta phải cam kết với nhau là sẽ chỉ gieo cho nhau những hạt giống tốt, trước hết là hạt giống hiểu biết và thương yêu. Em sẽ giúp chị vun trồng những hạt giống hiểu biết và thương yêu nơi chị, chị sẽ giúp em vun trồng và tưới tẩm những hạt giống hiểu biết và thương yêu nơi em. Hai chị em thực tập như vậy là hai chị em làm ra hạnh phúc cho tất cả mọi người. Nguyên tắc thực tập là thế.

Xin nguyện học phép quán chiếu
Tập nhìn tập hiểu thật sâu
Thấy được tự tánh các pháp
Thoát ngoài sinh tử trần lao

Bốn câu này nói về pháp nhìn sâu, là bản chất và cốt lõi của thiền tập. Thiền tập gồm có hai phần, chỉ và quán; chỉ là dừng lại, quán là nhìn sâu vào đối tượng để thấy được bản chất đối tượng thiền quán của mình. Hai câu đầu trong phần N2 là hiện pháp lạc trú:

Đệ tử xin nguyền trở lại
Sống trong hiện tại nhiệm mầu

Đó là lời phát nguyện, là một quyết tâm thực hiện, quyết tâm sống sâu sắc trong từng giây phút của đời sống hàng ngày. Sống tỉnh thức, còn nếu để cho quá khứ ám ảnh, tương lai lôi kéo thì chúng ta không đi theo được lời phát nguyện và sự hành trì của chúng ta. Hai câu kế tiếp:

Vườn tâm ươm hạt giống tốt
Vun trồng hiểu biết thương yêu

Nói về phép tưới tẩm hạt giống tốt, đặc biệt là hạt giống thương yêu và hiểu biết. Bốn câu tiếp theo:

Xin nguyện học phép quán chiếu
Tập nhìn tập hiểu thật sâu
Thấy được tự tánh các pháp
Thoát ngoài sinh tử trần lao

Thuộc về quán chiếu: tập trung tâm ý và nhìn sâu. Khi thực tập sống mỗi giờ phút trong chánh niệm ta chế tác năng lượng của chỉ. Và khi dùng định lực và ánh sáng chánh niệm chiếu vào đối tượng là ta thực tập nhìn sâu. Đó là quán. Sự thực tập chánh niệm giúp cho chúng ta sống từng giây phút của đời sống hàng ngày một cách sâu sắc. Tưới cây, làm vườn, ăn cơm, giặt áo, lau nhà đều phải làm trong chánh niệm để chúng ta có thể sống được sâu sắc những giây phút trong đời sống hàng ngày. Thực tập như vậy thì niệm lực và định lực của ta sẽ mạnh. Khi niệm và định mạnh rồi thì chúng ta có thể nhìn sâu để thấy rõ được tự tánh của các pháp. Tự tánh của các pháp là vô thường, vô ngã và niết bàn. Nhìn vào bất cứ hiện tượng nào như là cơ thể của ta hay là cái buồn, cái giận, bông hoa hay đám mây mà có niệm và định thì ta có thể thấy được tự tánh của các pháp. Trước hết là tự tánh vô thường, rồi tới tự tánh vô ngã và sau hết là tự tánh niết bàn. Niết bàn tức là tự tánh không sinh không diệt. Chỉ khi nào thấu hiểu được, tiếp xúc được với tự tánh không sinh không diệt thì ta mới đạt tới giải thoát hoàn toàn. Bốn câu này nói rõ chương trình tu học của ta. Đó là quán chiếu. Chúng ta quán chiếu không phải chỉ trong giờ ngồi thiền. Chúng ta thực tập quán chiếu khi ta nấu cơm, rửa bát, giặt áo hoặc tưới cây. Tại vì chính trong những hành động đó mà chúng ta thực tập niệm và định. Có niệm và có định thì thế nào cũng có tuệ nghĩa là có kết quả của sự quán chiếu. Tuệ là hoa trái của quán chiếu. Tuệ giác là cái thấy sâu sắc về tự tánh của các pháp. Đó là lý do căn bản để chúng ta sống cuộc đời của người tu. Thấy được tự tánh các pháp rồi thì mới thoát ngoài sinh tử trần lao. Trần là bụi bặm. Lao là sự khổ nhục, sự giam giữ làm ta mất hết năng lượng, gây ra mệt mỏi và ràng buộc. Giam hãm trong cuộc đời đầy bụi bặm gọi là trần lao. Ta trôi lăn trong sinh tử. Mục đích của sự tu học là thoát ngoài vòng sinh tử, vòng ràng buộc, đạt tới hiểu biết lớn và thương yêu lớn. Thấy được tự tánh các pháp rồi thì tự nhiên ta sẽ thoát ra khỏi vòng sinh tử và trần lao.

Nguyện học nói lời ái ngữ
Thương yêu chăm sóc sớm chiều
Đem nguồn vui tới mọi nẻo
Giúp người vơi nỗi sầu đau.

Bốn câu kế tiếp này nói tới kết quả của sự thực tập của ta đối với những người khác, nói tới chí hướng độ người và gây hạnh phúc cho người. Xin nguyện nói lời ái ngữ. Ai cũng có thể nói lời ái ngữ được, nói lời ái ngữ thì tự nhiên đời sống tươi đẹp lên liền lập tức, giống như một phép lạ vậy. Trong ca dao Việt Nam có câu:

Lời nói không mất tiền mua,
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.

Ta không cần mất công sức gì nhiều, chỉ cần học nghệ thuật nói lời ái ngữ là đã có thể tạo ra không biết bao nhiêu hạnh phúc ở trong gia đình, trong xã hội hoặc trong đoàn thể tu học của mình. Ta phải viết vào trong nhật ký, phải phát nguyện là mỗi ngày sẽ nói lời ái ngữ bao nhiêu lần. Nếu liên hệ giữa ta với người kia không được tốt lắm thì nhất định ta phải tập nói ái ngữ với người ấy nhiều hơn cho đến khi mối liên hệ trở nên tốt đẹp. Chuyện này ai cũng có khả năng làm. Thương yêu người khác không phải là chỉ nói ở ngoài miệng. Thương yêu còn phải được biểu lộ trong sự chăm sóc hằng ngày nữa. Ta thương anh, thương em, thương chị ta thì phải tỏ lộ được sự thương yêu và sự chăm sóc ấy. Ta phải quán chiếu để hiểu những khổ đau của người kia và nếu ta hiểu được những khổ đau của người ấy rồi thì ta sẽ không còn vô tình hoặc dại dột mà cứ chạm vào những hạt giống khổ đau của người ấy. Tránh không động chạm vào những khổ đau, trái lại ta phải giúp người ấy tiếp xúc với những hạt giống hạnh phúc có mặt trong chiều sâu tâm thức của người ấy.

Đem nguồn vui tới mọi nẻo
Giúp người vơi nỗi sầu đau.

Đây là chuyện hiện tại, không phải là chuyện tương lai. Ta đang thực tập trong hiện tại. Nhiều khi ta không cần phải đi đâu xa vì những người khổ đau đã tìm tới với chúng ta. Khi có một người khổ đau tìm tới thì ta lại có một cơ hội để giúp người bớt khổ. Đừng nghĩ rằng những người khổ toàn là những người dễ thương, nói rất dễ thương và làm rất dễ thương. Bởi vì nếu họ đã biết nói dễ thương và làm dễ thương thì họ đâu đã bị khổ đau đến nước ấy. Tại vì họ đã nói không dễ thương và làm không dễ thương cho nên họ mới có nhiều khổ đau. Nhiều khổ đau cho nên họ mới tìm tới chúng ta. Vì vậy chúng ta cần giúp họ. Những người nói dễ thương và làm dễ thương đâu cần ta giúp, tại vì thân, khẩu và ý của họ đều tốt và cuộc đời của họ đã có hạnh phúc rồi. Vì vậy khi tới với ta mà người ấy khó chịu, nói năng không dễ thương, hành xử không dễ thương thì ta biết đó chính là cơ hội để ta giúp người vậy. Có như thế ta mới đóng được vai trò của Đức Bồ Tát Quán Thế Âm, đem nguồn vui tới mọi nẻo, không phân biệt. Ta tu học, ta có niềm vui và muốn đem chia xẻ với mọi người. Tu như thế nào để ta trở thành một hồ nước trong. Ta gặp sư anh thì sư anh vui, gặp sư chị thì sư chị vui, gặp sư em thì sư em vui, tại vì ta là hồ nước trong và nước trong hồ của ta được phân phát cho tất cả những con rạch xung quanh. Không nên nói rằng tôi chỉ để dành nước trong cho con rạch này thôi, còn các con rạch kia dễ ghét quá tôi không muốn cho nước trong của tôi chảy về phía đó. Phải phân phát đồng đều và làm sao để nước trong có thể chảy vào được hết tất cả các con rạch.

Đền đáp công ơn cha mẹ
Ơn thầy, nghĩa bạn dày sâu.

Hai câu này nói về sự thực tập báo ân. Chúng ta thực tập báo ân ngay trong hiện tại. Mỗi bước chân, mỗi hơi thở, mỗi nụ cười của ta đều là một hình thức đền đáp lại ơn thầy, ơn cha mẹ, ơn bè bạn. Chúng ta có bốn ơn là ơn cha mẹ, ơn thầy, ơn bạn và ơn chúng sanh. Ta đừng nghĩ rằng sau khi tu học thành tài rồi ta mới đền đáp được ơn đức ấy. Không! Ta có thể đền ơn ấy ngay trong đời sống hàng ngày bằng sự thực tập của ta. Ta tu hành cho vững chãi thì tự nhiên gia đình của ta vững ra và có hạnh phúc liền lập tức. Mỗi bước chân, mỗi hơi thở của ta là một sự đầu tư vào hạnh phúc của bốn giới đó. Giới thầy, giới cha mẹ, giới bạn hữu và giới chúng sanh. Thành ra ta là một người đầy ân tình, sống có ân có tình và chỉ cần thực tập cho vững chãi và có hạnh phúc thì tự nhiên ta đền đáp được công ơn của cha mẹ, của thầy, của bạn và của chúng sanh trong mỗi giây phút của đời sống.

Mười bốn câu trên biểu lộ công trình tu tập gọi là tự lực. Trong chúng ta không ai mà không làm được những điều này. Hễ muốn là làm được và làm với sự yểm trợ của những người cùng tu với ta, rất cụ thể. Ta biết bài sám nguyện này không phải là một bài cầu xin, không phải là sự thực tập xin tội hay rửa tội mà là một bài quán chiếu để ta có cơ hội nhìn rõ tình trạng và thấy rõ được con đường đi của mình. Con đường của chư Bụt, Bồ tát và các vị Thánh hiền đã đi. Sau khi đọc xong bài này năng lượng trong ta tăng tiến rất nhiều. Và ta sẽ đi, đứng, nằm, ngồi, nói năng và tiếp xử thế nào để có thể thực hiện được chương trình đó.

Tín thành tâm hương một nén
Đài sen con nguyện hồi đầu

Tâm hương là hương giới, định và tuệ. Hương mà chúng ta dâng lên phải là hương đốt từ trái tim mới được. Hương đốt từ trái tim không phải hương trầm, hương chiên đàn mà ta mua ở ngoài chợ. Tâm hương này tức là sự thực tập hàng ngày của chúng ta. Trong đời sống hàng ngày mà có giới, có định và có tuệ thì chúng ta mới có tâm hương để dâng lên chư Bụt và chư vị Bồ Tát. Tâm hương đó là nén tâm hương tín thành. Tín là niềm tin rất vững chãi. Thành là sự thành khẩn của mình. Chúng ta tin tưởng một cách vững chãi và thành thật là con đường mà ta đã chọn là con đường sáng và ta dâng lên Tam Bảo nén tâm hương giới, định và tuệ của ta. Dâng lên bằng tất cả niềm tin và sự chí thành. Ta không tin Bụt như một vị thần linh ban phúc và trừ tai họa, mà tin Bụt là thầy của mình. Chúng ta tin pháp như là con đường đưa tới hạnh phúc. Tin chắc rằng nếu làm được những điều đã nguyện thì hạnh phúc sẽ có được ngay hôm nay và cũng sẽ có trong ngày mai. Đó gọi là tín, chánh tín, không phải là mê tín. Chúng ta hoàn toàn tin tưởng và thật lòng nghĩ như vậy. Với niềm tin vững chãi và lòng chí thành, chúng ta hướng về đài sen, tức là về hướng Bụt đang ngự tọa, cũng chính là nơi trái tim của mình. Chúng ta muốn quay về đài sen chứ không muốn trở lại hầm lửa. Hầm lửa là địa ngục còn đài sen là nơi tươi mát. Hồi đầu tức là quay đầu trở lại.

Nguyện đức từ bi che chở
Trên con đường đạo nhiệm mầu.
Nguyện xin chuyên cần tu tập
Vuông tròn đạo quả về sau.

Chúng ta có niềm tin nơi con đường, đang đi trên con đường và xin đức Thế Tôn che chở cho chúng ta. Đó là con đường đạo rất nhiệm mầu. Chúng ta hứa sẽ tu tập một cách tinh chuyên, để cho hoa trái của sự giác ngộ và hạnh phúc được thực hiện một cách viên mãn, tròn đầy. Chữ Hán là viên thành, viên thành đạo quả. Viên là tròn. Thành tựu một cách trọn vẹn gọi là viên. Thành tức là thực hiện. Ở đây chúng ta không dùng chữ viên, mà dùng chữ vuông. Vuông tròn cũng là một hình ảnh của sự toàn mỹ. Vuông thì thật là vuông, tròn thì thật là tròn. Đạo quả tức là hoa trái của sự thực tập. Chúng ta tin rằng hoa trái của sự thực tập sẽ tròn đầy trong tương lai. Đây là niềm tin vững chắc của chúng ta. Tin vững chắc là vì những điều ta kể ra đó toàn những điều ta có thể làm được.

Tiếp theo bài này là bài chú Diệt Tội. Thất Phật Diệt Tội Chơn Ngôn, Chân Ngôn Diệt Tội Của Bảy Đức Bụt. Bảy đức Thế Tôn đem năng lượng vĩ đại của các vị để ôm lấy ta và giúp ta chuyển hóa. Sau đó tới bài kệ sám hối:

Con đã gây ra bao lầm lỡ
Khi nói khi làm, khi tư duy
Đam mê, hờn giận và ngu si
Nay con cúi đầu xin sám hối
Một lòng con cầu Bụt chứng tri
Bắt đầu hôm nay nguyền làm mới
Nguyền sống đêm ngày trong chánh niệm
Nguyền không lặp lại lỗi lầm xưa.

Bài kệ này tóm tắt lại tất cả những điều ta đã quán chiếu trong bài sám nguyện. Ta công nhận một sự thật. Sự thật về những gì ta đã gây ra khi nói, khi làm, khi tư duy. Đó là ba nghiệp: thân, khẩu và ý. Sự thật về đam mê, hờn giận và ngu si của chính ta. Ta nhận diện đó là động lực chính gây ra những lầm lỡ. Ta muốn chấm dứt, muốn thật sự làm mới. Ta cầu Bụt chứng tri cho ta. Chứng và biết gọi là chứng tri, Bụt làm chứng cho ta và biết cho ta. Cũng vì vậy mà ta đã tới trước bàn thờ Bụt, trước tăng thân để sám hối. Một lòng là nhất tâm, tức là thân tâm được thu nhiếp vào trong định. Ta nguyện làm mới, nhất định làm mới. Chữ nguyền đồng nghĩa với chữ nguyện. Chữ nguyện là tiếng Hán Việt, chữ nguyền là tiếng Việt. Sự làm mới đó chúng ta bắt đầu ngay hôm nay, ngay từ giờ phút này và liên tục để không lặp lại lỗi lầm xưa. Đó là trái tim của sự thực tập, đó là sự cam kết. Chúng ta làm được sự cam kết này là nhờ có tăng thân giúp đỡ. Ngày xưa ta đã từng cam kết rồi nhưng ta đã không làm được tại vì không có tăng thân giúp đỡ, ngày hôm nay thì khác vì ta đang có Tăng thân cùng thực tập và nâng đỡ cho ta.

Nam mô Bồ Tát Cầu Sám Hối.

Hành động làm mới đó là bản chất của một vị Bồ Tát, là tên của một vị Bồ Tát. Chúng ta chính là vị Bồ Tát đó.

Bao nhiêu lầm lỗi cũng do tâm
Tâm tịnh còn đâu dấu lỗi lầm
Sám hối xong rồi lòng nhẹ nhõm
Ngàn xưa mây bạc vẫn thong dong.

Đây là tuệ giác rất cao của đạo Bụt về vấn đề làm mới. Tất cả những lầm lỗi đều do tâm mà ra. Tâm không chánh niệm gây ra đam mê, hờn giận, ganh ghét, ngu si v.v… Giáo lý này cho ta thấy rõ rằng tất cả những lầm lỗi và những vọng tưởng đều xuất phát từ tâm ta. Nếu đã do tâm mà sinh ra thì những lỗi lầm đó cũng có thể do tâm mà chuyển hóa, cũng như vấp ngã ở đâu thì ta chống ở chỗ đó mà đứng dậy. Những lỗi lầm nào do tâm gây ra thì sẽ từ tâm mà chuyển hóa. “Tội tùng tâm khởi tương tâm sám”. Tội tức là những lầm lỗi. Tội từ tâm sinh ra thì đem tâm mà làm mới. Làm mới trong đạo Bụt không giống như làm mới trong những truyền thống khác. Trong các truyền thống khác có thể là cầu một đấng thần linh tha tội hoặc rửa tội cho ta, nhưng ở đây ta không cầu một đấng thần linh nào làm chuyện đó. Ta biết rằng tội lỗi từ tâm mà ra, nếu ta trở về để chuyển hóa nội tâm thì tự nhiên tội lỗi sẽ tiêu biến. Ta cầu Bụt, cầu Bồ Tát và Tăng thân có mặt là để chứng tri cho ta, để cho sự thực tập trở nên vững chãi. Chứng tri và yểm trợ cho ta, nhưng do chính tâm của ta mới có thể chuyển hóa được tội. Tội tùng tâm khởi tương tâm sám. Tương tức là đem ra. Đây là một giáo lý rất mầu nhiệm. Khi tâm đã chuyển hóa rồi thì tội lỗi tan biến hết như khi mặt trời chiếu trên tuyết thì tuyết sẽ tan. Ta sẽ không còn mặc cảm tội lỗi nữa. Có những người ăn năn, hối hận suốt đời, họ không có niềm vui là vì họ không biết rằng muốn làm cho những lầm lỗi đó tiêu tan đi thì phải chuyển hóa tâm mình. Chuyển hóa tâm, làm mới tâm thì lầm lỗi sẽ tan. Điều này các nhà tâm lý trị liệu cần phải học để có thể giúp cho các bệnh nhân. Làm mới sẽ phát hiện một nguồn năng lượng rất lớn trong con người của ta và chính nguồn năng lượng đó sẽ làm tiêu tan những mặc cảm tội lỗi của quá khứ. Ta sẽ có rất nhiều niềm vui tại vì bắt đầu từ ngày hôm nay trở đi ta tạo được niềm vui cho không biết bao nhiêu người. Người đã bị ta làm khổ sẽ mỉm cười ở trong ta, sẽ tha thứ cho ta. Những dấu vết lỗi lầm không còn nữa và lòng ta nhẹ nhõm. Làm mới xong thì tâm ta nhẹ nhàng. Có những người làm mới một buổi, có những người làm mới luôn bảy ngày, có người làm mới luôn 21 ngày và sau thời gian thực tập họ trở thành một con người mới có nhiều tự do. Tự do như mây trên trời. Hình ảnh ở đây rất đẹp. “Bạch vân tự khứ lai”: Ngàn xưa mây bạc vẫn thong dong. Một đám mây bay thảnh thơi trên không gian, tự mình đi hay tới, thong dong không ai xô đẩy hoặc kềm thúc. Đó là trạng thái của tâm ta sau khi đã làm mới.

Biển khổ thuyền đi cứu độ người

Học về nghi thức thí thực

Cúng thí thực ở Việt Nam cũng được gọi là cúng cháo. Khi tổ chức trai đàn ta dùng nghi thức Đại Mông Sơn. Còn nghi thức này gọi là Tiểu Mông Sơn. Mông Sơn là tên của một ngọn núi ở Trung Quốc, tỉnh Tứ Xuyên. Vào đời Tống có một thiền sư cư trú trên núi ấy tên là Bất Động, thầy đã chế tác ra nghi thức Đại Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn. Nghe nói ở trên núi Mông có những cây trà rất ngon, và vì leo lên đỉnh hái trà khó lắm nên người ta đã phải nuôi khỉ để chúng leo lên hái lá trà và liệng xuống. Trà ngon lắm. Mỗi năm người ta lấy trà Mông sơn gửi về dâng vua, nhưng số lượng trà rất ít. Dưới chân núi cũng có trà tuy không ngon bằng. Trà Mông sơn gọi là Mông trà, nghe nói uống vào rất dễ tiêu hóa. Có một thiền sư đem trà Mông sơn rót vào chén bánh lọt, và vài giờ sau bánh lọt biến thành nước. Trong nghi thức cúng linh có câu:

Dương Tử giang tâm thủy
Mông Sơn đỉnh thượng trà
Hương linh tam ẩm liễu
Tảo sinh pháp vương gia.

Nước lấy ở giữa lòng sông Dương. Trà lấy ở đỉnh núi Mông. Hương linh được uống ba ngụm thì có thể sanh ra trong nhà đức pháp vương. Pháp vương là Bụt, là vua pháp (King of the Dharma). Thiền sư Mông Sơn đã nghiên cứu những kinh Mật tông có từ đời Đường và đã sáng chế ra nghi thức cúng cô hồn. Nghi thức này đã được áp dụng trong các đàn trai chẩn tế và được tụng mỗi ngày trong các chùa. Đối tượng của sự cúng dường này trước hết là cô hồn. Cô hồn là những linh hồn không nơi nương tựa, không ai thờ tự. Cô có nghĩa là cô đơn, cô độc; hồn là linh hồn. Thường thường khi một người chết đi thì được gia đình thờ cúng, người ấy biết chỗ để về nên những linh hồn này không phải là những linh hồn cô độc. Những người có một gia đình huyết thống và một gia đình tâm linh thì khi chết đi không cảm thấy bơ vơ tại vì họ biết rằng họ thuộc vào một nền văn hóa, một nhà thờ, một ngôi chùa, một xã hội, một gia đình. Những linh hồn đó không phải là những linh hồn cô độc. Còn những người khi sống có cảm tưởng là mất gốc, không thuộc về một gia đình tâm linh hoặc huyết thống nào, văn hóa nào, những người như vậy cô đơn trong khi sống và khi chết đi cố nhiên cũng sẽ trở thành những linh hồn bơ vơ. Đối tượng đầu của sự cúng kiếng này là những linh hồn bơ vơ. Nhưng không phải chết rồi người ta mới trở thành cô hồn. Khi còn sống chúng ta cũng có thể là những cô hồn và nhìn quanh chúng ta cũng thấy rất nhiều cô hồn, nhất là trong thế giới hiện tại. Phần lớn những cô hồn của thế kỷ thứ 20 và 21 là những cô hồn rất trẻ. Biết bao nhiêu người thanh niên không thấy mình thuộc về một nguồn gốc tâm linh nào, một gia đình huyết thống nào, một nền văn hóa nào. Họ đi lang thang vất vưởng giữa cuộc đời, cảm thấy cô đơn lạnh lẽo. Đó là những cô hồn mà chúng ta có thể tiếp xúc được bằng nhận thức của chúng ta, bằng mắt, bằng tai. Những cô hồn đó đầy dẫy chung quanh ta. Ngay chính trong tăng thân chúng ta cũng có một vài cô hồn vất vưởng. Hy vọng rằng sau một thời gian thực tập những cô hồn ấy có thể tìm ra mái ấm của gia đình, tìm ra chỗ nương tựa tâm linh. Khi những cái rễ mọc ra và bám được vào tăng thân thì những phần tử đó sẽ không còn là cô hồn nữa. Năm nào cũng có những cô hồn tìm tới với tăng thân Làng Mai, và chúng ta cố gắng hết sức để làm cho những cô hồn đó có thể cắm rễ được trong tăng thân này. Khi còn là một cô hồn vất vưởng thì ta đau khổ vô cùng vì ta có sự trống vắng lớn trong trái tim. Hạnh phúc là một cái gì xa vời, ta có cảm tưởng bị lạc lõng. Chung quanh ta có bao nhiêu là người, là cây cối và thú vật, vậy mà ta cảm thấy hoàn toàn không dính líu gì với tất cả mọi người chung quanh, với thiên nhiên, cây cối, cầm thú, … và sự trống trải đó làm ta đau khổ. Có thể là trên bề mặt trí tuệ ta biết rằng trong cuộc đời có những cái rất mầu nhiệm nhưng trên thực tế thì ta lại không tiếp xúc được với những mầu nhiệm đó của cuộc đời. Cuộc đời trống vắng và bơ vơ và vì vậy cô hồn là những linh hồn bơ vơ và đói khát. Đói khát ở đây không hẳn là đói khát cơm áo hoặc một mái nhà mà đói khát tình thương, đói khát một nơi nương tựa, đói khát hiểu biết, tại vì đối với những cô hồn ấy chưa ai từng hiểu mình, chưa ai từng thương mình và mình chưa bao giờ thuộc về một mái nhà ấm cúng, dầu đó là một mái nhà huyết thống hay một mái nhà tâm linh. Xã hội chúng ta được tổ chức như thế nào mà đã chế tác ra không biết bao nhiêu là cô hồn vất vưởng, những cô hồn còn xương còn thịt đàng hoàng, chứ không phải chỉ là những người chết. Vì vậy trong khi trì tụng nghi thức thí thực này chúng ta đừng nghĩ là ta chỉ cúng cho những chúng sanh đã chết. Chúng ta phải biết rằng trong cuộc sống chung quanh ta có rất nhiều những cô hồn đang đi vất vưởng, đói khát hiểu biết, đói khát thương yêu. Hơn nữa, tất cả chúng ta người nào cũng có hạt giống cô hồn ở trong tâm tư, thỉnh thoảng chúng ta vẫn còn muốn bỏ nhà mà đi, bỏ thầy, bỏ tăng thân mà đi. Nếu ta để cho hạt giống đó lớn lên thì một này nào đó chúng ta cũng sẽ trở thành cô hồn. Hơi tủi thân một chút là hạt giống cô hồn đã được tưới tẩm và nếu không cẩn thận, một ngày kia ta sẽ bỏ thầy và tăng thân mà đi. Chúng ta đừng tưởng cô hồn là những người khác. Cô hồn có thể là chính mình. Vũ Hoàng Chương có một bài thơ trong đó có bốn câu:

Lũ chúng ta lạc loài năm bảy đứa
Bị quê hương ruồng bỏ, giống nòi khinh
Biển vô tận xá gì phương hướng nữa?
Thuyền ơi thuyền theo gió hãy lênh đênh…

Đó là bốn câu thơ có chất cô hồn. Thấy rằng đất nước này và xã hội này đã từ khước, đã ruồng bỏ ta, vậy thì ta đâu có cần gì nữa. Đâu cần phải giữ gìn thân thể này nữa, đâu cần phải giữ gìn tâm hồn này nữa, đi đâu cũng được! Nếu nghe bốn câu thơ ấy mà ta thấy rung động trong lòng tức là ta đã có hạt giống cô hồn ở trong ta rồi, không còn chối cãi gì được. Và cô hồn là trống trải, cô hồn là khổ đau. Tại vì sự cô độc bao giờ cũng đưa đến sự khổ đau và sự đói khát. Chúng ta đói cơm áo, đói một mái ấm gia đình, đói sự hiểu biết, đói sự thương yêu. ‘‘Chưa ai hiểu ta cả!’’ Trong chúng ta có nhiều người hay than phiền như vậy, đó là hạt giống cô hồn. Chưa ai thương mình mà chưa chắc mình đã thương mình. Niềm tủi thân là dấu hiệu của hạt giống cô hồn trong lòng mỗi người. Chúng ta đừng đi tìm cô hồn ở đâu xa. Cô hồn ở ngay trong tâm chúng ta. Khi ta thương được cô hồn ấy thì ta có thể thương được vạn loài tại vì ai cũng có thể là một cô hồn tương lai cũng như ai cũng có thể một đức Bụt trong tương lai. Thành thử mỗi người nên tự hỏi: mình có phải là một cô hồn không, cô hồn trong hiện tại, hay là cô hồn trong tương lai?

Ở Làng Mai ta thường hay chắp tay lại chào người khác và nói ‘‘Sen búp xin tặng người, một vị Bụt tương lai.’’ Nhưng nếu chúng ta ăn ở với nhau không đàng hoàng thì người kia đã thành một cô hồn tương lai rồi tại vì hạt giống cô hồn trong hiện tại đang lớn. Cô hồn nếu không được cứu độ lâu ngày thì thành ma đói, gọi là ngạ quỷ. Ngạ quỷ thường được mô tả là có một cái bụng phình ra rất lớn và một cái cổ họng nhỏ như cây kim. Bụng rất lớn nghĩa là sự đói khát rất nhiều, cổ họng nhỏ như kim nghĩa là không có khả năng tiếp nhận. Đó là một hình ảnh thi ca rất rõ. Ở Đông phương mỗi khi nghĩ tới cô hồn là ta nghĩ tới những chúng sanh có nhu yếu rất lớn nhưng khả năng tiếp nhận rất nhỏ. Những cô hồn ấy tuy đói khát hiểu biết và thương yêu nhưng dầu được người ta hiến tặng hiểu biết và thương yêu họ cũng còn nghi ngờ, không tiếp nhận được. Nghi rằng đây là hiểu biết giả, là thương yêu giả, tại vì cô hồn đã từng bị lừa gạt nhiều lần rồi. Cha mẹ nói thương ta mà không thực sự thương, xã hội nói thương ta mà chưa bao giờ thực sự thương, những nhà lãnh đạo chính trị, văn hóa từng nói thương ta mà chưa bao giờ thực sự thương mà chỉ làm cho ta đau khổ. Cô hồn giống như những con chim đã bị trúng tên cho nên thấy cành cong nào cũng sợ và vì vậy khi nghe ai mà nói rằng tôi thương anh, tôi sẽ giúp anh thì cô hồn liền phát tâm nghi ngờ, không tin. Nghi ngờ là bản chất của cô hồn và vì vậy nếu muốn giúp cô hồn ta phải hết sức kiên nhẫn, biết trước rằng lời nói của ta tuy thành thật và ta thật sự có tình thương và sự hiểu biết để hiến tặng nhưng ta đừng tưởng là cô hồn có thể chấp nhận ngay được. Đó là vì khả năng tiếp nhận của cô hồn rất bé nhỏ, đó là vì cổ họng của cô hồn nhỏ bé như cây kim. Ngay giữa chúng ta cũng có những cô hồn như vậy. Thầy thương ta, sư anh, sư chị và sư em thương ta nhưng ta không tiếp nhận được. Ta nghi ngờ đó là lời nói suông ngoài miệng và ta không thể tiếp nhận. Khả năng tiếp nhận tình thương và sự hiểu biết của ta rất nhỏ bé. Có thể là ta chịu trách nhiệm về điều đó, mà xã hội, gia đình và cha mẹ cũng chịu một phần trách nhiệm về điều đó. Vì vậy một trong những dấu hiệu của tình thương đích thực là kiên nhẫn; thương là phải kiên nhẫn. Ngày hôm nay người kia chưa thấy được tình thương của ta nhưng hy vọng mai mốt, tháng sau hoặc năm sau người ấy sẽ thấy được tình thương của ta và sẽ chấp nhận. Thương mà bị hiểu lầm hoặc bị lên án là không thương, đó là chuyện cơm bữa. Vì vậy tình thương chân thật thường được biểu hiện bằng sự kiên nhẫn. Ta hãy cứ thương và cứ tiếp tục thương.

Trong nghi thức này có một câu thần chú có thể giúp cho cổ họng của cô hồn lớn lên, trở lại được kích thước bình thường của một con người, đó là câu thần chú Khai Yết Hầu. Khai yết hầu chơn ngôn tức là chơn ngôn mở rộng cổ họng ra, đọc là Án bộ bộ đế, rị dà rị đa rị, đát tha nga đa da. Không phải chỉ đọc suông câu thần chú đó mà ta có thể làm cho cổ họng cô hồn trở về bình thường. Ta phải có thật nhiều kiên nhẫn, thương yêu và thông minh mới có thể giúp cho cô hồn kia phục hồi khả năng tiếp nhận hiểu biết và thương yêu. Nghi thức này dựa trên giáo lý căn bản của kinh Hoa Nghiêm là tất cả đều do tâm biểu hiện. Tâm như là một họa sĩ, có thể vẽ ra tất cả mọi sự mọi vật. Thế giới của chúng ta là do tâm sáng tạo ra. Tâm cọng đồng và tâm cá nhân. Địa ngục cũng do lòng người, tịnh độ cũng do lòng người mà phát hiện. Nếu muốn có địa ngục ta chỉ cần vẽ ra địa ngục, nếu muốn có tịnh độ ta chỉ cần vẽ ra tịnh độ và ông thợ vẽ ấy là tâm chúng ta. Tâm như họa sư (mind as painter) và cùng với nhau chúng ta có thể sáng tạo ra một tịnh độ cho chúng ta và cho những người tới với chúng ta. Cùng với nhau ta có thể sáng tạo ra một địa ngục để cùng chịu khổ với nhau và để làm khổ những người tới với chúng ta. Đó là giáo lý đầu của Hoa Nghiêm. Giáo lý thứ hai là trùng trùng duyên khởi, nghĩa là không có một hiện tượng nào chỉ biểu hiện từ một nhân duyên, phải có nhiều lớp duyên khởi trùng trùng với nhau thì mới có thể làm cho một hiện tượng biểu hiện ra được. Cái một được làm bằng cái tất cả, và cái tất cả được thấy trong cái một. Ví dụ trong một bông hoa nếu nhìn kỹ thì ta sẽ thấy tất cả vũ trụ.

