Một mũi tên rơi hai cờ ảo tưởng

“cũng như dòng suối về gặp đại dương

ngày mai ra đi anh nhớ hát lên khúc ca mùa mới

tiếng hát kia vẳng lại để đủ sức tiễn tôi trên một đoạn đường”

i sẽ không ra đi.

hoặc sẽ ra đi nhưng không bao giờ tôi đến.

nơi khởi hành có trăng mây gió nước, và nơi tôi đến, đón chờ cũng sẽ có hoa vàng trúc tím

là lá là hoa, em đã có tôi từ vô thỉ

và mầu xanh trời cao trong mắt em sẽ còn mãi mãi, nhưng vì không thấy, thương tôi, em đã bao lần nhắc chuyện ra đi,

sáng nay thức giấc ngủ trăng sao, vũ trụ làm rơi những giọt nước mắt trong như pha lê,

êm dịu sương khuya, hãy khóc cho hồn ngươi thêm đẹp

nước mắt sẽ biến hồn hoang vu thành nơi vườn quê tươi sáng, thanh lương thấm lòng trái đất, nâng niu lộc mướt chồi non,

ngày xưa những khi ngồi nhìn em khóc, tôi cũng đã ưng khóc để được dỗ dành.

ôi thiên nhiên

bà mẹ tóc xanh, xanh mướt đất trời, nụ cười đem về đầy bướm chim hoa lá,

là lá là hoa, em đã có tôi từ vô thỉ

và trong nhận thức mong manh em, tôi thực chưa bao giờ từng hiện hữu tử sinh.

 em có nhớ ngày đầu tiên khi mẹ đưa tôi về, nhờ năm nhóm nhiệm mầu, em mới trông thấy bóng hình tôi hiển lộ?

ngày mai bóng hình mất đi

em hãy mỉm cười

và bình thản tìm tôi trở lại

tìm tôi qua thanh sắc đã sinh và đã mất

để thấy rằng tôi vẫn còn chân thực

chưa bao giờ đi

chưa bao giờ đến

qua thời gian, qua nhận thức, qua chủ khách tồn sinh

tìm tôi và tiện dịp em tìm em

t khám phá nguyên sơ

chỉ cho em thấy rằng em là bất diệt

em sẽ thấy

không có gì đi, mất

và với một mũi tên thôi, em bắn rơi một lần hai lá cờ huyễn tượng

chân như sẽ xuất hiện mầu nhiệm nơi tử sinh.

tôi đang mỉm cười an nhiên trong phút giây hiện tại

nụ cười nở mãi trong bài ca mùa xuân bất tận

trong nụ cười kia em cũng sẽ thấy em còn mãi

bởi vì em quả thực chưa từng bao giờ hiện hữu trong ảo tưởng tồn sinh.

nụ cười hôm nay, ta sẽ nhìn thấy ngày mai

tận cuối đường ảo tượng

không có gì đã qua và đã mất

không có gì sẽ qua và sẽ mất

và suối chim khuyên em hôm nay

“hãy vẫn cứ là bông hoa hát ca.”

Theo tôi, bài này sở dĩ Sở Kiểm duyệt Sài Gòn bỏ là vì những người trong Sở Kiểm duyệt nghĩ tác giả đang tuyên truyền cho lập trường trung lập. Sự thật bài này không dính líu gì tới chính trị. Bài thơ này chỉ diễn tả cái thấy của tác giả về chân như và sinh diệt. Đây là một trong những bài mà Thầy vừa ý nhất. Hồi đầu năm nay, tôi có được Thầy cho đọc bản thảo truyện Tố của Thầy mới viết và tôi thấy nếu ta muốn thấu triệt những ý tưởng và hình ảnh trong bài thơ này thì chúng ta phải đọc truyện Tố; không biết bao giờ Thầy mới cho Lá Bối in tập truyện ấy.

