Năm mới, ta cũng mới

(Trích Pháp thoại Tết dương lịch 2014 tại thiền đường Hội Ngàn Sao, xóm Hạ, Làng Mai – được chuyển ngữ từ nguyên bản tiếng Anh)

Xây dựng ngôi nhà đích thực

Chúng ta đã có lần chia sẻ với nhau về chủ đề “ngôi nhà đích thực” (true home). Chúng ta biết rằng yếu tố đầu tiên để làm nên ngôi nhà đó là hình hài, thân thể của chúng ta. Nếu không biết cách chăm sóc thân thể mình thì chúng ta không thể nào có được một ngôi nhà đích thực. Vì vậy ta cần học cách thở, cách đi, cách trở về với thân và buông thư những căng thẳng trong thân. Đó là điều đầu tiên ta cần làm để xây dựng ngôi nhà đích thực của chính mình.

Yếu tố thứ hai làm nên ngôi nhà đích thực là cảm thọ (các cảm giác và cảm xúc trong ta).  Nếu muốn có một ngôi nhà đích thực, chúng ta phải học cách chăm sóc các cảm thọ của mình, những cảm thọ dễ chịu cũng như những cảm thọ khó chịu, những cảm xúc đau buồn trong ta.

Ngôi nhà đích thực của chúng ta còn được làm bởi yếu tố thứ ba là tri giác. Phần lớn khổ đau, buồn giận của chúng ta đều phát sinh từ những tri giác sai lầm. Chúng ta có tri giác sai lầm về chính ta và về người khác. Căn cứ trên những tri giác ấy, chúng ta tạo ra biết bao giận hờn, sợ hãi, buồn đau và tuyệt vọng. Đó là lý do vì sao chúng ta phải học cách chăm sóc những tri giác của mình bằng sự thực tập nhìn sâu. Chúng ta không nên quá chắc chắn về những tri giác của mình, bởi vì có thể đó là nguyên nhân gây nên rất nhiều khổ đau cho chính chúng ta và cho kẻ khác. Vì vậy ta phải cẩn thận lắm mới được, ta nên  tự hỏi mình: Có chắc như vậy không? (Are you sure?) Có chắc cái tri giác mà mình tiếp nhận đó là đúng hay không?

Năm giác quan của chúng ta (gồm mắt, tai, mũi, lưỡi và thân) là năm cánh cửa mở ra để tiếp nhận các thông tin từ thế giới bên ngoài. Vì vậy, nếu biết cách hộ trì các cánh cửa giác quan này, nếu có đủ năng lượng của niệm và định thì chúng ta có thể tránh được rất nhiều tri giác sai lầm và không tạo nên những hiểu lầm, giận hờn, sợ hãi, v.v. Điều này hoàn toàn phụ thuộc vào chính chúng ta.

Bụt Shakya Muni từng nói rằng vị Bụt xuất hiện trong tương lai sẽ có tên là Maitreya, đức Bụt của tình thương. Từ “Maitreya” trong tiếng Phạn có nghĩa là tình thương. Ngoài ra, từ “maitreya” còn có gốc “mittra”, nghĩa là tình bạn, vì vậy đức Bụt tương lai của chúng ta sẽ là một người rất trẻ và có tên là đức Bụt của tình thương (the Buddha of Love hay Mr. Love).

Khi nói về tình thương, chúng ta thường nghĩ rằng: thương có nghĩa là thương một ai đó. Chúng ta tin chắc là mình biết thương mình rồi. Nhưng kỳ thực, không phải nhiều người trong chúng ta biết thương chính mình. Chúng ta chưa thực sự biết thương mình, hay nói cách khác, chúng ta chưa biết cách chăm sóc và thương yêu mình như thế nào cho đúng. Vì vậy đức Bụt của tương lai sẽ dạy cho chúng ta cách thương yêu và chăm sóc chính mình. Khi biết thương và chăm sóc chính mình, ta mới có khả năng thương yêu và chăm sóc những người khác. Làm sao anh có thể thương yêu và chăm sóc một ai khác nếu như anh không biết thương yêu và chăm sóc chính bản thân anh? Thương yêu chính mình là nền tảng để thương yêu một ai khác. Đây là một điều rất rõ ràng. Vì vậy ta cần phải học cách chăm sóc thân thể, cảm thọ và tri giác của mình, đó là điều rất quan trọng.

Mỗi khi nghĩ về năm mới, chúng ta luôn hy vọng rằng trong năm mới chúng ta sẽ làm hay hơn năm cũ. Nhưng làm hay hơn nghĩa là sao? Chúng ta có thể mong ước rằng trong năm mới ta sẽ chăm sóc mình tốt hơn, và nếu ta biết chăm sóc chính mình thì ta sẽ chăm sóc tốt hơn cho những người ta thương yêu. Và chúng ta có thể yểm trợ nhau trong sự thực tập chung này.

Năm cũ có còn ở lại với chúng ta?

Bây giờ chúng ta cùng nhau quán chiếu về năm mới. Quý vị có thể nghĩ rằng năm cũ đang rời xa chúng ta. Nhưng tôi thì không dám chắc về điều đó. Có thể năm cũ còn ở lại với chúng ta dài dài. Bởi vì năm tháng không chỉ được làm bởi thời gian, mà còn được làm bởi không gian và đặc biệt là làm bởi những hành động của chính chúng ta.

Những hành động bằng thân, bằng ý và bằng lời của chúng ta chính là Nghiệp (karma) mà ta đã tạo ra trong năm qua. Có thể trong năm mới, chúng ta bắt đầu gặt hái những nghiệp quả mà ta đã gieo trồng trong năm cũ. Vì vậy, cũng không chắc khi nói rằng năm cũ sẽ rời chúng ta, vì nó vẫn còn ở lại với chúng ta trong năm mới dưới hình thức của những nghiệp quả.

Không có gì mất đi. Những lời nói dễ thương, từ ái mà ta đã tặng cho người khác trong năm cũ sẽ đơm hoa kết trái trong năm mới. Và những hành động từ bi, đầy tình thương mà ta đã làm trong suốt năm qua, rồi ta cũng sẽ hội ngộ chúng trong năm mới, đó chính là nghiệp quả.

Năm Mới, ta cũng mới

Chúng ta có câu đối để thực tập trong năm mới, đó là: “Năm Mới, ta cũng mới” (“New Year New Me”). Nhưng muốn cho năm mới thực sự mới thì bản thân ta cũng phải mới. Làm sao anh có thể hy vọng có một năm mới nếu như anh không có gì mới? Không thể nào có được! Năm mới thì ta cũng phải mới. Nếu ta không mới thì cũng không có năm mới. Điều này hết sức đơn giản, ai cũng hiểu được. Nếu ta không có gì mới mẻ thì dù ta có gọi đó là năm 2014 hay 2015, 2016…thì cũng chẳng có gì khác, nó vẫn là năm cũ thôi. Vì vậy để có một năm mới thì ta phải làm mới chính mình.

“Ta cũng mới”, đó là một sự thực tập. Chúng ta cần phải học cách làm mới chính mình. Cách chúng ta đi, cách ngồi, cách ăn, cách cười…chúng ta cần biết cách thực tập như thế nào để mỗi khi đi, khi ngồi, khi ăn, khi cười đều có thể đem lại niềm vui, niềm hạnh phúc và nuôi lớn tình thương trong ta. Đó là sự thực tập chánh niệm.

Ta có thể phát nguyện trong năm mới rằng: “Con xin nguyện thực tập đi trong chánh niệm trong cả năm 2014. Từ bãi đỗ xe cho đến văn phòng làm việc, con sẽ thưởng thức từng bước chân của mình”. Đó là điều mà chúng ta có thể làm được, vì ta không cần phải có thêm thời gian để thực tập. Chúng ta chỉ cần thay đổi cách đi mà thôi. Từ bãi đỗ xe, ta bắt đầu thực tập thiền đi. Ta đi như thế nào để trong mỗi bước chân ta có thể tiếp xúc được với những mầu nhiệm của sự sống trong ta và xung quanh ta.

Mọi thứ xung quanh ta đều mầu nhiệm. Bông hoa này, không khí mà ta đang thở, ánh sáng, đám mây, mưa, ánh nắng mặt trời, cỏ hoa, cây cối, tất cả đều mầu nhiệm. Nếu ta không chánh niệm, không có mặt thật sự cho sự sống, hoặc nếu ta chìm đắm trong những đau buồn, sợ hãi, giận hờn hay trong những dự án ở tương lai thì tất cả những mầu nhiệm này của sự sống cũng không thực sự có mặt cho ta.

Anh đang ở trong nước Chúa, trong Thiên quốc, nhưng anh lại không tận hưởng được. Vậy anh hãy đến hỏi bông hoa về nước Chúa, anh sẽ nhận được câu trả lời, vì bông hoa này cũng thuộc về nước Chúa. Bông hoa có ngôn ngữ của nó, nó đang kể cho anh nghe về nước Chúa, nếu có đủ chánh niệm, có đủ sự chú tâm thì thế nào anh cũng nghe được. Bông hoa sẽ chỉ cho anh làm cách nào để tận hưởng được Thiên quốc đó.

Và vì thiếu chánh niệm, chúng ta cũng không thấy được rằng hình hài của chúng ta cũng là một đóa hoa, một mầu nhiệm của sự sống. Hình hài của ta cũng thuộc về nước Chúa. Ấy vậy mà chúng ta không biết cách chăm sóc bông hoa ấy, không biết chăm sóc hình hài ta.

Vì vậy, với sự thực tập thiền đi từ bãi đỗ xe đến nơi làm việc, ta phải đi như thế nào để mỗi bước chân có thể đưa ta trở về để tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống và làm cho nước Chúa có mặt trong từng bước chân. Đó là sự thực tập chánh niệm.

Thời gian là sự sống

Ta chỉ cần chánh niệm và chú tâm thì mỗi bước chân đều có thể giúp ta tiếp xúc với nước Chúa và tất cả những mầu nhiệm của nước Chúa. Nếu không thì khi sắp sửa từ giã cõi đời này, nếu có ai đó hỏi: anh đã ở trong nước Chúa, vậy anh có tận hưởng được nước Chúa chưa? Ta trả lời rằng: chưa, tôi bận quá, làm gì có thời giờ để mà tận hưởng!

Cái thấy của tôi là nước Chúa – trong đạo Bụt sử dụng danh từ Pháp thân hay cõi Tịnh Độ – luôn có mặt trong giây phút hiện tại, bây giờ và ở đây. Điều này không khó để thấy. Nếu anh là một nhà sinh học chuyên nghiên cứu về cơ thể người, anh có thể thấy rằng cơ thể con người là một mầu nhiệm. Anh sẽ rất thích thú tìm hiểu và khám phá sự tuyệt diệu của cơ thể, của đôi mắt hay của vỏ não. Thật là tuyệt vời!

Nước Chúa hay cõi Tịnh Độ thực sự có mặt đó cho chúng ta, nhưng chính chúng ta lại quá bận rộn, chúng ta không có thời giờ để tận hưởng. Vì vậy câu hỏi đặt ra cho chúng ta là: chúng ta có mặt cho nước Chúa, cho cõi Tịnh Độ hay không? Năm mới mang đến cho chúng ta một cơ hội mới! Chúng ta đi như thế nào để nước Chúa hay cõi Tịnh Độ có mặt trong mỗi bước chân, để sau này chúng ta không hối tiếc là “mình đã từng ở trong nước Chúa, trong cõi Tịnh Độ nhưng mình chưa từng có thời giờ để tận hưởng nơi đó”.

Ở Làng Mai, mặc dù chúng tôi làm rất nhiều việc, nhưng mỗi ngày chúng tôi đều có thời giờ để đi cùng nhau. Chúng tôi gọi đó là thiền hành, là sự thực tập đi trong chánh niệm. Mỗi bước chân đều đưa chúng tôi trở về để tiếp xúc với nước Chúa, với cõi Tịnh Độ. Mỗi bước chân đều có khả năng chế tác hỷ, chế tác lạc. Điều này tất cả chúng ta đều có thể làm được. Mỗi bước chân có niệm, có định sẽ giúp chúng ta tiếp xúc được với tất cả những mầu nhiệm của sự sống.

Khi chúng ta đi cùng nhau, thực tập cùng nhau, chúng ta chế tác ra được một nguồn năng lượng chánh niệm tập thể rất hùng hậu, nhờ vậy mà mọi người có thể thực tập dễ dàng hơn. Chúng ta có thể dễ dàng tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống và hạnh phúc liền ngay bây giờ và ở đây. Chúng ta không phải chạy về tương lai để tìm kiếm hạnh phúc. Chúng ta không còn nói “thời gian là tiền bạc”, mà chúng ta sẽ nói “thời gian là sự sống”.

Vì vậy chúng ta phải thách thức chính mình: “liệu tôi có thể đi từ bãi đỗ xe đến văn phòng với những bước chân chánh niệm và thảnh thơi hay không?”. Nếu bạn là giám đốc của một công ty, bạn có thể chia sẻ sự thực tập này với nhân viên của mình. Bạn có thể chia sẻ rằng: “mỗi buổi sáng khi đỗ xe và đi bộ tới văn phòng, tôi đều thực tập đi trong chánh niệm và tôi muốn mời các bạn cùng thực tập với tôi, vì khi đi như vậy, tôi thấy thật tuyệt vời. Với mỗi bước chân, tôi đều có thể tận hưởng những mầu nhiệm của sự sống. Khi đi, tôi không suy nghĩ, tôi chỉ cảm nhận sự hiện hữu của nước Chúa, của cõi Tịnh Độ trong giây phút đó mà thôi. Tôi thấy mình đang sống. Và trong thời gian đi như vậy, tôi buông bỏ tất cả những căng thẳng trong thân tâm. Tôi cũng dừng mọi suy nghĩ. Điều đó giúp thân tâm tôi được làm mới. Đó là sự thực tập chánh niệm”.

 >>Nghe pháp thoại có phụ đề tiếng Việt<<

Phong tục thờ cúng tổ tiên và tuệ giác của đạo Bụt

Hỏi: Chúng ta đang sống trong một thời kỳ mà cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang phát triển hết sức mạnh mẽ. Nhận thức của con người về các quá trình tự nhiên và xã hội ngày càng sâu sắc, ngày càng đầy đủ và ngày càng mang tính phổ biến hơn. Vậy trong thời kỳ đó, theo Thiền sư, niềm tin tôn giáo vì thế có giảm đi hay không và nếu không thì vì sao? Cũng xin ý kiến của Thiền sư về xu hướng phát triển của tôn giáo trong tương lai sẽ như thế nào khi nhân loại ngày càng bước sâu hơn vào nền văn minh?

Thiền sư Nhất Hạnh: Sự hành trì đó là mê tín hay không mê tín, tùy theo cách mà chúng ta thực tập. Trong nhà của chúng ta, thường thiết lập bàn thờ tổ tiên vào vị trí trung ương vì chúng ta muốn tôn vinh tổ tiên. Dù cho nhà của chúng ta là nhà tranh vách nứa thì chúng ta cũng đặt bàn thờ tổ tiên vào vị trí trung ương. Điều đó chứng tỏ rằng chúng ta có niềm tin nơi tổ tiên, giai đoạn này rất là quan trọng. Sự kiện thiết lập một bàn thờ tổ tiên trong nhà là một hành động giáo dục rồi. Có thể coi như là một cái gì rất khoa học mà không phải mê tín.

Nếu mình công nhận rằng cây có cội, nước có nguồn thì đó là một niềm tin rất khoa học. Có gì là mê tín đâu?  Vì bàn thờ tổ tiên biểu trưng cho niềm tin đó. Chúng ta có gốc, có nguồn và chúng ta đã tiếp nhận được những giá trị lớn lao từ gốc, từ nguồn của chúng ta. Sự có mặt của bàn thờ tổ tiên trong nhà không phải là dấu hiệu mê tín gì hết. Những người không hề theo đạo Phật, những người Cơ đốc giáo hoặc những người cộng sản cũng có thể làm như vậy. Trong nhà mình mà có một bàn thờ tổ tiên thì điều đó chứng tỏ rằng mình có gốc, có nguồn và mình luôn luôn hướng về cội nguồn của mình. Điều này rất đẹp, đó là văn hóa chứ không phải là tôn giáo, không phải là mê tín.

Mỗi ngày mình tới bàn thờ tổ tiên, lấy miếng vải để lau bụi, hay là đốt một cây hương để cắm vào lư hương, hành động đó có người cho là mê tín nhưng theo tôi, rất là khoa học, tại vì trong thời gian đốt cây hương thì mình có cơ hội tiếp xúc được với tổ tiên trong từng tế bào cơ thể mình. Nếu chúng ta tin rằng tổ tiên đang ngồi trên bàn thờ và đợi chúng ta đốt một cây hương cho quý ngài thì đó là mê tín nhưng chúng ta biết rằng tổ tiên không ngồi trên bàn thờ. Bàn thờ chỉ là một biểu tượng cũng như một lá cờ, lá cờ không phải là đất nước, chỉ là biểu tượng thôi. Bàn thờ cũng vậy, trong khi chúng ta đốt một cây hương, chúng ta phải sử dụng năng lượng của niệm của định và của tuệ thì hành động đốt hương đó mới có giá trị. Đó là giá trị tâm linh và rất khoa học.

Thầy tôi dạy rằng: Mỗi khi con đốt một cây hương, con phải đem hết cả sự thành tâm vào trong việc đốt hương. Làm thế nào trong khi đốt hương có năng lượng của niệm, của định, của tuệ. Niệm là năng lượng của sự có mặt hoàn toàn của thân và tâm. Khi mà thân và tâm của mình về lại với nhau, mình thật sự có mặt trong giây phút hiện tại thì đó gọi là năng lượng của niệm. Khi mình có sự chuyên chú vào hành động đó mà không suy nghĩ về quá khứ, không suy nghĩ về tương lai, không suy nghĩ về bất cứ một cái gì khác nữa thì đó là năng lượng của định.

Trong khi đốt một cây hương chúng ta làm thế nào đốt cây hương để năng lượng của niệm và của định có mặt, nghĩa là chúng ta có mặt, thân và tâm phải có mặt đích thực trong giây phút hiện tại và ta phải chuyên chú vào việc đốt hương thì đó là điều kiện để có sự truyền thông. Trong thời gian đốt hương và cắm cây hương lên bàn thờ thì ta có niệm và có định, chính cái niệm và định đó giúp ta tiếp xúc được với tổ tiên hiện đang có mặt trong từng tế bào cơ thể. Theo tôi đó là một hành động rất khoa học, nó không có cái gì mê tín hết.

Cũng như khi chúng ta chào một lá cờ. Có mê tín gì đâu? Lá cờ đó tuy chỉ là một miếng vải thôi nhưng biểu trưng cho đất nước. Nếu nói là thắp cây hương mê tín thì chào cờ cũng là mê tín. Vì vậy tùy theo nhận thức của chúng ta mà thôi. Như tôi đã nói, tôn giáo có phần hy vọng, có phần cầu nguyện nhưng đạo Phật không phải chỉ là một tôn giáo, đạo Phật là tuệ giác và tuệ giác đó có thể đem lại hạnh phúc cho chúng ta ngay trong giây phút hiện tại.

Như phương pháp thiền hành, gọi là thiền đi, chúng tôi thực tập mỗi ngày. Khi chúng tôi đem tâm về với thân, có mặt thật sự trong giây phút hiện tại thì chúng tôi tiếp xúc được ngay với bao nhiêu là mầu nhiệm của sự sống đang có mặt: Trời xanh, mây trắng, chim hót, thông reo, hoa nở… Tất cả những cái mầu nhiệm đó của sự sống có mặt trong giây phút hiện tại và ta phải trở về giây phút hiện tại mới có thể tiếp xúc với những mầu nhiệm đó của sự sống. Những mầu nhiệm đó sẽ nuôi dưỡng ta và làm cho chúng ta thấy rằng sự sống là một cái gì hết sức mầu nhiệm. Đi thiền hành (walking meditation) là đem tâm thân về với nhau, mỗi bước chân đưa ta trở về với giây phút hiện tại để ta có thể tiếp xúc được với những mầu nhiệm sự sống. Mỗi bước chân đem lại vững chãi, thảnh thơi, hạnh phúc và chúng ta bước như là đang bước ở cõi Tịnh Độ hay là ở cõi Thiên Đường.

Tôn giáo hay diễn giải rằng Thiên Quốc hay Thiên Đường chỉ nằm ở tương lai và nằm ở chỗ khác. Nhưng mà theo tuệ giác của đạo Phật thì cõi gọi là Tịnh Độ, gọi là Niết Bàn có mặt ngay trong giờ phút hiện tại với tất cả những mầu nhiệm của nó. Khi mình đem tâm trở về với thân và mình có mặt đích thực trong giây phút hiện tại thì mình tiếp xúc được với tất cả những mầu nhiệm của Niết Bàn, của Tịnh Độ và mỗi bước chân mình đặt vào Tịnh Độ (mà không đặt ra ngoài). Vì vậy thiền hành nghĩa là thực tập sống hạnh phúc, sống vững chãi, sống thảnh thơi và sống tự do trong giây phút hiện tại. Phần lớn chúng ta đều tin rằng hạnh phúc chỉ có thể có được trong tương lai cho nên ai cũng bương bã đi tìm hạnh phúc trong tương lai. Chúng ta nghĩ rằng những điều kiện hạnh phúc chưa đủ, chúng ta cần một vài điều kiện nữa và những điều kiện đó chúng ta phải đi tìm ở tương lai. Hầu hết chúng ta đều hy sinh giây phút hiện tại để đi tìm hạnh phúc trong tương lai. Đó là lầm lỗi căn bản.

Đức Phật nói rằng chúng ta có thể sống hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại, đó gọi là Hiện Pháp Lạc Trú. Hiện pháp tức là giây phút hiện tại, lạc trú là sống hạnh phúc. Đem tâm trở về với thân và có mặt thật sự trong giây phút hiện tại, khi đó ta  tiếp xúc được với những mầu nhiệm của sự sống trong giây phút hiện tại. Ta sẽ thấy rằng những điều kiện hạnh phúc ta đang có, dư sức để có thể có hạnh phúc trong giây phút hiện tại. Ví dụ như quý vị thực tập thế này:

Thở vào tôi có đôi mắt sáng,
Thở ra tôi mỉm cười vì hai con mắt sáng của tôi.

Hai con mắt sáng là điều kiện rất lớn của hạnh phúc vì chỉ cần mở mắt ra là ta thấy trời xanh mây trắng, thấy rõ cái khuôn mặt dễ thương của đứa con mình. Tôi cũng có thể ý thức là mình đang có một trái tim còn tốt, nó đang hoạt động bình thường. Bởi vì có những người có trái tim không bình thường và họ đang mong ước có trái tim bình thường như chúng ta. Chúng ta có rất nhiều điều kiện của hạnh phúc, nếu chúng ta trở về giây phút hiện tại, tiếp xúc với điều kiện của hạnh phúc thì chúng ta hạnh phúc liền lập tức và chúng ta không cần đi tìm cầu những điều kiện khác của hạnh phúc.

Tôi xin đề nghị, quý vị lấy một tờ giấy, viết xuống những điều kiện may mắn mà quý đang có, điều kiện hạnh phúc mà quý vị đang có, quý vị sẽ thấy rằng hai trang giấy không đủ để quý vị ghi xuống những điều kiện hạnh phúc mà quý vị đang có. Vì vậy phương pháp của Đức Phật rất nhiệm mầu: đừng nuối tiếc quá khứ, đừng tưởng tới tương lai, quá khứ đã không còn, tương lai thì chưa tới. Đó là lời của Đức Thế Tôn. Người thức giả trở về giây phút hiện tại, nhận diện được rằng, trong giây phút hiện tại mình có quá nhiều những điều kiện hạnh phúc và mình có thể có hạnh phúc được liền lập tức.

Niết Bàn cũng như Tịnh Độ, mình có thể tiếp xúc được ngay trong giây phút hiện tại. Tại sao phải đợi chờ nữa? Hầu hết chúng ta đều mê tín rằng trong giây phút hiện tại chúng ta chưa hạnh phúc được. Hạnh phúc là phải đi kiếm ở tương lai một vài điều kiện nữa cho nên chúng ta phải hy sinh giây phút hiện tại. Theo tuệ giác của đức Thế Tôn thì sự sống chỉ có mặt trong giây phút hiện tại: Quá khứ đã không còn, tương lai thì chưa tới, muốn ước hẹn với sự sống phải trở về với giây phút hiện tại. Một hơi thở có ý thức, một bước chân có ý thức, giúp cho chúng ta đem tâm trở về với thân và có mặt đích thực trong giây phút hiện tại. Đó là sự thật đầu tiên của những người giác ngộ mà tất cả quý vị đều có thể làm được. Không có tuệ giác, có thể cho đó là mê tín nhưng khi có tuệ giác rồi thì đó là một sự thật rất khoa học. Chúng ta đừng bị hình tướng bên ngoài đánh lừa. Trong Kinh Kim Cương có nói rằng: Chỗ nào có hình tướng là chỗ đó có sự đánh lừa (*). Chỉ có tuệ giác mới giúp chúng ta được tự do và giúp chúng ta không bị đánh lừa bởi hình tướng đó.

Nhà bác học Einstein có nói rằng: Nếu có một tôn giáo nó có thể đi đôi được với khoa học thì tôn giáo đó là Phật giáo. Chúng tôi thấy rằng khi chúng ta học khoa học cho đến nơi đến chốn thì chúng ta có thể hiểu Phật giáo sâu sắc hơn. Ví dụ như khi đọc Kinh Hoa Nghiêm, quý vị sẽ thấy quan điểm: Một là tất cả, tất cả là một (nhất tức nhất thiết, nhất thiết tức nhất) **. Bây giờ chúng ta nhìn vào khoa sinh vật học chúng ta thấy khoa học bây giờ có khả năng lấy một tế bào trong cơ thể và làm ra một cơ thể khác y hệt như tế bào cha, đó gọi là cloning. Trong cơ thể chúng ta có hai loại tế bào, tế bào mầm và tế bào sinh dưỡng. Chúng ta lấy bất cứ một tế bào sinh dưỡng nào, rồi ta bỏ đói nó chừng hai ba ngày thì nó sẽ trở thành một tế bào mầm và khi đó chúng ta lấy một cái trứng trong buồng trứng của một phụ nữ, nạo hết cái nội dung ra, rồi chúng ta đặt tế bào mầm này vào trong cái vỏ trứng đó và chúng ta cho một luồng điện đi ngang qua thì nó khép lại. Chúng ta gửi cái trứng đó vào trong tử cung của một người phụ nữ để nuôi, sau chín tháng thì đứa con được sinh ra, nó là một bản sao y hệt của tế bào cha.

Sinh sản như thế gọi là sinh sản theo dòng vô tính. Nếu chúng ta lấy ra một ngàn tế bào thì chúng ta có thể làm ra một ngàn đứa bé. Gia tài di truyền đó đồng nhất với gia tài di truyền của người gốc. Chúng ta thấy rất rõ mỗi tế bào của cơ thể nó chứa đựng tất cả những tế bào khác, chỉ cần bất cứ một tế bào nào trong cơ thể thì chúng ta có thể làm một con người toàn vẹn. Điều đó chứng minh: Cái một chứa đựng cái tất cả. Chúng ta đã từng nghe rằng, mỗi tế bào của chúng ta chứa đựng tất cả những dữ kiện, tất cả những gia sản di truyền của tất cả các thế hệ cha ông của chúng ta. Nếu có một máy đọc tinh vi chúng ta có thể có đủ những dữ kiện về các thế hệ của tổ tiên chúng ta, tất cả những dữ kiện đó chỉ cần nhìn trong một tế bào. Vì vậy giáo lý Hoa Nghiêm gọi cái một chứa đựng tất cả, nó đã được khoa học hiện giờ chứng minh, xác định được. Điều đó cho ta thấy tôn giáo không có nghĩa là trái, chống với khoa học kỷ thuật.

Tôi đã từng giảng dạy trong những đại hội của người Cơ đốc giáo và tôi đã khuyến cáo, đã khuyên những nhà thần học nên hiện đại hóa cách giảng dạy và cách thực tập. Tôi nói rằng: Cái mà quý vị gọi là Thiên Quốc, có thể có mặt ngay trong giây phút hiện tại. Đó là tôi căn cứ trên truyền thống đạo Phật. Những mầu nhiệm của sự sống chúng ta có thể tiếp xúc được trong giây phút hiện tại. Tôi có nói rằng, anh không cần phải chết đi mới đi vào Thiên Quốc được mà theo nguyên tắc, anh sống anh mới có thể đi vào trong Thiên Quốc. Với năng lượng của niệm, của định, anh bước một bước, anh có thể đi vào trong Thiên Quốc ngay trong giây phút hiện tại. Các nhà lãnh đạo Cơ đốc giáo nếu muốn cho người thanh niên, những người trẻ không bỏ nhà thờ đi như họ đã và đang làm thì phải cung cấp giáo lý và sự thực tập nào đó để giúp cho người đương thời có thể tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống trong giây phút hiện tại để có được Thiên Quốc ngay bây giờ và ở đây thì thanh niên họ mới không đi tìm hạnh phúc ở chiều hướng của ma túy, của danh lợi, của quyền hành, của sắc dục.

Ở trong thánh kinh có nói về một câu chuyện của một người nông dân khám phá ra được một kho tàng trong một thửa ruộng, rồi về bán hết tất cả mọi thứ khác của mình để mua cho được cái thửa ruộng đó, tại vì anh thấy thửa ruộng đó là quý giá nhất. Ở đây cũng vậy, khi khám phá ra tất cả những mầu nhiệm của sự sống, khám phá ra Tịnh Độ và Niết Bàn là những gì có mặt ngay trong phút hiện tại thì mình có thể buông bỏ tất cả những cái khác như danh vọng, sắc dục và uy quyền. Nếu chúng ta có thể cung cấp được những giáo lý và phương pháp thực tập giúp cho con người sống được hạnh phúc trong giây phút hiện tại, có cơ hội chế tác trí tuệ và tình thương, khi đó hạnh phúc lớn lắm thì mình có thể buông bỏ được tất cả những đối tượng của tham đắm, của quyền hành và của dục vọng. Có những vị lãnh đạo của Cơ Đốc giáo thấy được giá trị của sự thực tập đó và họ đã đi theo.

Tôi nghĩ, nó tùy thuộc theo cách mình thấy mà thôi, cái đó có thể là tôn giáo, là mê tín nhưng nếu mình có thể có một nhận thức sâu sắc hơn nhờ có tuệ giác thì mình biết đó là một thực tại hiện thực và rất khoa học. Cũng như là khi tôi nói với những người Tây phương về bàn thờ ông Địa ở Việt Nam. Mỗi khi chúng ta đến đất mới chúng ta phải cúng đất đai. Tôi giải thích cho các bạn Tây phương rằng trong văn hoá Việt Nam khi đến một vùng đất mới, chúng tôi phải chứng tỏ sự cung kính, muốn hòa bình với vùng đất đó thì chúng tôi thiết lập bàn thờ ông Địa và cam kết rằng mình sẽ sống như thế nào để tôn trọng, để bảo tồn được đất và nước ở vùng đó. Bàn thờ ông Địa này không phải là mê tín mà là một hành động cam kết sẽ tôn trọng sinh môi, sẽ không để cho vùng này bị ô nhiễm, bị phá hoại.

Người Tây phương và thế hệ trẻ ngày nay họ chấp nhận một cách rất trân quý việc thiết lập bàn thờ ông Địa. Ban đầu quý vị có thể nói rằng thờ ông Địa là một hành động mê tín nhưng nếu chúng ta chuyển hướng nhận thức của chúng ta thì thờ ông Địa là một hành động rất hiện đại, một lối sống rất đẹp đẽ và rất ý nghĩa. Vậy ông Địa là gì? Là sự có mặt của tinh thần trách nhiệm, là sự tôn trọng sinh môi, hoàn cảnh mà chúng ta đang sống. Đời nay, phần đông chúng ta đang đi ngược lại lối sống đẹp đẽ đó, chúng ta đang phá hoại môi sinh của chúng ta, đang làm ô nhiễm môi sinh của chúng ta và như vậy chúng ta đang không thờ ông Địa.

Thờ ông Địa là phải kính trọng đất nước và hoàn cảnh trong đó mình sống. Mình phá rừng, mình làm cho ô nhiễm sông hồ tức là mình không có niềm kính trọng đó. Tổ tiên chúng ta thiết lập bàn thờ ông Địa nghĩa là tổ tiên chúng ta đã có ý muốn tôn trọng sinh môi, muốn giữ gìn vùng đất, nước và những khu rừng này. Thành ra tùy theo cách mình nhìn, cái đó là cái gì rất mê tín hay là cái gì rất khoa học, tất cả đều do tâm của mình, tất cả đều do nhận thức của mình hết.

Hỏi: Khi nói đến đạo Phật là nói đến sự giác ngộ, đến tuệ giác, đến trí tuệ. Điều ấy có nghĩa là đạo Phật không chấp nhận những vấn đề mê tín dị đoan. Vậy thì theo Thiền sư hiện nay chúng ta có cách nào tốt nhất để khắc phục hiện tượng mê tín dị đoan trong chùa, trong lễ hội và kể cả trong thờ cúng tổ tiên.

Thiền sư Nhất Hạnh: Câu hỏi này quan trọng lắm, thuộc về vấn đề giáo dục. Cái mê tín hôm nay có thể trở thành cái không mê tín của ngày mai. Trước hết, khi đi vào chùa thấy tượng Phật, mình thắp hương, mình vái, mình xá tượng Phật, đó cũng có thể là mê tín rồi. Theo tuệ giác của đạo Phật, Phật tức là khả năng hiểu và thương, đại từ, đại trí, đại bi, còn cái tượng kia đâu phải là Phật mà chỉ là một biểu tượng, một cái gì bằng đồng thôi. Thường những người mới bắt đầu thực tập nghĩ rằng Phật ở ngoài mình nhưng nếu thực tập cho giỏi và có người hướng dẫn đàng hoàng thì trong một thời gian ngắn sẽ thấy Phật nằm ở trong tâm. Nhưng mà luôn luôn phải bắt đầu, bằng chỗ mới bắt đầu. Ban đầu thấy Phật ở ngoài, ở trên bàn thờ, rồi sau đó mới thấy Phật ở trong tâm thì đối với những người kia cũng vậy.

Chúng ta biết rằng khi mà chúng ta có bàn thờ tổ tiên, chúng ta phải thắp hương và thắp hương như vậy không có nghĩa là tổ tiên ngồi trên bàn thờ. Khi chúng ta thắp hương như vậy, chúng ta có cơ hội tiếp xúc với tổ tiên ở trong từng tế bào của cơ thể. Cái đó rất khoa học nhưng người ta nhìn vào có thể thấy đó như là mê tín. Chúng ta biết rằng theo truyền thống văn hóa chúng ta thì tổ tiên chúng ta có quyền biết được những gì đang xẩy ra cho con cháu. Khi gả con gái cho một anh chàng ở bên làng bên thì chúng ta phải cáo với tổ tiên, làm mâm cúng hoặc trái cây hoặc cái gì đó. Chúng ta phải thắp hương và khấn: Xin cáo với tổ tiên là chúng con mới vừa hứa gả con gái cho cái anh chàng ở bên làng bên. Theo truyền thống, tổ tiên phải được biết điều đó. Khi khấn như vậy tức là chúng ta nói với tổ tiên ở trong tế bào cơ thể, chứ không phải tổ tiên đang ngồi trên bàn thờ như là một thực tại ở ngoài. Ở ngoài hay trong là tùy theo trình độ, kiến thức, tuệ giác của từng người mà thôi. Có những người họ chưa đạt tới cái thấy như vậy, chúng ta phải tìm cách để đưa họ đi từ từ, từ chỗ thấp đến chỗ cao, chứ đừng vội nói với họ cái đó là mê tín.

Ví dụ như tục đốt vàng mã, áo quần bằng giấy cho người chết, chúng ta có thể nói đó là mê tín, vì làm thế nào để đốt cái áo đó rồi gởi xuống một cõi khác mà người ta có thể mặc được? Nhưng chúng ta phải thấy giá trị văn hóa ở trong hành động đó. Chúng ta phải thấy rằng niềm tiếc thương của mình đối với người chết, đối với người đã khuất khiến mình biểu lộ tình thương đó dưới những hình thức này hay hình thức kia, trong đó có hình thức cúng tiền giấy và cúng áo quần giấy. Tôi có viết đoản văn Bông Hồng Cài Áo, nói về tình mẹ, tình cha. Tôi nói với những người trẻ rằng: Đến ngày rằm tháng bảy, mình có thể in tập này ra và tổ chức những buổi lễ Bông Hồng Cài Áo.

