Truyền thông với chính mình

Trở về nhận diện chính mình bằng hơi thở chánh niệm

Chúng ta phải làm thế nào khi có khó khăn trong sự truyền thông với một người khác? Tại sao ta có những khó khăn đó? Tại sao ta không truyền thông được với người đó? Thường thì chúng ta nghĩ tại vì người đó chứ không phải tại mình.

Chúng ta thường có hành động trốn chạy. Trong bản thân mình có thể có những cô đơn, đau buồn, giận hờn, trống trải mà ta không chịu đựng nổi. Ta đi tìm sự khỏa lấp ở những phẩm vật mà ta muốn tiêu thụ như internet, phim ảnh, âm nhạc, sách báo, v.v…Điều này chứng tỏ rằng ta không bình an với chính mình, ta không truyền thông được với chính mình. Vì vậy ta không truyền thông được với người kia là chuyện rất bình thường. Chính mình còn không truyền thông được với mình thì làm sao mình truyền thông được với người kia? Nếu ta trách người kia thì cũng tội cho họ. Nội cái thấy đó cũng làm cho ta nhẹ nhàng đi nhiều. Cái thấy đó là cái thấy nào? Cái thấy rằng người kia đang có những khó khăn. Người kia không truyền thông được với chính họ và ta cũng đang có những khó khăn, ta không truyền thông được với chính mình cho nên có sự khó khăn trong sự truyền thông giữa hai người. Thấy được như vậy đã đỡ khổ lắm rồi. Ta không trách móc người kia, ta không trách móc mình mà tự nhiên ta có ước muốn trở về để tìm hiểu chính mình, để truyền thông được với chính mình.

Phần lớn chúng ta đều không có ý muốn trở về bản thân tại vì ta sợ phải đối diện với những trống trải, cô đơn, lo lắng, buồn phiền. Trở về là một hành động rất can đảm. Nhiều khi ta cần một người bạn tu, một tăng thân, một đoàn thể tu học yểm trợ cho ta để ta có thể trở về với chính mình. Những nỗi khổ niềm đau và sự trống trải đó lớn và nếu về một mình thì ta có thể bị tràn ngập. Phải có sức mạnh của bạn đồng tu hay của đoàn thể yểm trợ ta mới có thể về để nhận diện nỗi khổ niềm đau của mình.

Khi ta để tâm vào hơi thở thì ta đem tâm trở về với thân. Đó là một hành động trở về, trở về bằng con đường chánh. Nếu có những người bạn tu cùng ngồi, cùng đi, cùng thở với ta thì họ sẽ yểm trợ cho ta trong chuyến đi về. Ta thở có chánh niệm để trở về và những người bạn tu cùng thở với ta, khuyến khích ta nên trở về. Ta có sự yểm trợ sau lưng. Phương pháp này đủ đơn giản để mọi người có thể làm được. Nếu thật sự chú tâm vào hơi thở thì ta đã có được sức mạnh gọi là định (concentration). Ta thở và biết là mình đang thở, đó là niệm. Ta thở và chú tâm vào hơi thở, tập trung tất cả tâm ý vào hơi thở, đó là định. Ta bắt đầu xây dựng một sức mạnh gọi là niệm và định. Trước hết ta nhận diện được hình hài của mình: Thở vào tôi biết rằng tôi có một hình hài. Đó là bài tập thứ ba trong kinh An Ban Thủ Ý:

Thở vào tôi ý thức về hình hài của tôi.

Trong hình hài của ta có thể có những đau nhức hay những căng thẳng và ta không có sự bình an. Trong khi thở vào và thở ra có ý thức ta có cơ hội buông bỏ những căng thẳng trong hình hài của mình ở trong tư thế ngồi, tư thế đi hay tư thế nằm. Hơi thở có thể giúp ta buông thư và đem lại một ít bình an cho thân của ta. Ta phải lo cho thân trước, còn những tâm như tâm giận hờn, cô đơn, trống trải, ta sẽ lo sau. Đó gọi là niệm thân (mindfulness of the body). Hơi thở là một phần của hình hài. Trong khi thở vào mà ta tập trung vào hơi thở thì hơi thở là đối tượng chính của tâm. Ban đầu hơi thở không được bình an lắm, hơi thở có thể hổn hển, gấp gáp vì trong thân ta có sự căng thẳng, trong tâm ta có những đau buồn. Nếu đem hết tâm ý nhìn vào hơi thở, ta thấy lúc đầu hơi thở của mình chưa được bình an, chưa được sâu, chưa được nhẹ. Phẩm chất của hơi thở còn yếu. Nhưng nếu ta giữ được niệm và định, ta chỉ để ý tới hơi thở và thở thì chỉ ba phút sau là hơi thở sẽ mềm ra và dịu xuống.

Thở vào tôi biết là tôi thở vào
Thở ra tôi biết là tôi thở ra

Đây là sự thực tập đầu: nhận diện hơi thở vào và hơi thở ra. Chuyện này làm rất dễ, như một trò chơi của trẻ em. Thở vào, tôi biết đây là hơi thở vào mà không phải là hơi thở ra. Thở ra, tôi biết đây là hơi thở ra mà không phải là hơi thở vào. Nhưng nếu ta làm được thì tự nhiên tình trạng tán loạn của tâm ý sẽ chấm dứt. Ta chú ý tới hơi thở, ta biết đây là hơi thở vào, đây là hơi thở ra. Ta làm công việc nhận diện. Khi làm công việc nhận diện thì ta có định mà định là ngược lại với tán loạn. Tâm của ta đang tán loạn, chỉ cần thở và nhận diện hơi thở vào và hơi thở ra thì tự nhiên tình trạng tán loạn sẽ trở thành định. Công việc này đủ dễ để cho bất cứ người nào cũng có thể làm được. Niệm, định, tuệ không phải là chuyện trên trời mà là chuyện bây giờ và ở đây và ai cũng có thể làm được. Ta cứ thở như vậy và không suy nghĩ gì cả. Đó là bài tập nhận diện hơi thở vào và hơi thở ra. Nếu ta thở như vậy được hai phút thì phẩm chất của hơi thở vào và hơi thở ra của ta sẽ tốt hơn. Ta không cố gắng hay ép buộc mà tự nhiên hơi thở vào sẽ sâu hơn và hơi thở ra sẽ chậm hơn.

Thở vào tôi nhận thấy hơi thở của tôi đã sâu hơn
Thở ra tôi nhận thấy hơi thở ra của tôi đã chậm hơn

Phẩm chất của hơi thở đã tăng lên. Ta chỉ cần thở trong một phút thì có thể làm cho phẩm chất của hơi thở cao hơn. Hơi thở của ta có bình an hơn, dễ chịu hơn. Hơi thở bình an và dễ chịu sẽ ảnh hưởng lên thân của ta tại vì thân và tâm dính với nhau. Lúc này ta có thể can thiệp vào thân, có chút bình an trong hơi thở thì ta có thể lấy bình an đó hiến tặng cho thân và thực tập bài kệ thứ ba trong kinh An Ban Thủ Ý:

Thở vào tôi có ý thức về hình hài tôi
Thở ra tôi buông bỏ những căng thẳng trong hình hài tôi

Chúng ta đã làm được với hơi thở, ban đầu hơi thở hổn hển không có bình an nhưng thở được một lúc thì hơi thở dịu xuống và có bình an. Hình hài của ta cũng vậy, ban đầu nó có sự căng thẳng, nhưng nếu ta tiếp tục thở và ôm lấy cơ thể bằng hơi thở thì những căng thẳng được buông bỏ và ta có sự bình an trong cơ thể.

Lúc tôi mới tới giảng tại đại học Cornell, ông giáo sư chính trị học George Mc Turnan Kahin hỏi tôi: Thầy ơi, trong khi ngồi thiền thì thầy làm gì? Ông rất tò mò muốn biết mình làm gì trong khi ngồi thiền. Trong khi ngồi thiền có những việc làm rất cụ thể mà trước hết là điều tức hay điều hòa hơi thở. Khi ngồi xuống công việc đâu tiên ta làm là điều tức, chăm sóc hơi thở để nó dịu xuống và có bình an. Sau đó thì ta điều thân tức điều chỉnh thế ngồi của mình. Thế ngồi của ta phải thẳng, không cứng, không có sự căng thẳng. Ta ngồi thật thẳng nhưng vẫn mềm và thoải mái. Hơi thở và thế ngồi phải đi đôi với nhau. Người ngồi thiền quen có thể điều tức và điều thân chỉ trong một vài phút. Sau đó ta đi sâu vào sự quán chiếu để có nhiều bình an và pháp lạc. Pháp lạc là niềm vui và hạnh phúc của chánh pháp (Dharma joy, Dharma happiness). Nếu ta ngủ đủ thì trong khi ngồi thiền thế nào ta cũng có pháp lạc, có hạnh phúc và niềm vui trong khi ngồi thiền. Niềm vui đó không phải do người khác đem tới mà do chính sự thực tập của mình.

 

Bình an trong ta là điều quan trọng nhất

Ta bắt đầu điều phục hơi thở, rồi sau đó ta điều phục thân, và tự nhiên ta sẽ có an trong thân và trong hơi thở. Ta có thể ở lại với thân lâu bao nhiêu cũng được. Trong đời sống hàng ngày ta đã bỏ bê thân của mình. Khi ngồi với máy tính trong hai giờ đồng hồ ta đã quên hẳn là ta có một hình hài. Trong thời gian đó những căng thẳng dồn lên và chứa lại. Nhưng vì ta mê, ta bị máy tính hút hồn nên ta không không ý thức được sự căng thẳng đang bị dồn chứa. Ta bỏ bê cơ thể của ta nên nó mất đi sự bình an. Ở Làng Mai chúng ta có tiếng chuông chánh niệm gài vào trong máy tính. Mỗi 15 phút thì có một tiếng chuông để ta ngưng làm việc, bắt đầu thở vào có ý thức và đem tâm trở về với thân. Ta mỉm cười với hình hài và nhớ rằng ta có một hình hài. Ta có cơ hội buông bỏ những căng thẳng trong hình hài. Nói như vậy không có nghĩa là khi ngưng để thở là ta mất thì giờ. Ta quen nghĩ rằng thì giờ là tiền bạc. Thật ra thì giờ quí hơn tiền bạc rất nhiều tại vì thì giờ là sự sống. Vì vậy khi nghe tiếng chuông, trở về với hơi thở và ý thức rằng mình có một hình hài mầu nhiệm thì đó là sự sống. Nếu có niệm lực và định lực hùng hậu thì ta thấy hình hài của mình là một cái gì rất là mầu nhiệm. Nó mang trong nó tất cả trăng sao, vũ trụ. Đất Mẹ có mặt trong hình hài của ta. Ta mang theo trong hình hài sự có mặt của tất cả tổ tiên. Tổ tiên của ta chưa bao giờ chết, tổ tiên vẫn tiếp tục sống trong ta và có mặt trong từng tế bào cơ thể ta. Nếu ta có bình an, có niềm vui thì tổ tiên cũng có bình an và niềm vui. Câu thiền ngữ ”Thở vào tôi biết là tôi có một hình hài, thở ra tôi mỉm cười với hình hài của tôi” có thể rất sâu, đó là một sự giác ngộ. Ta biết là ta có một hình hài và hình hài đó rất quí. Ta đã không biết quí hình hài của mình, ta đã từng đày đọa tấm thân. Bây giờ ta biết nó rất quí giá, ta biết tất cả tổ tiên đang có mặt trong hình hài của mình. Nếu ta sống nhẹ nhàng, thảnh thơi, hạnh phúc thì tổ tiên trong ta cũng nhẹ nhàng, thảnh thơi, hạnh phúc. Cái thấy đó là giác ngộ. Giác ngộ này tiếp theo giác ngộ khác, vì vậy giác ngộ là chuyện của ngày hôm nay chứ không phải ta tu 10 năm, 20 năm nữa mới có giác ngộ. Những cái thấy có thể đến một cách tới tấp, cho ta tuệ giác để gỡ ra những hệ lụy, những ràng buộc.

Ta đang buồn, đang giận, đang tranh đấu. Tâm của ta bị ràng buộc bởi những lo lắng, giận hờn, ganh tị, và ta có thể ở trong trạng thái đó giờ này sang giờ khác, ngày này sang ngày khác. Trong khi đó thì sự sống hết sức mầu nhiệm. Nếu ta tập trung vào hơi thở, ta thở vào và thấy hình hài của mình là một sự mầu nhiệm thì ta sẽ thấy rằng không có gì là quan trọng, chỉ có sự bình an trong ta là quan trọng mà thôi. Cái thấy này người nào cũng có thể đạt tới được. Không cần phải là một vị bồ tát hay một vị la hán mà bất cứ người nào trong chúng ta cũng có thể đạt được cái thấy đó. Những giận hờn, khổ đau, bức xúc làm cho ta trôi lăn trong đời sống hàng ngày. Trong khi đó thì sự sống rất là mầu nhiệm, ta có một hình hài, ta chỉ cần thở, ngồi và buông hết thì tự nhiên ta có sự bình an. Sự bình an này quí hơn bất cứ một chức vị nào hay một sự tìm cầu nào. Có gì quan trọng đâu? Quan trọng nhất là sự bình an trong hình hài và trong tâm của ta. Sự bình an đó ta có thể có được nếu ta biết buông bỏ những giận hờn, đau khổ, bức xúc kia. Và với cái thấy đó ta có thể buông bỏ được một cách dễ dàng. Mỗi bước chân sẽ đem lại cho ta niềm vui. Ta có một hình hài, ta có hai chân còn khỏe, ta đang còn bước đi những bước thong dong trên hành tinh xinh đẹp này. Điều này rất là mầu nhiệm, rất là hạnh phúc. Ta còn đòi hỏi gì nữa?

Tự do đối với những ràng buộc của quá khứ và tương lai

Tại sao ta bước được những bước như vậy? Tại vì ta có tự do, thân tâm ta không bị ràng buộc bởi những bức xúc, lo lắng, giận hờn, bực bội kia. Tự do là cái quí nhất mà hơi thở và bước chân có chánh niệm có thể đem lại cho ta. Mỗi bước chân giúp cho ta đạt tới một tự do, bước chân nào cũng giúp cho ta có thêm tự do. Tự do không phải là chuyện nói ngoài miệng, tự do đó có thật. Ta đang lo lắng, sợ hãi về tương lai hay ta đang buồn khổ, tiếc thương về quá khứ và ta không thấy được những mầu nhiệm của sự sống trong giây phút hiện tại. Như vậy là ta không có tự do. Có những người trong chúng ta cứ ở mãi trong ngục tù quá khứ, hay đang ở trong ngục tù tương lai mà không ra khỏi được. Trong khi đó thì trong giây phút hiện tại có vũ trụ, trăng sao, cây cối, chim chóc rất đẹp. Sở dĩ ta không tiếp xúc được với những mầu nhiệm của sự sống là vì ta không có tự do. Đây không phải là tự do chính trị mà là tự do đối với những sầu thương, tiếc nuối về quá khứ hay những lo lắng, sợ hãi về tương lai. Nếu thở vào mà ta đem hết tâm ý đặt vào hơi thở vào thì tự nhiên ta buông bỏ được. Một hơi thở vào có thể kéo dài chừng ba hay bốn giây, mà nếu ta tập trung tâm ý vào hơi thở vào thì ta buông hết quá khứ và tương lai, ta có tự do trong ba hay bốn giấy đó.

Định có nghĩa là nhất tâm hay tâm nhất cảnh. Tâm nhất cảnh là tâm chỉ tập trung vào một cảnh mà thôi. Nhất cảnh ở đây là hơi thở vào của ta. Nếu ta thật sự tập trung hết tâm ý vào thở vào thì ta buông được những lo lắng về tương lai và những sầu đau về quá khứ. Ta có tự do trong khi thở vào. Muốn duy trì tự do đó thì ta tiếp tục tập trung tâm ý vào hơi thở ra, và ta muốn duy trì tự do đó bao lâu cũng được. Thở ba phút có ý thức thì trong ba phút đó ta có tự do. Tự do này ta phải tranh đấu, ta phải luyện tập mới có.

Không bị những lo lắng, giận hờn chế ngự thì ta sẽ làm những quyết định hay hơn. Trong ta có những lo lắng, bực bội, giận hờn thì quyết định của ta sẽ không sáng suốt tại vì ta không có tự do. Nếu ta thở và tập trung tâm ý vào hơi thở thì ta có tự do và chính trong tình trạng có tự do đó mà ta có thể làm được những quyết định hay hơn nhiều. Tự do là chuyện có thể có được bất cứ lúc nào ta muốn. Bằng phương pháp thở, ngồi và đi trong chánh niệm ta đem lại sự an bình, sự nhẹ nhàng và niềm vui trước hết là cho hơi thở và sau đó là cho hình hài của mình.

 

Làm lắng dịu những cảm thọ đau buồn

Nếu có hơi thở an và thân an thì ta đứng trên một mảnh đất vững vàng để có thể điều tâm. Bây giờ ta có thể nhận diện, ôm ấp và làm lắng dịu xuống những cảm thọ buồn khổ, lo lắng, ưu sầu.

Đó là những bài tập có sẵn trong kinh An Ban Thủ Ý. Khi có một cảm thọ đau buồn đi lên thì ta thở và nói:

Thở vào tôi biết trong tôi có một cảm thọ đau buồn

Thở ra tôi ôm lấy cảm thọ đau buồn đó và làm cho nó lắng dịu xuống

Trước đó chúng ta đã thực tập với hơi thở và với hình hài của mình. Bây giờ với cảm thọ đau buồn ta cũng thực tập như vậy, nhận diện, ôm lấy và làm cho lắng dịu. Đó là phép tu của mình. Nếu được ở trong một môi trường có nhiều người thực tập thì ta được hưởng năng lượng tập thể và đạt được tiến bộ mau chóng và dễ dàng hơn.

Cái đó là cái gì? Nó đang làm cho ta bực bội, giận hờn, lo lắng. Nó ngăn cản không cho ta có niềm vui trong giây phút hiện tại. Ta phải gọi tên nó ra. Tại sao nó có sức mạnh như vậy? Tại sao ta để nó làm cho ta hệ lụy? Cái đó có đáng để ta phí bỏ cuộc đời của mình hay không? Có biết bao mầu nhiệm trong cuộc đời mà sao ta lại bỏ đi vì cái đó? Cái đó quan trọng tới mức đó sao? Ta phải hỏi mình câu hỏi: Cái đó có đáng để ta làm mất cuộc đời của mình hay không? Nếu ta thấy cái đó không đáng thì đó đã là sự giác ngộ rồi. Và khi thấy được sự sống hết sức là mầu nhiệm và bình an, hạnh phúc có thể có trong từng bước chân, trong từng hơi thở thì ta có đủ sức mạnh để buông bỏ cái đó. Có cái đó hay không có cái đó cũng không quan trọng. Hạnh phúc của ta không tùy thuộc vào cái đó.

 

Sự thực tập ở Làng Mai

Sự thực tập ở Làng Mai cũng đơn giản:

1. Ta phải sử dụng hơi thở, bước chân để chế tác hỷ, lạc và an.

Năng lượng niệm cho ta biết có những mầu nhiệm của sự sống đang có mặt trong giây phút hiện tại. Ta có đủ những điều kiện để có niềm vui và hạnh phúc. Vì vậy chế tác hỷ, lạc và an là chuyện có thể làm được ngay sáng hôm nay, ngay chiều hôm nay. Ta phải học làm cho được để nuôi dưỡng mình. Đó là nghệ thuật chế tác hạnh phúc.

2. Biết nhận diện những căng thẳng, lo âu, buồn khổ để làm cho nó lắng dịu xuống.

Sự thực tập hơi thở có ý thức và bước chân có ý thức có thể giúp cho ta làm được việc nhận diện và làm lắng dịu như ta đã làm đối với hơi thở và với hình hài của mình. Tới Làng Mai ta gặp được những người bạn tu. Có những người đã tu lâu năm và có kinh nghiệm. Họ có thể chia sẻ với ta những kinh nghiệm hành trì của họ.

Giữ khu vườn em cho tươi mát

Trong Kinh Pháp Hoa, chúng ta có câu:

Từ nhãn thị chúng sanh

Phước tụ hải vô lượng

Hai câu này nói về tình thương và hạnh phúc. Dịch ra tiếng Việt:

Mắt thương nhìn thế gian

Biển phúc chứa vô cùng

Nếu ta biết nhìn mọi người bằng con mắt thương yêu thì hạnh phúc của ta sẽ lớn như đại dương mênh mông. Chữ từ đã được dịch là thương. Chữ phước có nghĩa là hạnh phúc.

Các danh từ thương và yêu dùng ở ngoài đời không có nghĩa rõ rệt. Trong khi đó thương và yêu trong đạo Bụt có ý nghĩa rất chính xác. Phương pháp thương yêu cũng rất chính xác. Chúng ta đã biết rằng trong đạo Bụt cái thương phải đi đôi với cái hiểu. Nếu không hiểu được thì không thể thương. Hiểu là một phép thực tập và thương cũng là một phép thực tập. Chúng ta có thể bắt đầu bằng thương một người. Qua người đó chúng ta sẽ học thương được tất cả mọi người và mọi loài.

Thương được một người và thương đúng cách thì chúng ta có khả năng thương được người thứ hai, thứ ba rồi thương được tất cả mọi người và mọi loài. Danh từ dùng trong đạo Bụt để chỉ cho năng lượng thương yêu là từ và bi. Từ là hiến tặng niềm vui và hạnh phúc. Bi là làm vơi nỗi khổ. Từ Bi là thứ tình thương chỉ đem lại hạnh phúc mà không gây khổ đau và hệ lụy. Hệ là ràng buộc, dính mắc. Lụy là chìm xuống, vương vấn, sầu khổ. Từ và bi là thứ tình thương có tự do, có thảnh thơi và hạnh phúc.

Con đường tu cũng là con đường thương. Thương cho đúng. Chúng ta nên tập thương một người cho đúng. Nếu thương được một người, chúng ta sẽ có thể thương được nhiều người. Người đó có thể là cha, là mẹ, là anh, là chị, là em hay là bạn. Khi thương được người đó một cách đúng pháp thì người đó sẽ có hạnh phúc. Muốn cho người đó có hạnh phúc thì ta phải làm sao cho chất liệu của thương yêu ứa ra được từ trái tim của ta.

Ta phải làm sao cho ta trở thành một khu vườn tươi mát có hoa thơm cỏ lạ, có trái ngọt cây lành, thì ta mới có cái để hiến tặng người ta thương. Nếu ta là một vùng đất hoang vu, không có suối, không có cây, không có chim, không có trái, không có hoa, thì ta khó làm cho người kia có hạnh phúc. Vì vậy cho nên quá trình thương yêu là quá trình của sự vun xới, trồng trọt và nuôi dưỡng. Những người khổ đau, những người chưa hề được thương và những người không có khả năng thương được người khác, tất cả những người đó đều có thể được ví với một vùng đất khô cằn, không suối, không cây, không chim, không bướm. Nếu ta biết thương, ta sẽ biến được vùng đất khô cằn đó trở thành ra một vùng đất tươi mát, có suối, có chim.

Có câu chuyện thật của một người Pháp tên là Elzéard Bouffier. Ông sống ở miền Haute Provence. Ông đã trồng nên hàng ngàn mẫu rừng bằng công sức một mình ông thôi. Có hàng chục ngàn mẫu đất khô cằn ở miền Nam nước Pháp, không có suối, không có cây. Mỗi ngày, ông đã xách một chiếc bao bố trong đó có đựng những hạt cây sồi mà tối hôm trước ông đã chọn, và ông mang theo một chiếc gậy bọc sắt. Ông đào những lỗ nhỏ và gửi gắm những hạt sồi đó vào. Một mình thôi, ông đã biến những vùng hoang vu của miền Nam nước Pháp thành ra những vùng có suối, có chim, có sự sống. Người ta đã tìm tới các vùng ấy để sinh sống. Trước kia những vùng đó hoàn toàn hoang vu, không ai dám tới. Câu chuyện này đã được ghi trong một cuốn sách với tựa đề Líhomne Qui Plantait Les Arbres. Tác giả là Jean Giono.

Thương yêu cũng vậy. Thương yêu là làm thế nào để những mảnh đất khô cằn kia trở thành ra những mảnh vườn xanh tươi, có cây, có suối. Mảnh vườn đó có thể là chính mình. Khi mảnh vườn của mình đã có cây, có suối, có chim, có trái thì những con chim, con bướm sẽ tìm tới và chúng sẽ có hạnh phúc. Ngày xưa tôi có làm một bài thơ với tựa đề là Duy Thị Nhất Tâm, có những câu sau đây:

Thành trì của em năm xưa

Ai đã hứa sẽ xây cho vững chãi?

Sáng hôm nay

Bỗng thấy những người cũ bập bềnh

trên sóng gió đại dương

Khổ đau xây cho loài người một trú địa cuối cùng

Và nơi ấy

Em có thể ẩn náu qua đêm dài độc địa

Hãy nhắc lại cho tôi

những lời năm xưa tôi đã hứa

Để tôi có thể còn có mặt hôm nay

mà làm chứng cho em

những mũi tên cắm vào cơ thể tôi

tôi chưa hề giao trả

Hãy sửa soạn khu vườn em

Thành một nơi có cỏ hoa tươi mát

tôi cũng chỉ là một con chim như những con chim khác

Suốt đời chỉ muốn tìm tới những chốn

có suối ngọt cây lành

Làm thế nào để cho khu vườn của ta trở thành một khu vườn có cỏ hoa thơm ngát, có suối ngọt, cây lành để cho những người xung quanh được nương náu? Đó sự thực tập của yêu thương. Làm thế nào để cho bản thân mình không còn là một mảnh đất khô cằn, không suối, không chim?

Bụt đã dạy chúng ta những phương pháp thực tập để làm cho cam lộ tươm ra từ trái tim của chúng ta. Nếu thương được một người và làm cho người đó hạnh phúc thì chúng ta cũng sẽ có hạnh phúc. Hạnh phúc đó sẽ là vốn liếng cho ta lên đường như một vị bồ tát và ta sẽ đem lại trái ngọt cây lành cho biết bao nhiêu loài chúng sanh. Người ta thương có thể tự nhiên tìm tới hoặc do may mắn mà ta được gặp. Nếu người đó là một người dễ thương thì thương người đó không khó lắm. Người đó đã là một khu vườn có trái ngọt cây lành. Nhưng nếu chúng ta không biết bảo trì thì trong khu vườn đó, cây sẽ khô, suối sẽ cạn và chúng ta sẽ không được thừa hưởng những mầu nhiệm của khu vườn đó. Nghệ thuật là bảo trì.

Nếu ta không có khả năng bảo trì một khu vườn tươi mát, chúng ta sẽ đánh mất khu vườn tươi mát đó. Bảo trì một khu vườn tươi mát còn không được thì làm sao ta có thể biến một vùng đất hoang vu trở nên một vùng đất tươi mát được đây? Cho nên chúng ta nên bắt đầu bằng cách học bảo trì những khu vườn, trong đó có khu vườn của chính chúng ta. Trong ta có những hạt giống, có những cây cối, có những dòng suối mà chúng ta phải giữ gìn để làm cho khu vườn của chúng ta giữ được tính tươi mát và mầu nhiệm.

Người ta thương cũng có những dòng suối, cũng có những hàng cây, cũng có những hoa cả mà chúng ta phải nhận diện và bảo trì. Quá trình thương yêu là quá trình nhận diện, săn sóc và bảo trì những yếu tố tươi mát có mặt trong ta và trong người ta thương. Vì vụng dại và thất niệm, chúng ta có thể làm khô đi những dòng suối đó và làm chết đi hàng cây đó. Sau đó, chim và bướm không tới nữa.

Chúng ta thường nghĩ rằng anh em trong một nhà thì dễ thương yêu hơn là thương yêu người ngoài đường. Sinh ra trong một gia đình, chúng ta là anh em với nhau. Theo nguyên tắc, chúng ta thương nhau như là hai tay và hai chân của cùng một cơ thể. Chúng ta ai cũng thuộc lòng câu anh em như thể tay chân (brothers and sisters are the limbs of the same body). Nhưng sự thật nhiều khi chúng ta không thương người anh chúng ta được. Không thương người em, người chị, người cha hay người mẹ chúng ta được. Trong số những người đó, nếu chúng ta thương được một người và làm cho người đó có hạnh phúc, thì đồng thời ta có thể bảo trì được sự tươi mát của khu vườn ta. Rồi dựa vào cơ bản đó mà chúng ta có thể thương được những người khác.

Khi cha mẹ sinh ra cho ta một đứa em hay một người anh, chúng ta đâu có quyền chọn lựa. Chúng ta không chọn lựa vì người đó là anh của ta, em của ta hay chị của ta, và chúng ta phải học thương, phải tập thương. Nếu không thương được người đó thì ta thất bại và đời ta sẽ không hạnh phúc. Anh bắt buộc phải thương cho được người đó, phải học sống hạnh phúc cho được với người đó, nếu không thì đời anh sẽ khó mà có hạnh phúc. gia đình là môi trường để học thương. Thất bại trong môi trường gia đình thì khó mong sẽ thành công trong xã hội.