Truyện Tố kể về chuyện một em bé gái chín tuổi bị mù vì thuốc khai quang và một em bé trai tên Thạch Lang từ một mỏm đá sanh ra, nghe tiếng sáo của Tố mà tìm xuống và hai đứa trở thành đôi bạn. Có Thạch Lang một bên, Tố không có mắt mà cũng như có mắt, bởi vì Thạch Lang nhìn và nói cho Tố nghe tất cả những gì nó thấy. Sau cùng, Thạch Lang tìm ra được nước Cam Lộ trên mỏm đá rửa mắt cho Tố khiến cho mắt Tố sáng lại như xưa. Lúc đó Thạch Lang đã trở về mỏm đá. Thạch Lang nói với Tố: “Trong Tố có anh rồi, và từ nay đi đâu Tố cũng có anh bên mình”.

Những biểu tướng sanh và diệt, tự và tha đều chỉ là những biểu tướng, một khi thực chứng được chân như thì những ràng buộc của sanh diệt không còn. Nếu Tố thấy được Thạch Lang là bất sanh bất diệt thì Tố cũng thấy được chính bản thân Tố là bất sanh bất diệt. Phép thiền quán này là một mũi tên mà bắn rơi được một lần hai lá cờ huyễn tượng tức là ảo tượng về sự sanh diệt của Thạch Lang và ảo tượng về sự sanh diệt của Tố. Năm nhóm trong bài thơ vốn là từ chữ ngũ uẩn, tức là sắc thân, cảm thọ, tư duy, hành nghiệp và nhận thức, những yếu tố phối hợp thành “ngã”.

Bắc một chiếc cầu

Tng Jacques Gasseau

có cây ngô đồng cho chim phượng đậu

có người đứng đó cho tình thương sâu

lut lệ nhiều khi như màn lưới sắt

giam người trong kiếp trầm luân thương đau

nhưng lòng nhân ái như bàn tay Phật

phá tan địa ngục đập nát u sầu

thành phố sáng nay nắng lên bát ngát

có chim bồ câu bay liệng trời cao

tôi nhớ tới người tấm lòng cương trực

nụ cười mát dịu như nước nhiệm mầu

trẻ thơ nhớ người như hoa nhớ nắng

như nước nhớ nguồn, như trăng nhớ sao

tâm đã quyết rồi hiềm gì bạo lực

thân đi vào đời cưỡi trên ba đào

bắc một cây cầu từ hang địa ngục

lên tới cõi trời, mở hội ngàn sao.

 

Tôi có biết Jacques Gasseau. Ông là một ông đại sứ nhưng không phải là một ông đại sứ như các ông đại sứ khác. Với những phương tiện do lòng thương người thúc đẩy, ông đã thực hiện được bao nhiêu phép lạ, giúp đỡ được rất nhiều người tị nạn đường biển vào được đất Pháp, vượt được cả những tấm lưới sắt tưởng không bao giờ vượt được. Bài này Thầy viết vào tháng 2 năm 1977 trên vịnh Xiêm La.

Lòng không bận về

ngi đây lắng tiếng chim bay

ba ngàn thế giới không đầy tấc gang

phương Tây vừa khuất quạ vầng

phương Đông thỏ ngọc đã ngang đỉnh đồi

trước sau có một mình tôi

nghe như có tiếng đất trời gọi nhau.

xut thiền lặng lẽ giây lâu

lá xanh rèm liếp bên lầu sáng trăng

sông xưa thuận nẻo dương trần

gió theo tám hướng, lòng không bận về.

Cái ô ram

nhiều người ở trại Xông La [1]

hoặc ở Xí Khíu hay là Liễm Xinh [2]

bởi chưng hải tặc hoành hành

bạc tiền mất hết thân hình xác xơ

ly tiền đâu mua tem thơ

để mà liên lạc cậy nhờ thân nhân

Ô Ram một cái năm đồng [3]

chy lui chạy tới vẫn không có tiền

nhắn với Phật tử dưới trên

cùng nhau đóng góp của riêng ít nhiều

nhịn ăn, bớt chút chi tiêu

sao cho mua được thật nhiều Ô Ram

gi về các trại Thái Lan

công đức vô lượng còn đang đợi người.

