Wendy

tuyết ph đi Phương Vân

năm Rng va cht ti

tin mng vưt đi ơng

vưn nhà n hoa mi

thêm trm trong hương

lòng nh như mây khói

mi ngưi chp tay mng

trà thơm bèn rót li

mt tri ri s lên

hng oanh trong liu gi

gi gm nơi ơng lai

biết bao điều mong mỏi.

Năm ấy là năm Thìn, tại Phương Vân Am ăn Tết có Thầy, có anh Bính, hai cháu Hoài An Mai Linh, Mobi, Joe, Linda, Pierre, Neige, Philippe, Martine, Tuk và Krisana.

Cúng giao thừa và uống trà xong thì có điện thoại từ Hòa Lan tới cho biết bé Wendy mới chào đời. Wendy là con của Laura Hassler và Jim Forest, hai người học trò rất thân thiết của Thầy. Laura đã từng làm việc dịch thuật cho văn phòng chúng tôi trong một năm tròn, còn Jim là chủ bút của báo Fellowship ở Nữu Ước. Được tin này Thầy bảo pha thêm một bình trà mới để mừng Wendy.

Tôi thấy em nơi sân nghèo cô nhi viện

hai mắt của em buồn

chứa đầy tủi hận 

khi thấy tôi

em quay mặt nhìn nơi khác

bàn tay em vẽ những vòng tròn

loanh quanh trên mặt đất

tôi nào dám hỏi ba má em đâu

tôi nào dám khơi động nguồn mạch thương đau

tôi chỉ muốn chuyện trò chốc lát

cười nói đôi câu

ngi với em một phút

cho em i chút u su

đt nưc đau cùng s phn

em hãy m ming i

đ cho nhau hy vng

thế h các em

chưa đy năm tui trên đu

đã thy tan tành hoa mng

cuc đi xô v hung hãn cung bo

kh ly vì đâu

thế h chúng tôi kém hèn gây nên ng ni

lát na ri tôi đi

đ em li sân nghèo cô nhi vin

hai mt ca em bun

tôi đi

em tr v góc sân quen thuc

và ngón tay em li v nhng vòng

thương đau trên mt đt.

Mỗi khi đọc bài này tôi lại nhớ đến những năm 1957 – 1958 tôi hay đi thăm các em trong Cô nhi viện Thị Nghè. Tôi rất thương các em cô nhi nhưng không hiểu sao tôi cảm thấy như nghẹt thở mỗi khi đến cô nhi viện. Nếu một bà mẹ không thể nào thương yêu và chăm sóc chu đáo cho hai mươi đứa con của mình thì một nữ tu sĩ cũng khó mà có thể thương yêu chăm sóc bảy chục hay một trăm em cô nhi. Lần nào đi cô nhi viện về tôi cũng bâng khuâng buồn bã. Sau đó tôi bỏ cô nhi viện, đi làm việc tại các xóm ổ chuột tại thành phố, rồi đi làm Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội. Mãi đến năm 1973, sau khi hòa ước được ký kết tại Paris tôi mới có nhiều thì giờ lo cho các em. Càng suy nghĩ nhiều về vấn đề cô nhi, tôi càng hiểu rõ vì sao tôi vẫn có cảm giác khó thở khi vào các cô nhi viện. Cô nhi viện chỉ là sản phẩm của người Tây phương. Ngày xưa Việt Nam không có cô nhi viện và con mồ côi vẫn sống bên ông bà hay cô chú của chúng. Nếu mỗi cô nhi có được một số tiền trợ cấp hằng tháng để không là gánh nặng cho gia đình người bà con nuôi em thì em sẽ hạnh phúc khi ở với ông bà cô chú hơn là sống trong cô nhi viện. Tôi soạn thảo một dự án tìm người bảo trợ cô nhi, chịu cấp dưỡng tiền hằng tháng cho gia đình nuôi các em mà quá nghèo. Sau khi bổ túc và chấp thuận, Phái đoàn Phật giáo tại hải ngoại đã gửi dự án này về trình lên Ủy ban Tái thiết và Phát triển của Giáo hội. Trong dự án này, ngoài việc tạo điều kiện giữ các em lại dưới mái gia đình êm ấm của ông bà hay cô dì các em, chúng tôi còn đề nghị chẻ những cô nhi viện quá đông trẻ em ra thành nhiều tiểu gia đình để các em sống lại không khí ấm cúng của một gia đình nhỏ. Chúng tôi lập tại mỗi nước một tiểu ban để lo cho chương trình này. Nhiều người bạn trẻ người ngoại quốc quen thân với phái đoàn được mời vào các tiểu ban này để kêu gọi sự ủng hộ của người địa phương nước ấy. Bài thơ Tôi thy em nơi sân nghèo cô nhi vin vì vậy đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và được các tiểu ban nói trên ấn hành rộng rãi. Cứ nước nào vừa lập xong tiểu ban lo cho cô nhi Việt Nam thì bài thơ này lại được ấn hành hàng ngàn bản bằng tiếng nước đó để gửi đi kêu gọi. Vào tháng 6 năm 1973, chúng tôi chỉ mới tìm ra bốn mươi gia đình bảo trợ cho bốn mươi cô nhi tại gia Việt Nam; vậy mà đến tháng hai năm 1975 chúng tôi đã tìm được 9.670 người để bảo trợ cho 9.670 cô nhi. Các ca sĩ như Joan Baez, Nana Mouskouri đã nhiều lần tặng tiền cho dự án này. Tại Paris và các tỉnh lớn ở Pháp, chúng tôi thường mời các nhạc sĩ danh tiếng như Graeme Allwright, Maxime Le Forestier, Claude Nougaro, Dick Annegan,… đến hát. Lần nào Pierre cũng năn nỉ thầy Nhất Hạnh lên đọc dùm bài thơ này trước khi nhạc hội mở đầu. Tôi và Pierre vẫn thường hay đi dán bích chương cổ động các nhạc hội vào khoảng tám giờ tối đến hai giờ khuya. Đêm nào về, tay chân của hai chị em cũng lạnh cóng vì băng giá. Thầy có nhắc tới chuyện này trong một bài thơ trong đó có những câu:

thương vơ a lon lc

Sen Vàng m gi khp tri Tây

t hoa nhc hi bng chiêng trng

xóm i thôn trên dán cht đy

gng mc đưng dây trăm x l

ân nghĩa bên tri mãi dng xây

Sen Vàng tức là báo Le Lotus của Phái đoàn Phật giáo Việt Nam tại Paris ấn hành trên giấy màu vàng bằng Anh ngữ và Pháp ngữ. T hoa đây là những tờ quảng cáo đại nhạc hội. Bé đây là các cô nhi.

Người trẻ làm việc cho chương trình này cũng khá đông. Pierre, Neige, Mobi, Hương và tôi làm việc toàn thời gian tại văn phòng phái đoàn. Thoa, Lội, Hoàng Anh, Hằng, Hải, Tính, Nga, anh Trương, anh Cao Thái giúp dịch hồ sơ tại nhà mỗi đêm vài giờ. Một số sinh viên khác đến giúp bất định kỳ, tùy theo khả năng. Huệ Châu và anh Hướng cũng lãnh về nhà hàng chồng hồ sơ cô nhi. Anh Hướng tuy là khoa học gia nhưng cũng là thi sĩ. Thơ anh đã được in thành hai tập từ hồi còn là sinh viên, và Lá Bối 1978 có ấn hành tập Ngày m v của anh, ký tên là Hoài Việt. Điều mà tôi ghi mãi trong lòng về hai người bạn này là anh chị luôn đặt mình vào thế đứng tôn trọng sự sống của con người và chống đối những bất công từ bất cứ hướng nào. Trong những ngày mà tiếng nói của lập trường này bị bóp chẹt nhất, Hướng và Huệ Châu lúc nào cũng sẵn sàng nói: “Có chúng tôi đây!”

Thế giới chúng ta

nắng trên ngói reo vui

và nắng trên bức tranh sáng nay đồng vọng

tôi chế nắng bằng mầu

nhờ mầu chuyển sức ấm

tiếng hát của loài chim sứ giả

sáng nay

nói rằng thế giới chúng ta

lại bắt đầu một chu kỳ tạo dựng.

Bài này có lẽ cũng được viết tại Paris năm 1967 trên đồi Montmartre vì chúng tôi cũng nhận được bài này trên bưu thiếp có hình xóm họa sĩ trên đồi Montmartre, Paris.

Dòng sông chiều và hồn đất

cây bờ sông

đường bờ sông

xanh lá

xanh trời

nóc giáo đường cao

hồn tháp ngủ yên chiều Chủ nhật.

nghe phảng phất

bơ vơ hồn đất

hi mùa tinh tú

xôn xao.

Bài này có lẽ được tác giả viết vào mùa hè năm 1967, bên bờ sông Seine, Paris vì từ Việt Nam chúng tôi nhận được bài thơ này trên một bưu thiếp có hình bờ sông Seine, Paris.

Buông thả

bãi vắng

mưa xóa dấu chân người

trên cát mịn.

não phiền từ đâu lại:

chân còn chưa chấm đất,

lắng nghe phảng phất gió mùa xuân.

Bài này chị Teo Savory dịch đăng lần đầu ở tạp chí Paintbrush, Hoa Kỳ (số 6, bộ III, năm 1976). Thầy nói mấy câu cuối cùng dịch không đúng ý Thầy: “não phiền vừa định bay lại nhưng chân chưa chấm đất thì nó đã bị gió mùa xuân thổi bay đi”, có lẽ dịch như vậy mới đúng.