Người đi tu cũng vậy. Chúng ta sống trong một gia đình, gia đình của những người xuất gia, trong đó có sư anh, sư chị, sư em. Khi thầy sinh ra một sư em hay một sư chị thì đó là cơ hội cho ta thực tập thương yêu. Trong gia đình tu học này, chúng ta có quyền chọn lựa nhiều hơn trong gia đình huyết thống. Tại vì sư em của ta phải ở ít nhất là sáu tháng hay một năm, đến khi nhận thấy người này có thể hòa chúng, có thể thành công trong sự tu học thì ta mới thưa thầy: em này chắc là có thể tu được, có thể sống hạnh phúc được với tăng thân. Vì khả năng thương yêu của tăng thân chưa đủ lớn để có thể chấp nhận được bất cứ một đứa con mới nào. Nhưng khi một người đã trở thành sư em, sư anh hay sư chị của mình rồi thì người đó phải trở nên đối tượng thương yêu của mình. Nhờ thực tập thương yêu, ta giúp cho người kia phát triển và bảo trì những trái ngọt, cây lành trong bản thân người đó. Đồng thời ta cũng thực tập bảo trì những dòng suối, những hàng cây trong khu vườn của ta. Có suối và có cây thì tự nhiên sẽ có chim, có bướm, có trái, có hoa.

Ở Làng Mai, chúng ta đã và đang học những phương pháp cụ thể. Nếu áp dụng những phương pháp ấy, ta có thể làm hạnh phúc cho nhau và cho bản thân. Những hành động, những cái nhìn và những câu nói của ta, nếu được thực hiện trong chánh niệm, đều có thể là những hành động vun xới cho khu vườn. Còn nếu không được soi sáng bởi chánh niệm thì ba nghiệp sẽ có tác dụng phá hoại khu vườn của ta và của những người ta thương. Nghĩ, chúng ta phải biết ta đang nghĩ gì và nghĩ như thế nào. Nói, chúng ta phải biết chúng ta đang nói những gì, sẽ nói những gì và đã nói những gì. Và hành động, chúng ta biết chúng ta đang làm gì. Một cử chỉ không có chánh niệm soi sáng có thể có công dụng tàn phá như một nhát búa có thể đốn ngã một thân cây trong khu vườn. Nếu khu vườn tan hoang thì chính ta phải chịu trách nhiệm.

Rác và hoa

Không chạy trốn khổ đau

Tại Làng Mai, chúng ta thường nói Tịnh độ và Ta bà tương tức. Tịnh độ được làm bằng chất liệu của Ta bà, cũng như hoa được làm bằng chất liệu của rác, nếu không có rác thì sẽ không có hoa. Ví dụ mà chúng ta thường dùng là sen với bùn, không có bùn thì không thể có sen, chỗ nào có sen là chỗ đó có bùn và chỗ nào có bùn thì ở đó chúng ta có thể trồng sen. Chúng ta thường nói với các bạn Kitô giáo: Ý niệm cho Thiên đường (Thiên quốc) là một nơi biệt lập không có khổ đau cũng như ý niệm coi Tịnh độ là một nơi không có khổ đau là những ý niệm còn ngây thơ.

Là người học Phật sâu sắc chúng ta phải thấy được điều đó. Con người thường sợ hãi, chán ghét khổ đau nên tìm cách trốn chạy khổ đau. Người ta mơ tưởng đến một cõi không còn khổ đau và gọi đó là Tịnh độ hay Thiên quốc. Đó là khuynh hướng chung của mọi người, khuynh hướng trốn chạy cõi khổ đau này để đi tìm một cõi khác không có khổ đau. Vì vậy Tịnh độ hay Thiên quốc có thể là một sáng tạo phẩm của trí óc chúng ta. Đó là nhu yếu của con người. Nếu Tịnh độ hay Thiên quốc là một nơi không có khổ đau thì quả thật đó là một sản phẩm do trí óc tưởng tượng. Nhưng nói như vậy không có nghĩa Tịnh độ và Thiên quốc không phải là những cái gì không có thật, chúng có thật nhưng không có như chúng ta nghĩ.

Theo định nghĩa của Làng Mai thì Tịnh độ và Thiên quốc là những nơi có hiểu biết, có thương yêu. Đó là nơi con người biết sử dụng khổ đau để chế tác hạnh phúc. Chúng ta cần sự hiểu biết và thương yêu nên ta mới mong về Thiên quốc và Tịnh độ. Nơi nào có hiểu và thương thì nơi đó ít khổ. Quán chiếu tính tương tức giữa rác và hoa, giữa phiền não và bồ đề, chúng ta thấy làm gì có hiểu và thương nếu không có khổ đau, làm gì có sen nếu không có bùn? Khổ đau dạy cho ta biết hiểu và biết thương. Khổ đau có công dụng của nó, chúng ta lớn lên và làm người được là nhờ khổ đau, chúng ta học hỏi được là nhờ khổ đau.

Phương pháp của đạo Bụt không phải là chạy trốn khổ đau mà là nhận diện và nhìn sâu vào khổ đau. Ngay trong sự thật thứ nhất của giáo lý Tứ diệu đế tức khổ đế, giáo lý căn bản của đạo Bụt, chúng ta đã thấy thái độ của đạo Bụt là không chạy trốn khổ đau mà ta phải dừng lại, đưa nỗi khổ niềm đau lên và nhìn sâu vào nó. Ta nhìn sâu vào trong khổ đau để thấy nguyên do, gốc rễ của khổ đau, nghĩa là thấy được sự thật thứ hai là tập đế. Hiểu được sự thật thứ nhất và sự thật thứ hai thì ta sẽ đi tới sự thật thứ tư là đạo đế, tức con đường đưa tới sự chuyển hóa khổ đau.

Ta không thể hiểu được sự thật thứ ba (diệt đế) nếu ta không hiểu được sự thật thứ nhất và sự thật thứ hai. Điều kiện căn bản để thấy được đạo là phải hiểu được khổ và bản chất của khổ là gì. Chạy trốn khổ đế và tập đế thì không bao giờ thấy được đạo đế, mà không thấy được đạo đế thì không bao giờ có thể đạt tới hạnh phúc, tức diệt đế. Diệt là diệt khổ, diệt đế là sự chuyển hóa và chấm dứt khổ đau.

Khổ đau cho con nguời cơ hội để hiểu và thương

Tứ diệu đế có hai cặp nhân – quả: tập làm nhân cho khổ và đạo làm nhân cho diệt, gốc rễ khổ đau tạo ra khổ đau, và con đường thực tập đưa tới sự chấm dứt khổ đau. Ngay trong giáo lý căn bản Tứ diệu đế, chúng ta cũng đã thấy được tính tương tức của hoa và rác, của khổ và diệt, của tập và đạo. Một nơi mà không có khổ đau thì cũng không có hiểu biết và thương yêu. Chúng ta nói tới sự thiết dụng của khổ đau (the goodness of suffering): Khổ đau rèn luyện con người, cho con người có cơ hội để có thể hiểu và vì hiểu được nên mới thương được.

Chúng ta hãy thử gửi con cháu ta tới một nơi không có khổ đau. Con cháu ta sẽ không bao giờ có cơ hội chế tác chất liệu của hiểu và thương nếu chúng không biết đói, biết nghèo, biết chiến tranh là gì. Cho rằng Tịnh độ hay Thiên quốc không có khổ đau là một điều rất vô lý! Chư Bụt và chư Bồ tát lấy gì để dạy cho dân chúng ở những nơi đó? Chúng ta lấy gì để nuôi sen nếu không có bùn?

Ở cõi Ta bà có dư giả khổ đau nên chúng ta có cơ hội thực tập. Khổ đau cần thiết nhưng chúng ta không cần phải chế tác thêm nữa vì chúng đã có quá nhiều. Rác có quá nhiều nên bây giờ ta phải học cách chuyển rác thành hoa. Nhờ có rác nên có hoa, nhờ có nhiều rác nên ta có nhiều hoa.

Khi đối thoại với các truyền thống tôn giáo khác, chúng ta có thể cho họ biết quan điểm của chúng ta về Thiên đường hay về Tịnh độ vì giáo lý đạo Bụt không dựa trên đức tin mà dựa trên sự quán chiếu. Sự quán chiếu cho chúng ta biết rằng không có phiền não thì không có bồ đề, không có rác thì không có hoa, không có Ta bà thì không có Tịnh độ. Đó là tính tương tức giữa phiền não và bồ đề, một dấu ấn của Phật pháp và nếu đánh mất dấu ấn đó thì chúng ta đi vào tà đạo.

Người hành giả thấy rác không sợ, có rác thì ta biến rác thành hoa. Người hành giả thấy khổ đau không sợ, có khổ đau thì ta biến khổ đau thành hiểu và thương. Chúng ta có thể đánh tan cái ảo giác “có một cõi chỉ có hạnh phúc mà không có khổ đau” khi thấy được tính tương tức giữa phiền não (sự thật thứ nhất) và bồ đề (sự thật thứ ba).

Quan niệm bất thối chuyển

Trong đạo Bụt chúng ta có quan niệm bất thối chuyển, tức là sự không còn rơi xuống, không còn đọa lạc trở lại. Không đọa lạc trở lại không có nghĩa rằng nếu đã là hoa thì sẽ vĩnh viễn là hoa và không thành rác trở lại. Ta tưởng khi mới tu thì ta đang ở cõi khổ đau, mê mờ, ta đang ở cõi rác. Khi tu thành rồi thì ta ở cõi hạnh phúc, cõi sáng suốt và ta sẽ thường tại trong cõi đó, ta vĩnh viễn xa lìa cõi khổ đau. Nhưng vì khổ đau và hạnh phúc tương tức cho nên bất thối chuyển không có nghĩa là rác không trở thành hoa và hoa không thành rác trở lại. Hoa có thể thành rác trở lại. Một niềm vui hay một hạnh phúc cũng vậy, vì tất cả đều vô thường. Vô thường là một dấu ấn của Phật pháp (một trong Tam pháp ấn). Giáo lý nào đi ngược lại vô thường, vô ngã và Niết bàn thì giáo lý đó không phải đích thật là giáo lý đạo Bụt. Khổ đau và hạnh phúc cũng như rác và hoa, chúng đều vô thường. Chữ bất thối chuyển ở đây không có nghĩa là hoa không trở thành rác mà có nghĩa là khi hoa thành rác thì ta vẫn giữ được khả năng chuyển rác thành hoa. Chúng ta đã từng hiểu lầm chữ bất thối chuyển, ta cho rằng: khi rác đã trở thành hoa, phiền não đã trở thành bồ đề rồi thì ta vĩnh biệt rác, vĩnh biệt phiền não. Trên sự thật vô thường thì bông hoa nào cũng phải trở thành rác. Nếu là một người làm vườn khéo léo ta sẽ không sợ hãi khi hoa trở thành rác, vì ta biết trong rác có hoa và ta sẽ chuyển rác thành hoa trở lại.

Đó là sự sống, sự sống là vô thường, vô ngã và tương tức. Chữ “không đọa lạc” có nghĩa là không sợ hãi khi hoa trở thành rác vì ta biết cách liên tục biến rác thành hoa trở lại. Bất thối chuyển là nắm vững được pháp môn chứ không phải là sự tách rời vĩnh viễn giữa hoa và rác, sự tách rời vĩnh viễn giữa phiền não và bồ đề.

Rác và hoaHoa vĩnh viễn là hoa và mãi mãi không còn là rác nữa, ý niệm đó đi ngược lại với tuệ giác tương tức vì nhìn vào trong rác ta thấy hoa và nhìn vào trong hoa ta thấy rác. Muốn học Phật một cách thông minh ta phải có khả năng buông bỏ những ý niệm ngây thơ của mình về Phật pháp.

Trong cơ thể ta có rác và có hoa. Khi ta nâng lên trong tay một dĩa thức ăn thơm ngon thì dĩa thức ăn đó là hoa. Nhưng một giờ đồng hồ sau khi ăn thì dĩa thức ăn đó sẽ biến thành rác. Tất cả những chất liệu bổ dưỡng thấm vào cơ thể ta, lúc đầu là chất nuôi dưỡng, nhưng sau đó nó cũng thành rác và ta phải bài tiết ra, ta bài tiết không chỉ bằng cách đi cầu, đi tiểu mà còn bằng cách thở hay toát mồ hôi. Những chất ta bài tiết đều là rác. Nhìn vào dĩa cơm thơm ngon ta biết đó là từ rác mà ra. Nếu không có phân rác thì làm sao ta làm ra hoa trái, lúa gạo? Đó là đứng về phương diện vật chất. Đứng về phương diện tinh thần cũng vậy, những niềm vui và những đau khổ của ta đều có tính cách hữu cơ. Chúng là hoa, nhưng sau một thời gian thì trở thành rác. Tất cả đều theo định luật vô thường, rác vô thường mà hoa cũng vô thường. Chính nhờ vô thường nên ta có thể biến phiền não thành bồ đề.

Không đánh mất ý thức về hạnh phúc

Hôm qua ta có tuệ giác về vô thường nên ta rất vui. Nhưng hôm nay ta đánh mất tuệ giác đó nên ta ăn nói, hành xử giống như ta chưa bao giờ có tuệ giác đó. Khi mới tới Làng Mai, trong năm đầu ta cảm thấy rất hạnh phúc, ta trân quí mỗi điều kiện của hạnh phúc. Sống được vài năm, ta thấy chán, thấy buồn, ta muốn bỏ đi, hoa đã trở thành rác.

Người xuất gia hay người cư sĩ hãy cùng nhau nhìn lại: Lúc mới được chấp nhận vào sống ở Làng Mai, chúng ta hạnh phúc biết bao nhiêu, chúng ta muốn sống như vậy đời đời. Nhưng sau một thời gian chúng ta bắt đầu thấy lờn và không còn cảm thấy hạnh phúc nữa. Ban đầu ta cương quyết phải sống như thế nào để ta và đoàn thể đều có được hạnh phúc. Nhưng sau đó ta có thể sống bê bối và tạo ra những khó khăn, bực bội trong cộng đồng. Cuối cùng cộng đồng chịu không nổi nên không cho phép ta ở nữa và ta phải đi. Lúc đó ta mới thật sự tiếc. Theo thanh quy của Làng Mai, nếu một xóm không cho một người nào đó ở nữa thì các xóm khác cũng không cho. Người ấy phải đi, nhưng sau một năm người đó có thể viết thư xin trở lại. Lúc đó đã nếm mùi đau khổ ở ngoài nên người đó biết trân quí trở lại những cái trước kia mình được thọ dụng. Thấy người đó biết trân quí thì chúng có thể xét và có thể cho người đó một cơ hội được hội nhập trở lại.

Bí quyết của hạnh phúc là nuôi dưỡng được ý thức về hạnh phúc. Ta biết ta có may mắn, ta có những điều kiện của hạnh phúc và ta nguyện sẽ không bao giờ đánh mất ý thức về sự có mặt của những điều kiện hạnh phúc đó. Ngày xưa ta có tuệ giác nên thấy mình có may mắn được sống trong tăng thân và nhờ có tuệ giác đó mà ta có hạnh phúc. Bây giờ ta đánh mất tuệ giác đó, đồng thời ta cũng đánh mất luôn hạnh phúc.

Phiền não vô thường mà bồ đề cũng vô thường. Ngu si vô thường mà tuệ giác cũng vô thường. Người tu phải biết nuôi dưỡng tuệ giác cho bền lâu. Nếu một phần tuệ giác bị đánh mất thì nhờ sự tu học mà ta phục hồi được tuệ giác và chuyển rác thành hoa trở lại. Đó gọi là bất thối chuyển. Bất thối chuyển không có nghĩa là khi rác thành hoa rồi thì hoa sẽ tồn tại vĩnh viễn dù ta không tiếp tục thực tập. Vì vậy trong 14 giới Tiếp Hiện có giới “phải nuôi dưỡng ý thức về khổ đau, đừng đánh mất ý thức về khổ đau của sự sống”.  Đánh mất ý thức về khổ đau là đánh mất ý thức về những điều kiện của hạnh phúc mình đang có. Giới điều này đi rất sát với Tứ diệu đế.

Vì phiền não và bồ đề đều có tính hữu cơ nên sự thực tập cần được liên tục để mang tới sự chuyển hóa và giữ không cho đọa lạc.

Đọa lạc là đánh mất hết điều kiện của hạnh phúc. Ta chỉ còn có một đống rác và đống rác đó không có khả năng biến thành hoa trở lại. Bất thối chuyển là khả năng thường xuyên chuyển rác thành hoa, ta tu như thế nào để nắm được khả năng đó. Ta sẽ không sợ rác nữa vì ta luôn luôn biết tận dụng rác để làm thành hoa. Vì vậy đọa lạc có nghĩa là đáng mất khả năng chuyển rác thành hoa và bất thối chuyển có nghĩa là giữ vững khả năng chuyển rác thành hoa, nếu chúng ta muốn hiểu theo chân tinh thần của đạo Bụt.

Thỉnh thoảng chúng ta có nghe chuyện của một ông tiên tu đến một mức độ khá cao, đã có thần thông rồi nhưng ông vẫn bị đọa lạc. Như thế có nghĩa là khi hoa thành rác ông không có khả năng chuyển rác thành hoa trở lại. Sự sống vô thường nên hoa và rác đều vô thường và phiền não và bồ đề đều vô thường. Lâu nay chúng ta vẫn nghĩ phiền não là vô thường còn bồ đề thì không thể vô thường, cái thấy này không phù hợp với tuệ giác thâm sâu của đạo Bụt.

Luân hồi là sự tiếp nối phi cục bộ của ba nghiệp

Chúng ta thường hình dung luân hồi như một sự đi vòng. Nhưng trước hết luân hồi là một sự tiếp nối và luân hồi có thể được nhận thức trong từng giây phút. Ta chế tác ra một tư duy, một ý tưởng; tư duy và ý tưởng đó đi luân hồi liền lúc đó. Một tư duy lành, hiền, đẹp, đi đôi với hiểu và thương có kết quả ngay lập tức trên sức khỏe của ta và trên cuộc đời. Đó là sự tiếp tục. Tư duy của ta là nghiệp, là một sáng tạo phẩm của ta và nó là sự tiếp nối của ta. Một lời nói phát ra cũng là một sáng tạo phẩm của ta và nó cũng đi luân hồi. Một câu nói đầy tình thương làm cho ta và cho người kia khỏe liền. Vì vậy luân hồi là sự tiếp nối, tiếp nối ít nhất bằng ba dạng: tư duy (ý), ngôn ngữ (khẩu) và hành động (thân). Sự tiếp nối của chúng ta phải được nhìn qua ba dạng của nghiệp: Thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp. Không phải khi nào xác thân hoàn toàn tiêu hoại rồi ta mới đi luân hồi mà ta đang đi luân hồi trong mỗi giây mỗi phút, ở đây và ở các nơi khác. Ta phát ra một tâm niệm lành thì tâm niệm lành đó làm sáng ngời cả trái đất, chuyển hóa được ở đây và khắp nơi. Ta thấy được ta ở đây và ở mọi nơi, ta không còn tính cách cục bộ (local) nữa. Ta phải học để thấy được tính không cục bộ (non-local) của sự tiếp nối ta dưới ba dạng thân, khẩu và ý, như trong bài hát của sư chị Giải Nghiêm: An vui nơi này, an khắp mọi phương.

Ta tu tập đúng phương pháp thì gia đình, dòng họ, đất nước của ta cũng được thừa hưởng. Mỗi tư duy, mỗi lời nói, mỗi hành động của ta đều có ảnh hưởng trên tự thân và trên thế giới. Ta phải thấy nghiệp dưới ánh sáng không cục bộ. Non local là một danh từ mới của khoa học vật lý, còn danh từ phi thời gian có nghĩa là bao trùm cả thời gian, có giá trị vượt thoát thời gian.

Tuy hình hài này đang còn nhưng ta đã đi luân hồi dưới ba dạng của nghiệp. Ta được tiếp nối không những bởi hình hài và tâm thức này, mà ta còn được tiếp nối dưới dạng không cục bộ ở khắp mọi nơi. Không phải chỉ có Bụt và các vị Bồ tát mới có thần thông, mới có mặt được đồng thời trong ba cõi. Chính ta cũng có mặt một lần trong ba cõi. Mỗi tư duy ta phát ra làm chấn động toàn thế giới, nó có ảnh hưởng tới gia đình, đất nước quê hương ta. Nếu tư duy đó là hận thù, tuyệt vọng thì nó làm tan vỡ cả tự thân và thế giới. Nếu là bồ đề tâm thì nó nâng cả thế giới đi lên. Vì vậy chúng ta phải học nhận diện sự tiếp nối của ta qua dạng không cục bộ.

Trí tuệ và lòng từ bi của ta đem lại niềm vui và sự trị liệu cho rất nhiều hình thái của sự sống. Ngay khi quyết định làm một “ngày không xe” thì ta đã biết là sẽ có một sự thay đổi trên thế giới dù sự thay đổi đó chưa đủ như ta mong cầu. Ta có một tư duy, tư duy ấy biến thành hành động và biến đổi hình hài, tâm tư ta, biến đổi thế giới. Với ba nghiệp của ta, ta có thể biến đổi thế giới theo chiều tích cực hay tiêu cực. Thông thường người ta nghĩ sự luân hồi chỉ xảy ra khi phổi không còn thở nữa, trái tim không còn đập nữa. Nhưng sự luân hồi, theo đúng nghĩa của nó, xảy ra trong mỗi giây phút của đời sống hàng ngày vì sự sinh diệt của từng tế bào trong cơ thể và sự sinh diệt của các niệm trong tâm xảy ra từng giờ từng phút. Cái này luân hồi thành cái kia, em bé năm tuổi luân hồi thành em bé sáu tuổi, chàng trai mười tám tuổi luân hồi thành chàng trai mười tám tuổi rưỡi. Luân hồi đẹp hay không đẹp là do ta, nếu ba nghiệp của ta đẹp thì sự tiếp nối sẽ đẹp, nếu ba nghiệp ta không đẹp thì sự tiếp nối sẽ không đẹp.

Nghệ thuật nuôi hoa

Cái đẹp và cái lành cần được tiếp nối càng lâu dài càng tốt, đây là nghệ thuật nuôi dưỡng hạnh phúc và tuệ giác. Ta có tuệ giác, nhưng nếu không được nuôi dưỡng thì tuệ giác của ta sẽ bị lu mờ.

Tâm là đài gương sáng

Mỗi ngày cần lau chùi

Đó là bài kệ của thầy Thần Tú. Nhờ tu học nên ta có được một phần tuệ giác nào đó. Phần tuệ giác đó khiến ta biết được điều gì nên làm và điều gì không nên làm để đừng tạo ra đổ vỡ và để tạo ra hạnh phúc cho mình và cho người trong giây phút hiện tại. Tuệ giác đó rất quan trọng, nó có sinh mạng của nó, sinh mạng đó dài hay ngắn là tùy ở ta. Sinh mạng của tuệ giác gọi là tuệ mạng. Tuệ mạng có thể chết yểu, hôm nay ta có chút tuệ giác nhưng nếu không được nuôi dưỡng thì nó sẽ lu mờ. Gương phải được lau mỗi ngày, nghe thầy dạy, ngồi thiền quán là lau gương để tuệ giác của ta càng ngày càng sáng. Ta cắt một bông hoa, muốn giữ bông hoa được lâu dài thì mỗi ngày ta phải theo dõi nước trong bình hoa hay canh chừng không khí cho hoa thở. Nếu cắt bông hoa về rồi vứt trên sàn nhà thì hoa chỉ có thể sống dưới 24 giờ đồng hồ.

Nghệ thuật nuôi hoa có hai phương diện:

–  Nuôi hoa cho bền lâu.

–  Biết cách chuyển rác thành hoa trở lại khi hoa đã thành rác.

Quá trình chuyển rác thành hoa là một quá trình liên tục, hễ có một phiền não còn tồn tại là ta phải nhận diện và ủ nó để nuôi hoa. Ta phải xử lý hoa và xử lý rác, xử lý hoa là chăm sóc cho hoa được lâu dài, xử lý rác là biết cách ủ rác và chuyển rác thành hoa trở lại. Một người làm vườn giỏi không bao giờ đi ngược lại nguyên tắc đó.

Người tu là người làm vườn và khu vườn của ta là vườn tâm. Vuờn tâm cũng có hoa và rác nên ta phải nuôi dưỡng tuệ giác và hạnh phúc. Khi rác xuất hiện ta phải biết chăm sóc rác và chuyển rác thành hoa.

Cái xấu và cái dở cần được chuyển hóa càng sớm càng hay để đừng tiếp tục, rác phải được sử dụng để nuôi hoa.

Chết khát bên cạnh dòng sông

Những thương gia có tài và có may mắn thì dễ thành công trong sự nghiệp của họ. Ban đầu họ nghèo, nhưng nhờ những điều kiện nào đó mà họ liên tiếp thành công trong việc làm ăn. Họ càng ngày càng giàu, làm gì cũng thành công. Rất nhiều thương gia không được như vậy nhưng thỉnh thoảng có người được như vậy. Khi nói chuyện với những thương gia giàu có và thành công, ta khám phá ra một điều: Họ cảm thấy có một cái gì trống vắng ở trong họ. Tuy họ thành công và có rất nhiều tiền nhưng họ không thực sự cảm thấy hạnh phúc. Ta muốn sự thành công này, và khi may mắn có được nó rồi thì ta lại muốn có một sự thành công khác. Thương gia là như vậy, và ta cũng như vậy, không bao giờ thấy đủ. Ban đầu ta nghĩ một bằng cấp là cần thiết, nhưng khi có được bằng cấp rồi ta lại thấy chưa đủ, ta cần có công ăn việc làm. Có công ăn việc làm rồi, ta cần có nhà. Có nhà rồi, ta cần có xe hơi. Có xe hơi rồi, ta nghĩ phải có hai chiếc mới đủ. Thông thường là như vậy!

Có những người muốn gì được đó, rất là lạ. Thành công việc này rồi thành công việc kia, rồi lại thành công nữa, nhưng họ cũng không bao giờ dừng lại được. Nếu so sánh với những người khác thì người ấy đã quá giàu có, nhưng trong họ vẫn còn một cái gì đó không bao giờ được thỏa mãn, giống như khi khát nước mà ta cứ ăn muối vậy. Càng ăn thì lại càng khát thêm. Điều đó chứng tỏ là trong mỗi chúng ta có một con ma luôn luôn đói, dù có nhiều thực phẩm đến mấy thì con ma đó cũng không no được. Đó là con ma đói (hungry ghost, esprit affamé) mà trong mỗi người chúng ta đều có. Không phải ta chỉ đói sự thành công thôi, ta còn đói hiểu, đói thương. Phần lớn chúng ta người nào cũng đói hiểu, đói thương. Được một người hiểu rồi cũng cảm thấy chưa đủ, được một người thương rồi cũng cảm thấy chưa đủ. Nhiều khi có người ta tặng cho ta hiểu và thương nhưng ta cũng không có khả năng tiếp nhận và ta cứ tiếp tục đói.

Trong kinh Bách Dụ có câu chuyện của một anh chàng khát nước gần chết. Anh đi tới một dòng sông, nhưng không chịu uống nước. Anh nói: “Nước nhiều như vậy làm sao tôi uống được!” Và cuối cùng anh ta chết khát bên cạnh dòng sông.

Quý vị đang cười anh ấy phải không? Người gì mà dại quá đi, có bao nhiêu là nước như vậy mà lại để mình chết khát bên dòng sông. Sự thật là hầu hết chúng ta đều hành xử như vậy! Tại vì trong mỗi chúng ta đều có một con ma đói (ngạ quỷ) và con ma đói đó không bao giờ no được. Con ma đói trong ta cũng là nguyên nhân của sự khổ đau.

Nhiều người nghĩ rằng họ đau khổ vì họ thiếu cơm ăn, áo mặc, thuốc men, nhà cửa và tình yêu. Nhưng khi có được tất cả những thứ đó rồi họ vẫn đói như thường. Quý vị nhìn lại xem mình có giống người ấy không? Ta là một con ma đói, không bao giờ ta cảm thấy no lòng và thỏa mãn được. Đó là một trong những nguyên do của khổ đau.

