Lời nguyện cầu hướng về Đất Mẹ

earth

Kính lạy Mẹ, Mẹ là một hành tinh, là Mẹ của tất cả mọi loài, trong đó có loài người chúng con. Các con của Mẹ có đến hàng triệu chủng loại, loài nào cũng có ngôn ngữ của loài ấy. Vì Mẹ là Mẹ của tất cả chúng con nên Mẹ biết hết mọi thứ ngôn ngữ, kể cả ngôn ngữ của loài người, cho nên chúng con rất thoải mái mỗi khi được trò chuyện với mẹ và dâng lời cầu nguyện lên Mẹ.

Mẹ là hành tinh xanh, là Bồ Tát Thanh Lương Địa

Con cúi lạy Mẹ trong ý thức sáng tỏ là Mẹ đang có mặt trong con và con là một phần của Mẹ. Mẹ đã đưa con ra đời, Mẹ đã cung cấp mọi thứ để nuôi dưỡng con, trong đó có không khí cho con thở, nước trong cho con uống, thực phẩm cho con ăn và cây lá cho con trị bệnh. Con biết con sẽ không bao giờ chết bởi vì nếu Mẹ đã đưa con ra đời một lần thì Mẹ sẽ đưa con ra đời muôn vạn lần khác nữa. Mỗi lần con biểu hiện là một lần con trở thành mới tinh và mỗi lần con trở về là Mẹ lại từ bi đưa hai tay ra ôm lấy.

Mẹ là đại địa, Mẹ là Terra, Mẹ là Gaia, Mẹ là hành tinh xanh, Mẹ là Bồ tát Thanh Lương Địa. Mẹ rất thơm tho, rất mát lành. Mẹ rất xinh đẹp. Mẹ có khả năng tiếp nhận, giữ gìn và chuyển hóa tất cả. Kể cả đờm dãi tanh hôi, kể cả khí độc, kể cả phóng xạ nguyên tử Mẹ cũng có khả năng ôm ấp và chuyển hóa. Mẹ có dư dã thì giờ để làm việc ấy và nếu cần Mẹ có thể để ra một triệu năm.

Mẹ có bao nhiêu là con, các con của Mẹ có tới hàng triệu chủng loại, trong đó có con người. Chúng con có nhiều đứa vì tham lam, vì kiêu căng, vì ngu si không nhận ra được Mẹ, đã gây ra bao cảnh tàn khốc cho nhau và làm hại tới sức khỏe cũng như nhan sắc của Mẹ. Chúng con biết Mẹ có đủ sức ôm ấp và chuyển hóa, nhưng chúng con vì đã và đang dại dột nên vẫn còn tiếp tục khai thác và đấu tranh khiến đôi khi Mẹ phải nhọc lòng.

Đức kiên nhẫn và sức chịu đựng vô cùng lớn của Mẹ đã làm cho Mẹ trở nên một vị Bồ tát lớn, một nơi nương tựa vô cùng vững chãi cho tất cả chúng con. Mỗi khi chúng con lao đao, mỗi khi chúng con đánh mất tự thân trong quên lãng, trong buồn tủi, trong hận thù và tuyệt vọng, chúng con phải trở về thực tập địa xúc, tìm nơi nương tựa nơi Mẹ để lấy lại sự bình an, để phục hồi niềm vui sống và đức tự tin. Chúng con biết chúng con đều là con của Mẹ và dù chúng con có gây ra bao nhiêu lầm lỗi, chúng con cũng được Mẹ tha thứ, và mỗi lần trở về với Mẹ là Mẹ sẵn sàng đưa vòng tay từ mẫu ôm lấy chúng con vào lòng. Chúng con có được tính bất sinh bất diệt là nhờ Mẹ. Mẹ cất chứa trong lòng Mẹ bao nhiêu kho tàng của năng lượng, chúng con nguyền sẽ sử dụng những kho tàng năng lượng đó một cách khéo léo để chúng đừng khô cạn, và để Mẹ khỏi phải tinh chuyên trải qua hàng triệu năm để phục hồi.

Đất mẹ là vị bồ tát xinh đẹp nhất mà con thấy

Mẹ không phải chỉ là Mẹ của chúng con mà còn là Mẹ của nhiều vị Bụt và nhiều vị Bồ tát khác.

Đức Thích Ca, thầy gốc của chúng con, cũng là con của Mẹ. Bồ tát Quan Âm Nam Hải và Quan Âm Thị Kính cũng là con của Mẹ. Mẹ đồng trinh Maria cũng là con của Mẹ. Thánh mẫu Liễu Hạnh cũng là con của Mẹ. Bồ tát Thường Bất Khinh và Bồ tát Địa Tạng cũng là con của Mẹ. Cha mẹ của chúng con cũng là con của Mẹ. Nhiều đứa con của Mẹ được Mẹ giáo dưỡng nhiều kiếp cũng đã trở thành những vị Bồ tát có khả năng giáo hóa và biết cách bảo hộ cho Mẹ. Có những vị Bồ tát có khả năng tiếp xúc, tìm hiểu và giúp Mẹ thiết lập được liên hệ với những tinh cầu khác trong Thái Dương Hệ, trong dải Ngân Hà và với những dải tinh hà khác trong vũ trụ. Mẹ đã thiết lập được liên hệ hòa điệu với những tinh cầu khác của Thái Dương Hệ, nhất là với Mặt trời và Mặt trăng, và vận hành đều đặn trong tương tức với các hành tinh ấy để tạo nên ngày đêm và bốn mùa. Chúng con biết Mẹ là một vị Bồ tát trong số những vị Bồ tát xinh đẹp nhất và rất hiếm có trong vũ trụ. Chúng con biết Mẹ có đức kiên nhẫn và chịu đựng rất lớn cho nên chúng con hết lòng tin tưởng và nương tựa vào Mẹ.

Mẹ đã được biểu hiện từ khoảng 4,5 tỷ năm trước, và Mẹ đã chờ đợi tới hơn 3,5 tỷ năm mới đưa được chúng con ra đời và trở nên một hành tinh xinh đẹp, đầy sức sống như hiện nay. Từ trong lòng đại dương, sự sống bắt đầu sinh sôi nẩy nở trên thân hình Mẹ và làm thay đổi bầu khí quyển để cho biết bao nhiêu chủng loại mới được biểu hiện. Sau một tỷ năm, lượng oxy tích tụ trong bầu khí quyển đã tạo nên tầng ozone có tác dụng ngăn chặn những tia phóng xạ độc hại giúp cho sự sống được lan tràn trên mặt đất.

Trong những tỷ năm đầu Mẹ đã đi qua những giai đoạn khó khăn để tạo ra bầu khí quyển. Mẹ đã phải thở ra những chất hơi nồng rực và phun lửa từ các hỏa Diệm Sơn. Trong quá trình đó, khí gas thoát ra từ bề mặt của Mẹ tạo thành hơi nước trong khí quyển; cùng với nước và băng do các tiểu hành tinh và các sao chổi trên không, hơi nước ấy đã giúp Mẹ tạo ra được đại dương. Nhờ có các chất khí nhà kính đã giữ lại sức nóng từ mặt trời nên các đại dương kia không bị đóng thành băng. Thêm vào đó, lực hấp dẫn và từ trường của Mẹ đã giúp cho bầu khí quyển không bị thổi bay đi vì những cơn gió lớn phát xuất từ mặt trời cũng như những tia vũ trụ, nhờ vậy mà sự sống được duy trì.