Đây là một bài thơ kêu gọi Phật tử đóng góp để mua aérogramme tặng cho đồng bào tị nạn tại các trại Songkhala, Sikkiu, Leam Sing và N.W.9 tại Thái Lan, đăng ở các báo Phật giáo Việt Nam (Los Angeles) và Hoằng Pháp (Paris). Ô-ram là tiếng của đồng bào tị nạn dùng để gọi aérogramme, thư máy bay nhẹ, giá năm bath một cái. Nhiều đồng bào tị nạn tới được bến với hai bàn tay trắng bởi vì tất cả tiền bạc áo quần và vật dụng đáng giá đều bị hải tặc lấy hết; muốn có một cái “ô-ram” để viết thư cầu cứu với bạn bè thân nhân ở nước ngoài mà “chạy lui chạy tới vẫn không có tiền”. Tại Phái đoàn Phật giáo Việt Nam, chúng tôi nhận được rất nhiều thư của đồng bào tị nạn từ các trại Thái Lan, Mã Lai Á và Nam Dương, nói rõ tất cả những khổ cực và gian nguy của những chuyến đi lánh nạn. Với sự góp sức của giới bạn hữu của Phái đoàn, trong những năm qua, chúng tôi đã giúp được một số đồng bào tị nạn từng lâm vào những tình cảm ngặt nghèo éo le nhất, bằng cách gửi tặng những số tiền nho nhỏ. Anh em trong Phái đoàn nhịn ăn mỗi tuần hai bữa chiều để biểu lộ tình liên đới và góp vào quỹ cứu trợ. Chúng tôi cũng đã in và gửi đến các trại những sách Đàm thoại Anh – Pháp – Việt để đồng bào học thêm sinh ngữ.

Bài “Cái Ô Ram” làm tôi nhớ tới bài thơ của Tản Đà đăng báo để quảng cáo văn phòng lý số Hà Lạc của ông tại Hà Nội, sau khi báo An Nam đình bản, thi sĩ đói và phải trở nghề bói số cho độc giả. Tôi nhớ mấy câu sau đây:

Nguyễn Khắc Hiếu Tản Đà

nay mai sắp ở Hà

Hà Lạc đoán Lý Số

đàn ông và đàn bà…

gần xin đến hỏi,

thơ gởi, người ở xa

còn như tiền đặt quẻ

nhiều 5, ít có 3 ($)

nhiều ít tùy ở khách

hu bạc, kể chi mà!

Không biết bài “Cái Ô Ram” có thành công hơn bài quảng cáo Số Hà Lạc của Tản Đà không? Và các báo Phật giáo Việt Nam Hoằng Pháp có thu được nhiều tiền để mua aérogramme tặng người tị nạn không? Tôi phải hỏi thăm thầy Mãn Giác (Los Angeles) và thầy Giác Hoàn (Paris) mới được. Nhân nói chuyện về danh từ “ô-ram”, tôi nhớ lại một danh từ khác cũng được đồng bào dùng rất nhiều tại các trại. Đó là danh từ “áp-ru”. Áp-ru tức là được một nước chấp nhận cho đi định cư tại nước của họ. Tiếng Anh là approved. Những lần đầu đọc thư đồng bào chúng tôi không hiểu. Nhưng sau đó chúng tôi hiểu, và từ đó danh từ áp-ru cũng được chúng tôi dùng với nhau trong văn phòng để có cảm giác gần gũi với đồng bào tị nạn các trại.

[1] Trại tị nạn Songkhla, Thái Lan.

[2] Trại tị nạn Sikkhiu và trại Leam Sing, Thái Lan.

[3] Năm đồng tiền Thái thời đó bằng 0,25 Mỹ kim hay 1,25 quan Pháp.