Hạnh phúc không đâu xa: Hiện pháp lạc trú

Chúng ta đang đi trên con đường chạy tìm hạnh phúc, tìm cái gọi là “no đủ”. Chúng ta chạy như một con ma đói, chúng ta đi tìm hạnh phúc, đi tìm sự thật thứ ba nhưng chúng ta chỉ quanh quẩn trong sự thật thứ nhất. Chúng ta không bao giờ vượt ra được khỏi sự thật thứ nhất, vì chúng ta không thấy được nguyên do sâu sắc của khổ đau tức là thấy được sự thật thứ hai, thấy được con ma đói trong con người của mình. Cho dù hoàn cảnh có cung cấp cho ta bao nhiêu thực phẩm thì ta cũng vẫn thấy đói. Chỉ khi nào trái tim của chúng ta nhận được một giọt nước cam lồ của đức Thế Tôn thì lúc đó chúng ta mới hết đói. Dừng lại thì một giọt nước thôi cũng đủ làm mình no. Phần lớn chúng ta đều là người đang chết khát bên một dòng sông. Rất đáng tiếc!

Nếu giác ngộ được thì chúng ta lập tức hết đói. Chúng ta không cần phải đi tìm xa. Ta phải bắt đầu nói chuyện với con ma đói trong mình. Con ma ấy không bao giờ cảm thấy đầy đủ, dù ta có cho nó bao nhiêu thức ăn nó cũng không thấy thỏa mãn. Ví dụ chúng ta đi xa nhà hai, ba, sáu tháng, hay một năm. Chúng ta mong ước được trở về nhà. Ta ngồi trên tàu thủy, trên máy bay hay trên xe hơi giờ này sang giờ khác và chỉ ước mong được về đến nhà. Về  đến nhà, ta nói: ”Home, sweet home!” (Căn nhà thật ấm cúng làm sao!) và chúng ta mở cửa đi vào. Nhưng ngay khi đang ở trong nhà chúng ta vẫn không cảm thấy thỏa mãn, và thế là vài ngày sau ta lại muốn bỏ đi. Máu giang hồ réo gọi và ta lại muốn lên đường. Đó cũng là một con ma đói, ta không ngồi yên được, ta bị kéo theo. Khi đi rồi lại thấy nhớ nhà và muốn quay trở về, nhưng về rồi thì lại không thể ở yên, lại muốn ra đi. Chúng ta chưa tìm ra được quê hương đích thực (true home) của mình nên chúng ta cứ đói mãi. Chỉ khi nào con tim nóng hổi của chúng ta tiếp nhận được một giọt nước cam lồ thanh lương của đức Thế Tôn thì chúng ta mới bắt đầu thấy:

Mát lòng nhờ những giọt không

Bỗng đâu thuyền đã sang sông tới bờ

(Những giọt khôngthơ Nhất Hạnh)

Hạnh phúc nằm ngay đó. Cái mà chúng ta gọi là Niết bàn, nằm ngay trong giây phút hiện tại, nếu có được một giọt nước thanh lương từ bi của đức Thế Tôn nhỏ vào trái tim ta thì chúng ta sẽ cảm thấy hạnh phúc được liền lập tức.

Theo lời dạy của đức Thế Tôn thì tất cả đều mầu nhiệm. Thân ta mầu nhiệm, tâm ta mầu nhiệm, thế giới cũng mầu nhiệm. Ngay trong giây phút hiện tại, ngay bây giờ và ở đây chúng ta có thể tiếp xúc với những mầu nhiệm đó. Chúng ta không cần đi tìm cái gì nữa hết. Ngưng lại sự đi tìm thì chúng ta mới thấy được nó, và nếu còn đi tìm là chưa thấy được nó. Nếu an trú được thì ta sẽ thấy được rằng tất cả những gì ta đang đi tìm có ngay trong giây phút hiện tại. Cho tới những cái gọi là vô sinh bất diệt, vô khứ vô lai hoặc Niết bàn cũng nằm ngay tại đó.

Một đợt sóng nhô lên rồi sụp xuống. Đợt sóng đi tìm nước, mà đi tìm bao giờ cho gặp? Nếu nó biết nó là nước rồi thì nó còn đi tìm làm gì nữa? Khi biết được bản chất của mình là vô sinh bất diệt, là Niết bàn, thì ta không còn đi tìm nữa. Ta chính là Niết bàn. Tất cả các pháp đứng về phương diện tích môn đều là hữu vi, nhưng đứng về phương diện bản môn đều là vô vi. Pháp môn thực tập của Làng Mai rất đơn sơ. Khi thở vào, ta thở vào như thế nào mà ta có thể dừng lại được, ta có thể cảm thấy ta đã về đã tới nhà của mình rồi. Hạnh phúc có thể đạt tới ngay trong giây phút đó, ngay trong hơi thở vào. Hơi thở vào là một nguồn hạnh phúc, là một cái gì rất vi diệu. Khi bước một bước chân  mà ta thấy ta đã về đã tới thì bước chân đó đã làm cho ta thấy mãn ý rồi. Chỉ cần một bước thôi là ta đã đạt được hạnh phúc.

Có một thiếu phụ tên Laura bị bệnh, và người chồng tìm cách săn sóc. Hôm đó có một cú điện thoại của nhà thương cho biết rằng thứ hai tới cô khỏi phải vào nhà thương để khám lại tại vì bác sĩ biết không còn cách gì để trị cho cô nữa. Bác sĩ buông tay chịu thua. Hãy tưởng tượng mình là cô Laura. Nhận được thông điệp đó của nhà thương mình sẽ phản ứng thế nào? Cô Laura đã phản ứng thế này: “Đó, anh thấy không? Tôi sắp chết rồi.” (You know, I am dying!) Cô lâm vào tình trạng tâm lý hết sức tuyệt vọng. Chỉ mấy tiếng đồng hồ sau thì cô bất tỉnh và cô ở trong trạng thái bất tỉnh cho đến khi cô chết.

Có những người khác, cũng bệnh như cô, cũng nghe bác sĩ bảo chịu thua, họ lại hành xử rất khác. Như anh Chân Sinh ở Canada. Lần đầu tiên tôi ngồi uống trà với tăng thân Canada thì anh Chân Sinh ngồi bên tay phải của tôi. Các bạn cho biết bác sĩ nói trong mấy tuần lễ nữa Chân Sinh sẽ chết. Vì lý do đó nên các bạn mời anh Chân Sinh tới để anh có dịp ngồi uống trà với Thầy. Tôi xoay lại với anh và nói:

– “Chết thì chết chứ có sao đâu! Bây giờ mình hãy uống trà đi cho đàng hoàng. Ai mà không chết, chỉ có là người chết trước, kẻ chết sau thôi. Bây giờ mình đang có dịp uống trà thì mình hãy uống trà cho đàng hoàng, còn chuyện chết để lại giải quyết sau. Uống trà như thế nào để có hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại. Có mặt bạn bè, có mặt thầy, có trà để uống trong tình huynh đệ, trời còn xanh, mây còn trắng, cây liễu còn rũ, chim hoàng oanh còn hót thì mình cứ uống trà, chuyện chết để đó giải quyết sau. Anh có thể uống một chén trà với chúng tôi không? Anh có khả năng thưởng thức được hương vị của chén trà này không?”

Chân Sinh đã uống trà và đã thấy trà ngon thật, đã thấy rằng có cơ hội cùng ngồi uống trà với Thầy, với các bạn trong tăng thân thật là một điều mầu nhiệm. Hôm đó Chân Sinh đã học được sự thực tập: Phải sống những giây phút còn lại của đời mình cho thật sâu sắc. Dù ta chỉ còn vài ba tuần lễ để sống thì ta vẫn có thể sống được những giây phút còn lại một cách sâu sắc, còn hơn là sống những tuần lễ còn lại trong tuyệt vọng, trong tâm trạng nổi loạn với cuộc đời.

Chân Sinh biết mình không có thời gian nhiều để sống nên đã tiếp thu pháp môn đó một cách hết lòng, ngày đêm trân quý những giây phút còn lại của đời mình, tập sống theo phương pháp “hiện pháp lạc trú”, trân quý từng hơi thở, từng bước chân, từng tách trà, từng người bạn. Kết quả là Chân Sinh đã sống thêm được mười mấy năm nữa. Điều bác sĩ nói có thể đúng, nhưng tùy theo cách ta phản ứng mà sự việc xảy ra cho ta sẽ như thế này hay như thế kia. Sau buổi uống trà ấy Chân Sinh đã thọ Năm giới, rồi thọ Mười bốn giới và cái tên Chân Sinh được Thầy đặt cho anh khi anh thọ Mười bốn giới. Chân Sinh là sự sống đích thực. Sống không phải chỉ để cho có mặt mà sống thật sâu sắc.

Chúng ta không nằm trong trường hợp của cô Laura hay của anh Chân Sinh tại vì bác sĩ chưa có thông điệp nào cho chúng ta. Nhưng chúng ta cũng cùng một thân phận như Laura hay Chân Sinh. Một ngày nào đó có thể bác sĩ sẽ gọi điện thoại đến nói với ta như vậy. Chúng ta có nên ngồi đó chờ giờ phút bác sĩ gọi không hay là chúng ta nghe lời đức Thế Tôn sống cho đàng hoàng trong từng giây từng phút và đi tìm sự bình an và hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại? Đó là một điều ta có thể làm được.

Có những lần ta phải ngồi trên máy bay rất lâu, tới mười mấy tiếng. Máy bay đầy người. Mỏi quá ta ước ao có chỗ để ta có thể ngả lưng xuống cho khỏe mà không được. Về tới nhà có giường, ta nằm thẳng lưng và thấy hạnh phúc quá chừng. Trong chuyến về Việt Nam vừa qua , các vị cư sĩ ở khách sạn còn các thầy và các sư cô thì ở chùa Bồ Đề. Mỗi phòng trong chùa có 12 hay 22 thầy và mỗi người chỉ được một không gian khoảng 1mx2m. Ở Tây phương về nên các thầy các sư cô không quen, nhưng chỉ trong vài hôm thì họ thích ứng được. Đi ra ngoài suốt cả một ngày, khi trở về cái không gian 1mx2m ấy thì họ cũng rất thoải mái, rất sung sướng, họ không đòi hỏi gì cả. Hạnh phúc thật  đơn sơ. Có những đêm không ngủ được, tôi quán tưởng mình đang ở trên máy bay, đang ngồi bó gối rất mỏi và tự nhiên thấy được đang nằm thẳng trên giường thì hạnh phúc biết bao nhiêu. Ta được buông xuôi hai tay hai chân và tập thở theo bài “Thở vào thở ra, là hoa tươi mát”. Ta thấy “hiện pháp lạc trú” là chuyện có thể thực tập được. Xin quý vị cứ nhớ, cái khoảng không gian 1mx2m có nghĩa gì đâu? Nhưng khi đi một ngày dài về, được nằm xuống đó, thì hạnh phúc có thể rất lớn, và ta không đòi hỏi gì hơn. Cái đó đã đủ cho ta hạnh phúc nhiều rồi.

Ta không phải đi tìm hạnh phúc ở đâu xa. Ta phải biết nhận diện được con ma đói trong con người mình, con ma đói ấy cứ đòi hỏi mãi mà không bao giờ thấy đủ. Trong đạo Phật có chữ “tri túc”, tri túc tiện túc là khi ta thấy đủ thì tự nhiên đủ. Các nhà doanh thương không biết thế nào là tri túc, thành công bao nhiêu cũng không thấy đủ. Không những các nhà doanh thương mà những nhà chính trị hay bất cứ ai cũng vậy. Ai mà không mong được thành công? Nhưng dù cho chúng ta có liên tiếp thành công đi nữa thì đứng về phương diện lợi và danh chúng ta vẫn còn là những con ma đói. Như vậy chúng ta không bao giờ có được hạnh phúc.

Nếu ta thực tập được pháp môn “hiện pháp lạc trú” của đức Thế Tôn, thấy rằng cuộc sống đầy những mầu nhiệm, nếu ta an trú được trong giây phút hiện tại, tiếp xúc được với những mầu nhiệm của sự sống thì đời của chúng ta sẽ là một chuỗi những ngày vui. Đạo đế chính là phép thực tập “hiện pháp lạc trú” và trong khi thực tập đạo đế chúng ta đưa mình vào lạc đế, tức hạnh phúc, bây giờ và ở đây.

Anh muốn làm gì với đời anh?

 

Cần có một chiều hướng tâm linh trong đời sống hàng ngày

Một điều có thể nhận thấy qua chuyến đi hoằng pháp tại Bắc Mỹ lần này là tất cả mọi người – kể cả giới chính trị, giới doanh thương, và các nhà trí thức – đều nhận ra rằng mình cần phải thực tập một cái gì đó, mình phải có một chiều hướng tâm linh trong đời sống hàng ngày, nếu không thì mình sẽ không thể chịu nổi và sẽ “giữa đường đứt gánh”.

Trong chuyến này mình chọc thủng được màn lưới và đưa sự thực tập chánh niệm vào dòng chảy chính của xã hội (mainstream). Mình được mời hướng dẫn hai ngày thực tập tại Ngân hàng thế giới (World Bank – viết tắt là WB). Rất nhiều người ngạc nhiên: tại sao WB lại cần tới mấy ông thầy tu làm gì? Chính những nhân viên trong WB cũng nói: trời đất ơi, tại sao lại đem mấy ông thầy tu tới đây?

Ông Kim Young Jim, Giám đốc WB rất thích có một ngày chánh niệm do Thầy và Tăng đoàn Làng Mai hướng dẫn tại trụ sở của WB. Ngày xưa khi còn làm Viện trưởng Viện đại học Darmouth, ông rất thích cuốn Phép lạ của sự tỉnh thức. Ông nói là cuốn sách này đã thay đổi cuộc đời ông. Và khi được Tổng thống Obama cử làm Giám đốc WB, ông muốn đem những điều đã đọc trong cuốn sách này vào thực tập trong WB. Thầy Pháp Lưu – vốn là sinh viên trường Darmouth – viết thư cho ông và hỏi ông có muốn có một ngày chánh niệm tại WB không. Ông nói rất muốn. Nhưng ông cũng sợ người ta phản đối.

Ông Kim đưa lá thư của thầy Pháp Lưu cho một người phụ tá tên là Nicolas và nói: này anh, anh làm thế nào để có được ngày quán niệm trong WB, anh ráng đi. Tiến sĩ Nicolas là người tin cẩn nhất của ông trong WB. Nicolas lên Internet tìm hiểu Tăng đoàn Làng Mai là ai, thực tập như thế nào. Ông cũng rất muốn có một ngày chánh niệm nhưng cũng sợ sự phản ứng nặng nề của các nhân viên trong WB. Bữa đó, ông có than thở với phu nhân thì được bà chia sẻ rằng nếu Làng Mai đến WB thì đó là chuyện hy hữu, có thể đó là chuyện hay nhất từ trước đến nay tại WB. Được bà yểm trợ nên ông cương quyết tổ chức. Ông trả lời thầy Pháp Lưu là Giám đốc Kim sẽ viết thư mời Thầy và tăng đoàn Làng Mai.

 

Đối thoại với Giám đốc Kim và các nhà khoa học tại WB

Để cho đỡ sốc, ngày đầu WB mời các nhà khoa học tới để đối thoại với Thầy, để chứng tỏ là mình không đem chuyện tôn giáo vào trong WB. Họ mời những người như Tiến sĩ Davidson Richard và Tiến sĩ Brian Davey – những nhà thần kinh học để nói về chuyện tu tập chánh niệm có thể giúp người ta như thế nào, ví dụ như giảm căng thẳng,v.v. Ngày đó, những người có ý nghi ngờ, tuy không ra dự nhưng vẫn âm thầm ngồi nghe trong văn phòng để xem thử mình nói gì. Rốt cuộc ngày hôm sau, tất cả đều bỏ hết công việc ra tham dự. Và ngày hôm đó trở thành một ngày thực tập rất hạnh phúc, có đi thiền hành, có pháp thoại, có thiền buông thư, có vấn đáp v.v. Rất là hay.

Sau ngày ấy, nhân viên WB viết thư khen ngợi ông Giám đốc hết lời. Nghe nói là ở WB có một bức tường để mình dán lên những điều gì mình bất mãn đối với những vị trong Ban Giám đốc. Mình có thể viết và dán lên đó để “xì hơi”. Trước đó thì nhiều người chỉ trích và lên án đủ thứ, nhưng sau ngày đó, họ dán lên toàn là những lời khen ngợi.

Khoa học kỹ thuật có thể giúp con người trở về với chính mình?

Tăng đoàn Làng Mai cũng đã đến hướng dẫn một ngày Chánh niệm tại trụ sở của Google. Những lời hướng dẫn thiền hành và bài pháp thoại cùng buổi vấn đáp của Thầy được truyền đi khắp thế giới cho các nhân viên của Google ở tất cả các nước. Hôm đó theo chương trình, các thầy, các sư cô Làng Mai tới ăn sáng với nhân viên Google, sau đó đi thiền hành. Bảy trăm người đi thiền hành rất nghiêm túc. Có những người đến muộn, vào lúc tất cả đều đang ngồi lặng yên giữa buổi thiền hành, đã có cảm giác năng lượng tại Googleplex – trụ sở của Google – hôm đó thật hùng tráng kỳ diệu. Sau giờ thiền hành thì có pháp thoại. Thầy làm thiền hướng dẫn trước khi nói pháp thoại. Sau đó có ăn cơm im lặng, rồi có thiền buông thư, vấn đáp, v.v. Rất là hạnh phúc.

Chiều đó, Thầy cùng với các thầy Pháp Dung, Pháp Lưu, Pháp Linh và sư cô Hiến Nghiêm có một buổi gặp gỡ với một số vị kỹ sư trẻ trong Google. Vấn đề đưa ra là khoa học kỹ thuật (technology) có thể giúp con người bớt khổ được hay không? Trong bài pháp thoại tại Google, Thầy đã nói: mỗi người trong chúng ta đều có những nỗi khổ, niềm đau trong lòng, và những nỗi khổ niềm đau đó có thể mang theo những nỗi khổ, niềm đau của cha, của mẹ, của ông bà, tổ tiên. Phần lớn chúng ta không biết xử lý nỗi khổ, niềm đau cho nên chúng ta hay khỏa lấp và chạy trốn. Chúng ta dùng những phương tiện kỹ thuật để chạy trốn chính mình. Chúng ta dùng Internet, telephone, truyền hình, âm nhạc, sách báo để khỏa lấp nỗi khổ, niềm đau, tại vì chúng ta không có khả năng trở về để xử lý những khổ đau ấy.

Một nét đặc trưng của nền văn minh chúng ta là trốn chạy, trốn chạy bản thân. Và khi mình trốn chạy bản thân thì mình cũng trốn chạy khỏi gia đình mình, tại vì nếu mình không thể có mặt cho chính mình thì làm sao có thể có mặt cho những người mình thương. Thành ra mình bỏ bê gia đình luôn. Đồng thời mình cũng trốn chạy thiên nhiên, trốn chạy đất Mẹ. Đất Mẹ rất đẹp, rất lành; đất Mẹ có khả năng nuôi dưỡng và trị liệu. Nhưng mình không có khả năng trở về với đất Mẹ để được chữa trị và nuôi dưỡng. Mình trốn chạy bản thân, gia đình và đất Mẹ. Mà khoa học kỹ thuật (technology) đang giúp mình chạy trốn. Những máy móc, những thiết bị điện tử và mạng lưới Internet giúp cho con người chạy trốn bản thân, chạy trốn gia đình và chạy trốn xã hội. Và trong khi tiêu thụ những thứ đó thì nỗi khổ niềm đau trong mình cứ từ từ tăng tiến. Đó là tình trạng của thế giới ngày nay. Vậy thì câu hỏi đặt ra cho những nhà doanh thương, cho những hãng lớn chuyên sản xuất ra những thiết bị điện tử là những thiết bị điện tử đó có thể đóng được một vai trò ngược lại hay không? Thay vì giúp người ta chạy trốn bản thân, chạy trốn gia đình, chạy trốn thiên nhiên thì làm sao để những thiết bị điện tử đó nhắc mình trở về để chăm sóc hình hài của mình, chăm sóc những cảm thọ, tri giác của mình, những khổ đau trong lòng mình? Các anh có thể làm cho tôi một cái máy; các anh có thể đưa những software nào vào trong các thiết bị điện tử hoặc điện thoại cầm tay, để mỗi khi tôi đi hấp tấp thì cái máy đó nhắc rằng: “này bạn, tại sao lại đi hấp tấp như vậy? Hãy đi theo kiểu thiền hành. Hãy đi từng bước thảnh thơi. Đừng suy nghĩ nữa”. Cái máy điện thoại của anh có thể làm được chuyện đó hay không?

Mỗi khi anh giận và chất adrenaline lên cao ở trong máu thì cái máy ấy có thể nhận biết và nhắc: “Anh đang giận, anh đang có một cảm xúc. Anh không nên làm gì hết. Hãy trở về để thở và chăm sóc cảm thọ trong anh”. Và khi có một người sắp tự tử đang kêu cứu trên mạng Internet thì tự khắc có người nói rằng: “Đừng, anh đừng làm chuyện đó. Bây giờ  anh phải nghe lời dạy của một vị thầy: một cảm xúc chỉ là một cảm xúc thôi. Nó tới, nó ở lại một thời gian rồi nó đi, tại sao anh phải chết vì một cảm xúc như vậy?”.

Cái máy có thể nhắc mình: “Câu thần chú thứ nhất: người thương ơi, tôi đang có mặt cho em đây (I am here for you) rất hay, tại sao hôm nay anh chưa thực tập? Anh hãy gọi về nhà và nói với chị câu thần chú ấy đi”. Những thiết bị điện tử bây giờ có thể được trang bị bằng những thiết bị cảm ứng (sensor) có thể biết những gì đang xảy ra trong cơ thể mình và trong tâm của mình. Chúng có thể nhắc mình trở về chăm sóc chính mình và chăm sóc gia đình của mình.

Những thiết bị điện tử kia có thể đưa người sử dụng tới một tu viện online, để người đó có thể biết được đường hướng phải thực tập như thế nào, để có thể xử lý được những cảm xúc mạnh, những cơn giận, những nỗi buồn, những nỗi niềm thất vọng của mình. Các anh rất giỏi về kỹ thuật và công nghệ, vậy các anh hãy giúp chúng tôi làm ra những thiết bị điện tử có khả năng giúp chúng tôi trở về với chính mình, trở về với gia đình của chúng tôi, lập ra một tu viện trực tuyến để chúng tôi đến tu tập và chuyển hóa.

Thầy và tăng đoàn Làng Mai đã ngồi với các vị kỹ sư của Google để bàn luận về việc chế ra được những thiết bị như vậy. Tăng đoàn Làng Mai cũng đã đến thăm và làm việc với Facebook và Twitter. Có khả năng Facebook hay Google sẽ giúp mình mở một trung tâm thực tập online để giúp nhân viên của họ và những người trên thế giới có thể trở về để được hướng dẫn tu tập khi có vấn đề khổ đau hay tuyệt vọng. Thầy tin rằng thế nào pháp môn thực tập chánh niệm, nhờ kỹ thuật và công nghệ, cũng sẽ được phổ biến trên thế giới một cách rộng rãi gấp trăm, gấp ngàn lần bây giờ.

Làm thế nào để giữ thăng bằng giữa công việc và đời sống?

Một vấn đề nữa mà Google đặt ra là làm thế nào để giữ thăng bằng giữa công việc và đời sống. Tại vì nếu mình bận rộn quá thì mình không có thì giờ để sống. Không lẽ chúng ta sống chỉ là để kiếm tiền thôi sao? Trong khi lo làm cho được nhiều tiền, bỏ hết thì giờ để trở thành doanh nghiệp Number One thì ta không có thì giờ để sống, để chăm sóc cho ta và cho những người mà ta thương yêu. Như vậy có đáng để cho ta thành công không? Làm thế nào để sử dụng công phu thực tập chánh niệm mà thiết lập lại được sự cân bằng giữa công việc và đời sống?

 

Các kỹ sư của Google tham dự ngày chánh niệm

 

Thầy nói rằng ở Làng Mai chúng tôi có bốn hoạt động: tu, học, làm việc và chơi. Cách chúng tôi là làm sao để tu cũng là chơi, học cũng là chơi, làm việc cũng là chơi. Mà chơi cũng là làm việc, chơi cũng là học, tại vì trong khi chơi chúng tôi cũng chế tác được tình huynh đệ, cũng làm mới lại được thân tâm. Thành ra anh có thể làm thế nào để công việc của anh trở nên dễ chịu, và công việc đó không làm đánh mất sự sống của các anh.

Phải làm thế nào để công việc trở thành sự sống. Ví dụ như trong lúc viết thư pháp – vẽ một vòng tròn,  thì khi thở vào, tôi vẽ nửa vòng tròn trước; khi thở ra, tôi vẽ nửa vòng tròn còn lại và tôi mỉm cười. Có khi tôi mời thầy tôi, mời cha tôi, mời các đệ tử của tôi cùng vẽ vòng tròn với tôi. Trong khi vẽ vòng tròn như vậy, tôi thấy đây không chỉ là công việc mà đây là sự sống, đây là tu học, đây là niềm vui, đây là công tác xây dựng tăng thân. Và như vậy công việc này cũng là chơi, công việc này cũng là xây dựng tình huynh đệ, công việc này cũng là sự sống.

Vấn đề là làm sao khi làm việc các anh đừng tự đánh mất mình trong công việc, mà phải thấy công việc là niềm vui. Chánh niệm có thể giúp các anh làm được điều đó. Đừng tư duy theo kiểu lưỡng nguyên, cho công việc là một chuyện, còn đời sống là một chuyện khác. Phải làm sao để mình được sống trong khi làm việc, mà không đánh mất mình trong công việc.

Ước muốn sâu sắc nhất của đời mình là gì?

Tăng đoàn Làng Mai đã gặp một số các nhà doanh thương lớn ở Mỹ, những nhà tỷ phú. Họ muốn biết làm thế nào để trong khi làm ra tiền, mình không bị khổ đau, không đánh mất sự sống của mình. Chính Google đề ra khẩu hiệu là: chúng ta có thể làm giàu, nhưng chúng ta không cần phải đi con đường tà (we can make money without being evil). Thầy đặt câu hỏi: nếu trong khi làm giàu mà anh bỏ bê bản thân anh, bỏ bê gia đình anh, anh bỏ bê trái đất thì cái đó có phải là “evil” không? Theo Thầy thì cái đó cũng là “evil” rồi.

Vì vậy cho nên tư niệm thực (ước muốn sâu sắc nhất của mình) rất quan trọng. Thầy đề nghị tất cả các nhà doanh thương, những ông chủ lớn đều phải có bồ đề tâm, tức là một ước muốn sâu sắc và thánh thiện (volition hay intention). Đây cũng là một trong những nội dung chính yếu được giảng dạy trong chuyến đi hoằng pháp lần này.

Google đã đề nghị Thầy nói về ba đề tài: intention (ý định, ước muốn), insight (tuệ giác) và innovation (đổi mới, cải cách). Thầy nói ước muốn chân chính của mình (intention) phải là giúp xã hội, giúp con người trở về với bản thân, tại vì hướng đi của văn minh bây giờ là chạy trốn bản thân, chạy trốn gia đình và chạy trốn thiên nhiên. Đó là một hướng đi sai lạc, làm cho khổ đau càng ngày càng lớn. Bây giờ đây, đường hướng sử dụng kỹ thuật (technology) của anh và công ty của anh phải có một hướng đi cho tốt. Và hướng đi này sẽ làm cho anh có hạnh phúc. Đó là làm sao giúp được con người trở về được với bản thân để tự chăm sóc mình, chăm sóc những người thương và chăm sóc thiên nhiên. Vì vậy cho nên chuyện làm ra tiền trở thành thứ yếu, tại vì có tiền mà không có hạnh phúc thì có tiền để làm gì?

Tại World Bank, Thầy đã nói câu đó. Thầy nói: giữa hai cái, anh phải chọn một cái thôi, một là trở thành Number One, hai là hạnh phúc. Anh thấy cái nào quan trọng thì anh chọn. Nếu anh muốn trở thành number one thì anh phải hy sinh hạnh phúc, còn nếu anh muốn hạnh phúc thì anh phải hy sinh cái ý định trở thành number one. Vậy thì tư niệm thực (volition) của anh là gì? Muốn có nhiều tiền, muốn thành number one hay muốn có hạnh phúc?

Thầy có đề nghị các nhà doanh thương, các nhà kỹ thuật phải ngồi lại và tìm hiểu xem thử mình thật sự muốn gì. Đâu là ước muốn sâu sắc của đời mình? Thầy đã sử dụng những cụm từ mà Thầy đã dùng trong khóa tu mùa hè ở Làng. Con người chúng ta có những mối quan tâm thường nhật như: làm thế nào để có nhà ở, có cơm ăn, có áo mặc, có người thương. Nhưng ngoài những tiện nghi vật chất và tình cảm đó, mình còn có cái ước muốn nào cao hơn nữa không?