Nam mô Bụt và Bồ Tát trên hội Hoa Nghiêm
Nam mô Bồ Tát Diện Nhiên Vương

Diện Nhiên Vương là một vị Bồ tát có khuôn mặt rất dữ. Diện Nhiên là bộ mặt có lửa cháy bừng. Trong những lễ cúng cô hồn người ta rất cần tới Bồ tát Diện Nhiên Vương. Thường thường một Bồ tát như Bồ tát Quán Âm thì mặt mày rất phúc hậu, tươi mát và dễ thương tại vì Bồ tát Quan Âm tượng trưng cho tình thương và sự lắng nghe. Nhưng Diện Nhiên bồ tát lại là một vị bồ tát có khuôn mặt dữ dằn. Lửa cháy từ hai con mắt, lửa bốc ra từ miệng và hai tai bồ tát cũng đang bốc lửa. Vẻ mặt bồ tát rất dữ. Tại sao một vị bồ tát lại có vẻ dữ dằn như vậy? Tại vì ở đây ta cần tới một nhân vật có thể điều phục được những thành phần thuộc vào hàng ác đạo như địa ngục và ngạ quỷ. Vì vậy cho nên phải có một nhân vật rất cứng và rất hùng mới có thể nhiếp phục được những giới đầu trâu mặt ngựa kia. Nhưng nhìn vào trong chiều sâu, người ta thấy có một tình thương rất rộng lớn và ta khám phá ra rằng bồ tát Diện Nhiên không phải là ai ngoài đức Quán Thế Âm. Đức Quan Thế Âm có thể hiện ra thành một người phụ nữ rất hiền dịu, tươi mát nhưng chính Quán Thế Âm bồ tát thỉnh thoảng cũng phải hiện ra như một Diện Nhiên dữ dằn mới có thể trị nổi những âm binh, những chúng sanh đầu trâu mặt ngựa. Hiện giờ đây chung quanh chúng ta có những thanh niên thuộc vào các băng đảng mang theo trong người những chất liệu có thể giết người. Những người ấy có cảm tưởng chưa bao giờ được thương được hiểu. Những người đó khó mà có lòng từ bi và vì vậy họ đã và đang tạo ra biết bao nhiêu tội ác, bao nhiêu là bạo động trong xã hội. Khi tới với họ ta tới bằng một khuôn mặt rất từ bi nhưng thỉnh thoảng ta cũng tới với tính cách của một người rất cứng rắn, mang luật pháp tới để cho họ được nhiếp phục. Vì lý do đó tình thương khoác nhiều hình thức khác nhau, và Diện Nhiên Vương là một hình thức rất đặc biệt. Ở Việt Nam có những người lái xe hàng thuộc về giới anh chị Cầu Muối, không sợ ai hết ‘dọc ngang nào biết trên đầu có ai’, chửi hết tất cả mọi người từ trên xuống dưới. Nhưng khi lái xe từ Sài Gòn lên Đà Lạt, đi ngang qua những khúc quanh trên núi, thấy những miếu thờ sơn đỏ họ biết rằng tại các khúc quanh này đã có nhiều chiếc xe đổ và rất nhiều người chết. Người ta đã lập miếu để thờ họ và người ta nói rằng nếu anh cứng đầu ương ngạnh thì các thần linh và những oan hồn uổng tử kia đó sẽ vặn cổ anh. Khi đi ngang những nơi ấy tự nhiên anh sẽ choáng váng hoa mắt rồi anh bẻ tay ngược để rơi xuống đó và anh cũng sẽ chết như nạn nhân đi trước đó. Vì vậy những anh chàng thiên lôi đánh không chết ấy mỗi khi lái xe ngang các nơi ấy là dở nón xuống và cúi đầu một cách rất cung kính. Miếu thờ cô hồn ở các khúc quanh đó chính là một Diện Nhiên Vương, vì vậy có thể điều phục được những tay anh chị kia mà thôi. Ngoài ra, công an, tỉnh trưởng, quận trưởng và thầy tu không điều phục được những anh chàng đó. Vậy thì Diện Nhiên Vường bồ tát là hiện thân của chúa tể các loài quỷ có khả năng điều phục được giới cô hồn ngạ quỷ, đây là một hành động gọi là đồng sự. Bồ tát nói ‘‘mày lôi thôi thì mày biết tao’’ nhưng bồ tát không nói bằng cái tâm giận hờn, trách phạt và ghét bỏ. Trong lòng bồ tát có một niềm thương rất lớn và biết rằng điều phục bọn này bồ tát phải dùng những hình thức rất kiên cường mới được. Chúng ta cần tới những nhà tù, những ông cai tù và những người cảnh sát tại vì trên thế giới có những người bạo động, gây ra án mạng, gây ra tội ác và đối với những người ấy ta phải dùng đến những biện pháp như còng tay hoặc nhốt vào trong tù, hoặc áp dẫn hoặc đưa ra tòa án. Nhưng chúng ta cũng biết rằng những người cai tù và cảnh sát khi làm những công việc như vậy phải biết sử dụng một trái tim bồ tát. Chừng nào họ làm được như thế thì ta mới yên tâm. Khi vị bồ tát hành động dưới hình thức của một người cai tù, một ông tòa, một cảnh sát thì thế giới này mới thực sự giúp đỡ được cho những thành phần bất hảo của xã hội. Tại sao họ đã trở thành những thành phần bất hảo? Tại vì họ đã không được chấp nhận bởi cha mẹ, bởi nhà thờ, bởi gia đình, bởi bè bạn, bởi xã hội.Vì họ không có cơ hội cho nên họ đã phản kháng, đã đi tìm ma túy, đã đi tìm bạo động. Chúng ta phải có những biện pháp rất cứng rắn để có thể ngăn ngừa những phần tử đó không gây thiệt hại và tội ác trong xã hội. Nhưng trong khi xử dụng những biện pháp mạnh đó ta phải có trái tim của vị bồ tát. Ta phải trao trái tim ấy cho các giới quan tòa, cảnh sát, cai tù. Hình ảnh của bồ tát Diện Nhiên Vương là hình ảnh mẫu mực của người hành động cứng rắn trong xã hội. Anh có thể là người cai tù nhưng anh vẫn có thể là một vị bồ tát. Anh có thể là một chánh án tòa thiếu nhi hay là tòa thượng thẩm nhưng anh vẫn là một vị bồ tát. Anh có thể là người cảnh sát có súng nhưng anh vẫn có thể là một vị bồ tát và súng của anh không bao giờ được sử dụng để giết người. Chúng ta phải đưa giáo lý hiểu và thương của Bụt vào trong tất cả ngõ ngách của cuộc sống xã hội. Đêm qua hồi 11 giờ khuya, Mỹ và Anh đã oanh tạc Iraq trong sáu giờ đồng hồ liên tiếp và có một số thường dân bị thương đã phải chở vào trong nhà thương. Cuộc oanh tạc này có thể tiếp tục trong những ngày tới. Chúng ta hãy cầu nguyện cho bạo động này chấm dứt sớm. Chúng ta cầu nguyện cho giọt nước cam lồ của bồ tát Quán Thế Âm có thể giọt xuống trong trái tim của tổng thống Clinton, của thủ tướng Tony Blair, và của nguyên thủ Sadam Hussein.

‘‘Cứu khổ Quán Âm thị hiện Tiêu Diện quỷ’’, đó là hai câu trong một bài tán trạo của nghi thức chẩn tế. Đức Quán Âm cứu khổ thị hiện ra quỷ Tiêu Diện. Quỷ Tiêu Diện tức là một quỷ sứ lãnh đạo quỷ sứ, cái mặt của Tiêu Diện cháy rần rần và chỉ có một vị lãnh đạo quỷ sứ mới có thể cai trị được quỷ sứ, cũng như chỉ có một thủ lĩnh của băng đảng mới cầm đầu được băng đảng. Cho nên đức Quán Thế Âm bồ tát đã thị hiện ra là một vị lãnh đạo của quỷ sứ. Tiêu Diện là ông Tiêu. Ở các chùa chúng ta thường thấy tượng của Tiêu Diện đại vương cầm một lá cờ và thống lãnh các đoàn quỷ sứ đi sau. Chỉ có Tiêu Diện đại vương mới giữ được cho bọn quỷ sứ ở phía sau lưng đi đứng có trật tự để tới tham dự vào Pháp hội cúng dường tổ chức tại chùa, để cho các giới ngạ quỷ và cô hồn được dịp nghe kinh, tiếp nhận những thức ăn nhà chùa cúng dường để mà chuyển hóa và sanh về tịnh độ. Vai trò của Tiêu Diện đại vương hay là của quỷ Tiêu Diện rất quan trọng. Tiêu Diện hình thức rất dữ dằn nhưng nội dung là tình thương.

Lửa dữ bừng bừng cháy bốn bên
Cô hồn nóng bức khổ triền miên
Cô hồn nếu muốn sinh tịnh độ
Hãy lắng nghe đây kệ Bụt truyền

Đây là cảnh của địa ngục. Địa ngục có lửa, không những lửa cháy ở một bên mà cháy luôn cả bốn bên. Sự thực là lửa đang cháy ở lòng người, tất cả chúng ta những người nào đã từng trải qua những giai đoạn khổ đau thì đã biết thế nào là địa ngục, và địa ngục kia không phải chỉ cháy một bên mà cháy luôn bốn phía và ta không có đường thoát. Nó như một lòng chảo và dù có muốn thoát ta cũng không thoát được. Những lúc đó chúng ta hết sức cô đơn. Chúng ta mong có một vị bồ tát đi xuống để kéo ta ra khỏi biển lửa kia. Đó là hỏa ngục. Có một Phật tử từ Việt nam viết thư cho thầy ‘‘Bạch Thầy, hồi khuya con thấy Thầy tới và Thầy bắc một chiếc thang cho con leo ra khỏi cái chỗ mà con đang bị giam hãm.’’ Người Phật tử đó đã từng gặp Thầy ba mươi mấy năm về trước. Đã từng được dịp tu học nhưng sau đó lại đã rơi xuống địa ngục của đau khổ, và trong giấc mơ anh đã thấy thầy đem thang tới để anh có thể leo lên. Chúng ta cũng vậy, trong những khi bị bủa bây bởi khổ đau, bởi lửa dữ, chúng ta thường mong có một vị bồ tát tới thả một sợi dây hoặc bắc một cái thang để chúng ta có thể thoát ra. Vị bồ tát đó là ai? Đó là một câu hỏi. Và chúng ta có thể là vị bồ tát đó đối với một người khác hay đối với chính ta. Khổ triền miên là khổ không bao giờ chấm dứt. Địa ngục là nơi ngược với tịnh độ. Những vùng trong đó chúng ta bị kẹt vào. Kẹt không hẳn là do người khác lùa ta vào mà chính là do ta đã tìm tới những chỗ đó. Những vùng xì-ke ma túy, những vùng hận thù, băng đảng, tất cả những vùng đó có thể là chính chúng ta đã tìm tới. Chúng ta đã tự muốn tìm tới những chỗ đó chứ không phải là người ta đã lùa và nhốt chúng ta vào những vùng đó. Một cuộc nhân duyên, một sự kết hợp giữa hai người với nhau có thể đã trở thành ra một vùng hỏa ngục và vùng hỏa ngục đó là do chính hai người tạo tác. Bây giờ chúng ta muốn thoát ra và đi tới một nơi không có lửa cháy như vậy, một nơi mà ta có thể bước những bước nhẹ nhàng, an nhiên, thảnh thơi, vững chãi: đó là tịnh độ. Khi đang ở trong hỏa ngục người ta rất khao khát tịnh độ và tìm mọi cách để thoát ra khỏi hỏa ngục để có thể bước vào tịnh độ. Và cô hồn nếu muốn sinh lên tịnh độ thì phải lắng nghe và hiểu một câu nói của Bụt. Đó là bài kệ mở đầu nghi cúng cháo. Lời kệ này rất quan trọng. Quan trọng cho đến nỗi trước khi đọc kệ ta phải có một lời khai thị. Tới bài kệ ấy thì phải tụng với tất cả tâm hồn của chúng ta. Bài kệ ấy được trích trong kinh Hoa Nghiêm nên chúng ta đã bắt đầu nghi thức này bằng câu: Nam mô Bụt và Bồ Tát trên hội Hoa Nghiêm.

Nếu ai muốn thấy và muốn hiểu
Chư Bụt có mặt trong ba đời
Người ấy phải quán chiếu pháp giới
Tất cả đều do tâm mà thôi

Người đem sợi dây hay là cái thang tới để cứu ta ra khỏi hỏa ngục là ai? Là Bụt. Nếu muốn thấy Bụt, hiểu Bụt thì phải nhìn cho kỹ tất cả những gì xung quanh ta và trong ta để thấy được sự thật là tất cả đều do tâm ta sáng tạo ra hết, trong đó có địa ngục của ta. Địa ngục của ta là do ai tạo tác? Do tâm ta tạo tác ra. Đó gọi là duy tâm. Nguyên văn chữ Hán:

Nhược nhân dục liễu tri
Tam thế nhất thiết Phật
Ưng quán pháp giới tánh
Nhất thiết duy tâm tạo.

Bài kệ 28 chữ của tiếng Việt là được dịch từ bài kệ 20 chữ trong kinh Hoa Nghiêm. Liễu tri là biết cho tận gốc, biết tường tận. Người nào muốn biết một cách tường tận thế nào là các đức Bụt trong ba đời quá khứ, hiện tại và vị lai thì cần phải nhìn sâu vào bản chất của pháp giới. Thường thường chúng ta phân biệt thế giới (lokadhatu) và pháp giới (dharmadhatu). Thế giới cũng là pháp giới, nhưng thế giới là cái mà người phàm trông thấy còn Pháp giới chỉ người giác ngộ mới trông thấy. Trong thế giới của người thường thì cái này nằm ở ngoài cái kia, và vạn vật có có có không, có tới có đi, có sanh có diệt. Còn người giác ngộ nhìn vào trong thế giới thì không thấy thế giới mà chỉ thấy Pháp giới, tức là thấy được tính duyên sinh của mọi sự mọi vật. Cái này không nằm ngoài cái kia mà cái tất cả nằm trong cái một và cái một trong cái tất cả. Thấy được như vậy là thấy được Pháp giới. Còn nếu thấy có sự chia rẽ, có sự cô đơn, có sự kỳ thị thì cái đó còn là thế giới. Tâm không giác ngộ thì chỉ thấy thế giới, còn tâm giác ngộ thì thay vì thấy thế giới ta thấy được Pháp giới. Chúng ta phải biết rằng địa ngục mà trong đó chúng ta đang sống là một sáng tạo của tâm thức cá nhân và cộng đồng và chúng ta có thể thoát ra được. Nếu tâm tạo ra địa ngục thì tâm cũng có thể làm ngưng địa ngục. Nếu chúng ta làm cho tâm tịnh độ phát hiện thì tự nhiên tịnh độ sẽ phát hiện. Chán ghét hỏa ngục, mong ước tịnh độ thì tự nhiên tâm ta sẽ hướng về tịnh độ. Quay lưng lại địa ngục và xoay mặt về tịnh độ, thì thế nào tịnh độ cũng hiện tiền. Đó là giáo lý của kinh Hoa Nghiêm. Là người cúng cháo, là người hành trì, ta phải nắm cho vững giáo lý này, tại vì chính tâm thức của ta mới khai thị được nẻo thoát cho cô hồn. Cô hồn là những người đói khát, khổ đau và cô đơn và vì thế ta phải làm thế nào để giúp cho cô hồn mở mắt ra được và mở cổ họng ra được. Vai trò của chúng ta rất quan trọng, vai trò của chúng ta phải là vai trò của bồ tát Quan Thế Âm. Chúng ta phải có kiên nhẫn, phải có định lực. Trong nghi thức cúng cháo ta phải tụng với tất cả tâm chí thành của mình. Ta phải hoàn toàn có mặt, phải đọc những câu kinh và những câu chú hết sức vững chãi, và an trú trong định. Trong khi cúng cháo nếu tâm ta vướng bận sự buồn giận thì rất tội nghiệp cho cô hồn và nhất là tội nghiệp cho chúng ta. Tại vì chúng ta đang làm như một cái máy, chỉ làm được phần hình thức mà thôi.
Trên đây là phần khai thị giáo lý siêu tuyệt của Bụt trong kinh Hoa Nghiêm. Bây giờ đến phần trì chú. Câu thần chú đầu tiên là chân ngôn phá địa ngục. Chúng ta biết rằng địa ngục này đã được sáng tạo bằng tâm thì muốn phá địa ngục đó ta cũng phải phá bằng tâm chứ không phải bằng bom đạn.

Chân Ngôn Phá Địa Ngục
Án dà ra đế da ta bà ha

Đang ở địa ngục thì ta phải tham gia vào việc phá địa ngục. Người thương của ta đang ở địa ngục thì ta phải tới phá địa ngục và đưa người ấy ra. Địa ngục không phải là chuyện trong tương lai, địa ngục là chuyện hiện tiền, vì khi chúng ta rơi vào trong giận dữ, ganh tị và tuyệt vọng là chúng ta đã rơi vào địa ngục lửa cháy. Chúng ta phải tìm cách thoát ra địa ngục liền lập tức và thoát bằng nẻo của tâm vì chính tâm đã làm ra địa ngục thì chính tâm sẽ phá được địa ngục. Địa ngục Hỏa Lò, khám Chí Hòa cũng từ tâm mà ra cả. Trong liên hệ giữa ta với người kia nếu ta đã tạo ra một hỏa ngục thì cả hai phải biết dùng tâm để phá hỏa ngục đó mà thoát về tịnh độ. Và ta có những vị bồ tát trong ta và chung quanh ta để giúp ta làm chuyện đó. Địa ngục đó ở ngay trong tâm ta, ta đừng than vãn là địa ngục đó đã được xây dựng bởi một người khác. Chính ta đã góp phần chủ động xây dựng địa ngục đó cho ta. Người ta đã cảnh cáo, nhưng ta đã cứ khăng khăng đi vào đó, nghĩ rằng chỉ có đi về hướng đó mới có hạnh phúc. Cái không phải là hạnh phúc mà ta gọi là hạnh phúc, cái không phải là tự do mà ta tưởng là tự do, đó gọi là điên đảo. Sau khi phá địa ngục rồi thì ta tụng chân ngôn tiếp theo là Chân

Ngôn Phổ Triệu Thỉnh:
Nam mô bộ bộ đế rị dà rị đa rị đát tha nga đa da

Phổ triệu thỉnh là mời hết, không chừa ai. Tất cả những người khổ, tất cả những loài đang khổ đau, dù là trong địa ngục nào, ta cũng thỉnh mời hết tại vì cúng dường đây là cúng dường không phân biệt. Da trắng cũng mời, da đen cũng mời, da vàng cũng mời, da đỏ cũng mời, không kỳ thị. Tinh thần của buổi cúng cháo là tinh thần vô già. Vô già là không ngăn, không tạo ra một trở lực nào cho bất cứ ai. Mở hết cửa, tất cả mọi người đều được vào hết, đều có cơ hội như nhau. Khi chúng ta tổ chức một đàn chay hay một cuộc chẩn tế thì đàn chay đó và cuộc chẩn tế đó được gọi là Vô Già Hội. Cũng như hiện bây giờ các thầy và các sư cô đang cứu trợ nạn lụt ở Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam và Quảng Ngãi với sự hợp tác của Làng Mai. Sự cứu trợ đó mở rộng ra cho tất cả mọi người. Người Phật tử cũng được cứu trợ, người Thiên chúa cũng được cứu trợ, đàn ông, đàn bà, trẻ em đều được cứu trợ hết không chừa ai, đó gọi là vô già. Sau đó ta

tụng đến Chân Ngôn Mở Oan Kết:
Án, tam đà ra già đà ta bà ha.

Oan kết là những sợi dây oan ức. Giải oan là một danh từ rất phổ thông trong đạo Bụt. Ta đang lái xe một cách thảnh thơi thì bị một người say đụng vào xe ta. Ta chết, con ta chết, vợ ta chết, để lại cha mẹ không ai chăm sóc, đó là một cái oan. Chúng ta không làm nên tội lỗi gì mà tự nhiên bị lên án chung thân khổ sai. Những cái oan như vậy xảy ra khắp nơi. Chúng ta đang còn trẻ mà tự nhiên bị lâm vào vòng ma túy, tiêu diệt cả cuộc đời, cả thân tâm chúng ta, đó là một cái oan. Những oan ức trong cuộc đời rất nhiều. Những oan ức đó không phải là không có lý do. Chúng ta đã vì dại dột, chúng ta đã không có điều kiện tốt cho nên những thống khổ, những sợi dây oan nghiệt kia đã tới cột vào, và chúng ta không thoát ra được nữa. Thần chú này là để cởi ra những sợi dây oan. Chúng ta đã tạo ra những nhân gì trong quá khứ để bây giờ chúng ta tiếp nhận oan khổ. Khi tạo ra những oan khổ cho người chúng ta thường không biết, bây giờ đây những sợi dây oan khổ đó trở lại cuốn vào chúng ta. Oan khổ này tiếp nối oan khổ khác. Oan oan tương báo. Bất cứ một hành động nào, một lời nói nào hay một cử chỉ nào gây đau khổ cho người cũng đã lên đường tiếp tục gây đau khổ cho người kia, và gây đau khổ trở lại cho chúng ta, rồi gây đau khổ liên tiếp cho con cháu người kia và cho con cháu chúng ta. Cứ như vậy nỗi oan kéo dài. Hận thù tiếp diễn, hận thù đó chúng ta có thể thấy ngay trong thế giới hiện tại. Giữa những người Palestine và những người Israel, giữa những người Hindu và những người Muslim, giữa người da trắng và da đen, giữa dòng họ này và dòng họ khác, giữa dân tộc này và dân tộc khác. Bên Anh, Mỹ, Âu Châu, Á Châu, Phi Châu nơi nào cũng có những oan ức triền miên kéo dài từ đời này sang đời khác. Bụt dạy rằng nếu muốn chấm dứt oan khổ phải dùng từ bi, nếu giải quyết oan khổ bằng oan khổ thì oan khổ không bao giờ chấm dứt được. Lấy oán báo oán, oán ấy chập chùng, lấy đức báo oán, oán ấy tiêu tan. Nếu chúng ta lấy sự oán hận để đáp lại oán hận thì oán hận ấy sẽ kéo dài bất tuyệt, còn nếu biết lấy đức từ bi và hiểu biết mà đáp ứng với cái oán thì oán đó sẽ tiêu tan, đó là giáo lý của Bụt. Dĩ đức báo oán. Lấy tình thương đối lại hận thù thì ta có thể chấm dứt được luân hồi của hờn oán và đó là chân ngôn mở oan kết. Chúng ta phải dùng sự hiểu biết và thương yêu để đáp ứng lại hận thù và bạo động thì đó mới đúng với lời Bụt dạy và chỉ khi nào chúng ta nghĩ được và làm được như vậy thì câu thần chú này mới thành ra hiện thực mà thôi. Ba câu thần chú này phải tụng lên bằng tất cả tuệ giác của chúng ta mới được. Khi chúng ta tụng ba câu thần chú đó thì hạt giống từ bi, hiểu biết và thương yêu trong chúng ta được tưới tẩm và từ trong chúng ta tỏa ra năng lượng của Bụt và của các vị bồ tát. Lúc đó các cô hồn mới có thể tiếp nhận được mà thôi. Quyền quyết định là ở người cúng cháo. Trước hết ta phải có năng lực định cho thật mạnh để có thể phá địa ngục, nếu người cúng cháo đang ở trong địa ngục thì không có cách gì mà phá được địa ngục cho người khác. Cũng như khi đang đứng trong một cái lu thì ta không thể vần cái lu đi chỗ khác được. Muốn vần cái lu đó đi thì chúng ta phải nhảy ra ngoài cái lu. Đó là một hình ảnh thường dùng của người Việt. Cũng vậy, anh là người muốn phá địa ngục cho người khác thì anh phải thoát ra khỏi địa ngục của anh trước. Muốn mở những sợi dây oan của người khác thì những sợi dây oan khổ của mình ta phải mở ra trước. Nghĩa là chúng ta phải có từ bi và không chất chứa hận thù nữa. Không hận thù cha, mẹ, không hận thù cuộc đời thì lúc đó ta mới có thể mở miệng ra đọc được câu thần chú giải oan.

Nam mô Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm

Đây là niệm Pháp, vì kinh Hoa Nghiêm (Avatamsaka sutra) là cơ bản của sự thực tập cúng dường này. Thay vì niệm Bụt trước thì ta niệm Pháp trước. Phương Quảng (Vaipulya) là rộng lớn, ‘‘Đại Phương Quảng’’ là rất rộng lớn. Phương Quảng đối với A-hàm. A-hàm thường được gọi là bước đầu, dạy cho những người tân học, Phương Quảng là mở rộng ra, chỉ bày những chân trời giáo pháp rộng lớn hơn. Hoa Nghiêm tức là làm cho đẹp, làm cho trang nghiêm bằng hoa, trang điểm Bụt bằng hoa.

Nam mô Bụt thường trú mười phương
Nam mô Pháp thường trú mười phương
Nam mô Tăng thường trú mười phương

Những câu niệm Bụt này là để hướng dẫn cho các cô hồn biết hướng về Tam Bảo, tại vì địa ngục đã phá rồi, cô hồn đã được triệu thỉnh tới đầy đủ rồi, những nỗi oan kết đã có thể mở ra và bây giờ niệm Bụt để cho tâm tư cô hồn thanh thản lại. Thường trú nghĩa là luôn luôn có mặt. Bụt không phải chỉ có mặt trong quá khứ và ở một địa phương. Bụt có mặt trong hiện tại và ngay trong địa phương này. Bụt đã vậy, mà Pháp và Tăng cũng vậy, luôn luôn có mặt trong giây phút hiện tại, bây giờ và ở đây.

Nam mô Đức Bụt Thích Ca Mâu Ni
Nam mô Đức Bồ Tát Đại Bi Quán Thế Âm
Nam mô Đức Bồ Tát Cứu Khổ Địa Tạng Vương
Nam mô Đức Tôn Giả Khải Giáo A Nan Đà

Địa Tạng Vương là một vị bồ tát có nguyện lớn là nơi nào có địa ngục thì nơi đó bồ tát phải có mặt. Danh hiệu của bồ tát là Địa Tạng Vương. Minh tức là cõi u minh, nghĩa là cõi âm, minh này không có nghĩa là sáng. Dương tức là cõi trần thế. Người cứu độ cho cả cõi âm và cõi dương được gọi là Minh Dương Cứu Khổ Địa Tạng Vương. Hình ảnh của bồ tát Địa Tạng Vương là một hình ảnh tiêu biểu, vì chính ở đây sự đối tượng cúng dường, đối tượng của tình thương và của sự thực tập là những người cô hồn. Vì vậy bồ tát Địa Tạng Vương đóng một vai trò quan trọng. Sự đau khổ đó có mặt trong cả cõi dương và cõi âm. Cõi dương nằm trong cõi âm và cõi âm nằm trong cõi dương. Đó là giáo lý tương tức. Cõi dương cũng như cõi âm đều nằm trong cõi dương hết. Trong chùa mỗi khi thỉnh chuông đại hồng chúng ta hay xướng bài kệ:

Hồng chung sơ khấu
Bảo kệ cao âm
Thượng triệt thiên đường
Hạ thông địa phủ.

Nam mô u minh giáo chủ Địa Tạng Vương Bồ Tát!

Hồng chung sơ khấu tức là chuông lớn vừa mới khua lên. Bảo kệ cao âm là bài kệ quí báu đã được xướng lên. Thượng triệt thiên đường là phía trên thì tiếng chuông lên tới thiên đường. Hạ thông địa phủ là phía dưới tiếng chuông đi thẳng tới địa ngục. Chúng ta dịch bài kệ trên là:

Chuông đại hồng mới vọng
Tiếng kệ xướng đã vang
Trên vọng tới thiên đường
Dưới thông về địa phủ.

Nam mô Đức Bồ Tát Địa Tạng giáo chủ cõi u minh!

Chúng ta làm như thỉnh chuông chỉ là để cho cõi trời và cõi âm nghe thôi, còn với chúng ta thì chuông này không có hiệu lực gì. Thỉnh chuông như vậy là chỉ thỉnh cho cõi trời và cõi địa ngục. Chúng ta biết rằng trên cõi thiên nghe tiếng chuông thì chư thiên rất lấy làm hạnh phúc. Vì sao? Vì họ biết rằng họ đang ở trong một hoàn cảnh rất may mắn. Dưới cõi âm mà nghe tiếng chuông thì người ta thức tỉnh, bớt khổ đau, người ta biết niệm Bụt và có hy vọng thoát ra khỏi khổ đau. Còn chúng ta người cõi dương tại sao không nói tới? Bây giờ có những nơi đạo Phật chỉ phục vụ cho người chết. Người ta tới chùa không phải để tu tập mà chỉ để làm đám. Người ta gọi đó là funeral Buddhism, chuyện đó đã xảy ra mọi nơi nhất là ở Nhật Bản. Đạo Phật không phục vụ nhiều cho người sống, chỉ chuyên phục vụ cho người chết. Điều này ta cần để ý. Câu Nam Mô Minh Dương Cứu Khổ rất quan trọng. Minh dương tức là cả cõi âm và cõi dương. Tiếng chuông trước hết là được thỉnh cho cõi dương và nghi thức cúng cháo này tuy gọi là cúng cho cô hồn nhưng kỳ thực những cô hồn sống cũng rất cần tới chúng ta. Quanh ta có biết bao nhiêu cô hồn đang đói khát, đang khổ đau, đang ở trong địa ngục, cho nên chúng ta phải trở về, phải thấy địa ngục ngay trong hiện tại, bây giờ và ở đây. Cúng cháo không phải chỉ là hướng về cõi u minh mà còn là để nhận thấy tình trạng hiện tại của thế giới. Đừng đi tìm cô hồn đâu xa, ta hãy nhận ra cô hồn ngay trong bản thân ta và chung quanh ta. Khải giáo tức là mở ra giáo pháp. Tại vì đức A Nan đã là một nguồn cảm hứng để Bụt tuyên dạy nhiều giáo lý mầu nhiệm trong đó có giáo lý cứu bạt diệm khẩu cô hồn. Trong kinh Cứu Diện Nhiên Ngạ Quỷ Đà La Ni Thần Chú do thầy Bất Không đời Đường dịch có câu chuyện sau đây: một hôm thầy A Nan đang ngồi thiền trong chỗ vắng, có một con quỷ hiện ra, mặt cháy bừng bừng. Con quỷ đó tên là Diện Nhiên. Quỷ nói ‘‘Thầy biết không, trong ba ngày nữa thầy sẽ chết và thầy sẽ rơi xuống hỏa ngục.’’ Thầy A Nan sợ quá, tự hỏi bây giờ phải làm sao? Tại sao thầy A Nan phải sợ? Thầy là đệ tử Bụt, nghe giáo pháp mỗi ngày, tu tập mỗi ngày nhưng tại sao lại bị một con quỷ Diện Nhiên dọa nạt như vậy? Thầy A Nan hồi đó còn trẻ. Khi còn trẻ ta cứ nghĩ rằng ta sẽ trẻ hoài, sẽ không bao giờ già đâu, thành ra ta buông thả, không chịu tu tập cho đàng hoàng, phụ lòng thầy, phụ lòng tăng thân, vì vậy quỷ Diện Nhiên đã hiện ra cho biết là nếu tu hành kiểu đó thì mai mốt chết đi rơi xuống địa ngục đó là chuyện rất thường. Quỷ nói có cách là thầy phải tu tập rất nhiều từ bi, phải cúng dường cho kẻ đói khát. Thầy A Nan về bạch Bụt, Bụt nói: ‘‘Không sao đâu, để thầy chỉ cho.’’ Rồi Ngài dạy về phương pháp cúng dường và độ cho giới ngạ quỷ, từ đó về sau ta có truyền thống cúng cô hồn. Vì vậy thầy A Nan đã có được công đức khải giáo, nghĩa là mở bày được ra giáo pháp đó. Khải là mở ra. Như vậy trong phần niệm danh hiệu ta cần niệm kinh Hoa Nghiêm, niệm Tam Bảo thường trú trong mười phương, niệm các đức Thích Ca, Quán Âm và Địa Tạng và cuối cùng là đức A Di Đà nghĩa là tất cả những người có liên hệ trực tiếp tới nghi thức cúng cháo. Bây giờ đến phần sám hối và phát nguyện nghĩa là phần chuyển hóa. Chúng ta hướng dẫn cô hồn sám hối, vì sám hối và chuyển hóa là tiếp tục tháo mở những sợi dây oan kết đang thắt chặt trái tim của chúng ta và giam giữ chúng ta trong địa ngục. Và chúng ta biết rằng đối tượng của sự khai thị này không phải chỉ là cô hồn mà còn hai giới khác là giới Phật tử và giới hữu tình. Cô hồn là giới thứ ba nhưng không phải là giới ít quan trọng nhất (last but not least). Nghi thức này không quên những giới không phải cô hồn nhưng cũng khổ gần như cô hồn vậy, trong đó có giới Phật tử. Là Phật tử nhưng không tu hành đàng hoàng. Phật tử tức là những người có gia đình huyết thống và gia đình tâm linh nhưng không tu hành đàng hoàng, vì vậy đau khổ của Phật tử có thể sâu đậm như đau khổ của cô hồn.
Phật tử đã tạo ra nghiệp xấu

Có những Phật tử thành công trong sự tu tập nhưng có những Phật tử không thành công và cũng gánh chịu nhiều đau khổ. Vì vậy họ cũng cần cũng được khai thị để sám hối, phát nguyện, chuyển hóa và lìa xa địa ngục. Bởi vì Phật tử cũng có thể rơi vào địa ngục nếu không tu hành đàng hoàng. Nguyên văn là ác nghiệp, dịch là nghiệp xấu. Nghiệp xấu là những hành động, những tư duy và những lời nói tạo ra sự đổ vỡ. Khi giận, khi ghen, khi tức, khi u mê, ta nói những điều thất nhân ác đức, nghĩ và làm những điều rất tiêu cực. Đôi khi chúng ta muốn người kia chết đi cho khỏe và ta có thể giết người bằng tư tưởng của chúng ta. Không phải chỉ có cô hồn đã làm như vậy mà Phật tử thỉnh thoảng cũng đã làm như vậy. Chúng ta tự nhận là đệ tử của Bụt nhưng vì tham sân si, thỉnh thoảng chúng ta cũng tạo tác những nghiệp nhân như vậy. Chúng ta làm như vậy đối với cha mẹ, với thầy, anh, chị, em của chúng ta bằng nghiệp xấu.

Cũng vì tâm niệm tham sân si

Vì thèm khát, vì giận hờn và u mê mà chúng ta đã tạo những nghiệp xấu. Khi tụng câu này ta phải thấy rằng chính ta cũng có thể làm như vậy và trong khi ta trì tụng không những giới cô hồn với giới Phật tử được chuyển hóa mà chính trong chúng ta cũng chuyển hóa. Có sự chuyển hóa trong tâm chúng ta thì mới có được sự chuyển hóa ở chung quanh ta.

Từ thân, miệng, ý mà sinh ra
Tất cả Phật tử đều sám hối.

Phật tử là giới trong đó có ta. Vì vậy cho nên người cúng cháo cũng phải sám hối đồng thời với giới Phật tử. Bây giờ chúng ta lặp lại câu kệ đó với các loài hữu tình, nghĩa là tất cả mọi loài. Hữu tình (sentient being) là tất cả những hình thức của sự sống. Chúng ta không phải chỉ cúng cho giới Phật tử. Tuy ta không kỳ thị, nhưng vì thuộc về gia đình Phật tử cho nên chúng ta mời gọi giới Phật tử trước.

Mọi loài đã tạo ra nghiệp xấu
Cũng vì tâm niệm tham, sân, si
Do thân, miệng, ý phát sinh ra
Tất cả mọi loài đều sám hối.

Hữu tình ngược với vô tình. Tiếng phạn là satva. Bây giờ ta khai thị cho và sám hối với cô hồn.

Cô hồn đã tạo ra nghiệp xấu
Cũng vì tâm niệm tham, sân, si
Do thân, miệng, ý phát sinh ra
Tất cả cô hồn đều sám hối.

Chúng ta tụng bài kệ này là để hướng dẫn cho cả ba giới sám hối và trong khi đó chúng ta cũng phải chí thành sám hối thì mới thành công được. Nghi thức này không phải chỉ để cho cô hồn, mà còn cho chúng ta và cho những người khác đang nghe kinh, những người chung quanh chúng ta. Sau khi sám hối rồi chúng ta thực tập phát nguyện.

Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.

Phát nguyện tức là đem một nguồn năng lượng vào trong cơ thể và trong tâm hồn của mình. Khi chúng ta là những cô hồn vất vưởng thì chúng ta không có nguồn năng lượng nào hết. Không có sức sống, ta thấy thân tâm rã rời vì đối với ta cuộc đời không nghĩa lý gì cả. Ở đây người hành giả tìm cách tạo tác ra một nguồn năng lượng. Trông thấy cái đau khổ của mọi loài như vậy ta muốn thoát ra, muốn vươn lên, muốn cứu trợ, vì vậy mục đích của câu này là làm phát khởi bồ đề tâm trong mỗi cô hồn, mỗi chúng sanh. Vì sao vậy? Tuy cô hồn dữ dằn như vậy, đầy dẫy nghi ngờ như vậy nhưng trong lòng họ vẫn có hạt giống của Phật pháp, của bồ đề tâm và ta phải đại diện cho Bụt và các vị bồ tát để chỉ cho họ biết rằng trong tâm họ cũng có những hạt giống tốt lành đó. Khi họ tiếp xúc được hạt giống bồ đề tâm thì tự nhiên một nguồn năng lượng ở trong con người họ bừng dậy và chính nguồn năng lượng đó sẽ làm cho họ thoát ra khỏi cảnh địa ngục và đi về các cõi tịnh độ. Đây là bốn lời nguyện lớn gọi là Tứ Hoằng Thệ Nguyện (the four great vows). Bốn lời thề lớn này làm cho năng lượng bồ đề tâm sung mãn và chính năng lượng này đưa chúng ta ra khỏi thế giới của địa ngục. Chúng ta thấy địa ngục này dày, rộng, không thể nào thoát được, nhưng chính năng lượng của bồ đề tâm sẽ đưa chúng ta thoát ra khỏi địa ngục đó. Chúng ta thấy rất rõ rằng giáo lý duy tâm trong này: tất cả đều do tâm. Nhiều khi ta có khuynh hướng chịu thua và buông xuôi nhưng khi được khai thị thì hạt giống của bồ đề tâm được tưới tẩm và chúng ta lại có năng lượng lớn và chính năng lượng đó đẩy chúng ta ra khỏi địa ngục.

Tự tánh chúng sanh thệ nguyện độ
Tự tánh phiền não thệ nguyện đoạn
Tự tánh pháp môn thệ nguyện học
Tự tánh Phật đạo thệ nguyện thành.

Cô hồn có thể nghi ngờ tại sao họ lại có thể làm được chuyện đó? Tại sao tôi có thể độ hết chúng sanh, đoạn hết phiền não, học được tất cả các pháp môn, thành tựu được cái vô thượng chánh đẳng chánh giác? Mọi người ai cũng có hạt giống nghi ngờ trong tâm. Chúng ta phải khai thị rằng khả năng đó, hạt giống của bốn hoằng thệ nguyện đó có sẵn trong tự tánh của mọi chúng sanh. Chúng ta không cần đi kiếm cái đó ở đâu xa. Chính trong mỗi người, mỗi cô hồn đều có tự tánh của sự thành Phật, của sự độ tha. Vì vậy ngay trong nghi thức cúng cháo này giáo lý đại thừa được thể hiện rất sâu sắc.

Sau khi hướng dẫn cho các giới cô hồn sám hối và phát nguyện rồi ta thực tập đến phần cúng dường. Chú đầu là chú diệt định nghiệp.

Chân Ngôn Diệt Định Nghiệp:
Án bát ra mạt lân đà nảnh ta bà ha

Diệt định nghiệp tức là phá bỏ cái nghiệp coi như là tiền định. Nghiệp riêng và nghiệp chung mà chúng ta đã gây ra và đã đưa chúng ta tới nẻo đường đen tối và khổ đau của hôm nay. Và chúng ta nghĩ rằng đó là định nghiệp, một hoàn cảnh không thể nào thoát ra khỏi được. Nhưng khi có sự can thiệp của chánh pháp, của tăng đoàn và của chư Bụt thì nghiệp quả đó lại có thể phá bỏ được và chúng ta có thể thoát ra khỏi tình trạng hiện tại. Nghiệp có hai thứ, một là nghiệp nhân, hai là nghiệp quả. Nghiệp nhân là những gì chúng ta tạo tác ra và nghiệp quả là những gì chúng ta phải gặt hái. Gieo gió thì phải gặt bão. Nhưng nếu có sự can thiệp của Bụt, Pháp, Tăng vào đó thì có thể có sự thay đổi. Giống như khi trồng bắp mà trời cứ tiếp tục nắng thì bắp sẽ cháy, sẽ khô, nhưng nếu chúng ta can thiệp bằng cách tưới thì cũng có thể tránh được tình trạng đồng bắp bị khô cháy. Đó là sự can thiệp của yếu tố từ bên ngoài, mà sự can thiệp đó là sự can thiệp của tăng đoàn, của giáo pháp và của đức Thế Tôn.

Chân Ngôn Diệt Nghiệp Chướng
Án a lỗ lặc kế ta bà ha

Chướng tức là những trở ngại, những chướng ngại. Trên bước đường tu tập giải thoát chúng ta thấy có những chông gai và chướng ngại thiết lập ra trước mặt ta. Ví dụ chúng ta quá bận rộn, không có thì giờ, không có cơ hội để tới với tăng thân, với sự tu tập. Chúng ta bị cái này hay cái khác kéo đi và điều ao ước lâu ngày của chúng ta là tới với tăng thân để tu tập đã không thực hiện được qua bao nhiêu tháng năm. Đó là một trong những yếu tố làm chướng ngại sự tu học, sự thành công, sự chuyển hóa của chúng ta. Những chướng ngại đó có thể vượt qua được để chúng ta có cơ hội thành tựu được những ước muốn sâu sắc của chúng ta. Câu chân ngôn này là câu chân ngôn diệt nghiệp chướng, tức là tháo bỏ tất cả những chướng ngại trên con đường đi của mình. Chân ngôn là những thần chú khi đọc lên có tác dụng thay đổi được tình trạng. Những linh chú như câu gate gate paragate parasamgate bodhi svaha là những chân ngôn rất phổ cập. Nguyên tắc của sự thực tập là khi chúng ta đọc lên một câu chân ngôn thì ba nghiệp ta phải thanh tịnh và hợp nhất. Thân khẩu ý hoàn toàn phối hợp với nhau trong một trạng thái thiền định vững chãi thì câu chân ngôn đó mới có kết quả. Nghĩa là chúng ta phải hoàn toàn có mặt, thân tâm hợp nhất thì câu chân ngôn đó mới có hiệu quả. Có một tông phái gọi là Chân Ngôn Tông. Tông phái này cho sự thực tập chân ngôn là quan hệ nhất. Đó cũng là Mật Tông.

Chân Ngôn Mở Rộng Yết Hầu:
Án bộ bộ đế rị dà rị đa rị đát tha nga đa da

Chúng ta đã biết rằng các cô hồn và quỷ đói bụng rất lớn mà cổ họng rất nhỏ. Trong buổi cúng cháo, chúng ta phải đọc câu chân ngôn mở rộng yết hầu với tất cả lòng từ bi. Người kia đầy nghi kỵ và ta phải làm thế nào cho người kia có niềm tin rằng tình thương là một cái gì có thiệt, sự hiểu biết và cảm thông cũng thế. Vì vậy câu chân ngôn này rất quan trọng.

Chân Ngôn Tam Muội Da Giới
Án tam muội da tát đỏa phạm

Chúng ta nên biết rằng nghi thức cúng cháo này đã phát sinh từ truyền thống Mật tông, vì vậy các câu chú này đều mang màu sắc Mật giáo. Tam muội da giới là một phép tiếp nhận năng lượng chánh niệm trước khi chúng ta có thể tiếp nhận phép quán đỉnh. Trong Mật tông phép quán đỉnh rất quan trọng, tức là phép rót nước tịnh lên đầu. Muốn tiếp nhận phép quán đỉnh thì trước hết phải tiếp nhận phép tam muội da giới. Đây cũng là mở cửa để cho các cô hồn và quỷ đói có thể có cơ hội gia nhập vào trong đoàn thể của những người tu học.

Chân Ngôn Biến Thực:
Nam mô tát phạ đát tha nga đa phạ lồ chỉ đế.
Án, tam bạt ra, tam bạt ra hồng

Chân ngôn biến thực tức là chân ngôn nương vào thần lực của Bụt và Bồ Tát để làm cho số lượng thức ăn đang dâng cúng trở thành ra đầy đủ cho mọi thành phần tới tham dự. Đọc ngang đây chúng ta nhớ tới câu chuyện trong thánh kinh Cơ Đốc Giáo. Một lần kia có nhiều người tới trình diện mà chúa Kitô chỉ có hai ổ bánh mì và năm con cá. Nhưng Chúa đã xử dụng hai ổ bánh mì và năm con cá đó để làm cho tất cả mọi người có mặt đều có đủ thức ăn. Trong kho truyện truyền kỳ của Việt Nam có một anh chàng tên là Thạch Sanh. Anh chàng có một nồi cơm rất nhỏ và không biết anh ta đã học được phương pháp nào đó và với cái nồi cơm nhỏ như vậy mà anh có thể xới cơm cho biết bao nhiêu binh lính ăn mà không hết, và đó cũng là khả năng biến thực, nghĩa là khả năng làm cho no đủ tất cả mọi người với một số lượng thực phẩm giới hạn.

Pháp Bụt thật phi thường
Bảy hạt đầy mười phương
Cúng dường khắp tất cả
Từ bi không biên cương.

Bài kệ này thường được dùng để chú nguyện trước khi xuất sinh trong các buổi cơm nghi lễ quá đường. Thần lực của Bụt rất phi thường, chỉ cần bảy hạt cơm thôi mà thực phẩm được biến thành vô số. Pháp giới rộng vô lượng nhưng bảy hạt cơm đó có thể là thức ăn cho tất cả chúng sanh, lý do là lòng thương không ngằn mé, không bờ bến. Chúng ta biết rằng hễ có tình thương thì cái gì cũng giải quyết được hết, mà không có tình thương thì cái gì cũng giới hạn hết. Khi ta có tình thương thì nhà chật ta cũng có thể nhận được hai ba chục người ngủ. Ngủ như cá hộp mà cũng vui lắm. Khi không có tình thương thì hai người ngủ cũng đã cho là chật và ta chê người này ngáy, người kia làm ồn. Cho nên tất cả đều tùy thuộc vào lòng từ bi. Hai ổ bánh mì, năm con cá cũng đủ cho cả làng ăn, nhưng nếu không có tình thương thì cả xe thức ăn cũng vẫn là ít như thường và người ta vẫn sợ hãi, tranh giành và xâu xé nhau. Vì vậy câu trả lời là ‘‘từ bi không biên cương’’, từ bi không ngằn mé thì cái gì cũng thực hiện được hết trong đó có thực phẩm.

Chân Ngôn Biến Thủy:
Nam mô tô rô bà gia, đá tha nga đá gia,
đát điệt tha, án, tô rô, tô rô, bạt ra tô rô,
bạt ra tô rô, ta bà ha.

Giới quỷ đói rất khát nên cần uống nước. Trong nghi thức cúng cháo thế nào cũng phải có nước, tốt nhất là nước lọc. Thường thường chúng ta hay cúng cháo là tại vì nếu lâu quá không được ăn thì những thức ăn cứng sẽ khó mà nuốt vào, vì vậy bắt đầu bằng cháo và nước trong thì rất hay. Cháo gạo nấu rất loãng là một phẩm vật cúng dường trong truyền thống. Nước này tuy chúng ta cúng có mấy chén thôi, nhưng nhờ câu chân ngôn biến thủy mà nước trở thành vô lượng cho tất cả các cô hồn. Uống nước này vào họ cảm thấy những khát khao và khổ sở của họ được tiêu tán. Trong khi tụng các chân ngôn biến thực và biến thủy chúng ta phải có định và phải làm cho lòng từ bi phát hiện. Phải thấy được những loài chúng sanh đói khát bao quanh đang chờ đợi lòng thương của chúng ta. Còn nếu trong khi tụng hai thần chú này mà không có định, mà suy nghĩ vẩn vơ, sầu não, giận hờn thì rất tội cho các loài chúng sanh. Có một chú điệu buổi chiều cúng cháo, nhưng không có định tâm vì hồi trưa chú đã làm mất chùm chìa khóa của thầy. Vì sợ thầy rầy nên trong khi tụng niệm đầu óc chú nghĩ toàn là chìa khóa. Tối hôm đó thầy trụ trì nằm mơ thấy các chúng sanh tới và than phiền rằng chiều hôm qua chỉ được cúng dường toàn chìa khóa bằng sắt thôi, không có gì cho họ ăn hết. ‘‘Chúng con thấy chìa khóa biến hiện ra rất nhiều, chỗ nào cũng có, đầy cả không gian, nhưng chúng con làm sao ăn chìa khóa được.’’ Chuyện này không biết có thật không nhưng là để nhắc các sư cô, sư chú khi cúng cháo tâm phải định chứ đừng nghĩ tới những chuyện ngoài chuyện cúng cháo với lòng từ bi, như chuyện chìa khóa chẳng hạn. Phải có lòng từ bi, và phải thực sự quán chiếu rằng đây là thức ăn, đây là nước. Chúng ta nhân danh đại chúng mà cúng dường cho các loài đang đói khát.

Chân Ngôn Nhất Tự Thủy Luân:
Án, noan noan noan noan noan

Trong khi ta đọc câu chân ngôn này thì nước dâng cúng trở thành ra nước có tám công đức (bát công đức thủy). Nước tám công đức là thứ nước có thể làm cho thỏa mãn mọi khát khao của con người. Nước tám công đức có thể rửa sạch được những phiền lụy và khổ đau của con người và cũng có thể làm cho thỏa mãn những ước vọng và khát khao của họ.

Chân Ngôn Biển Sữa:
Nam mô tam mãn đa một đà nẫm, án noan

Nước ta cúng dường đã trở thành ra sữa để cho những chúng sanh thiếu dinh dưỡng và đói khát lâu ngày có thể có được chất đạm. Nhũ hải là biển sữa. Tiếp ngay sau đó là ta đọc lên hồng danh của bảy vị Bụt. Bảy vị Bụt có liên hệ tới nghi thức cúng dường này.

Nam mô Đa Bảo Như Lai
Nam mô Bảo Thắng Như Lai
Nam mô Diệu Sắc Thân Như Lai
Nam mô Quảng Bát Thân Như Lai
Nam mô Ly Bố Úy Như Lai
Nam mô Cam Lồ Vương Như Lai
Nam mô A Di Đà Như Lai

Đa Bảo Như Lai ở về phía Đông, Bảo Thắng Như Lai ở phía Nam. Diệu Sắc Thân Như Lai cũng thuộc về phía Đông, Quảng Bát Thân cũng là Đại Nhật Như Lai. Ly Bố Úy Như Lai ở về phía Bắc, Cam Lộ Vương Như Lai về phía Tây, và A Di Đà Như Lai cũng về phía Tây. Đọc lên tên các vị Như Lai như vậy là để cho những chúng sanh có mặt được nghe danh hiệu các Ngài để họ có thể phát sinh ra lòng cảm mến quy thuận và ta tạo được nhiều công đức.

Thần chú gia trì thức ăn tịnh
Cúng khắp mười phương chúng Phật tử

Đây là lời tâm sự của người thí giả tức là người đang cúng cháo. Đoạn này để ta nói chuyện với chúng Phật tử tu hành không thành công đang ở trong vòng đau khổ. Phật tử tuy gặp Bụt, Pháp, Tăng nhưng không được hướng dẫn tu tập đàng hoàng, học hiểu Phật pháp không đúng phương pháp. Không phải khi ta trở thành Phật tử là ta được thừa hưởng giáo lý của đức Thế Tôn đâu. Nếu ta không gặp được minh sư, không gặp được tăng thân thì cái học Phật của ta không thành công. Chúng ta có thể học được một mớ khái niệm hay lý thuyết, và những cái đó chúng ta không đem áp dụng vào cuộc đời được. Khái niệm lý thuyết đó đôi khi hỗn tạp, không được thuần chất Phật giáo. Nó bị pha trộn với những yếu tố mê tín, và người dạy chúng ta có thể cũng không nắm được tinh yếu của Phật pháp và không thành công trong sự tu tập. Cho nên dầu trở thành Phật tử rồi mà ta có thể vẫn không thành công trong sự tu tập như thường. Không phải khi thành Phật tử là tự nhiên có sự chuyển hóa và an lạc. Chúng ta cần phải có dịp may mắn được gặp thầy giỏi, bạn lành, tăng thân vững thì mới có thể thành công. Giới Phật tử có thể vẫn đói khát như các giới khác. Thức ăn tôi đang cúng dường cho quý vị đây là những thức ăn rất thanh tịnh, thức ăn không tạo ra khổ đau trong cơ thể và tâm hồn quý vị. Thần chú là những câu chân ngôn. Thần chú đưa vào những thức ăn tịnh và biến thức ăn tịnh này từ ít thành nhiều. Có bao nhiêu Phật tử là có bấy nhiêu thức ăn.

Nguyện đều no đủ bỏ xan tham
Mau thoát u minh sinh tịnh độ

Người nào cũng sẽ có đủ thức ăn và thức uống không cần tranh nhau. Bỏ xan tham tức là bỏ sự ham hố, thói quen ăn uống không chừng mực. Đôi khi con mắt lớn hơn bao tử. Chúng ta tưởng rằng ta cần ăn nhiều, nên thường lấy một bình bát khá đầy. Khi lấy thức ăn, ta thường lấy bằng sự tham lam của mình hơn là lấy bằng trí tuệ. Trí tuệ của ta biết lấy chừng nào thì vừa, biết cơ thể ta cần chừng nào thực phẩm. Đức Thế Tôn có nói là nên ăn ít lại, đừng sợ thiếu chất dinh dưỡng. Ăn ít mà ăn cho đàng hoàng thì khỏe mạnh hơn. Ngài có một người bạn thân là vua Ba Tư Nặc, vị vua này ăn uống không biết chừng mực. Vua ăn cơm và cari nhiều quá, mỗi khi tới Kỳ Viên nghe pháp thoại thường hay ngủ gục. Bụt nói: đại vương nên ăn ít lại. Vua dạ và hứa, nhưng vua không ăn ít được. Vua càng ngày càng mập. Có một hôm đi trong tu viện Kỳ Viên tìm Bụt, vua gặp Bụt mà không biết tại vì đang buồn ngủ và đi đụng nhằm Bụt. Sau đó chính Bụt phải sắp đặt để có người phụ trách lo về chất lượng thực phẩm hàng ngày của vua, và nhờ đó vua mới phục hồi được sức khỏe và sự nhanh nhẹn. Ăn như thế nào để thấy rõ được tập khí tham lam, giận hờn và si mê của mình. Thấy được như vậy tức là thoát khỏi cõi u minh. U minh tức là tối tăm. Thoát để sinh về tịnh độ. Đó là ước mong sâu sắc nhất, tại vì ta đã sống trong địa ngục, trong chìm đắm, hệ lụy quá lâu, nên giờ đây ta muốn sinh về tịnh độ.

Quy y Tam Bảo phát bồ đề
Rồi sẽ đạt thành đạo vô thượng

Đây là những lời khai thị cho Phật tử, chúng sanh và cô hồn. Nếu muốn thoát u minh và sanh tịnh độ thì phải quy y Tam Bảo, phải nương nhờ các bậc giác ngộ, nương nhờ vào giáo pháp và tăng đoàn. Phát bồ đề tức là phải có nguyện vọng lớn, phải ước ao giải thoát và tự do. Ước ao giúp người, giúp đời và phát bồ đề tâm, điều đó làm phát sinh trong ta một nguồn năng lượng rất lớn, cái đó gọi là tư niệm thực. Thực phẩm chúng ta ăn gọi là đoàn thực, thực phẩm về ý chí nguyện vọng là tư niệm thực. Quy y Tam Bảo và phát tâm bồ đề thì không những trong khi ăn ta tiếp nhận thức ăn đoàn thực thanh tịnh mà còn tiếp nhận luôn một loại tư niệm thực rất là thanh tịnh, đó là bồ đề tâm. Có hai điều kiện căn bản là quy y Tam Bảo và phát bồ đề tâm thì chắc chắn sớm muộn gì mọi người cũng có thể chứng được đạo vô thượng, tức là chánh giác.

Công đức đi về cõi vị lai
Tất cả Phật tử cùng tiếp nhận

Tất cả những công đức của sự cúng dường, sự ăn uống trong chánh niệm, của sự quy y và phát bồ đề sẽ đi về cõi vị lai, sẽ không bao giờ mất đi như những cái chúng ta thường chắt bóp để dành cho tương lai. Tất cả Phật tử có mặt ngày hôm nay trong buổi cúng cháo được tiếp nhận thức ăn, tiếp nhận giáo pháp và sự hướng dẫn quy y Tam Bảo và phải phát tâm bồ đề. Sau khi hướng dẫn cho giới Phật tử ta lại hướng dẫn cho các loài khác không phải là Phật tử. Chữ Phật tử thì đổi thành chữ mọi loài. Trong khi tụng bài cúng cháo này thì hạt giống từ bi nơi sư chú được tưới tẩm và người cúng cháo nuôi lớn lòng từ bi của mình, tiếp xúc được với những loài đang khổ đau, đem lòng mình hướng tới những loài khổ đau và khai thị cho những loài đó biết trở về quy y Tam Bảo phát lòng bồ đề và nhờ đó tấm lòng mình cũng mở rộng ra. Lúc đó những hạt giống lành được gieo vào và được tưới tẩm trong tâm người thí giả. Vì vậy tụng kinh trong khi cúng cháo đem lại rất nhiều phước đức cho người hành giả. Điều này là một điều rất khoa học tại vì động lực đưa tới sự thực tập cúng cháo này là lòng từ bi và trong suốt thời gian ta tụng bài cúng cháo hạt giống từ bi trong ta được tưới tẩm. Có từ bi là có tất cả, không có từ bi thì sẽ không có gì hết.

Thần chú gia trì thức an tịnh
Cúng khắp mười phương cả mọi loài
Nguyện đều no đủ bỏ xan tham
Mau thoát u minh sinh tịnh độ
Quy y Tam Bảo phát bồ đề
Rồi sẽ đạt thành đạo vô thượng
Công đức đi về cõi vị lai
Tất cả mọi loài cùng tiếp nhận.

Thần chú gia trì thức an tịnh
Cúng khắp mười phương chúng cô hồn
Nguyện đều no đủ bỏ xan tham
Mau thoát u minh sinh tịnh độ
Quy y Tam Bảo phát bồ đề
Rồi sẽ đạt thành đạo vô thượng
Công đức đi về cõi vị lai
Tất cả cô hồn cùng tiếp nhận.

Tuy là giới thứ ba được thỉnh mời và hướng dẫn ở đây là giới cô hồn nhưng đó không phải là giới ít nhất mà giới đông nhất. Trong khi tụng bài kệ ta được đối thoại với các loài, vì vậy nên ta hãy tụng thong thả, cảm nhận rõ ràng rằng ta đang nói chuyện với họ, đang khai thị cho họ. Trái tim của ta mở ra. Đây là những lời nhắn nhủ, khai thị và đối thoại với cô hồn với tất cả lòng từ bi. Những người ngồi nghe những lời kinh này sẽ cảm động lắm. Họ thấy họ đang được khuyên nhủ nhẹ nhàng để có cơ hội quay về nương tựa Tam Bảo, phát tâm bồ đề và nguyện sanh về cõi tịnh độ.

Này các vị Phật tử
Tôi nay xin dâng cúng
Thức ăn biến mười phương
Phật tử đều tiếp nhận
Nguyện đem công đức này
Hồi hướng về tất cả
Phật tử và chúng tôi
Đều cùng thành Phật đạo.

Những lời nói này là những lời nói rất thành thật. Đây là những lời nói rất đơn sơ, đầy thân tình đối với các giới Phật tử và bài này cũng được lập lại cho mọi loài và cho giới cô hồn.

Chân Ngôn Thí Vô Già Thực:
Án mục lực lăng ta bà ha

Vô già tức là không ngăn cấm một ai, không bít lấp đường của bất cứ một ai. Vô già ở đây nghĩa là bình đẳng.

Chân Ngôn Phổ Cúng Dường:
Án nga nga nẳng tam bà phạ phiệt nhựt ra hồng

Đây cũng biểu lộ sự bình đẳng trong khi thực hành bố thí. Hiến tặng thì phải có tâm bình đẳng, đừng phân biệt đừng nghĩ rằng ta chỉ ưa bố thí cho người ta thích và không bố thí cho người ta không thích, để cho những người kia chết đói cho bõ ghét. Cái đó không phải là bình đẳng. Nghi thức được kết thúc bằng một bài kệ:

Phụng hiến cam lồ vị
Phân lượng như thái hư
Xin mọi loài đạt nguyện
Về nương bóng Đại Từ.

Cam lồ vị là thức ăn nuôi dưỡng cơ thể nhưng mà quan trọng nhất là thức ăn nuôi dưỡng được tinh thần, làm cho những đau khổ tiêu tán, làm cho êm dịu mát mẻ thân tâm. Phân lượng của vị cam lồ này rất lớn, nhiều như thái hư và nhờ công đức cúng dường này mà mọi loài đạt được nguyện vọng của mình. Tất cả đều trở về nương nhờ vào đức Thế Tôn nên gọi là về nương bóng Đại Từ.

Đây là nghi thức cúng cháo tại chùa, nhưng ở tư gia các Phật tử cư sĩ cũng có quyền thực tập, với điều kiện là phải luyện tập trước để khi cúng cháo mình có đủ năng lượng của định và của tuệ. Nghi thức này đã được in trong sách Nhật Tụng Thiền Môn Năm 2000 và trong sách Nghi Thức Tụng Niệm Đại Toàn.

Người ngày xưa

 

Trong tiếng Việt, chữ cố nhân có nghĩa là người yêu cũ của mình. Cố nhân có thể được dịch là người cũ hay là người ngày xưa. Người ngày xưa khác với người đời xưa. Người đời xưa là những người sống cách đây hàng trăm, hàng triệu năm. Người yêu cũ thì ta gọi là người xưa hay là người ngày xưa. Thúy Kiều, sau mười lăm năm lưu lạc, được sư chị Giác Duyên cho gặp lại gia đình, có ba, mẹ, hai em và có một người gọi là người ngày xưa, đó là Kim Trọng.

Xem ra đủ mặt một nhà
Xuân già còn khỏe, huyên già còn tươi
Hai em phương trưởng hòa hai
Nọ chàng Kim đó là người ngày xưa.

Chữ người ngày xưa đã được dịch từ chữ cố nhân. Ta cũng có thể gọi tắt là người xưa.

Trong chúng ta ai cũng có một hoặc là nhiều người xưa. Mấy ngày hôm nay Thầy hay suy nghĩ tới chị của Thầy. Chị của Thầy bây giờ đang đau nặng, có thể qua đời bất cứ lúc nào. Chị đã 80 tuổi, chị cũng là người ngày xưa của Thầy vì chị em đã cùng sống trong gia đình mười mấy năm với nhau. Sau đó Thầy đi xuất gia còn chị đi lấy chồng. Hình ảnh về chị của Thầy là một hình ảnh rất tươi mát, trẻ trung và đẹp. Khi đi xuất gia rồi, mình đâu có cơ hội để sống chung hàng ngày với những người thân của mình nữa. Vì vậy cho nên những hình ảnh từ hồi nhỏ cho đến khi xuất gia còn rất rõ ràng và linh động. Mỗi khi nằm mơ thấy chị là chỉ thấy hình ảnh của người xưa thôi. Còn hình ảnh của người bây giờ, lớn lên có chồng, có con, rồi già đi, mặc dù thỉnh thoảng mình có thấy trực tiếp hay gián tiếp nhưng cũng không linh động và rõ ràng bằng hình ảnh của người xưa.

Tất cả những người nào đã đi vào trong cuộc đời ta và hiện giờ ta không được sống chung đều có thể gọi là người xưa, trong đó có ba, mẹ, anh, chị hay bạn của mình. Những người mà ngày xưa mình đã từng được sống chung, đã từng chia sẻ những giây phút hạnh phúc, những người đó đều có thể được gọi là người ngày xưa. Không hẳn phải là người mà mình luyến ái, người thuộc về giới khác phái. Thầy cố nhớ ở trong ký ức và vẫn không nhớ là Thầy đã từng giận chị Thầy bao giờ. Hai chị em chưa bao giờ giận nhau. Thầy thường coi chị như là một bà mẹ, một bà mẹ rất trẻ. Hễ không có mẹ là chị thay thế. Cho nên vào lúc có đau đớn trong cơ thể, Thầy vẫn hay gọi mẹ hay gọi chị. Thầy thường gởi sách và băng cassette về cho chị nghe, và Thầy có nói: Chị ơi, mỗi khi chị đau nhức quá thì chị có thể gọi tên em và thở thì chị sẽ bớt đau nhức.

 

Ánh trăng khuya

Trong những giấc mơ Thầy cũng thường gặp Sư Ông. Đó là thầy của Thầy, nghĩa là Sư Ông của quý vị. Thầy xa chùa từ năm 1966 và không được về chùa Tổ từ năm đó; nghĩa là cách đây 34 năm. Sư Ông tịch năm 1968, tức là 2 năm sau khi Thầy rời quê hương, đất nước. Mỗi khi nằm mơ về tới núi xưa (chùa nằm ở trên núi Dương Xuân), leo lên chùa, Thầy luôn luôn thấy Sư Ông ra chào đón. Hình ảnh của Sư Ông luôn luôn là hình ảnh đáng tôn kính. Mỗi lần mơ về tới chùa và được thấy Sư Ông trong giấc mơ, thức dậy Thầy có cảm tưởng là Sư Ông chưa bao giờ từng chết, Sư Ông chưa bao giờ đi và hình ảnh của Sư Ông cũng như hình ảnh của Mẹ vẫn còn nguyên vẹn trong lòng Thầy.

Trong những năm đầu mất Mẹ, cảm tưởng mình không còn Mẹ rất rõ ràng. Năm, sáu năm sau, có một hôm Thầy thức dậy trong một tịnh thất, chung quanh trồng toàn cây trà. Tịnh thất ấy nằm trong khuôn viên chùa Bảo Lộc, trên Cao Nguyên. Thầy thức dậy lúc 3 giờ sáng và đi ra ngoài đồi để đi tiểu, vì trong thất không có phòng nhà vệ sinh. Thầy đi ra giữa những hàng chè. Trăng lúc 3 giờ khuya hiền dịu như sữa mẹ, tình mẹ. Lúc đó Thầy thấy rất rõ là Mẹ Thầy chưa bao giờ từng mất. Trước khi thức dậy, Thầy đã nằm mơ thấy Mẹ. Mẹ còn trẻ, tóc rất xanh, buông dài. Hai mẹ con ngồi nói chuyện với nhau rất đầm ấm và hạnh phúc. Lúc bước ra vườn chè, một nhận thức rất sâu sắc được nẩy ra trong Thầy: Mẹ chưa bao giờ chết. Và hình ảnh là hình ảnh của bản môn. Hình ảnh mà mình đã thấy ở trong giấc mơ là hình ảnh bản môn. Từ đó sự đau xót về mất mẹ không còn nữa. Mẹ cũng là người xưa, Mẹ cũng là cố nhân. Là cố nhân mà Mẹ không bao giờ mất.

 

 

Xôi đủ màu

Trong suốt 33 năm luân lạc tại quê người, thỉnh thoảng Thầy cũng nằm mơ thấy trở về Phật Học Viện. Phật Học Viện này không phải là nơi Thầy tu học, lớn lên, mà là nơi Thầy dạy. Đó là chùa Ấn Quang, được thành lập năm 1950. Thầy và thầy Trí Hữu là hai người đầu tiên sáng lập ra chùa Ấn Quang. Chùa làm bằng mái tranh, vách đất, hồi đó gọi là chùa Ứng Quang. Thầy bắt đầu dạy một lớp sa di, gồm có mười mấy chú, trong đó có chú Từ Mẫn, sau này làm giám đốc nhà xuất bản Lá Bối. Sau đó chùa Ứng Quang trở thành Phật Học Đường Nam Việt, có rất nhiều thầy và sinh viên tới học. Thầy giảng dạy tại Phật Học Viện này từ năm 1953 đến năm 1962.

Thầy đã dạy rất nhiều thế hệ Tăng sinh. Phần lớn tăng sinh mà Thầy dạy là các sư chú, vì họ là nội trú. Số lượng các sư chú, sư cô ngoại trú tới học rất ít, chừng hai chục người. Sư bà Tịnh Nguyện mà quý vị được gặp năm ngoái, ở đây, cũng là một trong những ni sinh ngoại trú trong những lớp Thầy dạy. Bây giờ có nhiều chú đã trở thành Thượng Tọa, Hòa Thượng. Ví dụ như Hòa Thượng Minh Thành, Viện Chủ chùa Ấn Quang, ngày xưa Ngài cũng là Tăng sinh của Thầy. Tăng sinh mà lại là tăng sinh rất trẻ vì hồi đó Thầy có nhiều học trò lớn tuổi hơn thầy Minh Thành.

Thỉnh thoảng Thầy nằm mơ về Phật Học Viện và thấy Thầy đang ngồi chung với các sư chú ở trong liêu phòng của họ. Mỗi khi gặp họ, Thầy đều rất vui mừng. Thầy hỏi: ‘‘Sao? Những ngày gần đây quý vị có được vui vẻ và mạnh giỏi không? Quý vị làm gì, kể cho tôi nghe với!’’ Có một điều lạ là thỉnh thoảng Thầy đã có gặp những vị ấy ở Hoa Kỳ; họ đang giữ những chức vụ rất lớn như hòa thượng, thượng tọa, trụ trì. Nhưng mỗi khi đi vào trong giấc mơ mà gặp họ thì luôn luôn Thầy chỉ gặp những hình ảnh của cố nhân, những hình ảnh xưa cũ mà thôi. Tại sao? Tại vì trong những ngày giờ ấy Thầy có nhiều hạnh phúc. Thầy trò có hạnh phúc với nhau, có được nhiều thì giờ ở chung với nhau. Bây giờ họ đã lớn, làm chức lớn nhưng Thầy không được sống chung với họ, vì vậy cho nên họ cứ trở thành cố nhân.

Trong những giấc mơ, gặp các thầy, các sư chú trẻ nói chuyện, Thầy vẫn cảm thấy sự thân thiết, và tình thầy trò đem lại rất nhiều hạnh phúc cho Thầy. Thầy là vị giáo thọ trẻ nhất trong Phật Học Viện, Thầy tự cho mình là người thương yêu và chăm sóc cho các tăng sinh nhiều nhất. Thầy đã tổ chức cho các sư chú đi picnic ở bãi biển, tổ chức ban y tế chăm sóc cho các sư chú, và rất gần gũi các sư chú. Trong khi các vị giáo thọ khác người nào cũng có thị giả, còn Thầy thì không cần thị giả. Không có thị giả nhưng trong phòng Thầy luôn luôn có từ 5 tới 7 sư chú một lần. Thầy gần gũi các sư chú và các sư chú rất thương mến Thầy. Tuy là thầy trò nhưng Thầy không lớn hơn họ bao nhiêu nên thầy trò cứ xem nhau như anh em. Xưng hô với nhau là thầy – con nhưng kỳ thực trong sự sống hàng ngày liên hệ giống như tình anh em.