Chúng con biết trước khi hình thành bầu khí quyển, Mẹ đã phải chịu đựng sự va chạm của một thiên thể lớn bằng sao Hỏa và một phần khối lượng ấy đã đi vào Mẹ. Một phần khác của thiên thể và một ít da thịt Mẹ đã bị đánh bật và tách rời ra thành một hành tinh khác gọi là Nguyệt cầu. Mẹ ơi, Nguyệt cầu là một phần của Mẹ, cũng đẹp như một nàng tiên, và đó là dì Trăng của chúng con. Dì luôn luôn đi theo Mẹ, níu áo Mẹ, giúp cho Mẹ đi chậm lại và giữ được sự cân bằng, đồng thời tạo ra thủy triều sớm tối trên hình hài Mẹ.

Cha của chúng con là Mặt trời, là một vị Bụt lớn, là Đại Nhật Như Lai.
Và cha đang có mặt trong Mẹ và trong con.

Lạy Mẹ, con biết Mẹ luôn luôn cần đến Cha để có thể tiếp tục sinh ra chúng con và nuôi dưỡng chúng con. Cha con là mặt trời. Mẹ đi theo Cha, và vận hành theo một quỹ đạo quanh Cha 365 ngày trong một chu kỳ có xuân hạ thu đông, làm nên một năm 12 tháng. Ánh sáng của Cha chiếu rọi làm cho Mẹ ấm áp tạo thành hiệu năng quang hợp và giúp Mẹ làm ra sự sống cho chúng con. Mẹ cũng đã từ cùng một tinh vân với Cha mà tới. Đường kính của Cha lớn tới 100 lần đường kính của Mẹ. Ánh sáng của Cha cần tới 8 phút đồng hồ mới đi tới được Mẹ, dù khoảng cách giữa Cha và Mẹ chỉ vào khoảng 150 triệu cây số.

Kính lạy Mẹ, mỗi khi con chiêm ngưỡng Mẹ, con thấy Cha trong Mẹ và trong con. Cha con không phải chỉ ở trên trời mà cũng ở dưới đất và đang có mặt trong Mẹ và trong con. Mỗi buổi sáng Cha con xuất hiện từ phương Đông như một chiếc đĩa hồng chói lọi, hào quang phóng ra muôn phương rạng rỡ uy hùng không thể nào tả nổi. Cha con là Mặt trời, là Sol, là Surya, là Sunna. Cha con là một vị Bụt lớn, một vị Bồ tát lớn, là Đại Nhật Như Lai, là Vô Lượng Quang, là Vô Lượng Thọ, là Amitabha, là thần Thái Dương. Cha con có cơ thể lớn hơn cơ thể Mẹ rất nhiều. Tuy là một bậc Cha hiền, có lượng cả bao la, nhưng Cha con uy dũng vô cùng và cũng vô cùng dữ dội. Cái vương miện mà Cha con đội đầu nóng hơn 5500 độ C, cho nên Cha con đang mang hình thức loãng, không có được cái vỏ ngoài đặc cứng và cố định như chiếc áo sinh quyển xanh tươi duyên dáng mà Mẹ đang khoác.

Cha con là một vì sao trong số ít những vì sao lớn nhất của dải Ngân Hà. Tám mươi lăm phần trăm những ngôi sao của tinh hà này đều nhỏ bé hơn Cha. Khối lượng của Cha tuy vĩ đại như thế, 330.000 lần lớn hơn khối lượng của Mẹ, nhưng khối lượng ấy đang tiêu mòn từ từ, vì mỗi giây Cha con đều hiến tặng một ít khối lượng ấy cho thế gian dưới hình thái năng lượng: đó là năng lượng ánh sáng. Sự sống có được trên hình hài Mẹ là nhờ Mẹ con ta tiếp thu được ánh sáng ấy, nhờ quá trình quang hợp. Tuy là một đấng Vô lượng Thọ, nhưng Cha con cũng vô thường, và đến một ngày gần như tất cả khối lượng vĩ đại của Cha sẽ trở thành năng lượng. Sắc tướng hiện thời của Cha sẽ không còn nữa, nhưng với năng lượng phát ra, Cha sẽ tiếp tục biểu hiện dưới những sắc tướng khác. Tuy nhiên, ngày ấy còn xa lắm, nghĩa là ít nhất cũng mười tỷ năm nữa. Hào quang của Cha phóng ra là sự tiếp nối của Cha, và năng lượng ấy không bao giờ mất đi dù là một quang tử, cho nên Cha con vẫn mãi là đấng Vô lượng Thọ.

Kính lạy Mẹ, chúng con đã biết được rằng Cha chúng con, Mặt trời, là một trong những vì sao lớn nhất và sáng nhất trong dải Ngân Hà, một tinh vân gồm có khoảng 200 tỷ ngôi sao. Hệ Thái Dương của Cha con đang vận chuyển trong giải Ngân Hà ấy, và Mặt trời của chúng con là một vị Bụt đang được vây bọc bởi một chúng hội các hành tinh khác. Mẹ là hành tinh xinh đẹp nhất trong bốn hành tinh đang vận chuyển ở phần bên trong của hệ Thái Dương. Sao Thủy (Mercury) là hành tinh có quỹ đạo gần Cha con nhất, rồi đến sao Kim (Venus), rồi mới tới Mẹ. Sau Mẹ thì tới quỹ đạo của sao Hỏa (Mars). Giữa sao Hỏa và sao Mộc (Jupiter) là cả một vòng đai có cả hàng chục ngàn những tiểu hành tinh (asteroids), trong đó có tiểu hành tinh Ceres có đường kính gần 1.000 cây số và cũng có rất nhiều tiểu hành tinh khác mà đường kính dài hàng trăm cây số. Ngoài ra còn có hàng trăm ngàn tiểu hành tinh nhỏ hơn, có những hành tinh còn nhỏ hơn những hạt bụi.

Sao Mộc (Jupiter) cách mặt trời Cha con khoảng 900 triệu cây số. Sao Mộc có đến 64 vệ tinh, trong đó có vệ tinh Europa với một lớp băng dày đến vài cây số, bên dưới lớp băng này có thể có nước loãng và cũng có thể có sự sống. Một vệ tinh của sao Mộc là hành tinh Ganymede, lớn hơn cả sao Thủy; đó là vệ tinh lớn nhất trong hệ Mặt trời. Sao Mộc lớn hơn mẹ tới 318 lần, và phần lớn của sao Mộc cũng như của Mặt trời được làm bằng khinh khí và Hélium. Sau sao Mộc thì đến sao Thổ (Saturn), tuy nhỏ hơn sao Mộc nhưng cũng lớn hơn Bồ tát Địa Cầu mẹ của chúng con đến gần 100 lần. Sao Thổ cũng có tới 62 vệ tinh đi quanh yểm trợ, trong đó có vệ tinh Titan – vệ tinh này lớn hơn sao Thủy. Vệ tinh Titan là mặt trăng lớn thứ hai của hệ Thái Dương, sau Ganymede và lớn gấp ba lần so với mặt trăng của Địa Cầu chúng con. Ngoài ra còn có Sao Thiên Vương (Uranus) và Hải Vương (Neptune) là hai vệ tinh cuối cùng trong hệ Mặt trời. Chúng hội của Bụt Mặt trời như thế là rất đông đảo và chúng con cảm thấy đây là một gia đình thực thụ, một tăng thân ấm cúng đang đi thiền hành chung một cách mầu nhiệm trong dải Ngân Hà.