Anh muốn làm gì với đời anh? Hay mục đích của đời anh chỉ là để đi tìm những tiện nghi vật chất và tình cảm? Ngoài những quan tâm thường nhật, anh còn có mối quan tâm tối hậu (ultimate concern): anh muốn làm gì với cuộc đời mình? Thầy đề nghị các nhà doanh thương, các nhà chính trị và các nhà kỹ thuật phải tìm một nguồn tư niệm thực lành mạnh. Thầy thấy nguồn tư niệm thực hay nhất bây giờ là ý chí giúp con người trở về với bản thân để chăm sóc bản thân, trở về với gia đình để chăm sóc gia đình mình, và trở về với thiên nhiên để được nuôi dưỡng và trị liệu, cũng như giúp thiên nhiên phục hồi lại được cái đẹp của nó. Đó là những nét chính của sự giảng dạy trong chuyến đi.

Hôm 25.10.2013, Tăng đoàn cử ra mười thầy và sư cô đi với Thầy để gặp khoảng 30 nhà doanh thương cỡ lớn nhất ở Mỹ. Sau buổi sinh hoạt có đi thiền hành vào khoảng 40 phút. Tối hôm sau (26/10), các nhà doanh thương này đều đến nghe thầy giảng tại nhà hát Paramount Theatre ở Oakland. Đề tài chiều hôm ấy là: làm cho máu trở về tim, tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống. Nội dung của buổi nói chuyện sáng hôm 25/10 tại Presidio Park, San Francisco cũng tương tự như buổi gặp gỡ ở Google. Buổi sáng hôm ấy, Thầy đã có dịp viếng thăm công viên Kaiser và thiền viện San Francisco với phái đoàn xuất sĩ.

Sức mạnh của từ bi

Trong chuyến hoằng pháp tại Bắc Mỹ lần này có hai trường đại học mời mình, đó là đại học Harvard và đại học Standford.

Trường Y (Harvard Medical School) và Trường Y tế Cộng đồng (Harvard School of Public Health) cùng đứng ra tổ chức hai ngày học hỏi và tu tập chánh niệm với sự cộng tác của tổ chức Cambridge Health Alliance Physicians. Các bác sĩ tới tu tập trong hai ngày đó sẽ nhận được tín chỉ của chương trình giáo dục thường xuyên (continued education). Bên Mỹ họ bắt buộc các nhà hành nghề y khoa mỗi năm phải học thêm về chuyên ngành.

Ngày đầu tiên (11/9), có mười mấy giáo sư dạy về thiền quán và về tâm lý trị liệu.  Ngày hôm sau (12/9), Thầy nói về phương pháp trị liệu thân tâm bằng thiền tập. Hôm ấy có hướng dẫn thiền tọa, thiền hành, pháp thoại và vấn đáp. Đề tài là sức khỏe cộng đồng và sức khỏe cá nhân. Làm sao thiền quán có thể giúp phục hồi sức khỏe con người và sức khỏe cộng đồng?

Ngày 24/10, đại học Standford tổ chức một buổi đàm luận về đề tài từ bi. Trong khuôn khổ của ngành não bộ thần kinh (neuroscience), họ muốn tìm hiểu từ bi có ảnh hưởng gì đến sức khỏe con người. Năng lượng từ bi có thể có tác dụng chữa trị cho con người được hay không? Thầy được mời tới để chia sẻ về đề tại này.

Trong buổi đàm luận này, các giáo sư cho biết là lâu nay y khoa chỉ tìm hiểu những yếu tố gây ra bệnh tật để chữa trị, mà chưa tìm hiểu những yếu tố tích cực giúp tăng cường sức khỏe. Đây là lần đầu tiên có một trường đại học nghiên cứu về từ bi, và thấy được vai trò của từ bi trong sự trị liệu cho con người và làm tăng tiến phẩm chất của đời sống.

Thầy nói rất rõ là từ bi có khả năng hóa giải hận thù, và khi hóa giải được hận thù thì con người mình trở nên thư giãn ra. Sự thư giãn đó giúp cơ thể phục hồi và trị liệu được. Khi có từ bi thì mình ngủ ngon hơn. Năng lượng từ bi còn có tác dụng bảo hộ cho mình. Súng ống và quân đội chưa chắc bảo vệ được mình nhiều bằng năng lượng từ bi. Như trường hợp của thầy Baddhiya, hồi thầy còn làm thống đốc một tiểu bang, có quân đội, có lính gác, nhưng thầy luôn sống trong lo sợ và không có an ninh. Khi đi tu rồi, thầy có rất nhiều từ bi và luôn được bảo hộ bởi năng lượng từ bi, vì vậy mà thầy thấy an ninh hơn rất nhiều, không sợ bị cướp, bị giết như trước đây nữa.

Ngoài ra, khi mình có từ bi thì mình có rất nhiều bạn. Giống như trong trường hợp Anathapindika (Cấp Cô Độc), ông là người rất từ bi cho nên ông có rất nhiều bạn bè và nhiều an ninh. Khi ông bị phá sản thì các bạn tới giúp ông gây dựng lại sự nghiệp một cách dễ dàng.

Nếu mình giàu thì cũng có rất nhiều người đến với mình, nhưng những người đến với mình có thể không phải để làm bạn đâu, họ đến với mình để mà nhờ cậy vào tiền của mình thôi. Vì vậy mà những nhà tỷ phú thường rất cô đơn. Họ luôn nghi ngờ những người đến với họ không phải là vì tình bạn, mà vì muốn lợi dụng vị thế của họ. Còn người có từ bi thì không bao giờ bị cô đơn. Không có từ bi thì mình không thể nào liên hệ với bất kỳ chúng sinh nào, bất kỳ con người nào khác. Vì vậy cho nên từ bi có khả năng chữa trị, có khả năng thiết lập liên hệ giữa mình với những người khác rất hay.

Buổi sinh hoạt hôm ấy rất hào hứng. Trong trường đại học có một buổi sinh hoạt như vậy rất là mới lạ, tại vì khung cảnh các buổi tọa đàm ở đại học thường rất khô khan với những con số, những công thức, những dữ kiện, v.v. Buổi sinh hoạt hôm đó rất linh động. Thầy đã nói rất nhiều về phương pháp chế tác từ bi.

Thầy đề nghị trong trường đại học, các giáo sư và sinh viên đừng chỉ nghiên cứu và giảng dạy bằng miệng và bằng khối óc, mà cần phải ngồi lại để cùng nhau chế tác năng lượng từ bi bằng chánh niệm, chánh định và tuệ giác. Quý vị phải dạy từ bi bằng cách sống của mình, chứ không phải bằng những bài giảng mà thôi. Khi quý vị có khả năng chế tác từ bi thì cách quý vị nhìn, cách nghe, cách tiếp xử với người khác khiến người ta thấy rất rõ năng lượng từ bi đó, chứ không phải chỉ do sự giảng dạy mà người ta hiểu được từ bi. Mọi người tham dự, trong đó có giáo sư James Doty – chủ tọa của buổi đàm luận rất thích và có nhiều cảm hứng từ những điều Thầy chia sẻ.

 

Hành trình của chuyến hoằng pháp tại Bắc Mỹ

Chuyến đi bắt đầu với khóa tu cho các nhà giáo tại đại học Brock, Toronto, Canada, với đề tài với đề tài “Thầy cô giáo hạnh phúc sẽ làm thay đổi thế giới” (“Happy teachers will change the world”). Khóa tu bắt đầu từ ngày 11/8 đến ngày 16/8. Khóa tu vừa chấm dứt thì ngày 17/8 có một buổi thuyết giảng công cộng tại Trung tâm Biểu diễn Nghệ thuật Sony (Sony Centre for the Perfoming Arts). Trong buổi thuyết giảng này Thầy giảng về chủ đề: Present moment – Wisdom for global peace and happiness (Giây phút hiện tại – Tuệ giác đem lại bình an và hạnh phúc cho thế giới). Ngày 18/8 là một ngày quán niệm dành cho người Việt, có 900 người tới tham dự. Ngày 19/8 thì Thầy và Tăng đoàn qua Mỹ.

Ngày 22/8, có một ngày xuất sĩ tại tu viện Bích Nham. Từ ngày 25 – 30/8 thì có khóa tu cho những người nói tiếng Mỹ. Trước khi lên đường sang tu viện Mộc Lan, có một buổi thuyết giảng tại Beacon Theatre, New York ngày 7/9. Và cũng trong ngày này, Thầy đã khai mạc buổi triễn lãm thư pháp tại ABC Home, New York. Phòng triễn lãm này sẽ mở cửa trong vòng 4 tháng, và theo báo cáo, ngày nào cũng có rất đông người đến tham quan. Có rất nhiều người đã đặt mua những thư pháp ở đó. Sợ rằng sau bốn tháng thì những thư pháp ở đó sẽ bị bán hết, không còn để cho thầy Pháp Nguyện tổ chức một buổi triễn lãm khác.

Ngoài hai ngày cho World Bank (9 – 10/9) và hai ngày cho Havard (11 – 12/9), mình còn có một buổi pháp thoại công cộng ngày 14/9 và một buổi ngồi thiền công cộng (Sit in Peace) ngày 15/9 trước nhà thờ Trinity Church ở Boston. Chủ đề ở Boston là The country of the present moment – the wisdom for global peace and happiness (Xứ sở của giây phút hiện tại – Tuệ giác đem lại bình an và hạnh phúc cho thế giới).

Ở Mộc Lan có hai khóa tu, một khóa tu cho người Việt (19 – 22/9) và một khóa tu cho người Mỹ (24 – 29/9). Sau hai khóa tu ở Mộc Lan thì Tăng đoàn đi Lộc Uyển. Ngày 4 – 8/10 là khóa tu cho người nói tiếng Việt. Và khóa tu tiếng Anh với chủ đề “Tìm lại ngôi nhà đích thực của chúng ta” (“Finding our true home”) bắt đầu từ ngày 11/10 và kết thúc ngày 16/10. Ngày 19/10, Thầy có buổi thuyết giảng công cộng tại Pasadena. Rồi sau đó mình đi lên miền Bắc California.

Ngày 23/10 là dành cho Google, ngày 24/10 là dành cho Standford, ngày 25/10 là để cho các nhà doanh thương, ngày 26/10 là diễn thuyết công cộng tại Paramount Theatre với đề tài “Làm mới thân tâm – Tiếp xúc với sự sống mầu nhiệm” (“Refreshing our Hearts, Touching the Wonders of Life”). Ngày 27 là ngày quán niệm cho người Việt tại tu viện Kim Sơn. Và ngày 28 thì Thầy và Tăng đoàn về lại Pháp, kết thúc chuyến hoằng pháp tại Bắc Mỹ năm 2013.

 

Đọc thêm:

Phần 1: Có Bụt trong xe không?

Phần 2:  Bụt có khổ không?

 

 

Bụt có khổ không?

 

Trong chuyến đi hoằng pháp tại Bắc Mỹ năm nay, có nhiều chuyện để kể từ từ. Nếu Thầy quên thì các vị khác sẽ bổ túc cho Thầy.

Cần có thêm vài ngàn người xuất gia nữa…

Một trong những điều mình thấy là số người muốn ghi tên tham dự các khóa tu và những buổi thuyết giảng rất đông. Ví dụ như buổi thuyết giảng công cộng tại Oakland, nhà hát chỉ chứa được 3200 người thôi nhưng khi mình mở đăng ký trực tuyến qua Internet cho người ta ghi danh tham dự khóa tu thì chỉ bốn giờ sau là hết chỗ, không mua vé được nữa. Rất nhiều người muốn tới nghe mà không có chỗ, do đó mình phải mời họ lên mạng để nghe trực tuyến. Có một tổ chức tên là Sounds True phụ trách về việc thông báo và ghi tên những người lên mạng để nghe. Hôm đó Sounds True báo cáo rằng số người lên mạng để nghe pháp thoại trực tuyến là 35000 người. Điều đó chứng tỏ rằng số người muốn tu học rất đông. Tất cả các khóa tu đều như vậy.

Trong khi đó phương tiện của mình để đáp ứng được nhu cầu tu học hiện nay lại rất hạn chế. Có những khóa tu mình chỉ có thể tiếp nhận được chừng 1000 người thôi hoặc ít hơn, nhưng luôn luôn có 700 – 800 người ở trong danh sách chờ đợi (waiting list). Như khóa tu ở Hồng Kông đầu tháng năm năm nay, mình chỉ có thể đáp ứng được cho 1300 người thôi, trong khi đó số người muốn tới tu rất đông. Tại tu viện Lộc Uyển, Bích Nham, Mộc Lan cũng vậy.

Trong những khóa tu ấy, Thầy có nói chuyện về tình trạng của Tăng đoàn Làng Mai. Thầy nói rằng ở châu Âu, nước nào cũng muốn có một khóa tu mỗi năm nhưng ước nguyện đó vẫn chưa thành đạt. Hiện nay, tại châu Âu chỉ có 3 nước: Pháp, Đức, Hà Lan là có khóa tu hàng năm. Còn những nước khác như Ý, Tây Ban Nha… nhiều lắm là hai năm mới có một khóa tu. Đó là vì tăng đoàn không có đủ người để gửi đi, mình thiếu các vị giáo thọ. Vì vậy Thầy kêu gọi phải có thêm vài ngàn người xuất gia nữa mới tạm đáp ứng được nhu cầu tu học. Thầy nói rằng trong quý vị ngồi đây, nếu ai thấy ngoài đời không có chuyện gì đáng làm thì nên đi xuất gia để mà phụng sự. Tại vì chỉ trong một khóa tu 6 ngày mà đã có rất nhiều người chuyển hóa và hòa giải được với gia đình. Người ta hạnh phúc lắm.


Cõi Tịnh Độ hay nước Chúa không phải là nơi không có khổ đau

Trong chuyến đi lần này, có những điều Thầy nói làm cho thiên hạ sốc rất nhiều. Những điều này đơn giản thôi, nhưng đối với họ rất mới lạ. Ví dụ như: trong cõi Tịnh độ của Bụt, cõi thiên đường của Chúa có đau khổ không? Hầu hết mọi người đều tin rằng ở cõi Tịnh độ hay ở cõi thiên đường thì làm gì có đau khổ nữa? Nhưng theo giáo lý tương tức của đạo Bụt, không có khổ đau thì không có hạnh phúc. Không có bùn thì không có sen. Nếu muốn có những bông sen thơm và tinh khiết thì phải có bùn mới được. Có bùn mới làm ra sen. Hạnh phúc và khổ đau cũng vậy. Chính nhờ cái bùn của khổ đau mà mình làm ra được bông sen của hạnh phúc. Vì vậy, Thầy nói rằng: “theo tôi, nước Chúa không phải là chỗ không có khổ đau. Nếu không có khổ đau thì cũng không có hạnh phúc. Chắc chắn là như vậy”.

Thầy cũng nói: “Nếu quý vị gửi con của quý vị tới những chỗ không có khổ đau thì con của quý vị sẽ không có cơ hội học hỏi để hiểu và để thương. Nếu không có hiểu và thương thì mình không phải là một người có hạnh phúc. Và muốn học hiểu, học thương thì mình phải tiếp xúc với khổ đau. Cõi Tịnh độ hay nước Chúa không phải là chỗ không có khổ đau, mà là chỗ người ta biết học hỏi từ khổ đau, biết sử dụng khổ đau để chế tác hạnh phúc cũng như người biết sử dụng bùn để nuôi sen.”

Chuyện ở nước Chúa mà có khổ đau là chuyện mà lâu nay người ta không nghĩ tới, không ai tin như vậy. Hầu hết mọi người đều tin rằng đã là nước Chúa, đã là Thiên quốc rồi thì chắc chắn là không còn khổ đau nữa. Nhưng sự thật mà mình quan sát được là nếu không có khổ đau thì cũng không có hạnh phúc. Khổ đau và hạnh phúc đi với nhau như một cặp bài trùng, không có cái này thì không có cái kia, cũng như một tờ giấy có mặt trái và mặt phải vậy. Mình không thể lấy mặt trái ra khỏi mặt phải. Mình không thể nói: anh tới đây lấy mặt trái đi về Bordeaux, còn chị lấy mặt phải đi về Toulouse. Đó là điều không thể làm được. Hai cái chỉ muốn ở chung thôi, không có cái này thì cũng không có cái kia.

Nếu không có dưới thì cũng không có trên, không có phải thì không có trái, nếu không có thì không có không, nếu không có khổ đau thì không có hạnh phúc. Rất rõ ràng. Đó là sự thật 100%. Vậy nên chúng ta đừng có ảo tưởng tìm tới một cõi không có khổ đau. Không! Tịnh độ và nước Chúa là những nơi có khổ đau, chắc chắn là như vậy. Nhưng ở những nơi đó người ta biết cách khổ, biết cách sử dụng khổ đau để chế tác hạnh phúc. Thầy có dạy rằng khi quý vị biết cách khổ thì quý vị khổ rất ít. “If you know how to suffer, you suffer much less”. Câu này họ thích lắm. Nếu mình biết cách khổ thì mình khổ rất ít, và mình lại có thể làm ăn khá hơn: mình có thể sử dụng khổ đau đó để chế tác thành hiểu và thương để làm nền tảng cho hạnh phúc.

Bụt có khổ, nhưng vì Bụt biết cách khổ cho nên Ngài khổ rất ít

Thầy có kể rằng ngày xưa khi còn trẻ, thầy cũng tin như mọi người là khi mình thành Bụt rồi thì mình không còn khổ nữa. Nếu thành Bụt rồi mà còn khổ thì thành Bụt để làm gì? Đó là lý luận của mình. Nhưng nếu mình thấy được sự thật là khổ đau và hạnh phúc tương tức thì mình có một cái nhìn rất khác. Thành ra sự thật là Bụt có khổ, nhưng vì Bụt có tuệ giác và tình thương lớn, và vì Bụt biết cách khổ cho nên Bụt khổ rất ít. Thầy nghĩ rằng Bụt cũng có nhức đầu, đau bụng, nhức mỏi chứ không phải là không. Nói rằng Bụt không đau bụng, nhức đầu, không nhức mỏi là không đúng. Tại vì đã có hình hài thì phải có những chuyện đó thôi. Nhưng vì Bụt có trí tuệ và từ bi lớn, và vì Bụt biết cách khổ cho nên Bụt khổ rất ít.

Có thể có những người không đồng ý với Thầy. Họ nói: nếu thành Bụt mà còn khổ thì thành Bụt để làm gì? Đó là lý luận của đa số. Nhưng Thầy thấy rất rõ là Bụt cũng khổ như mình nhưng Bụt khổ rất ít, tại vì Ngài có quá nhiều trí tuệ và từ bi. Nếu cần khổ thì Ngài cũng khổ. Ví dụ như nghe tin đệ tử thương yêu của mình là thầy Xá Lợi Phất tịch thì Bụt có buồn không? Bụt có phải là một tảng đá đâu? Khi đệ tử thương của mình qua đời mà Bụt tỉnh bơ thì đâu được. Chắc chắn là Bụt có khổ nhưng vì Bụt có sẵn tuệ giác về vô thường, vô ngã, biết rằng thầy Xá Lợi Phất đang tiếp tục có mặt trong các sư em của thầy, thì Bụt khổ ít hơn các thầy khác nhiều. Bụt khổ ít hơn thầy Ananda, có phải vậy không? Cho nên sự thật Thầy trao truyền là Bụt có khổ nhưng Ngài khổ rất ít. Ngài biết cách khổ. Cũng như Thầy vậy, Thầy cũng khổ nhưng Thầy khổ ít hơn nhiều người khác. Ví dụ nếu mình biết giáo lý về mũi tên thứ hai. Mũi tên thứ hai là sự lo lắng, sự bực bội của mình, nó làm cho mình khổ gấp mười lần, và vì vậy đừng để cho mũi tên thứ hai cắm vào thì mình đã bớt khổ nhiều rồi, huống hồ mình lại còn có những phương pháp khác.

Pháp thoại công cộng tại Paramount Theatre, Oakland

Khi thành Bụt rồi thì mình còn phải tu nữa hay không?

Khi còn là một thầy tu trẻ, Thầy còn có một câu hỏi nữa là: khi thành Bụt rồi thì mình còn phải tu nữa hay không? Thực tế trong kinh nói rất rõ là Bụt cũng có ngồi thiền, đi thiền hành và thực tập an ban thủ ý như các thầy khác. Thành ra mình hỏi tại sao thành Bụt rồi mà còn phải thực tập nữa, còn phải tu nữa? Tu là để thành Bụt, tại sao thành Bụt rồi còn phải tu nữa? Đó là những câu hỏi rất thực tế.

Câu trả lời cũng dễ thôi, nhưng tại sao mình loay hoay mất bao nhiêu năm mà tìm không ra. Đó là vì hạnh phúc cũng vô thường. Bụt có rất nhiều hạnh phúc, và vì hạnh phúc của Bụt cũng vô thường như hạnh phúc của mình cho nên Ngài phải tiếp tục tu để tiếp tục chế tác hạnh phúc. Thí dụ như mình đạp xe đạp, mình đạp mấy cái thì xe chạy, nhưng nếu mình không tiếp tục đạp thì xe đâu chạy nữa. Hạnh phúc của Bụt cũng vậy. Ngài biết cách nuôi dưỡng hạnh phúc cho nên hạnh phúc của Ngài kéo dài. Còn mình không biết nuôi dưỡng hạnh phúc cho nên hạnh phúc của mình rất ngắn ngủi.

Bởi vậy cho nên thành Bụt rồi mà Bụt cũng phải thực tập thôi. Ngài cũng thực tập an ban thủ ý, Ngài cũng thực tập thiền hành, thiền tọa, ăn cơm im lặng như mình vậy để nuôi dưỡng hạnh phúc của Ngài. Câu trả lời rất dễ, vậy mà trước đây mình cứ dại dột cho rằng: đã thành Bụt rồi thì còn tu nữa để làm gì?

Thầy nói những điều  này bằng một ngôn ngữ đơn giản và dễ hiểu cho nên thiền sinh dễ hiểu và dễ chấp nhận. Những cái ban đầu gây sốc cho người ta rốt cuộc rồi người ta cũng hiểu và chấp nhận được.

Đọc thêm:

Phần 1: Có Bụt trong xe không?

Phần 3: Anh muốn làm gì với đời anh?

Dòng sông đang múa ca

Hôm Noel, có một bà thiền sinh người Pháp viết cho thầy một lá thư và thầy muốn chia sẻ với quý vị, nhất là quý vị tới từ Việt Nam. Vị thiền sinh này là người Pháp và có gốc rễ Cơ Đốc Giáo. Đọc thư này mình sẽ thấy rõ ràng là trong khi mình ở tại Tây Phương để hành đạo, mình phải biết rõ gốc gác văn hóa và mình phải có một thái độ cởi mở và hiểu biết thì mới có thể thành công được.

Kính thưa Thầy!

Đã mấy tuần nay con muốn viết thư cho Thầy. Lá thư đã thành hình trong trái tim con rồi nhưng con đã đợi đến đêm Noel tĩnh lặng này để viết ra trên giấy. Nhưng làm sao con có thể sử dụng được chữ nghĩa để diễn tả được cái rung động trong toàn châu thân con. Niềm vui đang khởi dậy trong con. Niềm an lạc mà con trông chờ bao nhiêu năm nay bây giờ mới bắt đầu có mặt trong con. Con bắt đầu tiếp xúc được với pháp môn của Thầy từ ngày mùng 6 tháng 10 năm nay qua những quyển sách của Thầy. Trong nhật ký của con, vào ngày đó con đã vẽ bên lề của trang nhật ký một ngôi sao xanh sáng chói.

Tuổi thơ của con đã in dấu đủ mọi thứ bạo động và con đã sống lay lắt với một cảm giác rằng cuộc đời này là một cái gì vô nghĩa, quá nặng nề. Đến tuổi 16, con tiếp xúc được với Ki-tô Giáo, không phải là do ai dạy mà do chính con cảm nhận được một cách trực tiếp từ trái tim. Con nghe Chúa Ki-tô dạy rằng tất cả vạn hữu đều phát sinh từ tình thương. Và mục đích, ý nghĩa của cuộc sống là để biểu lộ tình thương và hoàn tất tình thương đó. Con tin vào lời nói đó.

Nhưng Thầy ơi! Ánh sáng đó bắn lại cho con nhiều điều vô lý mà con không thể nào hiểu được. Con đi tìm tới các vị linh mục để tham vấn thì các vị dạy con rằng phải yêu Thiên Chúa với tất cả trái tim và trí năng của mình. Phải yêu người khác như yêu mình. Họ dạy con như vậy. Đối với con, điều này khó thực hành quá tại vì trong con có rất nhiều hạt giống của sự hận thù, muốn tự tử, muốn tự tiêu diệt mình. Hơn nữa, trong Thánh Kinh lại có những đoạn khép kín mà con không thể nào có chìa khóa mở ra được, không thể tìm hiểu được. Những giải thích của các vị linh mục không làm thỏa mãn được những đói khát tâm linh trong con.

Theo những lời giải thích của các vị thì tình thương, sự hiểu biết cũng như sự an lạc là những gì thuộc về tương lai, hoặc là ở một chỗ khác, ở một nước Chúa, một Thiên quốc nào đó mà chúng ta chỉ có thể đi vào sau khi ta chết. Với lại ta cũng không chắc là mình có thể tới được đó nếu như những điều kiện của ta không đủ. Và vì vậy những lời giảng đó không đem lại cho con năng lượng để yêu quý sự sống mà làm cho con muốn chết cho mau để sớm được đi vào trong đất nước hứa hẹn kia mà thôi. Vì thế mà con đã bỏ Thiên Chúa Giáo ra đi. Con đã rơi trở lại vào trong nỗi niềm tuyệt vọng của con.

Tuy nhiên, con vẫn tin rằng không phải Chúa Ki-tô đã dạy như vậy. Nhưng thực sự thì Chúa Ki-tô đã dạy điều gì? Con có linh cảm là giáo lý chân thực của Chúa Ki-tô có đó nhưng làm sao con có thể chọc thủng được bức màn giáo lý để đi tới sự thực đó được. Nhờ theo học một lớp Yoga nên con có dịp tiếp xúc với nền đạo học Đông Phương. Nền đạo học Đông Phương này đã cứu con. Giáo lý bất nhị của đạo Bụt cho con thấy cái gọi là Thiên quốc đang nằm trong trái tim của chính mình và mình có thể tiếp xúc với nó ngay bây giờ. Và có một con đường để thực hiện điều đó.

Khi nghe được điều này thì trong lòng con bừng dậy một niềm tin, một niềm hạnh phúc. Con lập tức áp dụng giáo lý đó vào ngay trong đời sống của con với tất cả năng lượng của trái tim mình. Con đã sử dụng hơi thở ý thức để yểm trợ và con bắt đầu thích ngồi yên. Nhưng trong con vẫn còn có sự xâu xé trong khi thực tập. Con hỏi: Vậy thì Chúa Ki-tô của con đóng vai trò gì trong sự thực tập này hay không? Con không thể nào bỏ được Chúa Ki-tô, không thể tự chọn lựa con đường cho chính mình.

Con đi trên con đường của đạo Bụt nhưng một chân thì bước theo Chúa. Chúa mà con đã đi tìm cầu trong ánh sáng của tất cả những gì con đã học hỏi để có thể hiểu được ý Ngài, để cho lời dạy của Chúa được biểu lộ trong đời sống hàng ngày của con. Còn chân kia thì bước theo các bậc hiền nhân của Ấn Độ và những thiền sư Nhật Bản. Những lời dạy đầy ánh sáng của họ đã trở thành món ăn mà hằng ngày con ngấu nghiến. Con thấy cả hai con đường đều quan trọng đối với con nhưng con không thể chọn được một trong hai và con có cảm tưởng là con phụ bạc với cả hai con đường.

Thầy ơi! Chính trong trạng thái bị ray rứt đó thì Thầy đã tới với con. Con muốn nhắc lại, muốn viết lại một lần nữa cho rõ: chính trong lúc đó Thầy đã đến với con. Và với những lời dạy mà con đang thiếu thốn, những lời dạy mà con có thể hiểu và có thể gọi tên ra được. Những lời dạy thật đơn sơ. Cái mà con thiếu là cái này đây: an trú trong hơi thở ý thức, an trú trong chánh niệm, tức là đang an trú trong Chúa Thánh Thần, trong hơi thở thánh linh mà cũng là an trú trong Thiên quốc, trong giây phút hiện tại. Điều đó là điều mà con học được. Tức là hai cái chỉ là một mà thôi. An trú trong hơi thở ý thức, an trú trong chánh niệm cũng là an trú trong thánh linh, cũng là an trú trong Thiên quốc. Con tìm ra được điều đó nhờ Thầy dạy. Cái thấy đơn sơ và mầu nhiệm đó làm con quá đỗi ngạc nhiên. Con đã phải trải qua biết bao nhiêu công phu, nhọc nhằn và tìm kiếm; để  bây giờ cho một sự thực đơn giản, hiển nhiên như vậy có thể tới với con. Nhưng không sao. Điều quan trọng là cái mầu nhiệm đó đã tới trong cuộc đời của con.