Xin trả về cho non sông cho nhân loại cho đồng bào

bn đa em chết đêm qua

mt đa tên Hy

mt đa tên Tun

mt đa tên T

mt đa tên Lành

tôi xin cáo vi đng o, vi đt nưc,

vi các ch các anh.

bn đa con trai, đu còn rt xanh

hai năm trưc

cng nghe li tôi

ra đi, vào ng đt nưc

mong gieo rc tin yêu

xây dng hòa bình

xương các em xương tôi

tht các em tht tôi

xương tôi tan

tht tôi nát

na đêm chúng bt các em

đu trn chân đt

đi ti b ng

cng bt các em qu xung

cng hi

có phi thanh niên phng s xã hi kng

các em nói có

cng bn các em n qu bên b ng

cng bn tôi n qu bên b ng

có mt đng bào

có mt các ch các anh

máu ca các em, tôi xin tr v cho non ng

xương ca các em, tôi xin tr v cho non ng

máu xương đó trinh nguyên

chưa bao gi làm hoen ging Lc Hng

còn nhng bàn tay các em,

tôi xin tr v cho nhân loi

trái tim các em, tôi xin tr v cho nhân loi

nhng bàn tay kia chưa bao gi gây tàn hi

nhng trái tim kia t t u

chưa bao gi nhn gi u hn căm

 

còn da các em đây, xin gi tr v cho đng bào

các em chưa bao giờ chấp nhận

cảnh nồi da xáo thịt

xin hãy dùng những mảnh da của các em đây

mà vá lại

nhng đường rách, những vết cắt rướm máu

trên thân hình dân tộc thương đau.

Bài này đã được nữ ca sĩ Nadia Cattouse trình bày tại đại nhạc hội ngày 19 tháng 3 năm 1971 tại nhà hát Queen Mary Hall Luân Đôn. Bữa đó tôi được anh David Harrding, trưởng ban tổ chức đại nhạc hội, mời lên mở đầu nhạc hội bằng một bài hát Việt Nam. Tôi lựa bài Người già em bé của Trịnh Công Sơn. Giọng Nadia Cattouse bữa đó thật cảm động và diễn tả khá xuất sắc ý bài thơ. Tôi đã suýt chảy nước mắt khi nghe lại bài này, dù là bằng tiếng Anh. Sau đó trọn chương trình đại nhạc hội này được thu vào một đĩa hát. Tiền bán vé và bán đĩa hát đã được gửi về cho công tác xã hội của Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội ở nhà.