Mây trắng thong dong

nhớ thuở xưa – khi ngươi còn là đám bạch vân bay thong dong

ta theo nguồn múa ca đi về đại dương mênh mông.

ngươi lưu luyến chốn đỉnh cao, lắng tiếng reo cười ngàn thông

ta nhấp nhô trên sóng bạc, lên xuống vào ra muôn trùng

kịp đến khi thấy trần gian quằn quại lệ chảy thành dòng

thì ngươi biến thành mưa, nhỏ giọt tuôn tràn đêm đông

y đen mịt mờ một phương chừ, mặt trời hấp hối

ngươi gọi ta về, cùng nhau giăng tay nổi trận cuồng phong.

lòng thảnh thơi đâu, khi hoa ngàn cỏ núi còn rên siết hận bất công,

ngươi đưa hai tay thiên thần, quyết tâm tháo bỏ cùm gông.

trong khi bóng tối phủ đầy, họng súng đen ngòm bạo lực

xương dồn thành gò cao chừ, trong khi máu đã chảy dài thành sông

 

hai bàn tay ngươi giập nát, thương ôi, xích xiềng vẫn chưa tháo được,

ta gọi sấm sét về bên ngươi, quyết cùng bạo lực mở cuộc thư hùng.

gan dạ hơn người, trong đêm ngươi hóa thành Sư Vương rống lớn

hàng vạn loài ma quái nghe ngươi, đã cầm cập run trong đêm sương

hiên ngang không lùi bước chừ, dù phía trước dày đặc hầm chông,

ngươi thản nhiên đưa mắt nhìn bạo lực chừ, như nhìn vào khoảng không

Sống Chết là chi chừ, ép uổng nhau sao được?

ngươi gọi tên ta mà cười chừ, không một lời rên siết, dù tra tấn cùm gông

y giờ thoát đi, xiềng xích chẳng còn buộc nổi chân thân,

ngươi trở về kiếp xưa mây trắng, thảnh thơi trên bầu trời mênh mông;

Đến, Đi tự ngươi – đỉnh cao nào thích thú thì ngươi dừng lại,

cưỡi trên sóng bạc đầu chừ, ta hát ru ngươi khúc hát bi hùng.

Nguyệt san Phật giáo Việt Nam xuất bản tại Los Angeles, Hoa Kỳ do thầy Mãn Giác chủ trương đã in bài này trong số đặc biệt Mây trắng thảnh thơi bay kỷ niệm Thích Thiện Minh (số 18 và 19, tháng 12 năm 1979). Thầy Thiện Minh là một trong những vị cao tăng Việt Nam hiện đại, đã từng đóng góp lớn lao cho phong trào phục hưng Phật giáo từ 1949 đến 1974. Là một người túc trí và can trường, Thầy đã từng bị ám sát và sau đó bị chính quyền ông Nguyễn Văn Thiệu kết án mười lăm năm khổ sai, sau đó lại bị chính quyền Hà Nội giam giữ trong trại học tập và cuối cùng đã bị bức tử vào ngày 18 tháng 10 năm 1978.

Tại Pháp, thầy Nhất Hạnh được điện báo về hung tin này ngày 21 tháng 10 năm 1978; Thầy đã chỉ thị cho chúng tôi trong Phái đoàn làm ngay một bản tin gửi tới các hãng thông tấn quốc tế tại Paris. Bài thơ được làm ngay tối đó.

Trong tờ Phật giáo Việt Nam in tại Los Angeles, những chữ ngươi đã được in lầm thành chữ người vì vậy hùng khí của bài thơ bị giảm đi khá nhiều. Nay xin trích lại theo nguyên văn trong Dấu chân trên cát.

Khứ lai

t chữ này

mảnh giấy này

du chân trên cát

tượng mây giữa trời

ngày mai, tôi đã đi rồi.

Bốn chữ Dấu chân trên cát làm đầu đề tập thơ chưa xuất bản đã được lấy ra từ bài thơ nhỏ này. Michèle Chamant đã dịch ra Pháp văn như sau:

Voyages du Temps

 ces coups d’encre noir

cette feuille blanche

des pas imprimés sur le sable

des nuages sculptés dans le ciel

demain

cest le départ.