 

 

Hai con đường bây giờ đã trở thành một. Một sự thật rất mầu nhiệm. Những lời con nói ra có vẻ tầm thường quá nhưng làm sao để có được những lời có thể diễn tả được năng lượng sáng chói mà con đang thể nghiệm và nói ra được cái mà ngay trong giây phút hiện tại con biết là con đang biết. Con không còn nhọc công đi tìm kiếm nữa. Con không chạy để theo đuổi một cái gì nữa và điều đó đã mang lại bình an cho trái tim con. Sự thực tập hàng ngày làm cho sự sống của con tràn đầy hạnh phúc.

Con thực tập như thế này: thất niệm thì tuy bên ngoài có vẻ như mình còn sống nhưng bên trong đã chết. Và khi mình có chánh niệm tức là mình thực sự đang sống. Trong khi ngồi thiền con thực tập như thế này: Thở vào, con hỏi ai cho con sự sống? Thở ra, con quay về nương tựa nơi thánh linh, tâm ý của con được tắm vào trong dòng nước tẩy tịnh của thánh thể và con đang được đổi mới trong từng hơi thở ra.  Và con trồi lên phục sinh lại trong từng hơi thở vào. Con thấy con được sinh ra trở lại giữa những người đang chết. Con biết là trong đời sống hàng ngày, con chỉ cần nắm lấy hơi thở chánh niệm. Nếu có quên thì đó chỉ là con rối cử động theo tập khí suy nghĩ, hành động, gieo rắc khổ đau vào những người mà mình muốn thương yêu. Con rối mà ta thường giao cho làm những việc mà nó không thể nào làm được. Khi nào có tỉnh thức, có chánh niệm, con nghĩ và tin rằng lúc đó thánh linh đang điều khiển, đang cầm cương. Trong trường hợp này, tư duy và hành động được chỉnh lại cho phù hợp với hoàn cảnh. Con thấy rằng chỉ trong sự thực tập cắm rễ đó con mới có khả năng thương lấy mình và thương được những người khác mà thôi.

Thầy ơi! Bao nhiêu năm nay con sóng bé nhỏ của con đang trôi nổi trên đại dương. Khi thì lăn lóc trong đam mê và hận thù; khi thì chìm xuống trong vực sâu, lạc đường và biến mất. Nhưng bây giờ đây, con sóng đó đang được múa ca. Và dòng sông của Thầy đã chảy vào trong dòng sông của con; và dòng sông của con cũng đang múa ca và đang được ca múa. Múa ca khúc hát mà những dòng sông khác đã từng múa ca. Chỉ cần múa ca trên đại dương với niềm biết ơn vô tận.

Con viết những dòng này từ trái tim của con và gửi đến trái tim của Thầy với tất cả niềm tôn kính.

 

Tháng 8/2014, Đức Giám mục Sánchez Sorondo – đặc phái viên của Đức Giáo hoàng Francis – đến Làng để chính thức mời Thầy đến Vatican tham dự Hội nghị các nhà lãnh đạo tôn giáo do Vatican tổ chức để kêu gọi thế giới chống nạn buôn người

 

Đây là lá thư của vị thiền sinh đó. Khi đọc một lá thư như vậy, mình thấy rất rõ là khi mình đem tới một cái gì để hiến tặng, mình nên biết phải làm thế nào để nhận diện những gốc rễ văn hóa và tâm linh của người được hiến tặng. Nếu không thì phẩm vật hiến tặng của mình sẽ không có giá trị. Khi Cơ Đốc Giáo truyền vào Việt Nam thì các nhà truyền giáo khuyên mình nên bỏ đạo Bụt và nên bỏ sự thờ cúng ông bà. Và như vậy làm cho mình mất gốc rễ. Một con người mất gốc rễ thì không bao giờ có hạnh phúc. Mình phải thấy được điều đó.

Khi chúng ta đang có mặt ở Tây phương, tiếp xúc với các bạn Tây phương thì chúng ta không nên lặp lại lỗi lầm đó. Chúng ta phải để cho họ cắm rễ vào trong văn hóa và trong tôn giáo của họ. Những phương pháp thực tập của chúng ta có thể làm cho họ trở về gốc rễ của họ, làm mới gốc rễ đó. Vậy cho nên lá thơ này đã phản chiếu rất thực con người của xã hội Tây phương. Thầy chia sẻ cho quý vị để quý vị thấy rõ là nếu mình đang ngồi trên đất nước Tây phương thì mình phải thấy được và công nhận được giá trị của nền văn hóa, của truyền thống tâm linh của Tây phương. Như vậy mình mới có khả năng chia sẻ sự thực tập của mình một cách thành công.

 

Em tìm cầu gì nữa?

Dừng lại để nuôi dưỡng, dừng lại để trị liệu

Chữ H tượng trưng cho hạnh phúc. Hơi thở H là hơi thở hạnh phúc, nó có thể thấm vào cơ thể mình như một hơi ấm. Giống như chúng ta đang đi ngoài trời giá lạnh, khi bước vào căn phòng của mình thì cảm thấy rất ấm áp. Hơi ấm trong căn phòng từ từ thấm vào cơ thể mình. Hơi thở hạnh phúc cũng giống hơi ấm. Thở vào, chúng ta để cho hạnh phúc thấm vào trong cơ thể của mình, chúng ta thầm nói: “Hạnh phúc đang thấm vào cơ thể con”. Hạnh phúc có thể đi vào được hay không là do mình có mở cơ thể ra được hay không. Nhiều khi tập khí muốn chạy, muốn vươn tới, muốn đạt được một cái gì đó, như một tấm nylon bao cơ thể chúng ta lại, không cho hạnh phúc thấm vào giống như nước chảy lá môn, không một giọt nước nào thấm vào được.

Ai cũng có ít nhiều trong mình sự bất an, sự không dừng lại được. Đó chính là năng lượng đẩy mình đi tới, nó không cho phép mình dừng lại. Mình đang hướng tới, đang chạy theo một đối tượng nào thì chính đối tượng đó ngăn cản không cho hạnh phúc thấm vào mình. Do đó, muốn hạnh phúc đi vào cơ thể mình trong khi thở vào, thở ra, thì mình phải có khả năng dừng lại và nhận diện những gì đang diễn ra trong tâm.

Dừng lại được thì tự nhiên cơ thể mình mở ra và hạnh phúc từ từ đi vào. Lúc đó mới có thể gọi là an trú, an trú tức là ở yên. Bí quyết của sự thành công nằm ở chỗ mình có thể dừng lại được hay không. Dừng lại được thì có an, có an mới tiếp xúc được với hạnh phúc.

Mỗi hơi thở vào và mỗi hơi thở ra mình như để cho hạnh phúc thấm vào:
Thở vào hạnh phúc đang thấm vào cơ thể của con.
Thở ra hạnh phúc đang thấm vào tâm hồn con.

Đó là hơi thở H – hơi thở hạnh phúc. Bây giờ chúng ta sang hơi thở thứ hai, hơi thở dừng lại và chúng ta gọi đó là hơi thở S (stop)

Thở vào, con đã dừng lại
Thở ra, con không đuổi theo gì nữa hết

Khi thở vào mình dừng lại thật sự, khi thở ra mình cũng dừng lại thật sự. Mình không đeo đuổi gì nữa cho dù đối tượng đó là niết bàn, giác ngộ hay thiên quốc. Khi thở vào, thở ra và dừng lại, ngưng sự theo đuổi, tìm cầu thì hơi thở S giúp mở thân tâm của mình ra. Đến khi thực tập hơi thở H thì hạnh phúc sẽ đi vào. Thực tập hơi thở S thành công thì hơi thở H sẽ thành công.

Nếu mình có cảm tưởng không an trú được, ngồi không yên, đi không vững, ở với chúng không yên, mình cứ nghĩ còn một tháng nữa mình đi chỗ khác thì đó chính là lúc mình cần phải thực tập dừng lại. Có thể chỗ này và thời điểm này là chỗ tốt nhất, thời điểm tốt nhất của mình. Chính ở chỗ này, chính trong thời điểm này mình có điều kiện nhiều nhất để có hạnh phúc. Nhưng vì năng luợng của thói quen cứ thúc đẩy mình, khiến mình không an trú được. Mình không nhận diện được rằng: Chính trong lúc này, chính ở nơi này mình có nhiều điều kiện hạnh phúc nhất.

Hơi thở S giúp mình dừng lại. Mình phải tự hỏi: mình đi tìm kiếm cái gì? Tại sao mình phải đi tìm kiếm? Khi dừng lại được, thấy những điều mình đi tìm kiếm có ngay trong thân tâm, có ngay trong hoàn cảnh của mình. Thấy như vậy đã là tuệ giác rồi.

Tại Làng Mai chúng ta có học phương pháp « chỉ » tức là dừng lại. Khi thở vào ta đưa tâm trở về với thân. Khi thân tâm hợp nhất ta sẽ nhận diện ra rằng mình có quá nhiều cái quý giá, có quá nhiều điều kiện để hạnh phúc.

Ví dụ như mặt trăng trên bầu trời, nhiều khi mặt trăng đi theo để soi lối cho mình mà mình không hay biết. Khi mình sinh ra mặt trăng đã có sẵn đó cho mình.  Chỉ cần nhìn lên là mình thấy mặt trăng. Mặt trăng là một món quà rất quý giá cho loài người. Từ thuở còn ấu thơ cho đến bây giờ, mặt trăng luôn luôn đi theo mình. Giả dụ không có mặt trăng, ban đêm sẽ buồn lắm. Không những các thi sĩ buồn mà những người khác cũng buồn. Mặt trăng là một tặng phẩm của cuộc đời dành cho mình. Thấy được như vậy là có tuệ giác. Tuệ giác giúp mình dừng lại, thôi không kiếm tìm nữa.

Ở xóm Thượng, tôi có ba mặt trăng. Thầy Pháp Độ trồng cho tôi một mặt trăng thật tròn bên cạnh chậu trúc. Mỗi buổi chiều tôi thắp vầng trăng nhỏ của tôi lên nếu vầng trăng trên bầu trời bị che lấp. Buổi sớm, khi tôi và thị giả ngồi uống trà hay ăn sáng thì thấy gió đưa phất phơ cành trúc la đà bên trăng. Đó là mặt trăng thứ hai. Tôi còn một mặt trăng thứ ba, nhỏ hơn một chút, đó là một cây đèn thu năng lượng mặt trời để bên cửa sổ. Ban ngày nó tiếp nhận ánh sáng mặt trời, ban đêm mở lên là có ánh trăng. Ánh sáng mặt trăng cũng do mặt trời truyền tới. Mặt trăng nhỏ xíu của tôi bên cửa sổ, ban ngày cũng tiếp nhận ánh sáng mặt trời, ban đêm cháy lên soi sáng căn phòng của tôi. Tôi thức dậy bất cứ lúc nào cũng thấy có ánh trăng soi. Nhà thơ Mai Thảo từng viết:

Chế lấy mây và gầy lấy nắng
Chế lấy, đừng vay mượn đất trời
Để khi nhật nguyệt còn xa vắng
Đầu hè vẫn có ánh trăng soi.

Mặt trăng trong phòng tôi là mặt trăng nhân tạo, lấy ánh sáng từ năng lượng mặt trời, tuy nhỏ xíu, nhưng đem đến cho tôi nhiều niềm vui. Mỗi khi thức dậy ban đêm tôi đều thấy có ánh trăng soi. Niềm vui luôn có đầy khắp mọi nơi. Nhìn ra ngoài trời, nếu mình không thấy trăng thì thấy sao, nếu không thấy sao thì thấy mây, không thấy mây thì thấy sương mù, không thấy sương mù thì thấy cây cối… Luôn luôn có cái gì đó cho mình biết rằng những mầu nhiệm của sự sống đang có mặt.

Trở về với giây phút hiện tại, chúng ta sẽ nhận diện ra rằng mình có quá nhiều điều kiện để hạnh phúc: Hai chân mình còn đi được, hai mắt mình còn sáng; hai lá phổi mình còn thở được, mình có thầy đang còn sống với mình, mình có anh chị em đang sống với mình, mỗi ngày mình được ngồi thiền, được thực tập… Những điều kiện hạnh phúc đã có quá nhiều. Mình còn muốn đi tìm gì nữa? Mình cứ bồn chồn đi tìm kiếm, bỏ hết tất cả những cái quý giá đẹp đẽ phía sau. Cái mình đi tìm có ngay ở đây, sờ sờ ra đó, còn tìm kiếm chi nữa?

Trở về với hơi thở S mình nhận ra rằng, cái mình đi tìm vốn có sẵn đó. Thấy được như thế mình sẽ dừng lại. Khi dừng lại được thì hơi thở hạnh phúc sẽ đi vào trong cơ thể mình và mình thẩm thấu được hạnh phúc.

Phải để cho hạnh phúc thấm vào cơ thể để mình được nuôi dưỡng và trị liệu. Có thể mình đang có một vài đau nhức trong thân và trong tâm cần được trị liệu. Chúng ta đi tìm sự trị liệu ở đâu? Sự trị liệu có ngay khi mình dừng lại được. Dừng lại được thì thân tâm mình có khả năng thẩm thấu, và những yếu tố hạnh phúc sẽ đi vào để nuôi dưỡng và trị liệu thân tâm. Trị liệu có ngay đó, chỉ tại mình không cho phép nó đi vào thôi. Những tập khí rong ruổi tìm cầu của mình đã trở thành một tấm nylon bao phủ xung quanh, ngăn cản không cho hạnh phúc được thẩm thấu.

Hơi thở H là hơi thở trị liệu và nuôi dưỡng. Nhưng nếu không có hơi thở S để dừng lại thì mình không thẩm thấu được. Sự mầu nhiệm, sự huyền diệu, phép lạ của tương tức là những điều mình có thể tiếp xúc mỗi ngày.

Bụt đang thở nhẹ, Bụt đang ngồi chơi

Hôm nay ở xóm Thượng sư chú Pháp Biểu hô canh ngồi thiền, sư chú Pháp Linh hướng dẫn địa xúc bằng tiếng Anh, sư chú Pháp Thệ hướng dẫn địa xúc bằng tiếng Pháp. Ba người làm rất hay. Trong buổi địa xúc sáng nay mình thực tập tiếp xúc với tổ tiên tâm linh và tổ tiên huyết thống, tiếp xúc với con cháu tâm linh và con cháu huyết thống. Thực tập địa xúc mình có thể tiếp cận được với sự thật vô ngã. Mình là sự tiếp nối của tổ tiên tâm linh và tổ tiên huyết thống:

“Con có tổ tiên tâm linh của con là Bụt, các vị Bồ Tát và các vị tổ sư qua các thời đại, trong đó có các bậc sư trưởng của con đã qua đời hay còn tại thế. Các vị đang có mặt trong con, các vị đã truyền trao cho con những hạt giống bình an, trí tuệ, tình thương và hạnh phúc. Trong dòng tổ tiên tâm linh của con, có những vị mà giới hạnh, trí tuệ và từ bi viên mãn, nhưng cũng có những vị mà giới hạnh, trí tuệ và từ bi còn khiếm khuyết.

Tuy nhiên con cúi đầu nhận chịu tất cả là tổ tiên tâm linh và tổ tiên huyết thống của con, vì chính trong con cũng có những yếu đuối, những khiếm khuyết về giới hạnh, trí tuệ và từ bi. Và cũng vì con biết con còn có những yếu đuối và khiếm khuyết ấy cho nên con mở lòng chấp nhận tất cả các con cháu của con, trong đó có những người mà giới hạnh, trí tuệ và từ bi đáng cho con kính ngưỡng nhưng cũng có những người còn đang chật vật, khó khăn và trồi sụp không ngừng trên con đường tu đạo.

Điều này cũng đúng về phương diện huyết thống. Con chấp nhận tất cả các vị tổ tiên huyết thống của con về cả hai phía nội ngoại với tất cả những đức độ, công hạnh và khiếm khuyết của các vị, cũng như con mở lòng chấp nhận tất cả các con cháu của con với những đức độ, tài năng và khiếm khuyết của từng người. Tổ tiên tâm linh và tổ tiên huyết thống của con, cũng như con cháu tâm linh và huyết thống của con đều đang có mặt trong con. Con là họ, họ là con, con không có một cái ta riêng biệt; tất cả đều có mặt trong một dòng sinh mệnh đang diễn biến mầu nhiệm.”

Khi thở vào ý thức các tổ tiên đang có trong mình, mình sẽ thoát được cái cảm giác cô độc, lẻ loi, rằng ta mình là một cái ngã tách rời.

Thở vào, con mời Bụt thở vào với con.
Thở ra, con mời Bụt ngồi với con.
Bụt đang thở nhẹ.
Bụt đang ngồi chơi.

Mình thấy rõ ràng Bụt trong mình đang thở và đang ngồi. Mình cũng thở và ngồi với Bụt; hai là một, một là hai. Bụt là Bụt, mình là mình; nhưng Bụt cũng là mình, mình cũng là Bụt. Đó gọi là bất nhị (không phải hai).

Thở được một hơi và dừng lại được, mình thấy Bụt đang thở nhẹ và mỉm cười. Mình cũng đang thở nhẹ và mỉm cười. Lúc đó hơi thở thứ hai của mình thành công. Bụt thở rất hay, Bụt chỉ thở một hơi là dừng lại được liền và Ngài trở nên thẩm thấu, những mầu nhiệm của vũ trụ thấm vào trong người của Ngài. Trong mình có Ngài, Ngài đang thở nhẹ, Ngài đang mỉm cười; mình cũng đang thở nhẹ, đang mỉm cười. Thở được vậy mình trở nên thẩm thấu và hạnh phúc sẽ đi vào được trong người mình.

Bụt đang thở nhẹ
Bụt đang ngồi chơi
Con đang thở nhẹ
Con đang ngồi chơi
Hạnh phúc đi vào trong Bụt
Hạnh phúc đi vào trong con

Mình cũng có thể thực tập cho cha:
Thở vào, con thấy cha trong con, con là sự tiếp nối của cha.

Rất dễ và rất khoa học! Cha thở với con đi, hai cha con cùng thở. Đó là sự huyền diệu của tương tức. Mình với cha tương tức, mình với cha không phải là hai. Chỉ cần một hơi thở vào độ ba bốn giây là mình có thể tiếp xúc được với cái mầu nhiệm tương tức đó. Nếu mình thấy khỏe, mình trở nên thẩm thấu thì hạnh phúc sẽ đi vào trong mình và nếu hạnh phúc đi vào trong mình được thì hạnh phúc cũng đi vào trong cha. Cha trong mình có hạnh phúc, mình thở cho mình và mình thở cho cha. Cũng như lúc nãy mình thở cho mình và cho Bụt, bây giờ mình thở cho mình và cho cha. Chuyện này không khó, ai cũng có thể làm được.

Bây giờ mình thở cho mẹ:
Thở vào, con mời mẹ thở vào với con

Mẹ không ở ngoài, mẹ ở trong mình, mình là sự tiếp nối của mẹ. Hai lá phổi này mình cho là của mình, nhưng thật ra nó cũng là của mẹ. Tấm thân này mình tưởng là của mình nhưng kỳ thực chính là do mẹ trao cho, nó được hình thành từ một phần thân thể của mẹ. Khi mình thở vào thì mẹ cũng thở vào, hai mẹ con cùng thở. Lúc đó mình tiếp xúc với cái mầu nhiệm của tương tức. Chuyện này rất đơn giản! Thở như vậy mình có tuệ giác tương tức, mình dừng lại và trở nên thẩm thấu. Vì vậy hơi thở H có hiệu lực liền:

Hơi thở của hạnh phúc đang thấm vào trong con
Hơi thở của hạnh phúc đang thấm vào trong mẹ

Mình với mẹ là một, mình thở có hạnh phúc thì mẹ trong mình cũng hạnh phúc, do đó mình là đứa con hiếu thảo nhất vì đã làm cho mẹ hạnh phúc.

con đang thở dịu dàng cho má

Quí vị phải thành công, hơi thở H là hơi thở hạnh phúc. Nếu muốn thành công hơi thở H thì phải thành công hơi thở S, tức là hơi thở dừng lại. Người ta thường nói tới thiền minh sát (vipassyanā meditation) mà ít nói tới thiền chỉ (samatha meditation). Kỳ thực thiền chỉ rất hay, nó giúp mình dừng lại, sự dừng lại và nhìn sâu sẽ cho mình có được tuệ giác tương tức, có được tuệ giác tương tức thì mình dừng lại được dễ dàng, không còn muốn chạy nữa. Chỉ khi nào dừng lại được ta mới có hạnh phúc. Trở về với giây phút hiện tại, mình nhận diện được những cái mà lâu nay mình đi tìm, nó vốn đã có sẵn đó. Đó chính là tuệ giác. Còn nếu mình chưa biết an trú, nghĩa là mình chưa dừng lại được thì đi đâu cũng vậy, cũng không an trú được, cũng không cảm thấy yên thân.

Đứng núi này mình nhìn sang núi nọ. Sống trong thời gian này mình mong ngóng về một thời gian khác để mình có thể là mình. Nhưng kỳ thực mình có thể là mình ngay trong giờ phút hiện tại nếu mình biết thực tập dừng lại. Muốn dừng lại phải có một chút tuệ giác, tuệ giác do sự dừng lại mà có và tuệ giác giúp cho sự dừng lại đó lớn lên. Chỉ (samatha) và quán (vipaśyanā) tuy là hai nhưng cũng là một. Chỉ là dừng lại, quán là nhìn sâu để có tuệ giác. Ban đầu nhờ chỉ mình dừng lại và mình có được một ít cái thấy – tuệ giác, rồi chính cái thấy – tuệ giác đó giúp mình thật sự dừng lại và chỉ khi nào thật sự dừng lại mình mới có hạnh phúc. Dừng lại, không tìm kiếm nữa mới có an trú, do đó mới có hạnh phúc.

Một vị mâu ni là một vị đã dừng lại, không còn tìm kiếm gì nữa, vì vậy cho nên vị đó có hạnh phúc.

Bốn viên sỏi nhiệm màu

 

Bên Tây phương tôi có sáng chế một pháp môn tu học cho người trẻ Tây phương gọi là thiền sỏi. Sỏi là những viên đá cuội nho nhỏ lượm dưới lòng suối. Mỗi thiếu nhi Pháp, Anh, Mỹ hay Đức được yêu cầu phải đi kiếm 4 hòn sỏi, 4 hòn đá cuội và may một cái túi bỏ 4 hòn sỏi đó vào trong. Mỗi khi đến Làng Mai hay đến một khóa tu thì đem 4 hòn sỏi đó theo để thực tập với nhau. Các em ngồi một vòng 10 hay 15 bé. Một em làm chủ sám hướng dẫn thiền sỏi cho những em kia. Những em nói tiếng Pháp ngồi một vòng, những em nói tiếng Anh ngồi một vòng và những em nói tiếng Đức ngồi một vòng. Luôn luôn tại Làng Mai có một nhóm thiếu nhi người Việt ngồi chung một vòng để tập nói tiếng Việt tại vì con nít mình bên đó nhiều em không biết nói tiếng Việt. Cha mẹ là người Việt nhưng bận quá không có thì giờ dạy cho con nói tiếng Việt. Tới Làng Mai nhiều em nói toàn tiếng Đức, tiếng Anh với nhau.

Các em được yêu cầu ra ngoài lượm bốn viên cuội, rửa cho sạch, bỏ vào trong một cái túi. Đến khi vô thực tập thiền sỏi thì ngồi yên thành một vòng tròn, lấy cái túi ra, dốc 4 hòn sỏi để sang bên tay trái. Khi một tiếng chuông được thỉnh lên, mọi người trở về với hơi thở. Mình dạy cho một em bé làm chủ sám hướng dẫn thiền sỏi. Người lớn không tham dự. Để cho thiếu nhi tự làm chủ sám lấy, tự hướng dẫn thiền tập với nhau. Khi em tri chung thỉnh chuông thì tất cả các em khác trở về với hơi thở, ngồi buông thư, thở vào tâm tỉnh lặng, thở ra miệng mỉm cười. Chuông thỉnh ba tiếng. Ba tiếng chuông cho ta cơ hội thực tập chín hơi thở vào và chín hơi thở ra. Sau khi nghe một tiếng chuông chúng ta thở vào cảm thấy khỏe, thở ra cảm thấy nhẹ ba lần, tức là ba lần thở vào và ba lần thở ra. Tiếng chuông thứ hai cũng giúp cho chúng ta có cơ hội thở vào khỏe thở ra nhẹ ba lần. Ba tiếng chuông như vậy cho chúng ta có cơ hội thở vào chín lần và thở ra chín lần. Tư thế ngồi buông thư, thong dong sẽ đem lại sự thư giãn, bình yên cho thân và tâm của mình.

 

Là hoa tươi mát

 

Sau đó mình lấy hai ngón tay, bốc một viên sỏi đưa lên nhìn và nhận diện tên của nó là bông hoa tươi mát. Viên sỏi này tượng trưng cho bông hoa, mình gọi tên nó và để nó lên lòng bàn tay trái, rồi để bàn tay trái lên lòng bàn tay mặt và mình thực tập:

Thở vào, tôi  thấy tôi là một bông hoa,
Thở ra, tôi cảm thấy tươi mát như một bông hoa.

Mình thở vào, thở ra như vậy ba lần.

Thở vào, tôi thấy tôi là một bông hoa,
Thở ra, tôi cảm thấy tươi mát như một bông hoa.

Thở ba lần như vậy. Tại vì mình sinh ra đích thực là một bông hoa. Bông hoa trong vườn hoa  gọi là nhân loại. Con người rất đẹp, không thua con chim, con nai. Con người đẹp lắm. Mình cứ nhìn một em bé là đủ thấy đẹp. Khuôn mặt giống như một bông hoa, hai con mắt là hai bông hoa, cái mũi cũng giống như một bông hoa, cái miệng cười tươi như một bông hoa, bàn tay cũng giống bông hoa, cả người cũng giống bông hoa, rất là đẹp! Mình sinh ra là một con người, mình thực là một bông hoa trong vườn hoa nhân loại.

Tại vì mình làm ăn sao đó bông hoa mình nó héo đi từ từ. Mình có những buồn khổ, sầu đau, giận hờn làm cho bông hoa mình héo. Nếu mình có cha mẹ thương yêu chăm sóc thì mình tiếp tục là một bông hoa cho tới năm 13, 14, 15, 16 tuổi. Mình trở thành một cậu thanh niên, một cô thiếu nữ rất là xinh, rất là tươi mát.

Năm tôi xuất gia tôi 16 tuổi tây, 17 tuổi ta. Tôi còn tươi mát như một bông hoa. Cũng may mắn là mình còn giữ lại cái hình của thời đó.  Đi vào cuộc đời, mình gặp những trở ngại, những khó khăn, phũ phàng, bầm dập nên mình mất đi tính tươi mát của mình.  Cái hoa của mình từ từ héo. Rất là tôi nghiệp !

Khi quý vị là hai vợ chồng mới cưới, quý vị phải ý thức mỗi người là một bông hoa. Mình có bổn phận phải chăm sóc bông hoa kia. Bông hoa kia có bổn phận phải chăm sóc bông hoa này. Nếu mình nói những lời thương yêu, nhẹ nhàng, hiểu biết, chấp nhận, tha thứ tức là mình tưới bông hoa kia. Nếu mình nói những lời cộc cằn, thô lỗ,  phũ phàng, mắng nhiếc tức là mình làm cho bông hoa kia khô héo. Bông hoa kia khô héo thì mình cũng sẽ khô héo tại vì hai bông hoa có liên hệ với nhau. Người kia khổ, người kia bực tức, hờn giận thì mình cũng lãnh đủ thôi. Khi mới cưới nhau, lúc ban đầu, mình là hai bông hoa rất đẹp. Bông hoa này phải chăm sóc cho bông hoa kia và phải học cho được nghệ thuật gọi là tưới hoa.

Ở Làng Mai ( Mai Thôn Đạo Tràng ở bên Pháp ) chúng tôi thực tập pháp môn tưới hoa. Chúng tôi nói những lời tưới tẩm hạt giống của hạnh phúc, của niềm tin nơi người kia. Chỉ cần tưới hoa như vậy chừng vài phút là người kia tươi lên được. Rất là hay !