Phong trào Thanh niên Phụng sự Xã hội tuy chính thức được khai sinh năm 1965 nhưng kỳ thực đã được thai nghén từ khoảng 1960 – 1961. Hồi đó bọn sinh viên chúng tôi còn theo một lớp Phật học do thầy Nhất Hạnh hướng dẫn. Chúng tôi thao thức tìm cách thể hiện lý tưởng từ bi bởi vì chúng tôi nhận thấy từ bi là chất liệu căn bản trong nền đạo lý cổ truyền của dân tộc. Chúng tôi chọn những xóm nhà nghèo đói nhất tại thủ đô để làm môi trường hoạt động và hơn ba năm trời hoạt động chúng tôi nhận thấy chỉ có thể làm vơi bớt một ít khổ đau của đồng bào nghèo đói bệnh tật tại các môi trường đó mà không thể chuyển đổi được tình trạng của môi trường này. Chúng tôi thường họp hội thảo với nhau để tìm những phương thức mới. Đầu năm 1964, thầy Nhất Hạnh đề nghị một chương trình đặt trọng tâm vào sự phát triển cộng đồng hương thôn vốn là cơ bản của xã hội Việt Nam. Thực hiện chương trình này từ tháng Giêng 1964, chúng tôi bắt đầu thiết lập một số làng thí nghiệm mà chúng tôi gọi là làng hoa tiêu trong đó có hai làng Cầu Kinh và Thảo Điền không xa cách thủ đô mấy. Một năm sau đó, thấy kết quả của các làng hoa tiêu, chúng tôi thành lập Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội trong khuôn khổ Viện Đại học Vạn Hạnh. Khóa đầu, có tới trên một ngàn thanh niên, thiếu nữ và tăng ni trẻ tuổi ghi tên nhưng trường chỉ có thể thu nhận được ba trăm người. Một ngàn hai trăm gia đình Phật tử trên toàn quốc đã ký giấy ưng thuận đóng góp hằng tháng từ ba chục đồng đến một ngàn hai trăm đồng để chịu phần chi phí cho trường. Có những bà bán thuốc lá trên những vỉa hè thành phố, những cô dì bán rau cải ở chợ Cầu Muối mà cũng hoan hỉ đóng mỗi tháng ba mươi đồng cho các cô các cậu và quý tăng ni đi làm công tác xã hội giúp nước giúp dân. Đây là phong trào xã hội duy nhất tại miền Nam Việt Nam đã được nuôi dưỡng bằng tài chánh của quần chúng Việt Nam. Trường này không hề nhận tài trợ của Bộ Xã hội chính phủ Việt Nam Cộng hòa hoặc những chương trình xã hội được chính phủ Hoa Kỳ tài trợ. Năm nào trường cũng đào tạo thêm trợ tác viên tùy theo nhu yếu công tác địa phương và tài chánh của trường. Mãi đến năm 1968 khi số tác viên và trợ tác viên khá đông, trường mới bắt đầu nhận tài trợ của những hội đoàn nhân bản hòa bình ở hải ngoại. Các hội đoàn này hoàn toàn không dính líu gì đến những chương trình ủng hộ chiến tranh của chính phủ Hoa Kỳ và các nước liên hệ. Tới năm 1974, trường đã trở nên phần chủ lực trong Ủy ban Tái thiết và Phát triển Xã hội của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, hoạt động khắp trên lãnh thổ miền Nam. Các trung tâm định cư, làng hoa tiêu, làng tự nguyện, làng tái thiết được thực hiện khắp nơi. Số tác viên và trợ tác viên thực thụ của trường tuy có hạn nhưng nhân lực của các đoàn thể xã hội và thanh niên của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tại các tỉnh thị rất dồi dào. Từ 1972 trở đi, trường đã cộng tác với các cấp Giáo hội và do đó số người làm việc trong lĩnh vực tái thiết và phát triển xã hội của Phật giáo đã lên tới gần mười ngàn người. Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội được xây dựng trên lý tưởng cách mạng xã hội bất bạo động và chúng tôi đã thường tự nhắc rằng công tác xã hội của Phật giáo Việt Nam từ 1960 trở đi đã không còn có nghĩa là công tác từ thiện nữa mà đã mang màu sắc cách mạng xã hội bất bạo động và người làm công tác không phải là người ra thi ơn mà chỉ là người cộng tác với đồng bào để chuyển đổi tình trạng. V ì vậy cho nên sự hy sinh của các tác viên có thể được coi như là sự hy sinh của những chiến sĩ tranh đấu cho hòa bình chống lại ngu dốt, bịnh tật, nghèo đói.

Xin đứng bên nhau

Tng Thanh Văn

tôi kng hiu vì sao

tôi kng hiu đng cơ tâm nào

đã khiến nhng ngưi đng bào tôi

mang lu đn

ném vào các em tôi

tôi kng hiu vì sao có s xy ra

như thế đưc.

ti sao li giết các em

nhng ngưi con trai

trán còn ngây t

nhng ngưi con gái

tay còn lm mc hc t

nghe tiếng gi thương yêu

đã v đây

hc giúp xóm ng

gi gìn tr t

chăm sóc nương khoai vưn sn.

đêm qua nhng trái lu đn n

mưi hai ngưi sinh viên n gc

tan tành thân thiếu n

có em qun qui

mang sáu mươi mnh thép trong mt thân hình

có em đã nm yên i đt

ch T quc bình minh

đi hòa bình v mà hóa sinh thành cánh m.

cng tôi cn răng chp nhn

vì sao nhng qu lu đn đã n

tri quê hương đã rách

và đau thương cũng đã xy ra ri

nhưng còn trái lu đn đêm qua chưa n

kt trong ng đi

nghe tôi nói kng

còn trái lu đn đêm qua chưa n

trái lu đn

nm đó

trái lu đn

kt trong ng ngưi

chưa biết bao gi

n tung

nát tan thân T quc

nát tan hn dân tc.

 

cng tôi van xin

các anh hiu cho rng

cng tôi kng hn oán

cng tôi t khưc hn thù

thế gii chúng ta

T quc chúng ta

hôm nay cn tình thương trang tri

đến đây

xin nghe chúng tôi

gi pt cp ch ri

xin cùng nhau tháo g trái lu đn kia

ra khi cuc đi

ra khi ng đt nưc

ra khi tình ngưi

xin đng bên nhau!

 