Chúng con thường quán sát rằng mỗi chúng con đều có một trái tim trong cơ thể và nếu trái tim trong chúng con ngừng đập thì chúng con phải chết liền lập tức. Nhưng nhìn lên, chúng con biết Mặt trời cũng là một trái tim khác của chúng con, không phải nằm trong cơ thể nhỏ bé này mà nằm trong cơ thể Thái Dương Hệ. Nếu Mặt trời Cha chúng con biến mất thì sự sống của chúng con cũng như sự sống của Mẹ đều phải chấm dứt. Cho nên chúng con thường quán chiếu về trái tim Mặt trời để thấy được sự có mặt thường xuyên của Cha trong chúng con và ngoài chúng con, và để thấy được ngoài và trong cũng chỉ là những ý niệm.

Vòng tay của Cha rất rộng, chúng con biết nếu Cha ôm Mẹ và chúng con vào lòng thì cả Mẹ và chúng con đều trở thành tro bụi, chất hơi và chất loãng. Tuy nhiên, Mẹ đã biết sử dụng dưỡng khí từ quá trình quang hợp để tạo nên một lớp ozone trên thượng tầng khí quyển, giúp ngăn chặn lại những tia phóng xạ cực tím, nhờ đó che chở được cho các loài sinh vật đang được Mẹ nuôi dưỡng. Sở dĩ chim chóc vẫn được cái hạnh phúc trở về với mây trời thênh thang, sở dĩ hươu nai vẫn có cái thích thú chạy nhảy ở đồng quê, đó là nhờ khả năng đùm bọc và che chở của Mẹ. Mẹ đã tiếp thu, đã gặt hái ánh sáng của Cha một cách khéo léo để nuôi dưỡng đàn con của Mẹ và làm cho Mẹ xinh đẹp hơn từ gần hơn một tỷ năm nay. Chúng con biết tương lai của Mẹ con ta tùy thuộc vào tương lai của Cha Mặt trời. Nhật quang của Cha sẽ tăng lên gấp 40 phần trăm nhật quang bây giờ trong ba tỷ rưỡi năm nữa và nếu Mẹ không đổi thay quỹ đạo, thì tất cả đại dương trên thân hình Mẹ sẽ khô cạn mau chóng, và sự sống trên thân hình Mẹ sẽ không còn.

Có những đứa con của Mẹ thấy Cha ngày nào cũng đi từ phương Đông sang phương Tây và nghĩ rằng quê hương của Cha, tịnh độ của Cha là ở phương Tây. Nhưng chúng con đã thấy được như Mẹ rằng đó chỉ là một biểu tượng. Cha đang có mặt khắp nơi: đứng bên này bán cầu mà nhìn thì Cha ở phương Tây nhưng đứng ở bên kia bán cầu mà nhìn thì Cha đang ở phương Đông. Bụt không phân biệt Nam và Bắc, trong và ngoài. Cha con đang ở trên đầu nhưng Cha con cũng đang ở trong con và trong Mẹ. Thấy được Cha được Mẹ trong con rồi thì con đâu còn phải đi tìm cầu nữa.

Mẹ đã gặt ánh sáng của Cha để làm nên sự sống,
làm nên chiếc áo màu xanh tuyệt diệu của ngày hôm nay

Chắc Mẹ còn nhớ là hồi mới được tượng hình từ khối tinh vân đầy bụi và các chất hơi của Cha để lại, thì Mẹ, cũng như Cha, bấy giờ chưa có chiếc áo lụa mát mẻ của ngày hôm nay. Ngày ấy chiếc áo của Mẹ làm bằng chất loãng và rất nóng. Từ từ nhờ hơi nước tụ lại trong bầu khí quyện mà da thịt Mẹ mát lạnh lại, và tạo thành một lớp vỏ cứng. Đó là vào khoảng năm tỷ năm về trước. Hào quang của Cha hồi ấy chỉ rạng rỡ vào khoảng 70% hào quang bây giờ. Nhưng các chất hơi nhà kính và ánh sáng của Cha đã nâng cao sức ấm trên mặt đất, và giúp sưởi ấm cho Mẹ, khiến cho các đại dương của Mẹ không trở thành đông đặc.

Mẹ ơi, từ bốn tỷ năm về trước các nguyên tử – có thể đã đến từ ngoài không gian – đã biết giao lưu với nhau và có khả năng tự tái tạo để sản sinh ra những phân tử đầu tiên. Những phân tử đó trở thành gần như các tế bào sống, làm nền tảng để cho Mẹ bắt đầu tạo nên sự sống. Những hạt bụi từ các ngôi sao xa từng triệu năm ánh sáng đã đến viếng thăm Mẹ và ở lại với Mẹ. Phép quang hợp đã cho Mẹ khả năng gặt hái ánh sáng của Cha để làm nên sự sống. Những tế bào nhỏ từ từ đi vào nhau tạo thành những tế bào lớn, những sinh vật đơn tế bào từ từ đi tới những sinh vật đa tế bào. Sự sống từ dưới nước bắt đầu đi lên đất và bây giờ đây Mẹ đã có một chiếc áo mầu xanh tuyệt diệu. Nhưng vô thường là bản tính của vạn pháp cho nên sự sống trên hình hài Mẹ đã hơn năm lần bị biến cố tiêu diệt trên một bình diện khá lớn. Biến cố gần nhất là khi một thiên thể chạm vào hình hài Mẹ, làm diệt chủng loại khủng long và nhiều loài bò sát vĩ đại khác. Tuy nhiên nhiều loài động vật nhỏ bé hơn như loại bộ nhũ vẫn còn sống sót được. Trong khoảng 65 triệu năm vừa qua, các loài này đã sinh sôi nẩy nở phân thành nhiều chủng loại.

Và chỉ mới mấy triệu năm vừa qua thôi, loài người chúng con mới bắt đầu xuất hiện dưới hình thức những loại vượn giả nhân như vượn orrorin tugenensis có khả năng đứng dậy và buông thõng hai tay. Từ đó con vượn có khả năng sử dụng khí cụ, và các biện pháp liên lạc giúp cho bộ não được nuôi dưỡng, nẩy nở, và tiến hóa thành con người. Hoạt động nông nghiệp và các nền văn minh bắt đầu giúp cho con người trở thành một sinh vật có được thứ quyền năng mà chưa bao giờ các loại sinh vật khác có được trên mặt đất. Con người khi xấu ác có thể trở thành hiểm độc và bạo động vô cùng, nhưng con người khi tu tập có thể trở nên những bậc hiền thánh, các vị Bụt, các vị Bồ tát có thể thương yêu và cứu giúp không những cho đồng loại mà còn cho những chủng loại khác và cũng có khả năng bảo hộ cho Mẹ và giữ gìn sắc đẹp cho Mẹ.

Đất Mẹ là Tịnh Độ của chúng con

Mẹ là Tịnh Độ, là quê hương mà chúng con có thể trở về trong mỗi bước chân.
Chúng con không cần đi tìm một Tịnh độ hay một Thiên quốc ở một nơi nào khác hoặc ở trong tương lai

Kính lạy Mẹ, ở đâu có đất là ở đấy có Mẹ. Đất Mẹ sinh trưởng ra chúng con, chuyên chở chúng con và nuôi dưỡng chúng con. Nếu chúng con nuôi dưỡng được ý thức là trong Mẹ luôn luôn có con và trong con luôn luôn có Mẹ thì cả Mẹ cả con đều an vui và khỏe mạnh. Nhưng có những đứa con của Mẹ không thấy được điều ấy cho nên thường hay tự đánh mất mình, không có khả năng nhận diện được hình hài mình cũng là hình hài Mẹ, tâm tư chìm trong tạp niệm hoặc trong thế giới ảo mộng, quên rằng mình đang có một hình hài tuyệt diệu do Mẹ ban cho.