Câu trả lời là nếu trong một thời gian nào đó, sống với những người kia và có hạnh phúc với nhau thì những giây phút hạnh phúc này sẽ trở thành vĩnh cửu, thiên thu. Tình trong giây phút mà thành thiên thu. Cái vĩnh cửu, cái thiên thu nằm trong giây lát. Thầy còn nhớ một hôm Thầy tới giảng và ngủ lại trong một ngôi chùa ở nhà quê tại Mỹ Tho, trong một cái thất nhỏ như thất Ngồi Yên của xóm Thượng bây giờ. Buổi sáng hôm đó, các thầy trong chùa, trong đó có thầy trụ trì ra chơi với Thầy để uống trà. Phía trước thất cũng có một chiếc sàn gỗ giống hệt như chiếc sàn gỗ ở cốc Ngồi Yên.

Trong lúc các thầy đang ngồi nói chuyện và uống trà thì có một chị bán xôi đi ngang qua. Thay vì mời mọi người vào chùa ăn sáng với các chú thì thầy trụ trì đề nghị: Chúng ta hãy ngồi lại đây, gọi chị bán xôi tới mua xôi để cùng ăn sáng. Gánh xôi rất đặc biệt, có đủ màu sắc; xôi gấc màu đỏ, xôi bắp màu trắng. Xôi bắp có những hạt bắp trắng tinh. Xôi đậu xanh, xôi đậu phụng, xôi nếp than. Rất nhiều màu. Lại có bánh phồng mì, dừa nạo, nhân đậu xanh. Các thầy ngồi ăn sáng bằng xôi đủ màu, không có đĩa, muỗng, đũa, mỗi người chỉ có một tờ lá chuối lớn và xôi ba màu, bốn màu, hoặc năm màu. Cho đến bây giờ, Thầy vẫn nghĩ rằng đó là bữa ăn sáng ngon nhất trong đời của Thầy.

Lâu lâu Thầy cũng kể lại chuyện này với các sư chú và các sư cô tại Làng Mai. Một ngày nào đó chúng ta cũng sẽ tổ chức một bữa ăn sáng như vậy. Đã có một số các sư chú và sư cô từng tổ chức một bữa ăn sáng như vậy. Giây phút mà các thầy ngồi với nhau trong tình huynh đệ và ăn sáng với nhau đã trở thành vĩnh cửu, thiên thu. Chính hạnh phúc đó làm cho mình nhớ lại bữa ăn và chi tiết của bữa ăn chứ không phải vì mình ham ăn nên mình nhớ những món ấy. Có những lúc các sư chú mời Thầy ngồi ăn bánh tráng. Chỉ có bánh tráng thôi. Bánh tráng nướng nhúng vào nước cho mềm, rồi lấy ba hoặc bốn cọng rau muống vừa mới hái ở dưới hồ lên, cuốn lại, chấm vào nước tương có ớt, ăn sao mà ngon quá. Cái ngon đó không hẳn là do rau muống hay bánh tráng mà do tình anh em tạo ra. Vì vậy không hẳn là phải có xôi đủ màu ăn mới ngon, mà chỉ có rau muống cuốn bánh tráng ăn cũng vẫn ngon như thường. Đó là những giây phút hạnh phúc. Những giây phút đó mà biết sống cho sâu sắc thì chúng sẽ được ghi lại trong tâm thức và trở thành bản môn sau này. Chúng ta sẽ có thể thấy lại chúng nhiều lần. Giống như cuốn phim sư em Pháp Dung đã thâu ở Trung Quốc, muốn mở ra coi lại lúc nào cũng được.

Đẹp cảnh đẹp người

 

 

Thầy thấy xóm Thượng bây giờ đẹp quá. Càng ngày càng đẹp. Cây cối lên rất xanh tươi. Mỗi khi đi xuống dốc để ra cốc Ngồi Yên là Thầy thấy đẹp. Chưa bao giờ mà không thấy đẹp. Không phải vì mỗi ngày đều nhìn thấy khung cảnh đó mà mình thấy nó ít đẹp hơn. Vẫn đẹp như thường, càng ngày càng đẹp. Càng ngày càng đẹp vì tâm mình đang để tại đó. Tâm mình để tại đó, không rong ruổi, không có ý muốn bỏ chạy nên mình có khả năng thấy được tất cả cái đẹp của nó. Thầy nói với sư anh Pháp Dụng và sư anh Pháp Ứng: ‘‘Xóm Thượng sao mà đẹp quá!’’. Khi Thầy nói như vậy chắc chắn là sư anh Pháp Dụng và sư anh Pháp Ứng cũng thấy xóm của mình đẹp. Đẹp thì đúng là đẹp rồi nhưng đôi khi mình quên, phải có người nhắc cho mình nhớ rằng mình đang ở trong một chỗ rất đẹp. Rồi Thầy nói: Ở xóm Hạ, chùa Cam Lộ cũng đẹp lắm. Ai cũng gật đầu. Xóm Hạ cũng đẹp và xóm Mới cũng vậy. Xóm Mới bây giờ có đồi Dương Xuân, ai lên đồi Dương Xuân cũng thấy quá đẹp; sư cô Chân Không còn nói là người xóm Mới cũng rất đẹp. Các sư cô và thiền sinh ở đó người nào cũng có nụ cười thật tươi và hạnh phúc. Thầy thấy đúng quá. Thầy quay qua nói với sư anh Pháp Dụng và sư anh Pháp Ứng: ‘‘Xóm Thượng đẹp không phải chỉ vì cảnh mà còn vì người’’. Khi chúng ta tu học mà có thảnh thơi và hạnh phúc thì chúng ta đẹp ra.

Thầy nhớ lại lúc ở Trung Quốc, khi đi vào những chùa rất lớn như là chùa Bách Lâm hay chùa Cao Mân với những Thiên Vương Điện, Quan Âm Điện, Đại Hùng Bảo Điện, những dãy cư xá vĩ đại thì Thầy hơi có mặc cảm. Mai mốt các hòa thượng ở bên đó qua bên này thì làm sao mà mình không mắc cỡ, vì ba, bốn chùa của mình không có chùa nào có được một tòa nhà xứng đáng; không có Thiên Vương Điện, không có Đại Hùng Bảo Điện, không có Quan Âm Điện. Không có cung vàng điện ngọc nguy nga như bên ấy. Nhưng sau đó sư cô Định Nghiêm nhắc Thầy: ‘‘Bạch Thầy, các xóm của mình đẹp lắm.’’ Và khi Thầy nhìn lại thì Thầy thấy quả nhiên là đẹp thật. Từ đó Thầy không còn có mặc cảm nữa. Trước khi các hòa thượng sang có lẽ mình nên gửi một tờ fax qua, nói ‘‘Bạch chư hòa thượng, bên này không có cung vàng và điện ngọc, nhưng bên này rất đẹp, vì có rất nhiều cây.’’ Bên đó tuy có nhiều cung vàng và điện ngọc nhưng chung quanh có một bức trường thành bao bọc, và ngoài trường thành là phố xá, làng xóm. Còn bên chúng ta thì không có bức trường thành nào bao bọc cả và chúng ta rõ ràng đang sống trong một khu rừng. Xóm Thượng là một khu rừng, xóm Hạ cũng là một khu rừng, mình có thể gọi đó là Tùng Lâm. Tùng Lâm là tên cũ của tu viện, A Lan Nhã cũng gọi là Tùng Lâm.

Ẩn đây hiện kia

Sở dĩ Thầy nghĩ đến chị Thầy mà không đau đớn và không xót xa là vì Thầy đã có chị ở trong bản môn. Sở dĩ Thầy nghĩ đến mẹ Thầy hay là thầy của Thầy, Sư Ông mà không xót xa vì trong Thầy đã có thầy của bản môn, đã có mẹ của bản môn. Thầy chưa bao giờ xa cách những người như vậy hết. Đức Thế Tôn dạy là các pháp ẩn chỗ này thì lại hiện ra chỗ kia, và thực tại vượt thoát cái có và cái không; cái tới và cái đi. Chỉ có cái ẩn tàng và cái biểu hiện mà thôi. Nếu ta sống có chánh niệm thì ta sẽ thấy tuy cái đó giống như đã ẩn tàng nhưng kỳ thực nó đã bắt đầu biểu hiện. Cái nên thơ nhất của Phật giáo Tây Tạng là chuyện đi tìm hậu thân của các vị đại sư. Người ta tin rằng khi một vị đại sư viên tịch thì vị đại sư đó sẽ đầu thai lại để tiếp tục sự nghiệp của mình. Và mấy năm sau người ta đi kiếm cho được đứa bé có khả năng nhận diện ra được những vật dụng mà vị đại sư kia đã từng dùng trong đời sống hàng ngày của ngài. Vị đại sư đó tịch đi nghĩa là vị đại sư đó ẩn nhưng sau khi ta tìm ra được em bé để tiếp nối rồi thì vị đại sư đó lại hiện. “Xuất thử một bỉ”, đó là bốn chữ ở trong Quy Sơn Cảnh Sách.

Xuất thử một bỉ là xuất hiện ở bên này thì lặn mất ở bên kia. Trong khi quán chiếu Thầy thấy sự ẩn hiện linh động vô cùng; không hẳn là ta phải ẩn thì ta mới xuất hiện lại được. Ví dụ trong trường hợp của Thầy. Quý vị có thể suy nghĩ theo lề lối tín ngưỡng của Tây Tạng là sau khi Thầy mất đi rồi, vài năm sau quý vị đi tìm thì sẽ thấy một chú bé chạy lon ton, nét mặt hơi giống Sư Ông ngày xưa, tới hỏi và đồng nhất hóa chú bé đó với Sư Ông. Quý vị đem chú bé đó về nuôi làm sư ông thứ hai. Điều đó cũng vui, nhưng Thầy thấy khác. Thầy thấy rằng đừng đợi khi Thầy ẩn rồi mới đi tìm chú bé đó, vì chú bé đó ngay bây giờ đã xuất hiện rồi, và đã xuất hiện không phải dưới hình thức của một chú bé mà của nhiều chú bé và nhiều cô bé. Điều này rất khoa học, vì Thầy đã đầu thai, Thầy đã được tiếp nối.

Nếu quý vị đi tìm thì quý vị có thể thấy được ngay bây giờ; khá nhiều, không cần đợi cho báo thân này hoàn toàn ẩn đi thì mới thấy được những báo thân kia xuất hiện. Không, quý vị có thể bắt đầu từ bây giờ và quý vị sẽ thấy những chú bé hay những cô bé đang chạy lúp xúp, và quý vị sẽ thấy rằng Thầy đã được tiếp nối, Thầy đã xuất hiện. Nhìn về phía này cũng thấy Thầy, mà nhìn về phía kia cũng thấy Thầy, nhìn về phía nọ cũng thấy Thầy. Đó là một sự thật rất khoa học.

Kho tàng hạnh phúc

Có thể có những người ngày xưa đã từng sống với ta, chia sẻ ngọt bùi với ta, đã cùng đi picnic với ta, đã cùng tập hát, tập tụng kinh với ta nhưng bây giờ vì duyên cớ gì đó, không còn ở với ta nữa. Và khi chúng ta nghĩ tới người đó đang luân lạc ở một phương trời nào thì ta gọi họ là người cũ, là cố nhân. Nếu chúng ta đã từng có hạnh phúc với người đó thì người đó bây giờ đã trở thành một hình bóng của bản môn trong tâm ta, và trong giấc mơ hoặc trong thiền quán ta sẽ thấy lại họ. Và người đó nếu đã từng sống những giây phút hạnh phúc với chúng ta; đã từng ăn xôi nhiều màu hoặc đã từng ăn bánh tráng cuốn rau muống và cười nói với chúng ta trong một buổi chiều nào đó, thì người đó cũng vậy, người đó cũng có những hình ảnh bản môn trong tâm; một đêm nào nằm mơ thấy lại hình ảnh cũ, người đó sẽ thấy là đã không mất mát gì.

 

 

Chúng ta cũng vậy, chúng ta không mất mát gì cả, vì người cũ không phải là người đã mất; dù người đó là mẹ, là chị, là thầy, là sư em, là sư anh, là sư chị của chúng ta. Giây phút mà chúng ta cuốn những cọng rau muống vào trong bánh tráng rồi chấm vào nước tương ớt ăn với nhau, giây phút đó là giây phút ta có thể tạo tác ra được bất cứ lúc nào trong đời sống hàng ngày. Giây phút mà chúng ta ngồi với nhau trước sàn để cùng ăn một buổi ăn sáng gồm có xôi đủ màu, ta cũng có thể tạo tác ra bất cứ lúc nào trong đời sống hàng ngày của ta. Và tất cả những giây phút đó đều trở thành bất diệt. Một gốc cây, một đóa hoa mới nở hoặc ở xóm Thượng, xóm Hạ hay xóm Mới đều mầu nhiệm; đều là chị, là mẹ, là thầy, là anh và là em của chúng ta. Ta phải nhận diện chúng cho được để chúng đừng bao giờ trở thành cố nhân, vì chúng sẽ trở thành bất diệt.

Ngày hôm nay chúng ta có phước duyên được sống với nhau trong một khung cảnh rất mầu nhiệm và đẹp đẽ. Thầy rất biết ơn là ngày hôm nay Thầy được sống trong khung cảnh này với các con của Thầy. Thầy rất hạnh phúc và rất trân quý từng giây phút của đời sống bây giờ. Thầy không rong ruổi, không trốn chạy, không đi tìm hạnh phúc trong tương lai. Thầy an trú được, và vì vậy mỗi giây phút mà Thầy sống ở đây với quý vị là mỗi giây phút tương đương với những giây phút mà Thầy ngồi với các sư chú ngày xưa ở chùa Ấn Quang và với các thầy khác ở tịnh thất Mỹ Tho, buổi ăn sáng gồm có xôi đủ màu. Tất cả những giây phút đều có giá trị tương đương như vậy. Tất cả chúng ta đều có khả năng biến khoảnh khắc thành thiên thâu và như vậy chúng ta sẽ rất giàu có. Đi đâu với kho tàng giàu có đó của hạnh phúc và của tình thương thì chúng ta cũng sẽ đủ sức mạnh để đối phó với bất cứ một khó khăn nào mà chúng ta phải đối phó.

Chúng ta hãy sống trong giây phút hiện tại, đừng trốn chạy, đừng tìm tòi. Trở về với giây phút hiện tại là để tiếp xúc sâu sắc được với những gì mầu nhiệm, những gì đẹp đẽ và an lành. Sống với tình thương, tha thứ cho nhau, đùm bọc lấy nhau, nâng đỡ cho nhau, chúng ta tạo ra hạnh phúc rất lớn cho chính chúng ta. Hạnh phúc đó bao giờ cũng còn. Hạnh phúc đó không phải là một thứ hạnh phúc mong manh, trái lại nó càng ngày càng vững chãi. Với chính hạnh phúc ấy chúng ta có thể đi làm hạnh phúc cho người. Nếu chúng ta không có một kho tàng của hạnh phúc trong tâm thì chúng ta sẽ không có gì để phân phát, để chia sẻ với những người khác. Sự thực tập của chúng ta là sự thực tập hạnh phúc, vì trong mỗi giây phút trong đời sống hàng ngày của chúng ta tại đây chúng ta đều có thể có hạnh phúc. Giáo lý của Đức Thế Tôn – hiện pháp lạc trú – rất mầu nhiệm. Những điều kiện của hạnh phúc đã có đầy đủ. Có thể hôm nay ta coi thường nhưng một mai này nhìn lại, chúng ta sẽ thấy những giây phút đó là những giây phút mầu nhiệm nhất của đời ta. Những giây phút đó không thuộc về quá khứ, chúng đang thuộc về hiện tại và chúng ta đang có chủ quyền. Sống như thế nào để những giây phút bây giờ đừng trở thành quá khứ; mà mãi mãi còn là hiện tại. Đó là sự thực tập của chúng ta.

Che chở và bảo hộ

Chúng ta tu tập nhưng kỳ thực chúng ta đang làm giàu. Làm giàu không phải với cái nghĩa của thế gian là chất chứa tiền của mà với cái nghĩa là chúng ta đang chất chứa hạnh phúc. Không cần gì nhiều, ta chỉ cần một vài cái bánh tráng và mấy cọng rau muống là có thể làm ra được rất nhiều hạnh phúc. Ta chỉ cần 15 phút hay 20 phút ngồi chơi với nhau, thấy được rằng chúng ta đang được sống bên nhau với khung cảnh mầu nhiệm này ta có thể làm được hạnh phúc. Mỗi giây phút hạnh phúc như vậy sẽ làm giàu cho kho tàng hạnh phúc của chúng ta. Ngày nào chúng ta cũng làm giàu cho kho tàng hạnh phúc ấy.

Chúng ta biết rằng chính với kho tàng hạnh phúc đó mà ta trở thành một vị bồ tát, có thể đem an lạc, hạnh phúc mà chia sẻ với mọi người và mọi loài. Đơn giản như vậy thôi. Tất cả có thể quy tụ về hai chữ: an trú. An trú tức là ở yên. Hạnh phúc có thể có mặt trong giây phút hiện tại.

 

 

Ta sống ở đây, chị của ta đang đau, mẹ của ta đang đau, ta biết rõ như vậy nhưng mẹ ta và chị ta, ta chưa bao giờ từng xa cách. Ta đã có những giờ phút hạnh phúc với mẹ, đã có những giờ phút hạnh phúc với chị, với thầy, với bạn, với anh. Ta tiếp tục sống như vậy. Tiếp tục dùng trái tim, dùng sự hiểu biết và hạnh phúc của ta để ôm lấy những người đó thì ta không cần phải xót xa, ta không cần phải hối hận vì ta chưa bao giờ từng bỏ những người đó, chưa bao giờ từng phụ những người đó. Dầu ta không được sống chung hai mươi bốn giờ đồng hồ với họ nhưng họ đã trở thành hình ảnh bản môn trong trái tim của ta. Mỗi hơi thở, mỗi bước chân, mỗi nụ cười của ta là để nuôi dưỡng ta nhưng đồng thời cũng là để nuôi dưỡng họ. Vì vậy Sư Ông được ta tiếp tục nuôi dưỡng, mẹ được ta tiếp tục nuôi dưỡng, chị được ta tiếp tục nuôi dưỡng và cả những sư chú và sư cô đã không còn cơ duyên ở đây nữa, chúng ta cũng tiếp tục nuôi dưỡng họ; chúng ta không mất đi một cái gì hết. Đây là một sự nhắc nhở.

Thầy nghĩ rằng ngày xưa Đức Thế Tôn cũng thường nhắc nhở các thầy, các sư cô: ‘‘Hạnh phúc luôn luôn có thể có được trong giờ phút hiện tại”. Đừng đánh mất nó bằng vọng tâm, bằng sự bất an của mình, ‘‘Hãy trở về an trú và sống cho sâu sắc đời sống ngày hôm nay’. Chúng ta tạo dựng hạnh phúc, chúng ta làm giàu được nội tâm và nối tiếp được sự nghiệp của Đức Như Lai, và ta không cần ẩn tàng mà vẫn có thể tiếp tục phát hiện, vì trong liên hệ duyên sinh thì hạnh phúc của chúng ta có liên hệ đến hạnh phúc của những người khác. Trong nếp sống như vậy, trong tinh thần như vậy, chúng ta che chở cho nhau, chúng ta đùm bọc lấy nhau; cũng như ngày xưa mẹ đã che chở cho ta, chị đã đùm bọc lấy ta.

Bây giờ ta cũng đùm bọc, che chở cho anh, cho chị, cho em ta. Chúng ta có thể làm hay hơn nữa là che chở cho nhau bằng uy nghi, bằng giới luật. Vì không có sự che chở và bảo hộ nào vững chãi và cao quý hơn là sự che chở và bảo hộ bằng giới luật và bằng uy nghi. Ta thương sư em và ta che chở cho sư em bằng giới luật và uy nghi – đó chính là tình thương cao cả nhất. Ta thương sư anh của ta thì ta cứ thương nhưng ta phải thương bằng cách bảo vệ và che chở sư anh của ta bằng giới luật và bằng uy nghi của chính ta. Được như vậy, đời đời ta sẽ có sư anh, đời đời ta sẽ có sư em và không bao giờ họ trở thành cố nhân của ta; mà họ sẽ trở thành người bạn đường của ta trong kiếp này và trong những kiếp sau này.

 

 

 

Xin nguyện làm dòng sông

Năm 1962, đang dạy học ở trường Columbia, New York, tôi có đi thăm một cặp vợ chồng trẻ ở New Brunswick, tiểu bang New Jersey và tôi đã ở lại nhà của họ hai ngày. Họ là học trò của tôi, người vợ tên là Đào Giao Tiên, con gái của học giả Đào Đăng Vỹ, người làm từ điển, và người chồng tên là Ung Trần Quang Mân trước đó thuộc tăng thân Phan Thiết. Mân làm nghề nghiên cứu chế tạo máy điện tính. Thời đó chưa có máy vi tính cá nhân trên thị trường. Công việc của Giao Tiên là ở nhà chăm sóc nhà cửa và đứa con nhỏ. Chỉ có một cái nhà và một em bé nhỏ xíu vậy mà Giao Tiên dường như bận rộn suốt ngày. Giao Tiên không phải lo tổ chức khóa tu, không phải lo nấu ăn cho hàng trăm người hay làm việc văn phòng, hoặc đi đón thiền sinh từ nhà ga, lại không phải đi ngồi thiền buổi sáng và tối như các thầy, các sư cô ở đây, vậy mà cô ta vẫn cứ bận rộn suốt ngày. Giao Tiên bận rộn không phải là vì bị người khác bắt phải làm việc nhiều, mà tại vì thấy rằng đây là cái nhà của mình, đây là đứa con nhỏ của mình và vì muốn cho nhà cửa được gọn gàng sạch sẽ, và em bé có hạnh phúc nên Giao Tiên cứ phải lăng xăng, bận rộn hoài. Giao Tiên cũng muốn làm hết mọi việc đâu vào đó để khi về Mân được nghỉ ngơi sau một ngày dài làm việc ở sở. Nhưng mỗi khi đi làm về thấy việc nhiều quá Mân cũng xót xa. Hôm đó đi vào phòng bếp và thấy một đống chén bát chưa rửa, chàng liền xắn tay áo lên để rửa. Trong khi đó Giao Tiên đang ngồi tiếp chuyện với tôi ở phòng khách. Nghe tiếng động của đĩa bát ở dưới bếp, Giao Tiên hỏi: “Anh đang làm gì đó?”, Mân ngượng nghịu đáp: “Anh đang rửa vài cái chén”. Có ý muốn giúp vợ bớt cực nhọc nên Mân đã lén rửa chén, vì chàng biết rằng đó không phải là bổn phận của mình. Nếu Giao Tiên biết, chắc chắn cô ta sẽ không cho Mân rửa. Giao Tiên nói: “Đó là chuyện của em. Anh đi nghỉ chút cho khỏe để lát nữa ăn cơm.” Có ai bắt rửa chén đâu, vậy mà chàng cũng tự mình muốn làm. Mân thấy việc rửa chén không phải là việc mình làm cho người khác mà là cho chính mình. Kỳ thực Mân rất hạnh phúc mỗi khi được làm những công việc như vậy và hạnh phúc hơn nữa là được chia sẻ trách nhiệm với Giao Tiên.

Nhìn vào họ, ta thấy rằng họ không còn là ba người riêng biệt nữa mà là một cơ thể. Nếu ta sống được như họ vậy thì tự nhiên sự kỳ thị, so đo, phân chia người này làm cái này người kia làm cái kia không còn là vấn đề nữa. Lúc đó ta sẽ nắm tay nhau để cùng chăm lo cho hoàn cảnh trong đó ta đang sống, mà không cần phải phân công rõ ràng. Giỏi cái gì thì làm cái đó, còn nếu ta không giỏi về cái đó mà thấy chưa có ai làm thì ta cũng cố gắng xông xáo để làm, không cho rằng việc đó là việc của người khác như thế thì có hạnh phúc nào bằng. Đó là tinh thần tự giác tự nguyện, chị ngã em nâng. Làm được như vậy là nhờ chúng ta có được một cái thấy về tăng thân, về vô ngã và tương tức. Một tiểu gia đình cũng là một tăng thân. Cặp vợ chồng và một đứa con trong một nhà cũng là một tăng thân. Mỗi khi làm việc gì ta đều làm cho tất cả tăng thân chứ không phải làm cho riêng ta. Sự thực tập này cần được áp dụng ngay trong phạm vi của một tiểu gia đình. Nếu nhận thức được rằng hạnh phúc của gia đình là hạnh phúc chung, hạnh phúc của chồng là hạnh phúc của vợ và hạnh phúc của con là hạnh phúc của tất cả, thì ta sẽ lấy đi được cái tâm phân biệt rằng việc này là của người này, việc kia là của người kia. Nhà cửa mà sạch sẽ thơm tho thì tất cả mọi người đều được hưởng chung. Giữa họ không còn có sự phân công và phân biệt nữa. Mọi người trong gia đình nhìn vào và thấy rõ ràng đây là tăng thân của mình. Tăng thân là một thân thể. Những người lập gia đình luôn luôn ước ao và nguyện cầu cho gia đình của mình được an lành, hạnh phúc và người vợ luôn luôn nghĩ rằng tương lai của chồng là tương lai của mình. Bên anh đọc sách bên nàng quay tơ. Đó là khung cảnh ở Việt Nam ngày xưa. Người vợ quay tơ để có tơ lụa bán mà mua gạo nuôi chồng ăn học. Thành ra cả hai người đều cùng học. Người vợ học bằng cách quay tơ.

Nhường chàng một đĩa dầu con
Kề trăng quên ngủ tay dòn quay tơ
(thơ Bàng Bá Lân)

Đêm khuya rồi mà nàng vẫn còn quay tơ và chàng thì đọc sách: Em nhường anh cây đèn để anh đọc sách, còn em thì em có thể quay tơ dưới ánh trăng bên cửa sổ. Thật là một khung cảnh dễ thương. Như vậy quay tơ cũng là để cho chàng mà đọc sách cũng là để cho nàng. Không có sự kỳ thị, vì cả hai đều thấy được hai người là một, tương lai của người vợ là tương lai của người chồng, tương lai của người chồng là tương lai của người vợ. Không có cái gì gọi là riêng cả.

Ngày xưa, Siddhatta có một gia đình tâm linh nhỏ gồm sáu người cùng tu chung với nhau. Họ tu tập như một tăng thân. Nhưng sau sáu năm tu tập, thấy Siddhatta từ bỏ đường lối tu khổ hạnh và bắt đầu ăn uống để có sức khỏe mà tu tập thì năm người kia không hiểu, cho là Siddhatta đã hư hỏng, đã thối chí. Vì vậy họ đã rủ nhau đi tu riêng, từ bỏ Siddhatta, không còn kính nể Siddhatta nữa. Siddhatta không vì vậy mà sinh tâm buồn giận. Siddhatta nghĩ rằng mình phải tu cho thành rồi sẽ trở về giúp họ. Và quả thực Siddhatta đã làm đúng như tâm nguyện của Người. Trong giờ phút giác ngộ, tìm ra được chân lý, Siddhatta liền nghĩ ngay tới năm người bạn tu của mình và sau đó không lâu, Siddhatta lên đường đi tìm họ. Thấy Siddhatta đang đi về phía mình, họ không thèm tiếp đón, vẫn giữ thái độ không phục đối với Siddhatta. Nhưng khi Siddhatta tới gần thì tình trạng đổi khác. Họ thấy phong thái của Siddhatta thật đẹp, thật bình an, vững chãi và thảnh thơi, đúng là phong thái của một người có tu chứng, giác ngộ, tự nhiên họ tỏ lòng cung kính Siddhatta trở lại. Trong khi nghe bài thuyết pháp đầu tiên của Bụt tại vườn Nai, tức là Chuyển Pháp Luân Kinh, tâm thức của A Nhã Kiều Trần Như được khai mở, bừng sáng. Lần lượt các vị khác cũng được giác ngộ và gia đình đoàn tụ trở lại. Đó là khởi điểm của tăng thân nguyên thỉ. Từ đó Siddhatta trở thành con chim đầu đàn, tại vì ánh sáng của giác ngộ nơi Siddhatta tỏa chiếu và khai mở được tâm trí của năm con chim kia. Họ bắt đầu công nhận Siddhatta là con chim đầu đàn của họ vì sự hiểu lầm của họ đối với Siddhatta đã tan biến.

Hãy thử so sánh một gia đình tại gia như là gia đình của Giao Tiên và Quang Mân với gia đình xuất gia ta sẽ thấy có nhiều sự khác biệt. Điều này cũng dễ hiểu thôi, vì ước muốn của một gia đình nhỏ thì chỉ giới hạn trong phạm vi nhỏ, còn ước nguyện của một tăng thân lớn thì cố nhiên là lớn lao và cao quý hơn. Đó là ước nguyện và lý tưởng cứu độ chúng sinh. Gia đình của đức Thế Tôn ngày xưa chỉ có sáu người nhưng bây giờ đã trở thành một đại gia đình tâm linh, có vô số người xuất gia cũng như tại gia đang có mặt khắp nơi để tu tập và hành đạo, đem ánh sáng của hiểu biết, thương yêu và tự do tới cho đời. Sáng nào cũng có tăng thân của Bụt ngồi thiền, ngồi nghe pháp, đi thiền, làm việc trong chánh niệm, độ người… ở khắp mọi nơi. Đó gọi là “tăng thân khắp chốn”. Sự khác nhau đầu tiên là về số lượng. Gia đình kia chỉ có ba người hoặc năm, sáu người mà thôi, trong khi đó thì gia đình tâm linh của Bụt đông vô số kể. Lý tưởng, ước nguyện và sự thành đạt cũng lớn không thể nghĩ lường được. Về phương diện phẩm chất của tăng thân thì ta cũng thấy có sự khác biệt. Trong một tiểu gia đình tuy có thể có thương yêu và hạnh phúc, nhưng vì chưa có những pháp môn tu tập, cho nên có nhiều gia đình bị đổ vỡ tan nát, và những đứa con được sinh ra trong gia đình đó có thể trở thành những người đi vất vưởng như những con ma đói. Tuy lúc ban đầu cả hai đều có cái tâm nguyện rất tốt là muốn xây dựng một tổ ấm hạnh phúc và có những đứa con ngoan, học hành thành tài, nhưng vì không có những phương pháp tu học, không có đủ kiên nhẫn và tuệ giác nên có những gia đình không thành công và do đó bị rạn nứt hay tan vỡ. Trong khi đó tăng thân xuất gia lại có những pháp môn tu tập cụ thể như những pháp môn làm mới, sử dụng ngôn ngữ từ ái, lắng nghe và phối hợp ý kiến khác biệt để đi tới sự đồng tình (ý hòa đồng duyệt) để thực tập và có giới luật uy nghi bảo hộ và che chở, có tăng thân yểm trợ, nên gia nhập vào một tăng thân thì ta có nhiều cơ hội để thành công hơn. Người con trai hay người con gái khi bước vào con đường lập gia đình có thể cảm thấy lo sợ, ngại ngùng, vì người đó chưa biết những gì đang chờ đợi mình ở bên kia sông khi mình đã sang bên nớ. Trong nhiều trường hợp, bà mẹ là nguồn tư liệu duy nhất để trao truyền kinh nghiệm cho con gái. Có thể có một đêm khuya nào đó mẹ gọi con đến và dặn dò những điều thiết yếu của đạo làm dâu để khi sang bên kia sông không bị bỡ ngỡ, v.v.. Mẹ muốn trao truyền cho con tất cả những kinh nghiệm của mẹ để con đừng lặp lại những lỗi lầm vụng dại của mẹ hay là của bà ngoại ngày xưa. Có những bà mẹ không có thì giờ để trao truyền gì cả. Biết bao nhiêu thiếu nữ đã chìm nghỉm ở trong biển tuyệt vọng và khổ đau. Theo chế độ ngày xưa khi đi lấy chồng con cái không có được quyền chọn lựa, nhất là con gái. Cha mẹ đặt đâu thì con ngồi đó, tất cả đều do cha mẹ định đoạt. Cha mẹ chọn lựa trên căn bản nhận xét của kinh nghiệm cha mẹ. Lệ này tuy xưa nhưng cũng có nhiều cái hay, vì vậy là người trẻ ta cần phải nghiên cứu học hỏi. Bây giờ người trẻ không chấp nhận chế độ này và vì vậy họ không được thừa hưởng những kinh nghiệm xương máu của cha mẹ. Vì không có sự trao truyền và tìm hiểu nhau cho nên sự truyền thông giữa cha mẹ và con cái dễ trở nên bế tắc. Còn khi ta đi tu thì cha mẹ không chọn lựa tăng thân cho ta, cha mẹ ta cũng không ép buộc ta phải tu chỗ này hay chỗ nọ. Ta có quyền chọn lựa. Ta có thể tới ở tại một ngôi chùa nào đó trong một thời gian và nếu thấy thích nghi được thì ta mới ngỏ ý xin xuất gia tại chùa đó. Ngày trước có những sư chú, sư cô đã tới Làng Mai như là một trong những chùa mà mình đi quán sát, xem thử ở chùa này, mình có thể có hạnh phúc hay không, có tương lai không. Sau một thời gian tìm hiểu họ mới chịu dừng chân.

Khi quyết tâm ở lại với tăng thân, ta làm một quyết định lớn lao của đời ta; ta giao phó hết tất cả thân mạng mình cho tăng thân. Cũng như người con gái đi lấy chồng là giao phó thân mạng và tương lai mình cho người chồng. Lấy chồng mà không đặt niềm tin nơi chồng thì làm sao có hạnh phúc? Vậy thì chọn lựa tăng thân thích hợp, có khả năng chuyên chở ta, đưa ta tới đích của sự chuyển hóa, trị liệu và giải thoát là điều cần thiết. Và khi biết ta sẽ có được cơ hội để thành công và đã quyết ở lại tức là ta đã chấp nhận đây là tăng thân của ta rồi thì ta phải lấy tương lai của tăng thân làm tương lai của mình. Chúng ta phải tháo ra cái ranh giới cá nhân, lấy cái khổ vui của tăng thân làm cái khổ vui của mình. Ta không còn hành xử như một cá nhân nữa mà phải bắt đầu thực tập hành xử như một tăng thân. Ta có thể đưa ra ý kiến của riêng ta, nhưng ta phải đặt nó vào trong biển ý kiến của tăng thân. Như vậy là ta đang thực tập giáo lý vô ngã và tương tức. Còn nếu ta sống trong tăng thân mà không thấy được tăng thân là cái thân của ta, không thấy được tương lai, hạnh phúc và lý tưởng của tăng thân chính là tương lai, hạnh phúc và lý tưởng của ta, nghĩa là nếu ta không hòa hợp được với tăng thân, nếu ta còn bị nhốt ở trong cái vỏ của bản ngã thì ta thực sự chưa bước được bước nào trên con đường lý tưởng mà ta đã phát nguyện. Ta chưa thật sự quy y tăng. Khi hai người kết hôn với nhau rồi thì người con gái phải thấy rằng tương lai của người chồng là tương lai của chính mình và tất cả những thao thức và khổ vui của chồng đều là những thao thức và khổ vui của mình. Người chồng cũng phải thấy như vậy. Hạnh phúc của vợ mình chính là hạnh phúc của mình. Không có tương lai riêng, không có sự khác biệt giữa người quay tơ và người đọc sách. Hai cái tương quan tương duyên với nhau. Nếu không có sự quay tơ thì không có sự đọc sách, nếu không có sự đọc sách thì sự quay tơ trở thành vô nghĩa.