Những buổi lễ Bông Hồng Cài Áo của chúng tôi tổ chức như thế này: Người nào còn mẹ được cài bông hoa màu hồng còn những người nào mất mẹ được cài một bông hoa màu trắng. Khi được cài một bông hoa màu hồng thì mình rất hãnh diện vì mình còn có mẹ và hạnh phúc của mình rất lớn. Còn khi được cài một bông hoa màu trắng thì mình ý thức rằng tuy mẹ của mình đã mất rồi nhưng mình có cơ hội để nhớ mẹ. Buổi lễ đó gọi là lễ Bông Hồng Cài Áo, phát xuất từ một đoản văn của chúng tôi viết tại Princeton năm 1962 và đã thành một truyền thống rồi. Hiện giờ ở các nước, nhất là ở Việt Nam đang thực tập lễ đó. Khi thực tập như vậy, chúng ta có cách thức biểu lộ tình thương của chúng ta một cách hiện đại hơn mà chúng ta khỏi phải đi mua giấy tiền vàng bạc gì cả. Cả hai đều có giá trị văn hóa là tưởng nhớ đến người thương. Một bên tổ chức cái lễ rất là trẻ, rất là văn nghệ, rất là hay còn bên kia phải đi mua giấy vàng bạc, mướn người làm áo quần bằng giấy để đốt. Chúng ta phải nhớ rằng cả hai đều có giá trị văn hóa. Nếu chưa tìm ra được những phương tiện khác để biểu lộ được tình cảm đó thì chúng ta chớ vội chấm dứt cái kia. Khi tổ chức được lễ Bông Hồng Cài Áo rồi thì chúng ta có thể khuyên rằng thay vì đốt tiền giấy với vàng mã, chúng ta làm cái lễ này. Nhưng các bạn nên nhớ, khi chưa cống hiến được cho họ những phương tiện để biểu lộ thứ tình cảm cao đẹp đó thì chúng ta đừng chấm dứt những cái kia. Chính những cái kia nuôi dưỡng được tình nghĩa, tuy là mê tín nhưng có giá trị văn hóa ở trong đó. Chúng ta phải rất cẩn thận mới được, nếu không, chúng ta chấm dứt truyền thống ân nghĩa của chúng ta thì đó là một thiệt thòi lớn. Nói đến vấn đề giáo dục quần chúng cho khéo thì chúng ta phải giúp cho người ta đi từ chỗ thấp đến chỗ cao từ từ.

Nhân đây tôi xin nói một câu chuyện vui là, trong thiền học có câu như thế này: Trước khi tôi tu thiền thì tôi thấy núi là núi, sông là sông. Trong khi tôi tu thiền, tôi thấy núi không là núi nữa, sông không là sông nữa. Sau khi tôi tu đã tạm vững rồi, tôi thấy núi lại là núi, sông lại là sông ***. Câu nói đó rất là ngộ nghĩnh, nó là biện chứng pháp của Phật học, của thiền học. Vì sao? Khi nhìn vào đứa con và mình nói đây là đứa con tức là mình chưa thấy được đứa con. Nếu nhìn vào đứa con, mình thấy người cha trong đứa con thì lúc đó mình bắt đầu thấy được đứa con. Cũng như khi nhìn vào đám mây mà chỉ thấy mây là đám mây thôi thì chưa chắc mình đã thấy được đám mây. Nhìn vào đám mây, phải thấy được nước sông, nước hồ và sức nóng của mặt trời thì mới bắt đầu thấy được đám mây. Nhìn vào đám mây, thấy được cơn mưa, lúc đó mình mới thấy được đám mây sâu sắc hơn vì mình đã nhìn bằng con mắt vô tướng. Ở trong Kinh Kim Cương có những câu không thể hiểu được, nếu không đặt câu đó dưới ánh sáng của biện chứng pháp Phật giáo: Cái mà tôi gọi là vị Bồ Tát, đó không phải là vị Bồ Tát thì mới thật sự là một vị Bồ Tát. Khi nhìn vào sông, thấy núi ở trong đó mới thấy sông một cách đích thực. Khi nhìn vào núi thấy sông ở trong núi, lúc đó mới thấy núi một cách đích thực. Khi nhìn vào đứa con mà thấy người cha trong đó, lúc đó mới thấy đứa con được rõ ràng và thấy được cái tự tính của đứa con.

Khi nhìn vào kẻ thù mà thấy được người bạn, một người bạn tương lai vì trong kẻ thù đó có thể có hạt giống của người bạn và nếu mình có thể tưới tẩm hạt giống người bạn ở trong người kẻ thù kia, kẻ thù kia sẽ tan biến để mình có một người bạn. Cái đó rất là mầu nhiệm. Một đứa con hư thường mình chỉ thấy cái hư của nó thôi chớ không thấy được cái tốt của đứa con nhưng nếu mình biết cách tưới tẩm hạt giống tốt trong nó thì từ một đứa con hư sẽ trở thành một đứa con tốt.

Vì vậy nguyên tắc đồng nhất **** là trở ngại rất lớn cho nhận thức của chúng ta. Khi chúng ta đưa ra một nhận xét, nhận xét đó có thể gọi là chính đề. Chúng ta nhìn cho kỹ thì có sự mâu thuẫn trong chính đề đó, tức là phản đề. Chính phản đề đó giúp cho chúng ta thấy chính đề rõ ràng hơn trong hình thái tổng hợp đề đó, cứ như vậy, chúng ta càng thấy được sâu hơn trong bản chất của sự thật. Mâu thuẫn dẫn đạo sự đi tới là như vậy. Trong cái A có thể thấy được cái phi A, cho nên chúng ta thấy được chiều sâu của cái A, chúng ta không có bị kẹt vào cái tướng. Con mắt vô tướng là như vậy.

 


 

* Kinh Kim Cang,- “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng” – phàm cái gì có hình tướng đều là hư dối. Nguyên câu: “Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng. Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai”.

** Nhất tức nhất thiết, nhất thiết tức nhất – Có thể nói, đây là mệnh đề tóm tắt toàn bộ yếu nghĩa kinh Hoa Nghiêm. Yếu nghĩa ấy nói về sự tương quan tương duyên chằng chịt của tất cả mọi sự vật trong vũ trụ. Sự vật này tức là sự vật kia, sự vật kia tức là sự vật này; một sự vật có mặt trong tất cả mọi sự vật, tất cả mọi sự vật có mặt trong một sự vật; một sự vật tức là tất cả các sự vật, tất cả các sự vật tức là một sự vật. Nguyên lý duyên khởi cho ta thấy rằng, một sự vật không thể tự nó có mặt, mà đã do vô số các sự vật khác, không phải là nó, hợp lại cấu thành

*** Thiền sư Thanh Nguyên Duy Tín (Trung Hoa) – Sau khi ngộ đạo đã tuyên bố: Lúc chưa tu ông thấy núi chỉ là núi, sông chỉ là sông. Sau ông nhập đạo tu hành: ông thấy núi không phải là núi, sông không phải là sông. Nhưng đến khi giác ngộ: ông lại thấy núi vẫn là núi, sông vẫn là sông.

**** Nguyên tắc đồng nhất trong logic cổ điển Tây Phương (logic Aristotle), the principle of identify – Phát biểu như sau: “cho tất cả x, x = x”. Tạm diễn dịch: Mọi sự vật luôn luôn đồng nhất với nó. A là A chứ không thể là cái gì khác-A.

Mối quan tâm tối hậu

Khoảng ba tuần trước tôi có tiếp một ký giả của báo The Guardian tại Thất Da Cóc. Vị ký giả này hỏi tôi về vấn đề sinh môi vì ông hay viết về vấn đề sinh môi cho tờ báo The Guardian:

“Tại sao các nhà doanh thương lớn không làm gì cả để cứu hộ sinh môi? Họ là những người có quyền lực, có nhiều tiền, nếu họ tham dự vào vấn đề bảo hộ sinh môi thì đỡ biết mấy. Cho tới bây giờ, các nhà doanh thương lớn đóng góp quá ít vào vấn đề bảo hộ sinh môi”.

Thay đổi quan niệm về hạnh phúc

Tôi trả lời rằng không phải là các nhà doanh thương không biết vấn đề đang xảy ra. Họ biết chúng ta đang ở trong tình trạng nguy ngập. Có thể là họ cũng đang muốn làm cái gì đó để giúp cho địa cầu và loại người thoát khỏi tình trạng hiểm nguy. Họ là những người thông minh và họ có đủ thông tin. Không phải là họ không muốn làm, nhưng có thể là họ đang bị kẹt vào tình trạng không thể làm được. Những nhà doanh thương cũng có những khó khăn, những khổ đau trong đời sống hằng ngày cũng như trong tâm lý của họ.

Tuy họ có nhiều tiền, nhiều quyền lực nhưng tiền bạc và quyền lực không giải quyết được những bức xúc, khổ đau, trăn trở của nhà doanh thương. Họ có những nỗi khổ niềm đau, họ lúng túng trong đó không ra được nên họ không làm được gì để giúp chúng ta. Họ biết rất rõ về tình trạng của sinh môi, nhưng họ bị kẹt trong thế của họ, trong những bức xúc, khổ đau và trong quan niệm của họ. Các nhà doanh thương thường xử sự theo quan niệm: Nếu có nhiều tiền bạc, quyền hành thì mình sẽ có nhiều phương tiện để có hạnh phúc và giúp đời. Ta làm giàu không phải cho riêng ta mà để có công ăn việc làm cho những người khác. Sự thành công của doanh nghiệp là một sự thành công chung, cung cấp được việc làm cho nhiều người, làm cho mình và làm cho người có hạnh phúc. Nhà doanh thương cũng có lý tưởng của họ.

Tuy nhiên quan niệm về hạnh phúc đó có thể là một chướng ngại, không phải vì có công ăn việc làm mà ta có hạnh phúc. Nhiều người, ví dụ như các thầy tu, không có công ăn việc làm, không có lương tiền, không có nhà riêng, xe riêng nhưng họ không khổ đau gì mấy. Nghĩ rằng công ăn việc làm là điều kiện của hạnh phúc là không đúng lắm. Chính các nhà doanh thương, dù có biết bao nhiêu là tiền bạc, quyền hành nhưng họ cũng vẫn đau khổ. Các nhà doanh thương phải thay đổi quan niệm về hạnh phúc của họ.

Làm thế nào để họ thay đổi? Anh phải viết một bài báo để các nhà doanh thương thay đổi quan niệm của họ nhưng viết một bài báo thôi cũng chưa đủ, chúng ta phải làm thế nào để các nhà doanh thương nếm được mùi vị của hạnh phúc. Chỉ khi nào nếm được mùi vị của hạnh phúc đích thực, họ mới đi theo con đường đó. Còn nếu ta nói rất hay về con đường hạnh phúc mà người kia chưa nếm được mùi vị  của hạnh phúc đó thì người kia cũng chưa bỏ được cái mà họ đang theo đuổi.

Chúa Jesus nói với những người đánh cá: “Các bạn đừng giăng lưới vớt cá nữa, hãy theo tôi, đi giăng lưới vớt người”. Chúa Jesus cho những người đánh cá một lý tưởng. Từ trước đến nay, người đánh cá nghĩ phải bắt được nhiều cá mới có hạnh phúc. Jesus cho họ một lý tưởng mới: “giúp được nhiều người thì có hạnh phúc hơn”. Và những người đánh cá đã bỏ nghề để theo Chúa. Lúc đó Chúa Kito còn rất trẻ nhưng đã có thể mở đường cho họ. Họ thấy rằng đây là con đường hạnh phúc và họ đã buông bỏ tất cả để được nhẹ nhàng mà giúp đỡ người khác.

Các doanh nhân cũng vậy, họ nghĩ rằng có tiền, có quyền hành là có hạnh phúc và có thể giúp đời. Trong khi họ không có hạnh phúc và những nhân viên của họ cũng không có hạnh phúc. Là một có thực tập ta biết thế nào là hạnh phúc chân thật. Chúng ta biết thở cho có bình an và hạnh phúc. Chúng ta tới đây để học phương pháp đó. Ai cũng thở, nhưng là một hành giả thì chúng ta phải học thở như thế nào để trong khi thở vào ta thấy mình vẫn còn sống, mà sự sống đã là một màu nhiệm. Chỉ cần thở vào, thở ra là ta có đủ hạnh phúc rồi. Ta không nói suông về hạnh phúc.

Tôi sợ nếu anh chỉ viết một bài nói về hạnh phúc thôi thì sẽ không giúp được cho người đó. Anh phải làm thế nào để người đó thực sự nếm được hạnh phúc. Từ bãi đậu xe tới văn phòng, nếu người doanh nhân biết đi thiền hành thì ông sẽ ngưng mọi suy nghĩ. Ông theo dõi hơi thở, để ý tới bước chân. Ông đi như thế nào để mỗi bước có an lạc, thảnh thơi, hạnh phúc; ông tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống trong giây phút hiện tại. Chuyện này người doanh nhân có thể làm được nếu ông học pháp môn chánh niệm.

Nếu anh (ký giả) giúp cho những nhà doanh nhân nếm được sự thảnh thơi, an lạc đó thì họ mới bỏ con đường bây giờ của họ để tìm con đường khác, cũng như những người đánh cá đã bỏ nghề đánh cá để theo Chúa Jesus đi giúp người. Chỉ khi nào nếm được mùi vị hạnh phúc thật sự, ta mới hiểu ra là có một cách sống khác hơn, khỏe hơn, nhẹ hơn, hạnh phúc hơn và ta có can đảm bỏ được lối sống hiện tại, trước hết là buông bỏ được ý niệm về hạnh phúc của mình.

Có thể chúng ta vẫn tiếp tục làm doanh nhân nhưng làm doanh nhân một cách khác hơn. Nếu anh là một giám đốc doanh nghiệp có hạnh phúc thì nhân viên làm trong doanh nghiệp  của anh cũng có hạnh phúc. Anh không chỉ trả lương cho họ mà anh còn làm gương cho họ. Là một nhà doanh nhân có quyền lực nhưng anh vẫn có hạnh phúc. Anh có thời gian để thở, để đi, để có mặt với những người thương, anh có khả năng xử lý những nỗi khổ niềm đau của mình để được nhẹ nhàng hơn. Chúng ta đi làm không phải chỉ để có lương mà chúng ta phải có hạnh phúc.

Hãy sắp xếp  để mỗi ngày chúng ta có một giờ đồng hồ thực tập thiền buông thư.

Đã khi nào chúng ta nhìn thấy hình ảnh của một giám đốc doanh nghiệp ngồi hướng dẫn thiền buông thư cho 600, 800 nhân viên của mình chưa? Đó là một hình ảnh rất đẹp, đó chính là đạo Phật đi vào cuộc đời. Doanh thu lợi nhuận không phải là mối quan tâm hàng đầu của giám đốc mà là hạnh phúc của chính ông và của nhân viên công ty.

Không hẳn là phải cạo đầu, mặc áo người tu thì ta mới tu được. Là một doanh nhân ta cũng có thể tu được. Trong thời đại này, người ta xem thời gian là tiền bạc, vì vậy ngồi hai giờ đồng hồ không làm gì là ném tiền ra cửa sổ. Thời gian là để làm ra tiền, tại sao ta để hai giờ ngồi không không làm gì cả? Nếu đi rờ rờ từng bước thì tốn thời gian vô cùng. Tại sao phải ngưng suy nghĩ, ta phải suy nghĩ để tìm trăm phương ngàn kế để kiếm thêm tiền.

Anh (ký giả) phải viết bài như thế nào đề các những người doanh nhân có thể thay đổi được quan niệm sống của họ. Các thầy, các sư cô Làng Mai mỗi ngày ngồi thiền, đi chậm chậm như vậy nhưng họ làm việc rất nhiều. Họ tổ chức khóa tu này rồi tới khoa tu kia ở khắp nơi. Nhưng nếu không có những buổi ngồi thiền, những buổi thiền hành, những buổi làm mới, nếu không có những phương pháp chế tác hỷ và lạc, nếu không biết cách xử lý những nỗi khổ niềm đau của mình thì họ đã không làm được những công việc kia.

Câu trả lời là chúng ta phải làm sao cho doanh nhân nếm được hạnh phúc thật sự thì họ mới thay đổi được tư duy và nếp sống của họ. Họ vẫn có thể tiếp tục kinh doanh, nhưng theo chiều hướng tốt đẹp hơn.

Mối quan tâm tối hậu

Trong thời của Bụt cũng có những doanh nhân tìm tới Bụt để nghe pháp thoại và thực tập. Trong số đó có một người tên Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ông đã cúng dường khu vườn mua được của thái tử Jeta ở thủ đô Savatthi để làm một trung tâm tu học cho các thầy.

Cấp cô độc đã có rất nhiều hạnh phúc khi là một doanh nhân. Ông cũng rất hạnh phúc khi yểm trợ cho Bụt và tăng đoàn. Ông cũng có một gia đình hạnh phúc. Ta có thể nói ông là một doanh nhân gương mẫu. Ông rất giàu và rất hào phóng. Ông giúp những hoàn cảnh khó khăn như: cô nhi, quả phụ, những người già cả, túng thiếu, cô độc không có nơi nương tựa. Vì vậy người ta đặt cho ông tên là Cấp Cô Độc (tức là cấp dưỡng cho những người cô độc, neo đơn). Ông có rất nhiều bạn là doanh nhân, mỗi khi bạn ông gặp khó khăn thì ông đều giúp đỡ. Có một lần doanh nghiệp của ông bị phá sản nhưng ông không khổ. Bạn bè ông đã giúp ông gây dựng lại sự nghiệp. Ông được người dân thương yêu hết mực. Ta có thể gọi ông là một doanh nhân kiểu mẫu.

Qua những bài pháp của Bụt nói cho Cấp Cô Độc, ta biết rằng ngay trong thời Đức Thế Tôn, Ngài đã đưa ra những giáo lý rõ ràng, chuẩn xác để dạy giới cư sĩ, trong đó có giới doanh nhân. Khi dạy cho cư sĩ, Đức Thế Tôn dạy rất thực tế tại vì cư sĩ có mối quan tâm khác hơn mối quan tâm của người xuất sĩ. Người xuất sĩ bỏ hết sự nghiệp, gia đình để đi tìm cái tối hậu hơn. Đó là cái thảnh thơi hoàn toàn. Mối quan tâm của người xuất sĩ, ta có thể gọi là mối quan tâm tối hậu (ultimate concern).

Mối quan tâm của người đời là làm sao để có sức khỏe, để làm ăn thành công, trong gia đình không có xào xáo, làm sao để hạnh phúc và sự an ninh của mình được kéo dài, làm sao để mua bán không lỗ lã. Đó là những mối quan tâm thường nhật rất con người, nhưng không phải là mối quan tâm tối hậu. Mối quan tâm tối hậu là những câu hỏi như: Ta là ai? Ta sinh ra đời làm chi cho khổ như vậy? Ta có con đường thoát ra hay không? Ta có thể đạt tới sự thảnh thơi, tới Niết bàn hay không? Ta có thoát khỏi được thân phận luân hồi sinh tử hay không? Là người xuất gia, ta thường có mối quan tâm tối hậu đó. Biết được mối quan tâm của người cư sĩ, Đức Thế Tôn cho họ một thứ giáo lý khác. Trong những bài thuyết pháp Đức Thế Tôn dạy cho Cấp Cô Độc, ta biết rất rõ là có một giáo lý đặc biệt dành cho cư sĩ.

Lúc mới thành đạo, Đức Thế Tôn giảng dạy phần lớn cho những xuất sĩ của nhiều tông phái. Thời đó đã có vài bộ Áo Nghĩa Thư đã ra đời. Trong Bà la môn giáo, đời sống của một người Bà la môn có nhiều giai đoạn, từ nhỏ tới 8 tuổi thì ở nhà với cha mẹ.

  • Phạm hạnh (brahmacārin)

Khi được 8 tuổi người Bà la môn đi theo thầy học kinh Vệ Đà, học lời nguyện cầu và lễ nghi trong 12 năm, cho tới năm 20 tuổi. Đó là thời gian phạm hạnh, brahmacārin.

Ở Trung Quốc cũng vậy, học trò cũng chỉ học tôn giáo, học đạo Nho. Trong các trường đại tập ngày xưa ở Trung Quốc hay ở Việt Nam, chủ đề duy nhất để học là nho giáo, học và thi đàng hoàng thì được ra làm quan. Ở Tây phương ngày xưa trong các trường đại học lớn, người ta cũng chỉ dạy về Thiên Chúa giáo. Ở Ấn Độ cũng vậy, người trẻ đi học cũng chỉ được dạy về Bà la môn giáo, hay kinh Vệ Đà và Áo Nghĩa Thư. Ngày xưa trong các trường đại học người ta chỉ học về tôn giáo.

Trường đại học Nalanda, trường mà thầy Huyền Trang đã tới học vào thế kỷ thứ 7-8 thì môn học chính là Phật học, rồi sau thêm một ít các môn khác như y phương minh (dạy về y khoa), thanh minh (dạy về văn học), xảo minh (dạy về nghệ thuật), nhân minh (dạy về triết học). Bố của hòa thượng Minh Châu ngày xưa chỉ học về tư tưởng Khổng giáo trong đó có tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, và ông đã thi đậu tiến sĩ tức ông nghè. Tu thân là tu sửa thân tâm của mình, tề gia là làm cho gia đình có hạnh phúc, trị quốc là giúp cho nước và dân yên, bình thiên hạ là thiết lập hòa bình trong thiên hạ. Người ta chỉ học tôn giáo, thi đậu ra làm quan chứ không học các môn như kỹ thuật, hóa học, vi tính như bây giờ.

  • Gia chủ (grha-stha)

Đến năm 20 tuổi thì người Bà la môn bắt buộc phải cưới vợ, sinh con, lo sự nghiệp, lo chuyện ruộng đất, trâu bò, mùa màng, doanh nghiệp.

  • Lâm thê (vānaprastha)

Khi người này lớn tuổi thì rút lui đi vào rừng để sống khổ hạnh, bắt đầu học đạo, ngồi thiền, v.v…

  • Độn thế (sammyāsin)

Độn thế là lánh đời. Người Bà la môn bỏ tất cả (kể cả việc hoằng hóa), đi du hành, mặc áo thô, đoạn tuyệt tất cả mọi sự giao tiếp và sống thảnh thơi. Người này sống với tư cách của một vị phạm chí, một vị sa môn hay tức tâm (śramana), một vị khất sĩ (bhiksu) hay một du sĩ (pariprājaki).

Không phải chỉ trong đạo Bụt mới có những người đi xin ăn mà trong các giáo phái khác cũng có khất sĩ. Trong kinh có nói tới các vị khất sĩ lạ mặt tức những vị khất sĩ không thuộc về truyền thống đạo Bụt. Trong rừng có rất nhiều vị độn thế thuộc về nhiều truyền thống. Vào khoảng thế kỷ thứ 6 truớc Thiên Chúa giáng sinh các vị này sống rất đông trong rừng. Họ không còn tin nơi sự thờ cúng hay nơi thế lực của các vị thần linh. Họ tin rằng mình phải tự tu, phải tịnh hóa mới có thể chuyển hóa và đạt tới giác ngộ.

Những người sammyāsin này có mối quan tâm tối hậu. Họ không còn những mong muốn thông thường mà muốn đi tìm cái tuyệt đối, sự giải thoát, giác ngộ. Và khi họ tới với Bụt thì Bụt dạy cách khác, những điều Bụt dạy cho họ nằm trên bình diện của sự thật tuyệt đối tức thắng nghĩa đế (the ultimate truth), trong đó có vô ngã, Niết bàn, trung đạo. Nhưng đối với những người đang sống trong cuộc đời với những mối quan tâm thông thường thì Bụt dạy khác, Bụt sử dụng những sự thật nằm trên bình diện thế tục đế, trong đó có: ta khác với người, sinh khác với diệt, khổ khác với vui. Đức Thế Tôn đã sử dụng thế tục đế để dạy đạo cho người cư sĩ, nhưng Ngài dạy như thế nào để từ từ thế tục đế có thể dẫn người cư sĩ đi tới thắng nghĩa đế.

Hai loại sự thật đều có thể ứng dụng

Trên bình diện thế tục đế người cư sĩ cũng có thể học được Tứ Đế tức khổ, tập, diệt, đạo. Nhưng bốn đế khác nhau, khổ không phải là tập, tập không phải là diệt, diệt không phải là đạo. Ta có một mục tiêu (diệt) và một con đường (đạo) để tới mục tiêu, mà con đường không phải là mục tiêu. Nhưng xuống tới bình diện thắng nghĩa đế thì con đường và mục đích ta đi tới không phải là hai cái khác nhau. Ta không thể lấy đạo ra khỏi diệt hay lấy diệt ra khỏi đạo, không thể lấy Niết bàn ra khỏi con đường hay lấy con đường ra khỏi Niết bàn. Đó là thắng nghĩa đế. Tụng Tâm Kinh đã 30 năm nay thì chúng ta phải thấy được điều đó. Ta phải hiểu con đường và mục đích không phải là hai, ta không thể lấy cái này ra khỏi cái kia cũng như không thể tách mặt trái ra khỏi mặt phải của tờ giấy. Đó gọi là tương tức.

Nhưng nói như vậy không có nghĩa là thế tục đế sai. Thế tục đế là những sự thật mà ta có thể ứng dụng vào trong đời sống hằng ngày. Đầu khóa tu chúng ta đã được học rằng hiện nay người ta phân biệt ra hai nền khoa học: khoa học cổ điển, mà người đại diện là Newton và khoa học mới gọi là khoa học lượng tử.

Khoa học cổ điển đã đưa ra những định luật vật lý có thể áp dụng trong kỹ thuật và trong đời sống hằng ngày. Nhưng khoa học lượng tử đã khám phá ra những sự thật khác có vẻ như chống đối lại với những sự thật của khoa học cổ điển. Trong khoa học cổ điển, bất cứ vật nào cũng có vị trí chính xác của nó trong không gian và thời gian. Nhưng trong khoa học mới thì một vật có thể có mặt khắp nơi cùng một lúc. Chúng ta không thể nói điện tử nằm đúng ở chỗ đó hay trong thời gian đó. Nó có thể có mặt một lúc trong hiện tại, quá khứ, tương lai và có thể có mặt một lần ở khắp nơi. Nó có tính cách phi cục bộ (non locality). Chất điểm (elementary particle) có khi là một hạt và có khi là một đợt sóng. Hạt thì có một vị trí nhất định, còn đợt sóng thì không có một vị trí nhất định nào. Một điện tử, khi ta nhìn cách này thì nó có đặc tính của hạt nhưng khi ta nhìn cách khác thì nó có đặc tính của sóng. Trong khoa học mới có những quy luật mà ta có thể áp dụng được, tuy có vẻ như trái chống lại với những quy luật của khoa học cũ.

Không có con đường đi đến Niết bàn, Niết bàn chính là con đường

Trong đạo Bụt cũng vậy, trong bình diện sự thật ước lệ cũng có những sự thật có thể ứng dụng được. Nhưng đi sâu vào tiếp xúc với sự thật tuyệt đối thì ta tìm ra được những chân lý khác, và những chân lý khác đó ta cũng có thể áp dụng được. Ví dụ như ta đang ngồi đây, ta thấy chắc chắn là phía trên đầu ta là phía trên và dưới chân ta là phía dưới. Ta sẽ không đồng ý nếu có người nói ngược lại. Nhưng những người ngồi ở bên kia bán cầu thì thấy ngược lại: phía trên của ta là phía dưới của họ. Sự thật là không trên không dưới, cái dưới của anh là cái trên của tôi và cái dưới của tôi là cái trên của anh.

Chúng ta có thể áp dụng được cả hai loại sự thật. Nếu không áp dụng sự thật có trên có dưới thì ta không thể làm kiến trúc sư, vì ta phải xây tầng dưới trước rồi mới xây được tầng thứ hai. Nhưng sự thật không trên không dưới cũng có thể ứng dụng được. Ta cứ nghĩ là mình đi thẳng, thật ra là ta đi đường vòng rồi trở lại chỗ ban đầu của mình vì quả địa cầu tròn. Có hai loại sự thật mà loại nào ta cũng có thể ứng dụng được. Trong khóa tu này chúng ta phải rất cẩn thận, nghe một câu kinh hay một giáo lý ta phải có khả năng nhận diện câu kinh đó hay giáo lý đó thuộc loại sự thật nào.

Trên bình diện của sự thật ước lệ thì có khổ đau và hạnh phúc nhưng xuống bình diện của sự thật tuyệt đối thì khổ đau và hạnh phúc không thể tách rời nhau được. Cũng như ta không thể tách bùn ra khỏi hoa sen, lấy bùn đi thì cũng không còn sen. Trên bình diện sự thật tương đối ta có thánh và phàm, thánh thì khác phàm. Có người muốn thành thánh hoàn toàn nên muốn tiêu diệt chất phàm còn dư lại. Đó là cách suy tư và hành động theo tiêu chuẩn của sự thật ước lệ. Nhưng xuống tới bình diện sự thật tuyệt đối thì nếu không có chất phàm thì ta không thể nào làm ra chất thánh. Ta luôn luôn cần chất phàm để làm ra chất thánh. Không bao giờ ta có thể có 100% chất thánh mà không có chất phàm nào. Cũng như ta chỉ muốn có tay phải mà không có tay trái, nhưng hễ có tay phải thì có tay trái. Đó là luật tương tức, là cái thấy của bản môn: còn phàm thì còn thánh, hết phàm thì thánh cũng không còn.

Trên bình diện sự thật ước lệ thì diệt và đạo khác nhau nhưng xuống dưới bình diện sự thật tuyệt đối thì diệt (chỗ đến) và đạo (con đường) không phải là hai cái khác nhau. Ví dụ như chúng ta thường nói: There is no way to peace, peace is the way. Không có con đường đưa tới hòa bình, hòa bình chính là con đường. Ban đầu ta nghĩ có hòa bình và có một con đường đưa tới hòa bình, hòa bình khác với con đường. Đó là bình diện của thế tục đế. Xuống tới bình diện của thắng nghĩa đế thì hòa bình chính là con đường. Câu nói “không có con đường đưa tới hòa bình, hòa bình chính là con đường” rất quan trọng. Chúng ta phải áp dụng được câu nói đó thì mới có hòa bình thật sự. Tại vì nếu dùng những biện pháp bạo động, bá đạo để có hòa bình thì ta sẽ thất bại ngay từ trong trứng nước. Bất cứ một tư tưởng, một lời nói hay một hành động nào ta sử dụng cho hòa bình thì chính nó phải là hòa bình. Hòa bình chính là tư tưởng, là lời nói, là hành động của ta. Ta có hòa bình ngay trong giây phút hiện tại. Phương tiện và cứu cánh là một, không thể lấy phương tiện ra khỏi cứu cánh, cũng không thể lấy cứu cánh ra khỏi phương tiện. Đời sống của ta chính là hòa bình.

Niết bàn và con đường đi tới Niết bàn cũng vậy, trên bình diện thế tục đế ta thấy có Niết bàn và có con đường đi tới Niết bàn nhưng nhìn kỹ thì Niết bàn chính là con đường. Nếu ta thật sự sống theo Bát chánh đạo thì mỗi giây phút sống là Niết bàn. Ví dụ như từ Bordeaux đi Paris, nếu ở ga Saint Jean (Bordeaux) ta lên đúng xe lửa đi Paris thì lúc ta bước lên xe lửa đã là Paris rồi. Nhưng nếu lên nhầm xe lửa đi Marseilles thì ta sẽ không bao giờ tới được Paris. Paris nằm ở mọi điểm trên con đường Bordeaux-Paris, Paris có trong mỗi bước chân đi, còn như nếu ta đi ngược lại Paris-Bordeaux thì bước nào cũng là Bordeaux, Bordeaux hay Paris là tùy theo hướng của ta đi. Từ Bordeaux ta muốn đi Paris, nếu đi đúng hướng thì mỗi bước là Paris, còn nếu đi ngược hướng thì mỗi bước là Bordeaux. Vì vậy con đường và nơi đến là một. Nếu Bát chánh đạo được thực tập một cách đúng đắn thì mỗi giây phút đều có Niết bàn, mỗi giây phút đều có lắng dịu, thảnh thơi, an lạc, tự do. Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, v.v… nếu thực tập đúng thì mỗi giây phút đều là an lạc, hạnh phúc, tự do, lắng dịu. Đó là con đường, là Niết bàn. Con đường chính là Niết bàn.

Không có sự vật khách quan nằm ngoài tâm thức

Trên bình diện thế tục đế thì tâm và vật là hai cái khác nhau. Vì vậy chúng ta có môn sinh học để nghiên cứu về hình hài và môn tâm lý học để nghiên cứu về tâm. Hai ngành khác nhau, một ngành nghiên cứu về thân và một ngành nghiên cứu về tâm. Nhưng ở bình diện thắng nghĩa đế thì ta không thể lấy tâm ra khỏi vật. Trong Phật giáo Đại Thừa có hai hệ thống triết học: pháp tướng và pháp tánh.

Theo pháp tánh không tuệ học, tâm không có tự tánh riêng biệt, tâm được làm bằng những yếu tố không phải tâm, có nghĩa là trong tâm có thân, lấy thân ra thì không còn tâm. Thân cũng được làm bằng những yếu tố không phải thân. Cả thân và tâm đều không có tự tánh , svabhāva (own nature), tâm được làm bằng những yếu tố không phải tâm và vật được làm bằng những yếu tố không phải vật.

Đám mây hay ngọn núi kia, ta cho nó là vật, không có linh hồn. Ta suy nghĩ trên bình diện sự thật tương đối, ta phân biệt vật chất khác với linh hồn. Nhưng đi sâu xuống thì ta thấy khác. Pháp tướng tông nói rất rõ: Đám mây hay ngọn núi mà ta thấy đó, trước hết nó là đối tượng của tâm ý ta. Theo đạo Bụt thì pháp là đối tượng của tâm ý, pháp không có mặt độc lập ngoài tâm ý.

Tưởng hay tri giác có hai phần: sở tri và năng tri  能 . Một tri giác xảy ra chỉ trong một sát na, trong đó có chủ thể (năng tri) và đối tượng (sở tri). Khi thấy một vật ta đừng nghĩ là vật đó có ở ngoài. Triết học và khoa học đều đồng ý với nhau rằng: Rất khó có được vật ngoài tâm. Khoa học và triết học đều không chứng minh được có một sự vật khách quan nằm ngoài tâm thức. Duy thức học nói:

Thị chư thức chuyển biến

Phân biệt sở phân biệt

Do thử bỉ giai vô

Cố nhất thiết duy thức

Phân biệt là năng tri, sở phân biệt là sở tri. Tâm thức luôn luôn biểu hiện dưới hai mặt, năng tri (sujet) và sở tri (objet), và hai mặt cùng có đồng thời. Tây phương nói: Conscience est toujours conscience de quelque chose (ý thức thì luôn luôn phải ý thức về một cái gì). Có tâm thức là có đối tượng tâm thức. Vì vậy đám mây mà ta thấy, ta đừng cho nó là vật chất không có linh hồn, đám mây đó là tâm thức. Đó là cách nói của duy biểu học.

Từ từ khoa học cũng đã khám phá ra điều này. Ta đừng tưởng đám mây không có cái biết. Đám mây cũng có cái biết của nó, nó biết cách làm ra mưa, ra tuyết, nó có thể làm ra sấm sét. Cho rằng đám mây là vật chất vô tri là không đúng. Nhìn một hạt bắp ta thấy nó là vật chất hay là tinh thần? Ta ươm một hạt bắp trong 10 ngày thì hạt bắp bắt đầu nẩy mầm rồi làm ra lá bắp, cây bắp, hoa bắp và trái bắp. Hạt bắp có cái biết, vì vậy cho hạt bắp chỉ là vật chất thôi là không đúng. Các loài thực vật như bông hoa, cây cỏ đều có cái biết của nó. Cây kia biết làm ra bông hoa có màu sắc hấp dẫn để thu hút loài bướm, loài ong. Nếu không có bướm ong tới thăm thì nó không thể làm ra trái. Bướm ong tới thăm, đem nhụy của hoa đực tới nhụy của hoa cái để làm thành trái. Những loài hoa ăn thịt phát ra mùi thơm để lôi kéo ruồi muỗi. Ruồi muỗi tới bị dính vào, hoa úp lại rồi từ từ tiêu hóa con mồi để lấy chất bổ nuôi cây. Không có gì là không có tâm thức, vì vậy chúng ta phải rất cẩn thận. Trên bình diện sự thật tương đối thì ta phân biệt tâm và vật, khổ và vui, mục đích và con đường. Nhưng dưới bình diện sự thật tuyệt đối thì không có sự phân biệt. Tâm Kinh dạy chúng ta vượt thoát cái thấy của thế tục đế và đi sâu vào cái thấy của thắng nghĩa đế. Khoa học lượng tử hiện nay tìm ra được rằng những điện tử cũng có cái biết. Người ta gửi hai điện tử bạn đi hai hướng khác nhau cách xa hàng chục ngàn cây số. Nhưng những gì xảy ra cho điện tử này thì điện tử kia cũng cảm nhận được. Vì vậy phân biệt vật chất khác với tinh thần là một sai lầm.