Chúng con mỗi ngày nguyện đi từng bước chân chánh niệm, ý thức rõ rệt là mình đang giẫm chân trên thật địa, để trong mỗi bước chúng con có thể tiếp xúc với Mẹ, với những mầu nhiệm của sự sống biểu hiện trên hình hài Mẹ. Chúng con biết là mỗi bước chân như thế đều có khả năng nuôi dưỡng và trị liệu, mỗi bước chân như thế có thể đem chúng con về với giây phút hiện tại để tiếp xúc với Mẹ. Mẹ là Tịnh độ, nơi vô số các vị Bụt và Bồ tát đã được sinh ra và đã thành đạo, đã giáo hóa. Chúng con không cần đi tìm một Tịnh độ hay một Thiên quốc ở một nơi nào khác hoặc ở trong tương lai. Mẹ là một Tịnh độ xinh đẹp tuyệt vời, Mẹ là quê hương của chúng con mà chúng con có thể trở về trong mỗi bước chân. Chúng con không muốn mơ tưởng về một Thiên quốc hay một cõi cực lạc nào khác nữa.

Thầy của chúng con là con của Mẹ, đã thành đạo dưới gốc một cây Bồ đề, đã nhận nơi này làm quê hương. Chúng con cũng muốn nối tiếp sự nghiệp của thầy, nguyện đời đời kiếp ở lại với Mẹ, giúp cho Mẹ thêm tài năng và sức khoẻ để cho ra đời rất nhiều vị Bồ tát tùng địa dũng xuất.

Có những người thiếu chánh tư duy, nghĩ rằng Ta bà và Tịnh độ là hai cõi khác nhau, và khuyên chúng con nên phát tâm nhàm chán cõi Ta bà để cầu sinh về cõi Tịnh độ. Họ không biết rằng nếu tâm họ thanh tịnh, đầy thương yêu, nếu họ có khả năng biến rác thành hoa, lấy bùn nuôi sen thì họ sẽ thấy phiền não tức bồ đề và Ta bà là Tịnh độ. Họ không biết rằng tùy theo cách nhìn của họ mà cõi này là Tịnh độ hay Ta bà. Mỗi biểu hiện trên thân hình Mẹ, như một đám mây bay hay một chiếc lá rơi cũng đủ cho chúng con thấy được tự tính không sinh không diệt, không có không không của thực tại mầu nhiệm, và chúng con có thể rong chơi thỏa thích mà không cần sợ hãi lo âu về có không, còn mất, thêm bớt và dị đồng.

Kính lạy Mẹ, có những đứa con của Mẹ còn đặt câu hỏi sau khi hình hài Mẹ cho tan rã thì họ sẽ đi về đâu, nhưng chúng con biết rất rõ là chúng con sẽ trở về với Mẹ. Đó là một điều hiển nhiên. Nếu biết quán chiếu, chúng con sẽ thấy được tự tính không đi không về của vạn pháp, và chúng con sẽ không còn thắc mắc về chuyện đi và về. Biết rằng Mẹ đã từng cho chúng con biểu hiện thì Mẹ sẽ tiếp tục cho chúng con biểu hiện, mỗi lần biểu hiện là một lần mới tinh, và do đó chúng con không cần phải lo âu, sợ hãi nữa.

Mỗi khi ngồi yên trên đất Mẹ, ý thức là Mẹ đang có trong con, con luôn luôn ao ước có những đức lớn của Mẹ, đó là đức kiên trì chịu đựng, đó là đức trung hậu bền vững, đó là đức vô úy đại hùng, đó là đức sáng tạo không hề biết mỏi. Chúng con nguyện hành trì để có được đầy đủ những đức ấy của Mẹ, và chúng con biết rằng Mẹ đã gieo tất cả những hạt giống tiềm năng ấy trong tâm điền của mỗi chúng con.

Các con của Mẹ sinh ra đều xinh đẹp và đã cùng góp sức làm cho Mẹ thêm xinh đẹp. Một hồ nước trong, một cây tùng xanh, một áng mây hồng, một đỉnh núi tuyết, một khu rừng thơm, một con hạc trắng, một chú nai vàng…, tất cả những biểu hiện mầu nhiệm ấy đều là con của Mẹ và đứa nào cũng có thể làm cho Mẹ càng ngày càng xinh đẹp. Chúng con là con của Mẹ, mà cũng là tự thân Mẹ, bởi vì Mẹ đang có mặt trong mỗi chúng con. Vì Mẹ có Phật tính cho nên đứa con nào của Mẹ cũng có Phật tính, có khả năng tỉnh thức để biết sống hạnh phúc trong tinh thần trách nhiệm.

Chúng con đang tập thương Mẹ, thương Cha và thương nhau
trong ánh sáng của tuệ giác bất nhị và tương tức.

Chúng con biết cái thấy bất nhị và tương tức giúp chúng con vượt thoát mọi kỳ thị,
sợ hãi, ganh tị, oán thù và tuyệt vọng.

Mẹ ơi, loài người chúng con nhờ có ý thức nên đã học hỏi và nhận diện được sự có mặt của mình và đã tìm ra vị trí thật của chúng con giữa lòng Mẹ và trong lòng vũ trụ. Chúng con biết là chúng con nhỏ bé vô cùng, nhưng tâm lượng của chúng con có thể bao trùm được cả thế giới ba ngàn. Chúng con đã biết rằng hành tinh xinh đẹp của chúng con không phải là trung tâm của vũ trụ mà chỉ là một trong những biểu hiện nhiệm mầu nhất của vũ trụ. Chúng con đã phát triển được khoa học và kỹ thuật, chúng con đã khám phá ra được tự tính bất sinh bất diệt, không có cũng không không, không thêm cũng không bớt, không một cũng không khác của thực tại. Chúng con biết cái một chứa đựng cái tất cả, cái lớn nằm trong cái nhỏ, và mỗi hạt bụi có thể chứa đựng được cả pháp giới.

Chúng con đã chế tạo được những viễn vọng kính có thể tiếp thu được những ánh sáng mà mắt con người không thể nào thu nhận được, như những tia hồng ngoại (infrarouges), tia tử ngoại (ultraviolets), tia X, hoặc tia gamme. Chúng con đã đặt những chiếc kính viễn vọng ấy trên những đài quán sát không gian, vượt lên cả bầu khí quyển mờ đục bao quanh đất Mẹ, cao hơn mặt đất có khi cả hàng ngàn cây số, và chúng con đã thấy được như Mẹ: một vũ trụ sáng rỡ nhiệm mầu không thể nào tả nổi. Chúng con đã thấy được những tinh hà xa xăm, những vì sao cách xa chúng con cả hàng trăm triệu năm ánh sáng. Và nhờ thế chúng con cũng thấy được thêm những nhiệm mầu của Mẹ và của cả chúng con. Tâm thức của chúng con cũng là tâm thức của Mẹ và của cả vũ trụ. Vũ trụ rạng ngời xinh đẹp kia mà chúng con thấy được cũng chính là tâm thức ấy mà không phải là một cái gì khách quan ở ngoài tâm thức ấy. Những đứa con nào của Mẹ biết tu tập, nhìn sâu với chánh niệm và chánh định cũng đạt được khả năng của Diệu Quan Sát Trí ấy.