Tôi không hiu vì sao…” Năm dòng đầu là lời của thầy Thanh Văn, Giám đốc Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội, trong một bài diễn văn đọc tại lễ cầu siêu cho những tác viên phụng sự xã hội bị kẻ lạ mặt tới thảm sát vào ngày 4 tháng 7 năm 1967 tại Bình Phước. Biến cố này đã xảy tới cho bốn tác viên Hy, Tuấn, Thơ, Lành. Họ bị bắn chết tại bờ sông Thủ Thiêm trong khi còn đang xúc tiến công việc phát triển cộng đồng tại xã Bình Phước tỉnh Bình Dương. Thảm trạng này xảy ra chỉ ba tháng sau khi những người lạ mặt đến tận Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội đêm 26 tháng 4 năm 1967 để giết tác viên của trường bằng lựu đạn. Mười hai người sinh viên đã gục ngã, người chết, người thì bị thương. Năm trước, sau khi thầy Nhất Hạnh lên đường xuất ngoại để kêu gọi hòa bình độ vài ngày, những người lạ mặt cũng đến tại khuôn viên trường và quăng lựu đạn làm cho Lê Văn Vinh vỡ óc và trở thành bán thân bất toại. Một trái lựu đạn đã được liệng vào phòng của thầy Nhất Hạnh. Không có mặt Thầy trong lúc đó, nhưng trái lựu đạn đã bị cái màn cửa hắt trở ra và nổ ở ngoài. Có một trái lựu đạn không nổ.

Tất cả ba vụ án mạng này đã được chính quyền điều tra, nhưng chính quyền không bao giờ công bố kết quả của cuộc điều tra cả. Trường cũng đã tiến hành riêng công cuộc điều tra của mình và sau đó không lâu, đã biết được thủ phạm thuộc về nhóm Công giáo quá khích dựa thế quân đội và chính quyền địa phương. Họ nghi ngờ Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội có khuynh hướng thiên tả và làm “công cụ cho Cộng sản”. Thật ra, đó là một thiểu số Công giáo thù ghét Phật giáo về vụ lật đổ chính quyền ông Diệm là nơi nương tựa của họ. Mỗi lần trường bị thảm sát như thế là thầy Thanh Văn lại tuyên bố: “Chúng tôi tin rằng quý vị đã hiểu lầm chúng tôi. Chúng tôi không theo một phe phái chính trị nào, chỉ đứng thuần túy trên lập trường nhân bản mà phụng sự”. Sau nhiều lần như thế, sự thảm sát đã dừng lại. Đó là nhờ thái độ bất bạo động không chịu thù ghét của trường; có thể cũng nhờ sự kiện chính quyền và những kẻ khác (như chúng tôi) đã biết ai là thủ phạm.

Tiếng gầm sư tử lớn

y bay – mây trắng bay 

một đóa tường vi nở

bay đó, vốn là mây

nở đó là hoa vậy

tường vi một đóa nở

y trắng từng cụm bay

không mây thì không bay

không hoa thì không nở

y là bay

hoa là nở

giả thiết và lập ngôn

hình bóng và khái niệm

đã mở ra trận đồ

điểm là nơi gặp gỡ

của hai đường tìm nhau

đường là điểm di chuyển

tôi dựng cao bằng thấp

i xây thấp bằng cao

i lập trái bằng phải

i chia nhiều bằng một.

bàn tay tôi năm ngón

nhng ngón dài ngón ngắn

là cành cây lá non

tư tưởng tôi sinh trưởng

như hoa nở thành búp

y sắc thân máu huyết

thịt xương và đờm dãi

tế bào và thần kinh

hình tượng và độc ảnh

thức ăn – và bài tiết

y đây những khớp xương

(mà ngày mai còn lại

không phải là của tôi

không phải là của anh

nhưng ôi tội nghiệp thay –

y huyễn giác vô thường

khiến em đã đôi khi

khóc thầm cho thân phận)

tư tưởng tôi gửi đi

mười phương sóng giao cảm

em tìm cách chép ghi

ngôn từ tôi nói ra

âm ba dồn dập chuyển

em tìm cách chép ghi

hình ảnh tôi chiếu rọi

miệng tôi nói, mắt cười

em tìm cách chép ghi

ngỡ rằng giữ lại được

chiều theo thời không gian

em tìm lại dấu vết

dấu vết y như thực

tôi chiếu lại khúc phim

nhng ngón tay em

lấm tấm trên màn bạc

t thương

t thương chi

British Museum hôm ấy

người đó nằm khum sấp xuống

nghiêng nghiêng vừng ưu tư

ba nghìn năm trước Chúa

ba nghìn năm sau Chúa

ô hay nào khác chi?

cát nóng đã giữ lại

như máy ghi âm kia

 

t nóng giữ được gì?

(hay chỉ là một tờ

thông điệp đau mầu nhiệm?)