Trong tăng thân cũng vậy, có nhiều công việc phải làm, nhưng ta nên thấy rằng làm những công việc đó là làm cho ta, và ta làm với tất cả tình thương. Làm theo tinh thần ấy thì càng làm ta càng có hạnh phúc. Ta thực hiện được lý tưởng thương yêu của ta. Vì vậy tăng thân là khung cảnh để ta thực hiện sự nghiệp lý tưởng hiểu biết (đại trí) và thương yêu (đại bi) của ta. Thành công với tăng thân thì ta mới thành công được với mọi người, mọi nơi. Nếu không có lòng thương lớn thì ta sẽ chán chường và đau khổ trong khi làm việc, và ta sẽ có cảm tưởng là ta bị làm việc, hoặc sẽ than phiền rằng taị sao đi tu rồi mà phải làm việc nhiều quá, không có thì giờ riêng để tu, để “thảnh thơi” và ta nghĩ có lẽ ta phải tìm một chỗ khác an nhàn hơn, có nhiều thì giờ để “tu”.

Nên khi nào ta thấy được tăng thân chính là thân của ta, khi nào ta thấy được lý tưởng và hạnh phúc của tăng thân là lý tưởng và hạnh phúc của ta, khi nào ta đi chung được với tăng thân như một dòng sông mà không phải là một giọt nước riêng rẽ, thì hầu hết những đau khổ của ta sẽ được rơi rụng hoặc chuyển hoá một cách rất mau chóng. Đó là sự thực tập quay về nương tựa tăng. Ngày xưa khi mới vào tu, tôi chưa hiểu được như vậy, tôi cho rằng “con về nương tựa tăng” chỉ là một sự cam kết, một lời tuyên bố, là sự biểu lộ kính ngưỡng mà thôi. Tôi chưa biết rằng quay về nương tựa tăng là một sự thực tập, và sự thực tập đó sẽ làm phiền não của ta rụng rơi. Phiền não được phát hiện trên ý niệm ngã và chấp ngã của ta. Khi cái ngã trong ta được đánh tan và ta hòa hợp vào được với tăng thân thì những phiền não ấy tan biến rất mau lẹ. Còn nếu không hòa hợp được thì ta vẫn tiếp tục mang theo những cái buồn, giận, thất vọng, tại vì ta vẫn còn là một giọt dầu không hòa tan được trong bát sữa. Không hòa được với tăng thân thì sự xuất gia, sự thực tập của ta không bao giờ thành công được. Vì vậy sự thực tập của ta là làm sao mỗi ngày ta nhìn, nghe, cảm và làm việc như thế nào để thấy được rằng tăng thân và thân ta chỉ là một thân. Làm được như vậy thì hạnh phúc là cái mà ta không thể không có. Đức Thế Tôn thường nói rằng tăng thân phải hòa hợp được như là nước với sữa thì mới là tăng thân đích thực, mới làm chỗ nương tựa được cho hải chúng mười phương.

Có những người tu tới năm năm, mười năm, hai mươi năm mà vẫn còn là một giọt dầu trong bát sữa, cái ranh giới giữa ngã và phi ngã vẫn còn nguyên vẹn, vẫn chưa là một được với tăng thân, như vậy ta không thể nói rằng những người ấy đã thành công trong sự tu học. Vì họ chưa xóa được cái bản ngã để trở thành một với tăng thân, nên những khối buồn đau, lo sợ và ganh tỵ vẫn còn nguyên trong lòng họ.

Ta hãy quán tưởng một đàn ngỗng trời, cứ mỗi năm trước khi mùa Đông đến, phải di cư từ miền Bắc xuống miền Nam để dễ bề sinh sống. Nếu có cơ hội để quán sát, ta sẽ thấy rất thú vị. Có khi đàn ngỗng trời có tới hàng ngàn con. Tuệ giác và linh cảm của chúng cho chúng biết là đã đến lúc phải di cư về phương nam và có khi chuyến bay cần phải mất nhiều ngày nhiều tháng. Có những đàn chim phải bay tới ba ngàn dặm hoặc mười ngàn dặm mới về đến phương nam. Mỗi năm chuyện đó đều xảy ra. Khi quan sát thì chúng ta thấy rõ ràng rằng những con ngỗng trời con nào cũng duỗi cái cổ thẳng về phía trước và ép hai chân ra phía sau, trông như một mũi tên đang lao về phía trước và mỗi con đều nằm trong vị trí của nó, rất đẹp. Quan sát cho thật kỹ ta thấy chúng thể hiện sự hòa điệu thật kỳ diệu, chúng giống như một cái màng lưới và mỗi một con chim có vẻ như không cần cố gắng gì cả nhưng sự giao tiếp và truyền thông giữa chúng với nhau đang xảy ra một cách rất tuyệt diệu và tự nhiên. Con chim cũng có mắt, có tai, có linh tính và khi bay lên, nó ý thức rất rõ rằng xung quanh nó có những con chim khác và chúng bay thành một đàn rất hòa điệu. Có những lúc cần phải xoay chiều, thì sự chuyển đổi xảy ra một cách rất tự nhiên, nhịp nhàng và hòa điệu, không hề có sự lộn xộn, thật là mầu nhiệm. Tại sao chúng có thể làm hay như vậy? Tất cả những con chim kia đều có cách phát ra và tiếp nhận những tín hiệu truyền thông rất tuyệt diệu, do đó dù chúng phải bay hàng ngàn cây số mà chúng vẫn không bị lạc nhau. Chúng không cần phải lao tác nặng nhọc. Mỗi một con chim nương vào đàn chim để cho đàn chim chuyên chở đi, chỉ cần có mặt, mở mắt, mở tai ra và bay theo một cách tuyệt đối thì tự nhiên nó ở được vào trong cái vị trí của nó. Trong khi bay như thế, vị trí của một con chim giữa những con chim khác, vị trí của con chim đối với trời, đối với đất là vị trí tuyệt hảo. Chúng ta biết rằng nếu đi một mình, con chim không thể nào đi về miền nam được. Chúng phải đi một đàn, nương tựa vào nhau một cách tuyệt đối thì mới có thể về được miền nam an toàn. Ta hãy để cho thuyền tăng thân chuyên chở ta đi như con chim để cho đàn chim đưa đi vậy. Ta không nên cựa quậy, phản kháng hay vùng vẫy. Phải tập thuận theo tăng thân. Tài năng và sự thành công không phải là tài năng và sự thành công của một con chim mà là của cả đàn chim. Trong đàn chim có tới hàng ngàn con, có những con chim lớn hơn và những con chim nhỏ hơn, nhưng luôn luôn có một con chim đầu đàn và có một số con chim khác có khả năng dẫn đạo phụ giúp. Trong khi quan sát, chúng ta sẽ nghe được tiếng kêu ‘honk! honk!’ của con chim đầu đàn và những con chim bay theo sau cũng đáp lại bằng tiếng ‘honk! honk!’ và tiếng kêu của cả đàn chim biến thành một bản nhạc rất sống động và vui tươi giống như mỗi buổi sáng khi người duy na xướng lên: “Ngưỡng mong đại chúng tinh tấn nhiếp tâm thiền tập. Nam Mô Bụt Thích Ca Mâu Ni.” thì tất cả đại chúng đồng trả lời: “Nam Mô Bụt Thích Ca Mâu Ni.” Có một con chim đầu đàn xướng lên và tất cả những con chim khác đáp ứng lại. Đàn chim di động rất đẹp. Buổi sáng hoặc buổi tối khi ngồi thiền trên bồ đoàn, ta hãy quán tưởng ta là một con chim trong đàn chim, đàn chim ta là tăng thân, ngồi một vòng, hai vòng, ba vòng và tất cả đều là những con chim đang bay về hướng an lạc, vững chãi và thảnh thơi. Mỗi người ngồi trên bồ đoàn của mình, mở lòng ra thì sẽ cảm thấy được năng lượng của tăng thân đang đi vào trong từng thớ thịt, từng tế bào của ta. Điều ta cần làm trong khi ngồi thiền, là phải thật sự có mặt với tăng thân và khi ta thật sự có đó với tăng thân thì niềm vui của ta được tăng tiến rất nhiều và ta cảm thấy được bảo hộ và nâng đỡ. Ta theo dõi hơi thở và thầm nói rằng: Hạnh phúc quá! Ta đang được ngồi với tăng thân, được đóng góp sự có mặt của mình cho tăng thân và được tăng thân chuyên chở về hướng an lạc, tự do và hạnh phúc. Ta chỉ cần ý thức như vậy là niềm vui và hạnh phúc đã bắt đầu trào dâng. Được ngồi với tăng thân là một hạnh phúc lớn. Nhiều khi ta không cần làm gì hết, không cần quán tưởng gì hết, ta chỉ ngồi đó mà theo dõi hơi thở, buông thư và giao phó thân mạng của ta cho tăng thân là ta cũng được đi theo tăng thân rồi. Tăng thân không bao giờ bỏ ta ở lại nếu ta biết nương tựa vào tăng thân. Danh từ mà chúng ta thường hay nói là cho phép tăng thân chuyên chở ta.

Trong bài tụng Phòng Hộ Chuyển Hóa, có câu:

Con nhất tâm nguyện sống đời lành
Đem thân mạng nương nhờ Tam Bảo

Khi người con gái đi lấy chồng, cô ta phải đem thân mạng mình giao phó cho chồng, có phải vậy không? Đối với người con trai cũng vậy. Tăng thân luôn luôn phải bắt đầu bằng bốn người trở lên, một người thì không thể gọi là tăng thân được. Cũng vậy, đứng về phương diện cá nhân chúng ta không phải là những con người toàn hảo. Không ai trong chúng ta là một con người toàn hảo cả, nhưng khi chúng ta tới với nhau, thành lập một tăng thân thì tăng thân đó có thể tạo tác ra những cái mà không ai trong chúng ta với tư cách cá nhân có thể tạo tác ra được. Cũng như một đàn chim, cái tài năng đó, cái đẹp đó không phải là tài năng riêng hay cái đẹp riêng của một con chim. Một con chim không thể nào làm ra được cái đó, không thể làm ra được cái khung cảnh nhiệm mầu như thế. Mỗi khi tôi quan sát đàn ngỗng đang bay tôi thấy cảm động gần như chảy nước mắt. Một tăng thân cũng vậy, tăng thân có thể làm hiển bày những cái đẹp và lành, hiển bày khung cảnh nhiệm mầu của sự tươi vui, hòa điệu, những cái rất thánh thiện có khả năng trị liệu và chuyển hóa mà với tư cách cá nhân, ta không thể nào làm được. Các bậc giác ngộ luôn luôn là những người biết xây dựng tăng thân. Đức Bổn Sư cũng đã để rất nhiều thì giờ và năng lực xây dựng tăng thân, đức Bụt A Di Đà cũng vậy. Bất cứ người nào trong chúng ta cũng thấy rằng tăng thân là con đường thoát duy nhất. Với tư cách của anh hùng cá nhân thì ta không thể nào đi xa được. Chỉ có tăng thân mới có thể đem lại an lạc, vững chãi và hy vọng cho tương lai, và giúp ta thực hiện được lý tưởng cao cả của ta mà thôi. Vì vậy ta phải đem hết thân mạng của ta để đầu tư vào công việc xây dựng tăng thân.

Chúng ta ngồi trên thuyền với nhau như một tăng thân và phải giao phó thân mạng của ta cho chiếc thuyền. Khi quán sát một đàn ong thì chúng ta cũng thấy như vậy. Đàn ong kia có rất nhiều tài năng, rất nhiều trí tuệ trong kỹ thuật xây dựng cái tổ ong của chúng. Cái tổ của chúng rất đẹp. Các con ong thợ chăm sóc con ong chúa và dự trữ thức ăn cho mùa Đông một cách tuyệt diệu. Chúng phân chia trách nhiệm rất đồng đều; một số bay đi bốn phương để đem nhụy hoa về và số còn lại thì lo việc xây cất và chăm sóc. Các nhà nghiên cứu về đời sống của loài ong thấy được những mầu nhiệm đó. Họ công nhận rằng những tài năng đó, những công trình tuyệt vời như thế không phải là công trình của cá nhân con ong, mà đó là sự thực hiện của cả tập thể đàn ong. Các nhà khoa học bây giờ nghiên cứu về não bộ cũng vậy, họ thấy rằng não bộ có hàng tỷ tế bào gọi là nơ-ron, những nơ-ron đó với tư cách cá nhân thì không thể làm được gì hết, nhưng khi phối hợp với nhau, hoạt động với nhau như một tăng thân thì thật là nhiệm mầu, chúng luôn luôn cởi mở và tiếp nhận những tin tức, những dữ kiện từ các nơ-ron khác và nhờ vậy chúng làm biểu hiện ra những cái vô cùng mầu nhiệm. Giáo lý vô ngã và tương tức được ứng dụng một cách thiết thực và cụ thể và hiển lộ rõ rệt trong những đối tượng nghiên cứu của các nhà khoa học thời nay. Những tế bào trong cơ thể ta cũng vậy, chúng hoạt động trên cơ bản của vô ngã và tương tức; những tế bào luôn luôn mở lòng ra để thiết lập liên hệ truyền thông và tiếp xúc với những tế bào khác và không có tế bào nào nói rằng tôi là số một, là chúa tể, là “ngã” cả. Sự hòa điệu của các tế bào làm ra sự an toàn vững mạnh của cơ thể. Cho nên người ta nói rằng khoa học bây giờ có thể đóng một cái dấu chứng thực được cho giáo lý vô ngã và tương tức của đạo Bụt. Bây giờ khoa học mới chứng nhận giáo lý vô ngã là đúng, phù hợp với thực tại của chân lý. Tiếc thay các nhà khoa học tuy thấy được chân lý vô ngã, nhưng chưa áp dụng được chân lý vô ngã vào trong đời sống hàng ngày của mình. Đối với gia đình vợ con, họ vẫn còn buồn giận, vẫn thấy họ khác với con, khác với vợ, với chồng và vẫn chưa phá bỏ được những xung khắc. Đứng về phương diện lý thuyết thì họ thấy được tính vô ngã của vạn vật nhưng đứng về phương diện thực tế thì họ chưa áp dụng được cái thấy vô ngã đó vào trong đời sống hàng ngày, vì vậy họ vẫn tiếp tục khổ đau và tạo ra khổ đau cho những người chung quanh. Trong khi đó thì đạo Bụt không ưa nói về chân lý vô ngã như một học thuyết để phô trương mà đưa ra những phép áp dụng chân lý vô ngã trong đời sống hàng ngày. Làm việc gì ta cũng tập làm với tư cách vô ngã. Giải quyết vấn đề nào chúng ta cũng tập giải quyết theo đường hướng vô ngã. Làm mới hay soi sáng cũng đều được thực hiện trên căn bản vô ngã. Còn nếu làm mới và soi sáng hoặc hành xử trên căn bản của ngã thì ta vẫn chưa thực tập giáo lý vô ngã của đạo Bụt. Khi nào ta thực tập và thực chứng được tinh thần vô ngã thì ta mới thật sự có hiểu biết và thương yêu. Cho nên làm mới hay soi sáng cũng đều phát xuất từ lòng thương lớn của ta. Khi chùa tổ chức một khóa tu năm ngày hay bảy ngày, thì người xuất gia và người cư sĩ có cơ hội tu tập chung với nhau; người cư sĩ có thể học hỏi được những điều mà trong xã hội họ không có cơ hội học hỏi. Và người xuất gia cũng học hỏi được về bản chất của những tâm tư, thao thức và khổ đau nơi người cư sĩ. Trong ngày tu, người cư sĩ cũng được ăn cơm trong im lặng, được ngồi thiền, tụng kinh và nghe pháp và như vậy là tham dự được vào một phần đời sống của người xuất gia.

Đức Thế Tôn dạy: “Này các thầy, các thầy phải chăm sóc cho nhau như anh em một nhà. Chăm sóc cho nhau tức là các vị chăm sóc cho tôi vậy”. Chắc quý vị còn nhớ chuyện đức bổn sư và thầy A Nan đi thăm một tu viện nhỏ. Khi tới đó, các thầy đã đi khất thực hết, chỉ có một thầy bị bệnh kiết nằm ở nhà mà thôi. Vì bị bệnh nặng, lại không có người hộ bệnh, một mình thầy không đi ra ngoài được nên mỗi khi thầy cần đi đại tiểu tiện thầy đi ngay ở trong phòng và y áo của thầy bị dính đầy phân và nước tiểu. Thấy vậy Bụt thương quá nên bảo thầy A Nan đi kiếm một chậu nước. Người tự tay tắm rửa và thay áo cho thầy ấy. Bụt hỏi: “Các thầy khác không chăm lo cho thầy sao?” Thầy ấy trả lời: “Bạch đức Thế Tôn, có. Nhưng vì con nghĩ mình bị bệnh lâu quá mà cứ để các thầy phải chăm sóc thì thật là cực nhọc cho họ nên con rất ngại. Do đó con đã xin các thầy cho phép con tự chăm sóc. Mấy ngày hôm nay là con tự lo liệu lấy.” Nghe vậy, đức Thế Tôn liền dạy: “Như vậy không được. Thầy nên để cho các thầy khác chăm sóc cho đến khi hết bệnh mới thôi”. Khi các thầy đi khất thực về, đức Thế Tôn cho gọi lại và Người dạy: “Này các thầy! Khi đã đi tu rồi thì ta đâu còn cha mẹ, anh, chị, em bên cạnh để lo cho ta nữa. Nếu quý vị không chăm sóc cho nhau thì ai chăm sóc cho quý vị? Chúng ta là một gia đình, chúng ta phải lo cho nhau như anh em ruột thịt. Tôi biết trong các thầy, thầy nào cũng muốn làm thị giả cho tôi, muốn lo lắng, chăm sóc cho tôi. Tôi xin nói rằng: Lo cho nhau tức là lo cho tôi vậy. Người nào muốn chăm sóc cho Như Lai thì hãy chăm sóc cho những người bạn tu của mình. Đó mới thật sự là chăm sóc cho Như Lai.” Bụt cũng dạy: “Khi những người cư sĩ tới tu viện thì người xuất gia chăm sóc cho họ vì họ cũng là đệ tử của Như Lai.” Cố nhiên chúng ta cũng nên tổ chức như thế nào đó để người xuất gia có thể chăm sóc cho người xuất gia đã đành rồi, mà người xuất gia cũng chăm sóc được thêm cho người cư sĩ và người cư sĩ cũng có thể thực tập chăm sóc cho nhau. Làng Mai đã chế tác ra pháp môn đệ nhị thân để áp dụng tinh thần này và đang thực tập rất thành công. Những người cư sĩ tới đây tu tập đều cũng được thực tập theo tinh thần này. Người cư sĩ chăm sóc cho người cư sĩ và người cư sĩ cũng chăm sóc cho người xuất gia. Mỗi khi ta tổ chức khóa tu thì ta nên khai thị tinh thần đó.

Chúng ta nên tự nói rằng: Những người cư sĩ tới tu với ta cũng là đệ tử của đức Như Lai và ta với tư cách những người anh lớn, những người chị lớn, phải chăm sóc cho họ. Có được cái thấy như vậy rồi thì những công việc như nấu cơm, dọn phòng hoặc đi đón thiền sinh từ nhà ga không còn là những công việc nặng nhọc nữa và ta không cảm thấy buồn chán. Ta có thể làm những công việc đó với tất cả tình thương. Cũng như chàng Mân xuống bếp rửa chén mà không thấy đau khổ gì cả, vì Mân thấy rằng rửa vài cái chén là đỡ cho Giao Tiên bớt phần nặng nhọc. Hơn nữa rửa chén chính là niềm vui. Đó là tình thương đích thực. Cũng vậy, ta phải tập làm với tình thương thì ta mới thật sự có hạnh phúc. Trong chúng ta có những thầy, những sư cô đã làm với tinh thần đó và họ cảm thấy rất hạnh phúc. Được phục vụ cho đại chúng cũng hạnh phúc mà được có cơ hội chăm sóc cho các sư anh, sư chị, sư em và cho thiền sinh cũng là hạnh phúc. Nhưng trong chúng ta cũng có một vài người ưa than mệt. Các vị ấy nói: “Trời ơi, mệt quá! Cứ hết khóa tu này lại tới khóa tu khác, không có thì giờ rảnh. Phải có một khóa tu riêng cho người xuất gia mới được”. Tôi rất hiểu và rất thông cảm nhu yếu đó. Chúng ta quả thực đã tổ chức nhiều khóa tu, nhưng vì lòng thương nên ta mới cố gắng tạo cơ duyên cho người ta đến tu tập. Tôi biết cũng có nhiều người trong chúng ta rất muốn mở cửa để cho nhiều người tới thực tập. Họ thực tập được chừng nào thì đỡ cho họ chừng đó. Thường thường ta có hai khuynh hướng: khi mệt thì ta không muốn làm gì hết, nhưng lòng từ bi trong ta cứ muốn ta mở cửa để đón nhận các thiền sinh tới tu tập để cho họ bớt khổ. Chúng ta phải cùng đàm luận về chuyện này. Ta phải làm việc như thế nào, chăm sóc cho nhau như thế nào, độ người cư sĩ như thế nào để vẫn duy trì được sự thoải mái, thảnh thơi mà không bị căng thẳng.

Những người cư sĩ tới đây cũng thực hành theo giáo lý của đức Thế Tôn. Họ tới đây một phần là để yểm trợ cho người xuất gia, một phần là để yểm trợ cho những người bạn tu cư sĩ khác. Họ chăm sóc lấy nhau và họ chăm sóc luôn cả người xuất gia. Cũng như người xuất gia chăm sóc cho nhau và chăm sóc luôn cho những người cư sĩ. Có như vậy chúng ta mới có được một đoàn thể gọi là tứ chúng gồm xuất gia nam, xuất gia nữ, tại gia nam và tại gia nữ. Chúng ta phải đi tới một phương thức trong đó bốn chúng có thể sống hòa hợp, có hạnh phúc, một phương thức trong đó người nào cũng được tu tập chuyển hóa và mọi người có cơ hội nâng đỡ nhau tu tập để chuyển hóa.

Nói tóm lại, trong đời sống tu tập của chúng ta, sự thực tập quay về nương tựa tăng thân đã trở thành một chủ đề lớn. Chúng ta không cần thực tập quá nhiều, chỉ cần thực tập được ba chữ quy y tăng thôi là đã có thể thành công. Quy y tăng là sự thực tập mà các loài ong, loài chim và loài cá, chúng đã và đang làm. Con người là loài sinh vật có tính xã hội, do đó con người phải tập làm cho được như những loài ong, loài chim và loài cá thì nhân loại mới có hòa bình, mới có tương lai. Chúng ta phải vượt thoát ý niệm về ngã và thực tập quay về nương tựa tăng thân. Chúng ta phải thấy hạnh phúc của tăng thân chính là hạnh phúc của mình, lý tưởng của tăng thân chính là lý tưởng của mình, sự thành đạt của tăng thân là sự thành đạt của mình. Cũng như cặp vợ chồng trẻ kia, người vợ quay tơ là không phải chỉ quay tơ cho người chồng mà cô cũng quay tơ cho chính mình, tại vì mình với chồng mình chính là một.

Chúng ta mở rộng hai cánh tay để ôm ấp hết tất cả mọi người vào lòng, tại vì tăng thân là thân của ta. Chúng ta có Phật thân, có pháp thân, có tăng thân. Nếu giữ gìn được ba cái thân đó, sống được với ba cái thân đó một cách thiết thực trong đời sống hàng ngày thì những phiền não của ta sẽ rụng rơi rất mau chóng.

 

________

Pháp thoại ngày 13-1-2000, tại chùa Cam Lộ, xóm Hạ trong khóa tu mùa Đông

Phương pháp thực tập soi sáng

Mấy ngày hôm nay đại chúng của các xóm thực tập soi sáng cho những vị sắp được thọ giới. Có một số các vị xuất gia và tại gia cũng sẽ được truyền đăng để làm giáo thọ. Họ đã làm giáo thọ thực tập một năm hoặc hai năm rồi. Làm giáo thọ khó lắm, cho nên nhiều người ngại không dám nhận đèn. Không ai nghĩ rằng mình xứng đáng để làm giáo thọ cả, nhưng ta phải có can đảm vì Bụt đang cần ta. Dầu đang còn yếu kém, ta cũng phải can đảm mà nhận lãnh trách nhiệm, rồi từ từ ta sẽ vững lên, sẽ giỏi lên.

Tiếp nhận cây đèn để làm giáo thọ không có nghĩa là ta đã giỏi rồi, thực sự ta chỉ mới bắt đầu thôi. Phải có bước đầu thì mới có bước thứ hai được. Vì vậy ta nên đi vào Giới Đàn với một tâm niệm rất khiêm cung, ta biết rằng ta còn yếu kém, ta biết rằng ta phải có một năng lượng lớn trong lòng mới có thể tiếp nhận được giới pháp: hoặc năm giới, hoặc giới Sa Di, hoặc giới Tiếp Hiện, hoặc Giới Lớn hoặc Tiếp Nhận Truyền Đăng. Ta thấy hổ thẹn, ta chưa đủ khả năng cũng như sức mạnh, nhưng vì ta là con của Bụt, học trò của Thầy, em của anh, em của chị cho nên ta phải có can đảm. Và Bụt, Thầy, anh ta, chị ta đang trông cậy nơi ta nên ta phải can đảm đi tới để tiếp nhận giới pháp đó.

Và cũng vì vậy, cho nên đại chúng với lòng từ bi đã ngồi lại soi sáng cho ta, soi sáng để cho ta thấy được những ưu điểm và những khuyết điểm của ta, và ta phải ngồi trong buổi soi sáng với tất cả sự khiêm cung để mà học hỏi. Soi sáng không có nghĩa là chỉ trích. Soi sáng tức là chỉ cho ta thấy rõ về tình trạng của ta, về những khả năng và những yếu kém của ta. Trong thời gian soi sáng đó ta được nghe không phải một người mà là được nghe tất cả mọi người trong chúng nói cho ta, và về ta. Tại vì mỗi người ai cũng có con mắt để nhận xét về ta cả. Một người có thể không thấy rõ tất cả những gì thuộc về ta, nhưng nhiều người thì thế nào với con mắt của tăng (gọi là Tăng Nhãn), chúng sẽ có thể thấy được ta rõ hơn. Thấy được ta rõ hơn và chỉ dạy cho ta thì ta biết rằng ta phải thực tập như thế nào để có những bước tiến.

Pháp môn soi sáng đã được áp dụng trong giới xuất gia, nhưng cũng cần được áp dụng trong giới tại gia. Trong một buổi soi sáng ban đầu ta nghĩ rằng người được thừa hưởng là người được soi sáng, nhưng kỳ thực tất cả mọi người trong chúng ta đều được thừa hưởng sự thực tập soi sáng ấy.

Soi sáng là một pháp môn thực tập rất hay và rất cụ thể của Làng Mai. Ta hy vọng rằng sau này các trung tâm tu học khác, các đạo tràng khác đều có cơ hội thực tập phương pháp này. Có khi sự thực tập này còn quan trọng hơn cả ngồi thiền. Ta không nên xem những buổi soi sáng là những buổi làm mất thời giờ. Trong những buổi đó ai cũng học hỏi được nhiều, ai cũng thấy được tự thân nhiều hơn, thấy được người em, người anh, người chị của mình rõ hơn.

Thường thường ta có một cái thấy về ta, và cái thấy ấy có thể có nhiều sai lạc, vì vậy cho nên ta cần phải có anh ta, chị ta, em ta chỉ cho ta thấy rõ thêm về ta. Hơn nữa, những cái thấy của ta về người kia cũng có thể sai lạc. Đầu tiên ta nghĩ rằng ta thấy đúng. Có thể là có những điểm đúng trong cái thấy của ta về người kia, nhưng cũng có thể có những điểm sai lầm, và vì vậy cho nên sau khi ta đã soi sáng cho người đó rồi thì ta ngồi lắng nghe những người khác soi sáng cho người đó. Có người có vài nhận thức giống như ta đã có, nhưng cũng có những nhận thức khác mà ta không có. Và khi ta ngồi lắng nghe tất cả mọi người trong chúng rồi thì ta thấy cái nhận thức của ta đối với đương sự được soi sáng đó đã trở nên rất khác với lúc ban đầu.

Đây là một pháp môn rất hay mà tất cả mọi người đều phải học hỏi. Ví dụ chúng ta có một chúng nhỏ thôi, chỉ có 8 người (trong những buổi soi sáng tại Xóm Thượng có khi có tới 60 người), và ta được đại chúng giao phó trách nhiệm phải mở đầu cuộc soi sáng. Ta sẽ nói những gì ta thấy về người được soi sáng này, nghĩa là những ưu điểm và những khuyết điểm về người đó. Tại Làng Mai, trước khi soi sáng ta phải ngồi thiền cho tĩnh tâm trước, rồi nghe tiếng chuông,

Đây là văn bản Quán Nguyện mở đầu các buổi soi sáng:

Lạy Bụt, lạy Tổ, hôm nay chúng con thực tập soi sáng cho các sư anh (sư chị) và sư em của chúng con. Chúng con biết tất cả chúng con đều là những thành phần của cùng một tăng thân, tất cả chúng con đều là xương thịt của cùng một tăng thân. Vì vậy, chúng con ý thức rằng soi sáng cho bất cứ ai trong tăng thân cũng là tự soi sáng cho chính mình. Chúng con nguyện sẽ đem hết tình thương và sự hiểu biết của chúng con để thực tập công việc soi sáng.

Chúng con nguyện tất cả những gì chúng con nói ra đều phát sinh từ thiện ý muốn đi tới một cái thấy chính xác về đối tượng soi sáng và cống hiến cho đương sự những đề nghị thực tập thực tế để có thể đưa tới những chuyển hóa tốt đẹp cho đối tượng soi sáng. Chúng con nguyện cố gắng không để cho sự buồn giận và những thành kiến làm sai lệch cái thấy của chúng con. Chúng con nguyện bất cứ một lời nói nào của chúng con cũng đều phát xuất từ tình thương. Chúng con biết trong khi soi sáng cho một thành phần của tăng thân, chúng con cũng đang soi sáng cho bản thân chúng con, vì vậy việc thực tập soi sáng cũng đem lại lợi lạc cho bản thân của mỗi chúng con.

Lạy Bụt và chư Tổ gia hộ cho chúng con để buổi thực tập soi sáng này được thành công viên mãn.

Văn bản này tuy ngắn nhưng cần được giải thích rất nhiều. Tất cả mọi người đều nên học hỏi trước về văn bản này trước khi tham dự vào một buổi soi sáng. Học và hiểu được văn bản này một cách sâu sắc thì đến khi nghe đọc ta mới tưới tẩm những hạt giống tốt trong ta được. Trước hết ta ý thức rằng soi sáng cho ai cũng là soi sáng cho chính ta. Tại vì những ưu điểm của người kia có thể ta cũng có, và những khuyết điểm của người kia có thể là ta cũng đang có. Có thể những khuyết điểm của người này ta cũng có nhưng ít hơn, nhẹ hơn, và cũng có khi nhiều hơn. Và mỗi khi nói ra được những ưu điểm của người này thì ta nhìn lại xem ta có những ưu điểm đó hay không. Nếu có nhiều thì ta mừng vui và phát nguyện rằng ta sẽ thực tập để phát triển thêm. Nếu có ít hơn người kia hay chưa có thì ta cảm thấy hổ thẹn, tự nhủ rằng ta sẽ cố gắng cho được như người ấy. Thành ra trong khi soi sáng ta có thái độ rất khiêm cung, sợ hãi. Sợ hãi này là môt sự sợ hãi rất lành mạnh, nghĩa là ta không quá tin rằng những điều ta nói chắc chắn là đúng. Các vị Tổ như Tổ Long Thọ trước khi bắt đầu một tác phẩm, dù có kiến thức sâu rộng về phật pháp cũng luôn luôn mở đầu rằng: con cầu mong chư Bụt gia hội cho những điều con nói đây phù hợp với giáo chỉ của Ngài. Nếu các Tổ như Long Thọ, Vô Trước và Thế Thân đều viết những câu như vậy trước khi đặt bút xuống viết một cuốn Luận thì ta là ai mà lại không có được sự khiêm hạ trong khi ta soi sáng cho sư anh của ta, sư chị của ta, sư em của ta? Phải khiêm cung lắm mới được!

Lạy Bụt, lạy Tổ, hôm nay chúng con thực tập soi sáng cho các sư anh (sư chị) và sư em của chúng con. Chúng con biết tất cả chúng con đều là những thành phần của cùng một tăng thân, tất cả chúng con đều là xương thịt của cùng một tăng thân.

Ở Việt Nam ta nói anh em như thể tay chân, tay và chân cùng thuộc về một xương thịt cả, thành ra tay phải đối với tay trái cũng vậy. Tất cả đau nhức của tay trái cũng là của tay phải, tất cả những hạnh phúc của tay phải cũng là của tay trái. Phải soi sáng dưới tinh thần đó thì mới đúng. Vì vậy, chúng con cũng ý thức rằng soi sáng cho bất cứ ai trong tăng thân cũng là soi sáng cho chính mình. Và vì vậy cho nên ta không muốn ta đau. Ta soi sáng như thế nào để người kia không bị đau, tại vì người kia đau thì chính ta cũng đau. Chúng con nguyện đem hết tình thương và sự hiểu biết của chúng con để thực tập công việc soi sáng.

Tình thương ta chỉ có hạn thôi, và sự hiểu biết của ta về người đó cũng có hạn thôi, nhưng ta vẫn đem hết tất cả những cái đó ra soi sáng. Có gì ta hiến tặng cái đó, ta không thể hiến tặng những cái mà ta không có. Nhưng mà có cái đó cũng đã là đỡ rồi. Ta có tình thương, ta có nhận thức về người kia cũng như về ta, ta ý thức được tình thương của ta còn hạn hẹp, cái hiểu biết của ta về chính ta và về người kia cũng đang còn hạn hẹp, không được chắc lắm, vì vậy ta không nên quá chắc rằng cái thấy đó của ta tuyệt đối đúng. Điều này quan trọng lắm. Và đây là sự thực tập cho bản thân ta chứ không phải là cho ai cả. Chúng con nguyện tất cả những gì chúng con nói ra đều phát sinh từ thiện ý muốn đi tới một cái thấy chính xác về đối tượng soi sáng. Nghĩa là ta chỉ có ý hướng đóng góp một vài yếu tố để đi tới cái thấy chính xác mà thôi. Chứ ta không nghĩ rằng ta có đủ tất cả những yếu tố chính xác, ta phải nhờ vào mắt của tăng thân nữa… để cống hiến những đề nghị thực tập thực tế có thể đưa tới những chuyển hóa tốt đẹp cho đối tượng soi sáng.