Ngay đầu khóa tu chúng ta đã nói có hai loại khoa học. Hai loại khoa học này đã tìm ra được hai loại sự thật ứng dụng được vào đời sống. Trong khoa học hiện nay người ta đang tìm con đường để nối hai loại khoa học đó lại. Nhưng trong đạo Bụt thì đã có con đường, đó là con đường tùy thuận trí, dùng tuệ giác duyên sinh, tương tức và trung đạo để từ từ đưa người ta từ sự thật ước lệ tới sự thật tuyệt đối.

Bụt giáo hóa người cư sĩ bằng tuệ giác mà không phải bằng sự tín mộ

Đứng về phương diện những mối quan tâm thì ngay từ thời Bụt còn tại thế, Ngài đã cung cấp cho giới cư sĩ những sự thực tập rất căn bản. Có người cho rằng đạo Bụt là dành cho người xuất sĩ, còn cư sĩ thì chỉ cúng dường, yểm trợ để làm phước và thực tập tín mộ mà thôi. Điều này không đúng. Tín mộ là bhakti (devotion). Đọc kinh Bụt dạy cho ông Cấp Cô Độc, ta thấy rất rõ là người cư sĩ không chỉ thực tập tín mộ, Bụt dạy tự giác rất nhiều, còn tín mộ thì phát sinh ra sau này. Trong khóa tu này chúng ta sẽ học hai kinh dành cho cư sĩ. Hai kinh này là kinh Bụt giảng cho ông Cấp Cô Độc:

Kinh Người Áo Trắng

Hôm đó doanh thương Cấp Cô Độc tới thăm Bụt đem theo 500 nhà doanh thương. Ông tới thăm thầy Xá Lợi Phất trước. Giữa ông Cấp Cô Độc và thầy Xá Lợi Phất có một mối giao tình rất thân mật. Ngày ông từ trần chính thầy Xá Lợi Phất đã ngồi bên giường bệnh giúp cho ông ra đi một cách thoải mái, an lạc.

Ông Cấp Cô Độc lần đầu tiên gặp Bụt trong một chuyến đi giao dịch từ Sravasti tới Rajagaha. Hôm đó, Ông Cấp Cô Độc tới ở trọ nhà của người em dâu. Mỗi khi ông tới thì người ta tiếp đón niềm nở nhưng hôm đó thì người ta có vẻ lơ là với ông. Ông hỏi:

  • Nhà có đám cưới hay sao mà sửa soạn đẹp vậy? Sao tôi lại bị bỏ lơ vậy?

Người em nói:

  • Tụi em đang chuẩn bị để cúng dường Đức Thế Tôn, cúng dường Phật.

Nghe chữ Phật tự nhiên ông Cấp Cô Độc rúng động:

  • Phật ở đâu, cho tôi đi thăm đi.

Ông Cấp Cô Độc cũng có mối quan tâm tối hậu. Ông đã giàu, đã thỏa mãn và ông muốn tìm một cái gì đẹp hơn.

Người em nói:

  • Ngày mai Đức Thế Tôn và giáo đoàn sẽ tới đây  anh sẽ được gặp.

Nhưng tối đó ông Cấp Cô Độc không ngủ được, ông thức dậy và tìm đường tới chỗ Bụt ở tức vườn Trúc Lâm. Buổi sáng, khi còn sương mờ ông đã gặp được Đức Thế Tôn đang đi thiền hành. Hai người đã nói chuyện và ông đã trở thành một đệ tử rất thân thiết của Bụt. Chính ông đã mời Đức Thế Tôn về thành phố Sravasti và cúng dường sở đất mua được của thái tử Kỳ Đà để Đức Thế Tôn làm tu viện.

Ông xin Bụt cho phép một người đi với ông về xứ sở của ông để chuẩn bị cho Bụt tới viếng thăm và giáo hóa đất nước của ông. Và Bụt đã cho thầy Xá Lợi Phất đi tiền trạm để chuẩn bị cho chuyến du hành giáo hóa đầu tiên của Bụt tại thành phố Sravasti. Ông Cấp Cô Độc và thầy Xá Lợi Phất đã đi với nhau mấy tuần lễ từ thủ đô Rajagaha về thủ đô Sravasti nên họ đã nói chuyện nhiều với nhau và trở nên thân thiết.

Khi ông Cấp Cô Độc đem 500 doanh thương tới thì vào thăm thầy Xá Lợi Phất trước, rồi thầy mới dẫn mọi người vào gặp Bụt. Vì vậy trong kinh Người Áo Trắng thay vì nói “này ông Cấp Cô Độc” thì Bụt nói “này thầy Xá Lợi Phất”. Ý của Bụt là thầy Xá Lợi Phất phải giáo hóa người cư sĩ theo chiều hướng này (Này Xá Lợi Phất, thầy nên dạy giới cư sĩ thực tập theo phương pháp này), tại vì thầy Xá Lợi Phất được coi như cánh tay phải của Đức Thế Tôn. Thầy tổ chức sự tu học cho người cư sĩ và cho các thầy, các sư cô trong giáo đoàn xuất sĩ. Trong kinh thay vì gọi thẳng tên của nhà doanh thương thì Bụt gọi tên của thầy Xá Lợi Phất. Bụt nói:

Những người áo trắng không cần phải đi tìm cầu hạnh phúc trong tương lai. Họ có thể có hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại nếu họ thực tập theo những điều tôi chỉ dẫn.

Vì vậy cụm từ “hiện pháp lạc trú”, sống hạnh phúc trong giây phút hiện tại, (drshtādharmasukhavihara) xuất hiện sáu lần trong kinh. Ở thế kỷ của chúng ta, nhà doanh thương đi tìm hạnh phúc trong sự thành công của mình. Bụt dạy nhà doanh thương phải làm việc như thế nào để có hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại. Bụt muốn gửi gắm cho thầy Xá Lợi Phất phương pháp giáo hóa người cư sĩ, phải nói với họ là họ không cần phải tìm hạnh phúc trong tương lai. Điều này rất quan trọng, tại vì trong một kinh ngắn như kinh Người Áo Trắng mà cụm từ “hiện pháp lạc trú” được lặp lại sáu lần. Trong nhiều chùa, người xuất sĩ cũng như người cư sĩ đều không được học giáo lý quan trọng đó mà cứ đi tìm Niết bàn và giải thoát trong tương lai. Người ta đi tìm cái đích, còn con đường là một cái khác.

Bụt đưa ra hai phương pháp thực tập:

    • Thực tập năm giới
    • Thực tập bốn phép tùy niệm

Nếu một người áo trắng thực tập năm giới và bốn phép tùy niệm thì người đó sẽ có hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại. Trong kinh Đức Thế Tôn đã dùng danh từ thánh đệ tử 聖 弟, tức vị đệ tử có chất thánh (the aryan disciple). Không phải chỉ có người xuất gia mà người cư sĩ cũng có chất liệu linh thiêng, thánh thiện trong mình. Nếu ta thực tập theo năm giới và bốn phéo tùy niệm thì ta có chất liệu thánh trong con người của mình, ngay trong thời còn tại thế Bụt đã dạy như vậy rồi. Không phải chỉ có Đức giáo hoàng, Đức Dalai Lama hay các thầy các sư cô mới có chất thánh mà người cư sĩ cũng có chất thánh nếu người cư sĩ biết thực tập năm giới và bốn phép tùy niệm, tại vì năm giới bảo đảm sự tự do và an ninh của con người. Nếu đã từng thọ năm giới và sống theo năm giới thì chúng ta biết rằng năm giới bảo hộ cho ta và cho ta rất nhiều tự do, hạnh phúc. Hạnh phúc và tự do đó ta không cần phải đi tìm trong tương lai, nó có thể có ngay trong giây phút hiện tại.

Hơn nữa, nếu người thánh đệ tử áo trắng thực tập bốn phép tùy niệm tức niệm Bụt, niệm Pháp, niệm Tăng và niệm Giới thì sẽ làm tăng thêm chất thánh trong mình và người đó có hạnh phúc ngay lập tức. Cách giải thích của Bụt không có chút mê tín nào. Khi tâm ta chuyên chú vào những đối tượng cao đẹp như Bụt, Pháp và Tăng thì tâm của ta sẽ nhẹ nhàng, thư thái, hạnh phúc. Ta không suy nghĩ tới những chuyện tiêu cực, khổ đau, đam mê, giận hờn. Bốn phép tùy niệm tịnh hóa thân và tâm của mình.

Xin các thầy, các sư cô, các Phật tử cư sĩ đọc kinh Người áo Trắng cho biết phương pháp Bụt dùng để giáo hóa người cư sĩ. Bụt giáo hóa người cư sĩ bằng tuệ giác mà không phải bằng sự tín mộ. Một tôn giáo làm sao lớn mạnh và sống còn nếu chỉ có người xuất gia mà không có người cư sĩ? Người cư sĩ cũng có thể thực tập một cách sâu sắc.

Kinh giáo hóa người bệnh

Kinh kể lại giờ phút sắp chết của ông Cấp Cô Độc. Trong kinh chúng ta thấy một điều rất hay: Khi ông Cấp Cô Độc sắp từ trần thì thầy Xá Lợi Phất và thầy A Nan ngồi một bên. Thầy Xá Lợi Phất đã khôn ngoan dạy cho ông Cấp Cô Độc một sự thật không nằm trên bình diện của sự thật tương đối mà thuộc về bình diện của thắng nghĩa đế. Đó là sự thật không sinh không diệt, không tới không đi, không có không không, không còn không mất. Chỉ với tuệ giác đó thì người chết mới có thể ra đi nhẹ nhàng, thoải mái. Thầy Xá Lợi Phất đã khôn khéo cung cấp cho ông Cấp Cô Độc một bài thiền tập hướng dẫn. Trong vòng 30 phút ông Cấp Cô Độc đã tiếp thu được và thực tập thành công. Thầy Xá Lợi Phất đã hướng dẫn như thế nào để ông Cấp Cô Độc mở lòng ra, thấy được tự tánh không sinh không diệt, không có không không và ông được giải thoát ngay trong giây phút đó. Nước mắt của ông chảy ròng ròng. Thấy ông khóc thầy A Nan tưởng rằng ông còn tiếc nuối điều gì nên hỏi:

– Cư sĩ, tại sao ông khóc, ông còn tiếc nuối gì không?
– Tôi không tiếc nuối gì cả.
– Ông thực tập không thành công sao?
– Thưa thầy, tôi thực tập rất thành công.
– Vậy tại sao ông khóc?
– Thưa thầy, tôi khóc tại vì tôi cảm động quá. Tôi phụng sự đức Như Lai và tăng đoàn trên 30 năm nay mà chưa bao giờ tôi được nghe giáo lý thâm diệu, mầu nhiệm như vậy. Giáo lý không sinh không diệt, không có không không, không còn không mất làm cho tôi hoàn toàn không còn sợ hãi nữa.

Thầy A Nan ngây thơ nói: Cư sĩ, ông không biết chứ giáo lý này chúng tôi nghe hầu như mỗi ngày.

Trong ba tháng của mùa An Cư, trong buổi giảng tôi luôn luôn bắt đầu bằng những pháp môn thực tập trên bình diện của thế tục đế, rồi còn thì giờ tôi mới từ từ đi xuống bình diện của thắng nghĩa đế. Ngày xưa các thầy cũng dạy cho cư sĩ những phép thực tập đáp lại mối quan tâm thường nhật của họ. Nhưng đến khi họ chết thì những phép thực tập đó không đủ để giúp cho họ.

Sau khi nghe thầy A Nan nói như vậy, ông Cấp Cô Độc nói:

Bạch thầy A Nan, xin thầy về thưa lại với Đức Thế Tôn rằng những cư sĩ áo trắng như chúng con phần lớn đều rất bận rộn, họ có những mối quan tâm rất thường nhật. Nhưng cũng có một số chúng con có thể có khả năng tiếp nhận và thực tập được giáo lý vi diệu này. Sau khi thành công trong sự nghiệp chúng con cũng muốn được học giáo lý mà các thầy đã học. Người cư sĩ chúng con cũng có mối quan tâm tối hậu, tại vì chúng con rất cần nó trong lúc đi vào tình trạng sắp lìa đời. Chúng con cũng muốn biết mình sẽ đi về đâu.

Nương tựa Tam bảo – Tùy thuận trí

 

Đây là bài pháp thoại ngày 10.01.2013 tại thiền đường Hội Ngàn Sao, chùa Cam Lộ, xóm Hạ, Làng Mai
trong khóa An C
ư Kết Đông 2012-2013.



Quay về nương tựa nơi Tam Bảo

Trong đạo Bụt, đối tượng của sự quy y là Bụt, Pháp và Tăng. Chúng ta thường nghĩ là mình đã hiểu nhưng thật ra có lẽ ta chưa hiểu rõ thế nào là quy y Tam Bảo. Nếu thực sự quy y Tam Bảo thì ta sẽ có hạnh phúc ngay lập tức, ta không còn do dự hay nghi ngờ nữa và ta có rất nhiều năng lượng. Chúng ta phải hiểu rõ thế nào là Bụt, Pháp, Tăng thì ta mới có chỗ nương tựa đàng hoàng.

Sáng nay đại chúng đã tụng bài “Chắp tay búp sen“. Đây là một bài nương tựa Tam Bảo dành cho trẻ em. Tôi đã phải để cả năm mới viết xong bài này, tại vì viết một bài tụng cho trẻ em rất là khó, ngôn ngữ dùng phải đơn giản để các em có thể hiểu được. Khi làm xong tôi rất mừng. Trong bài có định nghĩa thế nào là Bụt, Pháp và Tăng.

Nếu so sánh với Tam Bảo của Phật giáo thì ta thấy Chúa Ba Ngôi của Thiên Chúa giáo khó hiểu hơn, trừu tượng hơn. Bụt, Pháp và Tăng là những cái gì rất cụ thể. Trong bài tụng viết cho thiếu nhi, Bụt được định nghĩa là một vị thầy chuyên dạy hai thứ là Hiểu và Thương. Chúng ta tự hỏi mình đã biết thương, biết hiểu chưa? Nếu biết hiểu và biết thương thì ta là một người có hạnh phúc. Nếu ta không có hạnh phúc, ta không thấy thoải mái trong đời sống hằng ngày là tại vì ta chưa biết hiểu, ta chưa biết thương. Bụt trước hết là một vị thầy dạy hiểu và thương và vị thầy này có rất nhiều phụ tá. Hiểu được cũng khó mà thương được cũng khó.

 

Hiểu và thương được mình trước khi hiểu và thương được người khác

Trước hết, ta phải hiểu được mình là ai. Ta phải hiểu được những yếu kém, những khổ đau, những bế tắc của mình. Ta cũng phải hiểu được luôn những yếu tố tích cực mà ta chưa bao giờ thấy trong ta. Muốn hiểu được, ta cần phải có rất nhiều công phu. Ta tưởng ta hiểu được mình rồi nhưng thực ra ta chưa hiểu được mình nhiều, hơn nữa đôi khi ta còn hiểu lầm. Ta chưa biết mình là ai. Ta chưa hiểu được nỗi khổ niềm đau, ta chưa thấy được giá trị của mình. Những điều Bụt dạy giúp cho ta hiểu được chính mình. Hiểu được thì ta sẽ chấp nhận được mình. Trong chúng ta có những người không chấp nhận được cha mẹ, dòng họ và không chấp nhận được chính bản thân mình tại vì họ không có khả năng hiểu.

Bụt dạy những phương pháp quán chiếu để chúng ta có thể hiểu được chính mình, để chúng ta có thể chấp nhận và thương được chính bản thân mình. Hiểu được mình, chấp nhận và thương được mình thì mới có thể nghĩ tới chuyện hiểu người khác, chấp nhận và thương người khác. Nếu không thì càng thương ta càng làm cho người kia khổ. Đáng lý ra thì tình thương phải mang lại hạnh phúc, nhưng trong phần lớn các trường hợp thì càng thương ta lại càng làm cho người kia khổ và ta cũng khổ theo. Đó không phải là tình thương. Vì vậy ta cần một vị thầy dạy ta thương. Bụt là một vị thầy rất thực tế. Ngài dạy trước tiên ta phải hiểu, chấp nhận và thương được mình. Sau đó ta mới có thể hiểu, chấp nhận và thương được người khác.

Là một người xuất gia, ta có chí hướng muốn giúp đời. Nhưng nếu trong tâm ta còn nhiều khổ đau, bức xúc, bất mãn, cô đơn thì ta sẽ không có hạnh phúc. Ta không hiểu được mình, ta không chuyển hóa, không thương được ta thì làm sao sau này ta có thể giúp được cho người khác? Vì vậy trong những ngày tháng tu tập, ta phải làm thế nào để hiểu, chấp nhận và thương được chính mình.

Chúng ta thường than rằng: “Không ai hiểu tôi, không ai thương tôi!“ Trong khi đó thì ta không hiểu ta và ta cũng không thương được ta. Ta không hiểu, ta không thương được ta thì làm sao ta làm cho người khác hạnh phúc? Người xuất gia cũng như người tại gia, nếu ta không có hạnh phúc thì ta cũng không có khả năng giúp được cho ai.

 

Phật thân

Bụt nói Ngài không phải là một vị thần linh. Bụt trước tiên là một con người như tất cả chúng ta. Siddharta đã từng là một con người như chúng ta và cũng đã từng khổ đau. Có những điều kiện vật chất đầy đủ và những quyền hành, danh vọng trong hoàng gia nhưng Siddharta không cảm thấy hạnh phúc. Siddharta đã bỏ hoàng cung để đi tìm hạnh phúc và đã khám phá ra rằng hạnh phúc thật sự đó từ hiểu và thương mà có, hiểu và thương được mình để có thể hiểu và thương người khác. Điều này cha của Ngài và các vị quan triều đình, các nhà chính trị đã không làm được, vì vậy Ngài không muốn đi theo con đường của họ. Ngài muốn tìm một con đường khác, đó là tâm chí của Siddharta.

Chúng ta đi xuất gia hay đi tu tập là để tìm một con đường khác, một con đường có thể đem lại hạnh phúc. Đó là con đường của hiểu và thương, mà Bụt là một vị thầy dạy cho ta hiểu và thương. Chúng ta tới với Bụt không phải là vì Bụt có quyền phép có thể ban những phép lạ làm cho ta hết đau khổ. Đó là mê tín, không phải là đạo Bụt. Bụt là một vị thầy chỉ cho chúng ta phương pháp tu tập để giúp cho ta có thể hiểu và thương. Bụt không phải là một vị thần linh. Chúng ta phải tự cứu lấy mình, Bụt chỉ giúp chúng ta mà thôi. Trong kinh có nói: “Bờ bên kia là bờ của hạnh phúc, tự do. Đứng bên này ta không thể cầu nguyện để bờ bên kia chạy sang bên này cho ta bước lên. Ta không thể gọi Bờ bên kia ơi, hãy sang bên này cho ta bước lên, mà ta phải làm bè, làm thuyền, rồi dùng bè hay thuyền đó để chèo sang bờ bên kia“. Đó là phương pháp của Bụt. Vì vậy cầu nguyện không phải là phương pháp hay nhất trong đạo Bụt.

 

Pháp thân

Trong đạo Bụt, phương pháp hay nhất là hành trì để có thể hiểu và thương. Có những phương pháp rất hay mà nếu hành trì theo đúng thì chúng ta có thể bỏ bờ bên này và sang bờ bên kia rất nhanh. Muốn bay từ đây sang Mỹ chúng ta phải mất ít nhất là bảy giờ đồng hồ. Nhưng ta đang giận mà ta biết điều phục cơn giận thì chỉ trong vài phút là ta có thể vượt thoát sang bờ bên bên kia tức là bờ của sự không giận dữ. Khi đang bị trấn ngự bởi sự giận dữ là ta ở bờ bên này, dập tắt được ngọn lửa giận dữ thì ta qua bờ bên kia ngay. Paramita có nghĩa là bờ bên kia. Đó không phải do sự cầu nguyện mà là do sự thực tập mà có.

Hơn nữa Bụt không phải là một vị thầy bên ngoài mà còn là vị thầy bên trong, tại vì mỗi chúng ta đều có tính Bụt trong lòng. Chúng ta có khả năng hiểu và thương, đó là Bụt bên trong. Nếu ta không có hạt giống của hiểu và thương thì làm sao mà có hy vọng. Nhưng vì chúng ta đều có hạt giống của hiểu và thương nằm trong chiều sâu tâm thức cho nên chúng ta mới có hy vọng. Đó gọi là Phật tánh. Chúng sanh, ai cũng có Phật tánh cho nên vị thầy mà ta quy y đó nằm ngay trong tâm thức của ta. Chúng ta phải có niềm tin là mình làm được, nếu Siddharta đã làm được thì chúng ta cũng làm được. Như vậy mới thật sự là quy y.

Quy y không phải là nương tựa vào một thế lực bên ngoài mà trước hết là nương tựa vào thế lực bên trong. Ta phải tin rằng mình có thể làm được chuyện đó, nếu không tin thì ta sẽ không có tương lai. Đó là chuyện chuyển hóa  khổ đau, có hạnh phúc, có khả năng hiểu, thương và làm hạnh phúc cho người. Có niềm tin thì ta có hạnh phúc ngay. Khi tin vào Phật tánh, tin vào vị thầy đang dạy cho ta hiểu và thương thì ta cũng tin vào Pháp. Pháp là phương pháp hành trì, nhờ phương pháp đó mà ta có thể vượt sang bờ bên kia. Bụt là gì? Bụt là người có Pháp, ta có thể học được Pháp của Bụt. Mỗi người trong chúng ta phải có công phu thực tập và phải biết cách thực tập. Ví dụ như học làm đậu hủ vài ngày thì ta biết cách làm đậu hủ, mỗi khi có đủ điều kiện thì ta có thể làm được đậu hủ. Nếu biết phương pháp thì ta có thể chuyển hóa được nỗi buồn, cơn giận và chế tác được niềm vui, hạnh phúc. Không có Pháp ta sẽ không làm được, vì vậy ta phải quy y Pháp.

Pháp không phải là một cái gì ở bên ngoài cũng như biết làm đậu hủ không phải là cái gì ở bên ngoài. Pháp là phương pháp đưa ta từ bến mê mờ sang bờ giải thoát, từ bến khổ đau sang bờ an lạc. Nếu không có Pháp thì người kia không phải là Bụt và ta cũng không có tánh Bụt trong lòng.

Mỗi người có hình hài bằng xương thịt của mình gọi là nhục thân. Nhưng nếu có thực tập thì chúng ta cũng có Phật thân (Buddha body), tại vì chúng ta tin rằng mình có hạt giống của hiểu và thương. Mỗi người đều có Phật thân. Nếu học được phương pháp tu tập, biết thở, biết cười, biết đi, biết lắng nghe, biết hiểu, biết chuyển hóa thì ta có Pháp thân. Có Pháp thân rồi thì ta không còn lo sợ nữa, đi đâu ta mang Pháp thân đi theo, có khó khăn thì ta mang Pháp thân ra để giải quyết. Pháp thân là vật tùy thân của ta.

 

Tăng thân

Thân thứ ba là Tăng thân. Tăng thân rất quan trọng. Sau khi Siddharta thành đạo, mục đích đầu tiên của Ngài là xây dựng một Tăng thân. Siddharta biết rằng nếu không có một Tăng thân thì cho dù là một vị Bụt cũng không làm nên được sự nghiệp gì. Chính Bụt cũng nương tựa Tăng thân. Nếu không có thầy Sariputra, thầy Mahamogalla, thầy Katyayana, v.v… thì Bụt cũng không làm nên được sự nghiệp giúp đời như ta đã thấy. Vì vậy Tăng thân rất quan trọng.

Tăng thân là đoàn thể của những người thực tập theo Bụt, gồm những người có khả năng chế tác được niệm, định và tuệ, những người biết chuyển hóa khổ đau và chế tác được an lạc. Cố nhiên là có những người giỏi hơn những người khác. Dù Tăng thân chưa được toàn hảo nhưng ta thấy trong Tăng thân có năng lượng của niệm, định và tuệ, có khả năng chế tác niềm vui và chuyển hóa khổ đau. Vì vậy ta phải nương tựa vào Tăng thân. Là người xuất gia hay người tại gia, ta sẽ không làm nên việc gì nếu ta không có niềm tin nơi Tăng thân và không nương tựa vào Tăng thân. Chính Đức Thế Tôn cũng phải nương tựa vào Tăng thân. Nếu không có những người như thầy Xá Lợi Phất thì Bụt đã không thực hiện được sự nghiệp độ sinh kéo dài đã mấy ngàn năm.

Tăng thân là gì? Tăng thân là chỗ cho ta nương tựa, vì vậy ta phải đi với Tăng thân như một dòng sông. Có người hỏi Đức Thế Tôn:

    Làm sao để giọt nước này đừng bốc hơi?

      Đức Thế Tôn nói:

        Cho nó xuống dòng sông.

          Nếu ở một mình thì thế nào giọt nước cũng bốc hơi. Nhưng khi nó đồng nhất mình với dòng sông thì nó có thể đi ra biển. Chúng ta cũng vậy, người xuất gia hay tại gia mà có chí nguyện giúp đời thì ta phải biết nương tựa Tăng thân. Ta phải để cho Tăng thân giúp ta, hướng dẫn ta, giáo dưỡng ta, chỉ đường cho ta đi. Nếu ta không có niềm tin nơi Tăng thân, không nương tựa Tăng thân thì chắc chắn là ta không có tương lai.

          Thân là một cơ thể được làm bằng những tế bào. Trong thân ta có hàng tỷ tế bào, nhưng không có tế bào nào đơn độc cả. Những tế bào đều làm việc chung, mỗi tế bào đều đi theo hòa điệu với các tế bào khác. Nếu một tế bào sống riêng lẻ không nương tựa vào những tế bào khác thì tế bào đó sẽ chết. Là người xuất gia hay người tại gia, ta phải nương tựa vào Tăng thân để được hướng dẫn và bảo hộ. Đó gọi là nương tựa Tăng thân.

          Nhìn vào trong cơ thể của mình, ta thấy hàng tỷ tế bào nhưng không có tế bào nào muốn làm chủ cả. Các tế bào sống bên cạnh nhau và mỗi tế bào có những phương tiện để truyền thông với những tế bào khác. Điển hình nhất là các tế bào thần kinh não bộ, mỗi tế bào đều dính với hàng trăm, hàng ngàn tế bào khác, và các tế bào óc liên lạc với nhau thường xuyên. Nhờ liên lạc với nhau thường xuyên như vậy nên các tế bào óc mới chế tác được những ý niệm, những tư tưởng, những quyết định mà không cần có một chỉ huy trưởng để điều động.

          Tăng thân cũng vậy. Tăng thân là một cơ thể, trong đó mỗi người chúng ta là một tế bào. Chúng ta phải có sự truyền thông thường xuyên với các tế bào khác trong Tăng thân. Như vậy chúng ta mới có sự hòa điệu, chúng ta giúp nhau, nâng đỡ nhau. Nếu có những tế bào hơi yếu thì nhờ sống chung với những tế bào khác mà chúng được nuôi dưỡng và mạnh lên. Mỗi tế bào đều phải thải ra những chất dư thừa và tiếp thu những chất dinh dưỡng. Các tế bào liên hệ với nhau để làm công việc đó, để tế bào nào cũng có thể tiếp nhận chất dinh dưỡng và thải ra cặn bã.

          Nhìn vào cơ thể con người, chúng ta biết cách vận hành của các tế bào thì nhìn vào Tăng thân chúng ta cũng thấy rõ ràng như vậy. Nếu Tăng thân không hành xử như một cơ thể con người thì Tăng thân sẽ không khỏe mạnh, không hạnh phúc và không làm được sứ mạng của mình. Tăng thân Làng Mai đã từng tổ chức các khóa tu khắp nơi trên thế giới. Trong mỗi khóa tu có rất nhiều người được chuyển hóa, tìm lại được hạnh phúc. Nhưng sau rời khóa tu trở về trú xứ của mình, nếu không có Tăng thân hay một đoàn thể tu học địa phương để nương tựa thì ta có thể đánh mất sự thực tập của mình và rơi trở lại trạng thái cũ. Vì vậy vào ngày cuối của khóa tu, chúng ta thường tổ chức những buổi hội thảo để trở về thiết lập một Tăng thân nho nhỏ tại địa phương của mình để chúng ta có thể giúp nhau duy trì sự thực tập, nuôi lớn Tam Bảo trong đời sống hằng ngày của mình. Vì vậy không những người xuất gia nương vào Tăng thân mà người tại gia cũng cần phải nương vào Tăng thân.

          Xây dựng Tăng thân là một việc rất quan trọng. Siddharta là một người rất giỏi trong việc xây dựng Tăng thân. Ngay trong năm đầu hành đạo mà Tăng thân xuất gia của Ngài đã lên tới 1000 người. Ngày mà ta quỳ xuống tiếp nhận giới luật là ta phát lời nguyện nương tựa vào Tăng để ta có thể tiếp nối được sự nghiệp của Bụt sau này. Lời nguyện đó chúng ta phải nhớ. Ta phải để Tăng thân dìu dắt, nâng đỡ, giáo dưỡng mình. Ta phải mở lòng ra nói cho các anh, các chị biết những khó khăn, bế tắc của mình để cầu sự giúp đỡ. Nếu hành xử được như vậy thì tự nhiên sẽ có sự chuyển hóa và ta bắt đầu có hạnh phúc. Có hạnh phúc thì sự thực tập sẽ rất nhanh, nếu không thì ta giữ sự bế tắc năm này sang năm khác và ta sẽ không thực hiện được chí nguyện đã có từ khi ta phát nguyện.

          Trong 30 năm qua, Làng Mai đã gieo trồng hạt giống của chánh pháp khắp nơi. Hiện nay đã có rất nhiều Tăng thân được thành lập tại các nước. Ở Đức đã có gần 70 Tăng thân, bên Anh còn nhiều hơn nữa. Ở Mỹ đã có ít nhất là 500 Tăng thân. Chúng ta thấy rất rõ là nếu không có Tăng thân thì ta sẽ không duy trì được sự thực tập của mình để đi trên con đường chuyển hóa và trị liệu. Vì vậy công việc dựng Tăng rất là quan trọng. Sau khi tới Làng Mai hay tới một khóa tu để thực tập thì ta được chuyển hóa. Nhưng nếu khi về nhà, ta không tiếp tục thực tập thì ta sẽ đánh mất sự chuyển hóa đó. Muốn tiếp tục thực tập thì cách hay nhất là ta nhìn chung quanh, tìm những yếu tố để thiết lập một Tăng thân địa phương. Đó là sự thực tập xây dựng Tăng thân.

          Ngày xưa Đức Thế Tôn đã làm công việc đó và các thế hệ tiếp theo cũng đã làm công việc đó. Có được một Tăng thân thật sự tu học là ta có được một viên ngọc quý. Tăng thân không chỉ đơn thuần là một đoàn thể, vì có thể có một đoàn thể mà trong đó người ta không có khả năng chế tác hỷ và lạc, người ta không có khả năng hòa giải, chế tác tình huynh đệ và chuyển hóa khổ đau. Như vậy thì dù cho tổ chức đó được gọi là tổ chức Phật giáo thì đó cũng không phải là Tăng. Tăng là một đoàn thể mà trong đó phải có sự hòa hợp và tình huynh đệ. Tăng là một đoàn thể gồm những người có khả năng chế tác hỷ, lạc và tình huynh đệ, những người có khả năng chuyển hóa những khổ đau, giải quyết những khó khăn và những khúc mắc xảy ra trong đời sống hằng ngày. Một đoàn thể có khả năng chế tác được niệm, định, tuệ, hỷ và lạc được gọi là chân Tăng (true Sangha).

          Là một chân Tăng thì đã có Bụt và Pháp ở trong đó. Ta tìm Bụt và Pháp ngay ở trong Tăng. Vì vậy cho nên xây dựng Tăng cũng là xây dựng Bụt và xây dựng Pháp. Trong chân Tăng có chân Pháp và chân Phật.

          Trong Tăng thân của ta thế nào cũng có những anh, chị hay những em có niềm tin nơi Tam Bảo, có hạnh phúc, có từ bi, có khả năng chế tác hỷ, lạc. Trong những người đó, chúng ta thấy có chất Bụt và chất Pháp. Ta cần những người như vậy. Trong Tăng thân mà có những người đó thì rất là quý. Khi một người có đạo đức, từ bi, có tuệ giác và tình huynh đệ tới thăm Tăng thân thì ta có khuynh hướng muốn mời người đó ở lại với mình tại vì người đó ở trong Tăng thân thì làm giàu cho Tăng thân mình, làm cho Tăng thân mình càng ngày càng có phẩm chất. Tăng thân có phẩm chất thì khả năng độ đời, giúp người sẽ lớn hơn.

           

          Tùy thuận trí

          Trong kinh Như Thị Ngữ, Bụt có nói về Niết bàn. Câu này cũng có trong học phẩm Nê Hoàn của kinh Pháp Cú chữ Hán:

          Này các vị Tỳ Kheo, ở đời có cái sinh, cái hữu, các tác và cái hành. Nhưng cũng có cái không sinh, không hữu, không tác, không hành. Tại vì nếu không có cái không sinh, không hữu, không tác, không hành thì cái có sinh, có hữu, có tác, có hành sẽ không có nẻo thoát.

          Câu này rất nổi tiếng và trong suốt khóa tu mùa Đông này chúng ta sẽ học câu đó. Trên bình diện tích môn hay sự thật ước lệ thì có sinh, có hữu, có tác và có hành. Hễ có sinh thì có diệt, có hữu thì có vô, có tác thì có tác giả và thọ giả, có hành thì có hữu vi và vô vi. Nhưng nhìn kỹ vào những gì có sinh, có diệt, có có, có không, có tác giả, có thọ giả, có hữu vi, có vô vi thì ta khám phá ra một cái gọi là không sinh, không diệt, không tác, không hành. Quán sát trên bề mặt ta thấy dường như là có sinh, có diệt, có có, có không, có tác giả, có thọ giả, có hữu vi, có vô vi. Nhưng nhìn cho sâu thì ta thấy bản chất của sự vật là không sinh, không diệt, không có, không không, không tác giả, không thọ giả, không hữu vi, không vô vi.

          Làng Mai hay dùng ví dụ của đám mây. Nhìn bề ngoài ta thấy đám mây có sinh, có diệt, có có, có không. Nhưng nhìn cho kỹ thì ta thấy đám mây không sinh, không diệt, không có, không không. Tại vì sinh là từ không mà trở thành có mà đám mây không từ không trở thành có, và diệt là từ có mà trở thành không mà đám mây cũng không thể nào từ có trở thành không. Đám mây chỉ trở thành sương, thành tuyết, thành mưa mà thôi. Bản chất của đám mây là không sinh, không diệt, không có, không không. Con đường quán chiếu giúp ta nhìn sâu vào tích môn để thấy được bản môn gọi là tùy thuận trí (anulomatajñāna).

          Ta sử dụng tùy thuận trí, nhìn vào những sự vật có sinh, có diệt, có có, có không để tìm ra được thực tại không có, không không, không sinh, không diệt. Giáo lý trung đạo giúp chúng ta vượt thoát khỏi những cặp đối lập như có và không, sinh và diệt, dơ và sạch, chủ thể và đối tượng, một và nhiều. Giáo lý duyên khởi và trung đạo giúp ta đi từ thế giới của tích môn vào thế giới của bản môn, từ sự thật ước lệ tới sự thật tuyệt đối.

            Đối với cặp đối lập sinh-diệt thì tùy thuận trí sử dụng ý niệm tương sinh (inter-arising) hay câu sinh (co-arising), tiếng Phạn là sahajāta, saha là cùng, jāta là sinh. Các pháp không tự mình sinh ra hay tự mình diệt đi được. Ta không thể tự mình sinh ra mà phải dựa vào những cái khác để được biểu hiện. Ý niệm tương sinh hay câu sinh giúp chúng ta thoát ra khỏi ý niệm sinh. Một pháp không thể tự mình sinh ra hay sinh ra cái khác, vì vậy ý niệm sinh không phù hợp với thực tế. Thoát ra được ý niệm sinh thì đồng thời ta cũng thoát ra được ý niệm diệt. Đó là tùy thuận trí: nhờ ý niệm tương sinh mà ta vượt thoát được ý niệm sinh và diệt.

              Đối với cặp hữu-vô thì tùy thuận trí sử dụng ý niệm tương tức (inter-being), tương hữu hay câu hữu . Tương tức, tiếng Phạn là sahabhūta. Ta không thể nào tự mình có mặt hay làm cho một cái khác có mặt, ta phải cùng nhau có mặt. Chúng ta dùng ý niệm tương tức để thoát ra khỏi ý niệm có, dùng ý niệm câu hữu thay thế cho ý niệm hữu. Thoát được ý niệm có thì đồng thời cũng thoát được ý niệm không. Nhờ ý niệm tương tức mà ta thoát ra khỏi ý niệm có và không.