da thịt tôi nóng mềm

u chảy tươi, êm ả

có những hạch tiết tuyến

chưa khô cạn hôm nay

có tinh dịch, nước bọt

có nụ cười rất tươi

có ước muốn, dự tưởng

i đã từng ôm lấy

cả cuộc đời trong tay

một chiếc bong bóng đỏ

trong tay em bé quê

vì máu huyết chưa khô

vì tinh dịch chưa cạn

có đã là mầu nhiệm

không cũng là mầu nhiệm

có không đều như nhau

không khác

chỉ ảo tưởng về tôi

tạo cảm giác khổ đau                  

 

thịt tôi mềm hôm nay

thần kinh tôi xúc động

nệm giường đời êm ấm

tôi nghe lời rên siết

ôi màu sắc tuyệt trần

bởi vì tôi có mắt

ôi âm thanh vi diệu

v ì tôi đang có tai

tuyt trần và vi diệu

là với mắt với tai

tuyt trần và vi diệu

là với manas này

có manas là vi diệu

không manas cũng là vi diệu

vi diệu là vi diệu

manas, manas ơi

không vi diệu là không vi diệu

manas, manas ơi

có có manas

không là không manas 

vi diệu là không hay là có

manas có hay kng

manas ô manas

kng manas ô kng manas

cả manas c kng manas

đều manas hết

có kng đu ba đt

manas, cho tôi i!

tôi gim chân khóc rng

khi m mt

hôm y nng mai hng

gió thi v na đêm

một ít nhiu nưc mt

thm lng chy thành ng

nhng tuyến ca nưc mt

còn cho a đông

mẹ i

m kng i

kng m hay có m

tôi gim chânlún đt

đất lún vào chân kng

 

hôm qua tri du nng

mẹ trng vài lung hoa

mẹ chết lúc na đêm

luống hoa lên

bông hoa i

y đng i

i đánh thy m

ô hay cái ông này k quá

cười hay kng i

lúc bây gi cũng hết

hết hay kng hết

y gi cũng hết

ông nói như đ điên

mắt em t đi

rng ngi yêu thương

hay kng

leo lên cây làm chi

để ri em s n

đặt vn đ làm chi

cho vô minh xao đng

cho ngăn tràn s sng

mắt em t đi

oán hn ngp tràn

bàn tay tôi đây

nước gii oan ty ra

ng kia vô ti

bông hoa, viên đn đng

nuôi nng cho hoa n

nhng chiếc gai đ châm

con sâu ăn cung non

con sâu xanh mu ngc

git nưc mt pha

giọt nưc bùn vn đc

ôi tôi biết nói gì

cười cũng ngu phu

khóc cũng ngu phu

vừa i li va khóc

ng vn ngu phu

không i cũng kng khóc

ng vn ngu phu

cười i khóc khóc

nở thêm hoa cho đi

trong khuôn mt thế gian

hoa vn thit hoa

bông hoa ca ng

ôm chm kng thi gian

thoát ra ngoài ng biên

vật cht tc đ

vật cht lưu chuyn

ôi n i giác ng

ôi n i quái đn

ôi n i hoc

ôi n i t bi!

Đây là một bài thơ rất lạ. Tôi thấy trong No v ca Ý có một đoạn văn có thể giúp cho chúng ta đọc lại bài thơ này một cách chăm chú hơn. Xin trích ra đây: “Steve ơi, tôi muốn kể Steve nghe câu chuyện này. Năm kia, khi ghé Luân Đôn tôi được đi xem British Museum. Trong những thứ tôi để ý nhất, có một xác người hóa thạch trong một ngôi mộ cát, chôn cách đây gần năm ngàn năm, nghĩa là ba ngàn năm trước Thiên Chúa giáng sinh. Kiểu chôn thời ấy khác xa với kiểu chôn bây giờ. Người ta đặt xác người chết nằm khum nghiêng nghiêng, hai gối co lên; mặt, hai tay và hai chân đều quay về phía tay trái. Xác người hóa thạch còn giữ được nguyên vẹn mọi chi tiết. Tôi thấy những lọn tóc – đây là xác đàn ông, tôi thấy mắt cá nơi hai chân, tôi thấy những ngón tay ngón chân nguyên vẹn. Năm nghìn năm, người ấy đã nằm như thế và sức nóng của cát trong buổi đầu đã giúp người ấy hóa đá. Đây không phải là xác ướp đâu, Steve đừng lẫn lộn. Tôi thích đứng ngắm cảnh tượng này và trong lòng cảm thấy một thứ rung động khó tả. Một em bé đi chơi với tôi, tám tuổi, xinh đẹp, ngắm cái cảnh tượng ấy một hồi rồi bá lấy áo tôi hỏi một cách lo lắng: “Will it happen to me” (Rồi con có bị vậy không, hở ông?)

Tôi rùng mình, nhìn lại nụ hoa nhân loại mơn mởn, yếu đuối và nhỏ bé không một khí giới tự vệ đó, dù là khí giới tư tưởng, và vội vàng trả lời: “Không, không, không bao giờ con lại bị như thế đâu”. Em bé an lòng; tôi vội kéo em đi sang phòng khác. Tôi đã nói dối một điều mà Xa Nặc ngày xưa không nói.