Nếu quả thực ta thương em ta hay là chị ta, ta muốn cho người đó có cơ hội chuyển hóa thì lời ta nói sẽ không có tính cách chỉ trích. Nếu ta nói: “Sư em sao ngồi thiền cứ ngủ gục hoài, lần nào vô thiền đường cũng thấy sư em ngủ gục, như vậy em không đáng được thọ giới lớn.” Điều đó có thể là sự thực, nhưng soi sáng như vậy thì không giúp được gì cho sư em hết. Ví dụ ta nói như thế này: “Sư anh thấy rằng không biết tại lý do nào mà sư em hay ngủ gục trong khi ngồi thiền, sư em hãy nghĩ lại xem mỗi tối sư em có đi ngủ sớm không hay là thức quá khuya? Hoặc sư em có chứng nhức đầu hay đau bụng gì khiến cho em ngủ không đủ? Em có nói chuyện với các sư anh khác chưa về chuyện mà tại sao em cứ ngủ gục trong khi ngồi thiền? Theo anh thì có lẽ phải nên làm thế này… thì em mới chuyển hóa được.” Rồi ta đề nghị những phương pháp rất cụ thể để cho người sư em đó biết được những gì có thể làm để khỏi phải ngủ gục trong khi ngồi thiền. Trong khi nói đó tình thương của ta được biểu hiện ra và người kia sẽ không bao giờ giận ta. Tình thương đó, thiện chí đó ai cũng thấy nơi ta, rất đẹp. Và vì vậy cho nên ta phải sử dụng sự thông minh của ta và kinh nghiệm của ta để cống hiến cho đương sự một nẻo thoát.

Có tình thương mà không có trí tuệ thì tình thương đó chưa phải tình thương đích thực. Ta có tình thương, ta muốn giúp đỡ sư em nhưng ta phải tìm ra cách, và trước buổi soi sáng ta tự hỏi đã tìm ra cách chưa, và ta đã từng giúp sư em của ta chưa, ta đã từng gọi riêng sư em tới để nói: “Này em, tại sao sư anh thấy sư em cứ ngủ gục hoài.” Ta đã không nói và ta đã không giúp, cho đến khi soi sáng thì mới lên án. Ta đã không giúp được sư em ta chút nào hết từ trước tới giờ, cho đến bây giờ ta đưa ra một phán quyết là sư em không được thọ giới, thì ta đã chứng tỏ là ta không có tình thương. Còn nếu trong quá khứ trước khi soi sáng ta đã từng lân mẫn với sư em, từng hỏi han sư em, từng giúp sư em rồi thì những gì ta nói trong buổi soi sáng này chỉ là sự tiếp nối của sự thực tập ấy thôi và tình thương cũng như thiện chí của ta không những được sư em nhận thấy mà cũng được tất cả mọi người trong chúng nhận thấy. Và đại chúng sẽ thấy được giá trị đó, sẽ tin được giá trị đó của ta, và ta làm gương cho những người khác. Khi soi sáng như vậy, ta là cái gương soi sáng cho những người khác. Và khi đến lượt họ soi sáng, họ cũng tập nói được như ta. Trong chúng nếu có một số người có thể làm được như vậy trong buổi soi sáng thì mọi người đều được học hỏi. Đó chính là giáo dục đích thực. Soi sáng không còn là một lao tác nữa, mà thành ra một buổi thực tập để nuôi dưỡng hạt giống tuệ giác và từ bi trong ta. Đó là một thứ thiền quán, ta gọi là thiền quán tập thể (collective meditation).

Chúng con nguyện cố gắng không để cho sự buồn giận và những thành kiến làm sai lệch cái thấy của chúng con. Có thể là ta đã từng có bực bội với người đó trong cuộc sống hằng ngày, cho nên bây giờ nhân có buổi soi sáng này ta nói ra cho bỏ ghét, ta trừng phạt bằng cách không cho thọ giới, không cho truyền đăng. Là con người, ta còn có buồn có giận, nhưng cái buồn cái giận đó cho ta một cơ hội để thực tập. Ta phải biết nhận diện cái buồn hoặc cái giận của ta. Phải biết đi tới người kia để tái lập sự truyền thông và hỏi tại sao sư anh đã làm như vậy, tại sao sư em đã làm như vậy, đã làm cho ta đau. Giữa anh em với nhau, giữa chị em với nhau ta phải đến nói cho người ấy hay, chứ đừng giữ kín trong lòng và đợi đi vào buổi soi sáng rồi mới nói để trừng phạt người kia, làm cho người kia mất đi một cơ hội của cuộc đời người ấy.

Chúng con biết trong khi soi sáng cho một thành phần của tăng thân, chúng con cũng đang soi sáng cho bản thân của chúng con, vì vậy việc thực tập soi sáng cũng đem lại rất nhiều lợi lạc cho bản thân của mỗi chúng con.

Khi ta đứng vào địa vị người soi sáng hay đứng vào địa vị người có trách nhiệm và có quyền quyết định cho số phận của người kia thì ta phải nhìn lại ta. Ngày xưa ta còn yếu kém như thế mà được các sư anh sư chị chấp nhận. Các anh các chị của ta, thầy của ta đã ôm lấy ta bằng tất cả tình thương, khuyến khích ta dầu ta còn đang yếu kém. Nhớ được điều đó rồi thì ta không còn khắt khe với sư em của ta nữa. Nếu không nhớ nhìn lại điều đó thì ta cứ coi các sư em của ta là những đối tượng xa vời: cho nó làm sa di hay thức xoa ba năm nữa, bốn năm nữa để cho mạnh lên rồi mới được thọ giới. Kỳ thực, nếu trong ba năm sắp đến mà ta vẫn cư xử với vị đó như vậy thì vị đó cũng sẽ còn yếu như thế, đã không tiến lên được chút nào mà đôi khi còn thụt lùi xuống nữa là khác. Đó là vì không có sự nâng đỡ của các anh, của các chị. Không phải thêm một năm hoặc là hai năm mà người kia sẽ mạnh ra đâu. Thời gian không làm cho người đó mạnh, thời gian có thể làm cho người đó đi xuống. Người ấy đi xuống hay đi lên được là do ta: ta làm sư anh, ta làm sư chị, ta phải tạo cho người ấy một cơ hội để cho người ấy đi lên. Người ấy có những yếu kém, đúng như vậy, chính người đó có những yếu kém cho nên mới cần sự nâng đỡ của ta. Tại vì ngày xưa chính ta cũng có những yếu kém và ta đã được nâng đỡ.

Có một sư chị đã không chấp nhận cho tất cả các vị tập sự xuất gia được xuất gia. Hồi đó hình như là đợt của các cây Trà Mi. Đứng về phương diện sức khỏe thì có một số các sư em tương lai ‘Trà Mi’ hơi yếu, và đứng về phương diện thực tập cố nhiên là không có ai hoàn hảo rồi, cho nên sư chị ấy đã không chịu. Trong số các cây Trà Mi có bốn người phái nữ: đơn xin xuất gia của họ đều bị bác bỏ hết. Nhưng mà đại chúng đã không theo ý kiến sư chị đó; cộng với sự nâng đỡ của thầy, cả bốn vị đều được xuất gia. Kết quả là sau khi xuất gia sức khỏe của bốn vị đều tăng tiến lên rất mau. Ta phải cho họ một cơ hội, ta phải đem tình thương ra mà tiếp xử. Tại vì tình thương đó là tình thương cho ta chứ không phải cho ai khác. Họ cũng là xương thịt của tăng thân, cũng như ta là xương thịt của tăng thân. Những người đã tương đối vững rồi thì đâu cần sự yểm trợ của ta nữa.

Chính những người đang còn yếu thì mới cần đến tình thương của ta, cần sự yểm trợ của ta nhiều hơn. Ta phải đặt ta vào trong da thịt của người đó. Và cái hay nhất là ta trở về lại thời của ta, ta thấy ta yếu kém như thế nào, ta thấy ta lo sợ như thế nào, phập phồng như thế nào khi ta chờ đợi quyết định của tăng thân thì ta sẽ hiểu được người sư em của ta. Và khi thấy được rồi ta sẽ tìm đủ cách để giúp người sư em đó. Khi người ta có một cái tâm, một ý chí tu học, một khối lửa trong lòng mà ta làm khó họ thì có thể họ đánh mất cơ hội đó và mất cả một đời tu của họ. Và vì vậy, những lời được nói ra phải rất là cẩn thận. Lời nói ấy quyết định số mạng của một người nên ta phải cẩn thận lắm mới được.

Khi ta bắt đầu mở lời soi sáng cho người ấy, ta có tất cả sự khiêm cung, tất cả sự thận trọng, và thấy được ta là ai trong hiện tại cũng như trong quá khứ. Lúc đó những điều ta nói sẽ có ích lợi, sẽ được tiếp nhận dễ dàng bởi người được soi sáng. Sau khi ta nói được hết những điều ta thấy rồi thì ta nghĩ rằng ngồi đây ta sẽ được nghe những ý kiến khác, cho nên ta mở rộng lòng ra để mà nghe người thứ hai nói.

Trong khi người thứ hai nói, người ấy có thể có những ý kiến phù hợp với ta và những ý kiến không phù hợp với ta, thì ta lại có một cơ hội để xét lại cái thấy của mình. Có thể ta thấy người này có một vài tri giác mà ta cho là sai lầm và ta không thích, nhưng ta có thể thấy được rằng người này cũng có vài nhận thức chính xác, có những cái thấy mà ta chưa thấy. Có thể là sau khi nghe người thứ hai nói thì ta đã thay đổi được quan niệm của ta một ít rồi. Dù ta chỉ thay đổi 1/10 quan điểm của ta thì ta cũng đã học hỏi được thêm rồi.

Đến khi người thứ ba mở lời ra nói thì ta cũng thấy có thể có những cái đúng và những cái mà ta thấy không phù hợp với nhận thức của ta. Và khi nghe người thứ tư nói thì ta lại có thể thấy cái mà ta nghĩ là người thứ hai sai bây giờ không còn sai nữa mà trở thành ra đúng. Và vì vậy cho nên ta cũng như tất cả những người khác ngồi trong buổi soi sáng được tiếp tục học hỏi. Cái này gọi là thực tập ‘kiến hòa đồng giải’.

Ý của ta là Chính Đề. Nếu người kia đồng ý với ta thì không nói gì, nhưng nếu người kia nói rằng cái ta thấy sai thì quan niệm thứ hai này được gọi là Phản Đề. Và cái Chính Đề này đang được đối diện với cái Phản Đề kia. Đối diện lần thứ nhất có thể là chưa có kết quả, tại ta không thấy được những yếu tố tích cực ở trong điều người kia nói, ta chỉ thấy những cái tiêu cực thôi. Nhưng có thể khi nghe một người kế tiếp nói thì tự nhiên trong cái Phản Đề ta thấy có một vài điểm đúng. Ban đầu ta thấy nó không có gì đúng cả, nhưng sau một hồi lắng nghe ta lại thấy trong những điều người kia nói có vài cái đúng, lúc ấy trong cái Chính Đề bắt đầu có sự rúng động, bắt đầu nứt rạn để cho những yếu tố đúng của Phản Đề đi vô.

Thành ra ở trong nhận thức của ta bắt đầu có sự chuyển đổi. Ta nghe hết rồi thì có thể cái Chính Đề của ta dung hợp với những Phản Đề khác để thành ra một Hợp Đề. Và sau khi nghe hết những người trong chúng nói rồi thì ta có một nhận thức rất khác với nhận thức ta có lúc ban đầu. Cuối buổi soi sáng cái thấy của ta trở nên rất gần với cái thấy của tăng thân, cái thấy của ta rất gần với Tăng Nhãn. Trước đó nó chưa phải là cái thấy của Tăng Nhãn, vì bây giờ ta thấy được qua con mắt của người sư anh, người sư chị, người sư em ta. Qua buổi soi sáng ta đã học thêm rất nhiều về người ấy, và có nghĩa là ta đã học thêm về chính ta.

Tất cả những gì của bất cứ ai trong chúng nói ra đều có thể giúp cho ta thấy được ta rõ hơn, chứ không phải chỉ giúp cho ta thấy được người kia rõ hơn. Chúng ta đều là người cả. Chúng ta đều có những hạt giống tốt, những hạt giống xấu. Chúng ta đều có những ưu điểm và những khuyết điểm. Và vì vậy, ngồi trong những buổi soi sáng, ta thấy được ta và ta thấy được người kia, nhờ nhìn người kia mà ta thấy ta. Và khi ta nhìn ta là ta thấy được người kia. Trong đời sống, có rất nhiều khi ta không nhìn thấy ta, điều đó rất nguy hiểm. Và không nhìn thấy được ta thì làm sao nhìn thấy được người kia. Cho nên “cái Đốt và cái Bị Đốt”[1] liên hệ với nhau một cách rất mật thiết, không thấy được cái Đốt thì không thể thấy được cái Bị Đốt.

Thường thường nếu chưa quen thì ta sợ đi vào ngồi trong những buổi soi sáng. Ở những giai đoạn đầu thì trong các buổi thực tập soi sáng của Làng Mai, đương sự không có mặt. Chính đương sự cũng không thích, vì ngồi đó thì cảm thấy hơi khó. Nhưng sau nhiều tháng thực tập rốt cuộc tất cả bảy tăng thân đều áp dụng cách soi sáng với sự có mặt của đương sự, bởi vì sự có mặt của đương sự đem lại rất nhiều lợi ích. Cố nhiên soi sáng có nhiều phần, phần thứ nhất là nói về ưu điểm của người kia. Nói về những ưu điểm của người kia không phải để khen, để tưới hoa, không phải để làm cho người kia hoan hỷ. Nói về những cái tốt của người kia cũng là soi sáng và vì vậy ta phải biết cách nói. Thế nào người kia cũng có cái tốt, và khi nói về cái tốt đó ta không làm cho người kia tự hào mà để người kia có dịp nuôi dưỡng và phát triển thêm. Người kia không trở nên tự mãn về cái tốt của họ. Ta chỉ làm cho hẹp lại cái hố ngăn cách giữa những tích cực và tiêu cực. Bởi vì thật sự cái tiêu cực sẽ có thể trở thành cái tích cực, và rác có thể trở thành hoa nếu ta biết cách.

Sự có mặt của đương sự ở trong buổi soi sáng đó giúp cho tất cả mọi người, giúp cho cả đương sự. Đương sự ngồi lắng nghe mà không nói câu nào hết và tập mở rộng lòng ra để nghe. Đương sự không nói sư anh nói đúng hay là sư anh nói sai, cứ nghe sư anh nói và không sợ hãi. Nếu sư anh hiểu lầm về ta thì sau buổi soi sáng ta có dư cơ hội để tới giúp sư anh lấy tri giác sai lầm của sư anh ra. Ta biết là ta sẽ có thể làm điều đó cho nên ta không ngồi đó mà giận, ta không ngồi đó rồi tự nhủ: “Được há, kỳ sau đến phiên tôi soi sáng rồi sẽ biết”.

Trong khi ngồi nghe mà nếu ta thấy có một người sư anh hay một người sư em có tri giác sai lầm thì ta nói: “Được rồi, tội nghiệp quá đi! Chắc mình đã có vụng về nào đó khiến cho người này hiểu lầm mình như thế”. Ta phải tìm ra cho được nguyên do hiểu lầm kia, và nhất quyết làm thế nào để lấy được cái tri giác sai lầm đó ra khỏi người sư anh hoặc người sư em kia. Vì vậy ta ngồi rất yên, và ta có thể mỉm cười được. Thành ra người được soi sáng phải học cách ngồi để được soi sáng. Và ngồi một cách rất vô úy. Nếu quả thật người đó nói trúng điểm yếu của ta thì ta nói: “Chết rồi, vậy mà lâu nay mình không biết, nhờ bây giờ sư anh chỉ cho mới thấy”.

Ta tu là ta muốn đi tới, thành ra ta phải biết phát khởi tâm niệm biết ơn. Tại người ta thương cho nên mới nói, mà người ta nói đây không phải để chỉ trích, mà là để nâng đỡ soi sáng cho ta. Mà dù người ấy có chỉ trích để trả thù ta, thì ta vẫn có thể ngồi đó mỉm cười và tự nói: “Cái này đâu phải là soi sáng, cái này là trả thù mà.” Ta có thể làm hay hơn vậy. Đến lượt ta soi sáng, ta sẽ không làm vậy. Ta thấy ta không giận. Thành ra người được ngồi soi sáng phải thực tập mới có thể làm hay được, mới có thể an nhiên tự tại và tươi cười (be his best) được. Và khi ta ngồi được như vậy thì ta có thể làm gương được cho người khác.

Có những người ngồi để được soi sáng mà cứ mỉm cười hoài, ai nói chi họ cũng chỉ cười. Cái lợi của việc có đương sự ngồi đó là ta phải cân nhắc những chữ và những lời ta nói. Tại ta biết rằng ta đang ngồi trước một cái hoa và ta có thể làm cho cái hoa nhầu, thành ra ta lựa những lời và những chữ nhẹ nhàng. Mục đích của ta không phải để tấn công, mục đích của ta là đưa được vào trái tim người đó những điều ta nghĩ rằng người đó cần phải tiếp nhận. Vì vậy, ái ngữ rất quan trọng. Ta có cơ hội để thực tập ái ngữ. Có đương sự ngồi đó là ta có cơ hội thực tập ái ngữ. Ta không nói rằng: “Nói ra thì lỡ người đó giận, thôi đừng nói nữa.” Nói như vậy là ta không thực tập. Thầy dạy ta, Bụt dạy ta là phải thực tập ái ngữ. Còn câm như hến thì không phải thực tập. Vì vậy khi đến phiên ta, ta phải làm bổn phận cho đàng hoàng. Ta phải thở, phải chắp tay, phải dùng ái ngữ, phải có tình thương, đó là thực tập. Thành ra những buổi soi sáng như vậy là những buổi thực tập rất nhiệm mầu chứ không phải là lao tác. Vì vậy ta đừng đợi tới giờ chót rồi mới tổ chức soi sáng. Soi cho mau mau mà soi không đàng hoàng, soi không kỹ thì tội cho chúng, tội cho các đương sự và cho chính mình. Nếu cần thì bỏ ngồi thiền để có giờ mà thực tập soi sáng. Đó là chuyện Xóm Thượng đã làm mấy ngày hôm nay. Nhưng nếu Xóm Thượng bắt đầu làm trước đây một tháng thì vẫn hay hơn.

Khi ta nghe người kế tiếp soi sáng có những điều trái chống với cái thấy của người vừa soi thì ta bực bội. Ta không bực bội đương sự nhưng ta lại bực bội người soi sáng này, tự nhủ tại sao mà ý kiến của người này cổ hủ, khắt khe và hẹp hòi, rồi ta đâm ra giận người này, người đang soi sáng. Trong khi giận như vậy thì ta không tiếp nhận được gì, tại vì có thể ta đang có cảm tình với người vừa soi xong. Cho nên khi nghe người này nói ta cho là hẹp hòi, là cố chấp, là không có tình thương, rồi ta giận người đó. Như vậy trong khi ngồi trong soi sáng ta không thừa hưởng được lợi lạc nào cả. Ta nói rằng: “A! hẹp hòi quá há!”. Ta có thể cho là người đó hẹp hòi, không có tình thương, nhưng ta lại vẫn có thể nghĩ rằng: “Không sao, vì lâu nay ta không tiếp xúc với người đó, không giúp người đó, cho nên người đó mới có những thái độ hẹp hòi và những tiêu cực mà ta chưa giúp chuyển hóa được. Người đó cũng là sư anh, sư em của ta, thì thế nào sau này ta cũng giúp cho người ấy lấy ra được những thái độ hẹp hòi ích kỷ đó”. Và vì trong lòng ta có tình thương trấn ngự nên ta không đau khổ trong khi ngồi nghe. Nếu ta đau khổ trong khi ngồi nghe tức là ta đã không thực tập.

Nghe những điều trái với nhận thức ta, đó là chuyện cơm bữa, tại sao ta lại giận? Vì vậy cho nên sự thực tập của ta là ‘Kiến Hòa Đồng Giải’. Làm thế nào để ngay trong buổi soi sáng này hoặc ở ngoài buổi soi sáng ta sẽ tìm cách giúp cho người đó thay đổi nhận thức kia đi. Đó chính là sự thực tập của ta. Thực tập của ta là gì khác nữa? Không lý sự thực tập của ta là chỉ là đi nấu cơm, rửa nồi, lái xe mà thôi? Thì chính thời gian nấu cơm, rửa nồi và lái xe cũng là để làm chuyện đó trong chánh niệm, để chiêm nghiệm sâu sắc xem làm thế nào để chuyển hóa tự thân và chuyển hóa người kia.

Nếu ta nuôi sự bực tức trong lòng tức là ta đang không thực tập. Nếu thực tập thì ta biết rằng những quan điểm như vậy đã phát sinh ra từ nhận thức sai lầm, từ thái độ cổ hủ và ta phải làm thế nào để mà giúp chuyển đổi chúng. Trong quá khứ ta đã làm gì để giúp người đó? Nếu ta đã không làm gì để giúp người đó thì tại sao ta lại trách người đó? Và nếu ta hối hận là trong quá khứ ta đã không giúp người đó thành ra người đó mới nói như vậy thì ta sẽ phát nguyện rằng từ đây về sau, sau buổi soi sáng này, ta sẽ tìm cách nói chuyện với người đó để người đó từ bỏ cái thái độ hẹp hòi kia đi. Có được nhận thức như vậy rồi thì ta ngồi yên và cảm thấy an lạc. Cho đến khi ta nghe tới người thứ bảy nói thì ta thấy rằng điều mà người thứ năm nói hình như cũng có một ít sự thực trong đó. Thành ra ta luôn luôn học hỏi bất cứ trong giờ phút nào của buổi soi sáng. Văn bản Quán niệm mở đầu cho buổi soi sáng này cần được in vào trong sách Nhật Tụng Thiền Môn và trong khi chờ đợi ta có thể in vào lá thư Làng Mai sắp tới.

Và đây là những lời quán nguyện truớc bất cứ một buổi họp nào của Tăng Thân, tại vì mỗi buổi họp của tăng thân là một cơ hội. Họp không phải chỉ là để giải quyết công việc, để đi tới những quyết định. Họp cũng là để xây dựng tình huynh đệ. Làm công việc cũng là một cơ hội rất là tốt vì trong khi làm việc chung với nhau, ta có cơ hội hiểu nhau, thấy được những tích cực, tiêu cực của nhau rồi ta tìm cách để cho cái hiểu đó tăng trưởng nơi ta và nơi người khác. Cùng với cái hiểu cái thương cũng được tăng trưởng.

Do đó cho nên tổ chức một cái gì, dù là một khóa tu hay một buổi lễ, cũng là để xây dựng tình huynh đệ. Đừng vì sự thành công của buổi lễ hay khóa tu mà anh em giận nhau thì hỏng hết. Đó là ta đi ngược lại những điều ta muốn làm. Tổ chức một khóa tu, tổ chức một buổi lễ là một cơ hội thực tập chứ không phải là để có thêm danh thêm lợi, để gặt hái những lời khen. Và nếu vì danh vì lợi, vì thành công của khóa tu hay buổi lễ mà làm cho tình anh em, tình chị em sứt mẻ thì thà rằng không tổ chức mà hơn, dầu là tổ chức Phật Đản. Không có lễ Phật Đản mà đôi khi hay hơn tại vì không có Phật Đản thì chị em, anh em không giận nhau.

Đây là văn bản Quán Nguyện trước buổi họp:

Lạy Bụt, lạy Tổ, chúng con xin nguyện họp buổi họp hôm nay trong tinh thần Ý Hòa Đồng Duyệt và Kiến Hòa Đồng Giải. Nguyện sử dụng ái ngữ và đế thính để buổi họp đưa lại kết quả tốt đẹp nhất làm phẩm vật cúng dường Tam bảo. Chúng con nguyện không ngần ngại chia sẻ cái thấy và tuệ giác của chúng con, nhưng chúng con cũng nguyện sẽ không mở lời nếu chúng con nhận thấy trong tâm còn có tâm hành bực bội. Chúng con quyết tâm không để cho sự căng thẳng xảy ra trong buổi họp, và lỡ nếu trong số chúng con có người nhận thấy có sự căng thẳng, Chúng con xin lập tức ngừng lại để sám hối tại chỗ và trả lại cho đại chúng không khí Ý Hòa Đồng Duyệt.

Phối hợp những cái thấy với nhau và cùng đi tới một cái hiểu chung, Đó là Kiến Hòa Đồng Giải của đại chúng. Sau đó ai cũng hoan hỷ. Nếu sau buổi họp mà có người không hoan hỷ thì buổi họp đó chưa thành công hoàn toàn. Đây không phải là vấn đề bỏ phiếu để rồi đa số thắng thiểu số. Khi có Kiến Hòa Đồng Giải thì sẽ có Ý Hòa Đồng Duyệt. Tâm ý của mọi người trở thành một khối, trở thành tâm ý chung và mọi người có chung một niềm vui. Và khi tâm ý của ta hòa hợp với nhau và ta tổng hợp được mọi cái thấy và bỏ tư kiến ra để theo cái thấy của tăng thân rồi thì tự nhiên ta có niềm vui. Niềm vui đó sinh ra ở chỗ tâm ý ta đi đôi với nhau, gọi là ‘Ý Hòa Đồng Duyệt’.

Lạy Bụt, lạy Tổ, chúng con xin nguyện họp buổi họp hôm nay trong tinh thần Ý Hòa Đồng Duyệt và Kiến Hòa Đồng Giải. Nguyện sử dụng ái ngữ và đế thính để buổi họp đưa lại kết quả tốt đẹp nhất làm phẩm vật cúng dường Tam Bảo.

Họp mà có sự chống đối thì đó không thể nào gọi là phẩm vật cúng dường. Ta làm gì cũng là để cúng dường Tam Bảo. Đốt nhang cũng là để cúng dường Tam Bảo, lái xe đi đón một người bạn thiền sinh cũng là để cúng dường Tam Bảo, hay chùi cầu tiêu cũng là để cúng dường Tam Bảo, và họp buổi họp cũng là để cúng dường Tam Bảo. Nếu họp một buổi họp mà có sự chống đối, buồn giận thì đó không phải là một phẩm vật cúng dường.

Nguyện sử dụng ái ngữ và đế thính để buổi họp mang lại kết quả tốt đẹp nhất làm phẩm vật cúng dường Tam Bảo. Chúng con nguyện không ngần ngại chia sẻ cái thấy và tuệ giác của chúng con.

Ta thấy cái gì thì ta nói cái đó. Ta không cần che giấu nhưng ta phải sử dụng ái ngữ. Chứ không phải nói để cho tan nát hết rồi nói “tôi chỉ nói sự thật thôi mà!” (I only spoke the truth!) Nói sự thật như vậy thì thà đừng nói. Nói mà làm tan vỡ tình anh chị em thì không nên nói. Phải có những phương pháp khác, phải có những biện pháp khác.

Chúng con nguyện không ngần ngại chia sẻ cái thấy và tuệ giác của chúng con, nhưng chúng con cũng nguyện sẽ không mở lời nếu chúng con nhận thấy trong tâm còn có tâm hành bực bội.

Khi trong tâm còn có bực bội thì ta không nên nói, ta phải thở cho đến khi nào không còn cảm thấy bực bội thì mới nên nói. Trong khi nói mà thấy bực bội trở lại thì phải im lặng và xin phép để sau sẽ nói tiếp. Khi có bực bội mà nói thì đó không phải là phẩm vật cúng dường. Chúng con quyết tâm không để cho sự căng thẳng xảy ra. Nếu có sự căng thẳng xảy ra trong buổi họp thì nên chấm dứt buổi họp. Điều này tôi đã từng đề nghị cho ông chủ tịch quốc hội Ấn Độ, mỗi khi có sự căng thẳng thì có người thỉnh tiếng chuông để thở. Khi nào thấy không khí lắng dịu thì vị chủ tọa của buổi họp mới cho tiếp tục mà thôi. Và ông đã lắng nghe rất thích thú.

Chúng con quyết tâm không để cho sự căng thẳng xảy ra trong buổi họp, Và lỡ nếu trong số chúng con có người nhận thấy có sự căng thẳng, chúng con xin lập tức ngừng lại để sám hối tại chỗ và trả lại cho đại chúng không khí Ý Hòa Đồng Duyệt.

Ý hòa đồng duyệt là không khí phải có lúc bắt đầu và lúc chấm dứt buổi họp.

Sự thực tập soi sáng này rất quan yếu và nếu cần ta sẽ chú giải thêm văn bản này để chia sẻ với các tăng thân khác trên thế giới.


[1] Phẩm 10 ‘Phá Đốt và Bị Đốt’, Trung Quán Luận của tổ Long Thọ – Bài giảng trong Khóa Tu Mùa Đông 2002 – 2003

Pháp thoại ngày 5 tháng Giêng năm 2003 Xóm Hạ, chùa Cam Lộ, trong khóa tu An Cư Kiết Đông 2002-2003

Tịnh Độ cầm tay

Có một cặp vợ chồng ở bên Đức qua và đang ở lại đây một tuần. Cả hai còn trẻ và đang tu theo Tịnh Độ. Họ nói với sư cô Chân Không là họ cũng thích tu Thiền nhưng họ chọn theo Tịnh Độ bởi vì: “Lỡ mình chết thì mình về Tịnh Độ liền, còn nếu mình tu Thiền thì hơi nguy vì tu Thiền mà lỡ nửa chừng bị chết thì mình không biết sẽ đi về đâu. Thành ra tu Tịnh Độ cho chắc ăn”. Sư cô Chân Không đã chỉ bày họ thấy được cái tánh bất nhị giữa Thiền và Tịnh Độ và họ đã hiểu.

Khi học về tư tưởng Phật giáo, chúng ta thấy rõ rằng trong thời Đức Thế Tôn còn tại thế, các thầy các sư cô đã tu với mục đích để đạt được quả vị A La Hán, thoát ly sinh tử. Còn quý vị Phật tử cư sĩ thì tu để có hạnh phúc và để được sanh ra về cõi Trời hay ít nhất là cõi Người, chứ chưa nghe nói tới cõi Tịnh Độ. Trong thời gian Bụt còn tại thế thì danh hiệu đức A Di Đà chưa được nhắc tới. Trong thời vua A Dục, thế kỷ thứ ba trước Tây lịch, thì đạo Bụt đã được truyền qua Iraq, Iran và Afganistan. Đạo Bụt cũng đã tiếp thu được những yếu tố văn hóa của các nước đó để có thể thích ứng với môi trường, xã hội và văn hóa của các nước này. Thời xưa ở Iran đã có tín ngưỡng thờ mặt trời, và cái ý niệm vô lượng quang, vô lượng thọ đã có sẵn trong truyền thống tâm linh của những đạo giáo bản xứ. Cho nên Tịnh Độ của đức A Di Đà vô lượng quang vô lượng thọ cũng là một pháp môn của đạo Bụt để thích ứng với môi trường văn hóa của Iran. Nhờ tiếp thu được với những nền văn hóa trong nội địa và xung quanh nên đại thừa đã được phát sinh và vì vậy đạo Bụt có thể đi khắp thế giới.

Khi mang đạo Bụt đi sang Tây phương, chúng ta phải biết sử dụng những yếu tố văn hóa của Tây phương để chế tác ra những pháp môn mới, những pháp môn có thể chuyên chở được tinh thần của Phật giáo nguyên thủy tức là Vô Thường, Vô Ngã, Niết Bàn, Tam Pháp Ấn. Những giáo lý ấy phải được biểu hiện bởi những pháp môn mới thì đạo Bụt mới có thể cắm rễ và thành công được ở Tây phương. Đạo Bụt vẫn là đạo Bụt nhưng mà hoa trái nở ra phía trên có thể rất mới. Cách đây 22 năm tại Làng Mai chúng ta có trồng rất nhiều cây cải bẹ xanh ở Xóm Hạ. Đất ở bên này tốt và những cây cải đó vào mùa Đông được trồng trong những nhà kính. Ban ngày những cây cải này thâu nhận ánh sáng mặt trời để lớn, lá vươn cao, nhưng ban đêm lạnh quá thành ra chúng phải gồng mình, lá ụp xuống và trên thân cải mọc lên rất nhiều gai. Ở Việt Nam thì những cây cải như vậy không bao giờ có gai! Ở đây nó phải thích ứng với địa phương và những cây cải này nặng từ 2 đến 3 kg. Một cây cải cũng phải tìm cách để có thể thích ứng với địa phương mới có thể sống được huống hồ là một truyền thống. Cho nên truyền thống của ta một khi sang Tây phương phải tìm cách để thích ứng với phong thổ và tập quán bên này để có thể cắm rễ vào mảnh đất Tây phương, đó là chuyện rất dĩ nhiên. Nếu ta ôm truyền thống với một thái độ bảo thủ thì không thể nào làm được chuyện này.

Phần lớn những chùa Việt Nam được thiết lập tại Tây phương ở bên Mỹ hay ở bên Âu châu chỉ phục vụ được cho đồng bào Việt kiều mà không cung cấp được những món ăn tinh thần cho người Tây phương. Cây Phật giáo ta đem trồng sang bên này dưới hình thức các chùa Việt Nam cũng giống như những cái cây trồng trong chậu và chỉ có thể phục vụ được cho Việt kiều. Thỉnh thoảng có một vài người Tây phương đến chùa và cảm thấy là lạ vui vui nhưng chưa tìm thấy một cái gì đó quen thuộc với họ. Người Trung Quốc đã làm như vậy, người Đại Hàn đã làm như vậy, người Nhật Bổn cũng đã làm như vậy. Họ đã thiết lập những ngôi chùa ở Âu châu, ở Mỹ châu. Các thầy Tây Tạng đã làm khá hơn và đã có khả năng lấy cây ra khỏi chậu. Các thầy và các sư cô người Việt ở bên này chưa làm được như các thầy các sư cô Tây Tạng. Để cây trong chậu hoài thì lâu ngày đất trong chậu sẽ hết chất bổ và cây sẽ yếu. Các bậc phụ huynh cha mẹ còn đến chùa nhưng con cái thì đã thành Tây thành Mỹ, các em cảm thấy không thoải mái khi đến chùa. Khi hết thế hệ cha mẹ rồi thì đạo Phật với hình thức Á châu sẽ không còn phục vụ được cho người trẻ. Vì vậy ta rất cần đem cây ra khỏi chậu và tìm cách trồng xuống đất. Ban đầu có thể khó khăn nhưng chịu khó chăm sóc thì cây sẽ có khả năng cắm rễ. Lúc đó ta mới mong phục vụ được nhu cầu văn hóa và xã hội địa phương. Đức Thế Tôn đã từng sử dụng những yếu tố văn hóa địa phương để sáng chế ra những pháp môn và các đệ tử của Ngài cũng có khả năng đó. Các vị biết sử dụng các yếu tố văn hóa địa phương để chế biến ra những pháp môn mới như Tịnh Độ tông và Mật tông. Chúng ta đã học tới các nền văn học bản sinh và thí dụ. Chúng ta biết rằng các nền văn học bản sinh và thí dụ đã sử dụng rất nhiều truyện cổ tích và thần thoại của Ấn Độ để chuyên chở giáo lý nghiệp báo và nhân quả của đạo Bụt. Chư Tổ nhờ đó đã chuyên chở được cái lý tưởng Bồ Tát vào truyền thống mà trước kia chưa có. Trước đó chỉ có lý tưởng Thanh Văn, Duyên Giác và La Hán mà thôi. Là con cháu, chúng ta cũng phải làm được như Tổ tiên. Vấn đề là trong khi tiếp thu và chế biến, chúng ta phải giữ được cái bản chất của Phật giáo. Những pháp môn chúng ta cống hiến phải chứa đựng, phải chuyên chở những cốt tủy của Phật giáo, trong đó có tuệ giác Vô Thường, Vô Ngã, Niết Bàn, Tam Pháp Ấn và Tam Giải Thoát Môn. Ta phải nắm được cái tinh yếu trước khi ta có khả năng tự do chế biến. Đức Thế Tôn là một người có tự do. Các thế hệ đệ tử sau này nhiều vị cũng là người có tự do cho nên họ đã chế biến được nhiều pháp môn mới và làm cho cây Phật giáo được tồn tại mãi cho đến hai ngàn sáu trăm năm sau. Chúng ta là đàn hậu tấn, chúng ta phải học được bài học của cha ông. Chúng ta phải thông minh, phải có óc sáng tạo, trong nước cũng như ngoài nước.