Chúng con đang tập thương Mẹ, thương Cha và thương nhau trong ánh sáng của tuệ giác ấy. Chúng con biết cái thấy bất nhị và tương tức giúp chúng con vượt thoát mọi kỳ thị, sợ hãi, ganh tỵ, oán thù và tuyệt vọng. Chúng con nguyện trao truyền tuệ giác ấy cho những thế hệ tương lai. Chúng con không còn dại dột cho rằng con người là chúa tể của vũ trụ, và đã thoát được ý niệm về một đấng tạo hóa tồn tại dưới hình thức một con người. Có những đứa con của Mẹ đã đạt được cái thấy siêu việt lưỡng nguyên về thiện và về ác và không còn thắc mắc với cái ý chí của Đất và Trời, nhiều đứa trong các con của Mẹ đã không còn tin vào sự có mặt của một Ông Già ngồi trên trời để điều khiển mọi việc trên mặt đất, hay sự có mặt của một Bà Tiên trên mây có thể tìm tới cứu độ cho mình khi mình có tai nạn.

Lạy Mẹ, con biết thế giới Bản môn là tự tính đích thực của chúng con, không sinh không diệt, không tới không đi, và nếu chúng con biết tiếp xúc với tự tính ấy thì chúng con sẽ có an bình và hạnh phúc, không còn lo lắng và sợ hãi. Chúng con biết là Bản môn không phải là một cái gì tách ra khỏi Tích môn, và nếu chúng con tiếp xúc được sâu sắc với bất cứ một cái gì của thế giới Tích môn, dù cho là một chiếc lá, một bông hoa, một đám mây, một con hạc, một dòng sông, một đỉnh núi hay chính hình hài của chúng con là chúng con đồng thời tiếp xúc được với Bản môn ấy. Bản môn ấy là Chân như, là pháp thân, vượt ra ngoài những ý niệm có không, tâm vật, chủ thể đối tượng, nhân hay phi nhân. Nó luôn luôn chiếu sáng. Tiếp xúc với Bản môn, chúng con sẽ có an lành và thoải mái như những con chim về được với trời mây hay những con nai thảnh thơi chạy nhảy ở đồng quê. Chúng con biết chúng con không cần phải đi tìm Bản môn ấy ở một nơi nào xa xôi, bởi vì Bản môn ấy là tự tính của chúng con, có mặt trong chúng con ngay trong giây phút hiện tại. Thực tập chánh niệm, quán chiếu duyên khởi, thực chứng không và tương tức là chúng con có thể trở về Bản môn bất cứ lúc nào.

Nhiều đứa con của Mẹ khi đi ngang qua khổ đau đã quyết chắc rằng là những gì gây khổ đau là ác và những gì đem lại an vui là thiện, mà không biết rằng khổ đau và hạnh phúc tùy thuộc vào cái nhìn của mình rất nhiều. Chúng con thấy sự vật như thế là vì các giác quan của chúng con như thế, nếu các giác quan của chúng con được cấu thành một cách khác hơn thì chắc chắn chúng con sẽ thấy sự vật khác hơn. Vì vậy các con biết rằng hạnh phúc và khổ đau cũng như Tịnh độ hay Ta bà cũng tùy thuộc rất nhiều nơi cách thức chúng con quán chiếu về sự vật.

Chúng con biết thực tại tuyệt đối nằm ngoài mọi ý niệm sinh diệt và có không. Bụt có thể là một con người nhưng cũng có thể là một vì sao và các vị Bụt và Bồ tát lớn đã có mặt từ vô thỉ mà không nhất thiết phải mang hình thức con người, vì con người là một sinh vật xuất hiện rất muộn trên một hành tinh tương đối bé nhỏ: đó là Mẹ yêu quý của chúng con.

Cũng như Cha, tự tính của Mẹ là vô sinh bất diệt. Chúng con biết nếu tự tính của Mẹ là như thế thì tự tính của chúng con cũng như thế, nghĩa là vô sinh bất diệt. Chúng con cám ơn mẹ đã thị hiện như một vị Bồ tát, không phải dưới hình thức một con người mà dưới hình thức một hành tinh. Dù chúng con có nhân cách hóa Mẹ, gọi Mẹ như gọi một bà mẹ người, nhưng chúng con biết Mẹ là Mẹ của tất cả mọi loài, trong đó có loài người chúng con.

Đất Mẹ là vị bồ tát của vững chãi sáng tạo và bao dung

Cũng như Cha và Mẹ, tự tính của chúng con là vô sinh, bất diệt.
Tự tính của chúng con cũng là Di Đà, là vô lượng hào quang, vô lượng thọ mạng.

Lạy Mẹ, có những người gọi tên Cha suốt ngày mà không biết là Cha đang có mặt trong bản thân mình và ngay trên đỉnh đầu mình. Họ không biết tự tính của họ là Di Đà, là vô lượng hào quang, vô lượng thọ mạng. Họ không biết họ là con của Cha, con của Mặt trời. Chính đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni, thầy của chúng con, cũng đã tự nhận là con cháu của dòng dõi Mặt trời. Chúng con ngày đêm được tiếp xúc với Cha như một thực tại nhiệm mầu mà không phải chỉ là một danh hiệu. Nếu Cha chúng con là vô lượng quang và vô lượng thọ, thì chúng con cũng là vô lượng hào quang, vô lượng thọ mạng, và mỗi tế bào của chúng con đều có thể chiếu rọi hào quang và đi về tương lai.

Lạy Mẹ, có những người đang bước trên đất Mẹ mà vẫn mong cầu tìm về một cõi Tịnh độ, không biết Mẹ chính là một cõi Tịnh độ tuyệt vời đang có mặt trong giây phút hiện tại. Họ không thấy được Tịnh Độ Duy Tâm, không thấy rằng nếu tâm mình thanh tịnh thì cõi đất mình đang dẫm lên trở thành Tịnh độ. Chúng con được ngày đêm rong chơi miền Tịnh độ nhờ tuệ giác ấy, nhờ pháp môn an trú với chánh niệm trong giây phút hiện tại. Chúng con đã có Tịnh độ, chúng con không còn đi tìm. Mẹ có khả năng chuyên chở chúng con ít nhất là 500 triệu năm nữa. Và sau đó mẹ có thể hiện thân thành một hành tinh khác và chúng con cũng sẽ hiện thân thành những thực tại nhiệm mầu khác trên hình hài Mẹ.

Kính lạy Mẹ, Mẹ có những đứa con tự hào là giỏi toán học, là công nhân khéo, là kiến trúc sư tài ba, nhưng ít ai thấy được Mẹ là nhà toán học vĩ đại nhất, người công nhân khéo tay nhất và vị kiến trúc sư tài ba nhất. Chỉ cần nhìn vào một cánh hoa anh đào, một chiếc vỏ ốc hay một con dơi là thấy được điều đó. Chúng con có những họa sĩ tài ba, nhưng những bức tranh của chúng con làm sao so sánh được với những bức tranh của Mẹ vẽ ra trong bốn mùa ? Làm sao chúng con vẽ được một buổi bình minh hào hùng như thế, làm sao chúng con vẽ được một hoàng hôn rạng rỡ như kia? Chúng con có những nhạc sĩ tài ba nhưng những bản hợp ca của chúng con làm sao bì kịp với những buổi hòa tấu mầu nhiệm của đất trời , những tiếng hải triều hùng vĩ? Chúng con có những chiến sĩ anh hùng gội nắng dầm mưa, trèo non vượt suối, nhưng có ai có được sức kiên nhẫn chịu đựng và khả năng ôm ấp lâu dài như Mẹ? Chúng con cũng có những tình yêu lớn nhưng có ai có được cái tình yêu ôm trọn được muôn loại, không kỳ thị không phân biệt, như tình thương vĩ đại của Mẹ?