Nhưng mà ngày mai lại, công việc bề bộn làm tôi quên khuấy đi mất cái thân người hóa thạch kia. Rồi mấy tuần sau đó, tại đường Doudeauville Ba Lê, họp mặt với các bạn sinh viên bên đó, tôi được vặn cho nghe vài bản nhạc của ban Thăng Long trình diễn. Và trong một giây phút nào đó, nghe giọng cô Thái Thanh, tôi bỗng thấy hiện ra rõ rệt tất cả những cordes vocales nơi cổ họng của cô ca sĩ nổi tiếng mà tôi rất ưa chuộng. Tôi thấy được hết những hạch tiết tuyến nơi cổ họng, những tế bào, những bộ phận lớn nhỏ đã phụ họa với nhau để phát ra những âm thanh trong, ấm, thanh tao và kỳ diệu kia. Tôi chưa gặp Thái Thanh lần nào cả, Steve ạ. Hãy nghĩ rằng cô trẻ, đẹp và đằm thắm như giọng hát của cô, và chỉ giữ lại từng đó thôi. Nếu ta nghiêng mình lệch đi một tí, bình diện thời gian thay đổi, thì cô Thái Thanh đã ở bên kia tự bao giờ rồi, ví dụ năm nghìn năm về trước hoặc năm nghìn năm về sau. Băng nhựa không phải là những tế bào sinh lý, không phải là những nước bọt, không phải là những cordes vocales, không phải là những tình cảm len lỏi lả lướt trong giọng hát. Những băng nhựa cũng phát ra đúng những âm thanh mà cô Thái Thanh năm ngàn năm trước đây đã phát ra bằng cổ họng xinh đẹp của cô. Băng nhựa đã giữ lại, và băng nhựa giữ lại gì? Hay là một lời nhắn nhủ, một tờ thông điệp có thể gây đau nhức cho con người mà cũng có thể tạo nụ cười giải thoát trên môi con người? Một trận gió thổi qua sa mạc, cát bụi tung trời. Tôi nhớ hai câu thơ của thiền sư Trần Thái Tông:

Tm thi trn lim thiên biên tĩnh

Nguyt lc trưng giang d k canh?

(Giây lâu tan bi, bên tri lnh

Trăng ln ng ng, đêm my canh?)

Tối hôm đó tôi bị cảm hàn bởi hồi chiều tôi đã đi ngoài trời lạnh có mưa tuyết. Nguyên Ân đánh gió cho tôi bằng dầu cù là Mac Phsu. Tôi uống hai viên aspirine và đắp chăn kỹ lưỡng. Nhưng mà tôi không ngủ được, một phần có lẽ aspirine tuy có trị cảm nhưng lại giữ tôi thức giấc. Cái tật của tôi là uống aspirine ban đêm lại thấy khó ngủ.

Tôi nằm trăn trở hoài và một lúc nào đó tôi bỗng tình cờ thấy tôi đang nằm trong một tư thế giống hệt như tư thế của xác người hóa thạch ở British Museum! Và tôi thấy bàn tay phải của tôi đang sờ nắm những bắp thịt nơi cánh tay trái như là để xem những bắp thịt này đã cứng như những bắp thịt hóa thạch kia không. Cử chỉ ấy không được trí óc tôi điều khiển. Nhưng hình như trí óc tôi khuyến khích bàn tay tôi tiếp tục như vậy. Điều tôi muốn nói cho Steve nghe là tâm trạng tôi lúc đó bình tĩnh và thanh tịnh một cách rất lạ; tôi không hề có một ý niệm xót xa, lo lắng hay đau buồn nào. Bỗng dưng tôi thấy rằng giá tôi là thân người hóa thạch của năm ngàn năm trước đây hay năm ngàn năm sau đây thì điều đó cũng không có khác chi với điều tôi đang ngồi ở đây hết. Tôi vẫn cười như thường. Ý niệm về quá khứ, hiện tại và tương lai như bốc khói; Steve ơi, tôi thấy tôi đứng thấp thoáng ở cửa ngõ của một thứ hiện tại thoát ly thời gian, thoát ly mọi sự chuyển động.

Tôi chỗi dậy và ngồi trong tư thế thiền tọa suốt một đêm đó. Mưa như thác đổ trong tâm hồn tôi. Mưa như xối chảy. Những giọt nước to, những dòng suối nhỏ tuôn ào ạt vừa gột rửa, vừa vỗ về, vừa thấm nhuận, vừa nuôi dưỡng. Không còn gì hết, chỉ có sự vững chãi an tịnh. Tôi ngồi như một trái núi đá, và miệng tôi mỉm cười. Nếu có ai chứng kiến được những gì đã xảy ra cho tôi đêm đó chắc người đó sẽ nói: “Xong, xong hết tất cả rồi! Sáng mai sẽ có thay đổi lớn”. Nhưng không có sự thay đổi nào hết, Steve thân yêu ạ. Lúc đó bảy giờ sáng, tôi lấy giấy bút ghi lại một vài nét những điều còn dào dạt trong tâm hồn tôi. Những vần thơ lạ kỳ đó, tôi còn giữ đây. Và buổi sáng mai, tôi ăn điểm tâm với các bạn, bình thản như không có gì xảy ra trong đêm qua hết. Và chúng tôi bàn tính công việc. Vẫn là những công việc đã dự trù từ những ngày hôm qua. Những công việc cho tương lai. Steve nghe không. Cho tương lai. Nghĩa là tôi đã được đặt trở lui trên bình diện không thời gian ước lệ cũ.