Lời người dân lao động Sài Gòn

(1)

từ lòng đất

cng tôi đứng dậy

tìm về tiếng nói chính nghĩa

cng tôi đi, như một dòng sông

thành lập một chính quyền dân sự

cng tôi nói: được!

ủng hộ nội các chiến tranh

cng tôi nói: không!

đoàn người hướng về đại nghĩa

cng tôi đi, cuồn cuộn như một dòng sông

nhà thương

trường học

tình huynh đệ

cng tôi nói: có!

chiến tranh

động viên

leo thang

chúng tôi nói: không!

v ì tương lai dân tộc chúng tôi đi về, hòa hợp,

nghe tiếng biển cả

xuôi về, như dòng Cửu Long

đoàn kết tôn giáo

thương thuyết hòa bình

chúng tôi nói: có!

đốt làng đốt xóm

cht độc hóa học

bắt bớ tù đày tra tấn

chúng tôi nói: không!

tiếp tục chiến tranh, chúng tôi nói không! chúng tôi nói không!

(2)

chúng tôi không cần nội các chiến tranh

chúng tôi diễu hành hôm nay

tay trong tay

bạn tiểu thương gồng gánh

thợ thuyền xích lô xe ba bánh

biểu ngữ tung cao

đòi thành lập nội các hòa bình

các người giết nhau đến bao giờ

đt nước thống khổ điêu linh

cng tôi đòi hòa bình hòa bình hòa bình

nghĩa là đòi chấm dứt chiến tranh

các người đã nghe rõ chưa

cng tôi đòi hòa bình

nghĩa là đòi những người trong một nước

tự giải quyết lấy những hiềm khích

không thể rước voi về giẫm nát quê hương

thôi đừng tiếp diễn trò hề

chụp mũ chúng tôi là theo đuôi cộng sản

trong lòng thủ đô rên siết

khi tiền bạc bạo quyền bốn bề gây ô nhục

không có tiếng nói người có ăn có học

thì để chúng tôi đứng lên đòi chấm dứt chiến tranh.

Năm 1966, các tổ chức công nhân lao động ở Sài Gòn đã biểu tình lớn ngày Quốc tế Lao động (1 tháng 5) để kêu gọi đoàn kết tôn giáo, chống đối chính sách đàn áp của “nội các chiến tranh” do tướng Nguyễn Cao Kỳ cầm đầu và đòi thương thuyết hòa bình. Hồi ấy “thương thuyết hòa bình” là hai tiếng quốc cấm. Hai bài thơ trên đây đã được làm ra trong dịp biểu tình ấy. Nếu tôi không lầm thì trước ngày biểu tình mấy hôm anh em trong ban tổ chức có tới xin ý kiến Thầy về nội dung những biểu ngữ sẽ tung ra trong ngày ấy. Lúc đó tôi vừa giữ chức chủ tịch Tổng hội Sinh viên Vạn Hạnh nên cũng có cử một số anh em đến hợp tác với các lực lượng công nhân thợ thuyền để bảo đảm thêm cho tính cách bất bạo động của cuộc biểu tình, không để cho các phần tử phá hoại chen vào khiêu khích cho cảnh sát đàn áp. Cuộc diễu hành đã rất nghiêm chỉnh và hùng tráng; người tuy đông như thác, nhưng tất cả điều diễn biến trong vòng trật tự và không có đáng tiếc xảy ra.