                Đó là nhờ tài năng của tùy thuận trí. Ta vẫn sử dụng danh từ và ý niệm, nhưng sử dụng rất khéo theo trí tùy thuận để từ từ thoát ra khỏi danh từ và ý niệm. Ta dùng những ý niệm mới là tương sinh và tương tức để thoát ra khỏi những ý niệm cũ là sinh-diệt và có-không. Và khi thoát ra được rồi thì chúng ta phải bỏ những ý niệm đó đi. Cũng như ta dùng thuổng để đào giếng, đào giếng xong rồi thì ta phải cất thuổng đi, không cần phải mang nó theo suốt đời. Tương sinh và tương tức giúp ta vượt thoát sinh-diệt và hữu-vô.

                  Vô tác là vô ngã. Vào thời của Đức Thế Tôn thì những người theo Bà la môn giáo có niềm tin vào một thần ngã, vào một linh hồn bất diệt. Linh hồn bất diệt đó đi luân hồi, tạo nghiệp và thọ báo. Đó là tín ngưỡng về luân hồi, nghiệp và báo của Bà la môn giáo. Nhưng đạo Bụt không công nhận có một linh hồn bất diệt. Có một tâm thức nhưng đó không phải là linh hồn bất diệt. Tâm thức đó rất vô thường, nó là một dòng chảy luôn luôn biến chuyển. Chúng ta có ảo tưởng là nó thường tại, nhưng thật ra nó biến chuyển trong từng giây phút. Cũng giống như trong ban đêm có một người cầm cây đuốc quơ thành vòng tròn. Đứng xa nhìn chúng ta thấy có một vòng lửa nhưng thật ra đó chỉ là những đóm lửa nối tiếp nhau rất nhanh cho ta ảo giác có một vòng lửa. Tâm thức của ta cũng vậy, tâm thức được làm bằng những giây phút của cảm thọ, của tâm hành, của tri giác và nó sinh diệt không ngừng làm cho ta có cảm tưởng là có một dòng liên tục. Nhìn sông Marne ta tưởng sông Marne luôn luôn là sông Marne. Nhưng thật ra trong mỗi giây phút sông Marne đều đã đổi khác, ta nhìn lên rồi nhìn xuống thì nước sông đã biến đổi khác rồi. Đó là ảo tưởng của ta về sự tồn tại liên tục. Trong khi đó thì Bà la môn giáo cho rằng có một linh hồn trường cửu, bất diệt. Đạo Bụt nói có một cái, nhưng cái đó không phải là linh hồn trường cửu bất biệt. Đó là tâm thức biến chuyển dưới hình thức này rồi dưới hình thức khác.

                  Ví dụ như vào năm 2010 có một người tạo nghiệp, ta gọi đó là tác giả (kẻ làm). Và tới năm 2013 thì quả chín. Vậy người tạo nghiệp đó có trước năm 2010 rồi đi qua năm 2011 và năm  2012, khi tới năm 2013 thì người đó gánh chịu kết quả và ta gọi là thọ giả (người chịu). Vậy người đó là một cái gì bất biến. Người ta đặt câu hỏi: “Vậy thì tác giả và thọ giả là một người hay là hai người?“ Theo lý vô thường thì dòng sông của giây phút này không còn là dòng sông của giây phút trước nữa. Cho rằng nó là cùng một dòng sông là sai, là một ảo tưởng. Mười năm sau trở về lại, ta thấy rằng “dòng sông Marne vẫn còn đây“ là không đúng. Nước sông hoàn toàn mới, tất cả những sinh vật sống trong đó đều thay đổi. Như vậy người tạo nghiệp năm 2012 và người thọ báo năm 2013 không phải là một người. Ta với em bé 5 tuồi trong album gia đình không phải là một người mà cũng không phải là hai người. Vì vậy người ta không thể trả lời được câu hỏi “tác giả và thọ giả là một hay là hai?“, tại vì cho là một thì sai mà cho là hai cũng không đúng. Câu trả lởi của Bụt là trung đạo, không phải một cũng không phải hai.

                  Tùy thuận trí đề nghị một ý niệm mới gọi là tương tác (inter-acting), tiếng Phạn là sahakrta, để giúp ta vượt khỏi ý niệm tác giả và thọ giả. Tác giả và thọ giả nương vào nhau mà có. Cũng như cha và con, ta nghĩ rằng có cha trước rồi mới có con sau. Nhưng trước khi con xuất hiện thì ta không thể gọi người đó là cha, cha và con được biểu hiện cùng một lần. Không có tác giả thì không có thọ giả, và không có thọ giả thì không có tác giả. Tác giả và thọ giả là những giả danh (conventional designation), không có thực thể, luôn luôn biến chuyển. Tác giả và thọ giả đều không có một bản chất trường cửu. Ý niệm tương tác giúp ta thoát khỏi ý niệm tác giả và thọ giả là hai thực thể riêng biệt.

                    Hành là samskrta (formation), là các pháp, là sự vật. Chúng ta thường nói “cái này sinh ra cái kia“. Nhưng thật ra cái này sinh ra cái kia và cái kia cũng sinh ra cái này. Cũng như trong trường hợp cha và con. Cha sinh ra con và con cũng sinh ra cha tại vì nếu không có con thì người kia cũng không được gọi là cha. Nếu trái sinh ra phải thì phải cũng sinh ra trái, phải và trái đồng thời có mặt. Các hành đều như vậy, đều do sự tập hợp của những điều kiện bên ngoài mà có. Ví dụ như bông hoa là một hành. Sở dĩ bông hoa biểu hiện ra được là nhờ có những yếu tố khắp nơi trên thế giới quy tụ về. Những yếu tố không phải hoa đó (conditioning, tiếng Phạn là samskāra), tới giúp làm ra bông hoa (conditioned, tiếng Phạn là samskrta). Bông hoa được điều kiện hóa, nếu có đủ điều kiện thì hoa biểu hiện. Một bên là nhân, một bên là quả và hai bên làm nhân quả cho nhau. Cũng như bên trái và bên phải, bên phải dựa vào bên trái mà biểu hiện và bên trái dựa vào bên phải để biểu hiện, hai bên nương vào nhau gọi là tương hành (inter-conditioning).

                      Tất cả các hành nương vào nhau để biểu hiện. Cái này sinh ra cái kia và cái kia sinh trở lại ra cái này. Một hình ảnh rất đẹp trong kinh mà Bụt dùng làm ví dụ là hình ảnh của một bó lau: Ba hay bốn cây lau dựa vào nhau thì mới đứng vững. Các hành cũng vậy, không có cái này thì không có cái kia, không có cái kia thì không có cái này. Ba cây lau đứng vững được là vì chúng có nhau.

                      Thấy như vậy tôi rất vui nên tôi viết câu thư pháp: Tu es donc je suis. (Tại vì em có đó cho nên tôi có đây). You are therefore I am. Đó là tương hành. Câu này trả lời câu của Descartes: Je pense dons je suis (Tôi tư duy tức là tôi đang có). Nói như Descartes là không thực tế, tại vì tôi có là vì những điều kiện không phải tôi đang có đó. Nhìn mặt trăng, ngôi sao, mặt trời hay sương ta thấy tất cả đều là “tu“. Vì có sương, có sao, có mặt trăng hay mặt trời đó cho nên mới có tôi đây. Nếu không có chúng nó thì làm sao tôi có được?

                      Bốn ý niệm mới tương sinh, tương tức, tương tác, tương hành giúp chúng ta vượt thoát bốn cặp đối nghịch cũ là sinh và diệt, hữu và vô, tác giả và thọ giả, hữu vi và vô vi. Đó là tài năng của tùy thuận trí căn cứ trên duyên khởi và trung đạo để giúp cho ta từ tích môn đi sâu vào bản môn, từ sự thật ước lệ đi tới sự thật tuyệt đối. Nhà triết học Hòa Lan Spinoza nói rằng Thượng đế chính là thiên nhiên. Chúng ta thử tìm sự liên hệ giữa tạo hóa (créateur) và tạo vật (créature). Trong ánh sáng của tương hành, nếu tạo hóa tạo ra tạo vật thì tạo vật cũng tạo ra tạo hóa. Tạo hóa và tạo vật không phải là hai thực thể riêng biệt. Không thể lấy tạo hóa ra khỏi tạo vật và cũng không thể lấy tạo vật ra khỏi tạo hóa.

                      Spinoza chủ trương Thượng đế (deus) là thiên nhiên (natura). Natura có hai phần: natura naturans và natura naturata

                      Phần natura naturans chúng ta không thấy được, còn phần natura naturata chúng ta có thể thấy được. Trăng sao, trời đất, cây cỏ, mọi loài thuộc về phần natura naturata. Spinoza nói rõ ràng rằng: Natura naturata không thể nào tồn tại ngoài natura naturans, có nghĩa là nhìn vào natura naturata ta thấy natura naturans, không thể nào lấy natura naturans ra khỏi natura naturata hay lấy natura naturata ra khỏi natura naturans. Natura naturans đại diện cho tạo hóa (造 化) hay Thượng đế và natura naturata tượng trưng cho tạo vật ( 物). Ta thấy rõ tính tương sinh, tương tức, tương tác và tương hành giữa hai cái, ta không thể tách rời cái này ra khỏi cái kia. Tại vì cái này có cho nên cái kia có, tại vì cái kia có cho nên cái này có. Đó là tính bất nhị giữa natura naturans (tạo hoá) và natura naturata (tạo vật). Spinoza đã tới rất gần với đạo Phật.

                       

                      Tùy Thuận Duyên Khởi Tương Ưng Không

                      Từ trong kinh Tùy thuận Duyên Khởi Tương Ưng Không chúng ta có cụm từ tùy thuận duyên khởi tương ưng Không.

                      Trên bình diện tương đối thì có sinh, hữu, tác và hành. Ở bình diện tuyệt đối thì có vô sinh, vô hữu, vô tác, vô hành. Vô sinh là không sinh, không diệt. Vô hữu là không có, không không.

                      Vô tác là không có tác giả và thọ giả như những thực thể riêng biệt và thường tại. Tác giả và thọ giả không phải là một linh hồn bất tử mà là một dòng liên tục luôn luôn biến chuyển, vô thường và vô ngã. Ngã là một cái gì thường tại, bất diệt. Giáo lý vô tác dạy về vô ngã, không có ngã mà chỉ có một dòng liên tục.

                      Giáo lý vô hành nói về vô pháp. Tất cả những hiện tượng mà ta thấy, bề ngoài giống như có nhưng bên thì chúng trống rỗng, chúng là Không. Chúng không có cốt lõi, không có tính cách trường cửu, vĩnh viễn, bất diệt. Ví dụ như bông hoa, nhìn bề ngoài rất đẹp nhưng bên trong chỉ toàn là những cái không phải hoa tới làm thành hoa. Hoa không có cái ngã riêng biệt. Vô hành dạy về Không (Emptiness, śūnyatā). Không là một giáo lý thậm thâm vi diệu.

                      Nhưng mấy trăm năm sau khi Bụt nhập diệt người ta chỉ phát huy giáo lý vô ngã mà không phát huy giáo lý Không. Tông phái Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ (Sarvāstivāda) là một bộ phái có nguồn gốc từ Thượng Tọa Bộ (Sthaviravāda). Thượng Tọa Bộ và Đại Chúng Bộ (Mahāsānghika) xuất hiện từ sự phân chia bộ phái 140 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn. Đại Chúng Bộ đông hơn và trẻ hơn, Thượng Tọa Bộ ít hơn và già hơn. Thượng Tọa Bộ có vẻ thủ cựu (conservative) và hơi cứng nên Đại Chúng Bộ tách riêng ra và có những tư tưởng phóng khoáng, tiến bộ, muốn thích ứng với thời đại.

                      Thượng Tọa Bộ và Hữu Bộ phát triển giáo lý vô ngã, làm ra những bộ luận Abhidharma rất dày để phát triển giáo lý vô ngã như một chủ thuyết. Sau này Thượng Tọa Bộ phân ra làm hai là Phân Biệt Thuyết Bộ và Hữu Bộ. Khi vua A Dục lên ngôi và thống nhất nước Ấn Độ thì Hữu Bộ đã ra đời và chủ trương: Ngã không pháp hữu . Trong khi đó thì Bụt nói các pháp đều trống rỗng.

                      Phân Biệt Thuyết Bộ được cảm tình của vua A Dục nhiều hơn nên Hữu Bộ di cư lên miền Bắc ở vùng Kashmir hiện nay. Hữu Bộ lập một cơ sở rất lớn, tồn tại hơn 1000 năm, sáng tạo ra rất nhiều tác phẩm về A Tỳ Đạt Ma, trong đó có Tỳ Bà Sa Luận (Maha-vibhāsā-śāstra). Từ căn cứ này Phật giáo đã truyền sang các nước như Trung Quốc, Nhật Bản, Triều tiên, v.v…

                      Những chủ trương của Thượng Tọa Bộ hơi cứng và có tính cách giáo điều, ví dụ như khi nói về vô ngã thì nói: “Làm gì có người? Không có ta nên không có người (pudgala)”. Một thầy đang ngồi thì có một người đàn ông tới hỏi:

                        Dạ bạch thầy, thầy có thấy một người đàn bà đi ngang qua đây không?
                        Thầy nọ trả lời:
                        Tôi không thấy người đàn bà nào cả. Tôi chỉ thấy một mớ tập hợp của da, xương, thịt, móng tay, v.v…đi ngang qua đây thôi.

                          Trả lời như vậy thì có vẻ quá lý thuyết và giáo điều. Trong khi đó thì Bụt không giáo điều như vậy. Ngài dùng danh từ “tôi” và “thầy” rất rõ ràng: “Thầy A Nan, thầy có muốn đi lên đồi chơi với tôi không?” Trên bình diện chân lý tương đối, chúng ta thấy thánh và phàm khác nhau, Phật và chúng sinh khác nhau, thầy và trò khác nhau. Vì vậy sau đó có một bộ phái phản ứng lại, đó là bộ phái Pudgalavāda. Pudgalavāda chủ trương “có người” và trích ra những câu Bụt nói trong kinh. Trong kinh Anguttara Nikaya Bụt nói: “Này các vị Tỳ kheo, có một người mà sự xuất hiện trên đời này đem lại lợi lạc cho không biết bao nhiêu người khác. Người đó là ai? Người đó là một vị Bụt.” Những phái chủ trương “có người” có rất đông người theo như: Độc Tử Bộ (Vātsiputrῑya), Chánh Lượng Bộ xuất hiện từ Độc Tử Bộ (Sammitῑya).

                          Pudgalavāda chủ trương phải có người để tu học và chịu trách nhiệm về hành động của mình. Pudgalavāda nói rất mạnh: Cho rằng không có ngã, không có người là một tà kiến, không phù hợp với thực tế. Nhìn bên ngoài, ta thấy giống như họ đi ngược lại với giáo lý vô ngã, nhưng thực ra đó là một phản ứng đối lại với thái độ cứng ngắt của Thượng Tọa Bộ và Hữu Bộ. Những người theo phái Pudgalavāda khá đông. Lúc thầy Huyền Trang từ Trung Quốc sang Ấn Độ du học vào thế kỷ thứ 7 đã có 60 ngàn thầy theo phái Pudgalavāda.

                          Một bộ phái khác cũng chống lại thái độ giáo điều cứng ngắt của Thượng Tọa Bộ là Kinh Lượng Bộ (Sautrāntika). Kinh Lượng Bộ không tin vào những bộ Abbidharma dày cộm mà chỉ chuyên trích dẫn kinh Bụt. Kinh Lượng Bộ, Chánh Lượng Bộ và Độc Tử Bộ cùng chĩa mũi dùi vào Thượng Tọa Bộ và Hữu Bộ để chống lại thái độ cứng ngắt và bảo thủ của hai bộ phái này.

                          Vào khoảng 100 năm trước Thiên chúa giáng sinh phong trào Đại Thừa xuất hiện và sản xuất ra những kinh dạy về giáo lý Không tức giáo lý vô hành, tại vì Thượng Tọa Bộ và Hữu Bộ chỉ chú trọng vào giáo lý vô ngã mà không chú trọng tới giáo lý thậm thâm vi diệu của Không. Phong trào Đại Thừa chủ trương: Ngã không mà pháp cũng không. Đó là phát súng thần công của Đại Thừa. Tất cả các kinh Bát Nhã xuất hiện vào thời đó chỉ dạy về một cái, đó là Không (Emptiness). Đại Thừa có vẻ nhu nhuyễn, mềm dẻo hơn nên sau mấy trăm năm đã chiếm được đa số.

                          Thấy như vậy, chúng ta biết rằng đạo Bụt chưa chấm dứt mà vẫn còn đang tiếp tục phát triển. Cái thấy của chúng ta về lịch sử của đạo Bụt rất cần thiết để chúng ta biết mình cần phải làm gì và không nên làm gì trong thời đại hiện nay. Giáo lý về Không có thể là giáo lý tối hậu của Bụt. Ý niệm về Không diễn tả được chiều sâu của bản môn tức Niết bàn, tại vì bình diện của không sinh, không diệt, không có, không không, không tác, không hành được tóm tắt bằng chữ Không (true Emptiness, śūnyatā). Nhưng trong kinh cũng nói rất rõ Không không có nghĩa là không có gì hết, Không chỉ có nghĩa trống rỗng.

                          Tuệ giác của Bụt trong kinh Ca Chiên Diên là: Chánh kiến 正 là cái thấy vượt thoát hữu và vô. Nói vô ngã là cũng còn kẹt vào ý niệm , nói ngã không pháp hữu thì còn kẹt vào ý niệm không. Chữ Không giúp chúng ta thoát ra khỏi ý niệm có và không, tại vì ý niệm có và không không thể diễn tả được sự thật tuyệt đối. Các pháp không phải có cũng không phải không, các pháp là trung đạo. Chữ Không có nghĩa là không phải có cũng không phải không. Nhưng nếu ta hiểu chữ Không là abhāva thì rất kẹt. Có lẽ thầy Sariputra sợ người ta hiểu lầm chữ Không và cho rằng đạo Bụt chủ trương thuyết hư vô đoạn diệt nên thầy đã nhận mạnh về giáo lý vô ngã mà không chú trọng về giáo lý Không. Vì vậy phải đợi đến mấy trăm năm sau thì giáo lý Không mới được phát triển. Trong kinh có nói: Thà rằng bị kẹt vào ý niệm có còn hơn là bị kẹt vào ý niệm không. Giáo lý Không được đưa ra để giúp ta vượt thoát ý niệm có-không, nhưng nếu ta bị kẹt vào ý niệm không thì lúc đó ngay cả Bụt cũng không thể chữa được cho ta. Chữ Không là một phương tiện mà không phải là cứu cánh và không phải là một lý thuyết. Chúng ta học được một điều rất quan trọng: Dù là vô thường, vô ngã hay Không thì đó không phải là những chủ thuyết mà là những dụng cụ, là ngón tay để chỉ mặt trăng. Nếu kẹt vào ngón tay thì ta sẽ không thấy mặt trăng.

                          Bụt đã dùng hình ảnh của ngón tay: Giáo lý của ta là ngón tay. Dù là giáo lý vô thường, vô ngã, Tứ diệu đế hay Bát chánh đạo thì nó cũng chỉ là ngón tay mà thôi. Anh phải khôn khéo nhìn theo hướng của ngón tay để thấy mặt trăng, còn nếu đi tìm mặt trăng trong ngón tay thì anh sẽ thất bại.

                          Bụt cũng dùng một hình ảnh rất hay là hình ảnh của chiếc bè: Giáo lý của ta là chiếc bè giúp anh qua sông. Bờ bên kia không phải là chiếc bè. Qua được bờ bên kia rồi thì anh phải để chiếc bè xuống, đừng vác lên vai mà đi hoài.

                          Trong kinh Kim Cương có một câu rất rõ ràng: Pháp mà còn phải bỏ xuống huống hồ là không phải Pháp (Even the Dharma you have to put it down). Chúng ta phải hiểu tất cả giáo lý của đạo Bụt là những phương tiện, những dụng cụ ta sử dụng để đạt tới giải thoát. Giải thoát rồi thì ta phải bỏ nó đi. Vì vậy đạo Bụt có tinh thần phá chấp, hoàn toàn không giáo điều (dogmaticism) và không cuồng tín (fanaticism).

                          Kinh Người Áo Trắng – Chất liệu tâm linh – Năm giới

                           

                          1. Kinh Người Áo Trắng

                          Kinh Người Áo Trắng, nguyên là Ưu Bà Tắc kinh, upāsaka sutra, là kinh 128 Trung A Hàm, hay kinh A. III. 211 Tăng Chi Bộ của tạng Pali. Ưu bà tắc là cư sĩ nam, là người thân cận với người xuất gia. Người tại gia là người thân cận với người xuất gia, thân cận để học hỏi và thực tập nên gọi là cận sự: cận sự nam (upāsaka) và cận sự nữ (upāsikā). Người xuất gia cần người tại gia và người tại gia cần người xuất gia.

                          Đi xuất gia thì không được mặc áo trắng mà phải mặc áo màu gọi là hoại sắc.

                          2. Kinh Giáo Hóa Người Bệnh

                          Người bệnh là người đang hấp hối. Kinh Giáo Hóa Người Bệnh hay kinh Độ Người Hấp Hối là kinh 26 Trung A Hàm hay kinh M. 143 Trung Bộ của tạng Pali.

                          Kinh Người Áo Trắng

                          Điểm nổi bật trong kinh Người áo Trắng là Bụt dạy người cư sĩ chỉ cần thực tập hai pháp môn sau đây là có đủ hạnh phúc trong giây phút hiện tại. Đó là:

                          1. Năm giới ()
                          2. Bốn tùy niệm tức bốn tâm cao đẹp (tăng thượng tâm )

                          Bụt nói rất rõ: Nếu người tại gia thực tập theo hai pháp môn trên thì có thể có hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại mà không có khó khăn gì. Không có khó khăn có nghĩa là sự thực tập này rất dễ chịu, ta không cần phải lao nhọc, phải gồng lên để thực tập. Thực tập theo hai pháp môn trên thì:

                          – Ta có hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại gọi là hiện pháp lạc trú .

                          – Ta chắc chắn không rơi trở lại vào những con đường khổ đau tức con đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh và atula.

                          – Ta có thể đạt được quả vị nhập lưu (vào dòng) tức là gia nhập vào một dòng đi về tương lai, đi về hạnh phúc và giải thoát, cũng như ta muốn đi Paris và ta đã lên ngồi trong TGV (xe lửa) hướng về Paris thì chắc chắn là ta sẽ tới Paris. Vào dòng thì thế nào ta cũng được giải thoát hoàn toàn. Bụt nói ta chỉ sinh ra lại trong cõi hệ lụy bảy lần là tối đa. Nếu làm ăn khá thì ta sinh trở lại một hay hai lần hoặc ngay trong kiếp này ta cũng có thể được  giải thoát hoàn toàn.

                          Cụm từ “an trú hạnh phúc trong hiện tại một cách dễ dàng và không có khó khăn gì“ được lặp lại nhiều lần trong kinh.

                          Xá Lợi Phất, thầy nên ghi nhớ rằng một người đệ tử áo trắng, nếu thực tập được như thế là đã chấm dứt được sự sa đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh và các đường dữ khác; đã chứng được quả Tu Đà Hoàn (vào dòng), không còn thối đọa vào các ác pháp. Người ấy chắc chắn đang đi về nẻo chánh giác và chỉ cần qua lại tối đa bảy lần nữa trong các cõi trời và cõi người là có thể đạt đến biên giới của sự hoàn toàn giải thoát diệt khổ.

                          Kinh chỉ cho chúng ta rất nhiều điều:

                          Đức Thế Tôn dạy rằng chúng ta không thực tập để có hạnh phúc trong tương lai hay để có sự giải thoát và giác ngộ sau này mà thôi. Trước hết ta phải có hạnh phúc, giải thoát và giác ngộ ngay bây giờ. Trong đó có hàm ý: Không có con đường đưa tới hạnh phúc, hạnh phúc chính là con đường. Nếu ta thấy đau khổ trong khi tu là không đúng. Trong khi tu ta phải có hạnh phúc thì mới đúng. Nếu nghĩ rằng phải cực khổ bây giờ để trong tương lai có được hạnh phúc là ta không đi đúng con đường. Giáo lý “hiện pháp lạc trú“ (drstādharmasukhavihara) rất quan trọng trong đạo Bụt. Drstā là hiện pháp, sukhavihara là lạc trú hay lạc cư. Nhưng nhiều tông phái, nhiều chùa đã đánh mất giáo lý này. Ta tu như thế nào để có hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại dù ta là cư sĩ. Ta không cần phải lao nhọc mà vẫn hạnh phúc trong giây phút hiện tại (không có khó khăn gì), ta phải tu cho khéo (Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm). Cũng với pháp môn đó, nếu khéo tu thì ta có hạnh phúc ngay lập tức, còn không khéo tu thì ta cứ vật lộn hoài mà vẫn không đưa tới kết quả.

                          Quá khứ không còn nữa, tương lai thì chưa tới, những gì chúng ta thấy trong hiện tại là hiện pháp. Hạnh phúc phải có trong hiện pháp. Ta phải có hạnh phúc trong khi tu và phải tu như thế nào để đừng mệt nhọc, mất sức, chịu đựng. Ta phải ngồi thiền như thế nào để có hạnh phúc, đi thiền như thế nào để có hạnh phúc, tụng kinh như thế nào để có hạnh phúc. Nếu ta cố gắng mệt nhọc, thân tâm rã rời là không đúng. Ta phải khéo tu.
                          Hiện tại bảo đảm cho tương lai. Ta không rơi trở lại con đường của hệ lụy, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
                          Ta được vào dòng giải thoát và thế nào ta cũng được giải thoát hoàn toàn.
                          Kinh này không chỉ trả lời cho những mối quan tâm thường nhật của con người, mà cũng trả lời cho mối quan tâm tối hậu của con người. Con người có những mối quan tâm của đời sống hằng ngày như làm sao để có sức khỏe, để được che chở, để được an cư lạc nghiệp, v.v…Nhưng người cư sĩ cũng có mối quan tâm tối hậu. Họ cũng muốn biết: Sau này mình sẽ đi về đâu? Họ rất bận, họ không có thì giờ nhưng lâu lâu họ cũng hỏi: “Không biết mình từ đâu tới và mình sẽ đi về đâu? Sau khi chết mình sẽ như thế nào?“ Đó là mối quan tâm tối hậu.

                          Giữa ba chất liệu tín mộ, chất liệu tâm linh và chất liệu chú thuật không có ranh giới rõ ràng

                          Tuy dạy cho cư sĩ nhưng Bụt cũng làm thỏa mãn hai loại quan tâm: làm sao để có hạnh phúc trong đời này và làm sao để thấy được tương lai, thấy được mình đang đi về đâu. Trong kinh có rất nhiều chất liệu tâm linh.

                          Chúng ta phải để ý một chi tiết là trong kinh Bụt gọi các cư sĩ là thánh đệ tử. Thánh đệ tử là đệ tử, tuy là cư sĩ nhưng có chất thánh (holy element) trong họ. Khi có năng lượng của niệm, định và tuệ thì ta có chất thánh trong con người của mình. Chất thánh đó bảo hộ ta, làm cho ta hạnh phúc và đưa ta đi tới. Chất thánh không từ ngoài đi vào mà là do tự ta chế tác ra bằng sự tu tập năm giới và bốn phép tùy niệm.

                          Đạo Bụt cung cấp cho người cư sĩ chất liệu tâm linh (the spiritual element) chứ không phải chỉ cung cấp sự tín mộ như nhiều người đã hiểu lầm. Tín mộ là chỉ tin tưởng vào những thế lực bên ngoài. Giữa chất liệu tâm linh và chất liệu tín mộ (the devotional element) không có một ranh giới rõ ràng, vì vậy có những phép thực tập mà bề ngoài thấy như tín mộ nhưng bên trong rất tâm linh vì trong đó có niệm, định và tuệ. Ví dụ như chúng ta lạy trước tượng Phật, bề ngoài trông giống như pháp môn tín mộ. Bụt là người, ta cũng là người, người này lạy người kia tại vì trong người kia có chất liệu thánh. Ta là người hoàn toàn không có khả năng và ta lạy cầu xin một vị Phật, vị bồ tát, vị thánh nhân cứu giúp mình. Lạy như vậy giống như một sự tín mộ.

                          Tuy nhiên, tùy theo cách lạy, trước khi lạy ta quán chiếu: Người lạy và người được lạy đều không có tính cách riêng biệt.

                          Lạy Đức Thế Tôn, Ngài là Bụt, con là chúng sanh nhưng con thấy Bụt được làm bằng những chất liệu không phải Bụt, trong đó có chúng sanh. Con tuy là chúng sanh nhưng con có chất Bụt trong lòng. Nhận thức như vậy, con thấy con có trong Bụt và Bụt có trong con.

                          Quán chiếu như vậy rồi lạy xuống thì không phải là sự tín mộ, cầu xin mà là sự thực tập. Lạy xuống trước tượng Phật, bề ngoài giống như một sự tín mộ nhưng bên trong là một hành động quán chiếu. Người ta thường hay lẫn lộn tín mộ và tâm linh.

                          Ngoài chất liệu tín mộ và chất liệu tâm linh còn có chất liệu chú thuật (the magical element). Người theo đạo Thiên chúa cũng tin tưởng vào những thế lực ma quái. Khi cảm thấy có thế lực ma quái thì người ta đưa cây thánh giá ra trước mặt và nghĩ rằng ma quái phải rút lui. Cây thánh giá tuy được làm bằng gỗ hay bằng sắt nhưng nó có thần lực. Đó là chất liệu chú thuật. Chúng ta cũng có câu thần chú để mỗi khi gặp ma ta đọc lên thì ma chạy. Đó cũng là chất liệu chú thuật.

                          Không có ranh giới rõ ràng giữa ba chất liệu tín mộ, tâm linh và chú thuật, ví dụ như Tâm Kinh Bát Nhã. Tâm Kinh là một kinh nói về tuệ giác cao nhất (the perfect understanding). Tâm Kinh Bát Nhã giúp ta quán chiếu thấy được tất cả đều không có tự tánh để ta vượt thoát những khổ đau, sợ hãi (độ nhất thiết khổ ách). Tâm Kinh Bát Nhã là một hình thái sinh hoạt tâm linh cao nhất (prajñā paramita). Nhưng có người tụng Tâm Kinh để có công đức, sáng trưa chiều đều tụng, tụng ba bốn chục năm mà vẫn không hiểu. Cũng như chú Chuẩn Đề và chú Đại Bi, người ta tụng năm này sang năm khác mà không hiểu gì cả. Người ta tin tưởng rằng tụng chú để đuổi tà ma. Cũng như những thầy tụng chú Lăng Nghiêm để nữ sắc đừng tới kéo mình, nhưng có thầy dù tụng năm này sang năm khác mà nữ sắc vẫn kéo đi như thường. Ta có câu thần chú, khi nằm mơ thấy ma ta đọc lên câu thần chú nhưng con ma nhe răng cười chẳng sợ gì cả. Tâm linh có thể trở thành tín mộ và tín mộ có thể trở thành chú thuật.

                          Có những thuyền nhân vượt biển chỉ đem theo một bản Tâm Kinh. Họ tin rằng bản Tâm Kinh có thể cứu họ khỏi những cơn sóng gió ngoài biển, tránh thoát loài thủy quái và những tên hải tặc. Tôi có những đệ tử đem theo cuốn “Nẻo về của ý“ khi vượt biển. Họ nghĩ cuốn sách đó rất linh thiêng, trong đó có nói về Tâm Kinh. Khi sử dụng văn bản Tâm Kinh để bảo hộ cho mình thì có thể ta có sử dụng một ít chất liệu tâm linh nhưng ta sử dụng chất liệu tín mộ nhiều hơn. Có thể ta tin rằng có Tâm Kinh trên thuyền thì hải tặc không dám tới. Đó là chất liệu chú thuật. Khi người Anh tới xâm chiếm nước Miến Điện bằng máy bay, xe tăng và súng đạn thì có những Phật tử mang bùa chú đi tới trước súng đạn vì họ nghĩ rằng có bùa chú trên người thì súng bắn không lủng. Họ đưa tay lên trời bắt ấn vì họ tin rằng làm như vậy thì máy bay sẽ rớt xuống.

                          Thọ trì năm giới để bảo đảm tự do và hạnh phúc

                          Nhưng khi đọc kinh Người Áo Trắng thì chúng ta thấy chủ ý của Bụt là cho người cư sĩ chất liệu tâm linh. Năm giới là sự thực tập giúp cho ta đừng sa đọa vào cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Mỗi giới bảo đảm cho ta một tự do. Ví dụ như giới thứ năm là “không vướng vào vòng ma túy“, nếu ta giữ giới thứ năm này thì ta không vướng vào ma túy rất rõ ràng. Năm giới bảo đảm cho ta năm không gian tự do. “Không rơi trở lại vào tình trạng hệ lụy“ không phải là chuyện siêu hình mà là chuyện rất thực tế và rất khoa học. Giữ năm giới thì ta có năm khoảng trời tự do thật lớn, thân tâm ta được thanh tịnh, mạnh khỏe và ta có nhiều niềm vui. Đây không phải là một sự hứa hẹn hão huyền về một hạnh phúc tương lai. Giữ năm giới thì ta có hạnh phúc ngay lập tức. Ai đã thọ năm giới thì biết giờ phút mà ta quỳ xuống nhận năm giới là ta có hạnh phúc liền. Ta thấy mình có một con đường và năm giới sẽ bảo hộ cho mình, mình sẽ có rất nhiều tự do khi thọ trì năm giới. Bụt dạy người cư sĩ phải thọ trì năm giới thì mới bảo đảm được hạnh phúc của mình. Hạnh phúc đó ta không phải chờ lâu, ta có thể có ngay trong giây phút hiện tại.

                          Nhưng nói như vậy không có nghĩa là người xuất gia không cần năm giới. Người xuất gia thọ 250 giới nhưng 250 giới đó rốt cuộc vẫn nằm trong năm giới. 250 giới có nhiều chi tiết hơn nhưng vẫn phát xuất từ năm giới. Theo truyền thống thì năm giới rất đơn sơ: không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, không uống rượu. Nhưng năm giới trong kinh Người Áo Trắng có giới tướng rất rõ ràng. Nương trên tinh thần của kinh Người Áo Trắng ở Làng Mai chúng ta có năm giới tân tu với đầy đủ giới tướng, phản chiếu được tinh thần Tứ đế và Bát chánh đạo trong đó có chánh kiến. Khi quyết tâm thực tập theo năm giới thì ta chắn chắc có tự do, hạnh phúc và niềm vui ngay trong giây phút hiện tại. Điều này rất khoa học, không có gì là mê tín dị đoan. Đó là chất liệu tâm linh, trong đó có niệm, định và tuệ.

                          Bốn tâm cao đẹp

                          Bốn tâm cao đẹp là niệm Bụt, niệm Pháp, niệm Tăng và niệm Giới.

                          Niệm Bụt

                          Niệm Bụt không phải là cầu xin ân huệ từ một thế lực bên ngoài. Niệm Bụt làm cho tâm ta được tịnh hóa. Bụt là một con người như mình, nhưng nhờ sự thực tập mà chuyển hóa được những phiền não, khổ đau. Khi niệm Bụt ta có một niềm tin là ta cũng có thể làm như Bụt, tại vì nếu Bụt là con người mà làm được thì ta là con người, ta cũng có thể làm được. Vì vậy diễn tả Bụt như một thần linh là một điều tai hại, làm cho người ta không thể với tới được. Bụt phải là một con người. “Đường xưa mây trắng“ là bộ sách mà trong đó tác giả đã tìm đủ mọi cách để phục hồi tính người của Bụt. Thấy Bụt như một con người ta sẽ dễ dàng tới tiếp cận, còn nếu Ngài là một thần linh thì rất khó mà tiếp cận. Bộ “Đường xưa mây trắng“ có công đức giúp cho ta thấy được Bụt là một con người để ta tiếp cận được dễ dàng và ta niềm tin là ta cũng sẽ làm được như Bụt. Những đức tính như Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn là những đức tính mà chúng ta cũng có thể có được. Đó là 10 danh hiệu của Bụt.

                          Cư sĩ Cấp Cô Độc, mỗi khi nghĩ tới Bụt là ông có hạnh phúc ngay. Trong cuộc đời, nếu ta có được một người quen như vậy thì rất hay, mỗi nghĩ tới người đó thì tự nhiên ta có hạnh phúc tràn trề. Trong trường hợp của ông Cấp Cô Độc thì người đó là Bụt. Thầy Xá Lợi Phất biết rất rõ là ông Cấp Cô Độc đang đau nhức, nhưng nếu thầy nhắc tới Bụt thì chắc là ông sẽ bớt đau ngay. Thiền hướng dẫn của thầy Sariputra rất khôn ngoan.