Hiện bây giờ ở Trung Quốc cũng như ở Việt Nam, chúng ta đã đánh mất vai trò lãnh đạo tinh thần trong lãnh vực kiến thức, kinh tế và chính trị. Hồi xưa, khi các vị vua gặp những khó khăn, họ luôn luôn tìm đến các thầy, các vị quốc sư để nhờ sự soi sáng. Các nhà chính trị đã nhìn lên các thầy như là người lãnh đạo tâm linh. Còn bây giờ các nhà chính trị không có nhìn như vậy nữa, họ nhìn xuống ta tại vì ta không thể cung cấp được cho họ chiều sâu tâm linh. Ta không cố vấn được cho họ trên phương diện chính trị, xã hội và văn hóa. Không phải ta thiếu học về những cái đó nhưng vì ta không có đủ cái thực chứng của tuệ giác. Khi có tuệ giác rồi thì nhìn vào kinh tế ta sẽ hiểu về kinh tế, nhìn vào chính trị ta sẽ hiểu về chính trị.

Chúng ta đã từng tổ chức những khóa tu cho các nhà tâm lý trị liệu. Muốn làm nhà tâm lý trị liệu ta phải học tâm lý học rất nhiều năm. Chúng ta không cần phải học nhiều như họ, nhưng chúng ta có thể giúp họ tại vì chúng ta có tuệ giác của đạo Bụt. Đứng về phương diện kinh tế cũng vậy, chúng ta đã mở những khóa tu cho các nhà lãnh đạo doanh thương. Chúng ta không cần có kinh nghiệm doanh thương như họ, không có đi học trường doanh thương như họ, nhưng chúng ta có thể giúp họ được như thường tại vì chúng ta có tuệ giác của đạo Bụt và cũng tại vì chúng ta có thể hiểu được những khổ đau của nhà doanh thương. Ta giúp họ có thể chuyển hóa được những khó khăn trong lòng và những pháp môn ta cống hiến cho họ tu tập không có hại gì đến công việc của họ, trái lại có thể làm cho sự nghiệp của họ được tăng tiến. Vì vậy điều quan trọng không phải là học những môn học đó mà phải nắm được tuệ giác của đạo Bụt. Có tuệ giác rồi thì nhìn vào cái gì ta hiểu cái đó. Ta đã giúp cho giới y khoa bác sĩ, ta đã giúp cho giới cảnh sát công an và ta đã giúp cho giới dân biểu. Làm gì ta có kiến thức như họ về những ngành đó, nhưng mà ta giúp được. Tại sao? Tại vì ta có một con đường tâm linh có thể đem tới cho họ được niềm tin.

Chúng ta phải làm mới sự học hỏi và tu tập của mình để có thể lấy lại vai trò lãnh đạo cho xã hội. Xã hội không thể không có một hướng đi tâm linh. Không có hướng đi tâm linh thì sẽ sinh ra tham nhũng, hư hỏng. Đó là cái gì đang xảy ra trên đất nước. Nếu chúng ta chỉ nghĩ tới cái chùa, cái tổ chức, hay để tâm vào việc xây dựng và tổ chức thì chúng ta sẽ không có thì giờ đi sâu vào sự thực tập đào xới để làm cho mạch nước của tâm linh được trào lên. Như vậy chúng ta đã phí thì giờ và cuộc đời của chúng ta, nhất là cuộc đời một người xuất gia. Chúng ta phải xử lý và áp dụng thì giờ một cách khôn khéo. Chúng ta không nên phung phí thì giờ vào những công việc không cần thiết. Một ông thầy tu đi học y khoa đó là một sự sai lầm. Một ông thầy tu đi học luật là sai lầm. Chính ông thầy tu đi học để trở thành một học giả về Phật học cũng là sai lầm, vì cuộc đời ít cần học giả bằng hành giả. Chúng ta cần những người có tuệ giác. Ở đời cũng có những nhà Phật học rất nổi tiếng, thông bác về kinh điển, về Phật học, nhưng không thể giải quyết được những khó khăn, những khổ đau của họ, vì vậy họ không thể nào trở thành một nhà lãnh đạo tâm linh. Thiền sinh tới với chúng ta ở đây phần lớn là người trí thức, người trẻ. Họ tới không phải vì chúng ta có kiến thức ngoài đời, có bằng cấp này bằng cấp nọ, mà vì chúng ta có pháp môn tu tập để chuyển hóa khổ đau. Sự thật là như vậy! Cho nên ta phải nắm lấy những pháp môn tu học. Ta phải có khả năng chuyển hóa những khổ đau nơi chính bản thân và giúp cho anh em ở trong nhà làm được việc đó. Đến lúc đó ta sẽ sẵn sàng để đóng vai trò độ đời và ta có thể khôi phục lại vai trò lãnh đạo tâm linh của người tu sĩ.

Trở lại câu chuyện Tịnh Độ. Ở trong đạo Cơ Đốc có người cũng suy nghĩ tương tợ như cặp vợ chồng trên. Có người đã tính toán như thế này: Cứ tin Thượng Đế đi, không có lỗ đâu. Nếu có Thượng Đế thì khi chết mình được về Thiên đường, còn nếu không có Thượng Đế thì thôi, mình có mất mát gì đâu! Còn nếu mình không tin, lỡ ra có Thiên đường thì uổng biết mấy. Cũng vậy, tu Tịnh Độ chắc ăn hơn. Lỡ mình chết thì mình có chỗ về ngay, còn tu Thiền thì không chắc ăn lắm. Chưa đạt tới giải thoát mà đã chết thì mình sẽ không biết đi về đâu. Mình sẽ thành con ma đói đi vòng vòng… Tính toán cũng như nhau, tuy là hơi khác một chút. Theo tôi nếu đợi đến chết rồi mới sanh về Tịnh Độ thì có thể trễ, tại sao không sống Tịnh Độ liền ngay bây giờ? Mà Tịnh Độ liền ngay bây giờ là cái có thể làm được. Phép thực tập Hiện pháp lạc trú, Hiện pháp Tịnh Độ, phương pháp “mỗi bước chân đi vào Tịnh Độ” là quà tặng quý nhất của Làng Mai. Ta tặng cho bạn Tịnh Độ ngay trong bây giờ.

Mấy năm trước đây có một vị thượng tọa rất dễ thương từ Việt Nam qua. Thượng tọa đã xây chùa nhiều, hiện làm chủ tới bảy ngôi chùa lớn và thượng tọa còn làm công việc xã hội rất giỏi. Qua bên này là một cơ hội để gặp Sư Ông Làng Mai. Ban đầu gặp Sư Ông, thượng tọa nói đến chuyện làm sao để có thể giúp đỡ việc làm xã hội bên nhà. Sư Ông nói: “Tu không lo tu mà cứ lo làm xã hội. Xã hội ai mà không làm được. Tu mới khó chứ!” Thượng tọa nghe như vậy đã không giận, trái lại đã giật mình tỉnh thức và thấy được rõ ràng đó là cái mục tiêu đầu tiên của mình khi phát tâm đi xuất gia. Khi lăn mình vào việc xây dựng, mình có thể đánh mất mình, đánh mất cái chủ đích đầu tiên của mình là tu học để đạt tới thảnh thơi và giải thoát. Công việc xây dựng cũng hấp dẫn lắm, làm thành công thì được người ta khen ngợi và khi ngắm công trình xây dựng của mình thì mình thấy thỏa mãn. Nhưng đó đâu phải cái hoài bão ban đầu của người đi tu. Món quà lớn mà thượng tọa nhận được từ Sư Ông là phục hồi được tâm ban đầu, nghĩa là sơ tâm của người xuất gia.

Châu báu chất đầy thế giới
tôi đem tặng bạn sáng nay
một vốc kim cương sáng chói
long lanh suốt cả đêm ngày.
Mỗi phút một viên ngọc quý
tóm thâu đất nước trời mây
chỉ cần một hơi thở nhẹ
là bao phép lạ hiển bày.
Chim hót thông reo hoa nở
trời xanh mây trắng là đây
ánh mắt thương yêu sáng tỏ
nụ cười ý thức đong đầy.
Hỡi người giàu sang bậc nhất
tha phương cầu thực xưa nay
hãy thôi làm thân cùng tử
về đây tiếp nhận gia tài.
Hãy dâng cho nhau hạnh phúc
và an trú phút giây này
hãy buông thả dòng sầu khổ
về nâng sự sống trên tay.

Trên đây là một bài hát mà cũng là sự thực tập. Tại Làng Mai chúng ta thực tập thiền đi. Chúng ta đi như thế nào để mỗi bước chân ta dẫm lên được Tịnh Độ. Mỗi bước chân đi vào Tịnh Độ. Chúng ta đi như người thảnh thơi, người giác ngộ. Chúng ta không đi như một người bị ma đuổi. Là giáo thọ ta làm điều đó mà sa di ta cũng làm như vậy. Hai thầy trò đều cùng đi trong Tịnh Độ. Đẹp biết bao nhiêu mà kể. Hai thầy trò đều có thảnh thơi, đều có hạnh phúc ngay trong giây phút đi. Đức Thế Tôn đã từng nói rất rõ là “quá khứ đã đi qua, tương lai thì chưa tới”. Sự sống đang có mặt đó và tất cả những nhiệm mầu đang xảy ra trong ta và xung quanh ta. Vậy cho nên ta hãy tỉnh dậy, đừng chạy về tương lai nữa. Hãy thưởng thức những cái kỳ diệu của sự sống ngay trong giây phút hiện tại. Trời mưa cũng đẹp, trời nắng cũng đẹp. Trời có sương mù cũng đẹp, trời tuyết cũng đẹp. Mùa xuân đẹp mà mùa thu cũng đẹp. Lá xanh cũng đẹp mà lá đỏ cũng đẹp… Nếu ta không có mặt thì những mầu nhiệm ấy sẽ đi qua như một giấc mơ. Cho nên công phu là gì? Công phu là sống sâu sắc đời sống hằng ngày, thở mỗi hơi thở, bước một bước chân là ta tiếp xúc được với những mầu nhiệm của sự sống. Nếu có một chút niệm, một chút định thì ta làm được điều đó ngay. Nhờ vậy mà ta nối tiếp được sự nghiệp của Đức Thế Tôn.

Có những bài kệ mà chúng ta đã học thuộc lòng như bài:

Đã về đã tới
Bây giờ ở đây
Vững chãi thảnh thơi
Quay về nương tựa…

Hoặc là bài:

Đây là Tịnh Độ
Tịnh Độ là đây
Mỉm cười chánh niệm
An trú hôm nay…

Hay là bài:

Vào, ra,
Sâu, chậm
Khỏe, nhẹ
Lặng, cười
Hiện tại, tuyệt vời

Những bài này đã được làm ra nhạc để ta có thể học thuộc dễ dàng. Bất cứ một bài kệ nào chúng ta cũng có thể áp dụng để thở, để đi. Những bài kệ đó cũng có thể áp dụng trong khi ăn cơm. Ví dụ như bài: Đây là Tịnh Độ – Tịnh Độ là đây… Ta có thể nhai cơm theo nhịp đó. Người ta thấy ta nhai nhưng họ đâu biết là ta đang tu. Khi nhai hết một bài thì cơm trong miệng đã trở nên rất nhuyễn, nuốt vào rất ngon và rất dễ tiêu. Ta đang ăn cơm như mọi người nhưng ta có Niệm và có Định. Bất cứ một bài kệ nào ta cũng có thể sử dụng trong khi ăn. Như vậy, ta có mặt một cách đích thực và thực sự đang ngồi ăn trong Tịnh Độ. Ta có thể ăn cơm với bài Đã về đã tới… Ta thấy rõ ràng là ta đã về đã tới, là ta đang an trú trong hiện tại. Đây là Tịnh Độ.

Đôi khi trong lúc đi thiền, bước lên trên thảm lá vàng ta thấy mầu nhiệm quá. Thảm lá vàng này còn đẹp hơn vườn ông Cấp Cô Độc khi ông đem vàng lá lót lên để trả cho thái tử Kỳ Đà. Vàng lá lót đâu có đẹp, dẫm lên đâu có dịu dàng như lá vàng mùa thu! Mỗi khi dẫm lên lá mùa thu ta thấy rõ ràng rằng ông Cấp Cô Độc dễ thương quá. Kỳ này ông không rải lên thứ vàng khi đi kêu răng rắc mà một thứ vàng bước lên rất mềm, rất đẹp. Mỗi bước chân là một hạnh phúc. Nếu đi trên những thảm lá vàng đó trong mưa phùn mùa thu mà không thấy hạnh phúc thì dầu có qua Tịnh Độ ta cũng không có hạnh phúc. Tịnh Độ có thể không đẹp bằng bên này. Hoa sen có thể lớn bằng bánh xe thật, nhưng nếu dưới ao toàn là vàng mà không có bùn thì làm sao cho sen đẹp và thơm? Ta không nên bỏ hình bắt bóng, hãy tập sống với những mầu nhiệm của sự sống hiện tại mà đừng mơ tưởng một cái gì ở tương lai. Bỏ hiện tại là đi trái với giáo lý tu tập Hiện pháp lạc trú. Khi hướng dẫn cho những nhà chính trị, những nhà kinh doanh, những nhà dân biểu quốc hội thì ta cũng chỉ hướng dẫn như thế thôi. Không cần giảng nhiều. Khi họ thấy ta đang làm được như vậy, đang đi, đang ngồi, đang thở trong Tịnh độ thì họ cảm được. Ta không cần phải làu thông kinh sử thì mới có thể giúp họ. Ta chỉ cần có khả năng sống thảnh thơi, sống an lạc. Ta phải có khả năng tháo gỡ những buồn giận, những lo âu của mình. Khi thở vào chúng ta nói con đã về. Câu con đã về đó không phải là lời tuyên bố, không phải là một bản thông cáo mà là sự thực tập. Bạch ĐứcThế Tôn con đã về. Đem tất cả Niệm và Định để bước bước chân đó. Về đâu? Ta về trong giây phút hiện tại và thiết lập thân tâm ở giây phút hiện tại. Đó là đã về. Bạch Đức Thế Tôn con đã tới. Tâm ta không bay đi đâu cả, tâm ta ở với thân ta và cũng dẫm lên mặt đất với bàn chân của ta. Con đã về thật rồi, con không còn đi hoang nữa. Con đã tới thật rồi, con đang tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống trong giây phút hiện tại. Ta đã về thật sự chưa, ta đã tới thật sự chưa thì tự ta biết. Nếu tâm ta không còn rong ruổi thì mỗi bước chân như vậy chứng tỏ đã về, mỗi bước chân như vậy chứng tỏ ta đã tới. Lúc đó thì ta mới thành công. Thành công một bước thì ta sẽ thành công hai bước và sẽ thành công được bước thứ ba. Cố tâm thì làm được chứ không có gì khó.

Mỗi bước chân đi vào Tịnh Độ là chuyện ta có thể làm được trong ngày hôm nay và làm như thế nào để sự thực tập ấy trở thành một tập khí tốt, một thói quen tốt. Đi đâu ta cũng mang Tịnh Độ đi theo, giống như đời nay đi đâu cũng mang theo điện thoại cầm tay vậy. Ta gọi là Tịnh Độ cầm tay (portable Pureland.) Ta đi cho cha, ta đi cho mẹ. Suốt đời ba, ba lo lắng, ba có thể chưa bao giờ có được giây phút dừng lại ngồi yên mà bước trong Tịnh Độ. Vậy bây giờ ta đi cho ba. Ba ơi, đi với con một bước đi ba. Cha con mình đã về, cha con mình đã tới. Làm được như vậy thì ta là người con có hiếu nhất trong số những người con có hiếu. Mẹ ta suốt đời tất tả ngược xuôi, bận rộn suốt đời chưa bao giờ có được một phút thảnh thơi an lạc. Ta mời mẹ đi, mẹ ơi đi với con một bước. Mẹ ơi con đã về, mẹ cũng đã về. Mẹ ơi con đã tới, mẹ cũng tới với con. Đó là những điều ta có thể làm được ngay bây giờ, không cần phải tu luyện tám năm sau mới có thể làm được. Nếu quyết tâm thì nội trong một giờ đồng hồ thực tập ta đã có sự thay đổi trong thân và trong tâm ta rồi. Huống hồ là ba tháng, là một năm hay bốn năm. Khi ta bước đi trong Tịnh Độ được rồi thì ta có thể giúp cho những người khác đi trong Tịnh Độ. Người khác đó là ai? Là những người trong gia đình ta, là những người trong xã hội đang đau khổ và tìm tới với ta. Đi được như vậy trong Tịnh Độ, thở được như vậy trong Tịnh Độ, ăn được như vậy trong Tịnh Độ rồi thì ta có thể xử lý và chuyển hóa được dễ dàng những nỗi khổ niềm đau ở trong ta. Còn nếu chưa đi được như vậy, chưa ngồi ăn được như vậy, chưa thở được như vậy thì ta vẫn còn là nạn nhân của những nỗi khổ niềm đau trong lòng.

Nay con đã về, nay con đã tới. Đó không phải là những lời tuyên bố, đó là sự thành công. Khi mình đi thiền hành với đại chúng, mình đi với một tốc độ để đừng chặn đứng những người ở phía sau, nhưng khi đi thiền một mình thì ta có thể đi chậm bao nhiêu cũng được. Ta phải rèn luyện để cho mỗi bước ta đều về được, mỗi bước ta đều tới được. Đây là Tịnh Độ, Tịnh Độ là đây. Đúng là Tịnh Độ rồi, ta không cần phải đi kiếm nữa. Con đang mỉm cười chánh niệm và con đang an trú ngay giờ phút này. Bụt là một chiếc lá đỏ. Con thấy Bụt trong chiếc lá đỏ. Con thấy Pháp trong một đám mây bay và con thấy Tăng thân. Chỗ nào cũng có Tăng thân, từ hạt sỏi, từng dòng nước đều là Tăng thân của con, tất cả đều tu tập với con. Và quê hương của con là ngay tại đây. Tịnh Độ ở đây.

Đối với cặp vợ chồng kia ta phải nói cho họ biết là chúng tôi đang tu Tịnh Độ. Chúng tôi đòi hỏi Tịnh Độ liền ngay bây giờ và chúng tôi có những dụng cụ, những pháp môn để có Tịnh Độ liền ngay bây giờ, cũng như quý vị đang có cái máy điện thoại có thể nói liền sang bên Đức lập tức. Ta nói rằng bây giờ bỏ Tịnh Độ hiện tại mà đi tìm Tịnh Độ tương lai là không thực tế lắm. Khi thuyết giảng cho những bạn Cơ Đốc, tôi cũng cống hiến cho họ những cái thấy như vậy. Không phải vì họ là người Cơ Đốc mà ta tặng cho họ một món quà nhỏ hơn. Cách đây 22 năm giảng cho một thính chúng 500 người da đen ở trong một Thánh đường gần thành phố Philadelphia tôi cũng nói như vậy. Tôi nói: “Quý vị đừng có đợi đến khi thân hình này tan rã rồi mới đi vào nước Chúa. Nên đi vào nước Chúa liền ngay bây giờ đi. Nếu quý vị có chút Niệm và Định thì chỉ với một bước chân thôi quý vị đã có thể đi vào nước Chúa rồi. Đừng chờ đợi, vì trong Thánh kinh có nói: “Nước Chúa là trong trái tim của quý vị”. Giáo lý này áp dụng cho Phật tử và cũng áp dụng cho người Cơ Đốc.

Trong đại hội Tin Lành và Công giáo ở nước Đức tháng sáu năm ngoái, trong một thính chúng khá đông đảo, với sự có mặt của nhiều vị giám mục và hai giáo đoàn Tin Lành và Công giáo tôi cũng đã nói như vậy. Tôi nói: “Sở dĩ mà tuổi trẻ bỏ nhà thờ hàng loạt cũng là tại vì quý vị. Quý vị không cung cấp cho tuổi trẻ những giáo lý và những pháp môn tu tập để họ có an lạc và hạnh phúc trong hiện tại cho nên họ mới đi tìm an lạc và hạnh phúc nơi tình dục, nơi ma túy, nơi danh lợi, nơi quyền hành. Quý vị phải cung cấp cho giới trẻ những giáo lý để họ có thể nếm được an lạc, hạnh phúc của nước chúa, của Thiên Quốc ngay từ bây giờ. Chính quý vị cũng phải thực tập. Quý vị là mục sư, quý vị là linh mục, quý vị phải có khả năng sống trong nước Chúa bây giờ với sự an lạc, với sự hạnh phúc thì quý vị mới thuyết phục được chúng tôi. Theo cái thấy của tôi thì Phúc Âm có dạy rằng: Nước Chúa đang có mặt ngay trong giây phút hiện tại. Quý vị cần cung cấp giáo lý ấy và những pháp thực tập ấy để cho tuổi trẻ tiếp xúc được những mầu nhiệm trong giây phút hiện tại thì tuổi trẻ mới không bỏ nhà thờ để chạy theo tiếng gọi của tình dục, ma túy…”

Bài pháp thoại nói cho người Cơ Đốc ấy cũng có tầm vóc, cũng có năng lượng lớn như những bài pháp thoại tôi nói cho người Phật tử. Danh từ thì có thể tôi dùng danh từ khác, nhưng nội dung vẫn là nội dung của hiện pháp lạc trú, của Niệm, Định và Tuệ. Sau buổi giảng đó có ba vị Giám mục lên ngồi chung với tôi để cho quần chúng ở dưới đặt câu hỏi. Có một vị Giám mục người Công giáo nói: “Hay lắm! Hay lắm! Giáo lý nước Chúa bây giờ và ở đây rất hay, mình phải thực tập. Nhưng tôi cũng còn muốn có một nước Chúa ở bên kia nữa, ở tương lai nữa.” Tôi hiểu ông Giám mục, lâu nay mình đã đầu tư vào nước Chúa ở bên kia rồi, bây giờ rút lui thì hơi khó. Dù bây giờ mình đã có được nước Chúa ngay giây phút hiện tại. Nhưng không sao. Có hai Thiên Quốc thì càng chắc ăn hơn. Ai cấm mình có cả hai Tịnh Độ?

____________

Pháp thoại ngày 19 tháng 10 năm 2004. chùa Cam Lộ, Xóm Hạ trong khóa tu mùa Thu

Bậc giác ngộ và tên khủng bố

Trong Lâm tế lục có đoạn: Này các bạn tu, đừng lấy Bụt làm tiêu chuẩn tuyệt đối. Theo tôi thì cái quan niệm ta có về Bụt ấy cũng như một cái hố xí, và theo nghĩa đó, Bồ Tát và La Hán cũng chỉ là những kẻ đem tới gông cùm. Vì vậy cho nên mới có hiện tượng Văn Thù mang gươm tới giết Cồ Đàm và Ương Quật Ma đem đao tới chém Thích Ca.

Đối với người Phật tử, Bụt là đối tượng của sự tôn thờ tuyệt đối, của sự mến mộ tuyệt đối, là hình ảnh tuyệt hảo để cho ta noi theo. Chúng ta thường nghĩ, nếu không có hình ảnh của Bụt thì làm sao chúng ta có hướng đi trong cuộc đời. Trong những lúc nguy nan, trong những lúc khổ đau, chúng ta bám vào hình ảnh của Bụt, một tiêu chuẩn tuyệt đối để mà sống, cũng như những người bạn Cơ Đốc giáo bám vào hình ảnh của Thiên Chúa. Nếu không có hình ảnh của chúa Ki Tô như là chỗ nương tựa để bám víu vào, họ sẽ không thể nào vượt được những giờ phút nguy nan. Ấy vậy mà Tổ Lâm Tế dạy ta đừng có mắc kẹt vào hình ảnh của Bụt và Chúa, tại vì đó chỉ là những hình ảnh của chúng ta đã có về Bụt và Chúa.

Trước hết ta cho rằng Bụt và Chúa là những cái thực tại nằm ở ngoài ta, không phải là ta. Không phải tự mà là tha (the other, l”autre). Quan điểm sai lầm ở chỗ đó. Quan niệm Bụt và Chúa là một thực tại bên ngoài để ta bám víu vào, quan niệm ấy không có khả năng đưa ta đến sự giải thoát. Có thể quan niệm ấy xoa dịu được một phần nào những đau khổ trong chốc lát, nhưng không đưa ta được tới giải thoát. Ta phải vượt thắng quan niệm đó của ta về Bụt và Chúa. Tại vì nó duy trì tình trạng nô lệ của ta. Vì vậy Tổ gọi nó là một cái hố xí. Có người tín đồ nào dám gọi đức giáo chủ của tôn giáo mình là một cái hố xí không? Có người tín đồ của một tôn giáo nào có ý muốn sát hại vị giáo chủ của mình hay không? Nhưng trong thiền tông thì có.

Tổ Lâm Tế kêu gọi chúng ta gặp Bụt thì phải giết Bụt, “phùng Phật sát Phật”, lời dạy này, người có căn cơ thấp bé không thể nào hiểu tới được. Chỉ có những người tu tập đã chín muồi, đã sẵn sàng buông bỏ ý niệm mới có thể tiếp nhận được mà thôi. Nếu Tổ Lâm Tế sinh ra trong truyền thống Cơ Đốc giáo mà nói ra một câu như vậy, thì chắc chắn Tổ đã bị nhà thờ tẩn xuất, và rút phép thông công. Đạo Bụt thì ngộ lắm, Tổ nói như vậy mà vẫn còn tiếp tục hành đạo được. Có những nhà nho nghe Tổ Lâm Tế dạy, nói rằng: “Trời! Nếu ông này không đi tu thì sẽ trở thành tướng cướp”. Tại vì họ không hiểu được Tổ. Tiểu sử của Tổ có ghi chép rằng: khi còn nhỏ Tổ rất hiếu kính với cha mẹ. Vậy mà Tổ lại tuyên bố là “Gặp cha giết cha, gặp mẹ giết mẹ”. Đây là ngôn ngữ của nhà thiền, ta phải chín chắn lắm mới nắm vững được. Còn nếu ta chưa chín chắn, chưa là thiền sư mà đã muốn sử dụng ngôn ngữ này thì sẽ rất nguy hiểm. Chết ta trước, và chết những người khác sau.

Bụt là cái hố xí. Quan niệm của anh về Bụt là một cái hố xí ràng buộc anh, nó bỏ tù anh, và anh phải thoát ra khỏi sự ràng buộc đó. Trong cái nghĩa ấy, hình ảnh các vị Bồ Tát và A la hán mà ta có trong đầu cũng là những cái gông cùm. Ý niệm về Bồ tát Văn Thù và Bồ tát Phổ Hiền mà ta niệm hàng ngày đều là những cái gông cùm mà ta phải thoát ra. Cho nên mới có hiện tượng Văn Thù mang gươm tới giết Cồ Đàm, tức là giết khái niệm đó của ta về Bụt.

Quan niệm về Ông già Noel

Ngày lễ Giáng Sinh, trẻ con rất thích ông già Noel. Vấn đề đặt ra là ông già Noel có thật hay là không có thật? Nhu yếu của sự sống bắt buộc phải có ông già Noel. Nếu không có ông già Noel thì chắc chắn sẽ có một ông già khác. Vấn đề ở đây không phải là tôn giáo, nó là văn hóa. Văn hóa Tây phương mà không có ông già Noel thì sẽ thiếu vắng. Vì vậy cho nên có ông già Noel hay không có ông già Noel như một nhân vật lịch sử không phải là vấn đề then chốt. Khái niệm của trẻ em về ông già Noel rất dễ thương, rất ngây thơ. Ông già Noel thường phải mặc áo đỏ, đội nón đỏ có cái chuôi dài, đi đôi hài cao (tại vì đi trên tuyết), và thế nào cũng phải có một bộ râu trắng phơ, dài. Phương tiện chuyển vận của ông không phải là xe taxi, mà là một chiếc xe trượt tuyết có những con nai kéo. Khi tới nhà mình ông không vào bằng cửa thường, tại vì cửa thường đã đóng vào giờ ấy. Ông chui từ trên ống khói đi xuống và chui rất hay, thành thử ra áo quần của ông không có dính lọ nghẹ. Ông không bị nóng, dù lúc đó củi vẫn còn cháy. Ở chỗ bếp lửa, đêm hôm ấy bọn con nít treo những chiếc vớ của chúng trước khi đi ngủ. Chúng tin tưởng rằng vào nửa đêm ông già Noel sẽ tới, và sẽ bỏ vào trong những chiếc vớ của chúng những món quà mà chúng thích. Chúng thật sự tin như vậy.

Nếu chúng ta lấy mất niềm tin đó của bọn con nít đi, thì tội nghiệp quá. Nếu một đứa bé mới có bốn tuổi, năm tuổi mà nghe nói: “Ông già Noel là không có thật” thì nó sẽ buồn biết mấy. Vì vậy, chắc chắn phải có ông già Noel cho bọn con nít. Ông già Noel nghe được ước vọng của bọn con nít. Bọn con nít muốn cái gì ông cũng biết và ông cho ngay cái đó. Rất hay! Ước vọng của bọn con nít là một cái gì có thật, mà những người nghe được, hiểu được ước vọng đó cũng là những người có thật. Đó là những ông già Noel. Ông già Noel đích thực không cần phải có râu dài màu trắng, không cần phải mặc áo đỏ, không cần phải đi bộ hia đỏ. Nếu chúng ta kẹt vào cái tướng của ông già Noel thì chúng ta không thấy được ông già Noel. Chúng ta phải nhìn ông già Noel bằng con mắt vô tướng. Vậy thì có ông già Noel, hay là không có ông già Noel? Ta phải nhìn bằng con mắt vô tướng. Nếu ta có một quan niệm về ông già Noel thì quan niệm đó có thể là quan niệm ngây thơ của em bé. Em bé đó ngày mai sẽ lớn, sẽ bừng tỉnh, sẽ mỉm cười và sẽ biết rằng: “Mình đã vượt thoát ý niệm ngây thơ về ông già Noel của thời ấu thơ. Tuy vượt thoát rồi nhưng mình vẫn duy trì hình ảnh ông già Noel cho thế hệ tương lai.

Bụt cũng vậy, Chúa cũng vậy, đức Văn Thù cũng vậy, đức Phổ Hiền cũng vậy, đều là những ông già Noel cả. Nếu chúng ta cho những hình ảnh đó là những sản phẩm hoàn toàn của tưởng tượng thì cũng không đúng, vì ông già Noel cần thiết cho cuộc đời. Bụt, Chúa và các vị Bồ Tát cần thiết cho cuộc đời. Tuy vậy, nếu chúng ta muốn lớn lên, không phải về mặt tuổi tác mà về đời sống tâm linh, muốn tiếp xúc được với sự thật thì chúng ta phải có khả năng buông bỏ những ý niệm, những hình ảnh trẻ thơ của mình. Chúng ta có quan niệm về Bụt, về Chúa, chúng ta đã sống với quan niệm về Bụt, về Chúa đó từ thời ấu thơ. Khi chúng ta học hỏi, thực tập thì từ từ chúng ta buông bỏ những quan niệm đó về Bụt và về Chúa.

Thầy Thanh Văn hồi còn nhỏ nghĩ rằng Bụt rất ưa ăn chuối vì thấy ai tới chùa cũng cúng chuối. Bụt đợi cho đến khi chùa vắng lặng hoàn toàn mới đưa cánh tay ra bẻ một trái chuối để ăn. Đó là cái thấy của thầy Thanh Văn hồi còn 5, 6 tuổi. Đến khi thầy lớn lên thì cái thấy đó không còn nữa, nó được thay thế bằng những cái thấy khác. Vì vậy, ta phải buông bỏ những cái tướng để sự thật có thể hiển bày ra được. Nếu chúng ta không buông bỏ cái tướng ông già Noel, thì làm sao thấy được ước mơ của bọn con nít và lòng thương yêu của những bậc cha mẹ? Ông già Noel có mặt ở trong những em bé đó, và có mặt ở trong những người cha, những người mẹ. Ông già Noel là một phẩm vật sáng tạo của tâm thức. Là sáng tạo phẩm thì nó phải có thật chứ sao không có thật được?

Nhưng sáng tạo phẩm đó được nhận thức qua một hình thái nào đó trong văn hóa người ta vẽ ra. Ta phải lớn lên trong đời sống tâm linh của ta. Ta phải phá tan những hình ảnh để mà tiếp xúc với sự thật. Không phải là Bụt không có, Chúa không có, tình yêu không có, bác ái không có. Đó là những thực tại, nhưng không phải là đối tượng của sự mong cầu đang có mặt ở ngoài ta. Nó không phải là cái, nó không phải là một thực thể độc lập ngoài tâm thức ta, ngoài con người ta, ngoài sự sống của ta. Khi thấy được như vậy rồi, thì ta không còn tìm cầu, không còn theo đuổi nữa. Ta không đánh mất bản thân của ta, không lâm vào cái mặc cảm ta là con số không. Lưỡi gươm trí tuệ là lưỡi gươm có thể chặt đứt được tất cả những khái niệm đó, những ảo ảnh đó, những tướng trạng đó, những hình thức đó. Vì vậy cho nên mới có hiện tượng Văn Thù mang gươm tới giết Cồ Đàm và Ương Quật Ma đem đao tới chém ThíchCa. Đây là hai câu chuyện có thể bổ túc cho nhau, nói lên một cách rất tuyệt hảo cái giáo lý vô tướng và vô đắc này. Trước hết ta hãy nói về chuyện Ương Quật Ma (Angulimala).

Câu chuyện về Ương Quật Ma

Trong thành Xá Vệ, ai cũng biết Ương Quật Ma là một kẻ sát nhân. Khi nghe tin Ương Quật Ma xuất hiện trong thành phố, mọi người đều sợ hãi. Có một lần một toán cảnh sát năm chục người đi vào rừng để tìm Ương Quật Ma… Nhưng năm mươi người cảnh sát đó đi vào rừng không thấy trở về. Họ đã bị Ương Quật Ma giết hết. Điều này càng làm cho mọi người kinh sợ. Vua Ba Tư Nặc nghĩ rằng đối với Ương Quật Ma, một toán cảnh sát không đủ, phải huy động cả quân đội mới có thể bắt được Ương Quật Ma. Dân chúng trong thành Xá Vệ có hình ảnh về Ương Quật Ma là một kẻ sát nhân. Họ có hình ảnh về Ương Quật Ma như một ác quỷ không có khả năng hiểu và thương. Tất cả dân chúng trong thành người nào cũng đồng ý là gặp Ương Quật Ma thì phải giết, phải tiêu diệt. Chỉ trừ có một người. Người đó nghĩ rằng trong Ương Quật Ma vẫn còn có hạt giống tốt còn lại. Người đó là đức Thế Tôn.