Xin cúi đầu đưa về

đây hai bàn tay tôi

xin trả về cho em

thành khẩn nguyện cầu xin đừng nghiến nát

tôi đã trở về, như một kẻ đầu hàng ngoan ngoãn

dù muôn khổ đau, lòng không oán than,

bởi vì dưới ngôi sao em tôi đã sinh ra,

bởi vì vì em tôi mới sinh ra

để vạn kiếp làm người trai khờ dại

đây hai bàn tay tôi

là trái tim

là khối óc

là cuộc đời

là tất cả những gì còn sót lại

nhng bàn tay không mang quyền phép lạ

nhưng đã hơn một lần nhỏ máu trên cung bực thương yêu

 

đây hai bàn tay tôi

xin trả về cho em

kẻ thương yêu, mẹ dạy, không bao giờ tính toán

cỏ mộ úa vàng, cũng như hoa hồng đương lứa

thương yêu muôn đời vẫn hạt sương trong

đây hai bàn tay tôi

xin cúi đầu đưa về

em nhìn xem: những vết thương ngàn xưa vẫn chưa lành dấu máu

mười ngón đơn sơ hồn em xin đậu

như những giọt sương ngời đầu ngọn cỏ rung rinh

 

đây hai bàn tay tôi

mt kiếp luân hồi không xóa nhòa thương tích

nụ cười còn đây, tôi không bao giờ oán trách

còn đây tâm hồn thơ dại ngày xưa

đây hai bàn tay xưa

băng bó vẫn chưa lành

tôi mang về trả lại

thành khẩn nguyện cầu xin đừng nghiến nát

nguyện cầu mười phương trăng sao chứng minh.

Tuần san Hải Triều Âm số 2 ra ngày 30 tháng 4 năm 1964 có đăng một truyện ngắn của Thầy lấy tên là Câu chuyện người con trai khờ dại. Bài này chắc hẳn có liên hệ tới bài thơ Xin cúi đầu đưa về. Câu chuyện người con trai khờ dại được viết từ năm 1960. Hồi đó anh Huệ và Bá Dương, anh Khan, chị Hà, Nhiên, Chi và tôi có được đọc bản thảo. Có một điều ít ai biết là Thầy rất ghét các tổ chức Phật giáo, tổ chức nào cũng vậy, kể từ các hội Phật học cho đến Tổng hội Phật giáo Việt Nam. Thầy nói Thầy không bao giờ chịu nổi những ông hội trưởng, phó hội trưởng, cố vấn,… của bất cứ một cái hội nào. Có lẽ vì thế mà Thầy chưa bao giờ giữ một chức vụ lớn nhỏ gì ở bất cứ tổ chức Phật giáo nào kể cả Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất mà Thầy đã từng lên tiếng bênh vực. Thầy nói trong các tổ chức Phật giáo, đã đành có người tốt có tâm đạo, nhưng cũng có rất nhiều những bộ mặt danh lợi, vào hội để chiếm giữ những địa vị để có thể ăn nói với ngoài đời. Tuy Thầy đã từng làm chủ bút báo Phật giáo Việt Nam, cơ quan chính thức của Tổng hội Phật giáo Việt Nam và chủ bút tuần san Hải Triều Âm, cơ quan ngôn luận của Giáo hội Phật giáo, nhưng Thầy luôn luôn dùng những cơ quan ngôn luận đó để “xây dựng” lại tổ chức Phật giáo – chủ sở hữu của tờ báo. Cũng vì vậy mà ông Chánh Trí Mai Thọ Truyền, tổng thư ký Tổng hội Phật giáo, không ưa báo Phật giáo Việt Nam, cũng như thầy Tâm Châu, viện trưởng Viện Hóa đạo, không ưa báo Hải Triều Âm. Từ năm 1960, Thầy đã có ý quyết đoạn tuyệt với những phiền não của hội hè để chuyên việc nghiên cứu, sáng tác và thiền tập. Nhưng tới cuối năm 1963, sau khi chính thể Ngô Đình Diệm sụp đổ, Thầy lại phải bắt buộc trở về với tổ chức Phật giáo. Lý do thứ nhất là lá thư thâm thiết của thầy Trí Quang gởi qua Nữu Ước (hồi đó Thầy còn dạy học tại Đại học Columbia). Lý do thứ hai là Giáo hội Thống Nhất có thể là động lực và phương tiện tranh thủ được hòa bình cho đất nước. V ì những lý do ấy mà Thầy phải “cúi đầu đưa về” “hai bàn tay” của Thầy cho tổ chức Phật giáo một lần nữa. Hai bàn tay mà theo Thầy, đến năm 1963 “băng bó vẫn chưa lành”.