                          Niệm Pháp

                          Pháp là một đối tượng của tùy niệm, anusmrti. Niệm Pháp ta cũng có hạnh phúc rất nhiều. Pháp đại diện cho Bụt, Pháp là chất liệu của một vị Bụt. Sở dĩ Bụt là Bụt là vì Ngài có Pháp thân. Pháp thân là sự thực tập, là tuệ giác, là cái cho ta tự do và hạnh phúc. Pháp không phải là một cái gì xa xôi, ta có thể trực tiếp tiếp cận Pháp mà không cần phải qua trung gian của một người nào dù cho người đó là một tăng lữ.

                          Pháp là gì? Pháp có tính cách thiết thực, hiện tại, không phải là cái gì mơ hồ thuộc về thế giới siêu nhiên và tương lai. Đặc tính của Pháp là samdittika, có nghĩa là có tính cách thiết thực trong giây phút hiện tại như thở vào, thở ra. Thở vào, thở ra là chuyện chúng ta có thể thấy trong giây phút hiện tại. Nếu để tâm vào hơi thở và thở vào ta sẽ thấy trong khi thở ta đem thân về với tâm và hơi thở vào làm cho thân của ta hay cảm thọ của ta lắng dịu xuống. Đó là chuyện thiết thực hiện tại (samdittika). Pháp không phải là cái ta mong ước ở tương lai. Sự thực tập và hạnh phúc xảy ra ngay trong giây phút hiện tại. Nó vượt thoát thời gian (ākālika), nó có hiệu nghiệm ngay trong giây phút hiện tại và không bao giờ mất tính hiện tại của nó. Giáo pháp mâu nhiệm này, ta có thể tự mình thực chứng (ehipasika) mà không cần phải qua một trung gian. Ehipasika là tự mình tiếp cận và chứng nghiệm. Đây không phải là sự tín mộ, cầu xin.

                          Diệu pháp của Đức Thế Tôn, con đường mà con đang nguyện đi theo, là giáo pháp đã được nhiệm mầu tuyên thuyết. Giáo pháp đó là thiện thuyết (well proclamed), là giáo pháp có thể chứng nghiệm ngay trong giây phút hiện tại (samdittika), là giáo pháp có giá trị vượt thoát thời gian (ākālika), là giáo pháp mà mọi người có thể đến mà tự thấy (ehipasika), là giáo pháp có công năng dẫn đạo đi lên, là giáo pháp có công năng dập tắt phiền não, là giáo pháp mà người trí nào cũng có thể tự mình thông đạt.

                          Đây không phải là sự lạy lục cầu xin, không phải là sự tín mộ mà trước hết là tâm linh, là tuệ giác. Vì vậy giáo pháp Đức Thế Tôn hiến tặng cho người tại gia là một loại giáo pháp cao, thuần túy, không đòi hòi một niềm tin mù quáng. Khi tâm ta tiếp cận được với ba viên ngọc quí tức Bụt, Pháp và Tăng thì tự nhiên ta có hạnh phúc, ta cảm thấy có sự che chở bởi năng lượng niệm-định-tuệ được chế tác ra trong sự thực tập.

                          Hạnh phúc ngay trong hiện tại

                          Niệm Bụt, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, ta không cần phải niệm Thiên để được sinh lên cõi trời. Ta đang có hạnh phúc trong giây phút hiện tại, mà nếu có hạnh phúc ở cõi này thì cõi này đã là cõi trời. Người ta muốn sinh Thiên hay sinh cõi Tịnh độ, nhưng nếu đã có hạnh phúc ở đây rồi thì ta không cần Thiên giới hay cõi Tịnh độ nữa. Cụm từ “hiện pháp lạc trú“ đã được lặp lại sáu lần trong kinh. Là người xuất gia, nếu muốn đem Phật pháp chia sẻ với người cư sĩ thì ta phải nhớ làm thế nào để họ được sống hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại, đừng hứa hẹn với họ Niết bàn, Tịnh độ hay Thiên đường. Đó là ý của Bụt, ta phải sống hạnh phúc trong giây phút hiện tại. Chuyện này không khó khăn gì và phương pháp thực tập lại rất dễ chịu. Ta có thể làm hay hơn nữa, khi có hạnh phúc thì ta chứng được quả vào dòng cùng đi với tứ chúng. Nếu đi một mình như một giọt nước thì ta sẽ bốc hơi, đi như một dòng sông với đại chúng thì chắc chắn là ta sẽ đi ra biển. Vào dòng là không đi lui nữa. Đã vào dòng rồi, dù có được giải thoát hoàn toàn trong năm kiếp hay trong hai kiếp nữa thì ta cũng đã yên, ta không còn lo sợ. Hơn nữa ta đang có hạnh phúc nên ta không cần phải giải thoát mau một cách hấp tấp.

                          Chúng ta có những phép thực tập dành cho cư sĩ mà người xuất gia cũng có thể tham dự được. Nếu khéo léo thực tập thì những pháp môn đó có chất liệu tâm linh nhiều hơn chất liệu tín mộ:

                          Lễ kính

                          Nhất giả, lễ kính chư Phật: Sự thực tập đầu tiên là bày tỏ sự kính ngưỡng của mình đối với Bụt. Bên ngoài sự thực tập này giống như một hành động tín mộ, nhưng nếu ta biết cách thì sự thực tập có chất liệu tâm linh rất cao. Muốn lễ Bụt ta phải quán chiếu Bụt là ai, ta là ai, giữa ta và Bụt có sự liên hệ nào. Biết được giữa ta và Bụt không có sự ngăn cách thì tuệ giác sẽ phát hiện ra trong khi ta lạy xuống. Sáng nay, khi đọc Sám pháp địa xúc tôi cũng lạy xuống như các thầy, các sư chú và các đạo hữu nhưng trong khi lạy tôi quán chiếu là mình đang lạy với tất cả dòng họ huyết thống và tâm linh mà không phải là một cá nhân đang lạy xuống. Đó là có chất liệu tâm linh. Ta cũng thấy được là người đang lạy và người được lạy không tách rời nhau tại vì trong tổ tiên tâm linh cũng có Bụt. Trong khi lạy ta tiếp xúc được vô ngã, tiếp xúc được tính bất nhị giữa Bụt và chúng sanh. Cái lạy đó không phải là tín mộ. Tuy bên ngoài có vẻ giống như ta cầu xin sự che chở, cầu xin một chút hạnh phúc, một chút tâm linh nhưng thật ra trong khi lạy ta chế tác ra hạnh phúc, chế tác tự do và chế tác tâm linh.

                          Xưng tán

                          Nhị giả, xưng tán Như Lai: Xưng tán là ca ngợi, ta ca ngợi Bụt là bậc thầy của loài trời, loài người. Bụt đã qua tới một cách nhiệm mầu, đã diệt trừ được những phiền não, đã điều phục được con người dù là những người ngang ngược nhất. Nếu biết quán chiếu ta thấy mình đang đi trên con đường của Bụt và mình cũng đang thực hiện những điều Bụt đã làm. Xưng tán đem lại những tuệ giác, những tự do và làm cho phiền não, tham vọng, hận thù tan biến đi tại vì chúng ta đang hướng về một cái gì rất đẹp. Phương hướng rất quan trọng, khi biết được phương hướng quay về thì ta buông bỏ được rất nhiều hệ lụy. Vì vậy con người phải có một hướng đi. Trong kinh có nói làm thân con lạc đà chở nặng cũng chưa thật sự là khổ, chỉ khi nào không biết được hướng đi mới thật là khổ. Khi lễ kính và xưng tán là ta biết đi về hướng nào, ta muốn đi về hướng của Bụt, của Bồ Tát. Hướng về đó là ngoảnh lưng lại với những cái khác. Xưng tán Như Lai đem lại hạnh phúc ngay trong khi xưng tán.

                          Cúng dường

                          Tam giả, quản tu cúng dường: Chúng ta thường nghĩ cúng dường là cung cấp cho người xuất gia bốn thứ cần thiết như thức ăn, áo quần, thuốc men và chỗ ở gọi là tứ sự cúng dường. Cúng dường thì có công đức, công đức này giống như một trương mục tiết kiệm để này ta xài dài dài sau này. Thật ra nếu cúng dường bằng chất liệu tâm linh thì ngay trong lúc cúng dường ta buông bỏ, ta có niềm vui, có hạnh phúc, tự do. Khi ta giúp được cho người bớt khổ và có niềm vui thì hạnh phúc tới ngay trong lúc đó chứ không phải chỉ có trong tương lai.

                          Hơn nữa có nhiều thứ cúng dường, ta cúng dường thực phẩm, áo quần, thuốc men nhưng ta cũng có thể cúng dường Phật pháp. Ta đem đạo Bụt ra để giúp cho người khác bớt khổ, ta cho họ một giờ tham vấn và với kinh nghiệm, với tuệ giác của mình trong một giờ đó ta có thể kéo họ ra khỏi địa ngục. Đó là một loại cúng dường, còn quan trọng hơn là cúng dường cơm áo. Ta ngồi với một người đang trẩm luân, khổ não không có lối ra và ta quán chiếu, nhìn rõ, hiểu thấu nỗi khổ niềm đau của người đó rồi tìm cách đưa họ ra khỏi thế giới của địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Đó là một hình thức cúng dường. Không cần phải có tiền mới cúng dường được, ta chỉ cần có tình thương và tuệ giác là có thể cúng dường rất nhiều. Đó là cúng dường Pháp.

                          Cúng dường hương không phải để có mùi thơm. Thay vì đốt một cây nhang ta đốt cả bụm, tưởng rằng làm như vậy là có nhiều công đức. Chư tổ đã dạy ta phải biết cách cúng dường hương. Chúng ta có những bài dâng hương rất hay:

                          Giới hương, định hương, tuệ hương, giải thoát hương, giải thoát tri kiến hương. Con có giới, có định, có tuệ, có giải thoát và con đem cúng dường lên Bụt.

                          Cúng dường như vậy thì công đức vô lượng, cúng dường không cần nhiều tiền mà chỉ cần tâm của mình.

                          Sám hối

                          Tứ giả, sám hối nghiệp chướng: Sám hối không phải là xưng tội. Với sự chứng minh của tăng thân, của sư anh, sư chị, của chư Bụt và chư Bồ Tát ta nhìn lại con người của mình để thấy ta đã đi tới đâu, ta đã thành công chỗ nào và chưa thành công chỗ nào để ta có thể đi tới.

                          Sám pháp địa xúc là một pháp môn rất hay, là một quá trình quán chiếu để chuyển hóa mà không phải là một hành động thú tội và cầu xin. Ở xóm Thượng sáng nào chúng ta cũng thực tập Sám pháp địa xúc. Ví dụ ta nói: Bạch Đức Thế Tôn, lâu nay con đi như bị ma đuổi, con không có an lạc trong từng bước chân. Con sinh ra đời để đi như vậy thì rất uổng. Trong khi Đức Thế Tôn đi từng bước thảnh thơi, an lạc, hạnh phúc, nuôi dưỡng trị liệu mà con lại đi như vậy thì con không xứng đáng làm học trò của Ngài. Con lạy xuống ba lạy hứa với Đức Thế Tôn là từ nay trở đi mỗi bước chân của con sẽ có vững chãi, an lạc, thảnh thơi, nuôi dưỡng và trị liệu. Đó là sám để đưa tới tuệ giác và lành mạnh hóa đời sống của mình.

                          Tùy hỉ

                          Ngũ giả, tùy hỉ công đức: Chúng ta phải có tâm niệm vui khi người khác thành công. Người kia có hạnh phúc thì ta mừng cho người đó. Ta không ganh tị, tranh đua với người đó. Thấy bất cứ điều gì có tác dụng đưa nhân loại đi tới, giúp cho con người bớt khổ thì ta đều yểm trợ. Đó gọi là tùy hỉ công đức. Ta thấy những thực hiện của người đó cũng là những thực hiện của mình và những gì ta thực hiện cũng là để cho người đó có hạnh phúc.

                          Ta có 10 hạnh của đức Phổ Hiền mà quí vị phải tự học lấy:

                          Lục giả, thỉnh chuyển pháp luân.

                          Thất giả, thỉnh Phật trụ thế.

                          Bát giả, thường tùy Phật học.

                          Cửu giả, hằng thuận chúng sanh.

                          Thập giả, phổ giai hồi hướng.

                          Phóng sinh

                          Chúng ta có những sự thực tập như phóng sinh tức thả chim, thả cá. Sự thực tập này cũng đem lại hạnh phúc, nó không hẳn là sự tín mộ mà là tâm linh. Phóng sinh đem lại rất nhiều niềm vui vì ta bảo hộ cho các loài chúng sinh. Ăn chay là một trong những hành động phóng sinh đẹp nhất. Nếu ăn chay mà ta đau khổ thì thà là đừng ăn chay còn hơn. Ta phải có hạnh phúc trong khi ăn chay, ta có niềm vui vì mình không cần ăn thịt của chúng sinh, mình bảo hộ cho sinh môi, mình cho trái đất một tương lai.

                          Tu tạo công đức: Giúp người nghèo, người cô đơn.

                          Xây tháp,

                          Đúc chuông

                          In kinh

                          Ăn chay

                          Cúng thí thực

                          Đeo tượng Phật: Đeo tượng Phật hay thờ Phật để nhắc ta hình ảnh của Phật, để nhắc rằng ta đã có con đường thì đeo tượng Phật có tính cách tâm linh. Nếu nghĩ tượng Phật này rất linh thiêng, đem theo trong xe ta sẽ không bao giờ gặp tai nạn thì đó là sự tín mộ.

                          Trong kinh này Bụt dạy về tâm linh nhiều hơn sự tín mộ. Ngài rất coi trọng người cư sĩ, Ngài biết người cư sĩ có thể thành đạt rất nhiều. Chúng ta có thể nghĩ rằng sự thực tập trước tiên là chất liệu tâm linh có khả năng chế tác giới, định và tuệ. Nhưng nếu không khéo thì tất cả sự thực tập tâm linh trở thành sự thực tập tín mộ, trong đó có thể có cả sự thực tập ma thuật. Muốn đem Phật pháp truyền bá rộng rãi trong nhân gian ta phải nắm được vấn đề để đừng làm thoái hóa đạo Bụt, để đừng làm mất đi bản chất của đạo Bụt. Ví dụ trong kinh Bụt dạy người cư sĩ phải thực tập như thế nào để có hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại và hạnh phúc trong hiện tại sẽ bảo đảm cho tương lai. Nếu khuyên người ta nên phát tâm nhàm chán cõi đời này để cầu sang một cõi khác là không đúng theo nguyên ý của Bụt. Bỏ hiện tại để tìm cầu tương lai là không đúng với bản hoài của Bụt. Trong kinh Bụt có nói tới cõi trời như một chỗ ta có thể sinh ra trở lại để tu học mà không phải chỗ cuối cùng. Chỗ cuối cùng của chúng ta là giải thoát hoàn toàn.

                          Người ta nói cúng dường cho các thầy thì sau này được sinh lên cõi trời là không đúng. Ta có thể được sinh lên cõi trời nhưng đó không phải là mục đích chính. Mục đích đầu tiên là phải có hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại và được sinh lên cõi trời hay lên cõi Tịnh độ chỉ là những sản phẩm phụ mà thôi. Lấy sản phẩm phụ làm mục tiêu là không đúng, mục tiêu là sống hạnh phúc ngay lập tức. Ta phải giúp Bụt, ta phải phục hồi lại giáo lý nguyên thỉ của Ngài. Ta phải cống hiến phương pháp tu như thế nào để người ta có hạnh phúc, có giải thoát, có tự do ngay trong giây phút hiện tại và hạnh phúc đó bảo đảm cho tương lai. Không phải là Bụt không nghĩ tới tương lai, nhưng Ngài nói tương lai tùy thuộc hiện tại, nếu hiện tại ta có hạnh phúc thì chắc chắn là ta sẽ có hạnh phúc trong tương lai.

                          Kinh Giáo Hóa Người Bệnh

                          Sau khi đã thực tập dưới sự hướng dẫn của thầy Xá Lợi Phất thì ông Cấp Cô Độc thoát ra khỏi sự sợ hãi. Người sắp chết thường rất sợ hãi, họ không biết mình sẽ đi về đâu. Biết rõ tính của vạn pháp là không tới, không đi, không có, không không, không sinh, không diệt thì cư sĩ Cấp Cô Độc chết một cách rất nhẹ nhàng. Cư sĩ đã nhắn lại một thỉnh cầu: Phần lớn người cư sĩ chỉ lo chuyện làm ăn, buôn bán, gia đình, sự nghiệp mà không có thì giờ để học hỏi giáo pháp nhiều. Tuy vậy trong số cư sĩ cũng có những người có khả năng và thì giờ để tiếp thu và hành trì giáo pháp mầu nhiệm mà thầy Xá Lợi Phất đã trao truyền hôm nay. Xin thầy A Nan về bạch với Đức Thế Tôn cũng nên ban phát giáo lý bất sinh bất diệt, vô khứ vô lai cho người cư sĩ.

                          Vì vậy trong những khóa tu Làng Mai tổ chức tại Âu Châu hay Mỹ Châu đều có một bài giảng cuối cùng về không sinh không tử. Đó là thể theo lời thỉnh cầu của cư sĩ Cấp Cô Độc, một khóa tu bảy ngày mà không có giáo lý về sinh tử để đáp ứng lại mối quan tâm tối hậu thì vẫn còn chưa đầy đủ.

                          _____________

                          Văn bản:

                          Kinh Người Áo Trắng
                          Kinh Giáo Hóa Người Bệnh

                          Hoa trái của người xuất gia

                           

                          Tôi có viết một bài 11 trang đánh máy tóm tắt lại những ý chính của những bài pháp thoại chúng ta đã nghe trong khóa mùa Đông này. Tư liệu này dành cho các vị đã tham dự khóa tu mùa Đông để các vị đọc lại những gì đã nghe trong khóa tu mùa Đông năm nay. Có thể ta đã nghe nhưng ta đã quên, đã làm rơi rụng nhiều. Vì vậy bài này giúp cho ta nhớ lại cốt tủy của những điều ta đã được nghe. Quí vị có nhớ bài “Lá Thư Viết Cho Nhà Khoa Học Trẻ“ năm ngoái không? Bài đó tóm tắt lại những ý chính của khóa tu mùa Đông năm ngoái. Bài này tóm tắt lại những điều ta đã học trong khóa tu năm nay. Chúng ta đọc và nắm cho vững để tiếp tục nghe những bài pháp thoại mới.

                          Hoa trái thực tập của người xuất gia

                          Một ông vua bị bệnh tâm thần, ông tên A Xà Thế (Ajātaśatru), là con của vua Tần Bà Sa La (Bimbisāra). Ông bị bệnh tâm thần tại vì ông đã giết cha để lên làm vua và bây giờ ông hối hận. Hồi đó Bụt đang còn sống, vua Bimbisāra rất thân với Bụt.

                          Một hôm vua Bimbisara đang ngồi trên xe loan thì thấy một thầy ôm bình bát đi rất đẹp, rất thảnh thơi trên đường phố thành Vương Xá. Vua rất ấn tượng nhưng không xuống xe để hỏi thăm, tại vì vua thấy làm như vậy thì quá đường đột. Vua ra lệnh cho một người hầu cận đi theo ông thầy đó để biết chỗ ở của ông. Ông thầy đó là Siddharta khi chưa thành đạo.

                          Siddharta là một vị hoàng tử cho nên cách đi, đứng đã đẹp rồi. Nhưng khi thành một người xuất gia thì cách đi, đứng lại càng đẹp hơn nhờ có chánh niệm và chánh định. Điều này làm cho vua rất ấn tượng. Sau khi biết được chỗ ở của Siddharta trong thành phố, một hôm vua đem vài người tùy tùng theo đi thăm Siddharta. Lúc đó Siddharta vừa đi khất thực về, đang ở trên một ngọn đồi ở ngoại ô thành phố. Xa giá tới chân đồi, vua bảo tùy tùng ngồi đợi, vua đi bộ lên đồi và hai người đã gặp nhau lần đầu. Vua rất mộ đạo, muốn có một vị thầy giỏi làm cố vấn cho vua để vương quốc có thêm giá trị. Các nhà chính trị thường muốn trong nước có một nhà lãnh đạo tôn giáo có uy tín để vương quốc của mình có được một chiều sâu tâm linh. Vua Bimbisāra cũng vậy, vua đã thỉnh Siddharta về làm quốc sư dạy cho vua và làm thầy của cả nước. Vua mời rất trân trọng nhưng Siddharta đã từ chối:

                          • Tôi tu chưa chứng đạo, tôi không thể nào làm thầy của quí vị.

                          Hai người nói chuyện với nhau và vua Bimbisāra tìm ra gốc gác của Siddharta. Thì ra ông thầy tu này cũng là con của một ông vua và cũng sẽ trở thành vua. Nhưng ông ta đã bỏ ngôi vua để làm một ông thầy tu. Vua có nói hớ một câu:

                          • Nếu Ngài muốn, tôi sẽ cắt chia cho Ngài một nửa vương quốc này.

                          Siddharta nghĩ: “Mình đã bỏ một vương quốc rồi mà bây giờ còn nhận một nửa vương quốc để làm gì?“ Ngay chiều hôm đó, Siddharta rời bỏ thành phố vì sợ bị quấy rầy lần thứ hai. Nhưng trong buổi nói chuyện hôm đó Siddharta có hứa với vua Bimbisāra một điều: “Khi thành đạo tôi sẽ trở về giúp vua“. Vì vậy sau khi thành đạo thì Siddharta trở về nhưng không trở về một mình mà trở về với một tăng thân trên 1000 thầy. Lúc đó, Siddharta đã độ được cho trên 1000 người xuất gia, phần lớn là những người theo đạo thờ thần lửa cư trú ở làng Uruveda. Vua nghe tin Đức Thế Tôn cư trú với một ngàn vị khất sĩ trong Rừng Kè (Palm Grove). Vua dẫn theo hoàng gia cùng các viên chức trong triều đình thân hành tới thăm Bụt. Đây là lần đầu hai người gặp lại nhau sau khi Bụt thành đạo. Lúc đó Bụt còn rất trẻ, chưa đến 40 tuổi.

                          Khi Bụt về thành Vương Xá thì người trẻ phát tâm xuất gia rất đông. Lúc đó chưa có giáo đoàn Tỳ kheo ni. Vua Bimbisāra đã trở thành người yểm trợ Bụt hết lòng, vua vừa là bạn vừa là đệ tử của Bụt.

                          Nhưng vua Bimbisāra có một hoàng tử không được dễ thương, đó là thái tử A Xà Thế (Ajātaśatru). Thái tử rất ham làm vua và được một phe đảng yểm trợ. Có một lần A Xà Thế giấu gươm trong áo, đi vào cung định giết cha mình nhưng bị quân hầu bắt được. Quần thần đòi xử tử thái tử, nhưng vì vua thương con quá nên tha đi. Nhất là vì vua là đệ tử của Bụt nên không nỡ xử tội thái tử.

                          Nhưng vì ý đồ muốn làm vua lớn quá nên Ajātaśatru vẫn chứng nào tật đó, tìm đủ cách để làm vua sớm ngày nào hay ngày đó. Nhà chính trị thường muốn có sự yểm trợ của nhà tôn giáo. Ajātaśatru cũng muốn có được sự yểm trợ của tăng đoàn của Bụt nhưng Bụt không đồng ý yểm trợ nên chính quyền đã tìm đủ cách để chia rẽ giáo đoàn của Bụt. Vì vậy trong giáo đoàn của Bụt có sự chia rẽ, trên 500 thầy đã đi theo Devadatta để lập một giáo đoàn mới.

                          Cuối cùng Ajātaśatru đã đảo chánh, bắt giam phụ hoàng, định để cho chết đói. Hoàng hậu Vaidehi năn nỉ quá nên Ajātaśatru cho phép bà vào thăm vua. Hoàng hậu giấu vài nắm cơm trong tóc đem vào cho vua ăn. Quân lính bắt được và tịch thu nên vua sắp chết đói trong tù. Hoàng hậu đã nghĩ ra nhiều cách như sau khi tắm xong bà thoa một lớp cháo hồ lên thân thể rồi mới mặc áo vào. Quân lính khám không thấy thực phẩm nên cho vào. Vào gặp được vua bà cởi áo và lột lớp hồ đó ra cho vua ăn. Thái tử thấy vua chưa chết mới khám phá ra thái hậu đã đem thức ăn vào cho vua nên từ đó cấm không cho thái hậu vào thăm vua nữa. Cuối cùng vua Bimbisāra chết và thái tử làm lễ đăng quang. Giáo hội nhà nước cư trú trên núi Tượng Đầu yểm trợ thái tử hết lòng. Bụt và giáo đoàn của Ngài không đến dự lễ đăng quang tại vì nếu dự lễ đăng quang là yểm trợ cho một chính quyền bất nhân, bất hiếu, vô đạo, không đúng với tiêu chuẩn đạo đức của đạo Bụt. Vua Ajātaśatru nghĩ rằng Bụt là bạn của cha mình ngày xưa nên chắc là Bụt thù ghét mình lắm. Vua không biết Bụt là một người rất nhân từ, không đem lòng ghét bỏ ai cả. Bụt chỉ thương, thương cả những người có tội lỗi. Một hôm con của vua Ajātaśatru đòi đem theo con chó vào ăn cơm. Theo luật của Hoàng gia thì không được đem theo chó khi ăn cơm, nhưng vua cưng con quá nên cho con đem chó vào. Vua nói với thái hậu Vaidehi:

                          • Con không cho nó đem chó vào nhưng nó cứ đòi quá nên con để nó đem chó vào, vậy con xin lỗi mẹ.

                          Thái hậu nói:

                          • Con thương con của con nên con cho nó đem con chó theo, đó là chuyện thường, mẹ có thể chấp nhận được. Con có biết là ngày xưa cha của con cũng thương con như vậy không? Để mẹ kể cho con nghe cha con thương con như thế nào.

                          Rồi bà kể cho vua nghe vài câu chuyện ngày xưa:

                          • Có một lần ngón tay trỏ của con bị sưng lên và nhức cho đến đỗi cả đêm con khóc và không ngủ được. Cha con phải ngậm ngón tay đó suốt đêm để cho nó ấm và mủ bưng ra để cho con bớt đau. Cha con đã hút mủ trong ngón tay ra và vì nếu nhả ngón tay của con để nhổ mủ ra thì con sẽ bị đau nên cha con đã nuốt mủ vào luôn trong bao tử của mình.

                          Nghe những câu chuyện như vậy, vua hối hận vô cùng. Từ đó về sau, vua bị bệnh tâm thần không ai chữa được. Các vị đạo sĩ các giáo phái khác được mời tới cũng không chữa trị được tâm bệnh của vua. Lúc đó Bụt đang cư trú dưới chân núi Thứu trong vườn xoài của bác sĩ Jivaka. Bác sĩ Jivaka đã có lần nói với vua Ajātaśatru:

                          • Nếu muốn bớt bệnh thì đại vương phải đi thăm Bụt. Tôi nghĩ chỉ có Đức Thế Tôn mới có thể giúp cho đại vương hết bệnh.

                          Vua Ajātaśatru nói:

                          • Không được đâu. Chắc là Bụt Gautami rất giận tôi tại vì tôi đã giết bạn của Ngài.

                          Bác sĩ Jivaka nói:

                          • Đại vương đừng nói như vậy. Bụt là một người nhân từ, lòng từ bi của Bụt rất lớn. Bụt không hề giận ai, Bụt không có kẻ thù. Đó là một con người tuyệt vời có lòng từ bi rất lớn và có thể ôm lấy tất cả mọi người. Nếu đại vương muốn, tôi sẽ tổ chức một cuộc viếng thăm.

                          Chiều hôm đó trời trong và mát nên vua chịu đi với bác sĩ Jivaka tới thăm Bụt dưới chân núi Thứu. Vua đi với một đoàn tùy tùng khá đông, tới gần núi Thứu vua hỏi bác sĩ Jivaka, bác sĩ Jivaka cũng đã từng chữa bệnh cho Bụt và chăm sóc sức khỏe cho tăng đoàn:

                          • Bụt ở một mình hay ở với nhiều người?

                          Bác sĩ Jivaka nói:

                          • Đức Thế Tôn luôn luôn ở chung với các thầy. Hiện bây giờ có khoảng 1000 thầy đang ở với Bụt. Khi tới đại vương sẽ thấy các thầy ngồi chung quanh Bụt rất đông.

                          Nhưng tới chân núi rồi mà vua thấy đêm thanh cảnh vắng. Vua sợ nghĩ: “Sao có 1000 người mà lại không có một tiếng ồn nào hay là nó lập mưu đặt bẫy để giết mình“. Vua run lên, Jivaka nói:

                          • Bệ hạ đừng sợ, sự im lặng này là sự im lặng hùng tráng của người tu.

                          Xuống voi, vua thấy có ánh lửa thấp thoáng trong vườn xoài. Vua đi theo bác sĩ Jivaka vào tịnh xá và thấy một cảnh tượng rất trang nghiêm: cả ngàn thầy ngồi rất im lặng và Bụt ngồi phía trước. Jivaka vào báo tin có hoàng đế tới thăm và Bụt ra đón. Hôm đó Bụt nói một kinh cho vua Ajātaśatru, kinh do câu hỏi của vua đặt ra. Theo nguyên tắc khi bệnh nhân tới bác sĩ tâm lý trị liệu thì phải nói bệnh của mình ra, nhưng vua lại hỏi câu:

                          • Thưa Thế Tôn, tại sao người trẻ đi tu đông như vậy, có ích lợi gì mà họ đi tu đông như vậy?

                          Một câu hỏi rất đơn sơ bởi vì vua ngạc nhiên thấy người trẻ đi theo Bụt rất đông mà người nào cũng tươi mát, hạnh phúc, khoan thai. Nghe câu hỏi đó, Bụt nói một kinh gọi là kinh Sa Môn Quả tức hoa trái của sự thực tập của người xuất gia:

                          Ví dụ như có một người nô lệ đang làm công cho một nhà giàu. Một hôm người đó gặp một vị thầy đang đi khất thực. Thấy vị này thảnh thơi, an lạc quá nên người nô lệ so sánh với mình: “Tại sao có một người thảnh thơi, an lạc như vậy còn mình thì cực khổ và lệ thuộc như thế này. Mình không có phẩm chất của một con người, mình chỉ làm nô lệ cho người ta, bị người ta đánh mắng, sai làm việc”. Người nô lệ nói chuyện với thầy đó thì thầy nói: ”Muốn thoát khỏi thân phận nô lệ thì anh chỉ cần đi xuất gia thôi. Nếu anh muốn thì tôi sẽ giới thiệu để anh được đi xuất gia”.

                          Mấy ngày sau người nô lệ được xuất gia, được một bình bát và ba cái áo và thoát ra khỏi thân phận nô lệ ngay lúc đó. Từ một nô lệ mình trở thành một vị khất sĩ, và không ai có quyền chủi mắng, đánh đập, sai bảo một vị khất sĩ. Chỉ trong mấy ngày, người đó thoát ra khỏi tình trạng kỳ thị giai cấp, sự phân biệt chủ tớ, giàu nghèo hay sang hèn và trở thành một người có nhân phẩm như mọi người khác. Đó là hoa trái đầu tiên của người xuất gia.

                          Vua nói:

                          • Hay quá! Hay quá! Xin Đức Thế Tôn nói tiếp nữa đi!

                          Kinh này là kinh Sa Môn Quả tức kinh Hoa trái của người xuất gia, mà hoa trái đầu tiên là thoát ra khỏi thân phận tù đày và sự kỳ thị.

                          Bụt nói tiếp:

                          Là người xuất gia, việc đầu tiên là ta thọ trì giới luật như giới không nói dối, không trộm cắp, không tà dâm. Ta thọ trì 250 giới, mỗi giới đều cho ta tự do. Khi ta giữ giới không uống rượu, không sử dụng các chất ma túy thì ta không bao giờ làm nô lệ cho rượu và các chất ma túy. Những người nghiện rượu và ma túy mất tự do của họ. Ta giữ giới thứ năm, không uống rượu, không sử dụng các chất ma túy thì ta có một khoảng tự do. Ta giữ giới thứ hai, không ăn trộm hay ăn cướp thì không ai có quyền bắt ta bỏ tù. Mỗi giới đem lại cho ta tự do, người xuất sĩ vì giữ 250 giới nên có 250 thứ tự do. Hoa trái thứ hai của người xuất gia là có rất nhiều tự do.

                          Vua nói:

                          • Hay quá! Hay quá! Trẫm nghe là hiểu liền. Xin Đức Thế  Tôn hãy dạy tiếp.

                          Bụt nói:

                          Là một người xuất gia thì ta không có tài sản, không có tiền bạc, châu báu nên ta không cần canh gác, ta không sợ mất gì cả. Nếu có tiền bạc, châu báu thì kẻ cướp có thể xông vào giết ta để chiếm đoạt. Ta không có gì ngoài một bình bát và ba y nên ta ở trong trạng thái rất an ninh. Dù là một vị thủ hiến, một vị toàn quyền hay một vị bộ trưởng thì ta cũng không có được an ninh như vậy. Người xuất gia buông bỏ tất cả tài sản nên không có gì để sợ mất. Người xuất gia có an ninh lớn và an ninh đó là hoa trái thứ ba của sự thực tập của người xuất gia.

                          Vua nói:

                          • Hay quá! Hay quá! Đức Thế Tôn nói dễ hiểu quá. Trẫm hiểu liền đây là hoa trái của sự thực tập của người xuất gia.

                          Chúng ta chỉ có một bình bát. Ta không có tài sản, không có trương mục trong ngân hàng nên ta không sợ bị mất mát, bị đánh đập, bị ganh ghét.

                          Bụt nói:

                          Này đại vương, đó chỉ mới là ba hoa trái đầu, còn rất nhiều hoa trái khác nữa. Người xuất gia không chạy theo danh vọng, quyền hành, sắc dục, không theo đuổi sự nghiệp ngoài đời nên có rất nhiều thì giờ để ngồi thiền, đi thiền và tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống chung quanh mình, thấy được vẻ đẹp của thiên nhiên, tiếp xúc được với những gì tươi mát, lành mạnh để nuôi dưỡng và trị liệu mình. Có được nhiều thì giờ là hoa trái thứ tư của sự thực tập của người xuất gia. Ở ngoài đời người ta rất bận, không có thì giờ để thở, để ăn cơm.

                          Chưa hết, đại vương, người xuất gia học hỏi và thực tập niệm, định và tuệ, biết thở, biết đi trong chánh niệm. Vì vậy cho nên người xuất gia biết cách chế tác được những giây phút vui mừng và hạnh phúc.

                          Nếu có chánh niệm thì ta có thể tiếp xúc được với những mầu nhiệm của sự sống và chế tác được niềm vui. Ta thấy mình có rất nhiều điều kiện hạnh phúc. Chỉ cần có mặt trong giây phút hiện tại là ta có thể tiếp xúc được với những điều kiện hạnh phúc ta đang có, như là: hai mắt của ta đang sáng, hai tai của ta đang nghe rất rõ, hai chân của ta còn khỏe. Với sự thực tập niệm và định, người xuất gia có thể chế tác được hỷ và lạc lúc nào ta muốn. Đó là hoa trái thứ năm của người xuất gia.

                          Hơn nữa vì có niệm, định, tuệ nên người xuất gia biết cách chăm sóc và quản lý nỗi khổ niềm đau của mình. Người xuất gia biết nhận diện, ôm ấp và xử lý nỗi khổ niềm đau của mình để chuyển hóa chúng và được nhẹ nhàng hơn trong thân và tâm. Đó là một hoa trái khác của người xuất gia.

                          Vua nói:

                          • Hay quá! Hay quá! Những điều Đức Thế Tôn dạy, trẫm hiểu rất dễ dàng. Ai ngờ rằng đi tu mà có được nhiều hạnh phúc, nhiều lợi lạc, nhiều hoa trái như vậy. Những chuyện đơn sơ như vậy mà lâu nay trẫm lại không biết.

                          Bụt nói:

                          Chưa hết đâu bệ hạ, còn nữa. Người xuất gia là người có cơ hội học về quán vô thường, vô ngã, nhận diện những phiền não của mình như đam mê, giận dữ, tuyệt vọng, ganh tị, những sợi dây ràng buộc tâm mình, không cho tâm mình thảnh thơi, an lạc. Khi sử dụng quán chiếu vô thường, vô ngã thì mình thoát ra khỏi những mặc cảm hơn người, thua người hay bằng người. Mình không còn mong muốn, ganh ghét, hận thù. Mình thấy rất thoải mái, an lạc. Mình có rất nhiều giải thoát, rất nhiều tự do.

                          Vua nói:

                          • Hay quá! Hay quá! Vậy mà trẫm không biết, trẫm tưởng những người đi tu là những người làm biếng không muốn lo chuyện đời.