Kính lạy Mẹ, bây giờ đây mỗi khi giẫm chân trên đất Mẹ là con vượt thoát được các ý niệm vật chất và tinh thần. Thực tại nhiệm mầu của Mẹ vượt thoát ý niệm vật chất và tinh thần. Tâm và vật chẳng qua là hai ý niệm, chỉ là hai mặt của cùng một thực tại. Cây tùng kia không phải là vật chất bởi vì có cái biết trong nó. Hạt bụi kia không phải là vật chất bởi vì mỗi nguyên tử trong nó đều có sự thông minh, đều là những thực tại linh động. Tự tính của chúng con cũng là tự tính của Mẹ. Tự tính của Mẹ cũng là tự tính của vũ trụ; đó là tự tính tương tức, không có không không, không sinh không diệt, không thêm không bớt, không vật không tâm, không trong không ngoài, không tới không đi. Đất là một trong bốn đại nhưng đất ôm cả các đại khác trong lòng bởi vì đất được làm bằng những yếu tố không phải là đất. Bốn đại cũng mang trong lòng thời gian, không gian và tâm thức. Mỗi bước đi cho chúng con thấy sự thực sáu đại dung thông. Phật tính không phải chỉ có mặt trong con người mà có mặt trong muôn vật.

Con yêu bồ tát Thanh Lương Địa

Chúng con phải học nhìn thế giới hiện tượng bằng cái thấy bản môn.
Nếu biết quán chiếu một cách sâu sắc, chúng con có thể vượt thoát mọi sầu khổ và hờn oán.

Kính lạy Mẹ, Mẹ là một vị Bồ tát lớn đã cho ra đời nhiều vị Bụt và Bồ tát, trái tim của Mẹ ôm lấy thái hư và trí tuệ của Mẹ chiếu sáng mười phương. Chúng con làm sao đem cái hiểu và cái thương của chúng con mà đánh giá được cái hiểu và cái thương của Mẹ. Có những đứa con chưa hiểu được Mẹ, oán hờn Mẹ đã sinh ra chúng cho chúng phải khổ đau: “Thiều chi hoa, kỳ diệp thanh thanh, tri ngã như thử, bất như vô sinh” (Hoa thiều lá nó xanh xanh, thân ta biết thế đừng sinh ra đời), “Thiên địa bất nhân, thị vạn vật như sô cẩu” (Trời đất không có tình thương, xem vạn vật như chó rơm).

Quán chiếu cho sâu, chúng con thấy chúng con có thể vượt thoát mọi sầu khổ và hờn oán. Tiếp xúc sâu sắc được với tích môn, chúng con thấy được bản môn và hiểu được những gì đang xảy ra trong tích môn. Trong bản môn không có sinh, không có diệt, không có khổ, không có vui, không có đi, không có tới, không có thiện, không có ác. Chúng con phải học nhìn thế giới hiện tượng bằng cái thấy bản môn. Nếu không có tử thì không có sinh, nếu không có khổ thì không có vui, nếu không có ác thì không có thiện, nếu không có bùn thì không có sen. Bùn và sen không phải là kẻ thù của nhau. Sen và bùn nương nhau mà biểu hiện, khổ vui và thiện ác cũng thế.

Vì cái thấy về thiện ác của chúng con còn có tính cách nhị nguyên cho nên mới có những đứa con đem lòng oán trời trách đất. Chúng con thường đem cái tâm nhỏ bé của chúng con để phán xét cái tâm lớn lao của Đất và của Trời. Những cơn lũ lụt, những trận cuồng phong, những trận hải chấn không phải là sự biểu hiện giận dữ của Mẹ hay của Cha hay những hành động trừng phạt mà chỉ là những gì phải thỉnh thoảng xảy ra trong tích môn để thiết lập lại thế thăng bằng. Một ngôi sao băng cũng thế. Để thiết lập thế cân bằng trong thiên nhiên, các chủng loại có khi phải chịu thiệt thòi, nhưng sự tàn bạo nào cũng kéo theo cái thảm khốc của nó, khi mức nhu yếu sinh tồn được thay thế bằng tham vọng và kiêu căng.

Chúng con đã thấy được rằng khi một chủng loại phát triển quá mau chóng và quá mức, gây tổn hại nặng nề và đe dọa sự sống còn cho những chủng loại khác thì tự nhiên có những nguyên nhân và điều kiện được phát sinh đưa tới sự tổn thất nặng nề hoặc hoại diệt của chủng loại ấy, để thế cân bằng được thiết lập lại giữa các chủng loại với nhau, và những nguyên nhân hoặc điều kiện nầy thường phát sinh từ bên trong của chủng loại ấy. Chúng con đã học được bài học là khi mình tàn ác với đồng loại và các loài khác là mình tàn ác với chính mình. Và khi mình biết bảo hộ cho muôn loài là mình đã bảo hộ cho chính bản thân.

Chúng con nguyện noi gương các vị Bụt và Bồ Tát để tiếp nối được Mẹ, để xứng đáng là con của Mẹ.
Và chúng con cũng muốn bảo hộ cho Mẹ để Mẹ có mặt lâu dài với chúng con.

Kính lạy Mẹ, nơi mỗi chúng con đều có Phật tính, bởi vì chúng con đều là con của Mẹ, dù chúng con là con người hay một loại sinh vật khác, một loại thảo mộc hay một loại khoáng chất. Loài người chúng con hay tự hào có ý thức, nhưng ý thức của chúng con chỉ là một công dụng trong nhiều công dụng khác của tâm thức, trong đó có Tàng Thức và Yếm Ma La Thức. Ý thức của chúng con cho chúng con khả năng nhận diện sự có mặt của chính mình và của vũ trụ trong giây phút hiện tại, nhưng ý thức ấy còn bị hạn chế bởi khuynh hướng phân biệt giữa có và không, sinh và diệt, trong và ngoài, một và tất cả.

Có những đứa con của Mẹ đã tu tập, đã quán chiếu, đã tịnh hóa và đã đạt tới Trí Vô Phân Biệt, tiếp xúc được với Niết Bàn, với tự tính vô sinh bất diệt của mình. Chắc chắn Mẹ đã tự hào với những đứa con như thế, những đứa con đang tiếp nối được Mẹ trên quá trình tiến hóa, những đứa con có khả năng giáo hóa để giúp cho kẻ khác cũng đạt được cái thấy bất nhị, chuyển hóa mọi phân biệt, kỳ thị, sợ hãi, hận thù và tuyệt vọng.

Mẹ đã sinh ra được nhiều vị Bụt và Bồ tát lớn. Chúng con xin hứa với Mẹ là sẽ noi gương các bậc đàn anh và đàn chị ấy để đi lên, để xứng đáng là con của Mẹ, để xứng đáng đại diện cho tâm thức mầu nhiệm của Mẹ. Chúng con biết vạn pháp đều vô thường, vô ngã, Mẹ, Cha, các vị Bụt và Bồ tát cũng thế. Chúng con biết đứng về phương diện bản môn mà nói thì thọ mạng của Cha, của Mẹ và của muôn loài trong đó có những chiếc lá và nụ hoa là vô lượng, đứng ngoài sinh diệt có không. Nhưng đứng về phương diện tích môn, chúng con cũng muốn bảo hộ cho Mẹ để Mẹ có thể tiếp tục có mặt lâu dài trong hình thức xinh đẹp hiện tại của Mẹ, không những trong 500 triệu năm mà còn lâu dài hơn thế nữa. Chúng con muốn bảo hộ cho Mẹ để Mẹ có mặt lâu dài với chúng con trong hệ Thái Dương ấm áp này.