Nhưng mà từ trước tới nay chưa ai có khả năng chạm vào hạt giống đó, cho nên Ương Quật Ma chưa bao giờ có cơ hội để trở thành con người tốt. Buổi sáng hôm đó, Thế Tôn cầm bát đi vào thành Xá Vệ để khất thực. Một Phật tử mời Ngài vào trong nhà và thưa rằng: Bạch Đức Thế Tôn, đi khất thực ngày hôm nay rất nguy hiểm, tại vì Ương Quật Ma đang có mặt trong thành phố. Kính xin Đức Thế Tôn ở lại đây, con sẽ cúng dường cơm cho Ngài. Và xin Ngài nghỉ lại đây. Đợi con nghe tin tức, khi biết rằng tình trạng có an ninh, thì lúc đó con thỉnh đức Thế Tôn về lại tu viện Kỳ Viên. Nhưng Bụt nói: Đạo hữu đừng lo! Không sao đâu! Nếu tôi có gặp Ương Quật Ma thì tôi cũng có cách để tự vệ. Đôi khi tôi có thể giúp được Ương Quật Ma nữa. Người Phật tử đó không tin lắm, tại vì ông thấy Bụt rất hiền từ, còn Ương Quật Ma rất hung hãn. Ương Quật Ma có một thanh đao, còn Bụt thì không có một võ khí nào cả. Nhưng người Phật tử đó lầm! Bụt cũng có một thanh gươm, đó là thanh gươm của trí tuệ. Ta sẽ chứng kiến cuộc so gươm của Bụt với thanh đoản đao của Ương Quật Ma.

Ương Quật Ma đã giết rất nhiều người. Mỗi khi giết một người, anh cắt một ngón tay, lấy một đốt xương và xoi một cái lỗ, rồi anh xỏ cái đốt xương đó vào trong cái tràng xương để đeo vào cổ. Ngày hôm đó nghe nói anh ta đã có cái vòng của 99 đốt xương rồi. Anh ta muốn giết thêm một người nữa cho đủ số 100, để có xâu chuỗi làm hoàn toàn bằng xương người. Chữ mala trong danh từ Ương Quật Ma có nghĩa là xâu chuỗi. Đức Thế Tôn đang ôm bát đi từng bước thảnh thơi thì nghe có tiếng chân chạy rầm rập phía sau lưng. Với linh khiếu bén nhạy, Ngài biết rằng Ương Quật Ma đang đuổi theo, nhưng Ngài vẫn đi bình tĩnh. Ngày xưa, Sĩ Đạt Ta cũng giỏi về võ thuật. Nhưng vũ khí của đức Thế Tôn là lòng thương và trí tuệ của Ngài.

Kinh sách hay nói là mỗi khi gặp trường hợp nguy hiểm thì Đức Thế Tôn trổ ra những phép thần thông. Nhưng Đức Thế Tôn đâu cần phải thi thố những phép thần thông. Đức Thế Tôn có dư từ bi, có dư trí tuệ để vượt khỏi những tình trạng khó khăn. Đức Thế Tôn có niềm tin lớn nơi tình thương và trí tuệ của mình. Đức Thế Tôn vẫn bước những bước vững chãi và thảnh thơi, và đề cao cảnh giác. Ương Quật Ma lớn tiếng gọi:

– Ông thầy tu, đứng lại!

Bụt vẫn tiếp tục đi, không mau hơn, cũng không chậm hơn. Phong độ của Ngài rất thảnh thơi và ung dung. Thấy vậy, Ương Quật Ma lớn tiếng hơn nữa:

– Đứng lại! Ông thầy tu đứng lại!

Đức Thế Tôn làm như không nghe, cứ tiếp tục đi. Ương Quật Ma lấy làm lạ. Từ trước đến nay, hễ mình lên tiếng một cái là ai cũng sợ run không cử động được nữa, mà tại sao ông thầy tu này lại quá ung dung, lại có vẻ hoàn toàn là vô úy. Ương Quật Ma chạy mau tới để coi thử ông thầy tu này là ai mà cả gan như vậy. Chỉ trong khoảnh khắc  Ương Quật Ma đã đi ngang hàng với Bụt. Ương Quật Ma nói:

– Tôi bảo ông dừng lại, tại sao ông không dừng?

Bụt vẫn đi, với sự điềm tĩnh và giọng nói dịu dàng, Bụt nói:

– Ương Quật Ma! Ta đã dừng lại từ lâu rồi, chính anh mới là người chưa dừng lại.

Quý vị đã đọc Thần Điêu Đại Hiệp chưa? Quý vị có thấy một kiếm chiêu nào mầu nhiệm hơn kiếm chiêu mà Bụt vừa thi thố không? Ngay trong chiêu thức đầu, ta thấy thanh gươm của Đức Thế Tôn đã huy động tới tám thành công lực. Từ trước đến giờ, chưa bao giờ Ương Quật Ma nghe một câu nói như vậy.

– Ông nói sao? Ông đang đi rõ ràng mà tại sao ông nói ông đã dừng lại? Tôi không hiểu, ông cắt nghĩa đi?

Một cách rất bình thản, Đức Thế Tôn nói:

– Ương Quật Ma, trên con đường tạo tác những ác nghiệp thì ta đã dừng lại từ nhiều kiếp rồi, nhưng trên con đường tạo tác ác nghiệp anh vẫn còn tiếp tục, thì anh nên dừng lại.

Câu nói đã làm rung động Ương Quật Ma. Lúc đó Đức Thế Tôn mới dừng lại. Ương Quật Ma cũng dừng lại. Hai người nhìn nhau. Đức Thế Tôn nhìn thẳng vào Ương Quật Ma mà nói rằng:

– Anh biết không! Ở đời ai cũng sợ đau khổ, ai cũng muốn sống, ai cũng sợ chết. Mình phải biết thương người.

Ương Quật Ma mới la lên:

– Trên đời này có ai thương tôi đâu mà bảo tôi thương họ? Loài người là loài độc ác nhất ở trên đời, tôi muốn tiêu diệt hết loài người cho hả dạ tôi.

Đức Thế Tôn nói:

– Ương Quật Ma, tôi biết anh đã đau khổ nhiều. Cuộc đời đã bạc đãi anh, người ta đã không tử tế với anh, người ta đã làm khổ anh. Nhưng anh nên biết rằng hận thù chỉ làm cho mình thêm khổ đau, chỉ có lòng thương mới đem lại hạnh phúc cho đời mà thôi.

Ương Quật Ma la lớn:

– Tình thương hả? Ai là người biết thương? Ông chỉ cho tôi coi?

Đức Thế Tôn vẫn dịu dàng:

– Anh đã từng gặp vì tỳ kheo hay tỳ kheo ni nào chưa? Các vị đó không những biết tôn trọng sinh mạng của những con người mà họ cũng biết tôn trọng sự sống của cả loài vật. Họ cũng tôn trọng các loài cỏ cây và đất đá nữa. Nếu anh gặp được một vị tỳ kheo hoặc tỳ kheo ni, anh sẽ thấy rằng tình thương là cái gì có thật. Khi có tình thương trong lòng, ta không còn đau khổ nữa. Hận thù là một khối lửa đốt cháy ta, đốt cháy thế gian. Anh nên quay đầu lại, từ khước bạo động, trở về với con đường của hiểu và của thương.

Những lời nói của Bụt tràn đầy tính chất từ bi, phát xuất từ trái tim. Ương Quật Ma là một con người thông minh nhưng bị hận thù che lấp. Gặp được một con người như Bụt khai mở, anh có cơ hội để cho hạt giống của trí tuệ được tưới tẩm. Anh nói:

– Tôi có nghe tới một ông thầy tu rất dễ thương, tên là Gotama, có phải ông là Gotama không?

Bụt nói:

– Đúng! Tôi là Gotama.

Bụt và AngulimalaƯơng Quật Ma nói:

– Gotama ơi! Bây giờ trễ rồi. Dù tôi có muốn ăn năn, dù tôi có muốn từ bỏ con đường hận thù để đi theo con đường tình thương thì cũng đã muộn. Tôi không có nẻo thoát, tôi đã gây ra quá nhiều tội lỗi.

Đức Thế Tôn im lặng. Rồi Ngài nói:

– Ương Quật Ma, nếu anh thật sự muốn chuyển hóa, muốn từ bỏ con đường bạo động, thì tôi sẽ che chở cho anh. Nếu anh muốn, tôi có thể tiếp nhận anh vào Tăng đoàn làm người xuất gia. Anh sẽ thực tập Từ, thực tập Bi, anh sẽ trở thành một con người mới, anh sẽ làm lại cuộc đời của anh.

Nghe Bụt nói như vậy, Ương Quật Ma rút cây đao liệng xuống đất, rồi quỳ xuống, chắp tay lại và xin làm đệ tử của Đức Thế Tôn. Vừa lúc ấy có các thầy đi tới. Thấy Đức Thế Tôn đang đứng đó, không bị thương tích gì cả mà Ương Quật Ma lại đang quỳ dưới chân Ngài, các thầy mừng rỡ. Đức Thế Tôn nói:

– Thầy Xá Lợi Phất, thầy Anan, các thầy có chiếc y nào không? Bây giờ chúng ta hãy làm lễ xuất gia cho Ương Quật Ma  ngay tại đây.

Thầy trò bao quanh lại làm thành một vòng tròn, và làm lễ xuống tóc cho Ương Quật Ma. Sau khi cạo đầu cho Ương Quật Ma, các thầy mặc cho Ương Quật Ma một chiếc y khất sĩ. Bụt dạy thầy Xá Lợi Phất và các thầy khác đưa Ương Quật Ma về tu viện và dạy cho thầy cách nâng bát, cách ngồi, cách đứng, cách đi, cách thở. Chúng ta thấy câu chuyện Ương Quật Ma gặp Bụt là một cuộc đấu gươm. Ương Quật Ma có thanh gươm của bạo động và hận thù. Đức Thế Tôn có thanh gươm của trí tuệ và từ bi.

Dùng lưỡi gươm trí tuệ để chặt đứt những ý niệm và nhãn hiệu

Khi chúng ta dán được vào một người nào đó nhãn hiệu sát nhân cần phải xử trảm, thì chúng ta có thể chĩa súng mà bắn người ấy không gớm tay. Nhưng nếu ta còn thấy được người đó vẫn là một con người thì ta không thể nào bóp cò súng được. Vì vậy muốn giết ai đó, thì chúng ta phải cố nghĩ rằng người này chỉ là ác quỷ, không còn một chút thiện trong tâm. Thanh gươm của đức Thế Tôn, trước hết là để chém đứt khái niệm đó. Vì khi ta muốn giết ai thì ta phải có khái niệm ác quỷ về người đó. Văn hóa của chúng ta bây giờ là như vậy. Chúng ta đi dán nhãn hiệu cho nhau.

Ngày xưa có trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội ở Việt Nam, đào tạo những người xuất gia trẻ và những thanh niên trẻ đi làm việc xã hội. Đường hướng của trường xã hội là không theo bất cứ một phe nào trong hai phe chiến tranh, không theo phe cộng sản, mà cũng không theo phe chống cộng. Đường lối của trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội là chấp nhận tất cả những người Việt là anh em. Mục tiêu của trường là làm lớn lòng thương yêu và hiểu biết, chấp nhận và ôm lấy cả hai phía. Nhưng trong hoàn cảnh chiến tranh, chúng ta đã gặp rất nhiều khó khăn. Nếu chúng ta không theo bên này thì bên này nghi rằng chúng ta đang theo phía bên kia, vì vậy cho nên trường Xã Hội bị đặt vào một tình trạng rất khó xử. Phe chống cộng thì nghi mình theo phe cộng sản. Phe cộng sản thì nghi mình theo phe chống cộng. Trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội trở thành đối tượng hiểu lầm của cả hai bên. Một bên muốn dán cho Trường nhãn hiệu cộng sản, một bên muốn dán cho Trường nhãn hiệu phản quốc để có thể giết mình. Đã có những bác, những chú, những chàng thanh niên, những cô thiếu nữ chết vì cái nhìn đó.

Nếu muốn giết ai thì trước hết phải dán cho kẻ đó một  nhãn hiệu. Nếu không dán nhãn hiệu thì không thể nào giết được. Đêm hôm đó có một toán người võ trang vào lúc nửa đêm xông vào một trại công tác của trường thanh niên Phụng Sự Xã Hội, bắt cóc năm người tác viên của trường đi ra bờ sông Saigon, trong số đó có một vị xuất gia trẻ. Người bắt cóc hỏi, tra gạn để biết chắc rằng năm người có thuộc về cái tổ chức gọi là Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội hay không. Khi năm người đó nói: “Đúng, chúng tôi là nhân viên của trường thanh niên Phụng Sự Xã Hội” thì một người trong toán võ trang nói rằng: “Chúng tôi rất tiếc, chúng tôi được lệnh phải bắn các anh.” Nói xong họ bắn năm người ngã gục bên bờ sông.

Tại sao những người thanh niên với trái tim trong trắng, từ bỏ nếp sống xa hoa vật chất, đi vào chùa để được huấn luyện và để được đi vào thôn xóm, để giúp dân giúp nước mà lại bị sát hại một cách tàn nhẫn như vậy? Những người võ trang kia nhận được lệnh là phải tiêu diệt những người gọi là Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội, tại vì những thanh niên đó không theo họ, và như vậy có thể là cộng sản trá hình, đang tiếp tay cho cộng sản. Tại vì những thanh niên đó không theo phe chống cộng. “Chúng tôi rất tiếc! Chúng tôi được lệnh phải bắn các anh”.

Sở dĩ mình biết câu chuyện là tại vì một trong năm người đó sống sót kể lại. Không khí hận thù cao ngất. Năm đó có một toán người võ trang khác tới trụ sở trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội ở Phú Thọ Hòa và quăng lựu đạn để tàn sát những tác viên xã hội. Sau đó an ninh quân đội khám phá ra được những người đó thuộc về giới Công giáo quá khích. Họ cho rằng những thanh niên Phật giáo tình nguyện đi vào xã hội phục vụ dân chúng, là kẻ thù của Thiên Chúa giáo, là những người cộng sản trá hình. Đêm hôm đó có nhiều người thanh niên phụng sự xã hội bị thương nặng, có hai người chết. Một người tên là Liên, một người tên là Vui. Họ cũng liệng một trái lựu đạn vào phòng tôi, nhưng tấm màn che cửa phòng hất trái lựu đạn ra ngoài. Trong hận thù, người ta không thấy được con người, người ta chỉ thấy được quỷ dữ, mà quỷ dữ đó chỉ là khái niệm. Chỉ thấy quỷ dữ, người ta mới có khả năng ném lựu đạn, hay là bắn súng vào mà thôi. Trong khi đó, những thanh niên kia là những người rất thánh thiện, những người có trái tim thương yêu và hiểu biết. Chúng ta giết nhau tại vì chúng ta không biết nhau là ai.

Chùa Pháp Vân (Chùa Lá) – Trụ sở đầu tiên của trường TNPSXH

Vì vậy cho nên chúng ta phải dùng lưỡi gươm trí tuệ để chặt đứt những hình ảnh, khái niệm và tất cả những nhãn hiệu. Dù là nhãn hiệu Bụt, Ma, Kitô, hay Sa Tăng. Tất cả những nhãn hiệu đó cần phải chặt đứt hết, nếu không chúng sẽ trở thành những cái còn tệ hơn là hố xí nữa. Nhân danh Chúa người ta đã tàn phá, nhân danh Bụt người ta cũng có thể chém giết. Nếu Bụt và Chúa là những ý niệm của chúng ta, thì có thể còn tai hại hơn những cái hố xí. Cái hố xí còn có ích lợi, còn ý niệm của chúng ta có thể đưa tới cuồng tín, có thể tiêu diệt con người, tiêu diệt tình thương, như vậy còn nguy hiểm hơn là những cái hố xí. Cho nên lời tuyên bố của Tổ Lâm Tế vẫn còn từ bi lắm.

Sau khi bắt được ông Saddam Hussein, Tổng thống Bush có tuyên bố: “Thế giới sẽ dễ chịu hơn nếu không có mặt của ông, ông ơi!” (Mr. Saddam, the world will be a better place without you.) Câu nói đó có nghĩa là: “Tôi muốn loại ông ra khỏi sự sống”. Chúng ta muốn hỏi ông tổng thống Bush: “Có bao nhiêu người cần được loại ra khỏi sự sống thì trái đất này mới là chỗ đáng sống?” Sau khi nghe ông Saddam Hussein bị bắt, thì có những cuộc biểu tình được tổ chức tại nhiều thành phố ở Iraq. Có nhiều người đã không sợ hãi, đã tham dự vào cuộc biểu tình, không lý tất cả những người theo và có cảm tình với ông Saddam Hussein đều phải giết hết sao? Có biết bao nhiêu người đang không có cảm tình với Hoa Kỳ, không những ở nước Iraq, mà ở những nước xung quanh. Nếu cần loại trừ hết tất cả những người đó, thì bao nhiêu người cần bị loại trừ, một triệu, hai triệu hoặc năm trăm triệu?

Cố nhiên là trong cuộc sống, con người có thể tạo ra nhiều lầm lỡ, Ông Saddam Hussein đã làm ra những lầm lỡ, ông ta đã từng độc tài, ông ta đã từng sát hại. Cũng như Ương Quật Ma đã từng lầm lẫn, đã từng sát hại, nhưng Ương Quật Ma đã có cơ hội được gặp đức từ bi. Ương Quật Ma có một khối hận thù rất lớn. Những người gọi là quân khủng bố họ cũng có hận thù rất lớn, họ đã từng đau khổ và họ đã dùng năng lượng hận thù của họ để biến thành hành động.

Nói như thế không có nghĩa là những người tự cho mình không phải là quân khủng bố là những người không có hận thù. Những người đó cũng có hận thù và tuy họ gọi những kẻ thù của họ là quân khủng bố nhưng chính họ cũng là quân khủng bố. Họ cũng sử dụng súng bom, họ cũng tàn sát xóm làng, họ cũng giết hại đàn bà và trẻ em, nhưng mà người ta không gọi họ là quân khủng bố. Những người mang một trái bom làm nổ một chiếc xe bus thì gọi là quân khủng bố. Còn những người sử dụng máy bay oanh tạc, tàn phá một thành phố, giết hại đàn bà trẻ em thì không gọi là khủng bố. Hận thù bên nào mà không có, hiểu lầm bên nào mà không có? Ta cho ta là thánh thiện, là đi trên con đường chánh, là không có tội lỗi, là không có hận thù. Ta cho người kia là quỷ dữ, là hận thù, là sự đe dọa cho văn minh, cho an ninh thế giới. Tất cả những khái niệm đó, tất cả những hình ảnh đó, cần phải được tiêu diệt bằng lưỡi gươm của trí tuệ. Hơn bất cứ lúc nào hết chúng ta phải sử dụng thanh gươm trí tuệ để chặt bỏ tất cả những ý niệm đó. Chính vì những ý niệm đó, chính vì những nhãn hiệu dán lên cho những con người khác, chúng ta mới có khả năng bóp cò súng tiêu diệt họ. Câu chuyện của Ương Quật Ma cho chúng ta thấy rằng nếu chúng ta chuyển hướng, lấy trí tuệ và tình thương làm tiêu chuẩn, thì thế giới này sẽ có hy vọng.

Sau khi xuất gia, Ương Quật Ma đã trở thành một vị khất sĩ giỏi. Thầy tu tập chuyển hóa mau chóng còn hơn nhiều vị khất sĩ khác. Cho đến nỗi các bạn đồng tu đã đặt cho Ương Quật Ma một cái tên mới là Ahimsaka, tức là bất bạo động. Có một lần Ương Quật Ma đi khất thực về khóc với Đức Thế Tôn. Bụt hỏi: “Tại sao con khóc?” Ương Quật Ma nói: “Bạch Đức Thế Tôn, trên đường đi khất thực con gặp một người đàn bà sắp sinh nở, nhưng bà đau quá sinh nở không được. Bà nhờ con đem tâm từ bi để chú nguyện cho bà, mà con không biết làm sao để chú nguyện cho được. Con thấy người ta sắp chết mà mình không cứu được cho nên con khổ quá”. Đức Thế Tôn dạy: “Thầy Ahimsaka, thầy hãy trở về với người đàn bà đó và nói rằng: Từ khi tôi sinh ra cho đến bây giờ, tôi chưa bao giờ sát hại một người nào, nhờ công đức đó mà bà có thể sinh con một cách bình an”. Thầy Ahimsa mới la lên: “Bạch Đức Thế Tôn, con không thể nói được như vậy! Từ khi sinh ra, con đã sát hại rất nhiều”. Đức Thế Tôn nói: “Không! Ta không muốn nói tới ngày sinh ra của cái sắc thân này. Thầy hãy đi nói với người phụ nữ kia rằng: “Từ ngày tôi sinh ra trong đạo pháp cho đến bây giờ, tôi chưa bao giờ sát hại bất cứ một sinh mạng nào, dù nhỏ như một con sâu con kiến. Nhân danh công đức đó, tôi muốn cho bà sinh cháu bình an”. Đức Thế Tôn vừa dứt lời, Ương Quật Ma liền chạy vụt đến nơi người đàn bà đang nằm đau đớn chờ sanh, và nói câu đó với bà. Thật mầu nhiệm! Bà ta sinh con một cách dễ dàng.

Một hôm khác, Ương Quật Ma đi khất thực về và lết vào tu viện. Có một người ngày xưa nhận ra được thầy là Ương Quật Ma ngày trước. Ông ta đã dùng gậy đánh Ương Quật Ma tơi bời, Ương Quật Ma thực tập pháp bất bạo động nên không chống trả. Mình mẩy của thầy sưng lên bầm tím, có chỗ chảy máu. Đức Thế Tôn đi ra thấy Ương Quật Ma như vậy liền bảo các thầy khiêng thầy ấy vào hậu liêu và chăm sóc. Trong khi các thầy chăm sóc cho Ương Quật Ma, lấy nước muối rửa các vết thương và băng bó thì Đức Thế Tôn nói: “Con hãy ráng chịu đựng đi. Đây là cái quả cuối cùng mà con phải nhận chịu trước khi con trở thành A la hán”.

Sự chuyển hướng của Ương Quật Ma là một thành công lớn. Không phải chỉ của Ương Quật Ma mà của cả một truyền thống và của tất cả chúng ta. Khi ta chuyển hướng thì ta được sinh ra trở lại lần thứ hai. Chúng ta phải để cho Ương Quật Ma có một cơ hội sinh ra lần thứ hai. Chúng ta phải để cho Saddam Hussein sinh ra lần thứ hai. Người ta sẽ đưa ông ra tòa, nhưng ai là người có quyền xử trị Saddam Hussein? Trong Phúc Âm có nói: “Ai là người thấy mình không có tội thì hãy ném viên đá vào người đàn bà này”. Tất cả chúng ta đều có lầm lỡ trong quá khứ, đã gây khổ đau cho người khác. Chúng ta phải biết rằng trong con người chúng ta cũng có hạt giống của bạo động, của hận thù, của vô minh. Nhưng chúng ta cũng phải tin rằng trong con người của chúng ta cũng có hạt giống của hiểu biết, của thương yêu, của khả năng chuyển hướng.

Nếu các nhà lãnh đạo như Tony Blair, hay Georges Bush v.v.. có được những nhà cố vấn có khả năng tưới tẩm hạt giống của hiểu và của thương trong họ thì các vị đó sẽ có những chính sách khác hơn, sẽ không mỗi ngày tạo ra thêm nhiều hận thù, nhiều khổ đau. Từ ngày khởi sự cuộc chiến ở Iraq, hận thù đã được nuôi dưỡng rất nhiều, và người Mỹ đã tạo thêm rất nhiều kẻ thù cho nước Mỹ. Nước Mỹ là một nước rất đẹp, trẻ em Mỹ rất dễ thương, và chúng ta muốn cho nước Mỹ phồn thịnh, đẹp đẽ để làm chỗ nương tựa cho nhiều quốc gia khác. Nhưng nước Mỹ đang đi trên một con đường tạo ra rất nhiều kẻ thù cho chính nước Mỹ. Vì an ninh mà nước Mỹ đã tạo ra một tình trạng không an ninh. Hàng ngàn thanh niên Mỹ đang chết tại Iraq, gần mười ngàn lính Mỹ đã bị thương. Có những người bị thương rất nặng. Vì vậy cho nên lời dạy của Tổ Lâm Tế vẫn còn có hiệu lực trong ngày hôm nay.

Chúng ta phải dùng lưỡi gươm trí tuệ để chặt đứt những tri giác sai lầm, những cái thấy hẹp hòi của chúng ta về chính chúng ta và về người. Chúng ta đừng tự dán cho chúng ta nhãn hiệu của sự thánh thiện, của sự vô tội. Chúng ta đừng vội dán vào người nhãn hiệu của tội lỗi, của tàn ác. Tại vì trong tất cả chúng ta, người nào cũng có hạt giống của tàn ác, của hận thù, của vô minh, nhưng người nào cũng có hạt giống của tình thương, của sự hiểu biết. Chúng ta hãy tổ chức cuộc sống hằng ngày như thế nào và thiết lập liên hệ giữa con người với con người như thế nào, giữa quốc gia và quốc gia như thế nào, để cho mọi người đều có cơ hội trở về tưới tẩm hạt giống tốt ở trong con người của mình. Đó là con đường tương lai của chúng ta.

Khi ta niệm Bụt có thể ta không biết Bụt là ai và ta là ai. Ai là người niệm Bụt? Ai là Bụt? Ta cầu nguyện Chúa, nhưng có thể ta chưa biết Chúa là ai. Ta không biết ta là ai? Ta có thể nhân danh ta, ta có thể nhân danh Chúa để sát hại. Vì vậy cho nên lưỡi gươm thần của trí tuệ rất là quan trọng. Chúng ta phải là những chiến sĩ, phải sử dụng được lưỡi gươm thần trí tuệ để chặt đứt tất cả những ảo giác, những tri giác sai lầm của chúng ta. Hãy phá bỏ tất cả những nhãn hiệu mà chúng ta thường muốn dán vào nhau để có thể tiêu diệt lẫn nhau. Đây là vấn đề chính của xã hội, của thế giới chúng ta trong ngày hôm nay. Chúng ta tu là để lột ra khỏi bản thân và lột ra khỏi người khác những nhãn hiệu. Bên này dán nhãn hiệu cho bên kia, bên kia dán nhãn hiệu cho bên này, để rồi hai bên có thể giết nhau. Lưỡi gươm trí tuệ là để phá bỏ những nhãn hiệu đó, tại vì những nhãn hiệu đó đưa tới sự giết chóc, đưa tới sự hận thù, đưa tới sự tiêu diệt. Dù đó là nhãn hiệu Bụt, nhãn hiệu Chúa, nhãn hiệu Bồ tát, nhãn hiệu La hán, nhãn hiệu cộng sản, nhãn hiệu khủng bố, nhãn hiệu dân chủ, nhãn hiệu tự do, nhãn hiệu văn minh.

Viên ngọc kinh Pháp Hoa

Kinh Pháp Hoa có nói tới những viên ngọc dấu trong áo và đứa con nghèo khổ. Tôi đã kết hai câu chuyện này lại với nhau như sau. Có một cậu con trai con nhà giàu ham ăn chơi phung phí tiền của mà không ý thức được cái may mắn và hạnh phúc của mình. Người cha rất thương con nhưng không có cách gì giúp được. Ông biết trước là nó sẽ khổ, sẽ đi tha phương cầu thực, sẽ phải đi xin ăn. Biết rằng: “đoạn trường ai có qua cầu mới hay” nên ông ta không la mắng nó và nghĩ rằng chỉ có kinh nghiệm khổ đau trong tương lai mới giúp nó được thôi. Ông lặng lẽ may cho nó một cái áo. Sau khi mặc một thời gian, ông cởi áo ra đưa cho nó và nói: “Nầy con, sau này gia tài sự sản của ba, con có thể xài hết, riêng cái aó nầy thì ba xin con giữ lại.” Ông đã bí mật may dấu vào gấu áo một viên ngọc thật quý. Ðứa con cũng không thích gì cái áo đó, nhưng cha đã dặn đừng bán thì nó cũng nhớ lời và không bán làm chi cái áo không qúy giá gì lắm đó.

Sau khi người cha chết, dĩ nhiên là người con xài phí rất nhanh cái gia tài đồ sộ của ông và đã trở nên nghèo đói, phải đi xa tìm việc làm và nhiều lúc cơ cực không có gì để ăn. Kinh gọi đó là người cùng tử (đứa con khốn cùng), đi cùng khắp mà vẫn không gây được sự nghiệp, cũng không tìm được hạnh phúc. Tất cả sự nghiệp của người cha, anh ta chỉ còn giữ chiếc áo cũ kỹ mà người cha đã căn dặn đừng bán. Có một bữa đó trời xui đất khiến sao đó mà anh ta bỗng nhiên táy máy mân mê và khám ra viên ngọc thật quý nằm dấu trong khâu áo rách của cha mình. Khi khám ra viên ngọc quý rồi thì đứa con nghèo đói trở nên hết nghèo đói.

Cái chuổi ngày dài cơ cực bị khinh khi, bị đói khát, bị đau đớn đã là bài học rất thấm thía, rất giá trị cho người con và từ đó anh ta biết sử dụng viên ngọc qúy và biết dùng nó làm vốn liếng để gây lại sự nghiệp, đã sống cuộc đời rất hạnh phúc và tiếp nhận trọn vẹn gia tài bí mật của cha để lại. Gia tài đó là viên ngọc, nhưng cũng là sự hiểu biết, tinh thần trách nhiệm và cái lề lối sống để có hạnh phúc.

Ðó là một hình ảnh Bụt đưa ra trong kinh Pháp Hoa. Bụt có ý nói rằng tất cả chúng ta đều là những đứa con phá của, những đứa cùng tử. Chúng ta có hạnh phúc, có gia tài mà chúng ta không biết xài; chúng ta phung phí, chúng ta dày đạp lên cái hạnh phúc của chúng ta mà đi, và chúng ta trải qua năm nầy tháng nọ làm một kẻ tha phương cầu thực, gối đất nằm sương, chịu biết bao nhiêu là khổ nhục. Chính bây giờ là chúng ta phải khám phá lại viên ngọc đã và đang được khâu trong áo chúng ta.

Kinh Bảo Tích và kinh Pháp Hoa là những người bạn giúp chúng ta khám phá lại những châu ngọc mà chúng ta hiện có trong cái áo rách của chúng ta. Trong tác phẩm gần đây của Phạm Duy “Người tình già trên đầu non”, nhạc sĩ có nói vắn tắt mấy câu về cuộc đời ông: “thuở tìm tự do, nửa đời sương gió, nên mau tóc ngả, con tim chóng già. Còn nửa đời sau, tưởng là châu báu, nhưng xương máu nhiều bao vây sớm chiều, còn gì đâu cho một tình yêu, còn gì đâu cho một đời sau.” Ðiều đó làm cho mình nhớ tới viên ngọc của ông nhà giàu để lại cho con trong kinh Pháp Hoa.

Trong kinh Kim Cang mình cũng học được rằng có những người con trai và con gái nhà lành, dùng châu báu bảy thứ chứa đầy tam thiên đại thiên thế giới để đem đi bố thí. Chuyện đó chúng ta đều có thể làm được cả, tại vì thật sự chúng ta có rất nhiều châu báu. Mỗi phút của cuộc đời ta là một viên ngọc. Mỗi giờ đồng hồ trong ngày là một viên bảo châu và nếu chúng ta sống có chánh niệm, sống tỉnh thức với nụ cười thì giây phút đó trở thành tuyệt vời và rất đáng sống. Ðó là ngọc, đó là châu báu.

Khi có chánh niệm và có nụ cười, thì giây phút mà chúng ta đang sống trở nên một phép lạ màu nhiệm. Chỉ nhờ một tiếng chuông chánh niệm thôi, tự nhiên chúng ta nghe được tiếng chim hót, tiếng thông reo và bao thứ tiếng vi diệu khác; chúng ta thấy được một đóa hoa đang nở, chúng ta thấy được trời xanh, mây trắng và mỗi phút của đời ta như vậy trở thành viên ngọc. Nếu chúng ta tiếp tục sống trong chánh niệm như vậy thì mỗi ngày chúng ta có từng rổ châu báu và chúng ta sẽ không phải than phiền như nhạc sĩ Phạm Duy là cả cuộc đời không còn cái gì nữa cả.

Châu báu của Bụt để lại cho chúng ta rất nhiều, đó là những giây phút tỉnh thức va nếu muốn, chúng ta có thể vốc từng vốc đầy tay những hạt kim cương. Châu báu thật ra đầy cả thế giới, nếu sống tỉnh thức quý vị sẽ có rất nhiều châu báu và quý vị có thể xúc một rổ đem tặng những người thương, làm cho họ sống ngày hôm nay của họ có chánh niệm có hạnh phúc có nụ cười, và nếu có căn cơ và hạt giống thì người đó sẽ tiếp nhận cái rổ kim cương của qúy vị và sẽ sống được mỗi giây phút trong đời của người đó với thật nhiều hạnh phúc. Mỗi giây là một viên ngọc, mỗi phút là một viên ngọc và mỗi giờ là một viên kim cương và mỗi ngày là một rổ châu báu.

Thành ra chúng ta, con trai cũng như con gái, nên biết rằng chúng ta là những người cùng tử nghèo đói đi lang thang từ bao nhiêu tháng năm và đây là lúc chúng ta phải chấm dứt cái kiếp nghèo hèn của kẻ cùng tử đi lang thang để trở về tiếp nhận cái gia tài của Bụt, những rổ kim cương lóng lánh sáng chói, để sống những giờ phút của chúng ta cho thật hạnh phúc, thật sâu sắc. Và khi mà chúng ta học được cách sống hạnh phúc như vậy thì cố nhiên chúng ta sẽ gieo rắc hạnh phúc xung quanh chúng ta. Chúng ta sẽ có rất nhiều châu báu và chúng ta sẽ đem một vốc châu báu tặng người phía trái rồi vốc một vốc khác tặng người bên tay mặt, và chúng ta trở thành những người con trai con gái mà Bụt nói trong Kinh Kim Cang. Châu báu của chúng ta chứa đựng đầy tam thiên đại thiên thế giới. Chúng ta rất giàu mà xưa nay vẫn nghĩ là mình nghèo:

Châu báu chất đầy thế giới
Tôi đem tặng bạn sáng nay
Một vốc kim cương sáng chói 
Long lanh suốt cả đêm ngày.

Mỗi phút một viên ngọc quý
Tóm thâu đất nước trời mây
Chỉ cần một hơi thở nhẹ
Là bao phép lạ hiển bày.

Chim hót thông reo hoa nở 
Trời xanh mây trắng là đây 
Ánh mắt thương yêu sáng tỏ 
Nụ cười ý thức đong đầy.

Này người giàu sang bậc nhất
Tha phương cầu thực xưa nay!
Hãy thôi làm thân cùng tử 
Về đi, tiếp nhận gia tài!

Hãy dâng cho nhau hạnh phúc
Và an trú phút giây nầy
Hãy buông thả dòng sầu khổ 
Về nâng sự sống trên tay.

 

Giảng tại Làng Hồng ngày 20-12-1990 – (Trích “Về Việt Nam”- Thích Nhất HạnhNXB Lá Bối, Hoa Kỳ 1992)