Chân dung

Buổi sáng có mặt trời, ơi vũ trụ, ta muốn ôm ngươi vào hai tay. Buổi sáng có chim hót và chị bán xôi đi ngang ngõ trúc, ơi quê hương, ta muốn ôm ngươi vào hai tay. Buổi sáng có chợ họp, ôi thế gian, ta muốn ôm ngươi vào hai tay. Chỉ còn hai mươi giờ nữa thôi, tôi đã không còn có mặt ở đây. Tôi sẽ giao tôi cho lửa.

Buổi sáng có mặt trời, ôi quê hương, ôi thế gian, ôi vũ trụ. Hiện hữu đẹp vô ngần. Tôi luyến tiếc ngươi, tôi yêu dấu ngươi. Tôi nhớ thương ngươi. Tôi sẽ không mang theo được một lá cây nào, một hạt sỏi nào. Mỗi lá cây đều quý hóa vô ngần. Mỗi hạt sỏi đều quý hóa vô ngần.

Buổi sáng thức dậy, ô hay, mình đã ngủ, mình đã ngủ an lành. Buồn cười chưa, tôi như một trẻ thơ, ngủ ngon như người vô sự. Bàn tay ơi, có phải trách vụ ngươi là đúng sáng ngày hôm ấy sẽ gọi lửa về? Bàn tay áp lên má tôi. Bàn tay ơi, ngươi là người cộng sự trung thành. Bàn tay kẹo bánh. Bàn tay bút phấn. Bàn tay tơ lụa. Bàn tay mái tóc cô nhi.

Buổi sáng thức dậy, ôi tôi muốn sống. Tôi muốn sống mãi, sống hoài. Mỗi buổi mai hồng, mỗi buổi mai sáng trong, mỗi buổi mai mở đầu cho một ngày đầy như một trang giấy trắng tinh đợi chờ chữ nghĩa. Tại sao vũ trụ đẹp lên kỳ diệu vô cùng? Tại vì tôi sắp chết? Tại vì tôi mở mắt? Ôi những vì sao xa ơi, những vì sao xa.

Buổi mai thức dậy, da mặt tôi, bàn tay tôi và thau nước trong. Tôi muốn bơi trong dòng nước pha lê. Tôi muốn là con cá nhỏ. Buổi mai thức dậy, cửa sổ mở ra trên không gian thơm mát khi trời trinh nguyên. Tôi muốn tung bay nơi hư không. Tôi muốn là con chim nhỏ.

Buổi mai thức dậy, trời ơi, có lũ học trò qua ngõ, tíu tít như đàn chim. Các em hãy đi tới, hãy đi tới, hãy hướng về chân trời an lành, nơi đó không có đau thương, không giết chóc. Phía sau này tôi lao mình và ngăn lửa máu. Đi mau về phía trước, các em ơi. Phía sau này, núi đá, trường thành, rừng cây tuôn ra ngăn lửa máu.

Có một chị, có một anh, phía trước kia đang chờ. Lớp học sẽ thỉnh thoảng có chim bướm lạc vào, sẽ có hoa hồng treo cửa sổ đem hương theo quyến rũ. Kẹo bánh chuyền nhau dưới gậm bàn, anh biết vẫn mỉm cười, chị biết vẫn làm lơ. Bài chính tả đọc bằng giọng miền Nam, hỏi ngã mỗi khi viết sai thì chỉ tính bằng nửa lỗi. Tôi thương những mái tóc, tôi thương những cặp mắt, tôi thương cả những vết mực trên áo, trên mặt, cả những dòng mũi chảy thò lò.