Có một cặp vợ chồng sống ở Bordeaux, thành phố có rất nhíều rượu, rượu Bordeaux. Hôm đó ngày Phật đản, họ lái xe về Làng Mai dự lễ. Cặp vợ chồng này người Việt. Trong  khi tôi nói bài pháp thoại về Phật đản thì tôi thấy bà ta khóc từ đầu tới cuối buổi pháp thoại, không biết vì lý do gì ? Bài pháp thoại nói về sự giáng sinh của Đức Thế  Tôn là vui lắm chứ, tại sao phải khóc ? Sau buổi pháp thoại tôi có gặp ông chồng, tôi chỉ  có thì giờ để nói với ông ta một câu thôi: “ Này anh, cái bông của anh héo rồi đó. Anh làm sao cho nó tươi lại dùm tôi đi “. Nói một câu thôi. Anh ta  đã từng nghe thuyết pháp, đã nghe pháp môn tưới hoa rồi nhưng anh không  chịu thực tập, anh đày đọa cái hoa của anh, làm cho nó khô héo. Anh phải tưới hoa thôi. Lên chùa gặp thầy, thầy nhắc mình tu pháp môn tưới hoa. Sau khi anh cơm trưa với đại chúng rồi thì anh lái xe về nhà. Ngồi trên xe từ Làng Mai về nhà chừng một giờ đồng hồ anh đã thực tập tưới hoa. Tưới hoa dễ lắm. Mình thấy được những đức hạnh, những tài năng của người kia và mình khen ngợi: “ Em thiệt là giỏi. Một mình em quán xuyến hết mọi việc trong nhà, không những lo cho anh mà còn lo các con rất là hay. Anh có phuớc lắm mới có được em làm mẹ của các con”. Nói một câu như vậy thôi, đó là tưới hoa. Từ Làng Mai lái xe về Bordeaux chỉ có một giờ đồng hồ chứ mấy nhưng đâu cần phải tưới cả giờ. Tưới được chừng năm phút thì cái bông đã tươi lại rồi.

Người kia là một bông hoa. Mình phải có trách nhiệm với người kia. Mình phải chăm sóc, tưới tẩm thế nào để bông hoa kia tươi. Bông hoa kia héo thì trách nhiệm ở nơi mình. Người kia là vợ, là chồng, là con mình, là cha, là mẹ mình. Mình có thể làm cho cha mình, mẹ mình héo khô tại vì mình sống như thế nào đó.

Mình có thể tưới bông hoa kia nhưng mình cũng có thể tưới bông hoa của mình. Như hồi sáng tôi nói, mặt mình căng thẳng vì sự bực bội, giận hờn, nếu biết nhìn vào trong kiếng, mình mỉm cười một cáí thì tự nhiên có êm dịu, lắng dịu lại liền và mình tươi lên. Đó là tự tưới hoa cho mình.

Chúng ta làm ăn như thế nào mà bông hoa của chúng ta ngày càng héo và bông hoa kia cũng từ từ héo. Như vậy là lỗ vốn cho ông bà, là lỗ vốn cho thầy. Phải tính lại ! Sao mà lỗ vốn quá chừng ! Khi mới cưới nhau sao mà hạnh phúc, tươi mát như vậy, nhưng mà làm ăn làm sao mà bây giờ người nào cũng héo. Vì vậy phải thực tập tưới hoa.

Chị mình mấy hôm nay có vẻ sầu héo. Mình không biết lý do gì mà chị sầu héo như vậy ? Chị mình có tài cắm hoa rất đẹp. Chị đã học cách cắm hoa của Nhật Bản Ikebana. Bây giờ mình chưa hiểu được tại sao chị rầu như vậy nhưng mình tưới hoa trước. Mình nói : “ Chị ơi, lâu nay trong nhà không có bình hoa nào đẹp hết, không biết chị bận việc gì mà chị không cắm cho một bình hoa để trong nhà tươi sáng lên. Mỗi lần chị cắm một bình hoa thì trong nhà tươi sáng lên, rất là đẹp, đem niềm vui tới cho rất nhiều người. Chị ơi, tại sao chiều nay chị không cắm một bình hoa cho nhà mình vui lên đi ?” Mình không nói tại sao chị rầu quá, chị buồn quá, tại sao bông hoa của chị héo quá.?. Mình chỉ nói rằng chị có tài năng cắm hoa, tại sao chị không hiến tặng tài năng đó để cho gia đình có hạnh phúc. Chị nhăn mặt nói : ”Hoa với hòe gì, rầu thúi ruột đây nè”.

Nhưng mình nói xong câu đó, mình hết bổn phận rồi, mình tưới hoa rồi. Chị mình có hạt giống tài năng cắm hoa thì mình tưới hạt giống đó. Khi mình thương ai thì mình phải khen ngợi cái hay cái đẹp của người đó. Mình không phải chỉ chê mà thôi. Mình chê tức là mình tưới rác chứ không phải là tưới hoa. Tưới hoa thì hoa nở, tưới rác thì rác phình lên. Ai mà không có rác, nhưng ai cũng có hoa. Khi mình thương ai thì mình phải tưới cái hoa của người đó.

Tại vì mình than thở, mình khóc lóc nhiều nên hai mắt của mình mất sự tươi sáng. Có nhiều người trong chúng ta héo quá đi, cho tới bây gíờ cười không nổi, lâu ngày không biết cười tại vì giận dỗi, hờn lẫy, trách móc quá nhiều. Nụ cười ngày xưa rất tươi bây giờ đã mất tức là cái hoa đã quá héo rồi. Bây giờ ráng cười thì miệng méo sệt giống như mếu, không phải là nụ cười. Mình phải học tưới hoa của mình, phải học mỉm cười trở lại. Hai con mắt của mình ngày xưa rất trong, rất sáng. Hai con mắt mình là hai bông  hoa, hai hồ sen, toàn là sen đầu mùa rất tươi rất mát. Bây giờ mình khóc, hai mắt sưng húp lên. Nó không đẹp như ngày xưa nữa tại vì mình than khóc quá nhiều.

Thi sĩ Nguyễn Bính có làm một bài liên vận 100 câu trong đó có hai câu :

Em không khóc nữa không than nữa

Nguyễn Bính có một người chị nuôi tên Trúc. Tết đến tính sổ cuối năm thấy cái bông héo quá nên viết thơ cho chị nói sở dĩ em héo như vậy là vì em than em khóc nhiều quá. Bây giờ em làm bài thơ cuối năm này để than khóc một lần cuối. Sang năm mới hứa với chị, em nhất định không than khóc nữa. Nguyễn Bính viết như thế này:

Em không khóc nữa không than nữa
Đây một bài thơ hận cuối cùng

Chỉ khóc một lần chót nữa thôi.

Không than chắc hẳn hồn tươi lại
Không khóc tha hồ đôi mắt trong

Biết như vậy, không than thì hồn mình tươi lại. Không khóc thì con mắt mình trong sáng trở lại. Tôi xin đọc lại 4 câu thơ của Nguyễn Bính:

Em không khóc nữa không than nữa
Đây một bài thơ hận cuối cùng
Không than chắc hẳn hồn tươi lại

Không khóc tha hồ đôi mắt trong

Nhưng hứa với chị thì hứa như vậy, không chắc là Nguyễn Bính đã làm được. Có thể là năm mới vẫn tiếp tục than khóc và hai con mắt vẫn đục như thường, nụ cười cũng không thể nở ra được.

Phương pháp thực tập này là làm sao cho bông hoa tươi trở lại.

Thở vào tôi thấy tôi là một bông hoa
Thở ra tôi cảm thấy tươi mát.

Mình làm sao cho bông hoa mình sống dậy, cho chất hoa, chất tươi mát của mình được phục hồi. Đây là mục đích của bài tập thứ nhất : Là hoa tươi mát. Thở vào, thở ra là hoa tươi mát. Thở vào, biết mình vốn là một bông hoa. Thở ra phục hồi tính tươi mát của bông hoa. Bản chất hoa của mình gọi là hoa tính. Khi mình ngồi lắng dịu, thở vào mỉm cười là mình khôi phục hoa tính của mình.

Ngày xưa, có một lần Đức Thế Tôn đứng trước một hội chúng đông đảo hàng ngàn người. Ngài cầm lên một bông hoa và không nói gì hết. Đại chúng im phăng phắc, không biết ngài có ý gì. Tại sao Đức Thế Tôn không nói gì hết mà lại nâng lên một bông hoa. Hình ảnh rất đẹp. Hiện giờ có nhiều chùa thờ Đức Thích Ca đang cầm một bông hoa là niêm hoa vi tiếu, miệng hơi mỉm cười. Nếu mình tìm cách cắt nghĩa thì mình có thể nói như thế này, chắc cũng không sai ý Đức Thế Tôn là mấy :

Bản chất của chúng ta vốn là một bông hoa tươi mát. Chúng ta phải làm biểu hiện sự tươi mát đó ra để cúng dưòng chư Phật, cúng dường thế giới, cúng dường chúng sinh. Nếu than khóc thì chúng ta làm được gì cho muôn loài ? Một vị Bồ tát phải luôn luôn tươi mát. Đức Thích Ca nâng một cành hoa và miệng chúm chím cười.

Đó là ngài muốn nói rằng: “Bản chất, tự tính của chúng ta là một bông hoa. Phải phục hồi bông hoa đó.”. Nhưng mà đại chúng chưa hiểu, im phăng phắc, đang suy nghĩ, không biết Đức Thế Tôn muốn nói gì mà im lặng như vậy ?.

Trong đại chúng có một thầy, đó là thầy Ca Diếp. Thầy hiểu được ý của Đức Thế Tôn và thầy mỉm cười. Thầy Ca  Diếp đã mỉm cười để đáp lại nụ cười của Đức Thế Tôn. Thầy Ca Diếp đã trở thành một bông hoa khi đó. Bụt không nói gì hết. Thầy Ca Diếp cũng không nói gì hết. Nhưng hai người đều cho nhau thấy rằng mình là một bông hoa.

“Đây là một bông hoa !”. Thầy Ca Diếp trả lời : ”Bạch Đức Thế Tôn, con cũng là một bông hoa đây”, và thầy mỉm cười. Vì vậy Đức Thế Tôn nói: “Tôi có một kho tàng của tuệ giác đã trao lại cho thầy Ma ha Ca Diếp.”

Hôm nay tôi bắt chước ĐứcThế Tôn, tôi trao truyền lại cho quý vị một bông hoa. Quý vị làm sao về phục hồi lại bông hoa trong tự tâm, tự thân của mình, làm cho mình tươi mát trở lại. Mình nhìn như thế nào mà người ta thấy hai con mắt của mình có tình thương, có sự tha thứ, sự tươi mát. Mình mỉm cười như thế nào mà người ta thấy trong lòng mình có một đóa hoa. Mình nói những câu như thế nào mà người ta thấy rõ ràng lời nói đó xuất phát từ một bông hoa chứ không phải từ một cọng rác, tức là nó xuất phát từ tình thương chứ không phải từ sự bực bội. Mình phải phục hồi lại chất hoa, tính hoa trong người mình. Em bé có thể thực tập được. Để viên sỏi lên lòng bàn tay trái, để tay trái lên lòng bàn tay phải và em thực tập:

Thở vào, tôi vốn là một bông hoa, tôi ý thức rằng tôi là một bông hoa.
Con người đích thực là một bông hoa.
Thở ra, tôi cảm thấy tươi mát,
tôi phục hồi lại được sự tươi mát của tôi
( ba lần )

Bây giờ mình tươi lên được chưa ? Tươi lên được chút nào chưa ?

 

Là núi vững vàng

 

Bây mình làm giống hệt như hội Linh Sơn ngày xưa. Tôi giả làm Bụt Thích Ca còn quý vị giả làm ngài Ca Diếp. Mình làm thế nào để phục hồi được bông hoa trong người của mình. Sau  khi thực tập ba hơi thở là hoa tươi mát rồi, mình cầm viên sỏi thứ nhất đặt sang tay phải và cầm lên viên sỏi thứ hai. Viên sỏi thứ hai có tên là núi, là núi vững vàng. Khi đưa viên sỏi lên mình nói : đây là núi,  và đặt nó lên tay trái, đặt tay trái lên tay phải và thực tập:

Thở vào tôi biết tôi là một trái núi.
Thở ra tôi cảm thấy vững vàng ổn định

Là núi vững vàng! Tại sao? Tại vì trong chúng ta có một bông hoa, nhưng trong chúng ta cũng có một trái núi. Trái núi đó tượng trưng cho sự kiên trì, sự ổn định vững chãi của mình. Một con người không có kiên trì, ổn định, vững chãi, cứ thay đổi hoài, hôm nay thế này, ngày mai thế khác thì mình không thể tin tưởng vào người đó được.

Mình làm chủ một gia đình mà mình cứ xoay như chong chóng, mình không có ổn định thì làm sao mình làm chỗ nương tựa cho cả gia đình được. Mình là bà mẹ mà nếu mình không có sự ổn định vững chãi thì làm sao các con có thể nương vào mình được. Vì vậy mình phải chế tác sự vững chãi, ổn định, vững vàng cho mình.

Khi mình ngồi yên như thế này thì mình trở thành một trái núi rất vững vàng. Phải tập ngồi cho vững. Người ta có tới đẩy một cái, mình không ngã. Rất là vững! Thế ngồi kiết già hay bán già của Đức Thế Tôn rất vững chãi. Khi thân đã vững rồi thì tâm từ từ vững lại. Mình tu để chế tác chất liệu tươi mát của hoa rồi tiếp đó chế tác chất liệu vững chãi của núi. Trong mình có núi, mình phải làm cho núi trong mình càng ngày càng vững. Nếu mình không có sự ổn định (stability), sự vững chãi (solidity) đó thì mình không có hạnh phúc. Mà mình không có hạnh phúc thì những người nương tựa vào mình cũng lên xuống, cũng không có hạnh phúc. Mình là cha, là mẹ, mình phải có sự vững chãi, ổn định. Mình là anh, là chị, mình phải có sự vững chãi, ổn định. Mình là thầy, mình phải có sự ổn định vững chãi. Nếu mình cứ xoay như chong chóng thì ai có thể nương tựa vào mình được.

Khi mình có sư tươi mát của hoa, mình mới giúp cho người kia có sự tươi mát. Phục hồi sự tươi mát của mình, mình mới có thể tưới hoa cho người kia. Vì vậy trước hết mình phải tưới hoa cho mình. Mình có sự tươi mát rồi mình mới giúp cho người kia phục hồi sự tươi mát. Khi mình chưa có sự vững chãi ổn định thì mình không thể giúp người kia vững chãi, ổn định. Nếu không có vững chãi, ổn định thì không có hạnh phúc. Cho nên chúng ta cần bông hoa là chúng ta cũng cần ngọn núi. Xin đại chúng thực tập:

Thở vào tôi thấy tôi là ngọn núi
Thở ra tôi cảm thấy vững vàng. (Ba lần)

Đức Thế Tôn, thầy của chúng ta có một sự vững chãi rất lớn, một sự ổn định rất lớn. Trong Kinh có danh từ bất động. Bất động có nghĩa là vững chãi. Nếu không có tính bất động thì mình không thể nào làm chỗ nương tựa cho người được. Bất động có nghĩa là không lay chuyển, không nghiêng ngả, không bị ảnh hưởng. Mình có niềm tin, mình có trí tuệ, mình có lòng từ bi. Mình thấy con đường đang đi là một con đường rất sáng, rất đẹp. Mình đi từng bước vững chãi trên con đường đó. Mình có sự ổn định, bất động. Người ta có nói xấu, chê bai, nói lên nói xuống mình cũng vững như ngọn núi

Dù ai nói ngả nói nghiêng
Thì ta cũng vững như kiềng ba chân

Đức Thế Tôn có sự vững chãi và có một đức Phật tên là Phật Bất Động. Đức Phật Bất Động là giáo chủ một cõi nước tên là Diệu Hỷ (Akshobhya). Là đệ tử của Phật, mình phải chế tác chất liệu thứ hai là chất liệu vững chãi khi mình thực tập :

Thở vào tôi thấy tôi là một ngọn núi
Thở ra tôi cảm thấy vững chãi, vững vàng

 

Nước tĩnh lặng chiếu

 

Sau khi thực tập ba hơi thở rồi thì em bé đặt viên sỏi thứ hai sang tay phải. Em bé nhặt hòn sỏi thứ ba đưa lên nhìn. Hòn sỏi thứ ba này tên là nước tĩnh. Nước tĩnh là mặt nước yên tĩnh ( still water, l´eau tranquille ). Em đặt viên sỏi thứ ba vào lòng bàn tay trái và thực tập:

Thở vào, tôi thấy tôi là nước tĩnh, mặt nước yên tĩnh
Thở ra, tôi phản chiếu vạn sự vạn vật y hệt như là tự thân của chúng

Có khi nào quý vị thấy mặt nước hồ rất yên tĩnh không có gió chưa? Khi mặt nước hồ yên tĩnh như vậy, nhìn vào mặt hồ mình thấy mặt hồ phản chiếu trời xanh mây trắng, những cây dương liễu và ngọn núi rất rõ. Mình chĩa máy chụp hình xuống chụp trên mặt hồ. Khi có hình thì nó giống hệt như mình chụp ở trên tại vì mặt nước rất an tĩnh, không xáo động.

Tâm mình cũng vậy. Tâm của mình khi xáo động thì không phản chiếu được sự thật. Sự thật trở thành méo mó. Mình có những tri giác sai lầm về mình và về người thương của mình. Khi có tri giác sai lầm như vậy thì mình sinh ra giận hờn, ganh tị, tuyệt vọng, lo lắng bất an. Tâm của mình không yên tức là nước không tĩnh. Tâm mình ít yên lắm, nó xao động hoài. Mỗi ngày nghe một cái gì đó, thấy một cái gì đó, tâm mình xao động rất là dễ. Tâm xao động đó tạo ra cái giận, cái buồn, cái lo, cái sợ. Nước trong lòng mình  không có tĩnh. Mình phải học để làm tĩnh lặng lại mặt nước của hồ tâm. Khi mặt nước của hồ tâm tĩnh lặng thì mặt trăng rằm chiếu xuống rất rõ.

Bồ Tát Thanh Lương Nguyệt
Du ư tất cảnh không
Chúng sinh tâm cấu tịnh
Bồ Đề ảnh hiện trung

Tôi dịch ra tiếng Việt như thế này :

Bụt là vầng trăng mát
Đi ngang trời thái không
Hồ tâm chúng sanh lặng
Trăng hiện bóng trong ngần

Khi hồ tâm của mình tĩnh lặng thì mặt trăng của Phật, của trí tuệ hiện ra rõ ràng. Nếu hồ tâm của mình bị xáo động bởi tham lam, giận hờn, si mê thì nó không phản chiếu được sự thật. Mình có những vọng tưởng, những tri giác sai lầm đưa đến sự giận hờn, chán nản, lo lắng, sợ hãi. Cho nên mình phải tập như thế nào để cho tâm mình lặng xuống.

Những cái mình học hôm qua: ngồi cho yên, theo dõi hơi thở, buông thư, bước nhũng bước chân thảnh thơi, tất cả đều có mục đích làm cho hồ tâm lắng lại. Đức Như Lai dạy chúng ta 16 phương pháp thở. Trong đó có 4 hơi thở có mục đích làm cho thân lắng dịu lại, tâm lắng dịu lại : Thở vào thân lắng dịu, thở ra miệng mỉm cười. Thở vào tâm lắng dịu, thở ra miệng mỉm cười. Thân của mình không lắng dịu thì nó có những căng thẳng đau nhức.

Hầu hết các chứng bệnh đều sinh ra từ sự nhức nhối trong thân và trong tâm. Khi mình thực tập theo Kinh An Ban thủ Ý tức Kinh Quán Niệm Hơi Thở thì mình sẽ làm lắng dịu những căng thẳng, đau nhức trong thân và từ từ mình có thể trị được những chúng bệnh bắt đầu phát sinh trong thân. Mỗi ngày chúng ta phải tập buông thư trong thế ngồi. Chúng ta phải thực tập thở để làm lắng dịu những căng thẳng của thân. Chúng ta phải biết thực tập thiền buông thư trong tư thế nằm. Hôm nay các thầy, các sư cô sẽ hướng dẫn quý vị thực tập thiền buông thư. Mình buông thư hết tất cả những cơ bắp trong hình hài của mình. Mình buông xuôi hết để cho cơ thể có cơ hội nghỉ ngơi. Khi cơ thể mình có cơ hội buông thư và nghỉ ngơi thì bắt đầu có khả năng trị liệu được những chứng bệnh nan y lâu ngày, những chứng bệnh gọi là kéo dài kinh niên (chronic) của mình.

Có một bác sĩ Mỹ tên Benson nghiên cứu trên 20 năm và báo cáo rằng: Khi thân lắng dịu xuống thì nó có khả năng trị liệu những chứng bệnh nan y, kinh niên mà các bác sĩ đã chịu thua. Ngày hôm nay sư cô Chân Không hay thầy Pháp Niệm có thể hướng dẫn một buổi thiền nằm. Chúng ta sẽ nằm ngửa, học cách buông thư để cho tất cả cơ bắp trên người, từ cơ bắp trên mặt, trên vai cho đến trong tứ chi thân thể được buông thư. Chúng ta để cơ thể buông thư như vậy trong vòng 15 hoặc 20 phút. Sau đó quý vị có thể về nhà và mỗi lần thực tập buông thư 20 phút. Quý vị sẽ tránh khỏi rất nhiều chứng bệnh trong đó có chứng bệnh rất nguy hiểm như tai biến mạch máu não, tai biến tim mạch.

Chúng ta bận rộn quá. Chúng ta có nhiều căng thẳng nhức nhối quá. Chúng ta ham làm việc nhiều quá. Chính các thầy cũng vậy, các thầy cũng có quá nhiều công việc. Các sư cô, các sư bà cũng làm việc nhiều quá và các thầy cũng có chứng tai biến tim mạch. Chúng ta phải nghe lời Đức Thế Tôn. Chúng ta phải áp dụng phương pháp làm lắng dịu cơ thể, làm thư giãn thân tâm. Trong Kinh An Ban Thủ Ý có tới 4 bài tập trong đó Đức Thế Tôn dạy chúng ta phương pháp thở để làm lắng dịu thân tâm của mình. ĐứcThế Tôn có rất nhiều từ bi. Ngài biết hết những khó khăn của mình nên ngài đã dạy các phương pháp đó, chúng ta phải học mới được.

Khóa tu này tuy ngắn nhưng mình cũng học được rất nhiều điều. Mình học đi làm sao mà mỗi bước chân đem lại sự vững chãi, thảnh thơi, không hấp tấp. Mình tập thở, tập ăn cơm trong chánh niệm, tập thiền nằm buông thư. Nếu quý vị có làm được mỗi ngày một lần thì quý vị có thể thoát khỏi hiểm nguy của những tai biến có thể xẩy ra cho tim, mạch mình.

Nước tĩnh lặng chiếu là một bài tập giúp mình làm lắng dịu cả thân, cả tâm. Hồ tâm của mình tĩnh lặng lại. Sự lắng dịu, tĩnh lặng đó giúp mình có đủ sáng suốt để mình đừng có cái nhìn, cái thấy sai lầm vốn là nguồn gốc của biết bao khổ đau, mâu thuẫn. Đó là bàì tập thứ ba : Nước tĩnh lặng chiếu.

Thở vào, tôi thấy tôi là hồ nước tĩnh
Thở ra, tôi phản chiếu được vạn pháp mà không làm méo mó hình dung của vạn pháp.

Hồi sáng chúng ta đã đi thiền hành với nhau. Tất cả chúng ta đều im lặng trong khi đi. Tôi bước từng bước chân rất thanh thản, thong dong nhẹ nhàng như ngày xưa Đức Thế Tôn đã bước. Mỗi bước chân như vậy đưa lại sự lắng dịu, bình an. Tôi không hấp tấp, tôi không có việc gì phải làm. Đi như đi chơi trong Tịnh Độ của Đức A Di Đà. Mỗi bước chân đem lại niềm vui, an lạc và hạnh phúc.

Đã 42 năm rồi tôi mới về Đà Nẵng. Bây giờ được ngồi với chư vị Phật tử, các thầy, các sư cô, chư vị tôn đức, ngồi trong sự an tĩnh như vầy có hạnh phúc nhiều lắm!

Mình được đi thiền hành chung, đi từng bước thảnh thơi an lạc, buông thư hết, không có lo lắng, không sầu khổ. Mình đi 10 bước thì làm sao để 10 bước đó đi vào trong Tịnh Độ hết, bước nào cũng có an lạc, thảnh thơi. Lỡ có một bước có lo lắng sầu khổ thì mình nói: “ Thôi buông bỏ đi, buông bỏ lo lắng sầu khổ, bước vô Tịnh Độ trở lại “. Thiền hành là một phương pháp rất hay, rất dễ để buông bỏ sự lo lắng căng thẳng.

Khi mình  lắng dịu, hồ tâm của mình tĩnh lặng thì mình thấy được sự thật nhiều hơn, sâu hơn. Mình nghe được sự thật nhiều hơn, sâu hơn, nhờ vậy mình phản ứng, tiếp xử đúng hơn, hiện tại tri giác của mình ít sai lầm hơn, nên mình không tạo ra khổ đau cho mình và cho người thương của mình. Bài tập thứ ba rất quan trọng : Nước tĩnh lặng chiếu (water reflecting).

Không gian thênh thang

 

Mình cầm lên viên sỏi cuối cùng. Tên nó là không gian thênh thang (space). Không gian làm cho mình không cảm thấy tù túng. Nếu mình ở trong một căn phòng có quá nhiều đồ đạc thì tù túng lắm.

Tôi kể chuyện này cho quí vị nghe: Có những đồng bào vượt biên tị nạn ở Âu châu, Mỹ châu. Những năm đầu họ chưa có tiền, chưa có công ăn việc làm. Họ có rất ít tiền. Mỗi thành phố ở Âu châu có những chợ gọi là Chợ Rệp bán rất rẻ, có cái bán một hay hai đồng thôi.

Tuy đồng bào tị nạn bên đó rất ít tiền nhưng thấy bán quá rẻ thành ra tiếc, cứ mua. Dù mình không cần mà cứ mua, tại vì rẻ giống như cho. Ham mua, đó là tập khí của ông bà truyền lại cho mình. Chợ Rệp thành phố nào cũng có, bán rẻ như là vất đi vậy. Người mình ham, mua về. Chừng mấy tháng thì không còn chỗ đi nữa, rất vướng. Không có không gian trong nhà để sống, đi ra vấp, vô cũng vấp, tại mình ham. Cuối cùng giác ngộ, thấy các đồ này không có ích lợi gì hết thì bắt đầu đem cho. Càng cho chừng nào, càng có không gian chừng đó, càng hạnh phúc chừng đó.

Trong lòng mình cũng vậy, nếu không có không gian thì mình không có hạnh phúc. Không gian là tự do. Khi mình thương ai, mình muốn tặng cho người ấy những món quà quí giá. Nhưng món quà quí nhất mình tặng cho người yêu của mình là không gian. Nếu người kia cảm thấy tù túng, chật vật, thì tình thương của mình thành ra ngục tù. Tôi thương anh đó nhưng tôi nhốt anh vào trong tình thương của tôi nên anh cựa quậy không nổi, anh không có không gian để cựa quậy. Tình thương đó gọi là tình thương chiếm hữu. Mình thương con như vậy đó nên con mình cảm thấy rất tù túng như trong một nhà tù. Tình thương trở thành một nhà tù. Đó là tình thương chiếm hữu. Mình bắt con mình phải làm, phải nói, phải hành xử giống hệt cách của mình muốn. Con mình hoàn toàn không có chút tự do nào hết. Mình thương vợ mình theo cách chiếm hữu, muốn vợ phải nghe theo ý kiến của mình, phải nói như cách mình nói, phải làm theo cách mình làm, nếu không mình không thương. Đó là thương có điều kiện, thương theo kiểu chiếm hữu, độc tài. Trong chúng ta có những ông chồng, ông cha, bà mẹ, những bà vợ như vậy. Mình không cho người thương của mình đầy đủ không gian, rất là tù túng. Bây giờ mình phải xét lại. Mình thương ai mình phải cho người đó đủ không gian để người đó cảm thấy thoải mái.

Quý vị tưởng tượng cắm hoa mà mình lấy một nắm 30, 40 cái bông nhét vào một cái bình. Hoa nghẹt thở! Mỗi bông hoa cần một khoảng không gian thì mới tỏa chiếu được cái đẹp của bông hoa. Theo nghệ thuật cắm hoa, mình đâu cần nhiều bông. Mình chỉ cần một, hai, hay ba bông nhưng mỗi bông phải có không gian chung quanh để bông hoa tỏa chiếu cái rạng rỡ của nó.

Con người là một bông hoa. Nếu bông hoa người mà không có không gian thì cũng bị nghẹt thở. Mình thương ai thì mình phải cho người đó đủ không gian để người đó cựa quậy. Đừng bắt ép người đó quá. Đừng biến tình thương của mình thành một ngục tù, dù là ngục tù của tình yêu. Đó không phải là tình thương.

Trong đạo Phật, khi mà thương yêu thì mình phải hiểu, mình phải hiểu những nhu yếu, những khó khăn, những khổ đau của người kia. Mình không bắt ép, thúc giục. Mình phải để cho người kia có đủ không gian và thời gian để chuyển hóa, để thay đổi.

Đối với đệ tử của mình cũng vậy. Đệ tử của mình có thể có những khó khăn, những buồn khổ, lo lắng. Mình phải từ từ để cho đệ tử mình có thời gian để chuyển hóa, ôm ấp. Bắt phải sửa liền, phải làm theo lời mình liền ngày hôm nay, nếu không mình không chấp nhận là đệ tử mình, như vậy không được!