                          Bụt nói:

                          Chưa hết đâu đại vương! Người xuất gia còn học được phương pháp quán chiếu tự tánh của các pháp và thấy được các pháp không sinh không diệt, thoát ra ngoài ý niệm sinh diệt và không còn sợ hãi sống và chết nữa, thản nhiên trước cái còn cái mất, cái sinh cái diệt. Khi người xuất gia đạt tới quả vị đó, thấy được cái không sinh không diệt, không có không không, không còn không mất thì người xuất gia có tự do rất lớn. Mỗi giây phút của đời sống người xuất gia là mỗi giây phút không sợ hãi, và hạnh phúc đó người thường không thể biết được. Chỉ khi nào đạt tới cái thấy không sinh không diệt, không còn không mất, không tới không đi thì lúc đó mới có sự tự do lớn.

                          Vua nói:

                          • Bạch Đức Thế Tôn, con chưa chứng nghiệm được điều này, nhưng con biết rằng nó có thể có được.

                          Bụt nói:

                          Chưa hết đâu đại vương. Người xuất gia, tuy không làm chính trị, nhưng sự có mặt của người xuất gia giúp cho nhiều người bớt khổ. Sự có mặt thảnh thơi, những bước chân, những nụ cười của người xuất gia làm cho xã hội thấy rõ rằng có một nếp sống nhẹ nhàng, hạnh phúc. Nhờ chuyển hóa được những phiền não, khổ đau của mình trở thành an lạc, hạnh phúc nên người xuất gia có thể giúp được nhiều người trong xã hội có thể làm được như mình. Tuy không làm chính trị, kinh tế nhưng người xuất gia rất có ích lợi cho cuộc đời.

                          Điều này chắc đại vương cũng thấy, nếu xã hội chúng ta không có đạo đức thì sẽ có bạo động, hận thù, khổ đau rất nhiều. Sự có mặt của đạo đức là một yếu tố rất quan trọng cho xã hội. Trong xã hội, mỗi người phải có một chiều hướng tâm linh đạo đức thì mới vượt thắng được nỗi khổ niềm đau. Người xuất gia, tuy không làm công việc chính trị, xã hội, kinh tế nhưng sự có mặt đạo đức của người xuất gia có thể giúp được cho rất nhiều người bớt khổ.

                          Nghe Bụt nói, vua rất cảm kích. Tuy không tham vấn Bụt về bệnh tâm thần của mình nhưng vua biết là Bụt thương mình, Bụt không thù, không giận mình và vua cảm thấy rất nhẹ nhàng. Vua lạy xuống nhận làm đệ tử của Bụt và tự nhiên những bức xúc, những khổ đau tâm thần của vua thuyên giảm rất nhiều. Vua được trị liệu ngay trong khi nghe Bụt thuyết pháp. Khi chào Bụt đi về trong người của vua rất nhẹ, vua biết y sĩ Jivaka đã giúp mình rất nhiều. Nếu không có y sĩ Jivaka thì vua không có cơ hội được trị lành bệnh.

                          Tất cả câu chuyện được ghi vào một kinh trong Trường Bộ gọi là kinh Sa Môn Quả tức kinh nói về hoa trái thực tập của người xuất gia.

                          Quán vô thường là phép quán căn bản

                          Câu hỏi “Chuyện gì sẽ xảy ra sau khi ta chết?” là một câu hỏi rất phổ thông. Trong bất cứ xã hội, quốc gia hay văn hóa nào người ta cũng hỏi câu hỏi đó. Người ta muốn biết sau khi chết thì mình còn hay không còn gì nữa.

                          Có những người tự xưng là khoa học gia cho rằng sau khi chết thì không còn gì nữa. Họ rơi vào trong cái gọi là đoạn kiến (the wrong view of annihilation). Nếu ngược lại ta cho rằng khi chết, tuy hình hài ta tan rã nhưng mình vẫn còn nguyên là mình, ta có một linh hồn bất tử thì ta rơi vào một tà kiến khác gọi là thường kiến (the wrong view of eternalism).

                          Những ý niệm như sinh và diệt, có và không, thường và đoạn là những phạm trù tư tưởng (mental categories), là những cái khung không thể chứa được sự thật. Quán chiếu sâu sắc ta thấy sự thật vượt thoát những phạm trù tư tưởng. Ở Làng Mai, chúng ta thường quán chiếu đám mây, nhìn bề ngoài ta thấy hình như đám mây có sinh ra và chết đi, có khi có, có khi không có. Nhưng nhìn kỹ, ta thấy đám mây không sinh cũng không diệt, không có cũng không không. Điều này có thể được chứng minh bằng khoa học. Trước khi là đám mây thì đám mây đã là cái gì khác. Nó đã là hơi nước đi lên từ đại dương. Nó là hơi nước do chúng ta thở ra, chúng ta đã thở ra đám mây mà không biết. Hơi nước là mây tuy chưa có tướng của đám mây. Đám mây không thể từ không mà trở thành có, vì vậy đám mây là vô sinh. Khi đám mây còn là hơi nước thì ta không thấy nên ta tưởng đám mây không có. Ta bị kẹt vào tướng, hơi nước không có tướng của đám mây nhưng nó chính là mây. Khi hơi nước gặp khí lạnh thì tướng mây của nó lộ ra. Khi mây biến thành mưa hay thành tuyết thì nó không phải từ có trở thành không. Cái có không thể nào trở thành cái không. Đám mây không thể nào chết nên nó là bất diệt. Mây trở thành tuyết hay thành mưa, tuyết và mưa là hậu thân, là sự tiếp nối của đám mây. Vì vậy chúng ta có thể thấy một cách dễ dàng bản chất của đám mây là không sinh không diệt, không có không không. Đám mây không nằm trong khuôn sinh và diệt cũng không nằm trong khuôn có và không hay trong khuôn thường và đoạn.

                          Không thấy đám mây trên trời, ta nói đám mây chết rồi và ta hỏi đám mây còn hay không còn, bây giờ đám mây ở đâu? Khi người thân của ta chết, ta cũng hỏi câu tương tự: ”Người thân của tôi ơi, bây giờ anh đang ở đâu?” Và ta đặt câu hỏi: ”Sau khi không còn là đám mây nữa thì cái gì đã xảy ra, đám mây còn hay không còn?” Trong kinh có câu hỏi: “Sau khi nhập diệt thì Đức Thế Tôn còn hay không còn hay vừa còn vừa không còn hay vừa không còn vừa không không còn?“ Nhưng Bụt nói bốn phạm trù tư tưởng đó không chuyên chở được sự thật. Sự thật nằm ngoài những phạm trù tư tưởng.

                          Giáo lý trung đạo

                          Trong giáo lý đạo Bụt có ý niệm về trung đạo. Trung đạo (the middle way) thoát ra khỏi những cực đoan (extrême): Một bên là sống một bên là chết, một bên là còn một bên là mất, một bên là sinh, một bên là diệt, một bên là một, một bên là khác.

                          Từ vô thường, chúng ta có thể quán sát để thấy được sự thật này. Trên con đường của thời gian có một điểm, ở điểm đó có một người gieo nhân tức kẻ làm hay tác giả  và ở một điểm khác thì quả chín và có một người gặt quả gọi là người chịu hay thọ giả . Từ khi gieo nhân đến khi gặt quả có một khoảng thời gian hai, ba giờ đồng hồ hoặc hai, ba năm, vậy người gieo nhân và người gặt quả là một người hay là hai người? Trong ánh sáng của vô thường thì tất cả đều sinh diệt trong từng sát na. Dòng sông của giây phút này không còn là dòng sông của giây phút trước. Tôi của bây giờ không phải là tôi của giây phút trước, tôi của 30 tuổi không phải là tôi của 5 tuổi. Thấy hình của mình lúc 5 tuổi trong album gia đình, ta đặt câu hỏi:”Tôi bây giờ là một hay là khác với tôi lúc 5 tuổi?” Cho rằng người làm và kẻ chịu là một thì không đúng. Thời gian đã qua, ta đã thay đổi, ta bây giờ không giống ta lúc 5 tuổi. Ngược lại cho rằng ta bây giờ và ta lúc 5 tuổi là hai người khác nhau cũng không đúng.

                          Ý niệm một, sameness (đồng , nhất ) là một cái khung và ý niệm khác, otherness (dị ) cũng là một cái khung. Như vậy người làm và kẻ chịu không phải một cũng không phải khác gọi là trung đạo, có nghĩa là xa lìa cả hai cực đoan một và khác. Khi được hỏi câu “Sau khi chết rồi thì ta còn hay không còn?” thì ta phải trả lời theo trung đạo. Một là sameness, khác là otherness; sự thật không phải một cũng không phải hai, sự thật là trung đạo. Sinh, diệt, hữu, vô, một, khác, còn, mất là những phạm trù tư tưởng, mà sự thật thì vượt thoát khỏi những phạm trù tư tưởng. Ta không thể dùng những cái hộp để chứa đựng sự thật. Cái thấy đó là do sự quán chiếu về vô thường mà có. Quán chiếu về vô thường là phép quán căn bản. Quán chiếu về vô thường thì ta có thể vượt thoát khỏi những cặp đối lập (pair of opposites). Vậy đối với câu hỏi “Sau khi Đức Thế Tôn nhập diệt, hình hài tan rã rồi thì Ngài còn hay không?”, nếu là một học trò thông minh của Ngài thì ta trả lời: ”Nói còn không đúng mà nói không còn cũng không đúng, tại vì còn hay không còn là hai tà kiến. Chánh kiến là trung đạo”.

                          Cái nhìn vô tướng

                          Thật ra thì vấn đề dễ hơn nhiều. Quán chiếu thì ta thấy ta đã khác hơn nhiều so với ta lúc 5 tuổi. Nhưng trong đầu ta vẫn cứ nghĩ là một, ta bị vướng vào ý niệm đồng nhất, có một cái ngã thường tại nên mới có vấn đề. Nhìn cho kỹ một chút, ta thấy là Đức Thế Tôn còn chứ không phải không còn. Ta có thể sờ mó được Đức Thế Tôn, Ngài còn nhưng không phải còn dưới hình thái cũ. Chính ta đây, ta cũng không còn dưới hình thái của ta lúc 5 tuổi. Nhìn tuyết, ta thấy tuyết rất khác với mây nhưng nó chính thật là mây. Nhìn với cái nhìn vô tướng thì ta sẽ thấy được Đức Thế Tôn rất dễ.

                          Bác Anh Việt, người đã làm những bài nhạc kinh, bây giờ chúng ta không thấy bác bằng xương bằng thịt nữa. Nhưng mỗi ngày chúng ta vẫn thấy được bác. Khi lên tụng bài “Tào khê một dòng biếc” thì ta thấy rõ ràng là bác Anh Việt vẫn còn. Đó là nhạc Anh Việt còn trong bài hát, còn trong chúng ta và còn trong nhiều cái khác nữa.

                          Bây giờ nhìn vào các giáo đoàn đang hoạt động, nhìn vào chính bản thân mình là một vị xuất gia hay một vị cư sĩ, ta thấy ta là sự tiếp nối của Đức Thế Tôn. Ta là tuyết, là sự tiếp nối của mây. Ta tiếp xúc được với sự liên tục của Đức Thế Tôn rất dễ dàng. Vì vậy câu hỏi ”Đức Thế Tôn còn hay không còn?” không đáng được đặt ra. Đức Thế Tôn còn nhưng không còn theo hình thức của một cái ngã. Nói Đức Thế Tôn không còn cũng đúng một phần, tại vì Ngài không còn dưới hình thức cũ, nhưng không phải là không còn gì cả.

                          Ta thấy rõ ràng rằng Đức Thế Tôn tiếp tục sự nghiệp của Ngài. Đạo Bụt đi tới đâu thì giúp cho xã hội ở đó có nhân tính hơn, ít bạo động hơn. Ở Việt Nam, nếu không có đạo Bụt thì ta không có được thời đại Lý, Trần. Lý, Trần là hai triều đại rất từ bi. Trước đó có nhiều bạo động, người ta chém giết nhau và có nhiều hình phạt như bỏ vào vạc dầu sôi, cho voi dày ngựa xé. Sau khi đạo Bụt giáo hóa được dân tộc thì những hình phạt đó không còn nữa. Đức từ bi thấm nhuần vào người làm chính trị cũng như vào trong dân chúng. Ở Tây Tạng, Trung Quốc hay Miến Điện, nhờ có đạo Phật đi vào mà rất nhiều bạo động được chuyển hóa. Đọc lịch sử của các quốc gia Á Đông theo đạo Phật, ta thấy nhờ sự giáo hóa của đạo Phật mà mức độ của sự bạo động giảm đi rất nhiều. Đó là sự tiếp nối của Đức Thế Tôn, ta phải thấy Siddharta ở nơi đó. Ta đừng đi tìm Siddharta như là một người thuộc dòng họ đó, có màu da đó, có giọng nói đó, ngôn ngữ đó, cũng như ta đừng đi tìm đám mây dưới hình thức đó, màu sắc đó. Uống một tách trà ta phải thấy đám mây trong đó.

                          Đặt câu hỏi và tìm những câu trả lời cho “có hay không” mất rất nhiều thì giờ. Ta biết không có gì sinh cũng không có gì diệt. Ý niệm sinh là sai mà ý niệm diệt cũng là sai, vậy tại sao ta phải hỏi “còn hay không còn”? Ta đã công nhận đám mây là không sinh không diệt thì tại sao ta phải hỏi đám mây còn hay không còn. Đã công nhận bản chất của thực tại là không sinh không diệt thì tại sao ta lại phải đặt câu hỏi “còn hay không còn”, tại vì “còn và không còn” là một hình thức khác của “sinh và diệt”. Thấy được tính không sinh không diệt thì tất cả những lo âu, sợ hãi của mình không còn nữa và ta có tự do lớn.

                           

                          Vô sinh bất diệt

                          Khi thoát khỏi một cặp đối nghịch như cặp sinh diệt, ta thật sự thấy được không sinh không diệt thì đồng thời ta cũng thoát khỏi những cặp đối nghịch khác, tại vì các cặp đối nghịch nương vào nhau mà được thành lập. Nếu sự vật không có sinh, không có diệt thì nó cũng không có hữu, không có vô, tại vì sinh là từ vô trở thành hữu và diệt là từ hữu trở thành vô. Khoa học cũng đã tìm ra được “không sinh không diệt”. Luật thứ nhất của nhiệt động học tức luật bảo tồn năng lượng (la loi de la conservation de l’énergie) đã nói về “không sinh không diệt”: vật chất và năng lượng không sinh không diệt. Chúng ta không thể chế tác được vật chất cũng không thể làm cho vật chất mất đi. Chúng ta không chế tác được năng lượng cũng không thể làm cho năng lượng biến mất. Ta chỉ có thể làm cho vật chất trở thành năng lượng hay trở thành một vật chất khác và ta chỉ có thể làm cho năng lượng trở thành vật chất hay trở thành một năng lượng khác. Lavoisier nói rất rõ: Không có gì sinh, không có gì diệt. Tất cả đểu chuyển biến. (Rien ne se crée, rien ne se perd. Tout se transforme). Đây là một câu nói rất đúng với tinh thần bất sinh bất diệt.

                          Thân của chúng ta là vật chất, nhưng vật chất cũng là năng lượng. Vật chất có thể trở thành năng lượng và năng lượng có thể trở thành vật chất. Vật chất và năng lượng là một. Tâm của chúng ta cũng là năng lượng và năng lượng có thể trở thành vật chất, vì vậy ta phải xét lại ý niệm “thân và tâm là hai cái khác nhau”. Ta có thể thấy tâm là một loại năng lượng và thân cũng là một loại năng lượng, mà năng lượng thì không thể nào chết được. Thân của ta có vẻ như tiêu hoại nhưng thật ra nó không chết được.

                          Nhưng có bao nhiêu nhà khoa học nắm vấn đề? Họ tìm ra được sự thật đó nhưng vẫn quên như thường. Ta đọc trong Tâm Kinh: tướng Không của các pháp là không sinh cũng không diệt, không thêm cũng không bớt, không dơ cũng không sạch, tức là thực tại tối hậu thoát ra khỏi những phạm trù tư tưởng, những ý niệm. Hiện nay khi nhìn vào vũ trụ các nhà khoa học vẫn đặt câu hỏi: Vũ trụ từ đâu mà có? Vũ trụ sinh ra như thế nào? Một ngày nào đó vũ trụ có tan tành hay không? Vũ trụ sẽ hủy diệt như thế nào? Như vậy các nhà khoa học vẫn đặt câu hỏi căn cứ trên ý niệm có và không. Do đó người ta đưa ra những thuyết như thuyết Big Bang để giải thích sự hình thành của vũ trụ, vũ trụ từ không trở thành có như thế nào và họ bị kẹt vào trong ý niệm sinh. Kẹt vào ý niệm sinh thì đồng thời cũng kẹt vào ý niệm diệt, trong khi đó khoa học đã khám phá ra rằng: không có gì sinh và không có gì diệt. Tại sao người ta lại còn đặt vấn đề tại sao vũ trụ có, hay tại sao vũ trụ không có? Cái thấy “bất sinh bất diệt”chỉ mới nằm trong óc mà chưa đi sâu vào, tại vì khi đã chứng nghiệm được vô sinh bất diệt thì những ý niệm có và không, một và khác, còn và mất sẽ không còn nữa. Nắm được thì ta có thể áp dụng được cái thấy đó vào trong đời sống hằng ngày.

                          Quan niệm bất thối chuyển

                          Trong đạo Bụt có quan niệm bất thối chuyển, có nghĩa là không rơi trở lại trong cõi hệ lụy và luân hồi. Mọi người đều mong muốn là khi đạt được tới rồi thì ta ở đó hoài không rơi xuống nữa. Cũng như một người bị bệnh trầm cảm đã được chữa trị khỏi bệnh, nhưng nếu làm ăn không đàng hoàng thì người đó sẽ rơi xuống trầm cảm trở lại. Đạt tới chỗ không rơi trở lại nữa gọi là bất thối chuyển.

                          Nhiều người tin rằng khi tu mà đạt tới quả vị bất thối chuyển thì sẽ không bao giờ đau khổ nữa. Vì vậy có quan niệm Niết bàn hữu dư y và Niết bàn vô dư y. Niết bàn hữu dư y là Niết bàn chưa tuyệt đối, những phiền não còn ngủ đâu đó và ta có thể buồn, giận trở lại. Niết bàn vô dư y là Niết bàn tuyệt đối, những phiền não không bao giờ có thể trồi lên trở lại. Chúng ta, người nào cũng khao khát cái tuyệt đối nên bắt buộc cuối cùng là phải tới chỗ toàn giác mà thôi.

                          Chúng ta mong muốn một sự toàn hảo (perfection) tức là sự vắng mặt của sự không toàn hảo (imperfection). Toàn hảo và không toàn hảo cũng là một cặp đối nghịch mà ta phải thoát ra. Tôi thường quán chiếu và thấy rằng: Người ta nói Đức Thế Tôn đã chứng ngộ, Ngài là một bậc giác ngộ hoàn toàn. Nhưng tại sao mỗi ngày Ngài cũng ngồi thiền, đi thiền và thực tập như các thầy khác. Đã thành Phật rồi mà Ngài còn thực tập làm gì? Chúng ta đặt câu hỏi: Tại sao thành Phật rồi mà còn phải ngồi thiền? Ngồi thiền có phải để thành Phật hay không? Như vậy là chưa đạt tới bất thối chuyển hay sao?

                          Theo nguyên tắc thì tất cả đều vô thường (chư hạnh vô thường). Nếu ta tin đó là sự thật thì Bụt cũng vô thường, niềm vui cũng vô thường, giác ngộ cũng vô thường. Niềm vui là một thực tại sống động, sự giác ngộ cũng là một thực tại sống động. Bất cứ thực tại sống động nào cũng đều vô thường. Vì vậy niềm vui hay sự giác ngộ cũng có thể tàn hoại. Niềm vui của ta, ta phải nuôi dưỡng thì nó mới được lâu dài. Sự giác ngộ, ta cũng phải nuôi dưỡng thì nó mới được lâu dài. You have to nourish your enlightenment because it is also impermanent. Bụt cũng phải nuôi dưỡng sự giác ngộ và tâm bồ đề của mình, nuôi dưỡng niềm vui và sự giải thoát của mình. Vì vậy Bụt vẫn tiếp tục thực tập. Bất thối chuyển có nghĩa là nếu biết phương pháp thì ta sẽ không rớt trở lại. Bất thối chuyển không có nghĩa là đi tới một trạng thái vĩnh viễn không bao giờ rơi xuống, tại vì trong ánh sáng của vô thường thì không có gì là vĩnh viễn cả. Nếu tất cả đều vô thường thì Phật cũng vô thường.

                          Vậy thì Phật tánh có vô thường hay không? Phật tánh là một ý niệm, và ý niệm đó được thành lập bằng một ý niệm khác là chúng sinh tánh. Một bên là phàm (worldlyness) còn một bên là thánh (holiness), không có phàm thì không có thánh. Cũng như sen với bùn, không có bùn thì không thể làm ra bông sen. Chất thánh được làm bằng chất phàm, hết chất phàm thì chất thánh cũng không còn. Nếu theo đúng con đường trung đạo và tuệ giác vô thường thì ta phải công nhận điều này. Có thánh là có phàm, phàm nằm ngay trong thánh cũng như nhìn vào bông sen ta thấy có bùn, lấy bùn ra khỏi bông sen thì bông sen cũng không còn. Đó là cái thấy bất nhị. Nếu tưởng tượng có bông sen mà không có bùn, có thánh mà không có phàm là sai. Nếu tưởng tượng có bồ đề mà không có phiền não là không đúng. Nhưng có một sự thật mà ta công nhận là mình có thể chuyển phiền não thành bồ đề và nếu làm ăn không đàng hoàng thì bồ đề lại trở thành phiền não. Đức Thế Tôn biết rõ điều đó nên Ngài vẫn ngồi thiền như chúng ta, Ngài không muốn bồ đề của mình trở thành phiền não.

                          Chúng ta phải hiểu chữ bất thối chuyển như vậy, khi có một sự thực tập vững vàng thì ta không sợ phải rơi xuống trở lại. Ta phải bỏ đi sự tin tưởng ngây thơ rằng một khi đã đạt tới toàn giác rồi thì ta không cần phải làm gì nữa cả. Chất thánh, chúng ta có thể chế tác được. Ta có tham lam, giận hờn, si mê, quên lãng. Nhưng nếu biết cách ta có thể chế tác niệm, định và tuệ. Niệm, định, tuệ là những năng lượng thánh mà những năng lượng thánh đó được chế tác bằng năng lượng phàm. Nếu biết cách ta có thể chuyển năng lượng phàm thành năng lượng thánh, cũng như ta có thể chuyển bùn thành sen. Theo cái thấy bất nhị thì phàm và thánh tương tức với nhau.

                          Một hôm tôi chiêm nghiệm thì thấy rằng mình không cần Niết bàn vô dư y, có Niết bàn hữu dư y là đủ rồi. Tuy còn một chút phiền não nhưng đã biết cách chuyển hóa thì ta không cần phải lo lắng nữa. Là một người tu ta có khả năng chuyển hóa phiền não hay không? Những phương pháp chuyển hóa, Bụt đã dạy và thầy đã trao truyền cho ta. Ta biết xử lý nỗi khổ niềm đau, một cơn giận hay một cơn buồn hay không? Nếu đã biết thì ta không lo sợ nữa, ta có hạnh phúc ngay bây giờ. Bùn có đó nhưng ta không sợ tại vì ta đã biết cách làm ra sen. Phiền não có đó nhưng ta không lo tại vì ta đã biết cách làm ra bồ đề. Hạnh phúc có thể có ngay trong giây phút hiện tại. Vấn đề là ta có con đường hay không, con đường đó là con đường bát chánh. Bụt đã dạy con đường bát chánh đưa tới Niết bàn, chỉ cần nhìn vào con đường là ta thấy được Niết bàn. Cũng như chúng ta đã nói: Giữ một giới là ta có một tự do, giữ hai giới là ta có hai tự do, ta có tự do ngay lập tức. Niết bàn là tự do, là sự lắng dịu đó. Niết bàn hay giải thoát không phải là cái gì ta nhắm tới ở chỗ khác và ở tương lai. Niết bàn, giải thoát, an lạc, niềm vui có thể có ngay trong giây phút hiện tại. Nếu có con đường thì trong đời sống hằng ngày ta có thể chế tác được hỷ, lạc, hạnh phúc và tự do. Nếu có con đường ta có thể xử lý được những nỗi khổ niềm đau, chuyển hóa khổ đau trở thành an lạc. Ta không cần phải đi đâu, không cần phải tìm gì, ta đã có tất cả trong giây phút hiện tại.

                          Bốn loại thức ăn

                          Loại thức ăn thứ nhất là đoàn thực, tức là những thức ăn đi vào miệng của chúng ta. Chánh kiến cũng là biết phân biệt những đoàn thực có hại và những đoàn thực không có hại. Chúng ta phải biết những thức ăn và thức uống nào gây tàn phá và làm mất sự điều hòa trong cơ thể. Khi chúng ta ăn những món hiền lành và bố dưỡng thì chúng ta cũng biết. Ðó gọi là chánh kiến. Ta thực tập chánh kiến ngay trong đời sống hằng ngày, trên bàn ăn và trong khi nấu ăn, chứ không phải chỉ thực tập trong thiền đường mà thôi. Trước khi ăn chúng ta nói: “chỉ xin ăn những thức ăn có tác dụng nuôi dưỡng và ngăn ngừa tật bệnh”, đó là chánh kiến áp dụng khi ăn và khi nấu ăn.

                          Nói về đoàn thực, Bụt đã dùng hình ảnh của hai vợ chồng nhà kia ăn thịt con. Hai vợ chồng này mang đưá con trai duy nhất đi qua sa mạc. Họ nghĩ rằng số lương thực đem theo là đủ dùng cho chuyến đi. Nhưng chưa ra khỏi sa mạc họ đã hết thực phẩm. Hai vợ chồng biết rằng cả ba người sẽ chết đói. Cuối cùng họ phải đành tâm ăn thịt đứa con để sống mà ra khỏi sa mạc. Họ vừa ăn thịt con vừa khóc. Bụt hỏi rằng: “Này các thầy, khi hai vợ chồng đó ăn thịt đứa con thì họ có thấy thích thú gì không?” Các thầy thưa: “Bạch đức Thế Tôn, làm sao thích thú được khi biết mình đang ăn thịt con.” Bụt dạy: ” Trong đời sống hằng ngày, trong khi tiêu thụ, chúng ta cũng phải biết thức ăn của mình đã có thể được tạo ra bằng sự đau khổ cùng cực của kẻ khác, của những loài sinh vật khác.”

                          “Hai tay nâng bát cơm đầy,
                          dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.”

                          Ăn không có chánh niệm, ta tạo khổ đau cho mọi loài và khổ đau cho chính bản thân ta. Khi ta hút thuốc, uống rượu, ăn nhiều thức béo vào, là ta đang ăn bộ phổi của ta, đang ăn buồng gan, trái tim của ta, ta tự đang ăn thịt ta. Nếu là cha, là mẹ thì lúc đó ta đang ăn thịt con ta tại vì các con cần có cha mẹ mạnh khỏe, tươi vui. Và nếu cha mẹ trong khi ăn uống mà tàn hại thân thể của chính mình thì chính cha mẹ đang giết con. Thành ra ăn như thế nào để đừng tạo ra những khổ đau cho các loài và đừng tạo khổ đau cho chính mình, đó là chánh niệm và chánh kiến. Ðạo Bụt trong cả Nam Tông và Bắc Tông đều tin rằng chúng sanh từ đời này sang đời khác thay phiên lần lượt làm cha làm mẹ của nhau. Vì vậy mỗi khi ăn thịt, chúng ta hãy có ý thức rằng có thể ta đang ăn thịt cha mẹ hay con cái của ta. Do đó chúng ta đã tập ăn chay và tập không sát sanh.

                          Loại thức ăn thứ hai là xúc thực. Chúng ta có sáu căn là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Chúng tiếp xúc với sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp. Ta phải thấy rằng việc tiếp xúc đó có đem chất độc vào người hay không. Ví dụ như khi ta xem truyền hình, mắt ta tiếp xúc với hình sắc. Phải thực tập chánh kiến xem chương trình truyền hình kia có đưa vào trong tâm ta những độc tố như sợ hãi, căm thù và bạo động hay không. Có những phim mang lại cho lòng ta sự hiểu biết, lòng từ bi, chí quyết tâm muốn giúp người, quyết tâm không làm những điều lầm lỗi. Ta biết ta có thể xem phim đó. Ấy là ta thực tập chánh kiến. Người lớn cũng như trẻ em, trong khi xem phim, phải biết thực tập chánh kiến. Phải biết rằng có những chương trình truyền hình chứa đựng rất nhiều độc tố như bạo động, căm thù và dục vọng. Ngay cả những phim quảng cáo cũng khơi động thèm khát, dục vọng hay sợ hãi của người ta. Khi xem một tờ báo không có chánh niệm, chúng ta có thể tiếp nhận rất nhiều độc tố. Ðọc xong ta có thể mệt nhoài vì những điều ta đọc có thể khiến chúng ta chán nản, lo lắng và ghê sợ. Chính những câu chuyện hàng ngày cũng có thể mang nhiều độc tố. Ðó là xúc thực.

                          Chánh kiến phát sinh ra chánh niệm và chánh niệm cũng làm phát sinh chánh kiến. Tôi biết rằng nhìn, nghe và tiếp xúc với những gì thì thân tâm tôi sẽ khỏe khoắn, nhẹ nhàng và an lạc và tôi quyết định mỗi ngày tiếp xúc với những chất liệu đó. Còn nhữõng thứ làm tôi mệt, tôi buồn, tôi lo, tôi giận thì tôi sẽ tránh không tiếp xúc. Ðó là chánh niệm về xúc thực, có được nhờ chánh kiến về xúc thực. Bụt dạy rằng con người rất dễ bị thương tích, trên cơ thể cũng như trên tâm hồn. Bụt đã dùng hình ảnh một con bò bị lột da dẫn xuống sông. Dưới sông có hàng vạn loài sinh vật li ti bu lại hút máu và rỉa thịt con bò. Và khi ta đưa con bò tới đứng gần một bức tường hay một cây cổ thụ, cũng có những sinh vật li ti sống trên bức tường và trong cây cổ thụ bay ra, bám vào con bò để hút máu. Nếu chúng ta không giữ gìn thân và tâm bằng chánh kiến và chánh niệm thì các độc tố trong cuộc đời cũng bám lại và tàn phá thân tâm ta. Năm giới mà chúng ta tiếp nhận và hành trì là bộ da bao bọc thân thể và tâm hồn ra. Nếu không hành trì năm giới là chúng ta không thực tập chánh kiến. Và trong mỗi chúng ta vốn đã có hạt giống của chánh niệm. Thực tập chánh niệm cũng như tạo ra những kháng thể để chống lại sự thâm nhập của các độc tố kia.

                          Loại thức ăn thứ ba là tư niệm thực. Ðó là những nỗi ước ao ta muốn thực hiện cho đời ta. Mong muốn làm giám đốc một hãng buôn lớn, hay mong muốn đậu bằng tiến sĩ, những mong muốn như thế thâm nhập vào người ta giống như một thức ăn. Mong muốn là một loại thực phẩm gọi là tư niệm thực. Ước muốn mạnh sẽ giúp ta năng lượng để thực hiện hoài bão. Nhưng có những loại tư niệm thực làm cho ta khổ đau suốt đời. Như danh, lợi, tài và sắc. Muốn được mạnh khỏe và tươi vui, muốn được giúp đỡ cho gia đình và xã hội, muốn bảo vệ thiên nhiên, tu tập để chuyển hóa, để thành một bậc giác ngộ độ thoát cho đời.vv.. thì đó là loại tư niệm thực có thể đưa tới an lạc, hạnh phúc.

                          Về tư niệm thực, Bụt kể chuyện một người bị hai lực sĩ khiêng người kia ném xuống hầm lửa đang bốc cháy. Bụt nói rằng khi ta bị những tư niệm thực bất thiện chiếm cứ, bị danh, lợi, tài và sắc lôi cuốn thì cũng như ta bị những anh chàng lực sĩ kéo đi liệng xuống hầm lửa. So đó người tu học phải có chánh kiến, phải nhận diện được tư niệm thực trong ta là loại nào.

                          Loại thức ăn thứ tư là thức thực. Chúng ta là sự biểu hiện của thức, gồm có y báo và chánh báo. Chánh báo là con người gồm năm uẩn của ta và y báo thuộc hoàn cảnh chung quanh ta. Vì hành động từ nhiều kiếp xưa nên bây giờ ta có chánh báo này, với y báo này. Chánh báo và y báo đều là sự biểu hiện của tâm thức. Khi làm công việc nhận thức, tâm cũng giống như cơ thể đón nhận các món ăn. Nếu trong quá khứ tâm thức ta đã tiếp nhận những thức ăn độc hại, thì nay tâm thức ta biểu hiện ra y báo và chánh báo không lành. Những gì ta thấy, nghe, ngửi, nếm, tiếp xúc, suy tư, tưởng tượng,tất cả những thứ ấy đều như muôn sông chảy về biển tâm thức. Và những vô minh, hận thù và buồn khổ của ta đều trở về biển cả của tâm thức ta. Vì vậy ta phải biết mỗi ngày chúng ta nhận vào tâm thức của ta những món ăn nào. Chúng ta cho nó ăn từ, bi, hỷ, xả hay là chúng ta cho nó ăn trạo cử, hôn trầm, giãi đãi, phóng dật?

                          Về thức thực, Bụt đã dùng hình ảnh một người tử tù và ông vua. Buổi sáng vua ra lệnh lấy 300 lưỡi dao cắm vào thân thể của một tử tội. Tới buổi chiều vua hỏi: ” Người tù đó bây giờ sao?” – “Tâu bệ hạ, nó còn sống.” – “Vậy thì đem hó ra, lấy 300 lưỡi dao đâm qua người nó một lần nữa.” Và buổi tối, vua hỏi: ” Kẻ đó bây giờ ra sao?” – ” Còn sống.” – ” Hãy lấy 300 mũi dao đâm qua thân thể nó một lần nữa!” Bụt dùng ví dụ đó để nói chúng ta cũng đang hành hạ tâm thức của ta y như thế. Mỗi ngày chúng ta đâm 300 mũi dao của độc tố vào trong tâm thức ta. Những mũi dao của tham lam, giận dữ, ganh tỵ, hờn giận, thù oán, vô minh.

                          Bốn ví dụ kể trên được chép trong Kinh Tử Nhục. Tử Nhục là thịt của đứa con. Bốn ví dụ nghe rất ghê sợ, có tác dụng răn bảo chúng ta phải tỉnh táo giữ gìn chánh niệm.

                          Thích Nhất Hạnh

                          Có Bụt trong xe không?

                          (Trích pháp thoại của Thầy ngày 31/10/2013 tại xóm Thượng – phần I)

                          Kính thưa đại chúng, hôm nay là ngày 31 tháng 10 năm 2013. Chúng ta đang ở tại thiền đường Nước Tĩnh, xóm Thượng, trong khóa tu mùa thu. Sáng nay tại Phương Khê, khi thức dậy thì ở ngoài là 3 độ C. Làng Mai đang vào mùa thu, lá chưa vàng nhiều. Sáng nay có sương mù nhưng khi mặt trời lên thì sương cũng tan hết. Hôm nay Thầy có cơ hội kể lại một ít về chuyến đi vừa qua ở Bắc Mỹ. Chiều nay, có thể các vị khác sẽ tiếp tục kể. Thầy chỉ kể vài nét chính thôi.

                          Cầu nguyện Đất Mẹ cho một ngày mưa

                          Chuyến đi vừa qua kéo dài hai tháng hai mươi ngày. Trước khi lên đường, Thầy không được khỏe lắm, còn ho. Sang tới Canada vẫn còn ho. Nhưng chuyến đi này rất may mắn. Sau khóa tu Canada thì Thầy hết ho. Ở Mỹ, mình có ba tu viện: tu viện Bích Nham ở New York, tu viện Mộc Lan ở Mississippi và tu viện Lộc Uyển ở California. Ba nơi đều không có mưa; trời nắng kéo dài và trong rừng suối khô cạn. Nhưng khi tăng đoàn tới thì cả ba nơi đều có mưa. Ban đầu thì là Bích Nham. Thầy tới được chừng ba, bốn ngày thì trời bắt đầu mưa. Rất là hạnh phúc. Các loài chúng sanh, kể cả loài người nữa, đều hạnh phúc. Cây cối cũng rất là hạnh phúc.

                          Mộc Lan cũng vậy. Thiếu mưa rất lâu, nhưng sau khóa tu cho người Việt thì có mưa. Vì vậy mà khóa tu cho người nói tiếng Mỹ được hưởng cái sự mát mẻ đó, rất là hay. Tại tu viện Lộc Uyển, nắng lâu ngày quá nên nhiều cây sage đã bắt đầu chết. Vì vậy trước khi về Lộc Uyển,  Thầy đã bắt đầu chú nguyện, gửi năng lượng cầu đất Mẹ và cha Trời cho mưa, nhưng đến khi xuống tới phi trường Los Angeles rồi thì nghe nói vẫn chưa có mưa. Vì vậy mà ngồi trên xe, Thầy tiếp tục chú nguyện. Thầy nói: Tăng đoàn Làng Mai xin đất Mẹ và trời Cha cho một ngày mưa hoặc một đêm mưa. Và đôi khi Thầy nghĩ đất Mẹ và cha Trời chưa thương Tăng đoàn Làng Mai đủ để trời mưa, cho nên Thầy cầu cứu với đất Mẹ là tất cả các loài chúng sanh ở trong rừng, kể cả các loài cây cối đang rất mong đất Mẹ cho một ngày mưa, một đêm mưa.