Con về nương tựa đất mẹ

Thấy được đức Vững chãi và Kiên trì nơi Mẹ, chúng con biết là chúng con phải trở về nương tựa nơi Mẹ.
Và Mẹ cũng có thể tin tưởng và trông cậy ở chúng con.

Lạy Mẹ, có những lúc chúng con đau khổ thật nhiều vì thiên tai xảy ra. Chúng con ý thức rằng trong khi chúng con khổ thì Mẹ cũng đau khổ. Có khi chúng con hướng về Mẹ và hỏi: Chúng con có thể trông cậy và nương tựa vào Mẹ không ? Những lúc ấy Mẹ không trả lời ngay cho chúng con. Sau đó Mẹ đã nhìn chúng con bằng con mắt đại bi và nói: “Cố nhiên là các con có thể nương tựa vào Mẹ, vì Mẹ sẽ luôn luôn có mặt đó cho các con. Nhưng các con cũng phải tự hỏi câu hỏi này: Liệu Mẹ có thể tin tưởng và trông cậy vào các con hay không?” Lạy Mẹ, chúng con đã thức nhiều đêm không ngủ với công án ấy. Và bây giờ đây, với những khuôn mặt đầm đìa nước mắt, chúng con đến quỳ dưới chân Mẹ và dâng câu trả lời chân thành này lên Mẹ: “Mẹ từ bi và thánh thiện của chúng con ơi, Mẹ có thể trông cậy và tin tưởng ở chúng con”.

Lạy Mẹ, con thấy cả Pháp giới trong Mẹ và Mẹ trong con. Dù Mẹ là Mẹ của mọi loài, không phải chỉ là Mẹ của con người, chúng con vẫn có thể tâm sự được với Mẹ bằng ngôn ngữ của loài người, có thể hiểu được Mẹ và biết rằng Mẹ đang muốn chúng con sống như thế nào để mỗi giây phút trong đời sống hàng ngày chúng con có thể chế tác được năng lượng chánh niệm, bình an, vững chãi và thương yêu. Chúng con nguyện sẽ làm theo ý Mẹ. Chúng con có niềm tin vững chãi rằng nếu loài người chúng con cứ tiếp tục chế tác hàng ngày những năng lượng an lành ấy thì chúng con có thể giúp được mọi loài làm giảm bớt những khổ đau do chiến tranh, nghèo đói và bệnh tật gây ra, có thêm được niềm vui sống, thừa hưởng được sự có mặt của Mẹ và của Pháp giới, và cũng có thể giúp làm giảm thiểu lại các thiên tai như hồng thủy, bão tố, địa chấn và hải chấn. Xin Mẹ an lòng tin tưởng ở chúng con.

Nhất tâm kính lễ Đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai, đức Bụt Vô Lượng Thọ Vô Lượng Quang A Di Đà,
hiến tặng sự sống trên hành tinh Đại Địa.

Nhất tâm kính lễ Đức Bồ tát Thanh Lương Đại Địa, Mẹ của muôn loài, luôn luôn chở che, nuôi dưỡng và trị liệu.

thiền sư Thích Nhất Hạnh

_________________________

Albert Einstein nói là tôn giáo tương lai của nhân loại sẽ là một tôn giáo vũ trụ (cosmic religion) không dựa trên tín điều (dogmas) mà dựa trên sự thật có bằng cớ xác thực (evidence based). Ông cũng nói nếu có một cái đạo có thể đi đôi được với khoa học và hướng dẫn được cho sự hình thành của một tôn giáo vũ trụ như thế đó là đạo Bụt.

Thế kỉ thứ 21 chứng kiến sự tiếp cận giữa đạo Bụt với văn hóa và khoa học tây phương . Các khoa học gia đã bắt đầu khảo cứu phật học và đạo học đông phương để trưng bày những điểm đồng của cả hai truyền thống. Những câu hỏi như: bản thể của hiện hữu là gì? Vũ trụ có từng được sáng tạo hay không? Thượng Đế có mang dáng dấp của một con người hay không? Đã được đặt ra không phải chỉ trong lĩnh vực tôn giáo và triết học mà cả ở trong lĩnh vực khoa học. Các khoa học gia thường hay đặc câu hỏi: Tại sao cái không trở thành được cái có?

Đạo Bụt dạy rằng cái thấy chính xác (chánh kiến) vượt ngoài hai ý niệm “có” “không” (Kinh Tán Đà Ca Chiên Diên ,Katyayana sutras). Cái thấy của đạo Bụt về duyên sinh, tương tức, vô sinh, vô hữu, vô tác, vô hành (ajāta, abhūta, akata, asamkhata) có thể đối thoại với khoa học một cách hứng thú. Nhà khoa học có thể nắm tay nhà phật học mà đi trong những thập niên tới của thế kỉ này.

Đây là tác phẩm mới nhất của thiền sư Nhất Hạnh, tuy hình thức nhỏ bé nhưng có thể đóng vai trò một hồi trống báo hiệu hiện tượng tiếp cận và hình thành của một tuệ giác mới, có khả năng đem lại sự tổng hợp kì diệu giữa phật học, khoa học, tôn giáo và triết học.

Nhà khoa học nắm tay nhà đạo học

Tâm sự với một nhà khoa học trẻ tuổi

Thích Nhất Hạnh

 

Hiểu và Thương

Là nhà khoa học, anh (chị) có nhu yếu khám phá. Là người tu thiền, tôi cũng có nhu yếu khám phá. Vì vậy tôi muốn viết thư cho anh.

Tôi nghĩ khám phá là một nhu yếu lớn của con người. Đó là nhu yếu hiểu. Hiểu và thương là hai nhu yếu căn bản. Hạnh phúc là cái có thể có nếu ta làm thỏa mãn được hai nhu yếu căn bản ấy.

Cái hiểu có liên hệ gì đó với cái thương, tôi chắc anh cũng cảm nhận điều này. Cái hiểu, dù là cái hiểu trong khoa học, có công năng đem tới cái thương. Tôi thấy có hiểu mới có thương, nếu không hiểu thì không thể thương, nếu có thương thì đã có hiểu, và sẽ có thêm hiểu. Hiểu và thương là hai mặt của một thực tại, cũng như hai mặt sấp ngửa của một đồng bạc, hay hai dạng sóng và hạt của một điện tử.

Tôi gọi anh là một nhà khoa học trẻ bởi vì anh có rất nhiều thao thức muốn khám phá. Khám phá trước hết là để thỏa mãn cái nhu yếu muốn hiểu của mình. Và nếu anh khám phá ra được một cái gì thật mới thì anh sẽ trở thành một nhà khoa học nổi tiếng, và tên anh sẽ được ghi lại trong lịch sử khoa học, có thể dưới dạng của một lý thuyết hay một phương trình. Viễn tượng trở thành một nhà khoa học nổi tiếng có thể đem tới cho anh rất nhiều năng lượng để làm việc. Anh có thể ngồi hàng giờ trong phòng thí nghiệm, không nghĩ gì tới chuyện ăn uống và đi chơi, tâm trí để hết vào việc tìm tòi khảo cứu. Cái say mê khảo cứu ấy tuy đem lại cho anh nhiều năng lượng nhưng cũng có thể làm cho anh mệt mỏi và không cho anh nhiều cơ hội để tiếp xúc với những mầu nhiệm của cuộc sống hàng ngày trong anh và chung quanh anh.