Đối với con mình cũng vậy. Con mình có những khó khăn, những lo lắng. Mình phải hiểu được cái đó. Mình phải cho con mình thời giờ và không gian để chỉnh đốn lại. Đó gọi là sự bao dung. Nếu trong trái tim mình không có không gian thì mình ngột ngạt. Trong khi đó mình là người tu, mình quy y Phật, Pháp, Tăng mà Phật, Pháp, Tăng là một không gian rất là lớn. Mình đưa Tam Bảo vào trong lòng thì mình có rất nhiều không gian. Mình không đi tìm những cái nhỏ bé. Mình đi tìm cái gì rất là lớn. Mình có chí hướng rất lớn, chí hướng của Đức Thế Tôn. Mình có một con đường rộng rãi, thênh thang, đó là con đường của Chánh Pháp. Mình có một gia đình tâm linh rất lớn, có các thầy, các sư cô, các đạo hữu bốn phương, đó là Tăng. Khi mình quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng thì mình có không gian rất lớn, thành ra những chuyện vụn vặt mình buông bỏ được hết. Tự nhiên trong trái tim của mình có không gian bao la.

Mình cứ tưởng tượng vầng trăng trên trời. Chung quanh nó có biết bao là không gian, cho nên vầng trăng đẹp như vậy. Tưởng tượng trên trời có mười ngàn mặt trăng thì đâu còn đẹp nữa. Chỉ có một mặt trăng mà chung quanh có biết bao là không gian cho nên bài kệ nói:

Bụt là vầng trăng mát
Đi ngang trời thái không

Thái không là không gian vô cùng vĩ đại. Cũng như con người mình là một bông hoa, có không gian chung quanh mình mới tỏa chiếu được. Cho nên thương ai mình phải hiến tặng cho người đó không gian. “ Em ơi, tình thương của anh cho em có làm ngột ngạt không ? “. Phải hỏi một câu như vậy. Ông về hỏi bà như vậy. “ Anh ơi, tình của em dành cho anh có làm anh ngột ngạt không ?”.” Con ơi, tình thương của ba dành cho con có làm cho con ngột ngạt không ?”.

Đó là vấn đề không gian, rất quan trọng cho hạnh phúc của mình. Mình đi xuất gia là tại mình đói không gian. Mình muốn có không gian thật thênh thang, bát ngát cho nên mình đi xuất gia. Chúng ta cũng vậy, người nào cũng cần không gian để sống tự do, tự do trong giáo pháp, trong luật nghi của Phật. Càng thực tập giới luật chừng nào thì không gian của ta càng được bảo đảm, càng thênh thang. Rất là hay !

Một bát cơm ngàn nhà
Thân đi muôn dặm xa

Đó là hai câu thơ tán dương cái không gian bao la của Đức Thế Tôn. Ngài chỉ có một bình bát thôi. Ngài có thể ăn cơm của bất cứ gia đình nào. Ngài đi khất thực, ngài không bị hệ lụy, không bị điều kiện hóa. Ngài không kẹt vào một cái gì hết. Cái tự do của ngài rất lớn gọi là đại tự tại. Không có tự do thì không có hạnh phúc. Cho nên phải có không gian mới được. Hòn sỏi thứ tư tượng trưng cho không gian.

Thở vào tôi thấy tôi là không gian
Thở ra tôi cảm thấy thênh thang

Xin mời đại chúng cùng thực tập: Không gian thênh thang

(Chân An Tịnh & Chân Giác Lưu phiên tả và biên tập)

Ngỡ bây giờ là bao giờ

Thầy bình thơ

Tiếp xúc với cội nguồn

Chúng ta rất may mắn được ngồi với nhau như một gia đình tâm linh trong tình huynh đệ ngay giờ phút cuối năm này. Tết là một dịp để chúng ta kết nối lại với tổ tiên. Cây có cội, sông có nguồn và con người thì có tổ tiên. Trong buổi thiền tọa hôm nay chúng ta đã kết nối được với tổ tiên. Chúng ta biết tổ tiên đang có mặt trong từng tế bào cơ thể. Một người bị mất gốc, bị cắt đứt liên hệ với tổ tiên thì không thể là một người có hạnh phúc. Cũng như cây không có gốc rễ thì cây không thể sống, nếu chúng ta không tìm về với gốc rễ thì chúng ta sống không hạnh phúc được. Tết là một dịp để chúng ta tìm về nguồn và tiếp cận được với gốc rễ tâm linh và huyết thống của mình.

Thắp hương trên bàn thờ tổ tiên không phải là một hành động mê tín

Ở các nước Á châu cũng như ở Tây phương, người ta nghĩ có hai cõi: Một cõi gọi là cõi âm, là nơi những người đã chết đang sống bên kia (the Nether World) và một cõi gọi là cõi dương, là nơi chúng ta đang sống bên này. Đây là một tín ngưỡng có tính cách phổ quát trên thế giới. Hầu hết chúng ta đều nghĩ có một cõi mà trong đó chúng ta đang sống, sau khi chết chúng ta đi sang cõi kia gọi là cõi âm. Và chúng ta tìm đủ mọi cách để thiết lập sự liên lạc giữa cõi dương và cõi âm.

Người Á châu gọi cõi âm là cửu tuyền hay chín suối (the World of Nine Sources). Người ta cũng gọi nơi đó là suối vàng, và chúng ta thao thức muốn thiết lập liên hệ với cõi đó để có thể nói chuyện với tổ tiên, với ông bà, cha mẹ đã khuất.

Ở Việt Nam, chúng ta có phong tục thờ cúng tổ tiên. Mỗi nhà, dù nghèo đến đâu đi nữa thì cũng có một bàn thờ để thờ ông bà. Trên bàn thờ có đặt một lư hương, và có thể có hình ảnh của người đã khuất bóng như ông bà nội, ông bà ngoại, người đại diện cho cõi âm. Từ mấy ngàn năm nay chúng ta thực tập tiếp xúc với cõi đó bằng cách mỗi ngày chúng ta tới trước bàn thờ tổ tiên, dâng hương và khấn nguyện. Công việc này mất khoảng một hay hai phút. Trong giờ phút đó, chúng ta có cơ hội tưởng nhớ và thiết lập liên hệ giữa chúng ta với ông bà tổ tiên ở cõi bên kia.

Có lần tôi thuyết trình ở Học Viện Chính Trị Hồ Chí Minh, trong số người tham dự có rất nhiều nhà khoa học và lý thuyết gia Marxist. Tôi nói rằng: Hành động tới trước bàn thờ đốt một cây hương, tiếp xúc với tổ tiên không phải là một hành động mê tín mà là một hành động rất khoa học. Trong khi chúng ta lau bụi trên bàn thờ tổ tiên, đốt hương và cắm vào bát hương thì lòng của chúng ta hướng về tổ tiên, chúng ta làm vững mạnh sự liên hệ của mình với tổ tiên. Sức khỏe của con người, nhất là sức khỏe tinh thần tùy thuộc ở chỗ ta có gốc rễ hay không. Con người không có gốc rễ là một con người không lành mạnh. Vì vậy mỗi ngày ta để một hay hai phút tiếp xúc với tổ tiên là để củng cố và làm vững chãi lại sự liên hệ giữa ta và tổ tiên. Đó là một hành động rất khoa học giúp ta giữ vững được sức khỏe tinh thần. Vì vậy các ngài đừng cho đó là một hành động mê tín.

Đốt vàng mã không phải là một hành động mê tín

Một nhà khoa học phát biểu rằng chuyện đốt vàng mã quả thật là mê tín! Tôi nói không phải như vậy! Có một tâm tình nào đó nằm dưới hành động đốt vàng mã, tiền bạc, nhà cửa, xe hơi, máy tính để những người bên cõi âm có thể sử dụng. Bề ngoài trông như mê tín nhưng bên trong chứa đựng một tâm tình rất đẹp. Tại sao người ta làm như vậy? Vì người ta tưởng nhớ, thương tiếc những người thương đã qua đời. Đó là phương cách để biểu hiện những tâm tình rất tốt đẹp như sự hiếu thảo, sự thương nhớ. Những đức tánh đó rất quí, nếu để mất đi thì con người không còn văn minh nữa và đau khổ rất nhiều. Vì vậy hành động bề ngoài trông như mê tín dị đoan như đốt vàng mã, đốt tiền giấy đó chất chứa một cái gì rất cao đẹp của truyền thống. Đó là sự tưởng nhớ tổ tiên, cội nguồn.

Vì vậy, trong khi chưa tìm ra được phương pháp khác mà quí vị lại bắt người ta bỏ phương pháp đốt vàng mã thì đồng thời quí vị cũng làm cho người ta bỏ đi những cái đẹp trong tâm hồn của họ.

Tìm những phương thức để thay thế

Năm 1962 tôi viết đoản văn “Bông hồng cài áo”. Những sinh viên của các trường đại học Sài Gòn đã tổ chức lễ “Bông hồng cài áo” đầu tiên trong lịch sử Việt Nam. Đó là một hành động rất đẹp! Chúng ta tổ chức một buổi lễ rồi mời bố mẹ tới để tỏ bày lòng hiếu thảo của mình. Mỗi người sẽ được cài lên hai bông hoa, nếu bố mẹ còn sống thì mình được cài hai bông hoa màu hồng, nếu một trong hai người đã qua đời thì mình được cài một bông màu hồng và một bông màu trắng, nếu hai người đều mất rồi thì mình được cài hai bông màu trắng. “Bông hồng cài áo” cũng là một nghi lễ nhưng không có vẻ mê tín. Từ năm 1962 đến nay cũng đã nửa thế kỷ rồi, lễ “Bông hồng cài áo” đã thay thế được một phần nào cho tục đốt vàng mã.

Tôi nói với các nhà khoa học và các lý thuyết gia Marxist tại Học Viện Chính trị Hồ Chí Minh: “Chừng nào quí vị chưa tìm ra được những phương thức mới để nuôi dưỡng những tình cảm đẹp đẽ đó thì quí vị đừng nên bài bác những cái mà dân chúng đang làm”. Và các vị đã thấy được điều này. Trước đó các quan chức rất sợ đốt nhang, sợ người ta thấy mình đang khấn vái trước bàn thờ. Nhưng sau buổi gặp gỡ đó thì các nhà chính trị ở Việt Nam bắt đầu công khai thờ cúng tổ tiên và thắp hương trước quần chúng. Điều đó rất hay! Khi dự hội đền Hùng, Chủ tịch nước và Thủ tướng Chính phủ đều đứng ra thắp hương một cách thoải mái mà không sợ người ta cho là mê tín dị đoan. Đó là một trong những đóng góp của chuyến về thăm Việt Nam năm 2005 của thầy và tăng đoàn Làng Mai.

Hai cõi chỉ là một

Tại Làng Mai, chúng ta đi sâu vào giáo lý đạo Bụt. Chúng ta đã khám phá ra rằng, cõi âm và cõi dương thật ra chỉ là một. Có một dòng sông, nhưng không có sự chia cách. Nếu biết cách ta có thể tiếp xúc với người thương, cha mẹ, tổ tiên ngay trong giây phút này mà không cần phải đi qua cõi kia. Khoa học cũng đi trên con đường đó. Khoa học cũng tìm cách để nối lại những hố ngăn cách. Ngày xưa người ta tưởng vật chất và năng lượng là hai cái khác nhau, vật chất không phải là năng lượng, năng lượng không phải là vật chất. Nhưng bây giờ khoa vật lý học đã tìm ra sự thật, đã nối kết được và nói rằng: Vật chất và năng lượng không phải là hai cái tách rời nhau ra mà có. Năng lượng có thể trở thành vật chất và vật chất có thể trở thành năng lượng. Đó là luật bảo tồn năng lượng của nhiệt động học. Như vậy là không còn ranh giới giữa năng lượng và vật chất. Khoa học đã có cái nhìn bất nhị (non-dualistic) giữa vật chất và năng lượng.

Khoa học cũng đã khám phá ra rằng giữa từ (magnétisme) và điện (électricité) cũng không có ranh giới. Từ chính là điện và điện chính là từ. Hai cái là hai mặt của cùng một thực tại. Có một dòng sông, nhưng không có ranh giới giữa bên này và bên kia. Âm thanh và không khí cũng không phải là hai cái khác nhau. Khi những phân tử của không khí rung động thì tạo nên âm thanh, vì vậy âm thanh và không khí là một. Sức nóng và vật chất cũng vậy, những phân tử của vật chất di động mạnh tạo thành sức nóng. Khi chúng ta nấu nước trong microwave thì những phân tử nước di động rất nhanh tạo ra sức nóng. Vì vậy sức nóng và vật chất là một.

Khoa học đang đi trên con đường thống nhất và lấy ra rất nhiều ranh giới giữa cái này và cái kia. Xưa nay từ mấy ngàn năm chúng ta cứ tưởng trời và đất là hai thực tại khác nhau. Ta tưởng tượng trên trời có một triều đình, triều đình đó lo chuyện trên trời nhưng đồng thời cũng lo chuyện dưới đất. Thiên (trời) và địa (đất) khác nhau. Nhưng khi tìm ra được luật “hấp dẫn phổ biến” (gravitation universelle) thì chúng ta biết rằng cả trời và đất đều bị luật hấp dẫn phổ biến cai quản. Chúng ta tìm ra sự thật là trời ở ngay dưới đất và đất ở ngay trong trời. Trời là một phần của đất và đất là một phần của trời. Hãng Air France có câu quảng cáo rất hay, không biết do thi sĩ nào đã làm ra: Faire du ciel le plus bel endroit de la terre (Làm cho trời trở thành một nơi đẹp nhất của đất). Như vậy đất và trời không phải là hai, đất và trời là một, không có ranh giới giữa đất và trời.

Nếu học Phật và đi sâu vào thì chúng ta thấy không có ranh giới giữa cõi âm và cõi dương. Nhìn kỹ cõi dương ta thấy cõi âm nằm ngay trong đó, và ta có thể tiếp xúc, liên hệ, nói chuyện được với những người ở cõi âm.

Có bao giờ quí vị đã nhìn kỹ một đám mây chưa? Đám mây có thể là màu vàng, màu hồng, màu trắng hay màu đen. Một lúc nào đó đám mây biến thành cơn mưa và chúng ta nói rằng đám mây chết. Ta nói đám mây chết vì chúng ta không còn thấy đám mây trên trời nữa. Nhưng đám mây thật sự không bao giờ chết. Đám mây chỉ trở thành tuyết hay thành mưa mà thôi. Đám mây đi luân hồi. Nhìn cho kỹ chúng ta có thể nói chuyện với đám mây: “Đám mây ơi, ta biết nhà ngươi sẽ không chết! Nhà ngươi sẽ trở thành tuyết, thành mưa, thành nước đá, nhưng nhà ngươi không bao giờ có thể chết được. Ngày mai nếu nhà ngươi không có mặt trên trời thì ta cũng sẽ không than khóc vì ta biết nhà ngươi không bao giờ chết, và ta có thể tìm ngươi trong hình thức mới là tuyết, là mưa hay là dòng sông”. Đó là sự quán chiếu.

Các nhà khoa học cũng biết như vậy. Họ đã tìm ra luật bất sinh bất diệt của vật chất và năng lượng. Luật thứ nhất của nhiệt động học nói rằng chúng ta không thể nào sáng chế ra hay tiêu diệt được năng lượng và vật chất. Vật chất có thể trở thành vật chất khác, vật chất cũng có thể trở thành năng lượng. Năng lượng có thể trở thành năng lượng khác và năng lượng có thể trở thành vật chất nhưng bản chất của năng lượng và vật chất là không sinh cũng không diệt. Đó là điều chúng ta đọc trong Tâm Kinh Bát Nhã: Tự tánh của các pháp là không sinh không diệt, không thêm không bớt. Điều này rất khoa học!

Cầu cơ, lên đồng

Ở Việt Nam, vì chúng ta thương tiếc những người đã khuất nên ta tìm đủ mọi cách để liên lạc và nói chuyện với những người đã khuất. Chúng ta dùng nhiều phương pháp, trong đó có phương pháp cầu cơ và phương pháp lên đồng.

Trong truyền thống lên đồng có nhiều cái hay và có nhiều tính chất nghệ thuật. Lên đồng, tiếng Anh là going into trance, đã có cả ngàn năm ở Việt Nam. Chúng ta muốn liên hệ với bà mẹ núi rừng. Ở Việt Nam người ta tin có một Đức Mẹ, Đức Mẹ này không phải là mẹ của chúa Jésus. Đức Mẹ này là mẹ của chúng ta từ trên rừng gọi là Mẹ Thượng Ngàn hay Mẫu Thượng Ngàn (la mere savrée des forêts). Chúng ta cũng có một bà mẹ khác ở dưới nước. Không có rừng thì chúng ta không sống được mà không có nước chúng ta cũng không sống được. Vì vậy nước là một bà mẹ gọi là bà Mẹ Thoải hay Mẫu Thoải. Thoải là thủy, tức là nước. Bà mẹ rừng khi hiện ra thì luôn mặc áo màu xanh, còn bà mẹ nước thì mặc áo trắng. Ở Việt Nam có nhiều đền chùa thờ hai bà mẹ đó: Mẫu Thượng Ngàn và Mẫu Thoải. Nhiều khi chúng ta cầu mẹ về dạy cho ta phải sống như thế nào để có an lạc, hạnh phúc trong gia đình và trong xã hội. Vì vậy chúng ta có những cậu đồng và những cô đồng.

Người lên đồng phải ăn chay nằm đất nhiều ngày, tắm gội sạch sẽ cho thật tinh khiết để Mẫu Thượng Ngàn hay Mẫu Thoải nhập vào. Mẫu có thể ca hát, nhảy múa, ban ra những lời khuyên nhủ cho chúng ta. Chúng ta rất khao khát được nghe những lời khuyên nhủ đó. Những người khuất mặt có thể trở về để dạy cho chúng ta.

Sư cô Chân Không kể chuyện là một hôm trong gia đình tổ chức cầu cơ, cầu bố của sư cô về để nói chuyện với những thành phần trong gia đình. Sư cô hỏi bố:

– Không biết ba cất giấy khai sinh của con ở đâu mà con tìm hoài không thấy?

Bố sư cô trả lời và sư cô đi tìm được giấy khai sinh đó.

Dân Việt Nam chúng ta có khuynh hướng muốn tiếp xúc với những người thương đã mất để nói chuyện. Người tới dự buổi hầu đồng phải tắm gội sạch sẽ, mặc quần áo rất đẹp, ngồi im lặng và bắt đầu nghe nhạc. Những bài chầu văn làm cho mọi người buông bỏ hết những vướng bận của đời sống hàng ngày để tập trung tư tưởng vào thế giới huyền bí. Mọi người đều lâng lâng, và trong khung cảnh đó năng lượng tập thể làm cho thần linh nhập vào con người của cậu đồng hay cô đồng và người đó sẽ đứng dậy múa, hát hay ban bố những đạo từ giúp cho ta sống như thế nào để có hài hòa trong gia đình và trong xã hội. Lên đồng, tuy rằng có mê tín nhưng có đạo đức, cũng có những cái đẹp, những cái hay trong đó. Vì vậy quí vị đừng vội lên án những phương thức lên đồng cầu cơ.

Bói Kiều ở Làng Mai

Hôm nay chúng ta nói về những kỷ niệm và hạnh phúc. Ở Làng Mai trong ba ngày Tết chúng ta có bói Kiều. Cụ Nguyễn Du, tuy không lên đồng, không nhập vào người nhưng cụ nhập vào những quẻ. Chúng ta sẽ hỏi cụ về tương lai, về hiện tại của chúng ta. Nếu ở lại Làng được ngày mồng Một, mồng Hai, mồng Ba thì quí vị có khả năng được bói một quẻ.

Còn nhiều nợ lắm sao đà thác cho

Hồi đó Thúy Kiều được về ở với Thúc Sinh. Thúc Sinh là con quan và đã có vợ. Nhưng vì mê Thúy Kiều quá nên Thúc Sinh đem hết tiền mua Thúy Kiều về từ chốn thanh lâu để hai người được sống chung. Họ sống với nhau được nửa năm rất hạnh phúc. Ban đầu ông bố của Thúc Sinh không đồng ý, nhưng sau thấy Thúy Kiều nết na dễ thương nên ông cũng chấp nhận và cuối cùng thì Thúy Kiều đã chinh phục được trái tim của ông. Hai người sống như vậy và biết rằng mình không thể nào giữ được bí mật hoài, một ngày nào đó bà vợ cả sẽ biết nên Thúy Kiều to nhỏ với Thúc Sinh:

– Anh về nói sự thật cho chị biết đi, nếu không thì sẽ không yên đâu! Em bằng lòng làm vợ lẽ.

Thúc Sinh nghe lời Thúy Kiều đi về nhà. Trong khi đó thì bà vợ cả đã biết, bà tìm cách bắt cóc Kiều về để làm tình làm tội. Bà sai hai tên du côn tới chỗ Thúy Kiều ở, đi rất mau bằng đường thủy. Tới nơi ban đêm, chúng đốt nhà và bắt cóc Kiều bỏ lên thuyền chở về, rồi lấy một tử thi bên sông liệng vào đám cháy để gây sự nghi ngờ là Kiều đã bị chết cháy. Khi người nhà dập tắt lửa và đi tìm thì thấy một thân xác bị cháy đen. Mọi người đều tin rằng Kiều đã chết, trong khi đó thì Kiều đang còn sống. Thúc Sinh đi về thăm vợ cả và không ngờ rằng người yêu của mình đã chết. Thúc Sinh về nhà thấy vợ im lặng không nói gì cả thì nghĩ là mình không nên nói sự thật cho vợ biết. Vậy nên Thúc Sinh không nghe lời Kiều khuyên. Khi Thúc Sinh quay trở lại thì thấy Kiều không còn nữa, người ta đã làm bàn thờ cho Thúy Kiều, Kiều đã đi sang thế giới bên kia. Nỗi đau của Thúc Sinh như thế nào, chúng ta cũng có thể tưởng tượng được. Hai người mới ở với nhau được nửa năm. Sau này với Từ Hải, Thúy Kiều cũng chỉ ở được nửa năm mà thôi. Thúy Kiều cũng có những ngày tháng hạnh phúc chứ không phải không. Thúy Kiều có được nửa năm với Thúc Sinh, người thật sự thương Kiều và Thúy Kiều cũng có được nửa năm với Từ Hải là người đàn ông thứ hai đã thương Kiều thật sự.

Thúc sinh về tới nơi nghe Thúy Kiều đã chết thì đau xót quá chừng. Thúy Kiều chết đi mà không để lại một lời nên Thúc Sinh rất khao khát muốn hỏi Kiều một câu: “Tại sao em đi mà không để lại một lời nào hết?”

Trong chúng ta cũng có người ở trong trường hợp của Thúc Sinh. Ta có một người thương tự nhiên bỏ ta đi mà không nhắn lại một lời nào. Thúc Sinh nghe đồn rằng trong vùng có một ông lên đồng, một đạo nhân có pháp thuật rất lớn. Khi nhập định ông có thể xuất hồn đi vào cõi âm để tìm linh hồn Thuý Kiều mà hỏi, và ông sẽ về báo cáo lại câu trả lời của Thuý Kiều cho Thúc Sinh. Tốn biết bao nhiêu công sức Thúc Sinh mới mời được ông đạo nhân ấy. Ông lập đàn, làm phép, phủ phục, đội một cái khăn rồi xuất hồn đi vào cõi âm. Chưa tàn một cây hương ông đã trở về và báo cáo:

– Tôi đã đi khắp cõi âm mà vẫn không tìm được mặt mũi của Thúy Kiều, không thấy Kiều ở đâu cả. Tôi đã tra xét và người ta nói cho tôi biết là người này chưa chết. Người này còn tai nạn rất nhiều.

Người này nặng kiếp oan gia

Còn nhiều nợ lắm sao đà thác cho

Mệnh cung đang mắc nạn to

Một năm nữa mới thăm dò được tin

Người này dễ dầu gì mà chết, vì còn rất nhiều oan trái. Đương sự đang bị tai nạn rất lớn. Sự thật là đương sự đang bị người ta bắt về đánh đập và buộc làm đầy tớ hầu hạ trong nhà.

Cụ Nguyễn Du viết như thế này:

Gần miền nghe có một thầy

Phi phù trí quỷ cao tay thông huyền

Trên tam đảo dưới cửu tuyền

Tìm đâu thì cũng biết tin rõ ràng

Sắm sanh lễ vật rước sang

Xin tìm cho thấy mặt nàng hỏi han

Đạo nhân phục trước tỉnh đàn

Xuất thần giây phút chưa tàn nén hương

Trở về minh bạch nói tường

Mặt nàng chẳng thấy việc nàng đã tra

Người này nặng kiếp oan gia

Còn nhiều nợ lắm sao đà thác cho

Mệnh cung đang mắc nạn to

Một năm nữa mới thăm dò được tin

Trên tam đảo là ở cõi trời, dưới cửu tuyền là dưới cõi âm. Ông thầy đã nói đúng, người này chưa chết. Nhưng gia đình không tin nên vẫn tiếp tục cúng 49 ngày.

Đoạn tràng cho hết kiếp này mới thôi

Kiều chết lần thứ hai ở sông Tiền Đường. Nhiều người tưởng Kiều đã chết nhưng thật ra Kiều còn sống. Đang còn sống là một phép lạ! Thúy Kiều vẫn đang còn sống, đó là một phép lạ rất lớn. Ta đang ngồi đây với thầy, với bạn. Ta đang còn sống vì ta đang còn thở. Đó là một phép lạ.

Khi Thúy Kiều bị ép phải lấy ông thổ quan địa phương thì Kiều chịu không nổi nên nhảy xuống sông Tiền Đường tự tử để giữ tròn khí tiết với Từ Hải. Tuy Kiều biết là mình không có ý giết Từ Hải, mình chỉ muốn cho chiến tranh chấm dứt và trăm họ được yên vui nên mới xui Từ Hải về hàng. Nhưng Hồ Tôn Hiến là người không có đạo đức, người đã ra hàng mà còn tìm cách sát hại. Khi Thúy Kiều gặp lại Kim Trọng thì có làm 10 bài thơ, trong đó có một bài khuyên Từ Hải ra hàng là hành trì theo chánh đạo để chấm dứt nạn đao binh chứ không phải có ý muốn giết Từ Hải. Nhưng người mà giết kẻ đã chịu ra hàng là người không có đạo đức. Nên Thúy Kiều lên án Hồ Tôn Hiến. Mục đích của Kiều không phải là giết Từ Hải mà là cứu dân, nhưng vì vậy mà Từ Hải phải chết. Tuy mình không có ý giết nhưng người kia đã chết vì mình. Bài thơ đó như thế này:

Khuyên hàng là việc phải

Trong nguyên văn là chữ chánh đạo. Truyện Kiều được viết dựa trên một bản văn xuôi của Thanh Tâm Tài Nhân mà khi đọc thì ta thấy có những chi tiết không có trong Truyện Kiều. Mười bài thơ Kiều làm để tặng Kim Trọng khi hai người gặp lại nhau là một trong những tư liệu mà ta không tìm thấy trong Truyện Kiều.

Giết hàng là bất nhân

Mình làm việc phải nhưng Hồ Tôn Hiến giết người quy hàng là việc bất nhân.

Em làm theo chánh đạo

Ai ngờ chàng mệnh vong

Kiều chỉ làm theo tiếng nói của lương tâm để cho dân bớt khổ, nhưng chính vì vậy mà Từ Hải phải chết. Vì vậy mặt mũi nào mà sống với người chồng khác nên Kiều đã tự tử ở sông Tiền Đường để giữ thanh danh và tỏ lòng trung kiên với Từ Hải. Khi Kiều gieo mình xuống sông Tiền Đường thì tất cả mọi người đều nghĩ là Kiều đã chết. Chỉ có một người biết Kiều chưa chết, đó là sư cô tên Giác Duyên.

Lúc Từ Hải thành công, Thúy Kiều có mời những vị ân nhân của mình tới để tạ ơn. Trong những vị ân nhân đó có sư Giác Duyên. Sau khi từ giã Kiều, sư Giác Duyên có gặp một đạo cô tu theo đạo Lão và đạo cô này có khả năng thấy được tương lai. Sư Giác Duyên hỏi đạo cô về tương lai của Thúy Kiều. Ngày xưa Thúy Kiều đã từng xuất gia dưới pháp danh là Trạc Tuyền và được ở chùa cùng sư Giác Duyên một thời gian. Hai người rất thương nhau. Nhưng sau vì tai nạn nên Kiều bị rơi vào thanh lâu lần thứ hai và cuối cùng thì gặp được Từ Hải. Khi được sư Giác Duyên hỏi về tương lai của Thúy Kiều, Tam Hợp đạo cô có một bản phân tích về Kiều rất hay:

Thúy Kiều sắc sảo khôn ngoan

Vô duyên là phận hồng nhan đã đành

Vô duyên là không có may mắn. Thúy Kiều đẹp, thông minh nhưng không có những điều kiện may mắn.