                          Và cuối cùng thì có mưa. Chiều hôm đó, Thầy ngồi thiền trong nhà và nhìn ra thấy mưa rất đẹp, trong lòng có rất nhiều hạnh phúc. Ngày hôm sau Thầy đi thăm cây, và thấy rõ ràng là cây cối đang rất hạnh phúc. Chỉ cần năm ngày sau là các cây sage lấy lại phong độ, bắt đầu cho ra những đọt non. Thành ra chuyến đi này rất may mắn, có ba trận mưa tại ba trung tâm của mình.

                          Chuyến đi này có rất nhiều khóa tu, nhiều ngày quán niệm, và nhiều buổi diễn thuyết công cộng. Phái đoàn làm việc rất nhiều. Các thiền sinh cũng như quần chúng được hưởng rất nhiều lợi lạc. Không những vậy mà các thầy các sư cô ở tại ba tu viện đều có cơ hội đi theo Thầy và tăng đoàn trong suốt chuyến đi. Thành ra thầy trò và huynh đệ có cơ hội làm việc chung với nhau, ngồi với nhau, đi với nhau, phụng sự với nhau, rất là hạnh phúc.

                          Bụt có ngồi trong xe không?

                          Có một hôm ngồi trên xe bus, Thầy hỏi vị thị giả của Thầy: “Con nghĩ là Đức Thế Tôn có ngồi trong xe với mình hay không?”. Thầy Pháp Nguyện trả lời: Dạ có. Thầy nói: có chắc hay không? Hôm ấy có tới ba chiếc xe bus. Thầy ngồi trong một chiếc, và còn hai chiếc kia… Muốn biết là có Bụt ngồi trong xe hay không, chuyện đó cũng dễ thôi.

                          Nếu trong xe năm chục người ngồi mà có một người thôi đang thở trong chánh niệm thì có nghĩa là Bụt đang ngồi trong xe. Mà nếu có hai người, ba người, năm người cùng thở, cùng ngắm phong cảnh trong chánh niệm thì sự có mặt của Bụt rất là rõ ràng. Và nếu tất cả năm chục người đều đang thở thì chuyện đó là chuyện rất mầu nhiệm. Thầy có nói rằng chỉ cần trong xe có một người thở trong chánh niệm thôi là đã có Bụt ở trong xe. Và có Bụt ở trong xe thì tất cả mọi người trong xe đều được bảo hộ bởi năng lượng đó và trong xe có an ninh hơn nhiều.

                          Ngồi trong xe, xe bus hoặc xe van hoặc xe thường, nếu quý vị muốn hỏi câu hỏi “có Bụt ngồi trong xe này hay không?” thì quý vị có thể tự trả lời được. Mình có quyền làm cho Bụt có mặt trong xe hay không? Nếu mình thở trong chánh niệm thì mình biết chắc là có Bụt đang ngồi trong xe và cả xe đều được bảo vệ.

                          Ngồi trên máy bay từ San Francisco về Paris, Thầy cũng có hỏi: Có Bụt ở trong máy bay này hay không? Câu trả lời rất rõ. Muốn có Bụt trong máy bay thì mình chỉ cần thở trong chánh niệm. Thành ra mình có một quyền năng rất lớn mà mình không biết. Nếu có hai người, ba người thở thì sự có mặt của Bụt càng rõ ràng hơn nữa. Cho nên Thầy muốn các vị, từ xóm Thượng đi xuống xóm Hạ hay đi về xóm Mới, khi ngồi trên xe nên hỏi: trong xe này có Bụt ngồi với mình hay không?

                          Thầy nhớ trong một chuyến đi Ấn Độ do giáo thọ Shantum Seth tổ chức, mình đi một phái đoàn tới 300 người, vì vậy cho nên mình có tới 11 chiếc xe bus. Và Thầy muốn là trên chiếc nào cũng có Bụt ngồi cả chứ không phải chỉ có chiếc của Thầy. Cho nên Thầy yêu cầu trên mỗi chiếc xe bus đều có một cái chuông, lâu lâu mình thỉnh một tiếng chuông cho mọi người thở. Và khi mọi người đều thở thì chắc chắn là có Bụt đang ngồi trong xe với mình. Bụt đang ngồi với mình thì mình có hạnh phúc nhiều hơn, có an ninh nhiều hơn. Thành ra muốn biết là Bụt có ở trong xe hay không, câu trả lời rất dễ.

                          Khắp nơi trên thế giới, tăng thân mình khi đi xe nên có chuông trên xe. Phải có một cái chỗ để chuông. Ở Việt Nam cũng như ở các nước Phật giáo, trong xe hơi người ta thường treo tượng Bụt, hoặc là treo một túi kinh trong đó có Bát Nhã Tâm Kinh,v.v., nhưng không có nghĩa rằng khi mình có treo tượng Bụt thì có Bụt ở trong xe. Dù tượng Bụt làm bằng plastic, hay làm bằng ngọc đi nữa thì cái đó cũng không phải là Bụt. Chỉ khi nào trong xe có người thở và nhìn trong chánh niệm thì khi đó mới có Bụt thật mà thôi. Cho nên Thầy đề nghị từ nay về sau, trong mỗi xe của tu viện đều phải dán lên câu: Có Bụt ngồi trong xe không? Và khi lên xe thấy câu đó thì mình có thể nói: thôi, để mình làm cho Bụt có mặt đi! Nếu những người khác đang bận lo lắng, bận suy nghĩ về những chuyện khác thì mình làm việc này cho họ.

                          Ngày hôm qua Thầy đã viết xuống câu thư pháp “Bụt có ngồi trong xe không?” hay là câu “Có Bụt trong xe không?”. Từ nay về sau trên mỗi xe, hoặc là xe bus, hoặc là xe van hoặc xe thường đều nên dán câu đó, và chúng ta cũng cần có thêm một cái chuông nhỏ nữa. Và vị nào lái xe thì khi đại chúng đã lên xe rồi, có thể nhắc: không biết có Bụt ở trong xe hay không? Và nhờ một người thỉnh chuông cho mọi người thở. Đó cũng là một phương pháp thực tập chánh niệm.

                          Có Bụt trong cuộc đời là chúng ta đã có hạnh phúc nhiều lắm! Nhưng đâu phải chỉ có Bụt trong cuộc đời, mà mình còn có nhau nữa, cho nên hạnh phúc đó rất là lớn! Vì vậy khi mình thỉnh chuông thì mọi người sẽ không nói chuyện, không suy nghĩ mà trở về với hơi thở và ý thức rằng mình đang có Bụt trong cuộc đời và mình cũng đang còn có nhau. Còn hạnh phúc nào lớn hơn thế nữa?

                          Đọc thêm:

                          Phần 2: Bụt có khổ không?

                          Phần 3: Anh muốn làm gì với đời anh?

                          Truyền thông bằng niệm hương

                          Tại sao sự truyền thông bị bế tắc?

                          Có những cặp cha con không nói chuyện được với nhau. Cha không muốn nhìn mặt con và con cũng không muốn nhìn mặt cha. Mỗi khi nghĩ tới con là người cha có sự bực tức, và đứa con khi nghĩ đến cha là có sự bực tức. Có những cặp vợ chồng cũng không nói chuyện được với nhau, không nhìn được mặt nhau. Mỗi khi nghĩ tới người kia thì không có hạnh phúc. Chúng ta đã làm ăn như thế nào để đi tới tình trạng này? Nếu đi tới tình trạng này rồi thì có thể có một đường thoát hay không?

                          Ngày xưa, khi biết tin vợ mình có mang em bé thì trong lòng mình có sự rung động kỳ diệu. Mình cảm thấy hạnh phúc khi sắp được làm cha. Và đối với người thiếu phụ, khi được bác sĩ báo tin mình có thai thì cũng có sự xúc động lớn. Tuy em bé chưa sinh ra, nhưng mình đã có tình thương rồi. Khi có em bé ở trong bụng,  mình cảm thấy đời đẹp hơn, tươi hơn, có niềm vui hơn, và mình có thể nói chuyện với em bé mỗi ngày không chán. Tình thương rất là mầu nhiệm. Khi ăn cái gì mình cũng nghĩ rằng thức ăn này sẽ đi vào trong em bé, khi uống cái gì cũng nghĩ rằng cái mình uống sẽ đi vào trong em bé nên mình hết sức cẩn thận. Khi lo lắng cái gì cũng nghĩ rằng cái lo lắng của mình sẽ đi vào trong em bé cho nên mình tìm cách không có lo lắng, sợ hãi, buồn phiền. Và người cha cũng vậy. Người cha biết rằng nếu mình làm cho người vợ khổ đau, lo lắng thì sẽ hại cho em bé, cho nên người cha trở thành nhẹ nhàng hơn, nói năng dịu dàng hơn. Có sự thay đổi như vậy là tại vì cả hai người đều thương con. Như vậy tình yêu, tình thương với đứa con bắt đầu rất là đẹp. Vậy thì  tại sao bây giờ mình không nhìn được mặt con, nghĩ tới chuyện từ con, hay mỗi khi thấy mặt nó là nổi cáu? Tại mình không biết tu!

                          Ngày xưa, khi thấy người thiếu nữ đó mình rất cảm động. Đó là một nàng tiên đẹp từ bên trong đẹp ra. Mình cứ luôn nghĩ rằng: nếu cưới được người này thì mình mới có hạnh phúc được, và nếu thiếu người này thì đời sống không có gì vui và mình không thể nào sống được. Chỉ cần nhìn người đó là mình có hạnh phúc, chỉ cần nghe giọng người đó nói, dù là qua điện thoại, cũng đủ để có hạnh phúc rồi. Nhưng bây giờ tại sao mình không nhìn mặt nhau được, mình không nói chuyện với nhau được? Tại sao truyền thông bị bế tắc và mình nghĩ tới chuyện ly dị? Đó là câu hỏi. Cho nên cần phải có một cách sống, một cách nói năng và suy tư nào đó để giúp mình tái lập được truyền thông và xây dựng lại tình thương, để tìm lại được hạnh phúc ngày xưa.

                          Sở dĩ mình không nhìn được mặt người kia, không nói chuyện được với người kia là tại vì trong lòng mình có những cái gọi là nội kết. Nội kết là một danh từ Phật giáo, có nghĩa là những nút thắt, tiếng Anh gọi là knots. Khi người kia nói hay làm một điều gì đó tạo ra nỗi khổ, niềm đau trong lòng mình, mình không biết cách tháo gỡ nên đã để nó trở thành một cái cục, giống như cục sạn ở trong thận và nó còn đó hoài. Đó là nội kết, một nội kết khổ đau. Mình không có khả năng tháo gỡ nội kết đó, và người kia cũng không có khả năng giúp mình tháo gỡ cho nên cái nội kết đó còn mãi. Cái khổ đau do câu nói hay hành động của người kia tạo ra cứ còn mãi, và vài ngày hôm sau lại có thêm nội kết mới trong khi nội kết cũ chưa tháo gỡ được. Cứ như vậy sau nhiều tháng, nhiều năm thì mình có quá nhiều nội kết, và vì vậy cho nên mình không nhìn mặt người kia được. Mình sợ người kia sẽ nói, sẽ làm những điều gì nó tưới tẩm những nội kết cũ và nó sẽ tạo ra những cái nội kết mới. Trong chúng ta ít nhiều cũng có những nội kết. Nhiều nội kết do tự mình làm ra, do sự si mê của mình, người kia không làm mình khổ mà cứ tưởng rằng người kia muốn làm mình khổ. Và những nội kết do sự vụng về của người kia gây ra tạo thành những khối được kết tụ lại trong tâm mình và mình không tháo gỡ được, không chuyển hoá được.

                          Phép lạ của sự hòa giải

                          Trong những khóa tu mà mình tổ chức ở tại Âu Châu, Mỹ Châu, Á Châu, Úc Châu luôn luôn có những cặp vợ chồng và cha con hòa giải được với nhau sau bốn, năm ngày thực tập. Đau khổ kéo dài trong nhiều năm nhưng mà chỉ cần tu 5 ngày, 6 ngày là có khả năng tháo gỡ và hoà giải được. Mà phép lạ của sự hoà giải, của sự chuyển hoá luôn luôn xảy ra trong các khoá tu mà phần lớn người tới tu học không phải là Phật tử, họ là những tín đồ của Do Thái giáo, Cơ Đốc giáo… Mình là Phật tử, nhiều thế hệ đã theo đạo Bụt, nhưng tại sao mình không biết thực tập để thoát ra được mà chịu chết như vậy?

                          Vậy nên mình phải đứng dậy, phải nắm lấy giáo pháp để tu tập. Và mình cần thấy rằng: nếu người không phải là Phật tử sau năm ngày tu tập có thể chuyển hóa và tái lập được truyền thông thì tại sao mình là người Phật tử mà lại không làm được. Chắc chắn mình có thể làm được, và mình có thể làm hay hơn! Có niềm tin đó là bởi vì  mình đã từng tiếp nhận hạt giống của chánh pháp ở trong con người của mình rồi.

                          Và khi tu tập, mình có thể tháo gỡ và chuyển hoá được những nội kết trong mình. Phương pháp làm mới của Làng Mai nhằm mục đích không để cho nội kết tiếp tục được thành hình. Vì vậy nên mỗi tối thứ sáu, hai vợ chồng, hai cha con, cả gia đình cần ngồi xuống để làm mới. Làm mới là một phương pháp tháo gỡ nội kết. Mình ngồi với nhau, im lặng nghe chuông, mình thở để làm cho lắng dịu tâm và thân mình. Ở giữa vòng tròn của gia đình có một bình hoa, khi mình muốn chia sẻ thì bình hoa đó sẽ được đưa tới trước mặt mình, mình cầm bông hoa lên và thở ba hơi rồi nói, dầu chỉ có hai người cũng vậy. Chẳng hạn như nói : “Anh ơi, ngày hôm kia anh nói một câu làm cho em đau, em muốn anh biết cái điều đó. Em đau lắm! Em không hiểu tại sao anh lại nói một câu như vậy? Câu ấy nó có thể làm tan vỡ tình nghĩa của chúng ta. Đó là một nội kết mà em đã cất giữ hai ngày rồi. Trong hai ngày này em đã cố gắng để tháo nó mà chưa làm được. Anh giúp em đi, anh giúp em tháo cái nội kết đó đi, nếu anh không giúp thì ai giúp em bây giờ. Nói cho em biết tại sao anh đã nói một câu như vậy, anh đã làm một cái điều như vậy,…”.

                          Khi cầm bông hoa mình có thể nói như vậy, và nói bằng cái giọng không trách móc, không buộc tội, nói bằng giọng khẩn thiết yêu cầu người kia giúp đỡ. Tại khi mình thương nhau, mình cần đến nhau và khi mình nói như vậy thì người kia sẽ có cơ hội quán chiếu, nhìn lại. Và nếu người kia thấy rằng mình có lỗi thì xin lỗi, nếu người kia thấy đây là một chuyện hiểu lầm thì sẽ tìm cách cắt nghĩa. Có như vậy mới tháo gỡ được nội kết. Đừng để cho nội kết đó ở lâu trong con người của mình. Đó là phương pháp làm mới mỗi tuần. Các thầy, các sư cô có thể đã trình bày phương pháp làm mới để giải tỏa nội kết rồi, nhưng mà mình phải tiếp tục học thêm. Mình cần phải nắm cho vững pháp môn, và mỗi tuần đều thực tập làm mới thì mới giữ được hạnh phúc. Và như thế sẽ không đi tới tình trạng không nhìn được mặt nhau, không nói chuyện được với nhau, truyền thông bế tắc.

                          Giữa cha con cũng vậy. Nếu cha làm khổ con thì con cũng có thể dùng phương pháp ái ngữ để thưa với cha rằng: “Những điều ba nói đã làm cho con đau. Con đã cố gắng trong mấy ngày nay mà không tháo gỡ được. Có thể là con hiểu lầm ý của ba, ba không muốn nói như vậy nhưng con nghĩ đi nghĩ lại vẫn chưa thấy được điều đó. Cho nên ba phải giúp con, để con có thể nói chuyện được với ba và ba nói chuyện được với con”. Mình không dùng áp lực, dùng quyền hành làm cha của mình để bắt đứa con phải tuyệt đối vâng theo lệnh của mình. Tại vì làm như vậy thì có thể đánh mất truyền thông. Và khi giữa cha và con không còn truyền thông nữa thì không có hạnh phúc, cha cũng không có hạnh phúc và con cũng không có hạnh phúc. Con có thể nói ra tất cả những điều gì trong lòng của mình cùng cha, với điều kiện là mình nói lễ phép, nói sự thật những đau khổ của mình. Và cha phải có thì giờ và cho con một cơ hội để nó nói ra những nỗi khổ niềm đau của nó, để có thể giúp cho con thấy được sự thật, giúp cho con đi ra khỏi hiểu lầm, hoặc nếu cha có vụng về thì có thể xin lỗi con. Tôi là thầy nhưng mà nhiều khi tôi đã xin lỗi đệ tử của tôi.

                          Phương tiện truyền thông thực sự

                          Người ta nghĩ rằng điện thoại và internet có thể giúp cho người ta truyền thông với nhau tốt. Hiện bây giờ nơi nào cũng có điện thoại hết, ở bên Trung Quốc điện thoại nhiều hơn ở Âu Châu nữa. Khi mình muốn gửi một thông điệp, một cái thư thì chỉ trong một phút sau, nửa phút sau là người bên kia nhận được. Phương tiện truyền thông rất đầy đủ, rất phong phú nhưng trong khi đó cha không nói chuyện được với con, vợ không nói chuyện được với chồng thì những phương tiện truyền thông đó được dùng vào việc gì?

                          Khi những nhà sản xuất điện thoại nói về phương tiện truyền thông thì họ nói rằng: “We bring people together”, chúng tôi giúp cho mọi người tới gần nhau. Điều ấy chưa chắc đã đúng! Điện thoại hai ba cái, bên này hai cái điện thoại, bên kia hai cái điện thoại nữa, hai túi bốn cái điện thoại chưa hẳn là mình đã truyền thông được với người kia. Quí vị nên biết là bốn mươi năm qua, Thầy không có điện thoại cũng không dùng điện thoại, ấy vậy mà Thầy không bị cắt đứt truyền thông với các đệ tử hay là những người thân. Thầy chỉ viết thư thôi, có khi thư cả tháng mới tới được người kia. Thành ra mình đừng tưởng là khi có điện thoại trong túi là mình có thể truyền thông được. Trong truyền thông Phật giáo có một phương tiện truyền thông rất hay. Đó là thắp nhang, đốt trầm.

                          Tú Uyên – Giáng Kiều

                          Có một câu chuyện thật đã xảy ra tại thủ đô Thăng Long – Hà Nội. Hôm nay tôi xin kể lại cho quí vị nghe. Có một cặp vợ chồng đã từ lâu không nhìn mặt nhau, làm khổ nhau, vậy mà rốt cuộc họ truyền thông lại được với nhau và làm hoà với nhau. Mà phương pháp truyền thông của họ không phải là điện thoại. Tại vì thời đó chưa có điện thoại, đó là đời Lê Thánh Tông. Câu chuyện này được nữ sĩ Đoàn Thị Điểm (*) viết lại trong tác phẩm ”Truyền Kỳ Tân Phả”.

                          Trong “Truyền Kỳ Tân Phả”, Đoàn Thị Điểm có viết truyện của một anh chàng tên là Tú Uyên sống vào đời vua Lê Thánh Tông, đời hậu Lê, tức cách đó trên mấy thế kỷ. Tú Uyên là chàng sinh viên đẹp trai, thông minh nhưng có một vài tật xấu như không biết lắng nghe, không biết nói lời ái ngữ, lại ưa uống rượu. Tú Uyên học trường đại học. Hồi đó chưa gọi là trường đại học mà gọi là trường Đại tập, học để đi thi. Tú Uyên không phải là một người con trai có hạnh phúc, tại vì có những khó khăn với bố, với mẹ, không biết lắng nghe, không biết nói lời ái ngữ, và tánh rất nóng. Vì vậy trong lòng Tú Uyên có rất nhiều nội kết và gây ra những nội kết cho bố mẹ, thành ra anh không có hạnh phúc trong gia đình. Đến khi đi vào trường học thì cũng thói nào tật đó, cho nên chơi với ai cũng không chơi được lâu, vài ba tuần là la mắng người ta, chửi người ta, rốt cuộc là không có bạn, thành ra sống rất cô đơn.

                          Ban đầu Tú Uyên cũng có những người bạn rất dễ thương, những cô thiếu nữ rất xinh đẹp, nhưng chơi một hồi mấy người kia ngán bỏ đi hết tại vì cái tánh không chịu lắng nghe, không biết nói những lời ái ngữ, nổi nóng lên thì nói và làm những  điều mất tình, mất nghĩa. Cho nên anh chàng rất cô đơn, không có bạn.

                          Một hôm Tú Uyên đi chùa Ngọc Hà, tức là chùa Bà Ngô ở Hà Nội bây giờ. Tú Uyên đi chùa không phải để nghe pháp thoại, không phải để tụng giới, không phải là để thực tập thiền hành, thiền tọa, mà đi chùa chỉ hy vọng gặp một vài cô gái để kết làm bạn thôi. Bữa đó anh tới cổng tam quan của chùa thì thấy có một đoàn hành hương từ trong chùa đi ra, trong số đó có một cô rất xinh đẹp. Anh ta choáng váng. Anh đã từng thấy những cô gái đẹp nhiều lần rồi nhưng mà chưa bao giờ thấy có một cô đẹp như vậy. Vì vậy nên đi vào trong sân chùa rồi, anh quyết định quay trở ra để đi theo cô đó, nhưng mà rủi cho anh ta, những người đi hành hương tiếp tục đi vào, thành ra anh phải chờ những người kia đi vào hết rồi mới đi ra được, khi đi ra thì người thiếu nữ kia biến mất.

                          Từ đó về sau, hình ảnh của cô gái kia cứ lảng vảng trong đầu, anh không thể nào quên được. Đêm nằm mơ thấy hình bóng đó, và không ăn được, không ngủ được, lòng cứ tơ tưởng tới nét mặt của cô gái kia. Anh ta đi tới đền Bạch Mã để xin xăm bói quẻ, coi mình có duyên gì với cô gái đó hay không, làm thế nào để gặp lại. Đêm về, anh nằm mơ thấy một ông cụ nói: ”Sáng sớm mai đi ra ngoài cầu Đông thì sẽ có cơ hội” – Cầu Đông tức là phố Hàng Đường bây giờ ở Hà Nội. Mộng như thế anh chàng ngủ không được nữa, cứ thức đợi trời sáng. 6 giờ sáng trời còn chưa rõ, anh đã đi ngoài đó rồi. Và khi đi ra ngoài đó thì thấy có một tiệm bán giấy, bán bút, bán tranh nhưng mà chưa mở nên anh đứng đợi với hy vọng mình sẽ được gặp người đó ở trong quán sách. Khi tiệm sách đó mở cửa thì anh ta đi vào, trong lòng cũng có ý muốn mua một ít bút, một ít mực và một ít giấy. Lúc vào thì thấy có một bức tranh mà người trong tranh giống hệt cô gái anh đã gặp ngày hôm kia. Do đó anh đã bỏ hết tất cả tiền có trong túi để mua tấm tranh đó, không cần mua sách vở, bút mực gì nữa hết. Đem bức tranh về, anh chàng treo trên tường để ngắm cho đỡ nhớ. Đi học về, anh ta làm một tô mì gói để ăn, và vì nhớ cô gái đó thành ra mỗi bữa anh làm hai tô và để hai đôi đũa, một tô cho anh và một tô để mời cô kia.

                          Trong cuộc sống đời thường, có những chàng trai, những cô gái rất cô đơn. Đôi khi mình ngồi nói chuyện với chính mình, nói chuyện với cái bóng của mình, rất là cô đơn tội nghiệp. Xã hội đông đảo như vậy với biết bao nhiêu người trẻ nhưng mà mình vẫn hết sức cô đơn. Mà mình đâu phải là không đẹp trai. Mình rất đẹp trai mà vẫn cô đơn như thường, tại vì cái tánh của mình xấu, không biết lắng nghe, không biết nói ái ngữ, có nhiều đam mê, có nhiều tật xấu, có nhiều bạo động trong người. Trong xã hội có những người họ nói chuyện với con người không được, nên họ mua một con mèo hay một con chó để nuôi và để cưng con mèo, con chó đó. Họ mua những hộp thức ăn rất đắt tiền cho con mèo của mình và trút tình thương của mình vào con mèo đó hay là con chó hoặc con chim đó. Thương một con mèo dễ hơn thương con người, đôi khi mình nói tầm bậy tầm bạ, con mèo không có giận. Tội nghiệp như vậy đó!

                          Có một bữa anh ta buồn quá, nuốt mì không vô nên mới nhìn chăm chú lên cô gái thì tự nhiên thấy cô gái nháy mắt một cái. Lạ quá, người trong tranh mà sao nháy mắt được. Anh ta dụi mắt rồi nhìn lại thì thấy không có nháy gì hết. Một lát nhìn lên thì thấy cô ta mỉm cười. Khi người ta cô đơn, người ta có thể tưởng tượng ra như vậy. Nhưng mà sự thật thì anh rất ngạc nhiên, anh thấy cả thân hình cô động đậy, rồi cô bước từ trong bức tranh xuống thành ra một con người bằng xương, bằng thịt rõ ràng. Quí vị có biết, sau khi bước xuống, cô nói cái gì với anh không? Câu đầu tiên mà cô nói với anh chàng sinh viên đó là: ”Tô mì như vậy mà anh ăn được thì tôi cũng phục anh thiệt!”. Sau khi bảo anh đợi một chút cô biến mất, hai phút sau cô xuất hiện với một cái giỏ rau rất xanh và thơm, có rau ngò, hành hoa, có đủ thứ hết, rồi cô loay hoay chút xíu là có hai tô mì rất thơm ngon. Cô đúng là một nàng tiên xuất hiện trong cuộc đời của anh, anh ta hạnh phúc quá chừng.

                          Tôi ngưng kể chuyện này một chút để nhắc quý vị rằng: trong đời quý vị, nàng tiên của quý vị có thể đã hiện ra rồi đó. Nàng tiên đó có thể là mẹ của mình hay là bố hoặc bạn của mình. Chuyện này không phải là chuyện tưởng tượng, chuyện có thiệt. Mỗi người trong chúng ta đều có một nàng tiên hoặc là hai, ba nàng tiên; hoặc là một ông tiên, hay hai, ba ông tiên đã hiện ra rồi. Họ rất dễ thương. Có người đó, không khí trong nhà khác hẳn, rất hạnh phúc. Chúng ta có phước quá đi cho nên mới có một nàng tiên hiện ra trong cuộc đời của mình.

                          Nhưng mà mình biết điều gì sẽ xảy ra tiếp trong câu chuyện rồi. Vì tánh nào, tật đó khó thay đổi nên chỉ sống được mấy ngày có hạnh phúc, anh ta trở lại tánh cũ. Anh ta nói những câu rất nặng nề, rồi có những cử chỉ không dễ thương, và còn đi về trễ. Khi uống rượu say về anh chửi mắng, đánh đập cô tiên ấy. Cô tiên đó có tên là Giáng Kiều, một người đẹp từ trên trời đi xuống. Giáng Kiều hết lòng khuyên anh nên tu tập, nên đi chùa, và nên giữ giới, tụng giới. Ban đầu anh ta cũng nghe theo, anh ta cũng đi chùa, cũng nghe pháp thoại. Có bữa hai người cùng vào ngồi nghe pháp thoại. Trong khi tất cả mọi người chăm chú nghe Thầy giảng thì anh ta không nghe. Bài pháp thoại không đi vô trong người anh ta.

                          Hồi đó chưa có điện thoại, người ta chỉ có thể viết thư, mà viết thư bằng chữ Hán chứ chưa có tiếng Việt nữa, thì phương pháp duy nhất để truyền thông là viết lá thư, hoặc là nhắn một người đi tới để nói lại thông điệp ấy. Trong nghi lễ Phật giáo, trong truyền thống của dân tộc mình, khi muốn truyền thông thì phải thắp hương. Mình muốn có sự cảm thông giữa mình với tổ tiên thì mỗi ngày mình phải thắp hương. Mình thắp hương lên bàn thờ tổ tiên để giữ sự truyền thông giữa mình với tổ tiên. Người nào cũng có gốc rễ hết. Cây có cội, nước có nguồn và con người thì có tổ tiên, vì vậy văn hoá của người Việt là phải có một bàn thờ tổ tiên trong gia đình và người mà không truyền thông được với tổ tiên là một người mất gốc.

                          Vì vậy thắp hương lên bàn thờ tổ tiên là một sự thực tập của người Việt. Mỗi ngày phải thắp một nén hương và đứng im lặng trước bàn thờ tổ tiên. Mình liên hệ, tiếp xúc được với tổ tiên trong giây phút im lặng đó. Mỗi ngày phải lấy khăn để lau bàn thờ cho bụi đừng dính vào đó. Bề ngoài ngó vào giống như là mê tín dị đoan nhưng mà đó là một hành động rất văn minh. Tại vì sự thật là khi mình bị phóng thể thì mình không thể có hạnh phúc được, vì vậy cho nên mình phải có gốc rễ nơi tổ tiên, mình phải biết tổ tiên mình là ai, như vậy mới có sự truyền thông, khi đó mới có sự lưu thông trong con người của mình. Còn nếu không biết tổ tiên của mình là ai, không có sự truyền thông với tổ tiên của mình thì mình là một con người bị cô lập hoá trong xã hội, và mình cũng không thể tiếp xúc được với con, với cháu và với bạn bè của mình.

                          Theo truyền thống Việt Nam, tuy là không nói ra sách vở nhưng mà mỗi nhà đều phải có một bàn thờ. Bàn thờ tổ tiên đó là văn minh chứ không phải là mê tín đâu. Mỗi ngày chỉ cần một phút, hai phút để lau bàn thờ ấy. Trong khi lau bàn thờ để cho khỏi bụi thì tâm mình hướng về tổ tiên, và khi thắp một cây nhang thì mình đừng nghĩ tới chuyện công ăn việc làm chỉ nghĩ tới tổ tiên thôi. Trong khi đứng nửa phút trước bàn thờ tổ tiên thì mình có sự tiếp xúc với tổ tiên. Điều này là một hành động rất thông minh, rất văn minh.

                          Sự thờ cúng tổ tiên có ý nghĩa như vậy nên chúng ta cần phải học, chỉ cần như vậy thôi là mình không bị cắt đứt gốc rễ với tổ tiên. Cha mình cũng là tổ tiên, nhờ cha mà mình tiếp xúc được với quá khứ tổ tiên của mình; và con mình cũng là sự nối tiếp của mình, nhờ con mà mình đi được về tương lai, nhờ cha mẹ mà mình đi được về quá khứ. Khi cha và con cộng tác thì có cả tương lai và có cả quá khứ. “Ta vẫn có ngày mai, ta vẫn còn quá khứ, nên hôm nay ta vẫn sống nhẹ nhàng”. Nếu quá khứ bị cắt đứt, tương lai bị cắt đứt thì không có hạnh phúc. Vì vậy cho nên cha giận con là một thảm họa trong gia đình. Khi cha với con truyền thông được với nhau thì cả hai cha con đều cùng có quá khứ và tương lai hạnh phúc. Đó là điều mà chúng ta cần phải thấy.

                          Đây là vấn đề văn minh chứ không phải là vấn đề tôn giáo và tín ngưỡng, cho nên phải gấp rút tái lập lại truyền thông giữa hai cha con thì mới có tương lai và quá khứ được. Do đó, dù mình có đi ra ngoại quốc thì mình cũng phải giữ bàn thờ của tổ tiên. Cho dù nhà mình có nhỏ, dù mình là sinh viên chỉ có một cái phòng rất nhỏ, mình cũng phải có một cái góc nào đó để thờ tổ tiên, để thắp một cây hương. Ở trong chùa cũng vậy, cũng thắp hương, cũng đốt trầm. Và riêng trong chùa thì người ta không phải chỉ đốt nhang, trầm mà thôi. Trong truyền thống Phật giáo thì có năm thứ nhang, năm thứ hương ấy nếu đốt được thì có công hiệu gấp ngàn lần chỉ đốt hương trầm thôi. Ngoài đời chỉ có hương chiên đàn, hương trầm, ở trong chùa ngoài những thứ đó còn có năm thứ hương nữa, đó là giới hương, định hương, tuệ hương, giải thoát hương, giải thoát tri kiến hương.

                          Giới hương tức mình đốt hương bằng sự trì giới, giữ gìn năm giới. Mình không nói dối, không la mắng và dùng lời ái ngữ đó là giới thứ tư. Mình không uống rượu, không sử dụng chất ma tuý, không có tiêu thụ những sản phẩm có độc tố, đó là giới thứ năm. Mình không có tà dâm, không ăn nằm với những người không phải là vợ hay chồng của mình. Rồi mình biết bảo hộ sinh mạng, bảo hộ môi trường, đó là giới thứ nhất, là bất sát. Khi mình sống như vậy là mình đang cúng dường một thứ hương gọi là hương giới, loại hương này quý hơn cả hương trầm. Vì vậy cho nên khi đứng trước đức Thế Tôn thì mình chắp tay mà nói rằng: “Con nay xin dâng hương lên đức Thế Tôn, và hương của con dâng lên là hương giới, hương định, hương tuệ, giải thoát hương, giải thoát tri kiến hương”. Là Phật tử, mình phải biết thắp loại hương đó chứ không phải chỉ thắp hương mua ở ngoài chợ.

                          Hôm ấy Thầy ở chùa Ngọc Hồ giảng về bài “Ngũ phần hương” ấy. Nhưng anh chàng Tú Uyên đâu chịu nghe, anh nghe anh chán, chỉ có Giáng Kiều ngồi nghe pháp thoại còn chàng ta cứ nghĩ chuyện gì đâu, nghĩ chuyện chiều nay mình uống rượu gì, mình đi chơi với ai. Vì vậy cho nên bài pháp cũng vô nhưng độ chừng một hai phần trăm thôi. Bởi chứng nào tật đó nên anh ta cứ uống rượu say, đi chơi về khuya và khi nói hơi toàn nồng nặc mùi rượu. Khi được Giáng Kiều khuyên, anh ta đã không nghe theo mà còn la mắng, đánh đập nàng nữa. Cho nên bữa sáng đó lúc thức dậy gần 12 giờ trưa thì thấy một mảnh giấy của Giáng Kiều để lại: “Thôi anh ở lại một mình, sống với anh khó quá! Em đi!” và Giáng Kiều bỏ đi.

                          Nhớ lại giờ phút đầu tiên, cái phút mà thấy Giáng Kiều, nháy mắt một cái, mỉm cười một cái và bước ra từ bức tranh thật hạnh phúc biết bao mà kể, cái mối tình lúc ban đầu nó đẹp như thế, vậy làm ăn sao mà đến nỗi bây giờ Giáng Kiều bỏ đi. Trước khi kể tiếp thì tôi xin hỏi quý vị: “Giáng Kiều của quý vị đang còn đó hay là đã bỏ đi rồi, hay sắp sửa bỏ đi?”, “Quý vị làm ăn sao mà bây giờ Giáng Kiều đã nghĩ tới chuyện ly dị, cha muốn từ con, con không có nhìn được mặt cha, vợ sắp bỏ chồng, chồng sắp bỏ vợ?”. Đây là một câu hỏi. Mình làm ăn như thế nào, đã nói những cái gì, đã làm những điều gì, đã gây nội kết cho người đó như thế nào, rồi người đó phản ứng ra sao, gây nội kết cho mình ra sao? Mình là con nhà Phật tử mình, mình có biết tu tập chuyển hoá, tháo gỡ nội kết hay không?

                          Khi Tú Uyên đọc thông điệp:”Thôi em đi, không thể nào sống được với anh nữa. Em chịu thôi!” thì nỗi đau, niềm tuyệt vọng trào lên, và Tú Uyên không muốn sống nữa, có ý muốn tự tử.

                          Trong xã hội bây giờ, số thanh niên thiếu nữ đi tự tử đông lắm. Ở Hồng Kong, số người nhảy từ cao ốc 40 tầng xuống để chết thật nhiều, ở bên Pháp mỗi ngày có khoảng 30 thanh niên tự tử, bên Anh nhiều hơn, Nhật Bản cũng rất là nhiều, Việt Nam cũng vậy. Tại sao như thế? Tại mình lâm vào tình trạng tuyệt vọng nên đôi khi mới mười mấy tuổi đã tự tử rồi. Cho nên Tú Uyên không phải chuyện ngày xưa, Tú Uyên là chuyện ngày hôm nay, đang xảy ra rất gần.