Đường phố thiên hạ đầy người. Cô nghĩ chi, bác nghĩ chi? Anh lo gì chị buồn gì? Mỗi người một nỗi lo, mỗi người một tâm sự. Mọi người đi theo công việc mình buổi sáng. Tôi cũng đi lủi thủi một mình. Tôi đi dưới đất mà là đi trên cao. Tôi còn ở đây nhưng tôi đã đi rồi. Hai mươi giờ đồng hồ còn lại. Tôi không hé môi tâm sự với một người nào. Tôi không cô đơn, tôi không cô đơn. Bạn bè ơi, loài người ơi, anh chị ơi, tôi thương. Tôi thương trái đất chúng ta, và nước mắt tôi tuôn trào. Tôi cúi đầu dùng tay áo lau nước mắt. Tôi mỉm cười chữa thẹn. Tôi còn biết thẹn bởi vì tôi còn thương yêu, luyến tiếc. Một mình tôi, tôi đi.

Bạn bè ơi, thôi cho tôi xin đi, đừng giận dỗi. Xin đừng tiến lại gần. Xin hãy tránh xa đi để tôi sống như điều tôi tâm nguyện. Tôi muốn ôm từng anh, từng chị, từng em mà khóc. Nhưng mà như thế thì hỏng hết, hỏng hết. Nước mắt sẽ làm tiêu tan hết chút ý chí cần thiết. Tha lỗi cho tôi, các bạn; tha lỗi cho con, ba má nghe; tha lỗi cho em nghe, các anh chị; tha lỗi cho chị nhé, các em, các em mến yêu.

Dòng sông ơi, tôi còn nhớ câu chuyện dòng sông. Cho tôi làm người lái thuyền để mỗi sáng mỗi chiều nghe sông xanh nói chuyện. Cầu Ông Lãnh. Những chiếc thuyền chở khẳm nồi niêu đỏ chói. Những chiếc thuyền chở đầy những tĩn nước mắm. Những bà hàng bán cau môi đỏ như trầu, khăn rằn che tóc. Quê hương đẹp biết bao nhiêu. Ôi còn nào chùa, nào luỹ tre, nào vườn cau, nào giàn trầu, nào bến sông quen thuộc. Tôi muốn quay trở lui. Nhưng quay trở lui cũng không tìm thấy quê hương.

Đt quê hương, tôi đang đếm bằng những bước chân. Đất quê hương, bom đạn cày nát. Lời cầu nguyện cho những khu vườn xanh, có trúc đào, có xương rồng trước ngõ. Chắp tay tôi nhận chịu lửa đỏ như một lời cầu nguyện. Cho tôi thấy phố thấy nhà lần chót. Cho tôi thấy trăng thấy sao. Cho tôi thấy người, thấy đồng bào cười nói. Cho tôi ôm tất cả vào hai vòng tay nhỏ. Tôi đã tìm thấy. Anh chị em ơi, tôi đi nhưng tôi còn ở lại. Sáng mai mặt trời mọc, thơ tôi sẽ tới với người.

Đây là một bài thơ theo kiểu văn xuôi Thầy viết để tưởng nhớ chị Nhất Chi Mai, người tự thiêu cho hòa bình tại chùa Từ Nghiêm sáng mồng 8 tháng Tư âm lịch năm 1967. Chị Mai là một trong ba chị đầu tiên thọ giới dòng tu Tiếp Hiện. Bài thơ này được in trong tập Chim về trên không do Viện Hóa Đạo ấn hành năm 1971, kỷ niệm ngày giỗ thứ tư của chị. Bài Chân dung này được Thầy ký tên là Thạc Đức.

Hoa mặt trời

em đến đây, bằng đôi mắt hồn nhiên

nhìn mầu xanh của pháp thân hiển hiện:

dù thế giới tan tành

nụ cười bông hoa cũng không bao giờ còn tan biến

cng ta đã được gì hôm qua và sẽ mất gì sáng nay?

em đến đây

theo ngón tay tôi, nhìn thẳng vào thế gian điểm tô bằng ảo tượng:

hoa mặt trời mọc rồi

muôn hoa khác đều quay về quy ngưỡng.

Hoa mặt trời, theo tôi, có lẽ là trí tuệ biến chiếu của Phật làm tiêu tan mọi ảo tưởng trên thế gian.