Lại mang lấy một chữ tình

Khăng khăng mình buộc lấy mình vào trong

Đó là lời phán quyết của một đạo sư. Vì vướng víu vào chữ tình cho nên không ai trói buộc mình mà chính mình tự lấy dây trói mình.

Vậy nên những chốn thong dong

Ở không yên ổn ngồi không vững vàng

Những chỗ thong dong là những chỗ chùa chiền, thiền đường hay Làng Mai. Trong khi mọi người đi đứng thong dong thì mình đi như bị ma đuổi.

Ma đưa lối quỷ dẫn đàng

Lại tìm những chốn đoạn tràng mà đi

Hết nạn ấy đến nạn kia

Thanh lâu hai lượt thanh y hai lần

Kiều phải làm gái giang hồ hai lần và làm đầy tớ hai lần.

Oan kia theo mãi với tình

Một mình mình biết một mình mình hay

Cái khổ đau đó không nói được với ai.

Làm cho sống đọa thác đày

Đoạn tràng cho hết kiếp này mới thôi

Đó là lời phán quyết của số mạng.

Ngày xưa Phạm Duy có viết mấy câu hơi giống như vậy:

Trăng ơi yên lặng suốt đời

Mà sao ta vẫn đứng ngồi không yên

Đứng không yên mà ngồi cũng không yên vì mình không có sự bình an trong lòng. Muốn có được sự bình an trong lòng thì phải tu. Ta phải biết thực tập hơi thở và bước chân để làm lắng dịu những cảm xúc, những nỗi khổ niềm đau trong lòng để tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống và được nuôi dưỡng bằng những mầu nhiệm của sự sống hầu tìm ra được một hướng đi. Nếu không thì mình đi không yên mà ở cũng không yên. Ma đưa lối quỷ dẫn đàng, ma là những sầu khổ, bực tức trong ta.

Ni sư Giác Duyên nghe vậy hoảng hồn:

Giác Duyên nghe nói rụng rời

Một đời nàng hỡi thương ôi còn gì

Như vậy thì còn gì là một cuộc đời nữa? Còn gì cho mình và còn gì cho người kia, còn gì cho nhau? Nhưng đạo cô Tam Hợp nói không sao, tuy vậy nhưng trong lòng của Kiều cũng còn những hạt giống tốt, còn những thiện căn, tức những gốc rễ lành mạnh mà cha ông để lại. Chính những hạt giống tốt mà tổ tiên trao lại cho Thúy Kiều sẽ cứu được Kiều.

Xét trong tội nghiệp Thúy Kiều

Mắc điều tình ái khỏi điều tà dâm

Lấy tình thâm trả nghĩa thâm

Bán mình đã động hiếu tâm tới trời

Tuy vướng vào tình ái nhưng không phạm giới tà dâm, Thúy Kiều có những điểm tích cực. Trong buổi đầu gặp gỡ, Kim Trọng muốn ép duyên nhưng Thúy Kiều nhất định không chịu. Thúy Kiều theo đúng đạo lý cổ truyền, nếu mình không giữ mình thì tình yêu không còn là tình yêu mà chỉ là nhục dục mà thôi. Sexual desire is not love, đó là giới thứ ba trong năm giới tại Làng Mai. Trong giới thứ ba của Năm giới ở Làng Mai nói rất rõ rằng tình yêu không phải là tình dục. Đêm hôm đó Thúy Kiều đã giữ được giới này và do đó Kim Trọng đã giữ được một hình ảnh rất đẹp về Thúy Kiều.

Thúy Kiều đã bán mình để lấy 300 lượng vàng chuộc cha ra khỏi vòng tù tội. Đó là chữ hiếu (lấy tình thâm trả nghĩa thâm). Kiều đã hy sinh chuyện tình để làm tròn chữ hiếu, biết rằng mình sẽ phản bội Kim Trọng nhưng Kiều phải cứu cha trước.

Hại một người, cứu muôn người. Tuy Từ Hải chết nhưng cứu được bao nhiêu người khỏi phải chết vì chiến tranh. Do đó nghiệp của Thúy Kiều sẽ nhẹ đi và Kiều sẽ bắt đầu có hạnh phúc trở lại, đó là lời nói của Tam Hợp đạo cô.

Đạo cô biết trước rằng Thúy Kiều sẽ tự tử ở sông Tiền Đường và khuyên sư Giác Duyên nên tới sông Tiền Đường chực sẵn. Chỉ năm năm nửa thôi thì Thúy Kiều sẽ tự tử ở đó và Giác Duyên sẽ có cơ hội cứu được Thúy Kiều. Sư Giác Duyên tới bên sông Tiền Đường lập một cái am và thuê hai người đánh cá (Giác Duyên có một số tiền mà Thúy Kiều đã tặng ngày xưa) giăng lưới, không phải để bắt cá mà để chờ Trạc Tuyền.

Thúy Kiều đi thuyền tới chỗ đó thì sóng nổi lên đùng đùng, hỏi ra mới biết đó là sông Tiền Đường. Kiều nhớ lại trong giấc mơ ngày xưa mình gặp Đạm Tiên và Đạm Tiên đã nói rằng sau này hai người sẽ gặp lại nhau ở sông Tiền Đường. Thúy Kiều nghĩ rằng bây giờ chắc là đến lúc mình phải chết nên làm một bài thơ để lại và nhảy xuống sông tự tử. May thay lúc đó có hai ngư phủ vớt Kiều lên. Sau khi cứu được Trạc Tuyền, sư Giác Duyên đưa nàng về chùa, cho xuất gia thọ 10 giới và làm sư cô trở lại. Hai người sống với nhau ở đó, bên sông Tiền Đường.

Một nhà vinh hiển riêng oan một nàng

Chỉ vài tháng sau thì gia đình của Kiều đi ngang qua đó. Họ biết tin chiến tranh đã chấm dứt và muốn tới tận chỗ để tìm hỏi tin tức của Thúy Kiều. Người ta cho biết rất rõ là Thúy Kiều có công lao như vậy mà không được đền trả, còn bị ép gả cho một ông quan địa phương vùng núi. Vì vậy Thúy Kiều đã nhảy xuống sông tự tử. Gia đình của Kiều đau đớn vô cùng. Lúc này Kim Trọng đã làm quan và đã cưới Thúy Vân. Vương Quan, em trai Thúy Kiều cũng đã làm quan và cưới vợ.

Hàng Châu tới đó bây giờ

Thật tin hỏi được tóc tơ rành rành

Hàng Châu là chỗ Thúy Kiều đã tự tử. Người ta cho biết sự thật với rất nhiều chi tiết.

Rằng ngày hôm nọ giao binh

Thất cơ Từ đã thu linh trận tiền

Nàng Kiều công quả chẳng đền

Lệnh quan lại bắt ép duyên thổ tù

Nàng đà gieo ngọc trầm châu

Sông Tiền Đường đó ấy mồ hồng nhan

Sông Tiền Đường là mộ của Thúy Kiều.

Than ôi không hợp mà tan

Một nhà vinh hiển riêng oan một nàng

Lúc đó gia đình Kiều lập một đàn tràng, làm đại trai đàn trên bờ sông để cầu siêu cho Kiều. Trong nguyên lục có một bài văn chiêu hồn rất là thảm thiết. Trong khi thầy đang lập trai đàn cúng tế thì ni sư Giác Duyên đi ngang qua. Ni sư vào xem thì thấy trên linh vị đề tên Vương Thúy Kiều. Ni sư nói:

– Quí vị là ai? Người ta đang còn sống sờ sờ mà sao lại làm trai đàn cúng người ta?

Cơ duyên đâu bỗng lạ sao

Giác Duyên đâu bỗng tìm vào tới nơi

Trông lên linh vị chữ bài

Thất kinh mới hỏi: Những người đâu ta?

Với nàng thân thích gần xa

Người còn sao bỗng làm ma khóc người?

Đây là lần thứ hai người ta cầu siêu cho Kiều trong khi nàng vẫn còn sống. Hôm nay chúng ta ngồi thiền và nói “tôi biết là tôi vẫn còn sống” là để nhắc cho mình biết rằng mình vẫn còn sống và sự kiện này là một phép mầu nhiệm. Ta còn sống và đang ngồi đây với thầy, với bạn là một sự mầu nhiệm. Ta phải ăn mừng mới được!

Ngỡ bây giờ là bao giờ

Lúc đó gia đình Kiều nói với Giác Duyên:

– Ni sư ơi, đây là cha của Kiều, đây là mẹ của Kiều, đây là em gái, đây là em trai của Kiều, đây là em dâu của Kiều và đây là người yêu cũ của Kiều.

Này chồng, này mẹ, này cha

Này là em ruột, này là em dâu

Ni sư Giác Duyên nói:

– Tôi có tình bạn với Thúy Kiều, vì vậy khi Kiều tự tử thì tôi đã rước về. Chùa ở gần đây lắm, chỉ có hai cây số mà thôi. Nếu quí vị muốn tôi có thể dẫn quí vị đi gặp Kiều lập tức.

Đó là một tin mừng quá sức, không thể nào tưởng tượng được. Bao nhiêu chuông, mõ, xôi, chuối, hương, đèn đều bỏ đi và tất cả mọi người đều theo ni sư về chùa tìm Kiều.

Quanh co theo dải giang tân (giang tân là bờ sông)

Khỏi rừng lau đã tới sân Phật đường

Giác Duyên lên tiếng gọi nàng

Buồng trong đã dạo sen vàng bước ra

Trông xem đủ mặt một nhà

Xuân già còn khỏe huyên già còn tươi

Hai em phương trưởng hòa hai

Nọ chàng Kim đó là người ngày xưa

Ngỡ bây giờ là bao giờ

Rõ ràng mở mắt còn ngờ chiêm bao

Câu hay nhất là câu: ngỡ bây giờ là bao giờ. Mình không chờ đợi một giờ phút như ngày hôm nay. Hiện tại đẹp quá chừng, đẹp cho đến nỗi mình tưởng nó không có thật. Mười lăm năm, đêm nào cũng tưởng nhớ, đêm nào cũng tuyệt vọng, bữa nay tự nhiên thấy được tất cả những người mình thương đang có trước mặt.

Câu “ngỡ bây giờ là bao giờ” là một câu siêu tuyệt! Tôi đề nghị quí vị nên viết câu này treo lên tường, vì ta không biết trân quí những gì ta có. Ta đang sống mà không biết trân quí sự thật là mình đang còn sống. Ta cứ để phiền não, tham sân, giận hờn, tuyệt vọng chiếm ngự mình. Ta không thật sự sống được giây phút mà cuộc đời ban cho ta. Ta không có khả năng sống cái bây giờ, ta luôn nhớ tiếc cái quá khứ hay lo lắng cho cái tương lai, mà cái bây giờ rất mầu nhiệm. Ta cứ nghĩ tới một tương lai nào đó. Bao giờ mà tôi có cái đó, bao giờ mà tôi làm được chuyện đó, bao giờ mà tôi có bằng cấp đó, bao giờ mà tôi cưới được người đó, bao giờ mà tôi có được cái nhà như vậy, bao giờ mà tôi có công ăn việc làm đó thì tôi mới có hạnh phúc. Cái “bao giờ” đó có thể không bao giờ tới. Trong khi đó thì ta hy sinh cái “bây giờ” cho cái “bao giờ”.

Cái “bây giờ” là cái rất quí báu. Với một hơi thở ta trở về với hình hài của mình và thấy hình hài này là một tặng phẩm quí giá của tổ tiên. Ta có biết trân quí hình hài này không hay ta đày đọa nó? Nếu đày đọa hình hài thì ta đày đọa cả bố mẹ mình vì bố mẹ mình cũng ở trong đó. Nếu ta đày đọa tấm thân thì ta cũng đày đọa tổ tiên vì tổ tiên cũng nằm trong đó.

Thở vào tôi biết là tôi có một hình hài, chính trong cái “bây giờ” ta biết là mình có một hình hài và ta mang theo cha mẹ, ông bà, tổ tiên trong hình hài của mình. Ta hy sinh cái “bây giờ” để đi tìm cái “bao giờ” trong tương lai, một ảo ảnh của hạnh phúc. Ở Làng Mai, luôn luôn bằng bước chân và hơi thở, chúng ta trở về cái “bây giờ” để chăm sóc và trân quí cái “bây giờ” bởi sự sống chỉ có mặt trong cái “bây giờ”. Quá khứ đã đi qua và tương lai thì chưa tới, sự sống chỉ có thể có mặt trong cái “bây giờ”. Vì vậy tại Làng Mai, mỗi hơi thở, mỗi bước chân phải có công dụng đem ta trở lại cái “bây giờ”.

Ngỡ bây giờ là bao giờ

Rõ ràng mở mắt còn ngờ chiêm bao

Ngày hôm nay ta đang còn sống, ta đang ngồi với người thương của mình. Ta đang có thầy, ta đang có bạn. Ta còn đòi gì nữa, tại sao ta không có hạnh phúc ngay trong giây phút này.

Bây giờ rõ mặt đôi ta

Ngay đêm đầu tiên mà Kiều và Kim Trọng gặp nhau thì Nguyễn Du đã có tuệ giác cái “bây giờ” là cái quan trọng nhất. Ngày hôm đó gia đình Kiều đi ăn giỗ bên quê ngoại. Thúy Kiều lấy cớ nhức đầu hay đau bụng gì đó để ở nhà. Khi gia đình đi rồi Thúy Kiều ra rút vài cây ở hàng rào để lẻn qua thăm Kim Trọng. Hai người chơi với nhau một thời gian, thấy đã chiều rồi nên Thúy Kiều tạm biệt Kim Trọng để về xem gia đình đã về nhà chưa. Về nhà thấy gia đình chưa về nên Thúy Kiều tiếc, đi sang trở lại. Lúc đó trăng đã bắt đầu lên. Hai người đã sống với nhau những giờ phút rất căng thẳng. Hai người đã chờ đợi lâu lắm mới có giây phút này nên mỗi giây phút đều rất khẩn trương. Kim Trọng mệt quá vì sống với Kiều 7, 8 giờ đồng hồ rất khẩn trương, cho nên khi Kiều trở về nhà thì Kim Trọng mệt quá gục đầu xuống ngủ. Khi Kiều trở qua thì trăng mới lên, tiếng chân Kiều bước lên sỏi làm Kim Trọng thức giấc. Nhưng trong trạng thái nửa thức nửa ngủ đó, ngẩng lên nhìn thì Kim Trọng không biết có phải thật là Kiều không, hay đây chỉ là một hình ảnh trong giấc mơ?

Sinh vừa tựa gối thiu thiu

Giữa chiều như tỉnh giữa chiều như mê

Tiếng sen sẻ động giấc hòe

Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần

Bâng khuâng đỉnh giáp non thần

Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng

Kim Trọng hỏi:

– Có phải thật là em trở lại đó không hay đây chỉ là hình ảnh trong giấc mơ của anh?

Kiều trả lời rất hay, câu này là tuệ giác của Nguyễn Du. Trong Truyện Kiều cũng có khi thi hào Nguyễn Du thuyết pháp, nhất là trong đoạn đầu và đoạn cuối. Thi hào mà thuyết pháp thì thuyết rất dỡ. Nhưng đến khi thi hào làm thơ thì rất hay, trong đó có nhiều pháp rất thâm diệu. Nguyễn Du không muốn thuyết pháp mà chỉ muốn làm thơ thôi nhưng trong thơ có những bài pháp rất tuyệt diệu. Thúy Kiều đã trả lời như thế này:

Nàng rằng khoảng vắng đêm trường

Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa

Bây giờ rõ mặt đôi ta

Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao

Hai câu sau rất thần diệu. Bây giờ rõ mặt đôi ta, tức trong giây phút hiện tại này tôi nhìn thấy anh và anh nhìn thấy tôi. Chúng ta có cơ hội để nhìn rõ mặt nhau thì chúng ta phải nhận diện sự có mặt của nhau là một điều rất quí giá. Nếu không thì những gì xảy ra hôm nay sẽ trở thành chiêm bao mà thôi.

Người thương của ta là bố ta, mẹ ta, người bạn hôn phối của ta hay con của ta. Ta đang được sống với người đó, nhưng hôm nay ta bận rộn quá, ta không có thì giờ để nhìn mặt người đó. Lúc ăn sáng ta không có thì giờ để nhìn người đó, buổi chiều đi làm về cũng không có thì giờ để nhìn người đó. Ta không có thì giờ để nhìn mặt nhau. Sống như vậy đâu có thể gọi là sống văn minh? Ta sống quá bận rộn!

Bí quyết ở chỗ là ngày hôm nay ta có thì giờ để thấy nhau, để nhìn được mặt nhau và thấy được sự có mặt của người kia rất quí giá. Nếu hôm nay ta không làm được chuyện đó thì ngày mai tất cả đều trở thành một giấc mơ mà thôi. Thi hào Nguyễn Du khuyên ta nên trở về với giây phút hiện tại để nhận diện những gì quí giá mà hiện giờ ta đang có. Những gì ta đang có là hình hài này chưa đến nỗi nào, hai mắt ta còn sáng để có thể ngắm trăng sao, hai chân ta còn khỏe, có thể đi thiền hay leo núi với thầy. Biết bao nhiêu mầu nhiệm như vậy mà ta không nhận diện. Người thương của ta còn đó, ta có thể điện thoại hỏi thăm, ta có thể thực tập câu linh chú thứ nhất: I am here for you. Je suis là pour toi chéri. Nhưng ta không làm như vậy vì ta không biết được sự quí giá của “bây giờ” và như vậy thì cái “bây giờ” sẽ đi qua như một giấc mộng và ngày mai chỉ còn lại giấc chiêm bao.

Bây giờ rõ mặt đôi ta

Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao

Nạn xưa trút sạch làu làu

Khi Giác Duyên cứu được Thúy Kiều và hai người tu chung với nhau, họ có một thời gian rất hạnh phúc. Cụ Nguyễn Du đã viết ra những câu rất thần diệu.

Khi vớt được Thúy Kiều lên thuyền, người ta đã làm đủ cách để Thúy Kiều tỉnh dậy. Thúy Kiều tỉnh dậy thấy mình đang ngồi trên thuyền với người bạn tu là ni sư Giác Duyên.

Thấy nhau mừng rỡ trăm bề

Dọn thuyền mới rước nàng về thảo lư

Thảo lư là ngôi chùa bằng lá.

Một nhà chung chạ sớm trưa

Gió trăng mát mặt muối dưa chay lòng

Một nhà chung chạ sớm trưa, tức buổi sáng anh có em với anh, buổi sáng con có bố, có mẹ với con. Ta ý thức rằng ta đang được ở chung với nhau. Ta đang còn có nhau, đó là một hạnh phúc rất lớn.

Muối dưa chay lòng là ăn uống một cách đơn giản nhưng rất hạnh phúc, vì sống nếp sống đơn giản thì ta có thì giờ để thương nhau, lo lắng cho nhau. Còn nếu muốn có đồng ra đồng vào thật nhiều thì ta làm gì có thì giờ để nhìn mặt người thương? Muối dưa chay lòng là một bí quyết: Sống đơn giản lại để đừng mất thì giờ nhiều quá thì tự nhiên ta có “gió trăng mát mặt”. Ban đêm thì có trăng, nếu ta ở thành phố thì làm gì thấy được trăng? Hơn nữa ta bận rộn quá làm gì có thì giờ ngắm trăng? Ta không hưởng được ngọn gió mát mơn man trên khuôn mặt. Thiên nhiên là một kho tàng của hạnh phúc, có trăng, có gió, có sao, có trời. Nhưng nếu ta bận rộn quá thì ta đánh mất thiên nhiên và không hưởng được những mầu nhiệm của thiên nhiên. Lòng ta đơn giản, không lo lắng, sầu khổ vì ta không tham lam kiếm cho được nhiều tiền (muối dưa chay lòng).

Bốn bề bát ngát mênh mông

Tức là có rất nhiều không gian và thời gian để sống và để cho nhau.

Triều dâng hôm sớm mây lồng trước sau

Mỗi buổi chiều được nghe tiếng hải triều rất hùng vĩ, mỗi buổi sáng được thấy mây giăng trước ngõ. Hai người sống rất hạnh phúc.

Chỉ có điều là Kiều nhớ nhà. Tôi nghĩ thế nào Giác Duyên cũng biết tâm trạng của Kiều. Bây giờ Thúy Kiều có tự do, được cứu sống rồi, được tu học với người sư chị một cách hạnh phúc nhưng có một điều là Thúy Kiều nhớ nhà quá. Tôi nghĩ thế nào Giác Duyên cũng giúp cho Kiều thỏa mãn được điều này. Giác Duyên là một ni sư rất giỏi, là một du tăng, vì vậy thế nào Giác Duyên cũng nói với Thúy Kiều:

– Em đừng lo, một ngày nào đó chị sẽ tổ chức để hai chị em đi du hóa và từ từ mình đi về Bắc kinh để tìm gia đình của em.

Chắc chắn là Giác Duyên có nói câu đó với Thúy Kiều, nhưng chưa thực hiện được thì Giác Duyên đã khám phá ra sự có mặt của gia đình Kiều bên bờ sông và hai bên đã đoàn tụ.

Nạn xưa trút sạch làu làu

Duyên xưa chưa dễ biết đâu chốn này

Tất cả những tai nạn xưa bây giờ không còn nữa.

Để trước sau như một

Hôm qua tôi có dịch mười bài thơ mà Thúy Kiều đã làm cho Kim Trọng khi hai người gặp lại nhau sau 15 năm xa cách.

1. Nhớ năm xưa gặp chàng

Chưa biết gì về sống

Chỉ biết là nữ tính

Thì cũng có nữ tình

Nhớ lại năm xưa khi mới gặp Kim Trọng, Thúy Kiều chưa biết gì về bản chất của sự sống, chưa biết thế nào là sống và thế nào là chết. Thúy Kiều chỉ biết được một chuyện: mình là một người con gái thì tình của mình phải là nữ tình, đó cũng là điều kiện của con người (condition humaine)

2. Chiều chàng đủ mọi cách

Chỉ trừ chuyện gối chăn

Sợ rằng chỉ không thể

Tình chỉ chuyện ăn nằm

Trong buổi gặp gỡ đầu tiên, Kim Trọng đòi cái gì Kiều cho cái đó. Trên tường có bức họa một cây thông mà Kim Trọng vừa vẽ xong và Kim Trọng xin Kiều làm một bài thơ đề lên bức họa thì Thúy Kiều cũng chiều ý. Khi Kim Trọng muốn Thúy Kiều đàn cho mình nghe, Kiều cũng chiều theo Kim Trọng. Nhưng khi Kim Trọng đòi chuyện ăn nằm với nhau thì Kiều nhất định cự tuyệt. Kiều nói: “Tình yêu không phải là nhục dục. Nếu mình làm chuyện đó thì tình yêu sẽ tan vỡ”.

Cách đây vài tuần có một ông bộ trưởng, có lẽ là bộ trưởng bộ văn hóa Ấn Độ, tuyên bố rằng: “Liên hệ tình dục trước đám cưới là chuyện phi đạo đức”. Ở châu Á đây là một vấn đề rất quan trọng! Ngày xưa lễ giáo dạy chúng ta phải làm như vậy, vì nếu dễ dàng quá thì người kia sẽ khi dễ mình. Kiều đã làm được điều đó, Kiều nhất định không cho Kim Trọng đụng tới, tuy Kiều chiều tất cả mọi điều Kim Trọng yêu cầu. Kiều nói: “Nếu mình làm chuyện đó thì tình yêu sẽ tan nát và không còn sự kính nể nhau nữa. Rồi mình sẽ không nuôi dưỡng được tình yêu lâu dài”.

3. Thân này hứa cho chàng

Làm sao phản lời nguyện

Nhưng hoàn cảnh ngang trái

Vì hiếu phải phụ chàng

Một lời mình đã hứa, rằng đời mình sẽ dâng cho người yêu của mình thì làm sao mình có thể đi ngược lại lời hứa đó được. Nhưng vì hoàn cảnh ngang trái nên phải bán thân để cứu cha, vì vậy nên phải phụ chàng.

4. Bỏ mình để cứu cha

Cha cứu nhưng mình mất

Dù muốn vẹn khí tiết

Thì tiết có nghĩa không

Trong nguyên văn có hai chữ thân, chữ thân đầu là thâm tình, là cha, còn chữ thân thứ hai là hình hài của mình. Cứu được thâm tình thì đánh mất hình hài của mình. Một bên là tiết, một bên là nghĩa. Khi bị Mã Giám Sinh làm nhục, Kiều đã toan lấy dao tự tử. Nhưng tự tử lúc đó thì giữ được tiết của mình nhưng sẽ gây tai họa cho gia đình, vì mình cần một số vàng để chuộc cha ra khỏi tù tội. Nếu mình tự tử ngay lúc đó thì cha sẽ bị liên lụy, có tiết thì không thể có nghĩa. Vì vậy Kiều đã không tự tử lúc đó.

5. Bao năm tháng lênh đênh

Lạc loài trăm xứ lạ

Chết giữ được thanh danh

Nhưng chết nào quí hóa

6. Chốn thanh lâu ẩn nhẫn

Vui gì với bạo cường

Nếu chẳng biết chịu đựng

Thì thù xưa sao báo

7. Khuyên hàng là việc phải

Giết hàng là bất nhân

Mình làm theo chánh đạo

Ai ngờ chàng mệnh vong

Khuyên Từ Hải ra hàng là việc nên làm, là đúng với đạo lý, đúng với tâm từ bi. Nhưng khi người đã ra hàng mà mình vẫn giết người ấy thì đó là việc làm vô đạo. Đó là lỗi của Hồ Tôn Hiến chứ không phải là lỗi của Thúy Kiều. Mình làm theo trái tim của chánh đạo nhưng vì người ta vô đạo nên Từ Hải phải chết.

8. Nào có ý giết chàng

Nhưng vì em, chàng chết

Vì vậy sông Tiền Đường

Em quyên sinh giữ tiết

Đến sông Tiền Đường thì mình phải chết để giữ khí tiết của mình

9. Tự cam chịu phận mỏng

Trả xong nợ đoạn trường

Nhờ đức Bụt từ bi

Thân này còn giữ được

Cố gắng mà sống để trả xong nợ đoạn trường này. Nhưng nhờ ơn từ bi của đức Phật nên hình hài này chưa mất.

10. Hôm nay gặp lại chàng

Tử sinh em đã biết

Xin chàng hãy định tâm

Để trước sau như một

Em đã có kinh nghiệm, em biết thế nào là sống và thế nào là chết. Đứng về phương diện kinh nghiệm thì Thúy Kiều dày dặn, khôn ngoan hơn Kim Trọng rất nhiều. Thúy Kiều đã trải qua biết bao là khó khăn, khổ đau và đã học và biết được thế nào là cái chết và cái sống.

Đêm đó là đêm oanh liệt nhất của Thúy Kiều, vì Thúy Kiều đã dạy cho Kim Trọng. Thúy Kiều hành động giống như đêm đầu. Cái gì Thúy Kiều cũng chiều Kim Trọng. Dù không muốn đàn nữa nhưng khi Kim Trọng muốn thì Thúy Kiều cũng đàn. Thúy Kiều làm tất cả những gì mà Kim Trọng yêu cầu trừ chuyện ngủ với Kim Trọng. Thúy Kiều nói:

– Thà chết thì thôi chứ em không thể nào ngủ với anh được. Như vậy thì sẽ giữ được tình yêu, còn nếu không thì anh sẽ trở thành kẻ thù của em. Nếu anh ép em phải ngủ với anh thì anh không phải là người thương của em nữa. Em đã đạt tới sự thanh tịnh. Tuy bây giờ em không tu dưới hình thức của một sư cô nhưng em tu dưới hình thức của một cư sĩ. Em phải giữ giới. Sở dĩ em được trong sáng, thanh tịnh trở lại là nhờ giới luật. Đứng về phương diện hình thức thì mình là vợ chồng cũng không đến nỗi nào, nhưng trên phương diện nội dung thì nếu làm chuyện đó mình sẽ thành kẻ thù của nhau. Anh phải chọn lựa!

Bài thơ cuối là một tối hậu thư:

– Ngày đầu gặp nhau như vậy thì hôm nay gặp nhau cũng như vậy. Như thế mình mới có thể sống với nhau lâu dài.

Khi nghe những lời đó, Kim Trọng hoảng hồn nói:

– Em đâu phải là một người đàn bà tầm thường? Em là một vị nữ hào kiệt! Lâu nay anh đi tìm em đâu phải vì những chuyện trăng hoa mà là vì tình nghĩa.

Khi Kim Trọng chấp nhận điều đó thì Kiều đứng dậy sửa khăn áo và lạy xuống nói:

– Cám ơn anh, anh đúng là người tri kỷ của em!