                          Trong khi đi kiếm sợi dây thòng lọng để treo cổ, thì tự nhiên anh ta nhớ lại kỷ niệm lúc hai người tới chùa Ngọc Hồ và nghe giảng. Sau khi nghe giảng xong lúc đi ra thì Giáng Kiều hỏi: ”Anh có thích bài pháp thoại nàykhông?”. Anh chàng nói: “thích” nhưng kỳ thực anh ta đâu có nghe. “Thầy nói là mình muốn truyền thông với nhau thì mình phải thắp nhang, mai mốt ví dụ em bỏ anh đi chỗ khác, anh muốn em trở về thì anh phải thắp nhang’” Khi nhớ lại được câu đó anh liệng cái thòng lọng đi, và chạy ù ra ngoài chợ rồi mua một bó nhang.

                          Vì nóng nảy nên thay vì thắp một cây nhang giống như mấy thầy ở đây, anh ta lại thắp hết cả bó nhang do đó khói bay lên mù mịt. Anh ta ngồi chờ mười lăm phút không thấy Giáng Kiều hiện ra trở về, nửa giờ rồi một giờ rưỡi, hai giờ cũng vậy, cứ ngồi đó mà chờ. Nhờ chờ đợi nên tự nhiên anh ta có cơ hội ngồi yên như vậy, đây là lần đầu tiên trong đời anh ta chịu ngồi yên, ngồi yên tức là ngồi thiền đó.

                          Trong khi ngồi yên, tâm anh ta lắng xuống nên không còn nghĩ tới chuyện chết nữa, và anh ta bắt đầu thấy được những điều ngày xưa anh ta không thấy. Anh ta đã đối xử với ba mẹ như thế nào, làm cho ba mẹ đau khổ ra sao, đã nói năng hành động nóng nảy như thế nào, đã đối xử tệ bạc với bạn bè ra sao? Tất cả những cuốn phim quá khứ đều lần lượt trở về, anh ta nhìn thấy lại hết, có sự phản quang đó là nhờ ngồi thiền. Mình bận rộn quá, không biết nhìn lại cách mình sống như thế nào trong quá khứ, và anh thấy rõ ràng mối tình của mình đối với Giáng Kiều quá đẹp. Trong đời mình có một người như Giáng Kiều xuất hiện rất là hiếm, vậy mà mình đã ăn ở như thế nào, đã đánh đập, chửi mắng ra sao để cho Giáng Kiều phải bỏ đi?

                          Hối hận quá đi, và lần đầu tiên hai giọt nước mắt của anh ta chảy xuống, lần đầu tiên anh ta biết hối hận. Tú Uyên nghĩ rằng: nếu Giáng Kiều trở lại, nếu phước đức ông bà còn mà Giáng Kiều trở lại thì nhất định là mình quyết sẽ sống một cách khác, mình sẽ giữ giới. Từ nay trở về sau, mình sẽ không uống rượu, đừng để say sưa, đừng đi chơi tối nữa; mỗi khi mình nói điều gì phải thở cho nó nhẹ rồi mới nói, không có nói những điều làm cho người kia đau lòng nữa. Khi lòng dặn lòng như vậy thì tự nhiên trong vòng nửa giờ đồng hồ, tâm của Tú Uyên lắng xuống, thanh tịnh trở lại và trong người thấy mát mẻ, khỏe khoắn, tìm thấy con đường đi. Vừa lúc đó anh ta nghe tiếng gõ cửa, Giáng Kiều xuất hiện trở lại.

                          Đó là hiệu lực của việc ngồi thiền. Ngồi thiền là để nhìn lại, để thấy con đường của mình đi, để tái lập lại được sự bình an trong lòng mình. Đó là nhờ đốt hương không phải mua ở ngoài chợ, mà là hương giới, hương định và hương tuệ. Tuệ tức là trí tuệ, là khả năng thấy được những lỗi lầm của mình, thấy được con đường mà mình phải đi. Vì vậy cho nên chúng ta là con nhà Phật tử, chúng ta đừng chỉ đốt nhang trầm mua ở ngoài chợ mà phải đốt hương giới, hương định và hương tuệ.

                          Năm giới nhiệm mầu

                          Chúng ta phải biết sử dụng năm giới, thực tập theo năm giới và mỗi hai tuần lễ phải tụng giới với nhau. Ở trên mạng Làng Mai có Nghi thức tụng năm giới bằng tiếng Việt, nếu quý vị muốn tụng giới, quý vị có thể lên mạng và cả gia đình mặc áo tràng cùng tụng giới với đại chúng Làng Mai. Bất cứ lúc nào muốn tụng giới là có thể tụng được. Trong nghi thức đó, Sư Ông Làng Mai làm chủ lễ, thầy Pháp Niệm dâng hương và có năm vị xuất sĩ tuyên giới.

                          Giới thứ nhất là bảo vệ sự sống, giới thứ hai là hạnh phúc đích thực, giới thứ ba là tình yêu đích thực, giới thứ tư là ái ngữ lắng nghe để tái lập truyền thông và giới thứ năm là tiêu thụ trong chánh niệm, không sử dụng ma túy và rượu chè. Nếu mình thực tập theo đúng năm giới như vậy thì mình luôn luôn cúng dường và đốt lên ngũ phần hương, như thế đời sống của mình sẽ thay đổi và Giáng Kiều của mình sẽ không bao giờ bỏ mình đi hết.

                          Cho nên chiều hôm nay mình phải ngồi lại, sau chừng nửa giờ ngồi quán chiếu thì mình phải tới với Giáng Kiều của mình. Giáng Kiều này có thể là bố mình, có thể là mẹ mình, hoặc là anh, chị, em mình và cũng có thể là người bạn hôn phối của mình. Do đó mình phải biết nói lời ái ngữ, mình phải nói: “Này em, trong những ngày tháng vừa qua, anh đã có những vụng về; anh đã nói, đã làm những gây cho em những nỗi khổ niềm đau, những nội kết. Tại vì anh không thực tập chánh niệm nên anh đã tạo ra những nội kết như vậy, anh rất muốn em giúp anh tháo gỡ những nội kết đó. Anh hứa từ đây về sau anh sẽ không làm như vậy nữa. Và nếu khi anh nói một điều gì, làm một điều gì làm cho em đau thì xin em nhắc cho anh để anh có thể thay đổi, em phải giúp anh”.

                          Nói như vậy tức là sử dụng ái ngữ, và người chồng cũng có thể nói với người vợ như vậy, người cha phải nói với người con như vậy. Và theo Thầy người cha phải bắt đầu. Tại vì người cha, người mẹ lâu nay ưa sử dụng quyền hành làm cha, làm mẹ, cho nên khi để cho đứa con bắt đầu thì cũng hơi khó cho nó. Do đó người cha, người mẹ nên bắt đầu. “Con ơi, trong những năm tháng vừa qua, ba có hơi nặng nề với con. Ba chưa thấy được những nỗi khổ, niềm đau, khó khăn của con cho nên ba hay ép buộc con, hay áp đặt những điều ba muốn lên con. Ba đâu có muốn làm cho con khổ, vậy mà ba đã tạo ra những nội kết trong con. Con là tương lai của ba, chính con sẽ mang ba đi về tương lai, ấy vậy mà ba đã tạo ra những nội kết trong lòng con. Bây giờ ba rất hối hận. Con giúp ba, hai cha con mình sẽ tìm cách tháo gỡ những nội kết trong con và trong ba”.

                          Mình có pháp môn, mình là con nhà Phật tử, thành ra nếu mà cha nói được với con như vậy thì con sẽ mở lòng ra và hai cha con sẽ cộng tác, sẽ tu chung, sẽ tụng giới chung. Cho nên ngày hôm nay, tôi muốn quý vị phải dành một khoảng thời gian nào đó để ra ngồi dưới gốc cây một mình nửa giờ rồi nghĩ lại. Mình đừng có đánh mất Giáng Kiều vì Giáng Kiều ngày xưa rất đẹp, cho mình rất nhiều hạnh phúc. Mình có thể khôi phục lại được Giáng Kiều. Trước hết cần phải thay đổi chính mình, sau khi thay đổi được mình thì mình sẽ giúp cho Giáng Kiều của mình trở thành tươi mát, đẹp đẽ như ngày xưa. Không có cái gì mất hết!

                          Chúc quý vị thành công trong công trình tu học của mình.


                          (*) Bà Đoàn Thị Điểm sinh năm 1705, tức là đầu thế kỷ thứ 18 và mất năm 1748. Bà có một người anh tên là Đoàn Doãn Luân, hai anh em rất giỏi về văn chương. Anh Luân lớn hơn em gái 5 tuổi, và cha của họ cũng rất giỏi về văn chương, thành ra Đoàn Thị Điểm tuy là con gái nhưng mà được học và làm thơ rất hay. Đoàn Thị Điểm là một nữ sĩ với tên Hồng Hà nữ sĩ. Bà thường làm thơ, đối họa với cha, với anh. Có bữa đó Điểm đang làm đẹp, ngồi trước một tấm kiếng và vẽ lông mày, lông mi để trang điểm thì anh trai đi ngang qua. Anh Luân ngừng lại thấy cảnh đó rất đẹp, em gái đang trang điểm, nên mới ra một câu đối: ”Đối kính họa mi, nhứt Điểm phiên thành lưỡng Điểm” rồi bảo em gái đối lại. “Đối kính họa mi”, tức là ngồi trước tấm gương mà vẽ lông mày. ‘Nhất Điểm phiên thành lưỡng Điểm”, tức là một em Điểm trở thành hai em Điểm. Tại vì trong kiếng cũng có một em Điểm, ở ngoài này cũng có một em Điểm. Cô Điểm nói: “em đang bận trang điểm, lát nữa ra ngoài chơi em sẽ đối”. Và sau khi trang điểm rồi thì hai anh em đi ra ngoài hồ, lúc đó trăng đã lên và đã chiếu xuống dưới mặt hồ, bây giờ Điểm mới đối lại: ”Lâm trì ngoạn nguyệt, chích luân chuyển tác song luân”. “Lâm trì ngoạn nguyệt” tức là tới hồ để ngắm trăng. “Chích luân chuyển tác song luân” là một vầng trăng trở thành hai vầng trăng, có một vầng trăng ở trên trời và có một vầng trăng ở dưới hồ (vầng trong chữ Hán là luân), một anh Luân trở thành hai anh Luân. “Lâm trì ngoạn nguyệt, chích luân chuyển tác song luân”, tức là ra ngoài hồ ngắm trăng, thì một vầng trở thành hai vầng, một anh Luân mà mình thấy có hai anh Luân.

                          Leo đồi thế kỷ

                          Hôm nay trong pháp hội có sự có mặt của tăng thân Làng Sen Búp ở Úc Châu. Ở Pháp chúng ta đang sống giữa mùa Đông. Ở Úc bây giờ là giữa mùa Hạ. Không gian và thời gian hai nơi đã được phối hợp lại trong buổi pháp thoại này. Tuy đại chúng Làng Mai đang ngồi tại thiền đường Cam Lộ nhưng cũng đang ngồi trong khuôn viên Làng Sen Búp. Tuy tăng thân Làng Sen Búp đang ngồi bên Úc nhưng cũng đang có mặt tại thiền đường Cam Lộ với chúng ta hôm nay.

                          Đầu năm 1996, Làng Mai bắt đầu chế tác một loại pháp thoại gọi là pháp thoại viễn liên (telecom dharma talk). Pháp thoại đầu đã hướng dẫn về chùa Từ Hiếu ở Việt Nam. Tăng thân Làng Mai đã được về chùa tổ trong giờ pháp thoại và đại chúng chùa Từ Hiếu cũng đã có dịp ngồi ở Làng Mai. Đây là pháp thoại viễn liên thứ hai, hướng về châu Úc.

                          Chúng ta hãy tự hỏi là chúng ta có thì giờ để thương yêu hay không, và chúng ta có thương yêu ai hay không? Nếu chúng ta không thương ai thì trái tim chúng ta sẽ khô cằn. Tình thương đem lại hạnh phúc cho ta và cho những người ta thương. Chúng ta muốn thương những trẻ em đói, bị khuyết tật, bị hiếp đáp chẳng hạn. Chúng ta ôm ấp tình thương ấy trong lòng, mong mỏi một ngày nào đó sẽ có thể có cơ hội trực tiếp làm việc giúp đỡ cho chúng. Nhưng khi thực sự tiếp xúc với các em, ta có thể khựng lại, ta có thể phát giác ra rằng có những trẻ em rất khó thương. Chúng có thể thô bạo, chúng nói dối, chúng ăn cắp. Sau một thời gian tiếp xúc với chúng, tình thương của chúng ta có thể bị xoi mòn. Trước kia ta nghĩ thương trẻ em nghèo đói và khuyết tật là dễ, là ngọt ngào, là an ủi, là mầu nhiệm, bây giờ đây tiếp xúc với thực tế, ta có thể hết thương. Khi ta khám phá ra rằng đối tượng thương yêu của ta không ngọt ngào, không dịu hiền, không dễ thương thì ta thất vọng, chán nản, chua chát, bực bội. Nếu ta không thương được một em bé nghèo khổ và khuyết tật thì ta có thể thương được ai?

                          Trong chúng ta ai cũng có một hình ảnh nhiệm mầu về Bụt, một tri giác về Bụt. Ta tin là nếu được gặp Bụt bằng xương bằng thịt thì ta có thể thương ngài liền. Bụt thế nào cũng dễ thương, vì Bụt có đầy chất liệu từ bi và trí tuệ. Nhưng nếu các nhà khoa học tìm được cách để cho ta thấy được hình ảnh thật của Bụt đang ngồi trên núi Thứu cách đây 2.600 năm, liệu ta sẽ thương Bụt như ta đang thương không? Chúng ta nhìn lên trời và thấy được những ngôi sao đã tắt cách đây đến nhiều ngàn năm ánh sáng. Hình ảnh du hành trong không gian có thể là không đi bằng đường thẳng mà đi bằng đường cong. Khi bay từ Paris qua Los Angeles, máy bay đâu có đi đường thẳng. Hình ảnh của Bụt và các thầy trên núi Thứu cũng đã lên đường và đang đi vòng quanh. Nếu ta có dụng cụ khoa học tinh vi, ta có thể đuổi kịp và đón bắt những hình ảnh ấy, và nghe được Bụt đang thuyết pháp bằng tiếng Magadhi. Và nghe Bụt, ta có thể đính chính được những điều sai lầm ghi chép trong kinh điển, kể cả những điều Bụt không nói mà người ta gán cho Bụt. Một sư chú ở xóm Thượng nói: ‘‘Hình ảnh Bụt trong con rất đẹp. Nếu bây giờ con thấy Bụt bằng xương bằng thịt, con cứ sợ là ngài sẽ không đẹp bằng Bụt trong tâm ý con. Thầy ơi, thầy nghĩ Bụt giống ai?’’ Tôi trả lời: ‘‘Có thể Bụt hơi giống Mahatma Gandhi.’’ Sư chú hơi thất vọng. Theo sư chú nghĩ thì Bụt đẹp hơn thánh Gandhi nhiều. Tôi đã từng thăm viếng một số các gia đình dòng họ Thích Ca quanh miền Lâm Tỳ Ni và Ca Tỳ La Vệ, tôi đã có một ý niệm về tầm vóc, nước da và dáng dấp của Bụt.

                          Chúng ta ai cũng xây dựng nên những hình ảnh thật đẹp về Bụt và về Chúa. Chúng ta yêu mến những hình ảnh ấy, nhưng nếu chúng ta gặp Bụt ngoài ga xe lửa Sainte Foy hay gặp Chúa Ki Tô ngoài siêu thị Leclerc thì liệu chúng ta có yêu mến được các vị như ta đã từng yêu mến trong tâm tưởng ta không? Tri giác của ta về Bụt và về Chúa có thể rất khác với Bụt và Chúa trong thực tại.

                          Trong thời đại của Bụt, có người đã không yêu mến Bụt mà còn ghét bỏ người. Có những vị đệ tử xuất gia của Bụt đã bỏ Bụt ra thành lập những giáo đoàn chống đối. Có những người vu khống cho Bụt. Thương yêu không phải là vấn đề hưởng thụ những ngọt ngào. Thương yêu cần phải có hiểu biết. Không hiểu thì không thể thương. Đối tượng thương yêu không dễ thương mà ta thương được, ấy mới gọi là tình thương. Trong chúng ta có nhiều vị muốn về nước để giúp đỡ trẻ em, để đem lại niềm tin và sự đoàn kết giữa người với người. Chiến tranh đã tạo ra bao nhiêu hận thù, thành kiến, chia rẽ và nghi ngờ. Cho nên chúng ta muốn về, bước những bước chân thân yêu trên đất nước quê hương, ôm lấy mọi người, không phân biệt giàu nghèo, đức tin, để làm vơi đi nỗi khổ và giúp người tìm lại an lạc. Nhưng trước khi trở về, chúng ta phải chuẩn bị tu tập. Những người ta muốn thương có thể là không dễ thương chút nào. Những người ấy có thể nghi kỵ chúng ta, thù hận chúng ta, và muốn tiêu diệt chúng ta. Nếu trước khi về mà các vị không thực tập về hiểu và thương thì khi về tới các vị sẽ có thể ghét những người mà quý vị muốn thương.

                          Khi ta đã đánh mất khả năng thương yêu là ta cũng đánh mất đời ta. Ta phải có tinh thần thực tiễn. Đừng nghĩ rằng khi về tới là ta có thể ngồi lại với những thành phần chống báng nghi kỵ nhau và có thể thiết lập ngay được sự truyền thông giữa họ và ta. Ta có thể nói rất hay về sự cần thiết của hòa điệu và hòa giải, nhưng ta có thể không áp dụng được những điều ta nói vào thực tế.

                          Tại Làng Mai, chúng ta sống với nhau hăm bốn giờ đồng hồ một ngày. Chúng ta có thực tập với nhau, nâng đỡ nhau để cùng tạo hạnh phúc cho nhau hay không? Chúng ta có vượt thắng được những quan điểm khác nhau để thực hiện kiến hòa đồng giải hay không? Chúng ta có sử dụng ngôn ngữ từ ái để thực hiện khẩu hòa vô tránh không? Nếu chúng ta thành công được trong những thực tập này, thì ta cũng sẽ thành công được khi về tới quê hương.

                          Có rất nhiều vị thuyết pháp hay về các đề tài hòa giải và sống trong tinh thần hòa hợp. Nhưng không phải ai nói được thì cũng làm được. Chúng ta không nên chỉ nói suông mà không làm. Nếu chúng ta không thực tập được những điều ta nói, thì ta có thể hiến tặng được gì, và hiến tặng cho ai? Nếu các vị giáo thọ như Chân Truyền và Chân Lương không nắm tay nhau, sống và làm việc trong hòa hợp, thì thử hỏi các cháu làm sao có niềm tin nơi tương lai? Chúng ta phải mỗi ngày cố công thực tập kiến hòa đồng giải và khẩu hòa vô tránh. Kiến hòa đồng giải là tổng hợp những cái thấy để cùng nhau hiểu được vấn đề sâu hơn. Khẩu hòa vô tránh là sử dụng ái ngữ đểngười này không làm tổn thương tự ái của người kia. Đó là những gì chúng ta phải thực tập hàng ngày. Nếu chúng ta thất bại trong phép thực tập này thì thử hỏi làm sao con cháu chúng ta có tương lai? Thử hỏi làm sao để các bạn của chúng ta, tuổi trẻ ở Việt Nam, có được một tương lai? Cho nên chúng ta chưa cần phải vội vã đi về cái phía phụng sự; ngay trong khi chúng ta ở đây sống với nhau, đi thiền hành, ăn cơm, pháp đàm, pháp thoại, chúng ta đã có thể thực hiện thương yêu rồi. Tại vì nếu tôi có thể nhìn được người sư em của tôi với con mắt thương yêu, nếu tôi có thể thở và mỉm cười khi người sư anh tôi nói một câu nói không được dễ thương lắm thì đó là tôi đã bắt đầu thương yêu và phụng sự cho những người tôi nguyện thương yêu và phụng sự ở quê hương tôi. Chúng ta không cần phải đi về tương lai, chúng ta không cần phải đi qua bên nớ thì chúng ta mới thương yêu được, chúng ta mới có thể phục vụ họ được. Ngay tại bên này, đi từng bước chân thiền hành, mỉm từng nụ cười chánh niệm, nhìn từng cái ánh mắt thương yêu và chấp nhận, đó đã là những hành động thương yêu đích thực mà chúng ta hướng về quê hương và những người khổ đau cùng khắp trên thế giới.

                          Chúng ta học được của Bụt, của thầy và của tăng thân rất nhiều, và chúng ta thao thức muốn đi ra ngoài để có thể chia sẻ cho người khác những gì chúng ta đã học. Chúng ta muốn đi dạy. Nhưng chúng ta sẽ dạy gì? Nếu ta không có khả năng thở và đi thiền hành, để tháo gỡ những nỗi khổ niềm đau của chúng ta như cái giận, cái buồn, cái ganh, cái tức, thì chúng ta có thể dạy được gì cho kẻ khác? Không lẽ chúng ta chỉ đem tới cho họ những bài pháp thoại, những bài pháp thoại mà chính chúng ta cũng chưa thực sự thâm nhập và chưa đem áp dụng được vào trong đời sống hàng ngày của cá nhân và của tăng thân? Chúng ta phải tự hỏi là nếu đi ra ngoài dạy thì chúng ta sẽ dạy gì. Chúng ta chỉ có thể dạy được bằng kinh nghiệm của chúng ta thôi. Chúng ta không phải là một cái máy thâu thanh và phát thanh. Máy thâu thanh và phát thanh có thể được mua ngoài chợ, và những cuốn băng cũng có thể được mua ngoài chợ. Những người thương của chúng ta cần những gì quan trọng hơn một cái máy phát thanh và một cuộn băng pháp thoại. Họ cần cái kinh nghiệm trực tiếp của chúng ta. Khi chúng ta có khả năng hóa giải được những khổ đau, những hận thù, những ganh tỵ, những buồn bực của chúng ta bằng những phương pháp thực tập rồi thì chúng ta sẽ có đức tin lớn nơi chính ta. Và khi ta nói pháp và chia sẻ pháp môn, lời nói của chúng ta có năng lượng mạnh, bởi vì những gì chúng ta chia sẻ không phát xuất từ những lý thuyết và kinh điển, mà từ khổ đau và sự thực tập của chúng ta. Vì vậy cho nên ở tại Làng Mai tôi thường nhắc nhở quý vị rằng chúng ta chỉ nên dạy những gì mà chúng ta đã làm mà thôi. Ví dụ như chúng ta dạy về cái lạy thứ nhất. Lạy xuống, ta phải thấy được tổ tiên của ta, tổ tiên tâm linh và tổ tiên huyết thống. Trong số các tổ tiên của chúng ta có những vị gần như là tuyệt hảo, nhưng cũng có những vị còn yếu kém, còn bê bối, nhưng vì họ là tổ tiên của chúng ta nên chúng ta phải chấp nhận họ. Nếu chúng ta không gọi họ là tổ tiên thì chúng ta gọi họ là gì? Trong phương pháp thực tập ba lạy, tất cả những người sinh ra trước ta đều là tổ tiên của ta cả. Ta có những tổ tiên rất trẻ, mới có hai mươi tuổi cũng đã là tổ tiên của ta rồi. Đó là sư anh của ta, sư chị của ta. Ta cũng có những tổ tiên rất già, hai ngàn tuổi, hai ngàn năm trăm tuổi. Có những vị rất hay, rất giải; có những vị còn non yếu, nhưng tất cả đều là tổ tiên của chúng ta. Cha mẹ của chúng ta có thể hư hèn, cha mẹ của chúng ta có thể nghiện ngập, có thể đã làm khổ cho nhau, có thể đã làm khổ ta, nhưng họ vẫn là cha mẹ của ta. Ta phải chấp nhận họ là cha mẹ của ta trước, và chấp nhận được rồi thì ta sẽ có sự bình an. Lúc đó ta mới có thể làm được một cái gì để giúp cho anh ta, chị ta, cha ta, mẹ ta và tổ tiên ta. Còn nếu chúng ta nói rằng người đó không xứng đáng, ta không thể gọi người đó là cha, là mẹ, thì ta sẽ kẹt vào thế bí suốt đời. Ta phải học chấp nhận họ. Sau đó, trong cùng một cái lạy ta tiếp xúc với con cháu của ta, các em của ta, học trò của ta. Có những đứa gần như tuyệt hảo, nhưng cũng có những đứa còn trồi lên trụt xuống, chúng cãi lại ta, chúng không dễ thương với ta, hận thù ta, không chịu thực tập gì cả. Trong cái lạy thứ nhất, ta cũng phải học chấp nhận chúng. Ta chấp nhận tất cả con cháu của ta, những đứa giải và cả những đứa yếu kém. Chỉ khi nào ta chấp nhận được hết thì ta mới có sự an bình và sự tươi mát, và ta mới có thể giúp được con, được cháu của ta mà thôi. Cái lạy thứ nhất là cái lạy chấp nhận.

                          Thực tập ba cái lạy không phải là quỵ lụy cầu xin mà là quán chiếu. Trong cái lạy thứ nhất ta thấy ta hòa đồng vào dòng sinh mạng huyết thống và tâm linh, và ta xóa được cái bản ngã của ta, chính đó là một thực tập căn bản của đạo Bụt. Khắp nơi người ta nói tới vô ngã nhưng những ngôn từ về vô ngã ấy có thể không dính líu gì với đời sống hàng ngày của chúng ta cả. Những pháp môn thực tập tại Làng Mai thực sự là vô ngã quán. Tập quán chiếu cho ý niệm về ngã tan biến đểmình thấy được mình là một với tổ tiên mình, và đã là tổ tiên của mình mình cũng chấp nhận tất cả, dầu hư hèn hay tuyệt diệu. Ta chấp nhận hết tất cả con cháu của ta, dầu con cháu hư hèn hay tuyệt diệu, và tự nhiên ta thấy trào dâng cái hòa bình và cái hạnh phúc ở trong lòng ta trước. Nếu mỗi ngày ta lạy như cái máy mà ta không thực hiện được tuệ giác qua những cái lạy ấy thì đến khi ra dạy người, ta sẽ dạy gì? Nếu ta vẫn còn là một cá nhân biệt lập, một cái ngã tách biệt ra khỏi tăng thân, thấy ta không phải là sư anh của ta, không phải là sư chị của ta, không phải là thầy của ta, nơi này không phải là nơi của mình, thì làm sao ta có thể đi dạy ai được? Tuệ giác về vô ngã ta chưa có, ta chỉ mới có một mớ lý thuyết về vô ngã mà thôi.

                          Pháp môn tại Làng Mai là an trú trong hiện tại. Chỉ có an trú trong hiện tại chúng ta mới khỏi chạy vòng quanh và do đó ta bắt đầu có hạnh phúc. Nếu thực tập quán chiếu, ta sẽ nhận ra rằng những điều kiện để ta có hạnh phúc đã có sẵn ngay trong ngày hôm nay, trong ta và chung quanh ta. Không khí ta thở, những con đường thiền hành ta đi, nước ta uống, sư anh của ta, sư chị của ta, sư em của ta, thầy của ta…, tất cả những điều kiện thuận lợi có đó. Mỗi ngày ta có cơ hội thực tập ngồi thiền chung với tăng thân, đi thiền hành chung với tăng thân, ngồi ăn cơm chánh niệm với tăng thân…, đó là những điều kiện dư dã để ta có hạnh phúc. Nếu ta không biết lợi dụng những điều kiện ấy, không biết thưởng thức chúng mà lại đi tìm những điều kiện hạnh phúc khác thì chúng ta đâu có thể được gọi là người đang sống đúng theo nguyên tắc của sự thực tập. Ở Việt Nam chúng ta thường nói đứng núi này trông núi nọ (standing on the top of one mountain, you look and envy the top of an other mountain). Mình đứng trên một đỉnh núi đẹp mà không biết thưởng thức, lại nhìn sang đỉnh núi kia và nói: ‘‘Trời! Giả dụ ta sang được bên đỉnh núi kia thì đẹp biết mấy.’’ Đây là cái lỗi của rất nhiều người trong chúng ta. Một người vợ có thể thấy ông chồng của một gia đình khác dễ thương hơn ông chồng của mình. Một đứa con có thể nói phân bì là mẹ của bạn mình ngọt ngào hơn mẹ của mình. Có một em bé Hòa Lan đi qua nhà hàng xóm chơi, thấy cái bếp của nhà bên kia rất đẹp, đẹp hơn cái bếp ở nhà, và thấy mẹ của bạn sao mà dễ thương và ngọt ngào hơn mẹ nó. Về nhà nó nói: ‘‘Má ơi, con muốn đổi cái nhà bếp của mình lấy cái bếp bên kia, con cũng muốn đổi mẹ nữa. Mẹ bên kia có vẻ dễ thương hơn.’’ Em bé ấy bây giờ đã tốt nghiệp đại học rồi. Tôi đã gặp nó hồi nó sáu tuổi.

                          Nếu chúng ta cứ đứng núi này trông núi nọ là vì chúng ta không có khả năng sống hạnh phúc trong giây phút hiện tại và trong hoàn cảnh này. Chúng ta không có khả năng nhận diện những yếu tố của hạnh phúc, bây giờ và ở đây, và vì vậy chúng ta thấp thỏm muốn nhảy sang chỗ khác. Trong tăng thân chúng ta, có những người có khả năng sống hạnh phúc trong hiện tại. Điều đó là một điều rất đáng mừng, trong số những người đó có những người rất trẻ. Và cái đó là một vốn liếng rất quý giá của mình.

                          Nếu có khả năng nhận diện được những điều kiện hạnh phúc đang có mặt ngày hôm nay thì ta đã không có thái độ đứng núi này trông núi nọ. Ta có thể ngồi rất yên ổn trên tòa sen và ta không còn có cảm tưởng ngồi trên một đống lửa, luôn luôn muốn phải thế này, phải thế khác. Nếu an trú được trong hiện tại và có khả năng hạnh phúc ngay bây giờ thì khi là giáo thọ ta cũng có hạnh phúc, mà không phải giáo thọ ta cũng có hạnh phúc. Những người có khả năng an trú trong hiện tại, có khả năng có hạnh phúc thì nói rằng: ‘‘Là giáo thọ hay không là giáo thọ tôi vẫn có hạnh phúc như thường.’’ Tại Làng Mai có nhiều người như vậy. Còn nếu mà không có khả năng hạnh phúc thì dù làm giáo thọ vẫn không có hạnh phúc như thường. Có những người làm sa di, chưa thọ Giới Lớn nhưng vẫn sung sướng với cái địa vị là sa di của mình. Nếu ta bồn chồn, nếu ta ngồi không yên trên cái chỗ ngồi của ta đó là tại vì ta đang có thái độ đứng núi này trông núi nọ. Ta phải chứng tỏ khả năng sống hạnh phúc của ta. Tất cả những điều kiện có trong tôi và xung quanh tôi đã dư dã để cho tôi có hạnh phúc. Một điều may mắn cho chúng ta là trong tăng thân của chúng ta có những người có khả năng như vậy. Khi thấy được những người như thế thì chúng ta sẽ có đức tin nơi chánh pháp, nơi Bụt và nơi tăng thân.

                          chúng ta hãy vẽ trên bảng hình của một trái đồi thoai thoải

                          _2050
                          2000  2100

                          Thế kỷ thứ hai mươi mốt được ví với một ngọn đồi, và chúng ta chỉ cần bước bốn bước nữa thì chúng ta tới cái mốc năm 2000. Chúng ta đang chấm dứt thế kỷ thứ hai mươi và chúng ta sẽ bắt đầu trèo lên cái ngọn đồi của thế kỷ thứ hai mươi mốt. Tôi đã lớn tuổi rồi, không biết là có đi tới được chân đồi hay không, nhưng tôi rất quan tâm tới ngọn đồi của thế kỷ, và ngày nào tôi cũng hình dung tới các con cháu của tôi đang cùng nhau leo lên cái ngọn đồi ấy. Chắc chắn là các vị sẽ có tôi cùng leo. Tôi sống được mấy năm nữa, hai năm, ba năm, bốn năm năm hay là mười năm, điều đó ta không có thể biết trước. Có một điều ta có thể biết trước là tôi sẽ cùng leo ngọn đồi đó với con cháu của tôi. Tôi không bằng lòng với dự tính kế hoạch ba hay bốn năm. Tôi muốn làm dự tính kế hoạch cho mấy ngàn năm. Ta hãy tưởng tượng sư em Pháp Cảnh lúc sư em leo tới đỉnh đồi, đó là vào năm 2050, lúc ấy sư em đã bảy mươi bốn tuổi. Đứng trên đỉnh đồi sư em thấy gì? Nhìn lại sư em thấy con đường tu học của mình và nhìn xuống phía trước mặt sư em thấy tăng thân sẽ cùng leo xuống đồi với nhau. Lúc đó, bảy mươi bốn tuổi rồi cố nhiên sư em sẽ có nhiều đệ tử xuất gia và tại gia, và người ta đã gọi sư em là Sư Ông. Cái điều mà tôi muốn nói đây là chúng ta phải cùng leo ngọn đồi của thế kỷ với tư cách một tăng thân chứ không phải với tư cách một cá nhân. Bí quyết của sự thực tập chúng ta là ở nơi đó. Đi với tư cách một tăng thân thì chúng ta sẽ tới đích, còn nếu đi với tư cách một cá nhân thì chúng ta sẽ không đi tới đâu hết. Và vì vậy cho nên tôi đã quyết định từ lâu rồi là chúng ta sẽ cùng leo ngọn đồi thế kỷ với tư cách một tăng thân. Nghĩa là chúng ta phải xóa đi cái bản ngã của chúng ta và hòa mình vào trong dòng sinh mạng của tăng thân. Sư Ông của các vị, pháp danh là Thanh Quý, đang có mặt với chúng ta ngày hôm nay, trong pháp hội này. Sư Ông đã truyền đăng cho tôi với một bài kệ. Sư Ông đã đưa tôi trên một đoạn đường với tất cả những thương yêu và chăm sóc, và bây giờ tôi cũng đang mang Sư Ông trong con người của tôi để đi và cũng đã trao truyền Sư Ông lại cho quý vị để quý vị mang theo. Nếu không có Sư Ông thì làm sao có tôi? Nếu không có tôi thì làm sao có quý vị? Chúng ta là một dòng sinh mạng, và chỉ khi nào chúng ta thiết kế được như một tăng thân thì đó mới thật sự là một thiết kế, còn thiết kế của cá nhân là điều không đáng cho chúng ta mất thì giờ và tâm lực, bởi vì một cá nhân không là gì, trong khi một tăng thân là tất cả. Tăng thân của Bụt đã chưa bao giờ từng đứt đoạn. Tăng thân của Bụt đã leo hai mươi lăm ngọn đồi thế kỷ, và hôm nay chúng ta mang trong trái tim của chúng ta cái giáo đoàn đã được 2600 tuổi. Chúng ta còn trẻ nhưng mà chúng ta cũng đã rất già.

                          Vậy thì tăng thân của chúng ta không phải chỉ đang ngồi trong pháp thoại này tại thiền đường Cam Lộ hay trong cộng đồng Làng Sen Búp, mà là tăng thân khắp chốn. Tăng thân của chúng ta rất lớn, rất rộng. Các vị đã từng có cơ hội tham dự vào những chuyến đi hoằng pháp trong các năm qua thì quý vị đã bắt đầu có được một ý niệm về tăng thân của chúng ta, tăng thân muôn mầu muôn vẻ. Mỗi thành phần của tăng thân tìm cách phát triển và nuôi dưỡng cho tăng thân bằng những phương tiện khác nhau. Và bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào Sư Ông của các vị cũng có mặt, tôi cũng có mặt, và con cháu của các vị cũng có mặt. Đó là một cái thấy mà chúng ta phải khám phá ra cho kỳ được, đó là cái thấy vô ngã, và chỉ khi nào có được cái thấy đó ta mới bước được một bước thật vững chãi trên đường đời.

                          Các bạn ở bên Sen Búp cũng vậy. Chúng ta không phải là những mảnh nhỏ rời nhau, khổ đau, tách ra ngoài đại thể. Chúng ta là một tăng thân. Chúng ta nương vào nhau, chúng ta biết rằng khi một con ngựa đau thì cả tàu không ăn cỏ. Chúng ta phải thấy rằng khổ đau của người này là khổ đau của người kia. Chúng ta phải thấy nụ cười và niềm vui của người này là nụ cười và niềm vui của người kia. Chỉ khi nào ta sống được như vậy thì giáo lý vô ngã của Bụt mới trở thành sự thật sống động.

                          _____________
                          pháp thoại 28-1-1996, thiền đường Cam Lộ ở xóm Hạ, trong khóa tu mùa Đông