Tôi bàn với các bạn trẻ về từng chi tiết của công việc, và chính tôi cũng ngạc nhiên không hiểu tại sao tôi lại có thể làm công việc đó, công việc mà người chứng kiến hiện tượng đêm qua có thể xem như là không dính líu gì tới con người đương sự hết. Đối với đêm qua, tất cả công việc hôm nay phải là hoa đốm hư không. Nhưng mà không, nó không phải là hoa đốm hư không. Đứng ở hôm qua mà nhìn thì nó khác. Đứng ở hôm nay mà nhìn thì nó khác. Nó không phải là hoa đốm hư không. Có một điều rất rõ rệt, là tuy tôi đề cập đến mọi chi tiết của công việc một cách kỹ lưỡng, để hết tâm ý vào chúng, nhưng tâm hồn tôi lúc đó thật là bình thản, thanh tịnh, không náo nức, không khiếp sợ, không lo lắng. Tôi thấy tôi có thêm nhiều sức mạnh và tâm hồn tôi được gạn lọc trong sạch hơn nhiều.

Steve, một đêm như thế quả có thể thay đổi được cả cuộc đời chúng ta. Và một đêm như thế lại sẽ mở cửa cho những đêm khác như thế. Tôi sẵn sàng để trở lại. Tôi thấy diện mục của tôi nó phảng phất đâu đây. Lần đó tôi đã suýt tóm được nó.”

Bỗng tan đi

sương đọng giọt

nhng đuôi lá trĩu xuống

trái cây sắp chín rồi 

trên buổi sáng trái đất

đường hoa thủy tiên

sáng lên

bỗng nhiên khởi sự tan sương đầu ngõ

thương tuổi nhỏ

đường mê

đêm thâu những giọt nến chảy dài

một nụ hoa vừa nở giờ này trên sa mạc hiu quạnh

đâu đây

một hành tinh lạnh

chưa bao giờ mang hình ảnh nương cau vườn sắn

chưa bao giờ

hiến mình cho sự sống

bỗng tan đi

niềm khát khao vĩnh cửu của con người

 

Câu “bỗng nhiên khởi sự tan sương đầu ngõ” trong Tiếng đập cánh in là “bỗng nhiên khởi sự vén mây đầu ngõ”. Có lần đọc bài này Thầy nói là nên chữa lại “vén mây” thành “tan sương” để cho hợp với lời “tan sương đầu ngõ vén mây cuối trời” trong truyện Kiều. Anh Võ Đình và chị Teo Savory dịch như sau:

Disappearance

the leaf-tips bend

under their weight of dew

fruits are ripening in

earth’s early morning

jonquils light up in the sun

the curtain of cloud at the gateway

of the garden path begins to shift:

have pity for childhood,

the way of illusion

late at night the candle gutters

this instant in

some distant desert

a flower opens

and somewhere else a cold

aster that never knew

cassava patch or gardens of areca palms

never knew the joy of life

at that instant disappears:

man’s eternal yearning

Đại trượng phu

cửa tùng đôi cánh khép

một mũi tên sáng loáng lìa dây cung

lao vút tới

mặt trời nổ tung

đầy sân hoa cam rụng

phảng phất

bóng vô cùng.

 

Đây là bài thơ tôi thích nhất trong tập Tiếng đập cánh loài chim lớn, anh Võ Đình có dịch ra Anh văn và đã minh họa bằng mực Tàu rất đẹp. Chị Michèle Chamant cũng đã dịch ra Pháp văn nhưng tôi thấy những bản dịch này chưa lột tả được tinh thần của bài thơ. Bản dịch của anh Võ Đình có chị Teo Savory góp ý được đăng lần đầu trong tạp chí Paintbrush (số 6, bộ III, năm 1976, Wyoming, Hoa Kỳ). Cũng năm này Unicorn Press lại cho in trong tập Zen Poems. Những bản dịch ấy như sau:

The virtuous man

the two leaves of the pinewood gate fall shut

a shinning arrow leaves the bow-string

speeds upward cleaving the sky

explodes the sun

the blossoms of the orange trees fall

until the courtyard is carpeted

 

flickering reflection

of infinity

L’homme vertueux

les portes de pin fermées

une flèche scinetillante

quitte la corde tremblante

 

lair se déchire

le soleil explose.

les fleurs d’oranger tombent

tombent

tapissent la cour

 

est l’ombre

de l’infini.