 

Sở tri chướng

Tôi gọi anh là một nhà khoa học trẻ vì anh có khả năng buông bỏ những kiến thức, những học hỏi mà anh đã tích lũy để có thể trở thành khách quan hơn trong công việc khảo cứu và trình bày công trình khảo cứu của anh. Theo nguyên tắc, nhà khoa học phải có tinh thần khách quan, và anh biết trong giới các khoa học gia, có rất nhiều vị tự cho là khách quan, nhưng trên thực tế, vẫn quan sát và trình bày dưới cái nhìn chủ quan của mình. Trong đạo học, nhất là đạo Bụt, chúng tôi được dạy rằng phải buông bỏ sở tri mới có cơ hội đi tới trong việc tìm cầu chân lý. Sở tri là những kiến thức mình đã thu lượm được trong quá trình học hỏi và khám phá. Nếu mình đã tin vào cái sở tri ấy như là chân lý tuyệt đối rồi thì mình không còn khách quan nữa, mình không có được cơ hội tiếp cận với sự thật nữa, bởi vì cái sở tri kia đã trở thành một chướng ngại, gọi là sở tri chướng (jneya avarana).

Nhà khoa học cũng như nhà đạo học phải có khả năng buông bỏ sở tri chướng. Trong kinh Bách Dụ, Bụt có kể chuyện một chú bé bị kẻ cướp bắt cóc, sau khi đã cướp bóc và đốt phá cả xóm. Người cha của đứa bé vì bận đi buôn bán cho nên vắng mặt trong lúc ấy. Về nhà anh thấy nhà mình đã cháy và bên cạnh nhà có một thân thể cháy nám của một em bé, và tin ngay rằng đó là thi thể đứa con mình. Anh bứt tóc đấm ngực tự trách mình đã không làm tròn bổn phận của một người cha. Và sau khi làm lễ hỏa thiêu hình hài của con mình, anh đã để tro đứa con vào một cái túi gấm, đi đâu cũng mang theo, cả những lúc ăn, ngủ và làm việc. Một đêm kia, thức dậy lúc nửa đêm sau khi nằm mộng thấy con, anh không ngủ được, cứ thương tiếc và khóc lóc, không thể nào nguôi được. Ngay lúc ấy thì có tiếng gõ cửa bên ngoài. Đứa con đã may mắn thoát khỏi tay kẻ cướp và lần mò về được tới nhà. Đứng trước căn nhà mới nó tin rằng đây là căn nhà của nó và gõ cửa gọi cha, nhưng người cha không chịu mở. Đứa bé đang gọi “cha ơi, cha ơi, mở cửa cho con”. Vì đã tin chắc chắn rằng con mình đã chết, và mình đang ôm túi tro của nó, ông cho rằng đứa bé ngoài kia là một đứa du côn nào đó chỉ muốn nghịch ngợm quấy rầy không cho mình ngủ. Kêu cứu một hồi, đứa bé nghĩ rằng đây không phải nhà của mình cho nên bỏ đi, và từ đó hai cha con xa nhau vĩnh viễn.

Kết luận câu chuyện ngụ ngôn ấy, Bụt bảo nếu ta đã tin vào một cái gì như là chân lý tuyệt đối thì ta sẽ mắc kẹt vào đó, và nó trở thành chướng ngại cho sự tìm cầu chân lý. Cho nên cả nhà khoa học lẫn nhà đạo học phải biết luyện tập để buông bỏ những sở tri của mình. Tinh thần khoa học là tinh thần khách quan, không vướng mắc vào cái thấy chủ quan của nhận thức mình. Nếu nhà đạo học làm được như thế thì ông ta cũng có tinh thần khoa học. Còn nếu nhà khoa học không làm được như thế thì ông ta không phải là một nhà khoa học đích thực.

Trong các cộng đồng tôn giáo, giới tiến bộ chỉ là một thiểu số rất nhỏ và hay bị lên án, trừng phạt. Nói như thế không có nghĩa là trong giới khoa học gia, mọi người đều có khuynh hướng tiến bộ. Đa số các nhà khoa học đều có khuynh hướng bảo thủ: họ sợ những khám phá mới làm sụp đổ cái cấu trúc nhận thức của họ. Những gì họ cho là chân lý, họ dựa lên đó để khám phá thêm. Nhưng nếu cái căn bản kia sụp đổ thì họ phải bắt đầu từ số không trở lại, vì vậy cái khuynh hướng bảo thủ luôn luôn có đó. Kiến thức phải được xây dựng trên một nền tảng vững vàng, trong đó các nguyên lý cơ bản, các ý niệm, các hằng số cơ bản. Nhưng ta biết trong lịch sử khoa học, cái nền tảng nhận thức ấy đã sụp đổ nhiều lần. Trong sách Discours de la Méthode chính Descartes cũng đã nói: “Nếu nền tảng cứ thay đổi hoài như thế thì không có gì chắc chắn để xây dựng trên nền tảng ấy.” Trong đạo Bụt, những giáo lý căn bản như vô thường, vô ngã, không, tương tức, nhân duyên v.v…được sử dụng như những phương tiện để giúp người hành giả buông bỏ những ý niệm về thường, ngã, có, không, không nhân, không quả, nhưng những người thực tập cũng được chỉ dẫn là phải vượt thắng và buông bỏ luôn những ý niệm vô thường, vô ngã, không, tương tức, nhân duyên kia để đừng bị kẹt vào chúng. Đó đúng là tinh thần phá chấp, không cho bất cứ một ý niệm nào được sử dụng làm cơ sở cho tuệ giác, dù là ý niệm niết bàn, giải thoát, giác ngộ v.v… Vì vậy ta thường nghe: “Tìm niết bàn trong sinh tử, phiền não tức bồ đề, Phật và chúng sinh là một v.v…”

Sở tri chướng – cái mà mình biết là rào cản cho sự đi tới, vì vậy không những nhà đạo học phải buông bỏ mà nhà khoa học cũng phải buông bỏ.

Nếu nhà đạo học có thể bị ảnh hưởng bởi những chủ trương của tông phái mình, bởi những nhận thức của vị bổn sư và các vị giáo thọ của mình, và bị kẹt vào những gì mà mình đã được học trong kinh luận, kể cả những khái niệm về niết bàn, sinh tử, tịnh độ, ta bà vv… thì nhà khoa học cũng có thể bị ảnh hưởng của những trường phái khoa học của mình, những gì mà mình đã học trong thời gian đào luyện ở trường khoa học, những mô hình và lý thuyết mà mình đã được nghe và đọc. Những ý niệm, những mô hình và những lý thuyết mình đang nắm giữ có thể đang là những trở ngại lớn cho công trình khám phá của mình. Những nhà khoa học lớn như Einstein cũng có thể bị ảnh hưởng bởi những thành kiến siêu hình. Vì ông bị kẹt vào thực tại luận (realism) cho nên ông đã không chấp nhận được cái mô tả xác suất (probabilistic description) của thực tại nguyên tử và hạ nguyên tử mà cơ học lượng tử khám phá ra được. Vậy thì cả nhà đạo học lẫn nhà khoa học đều phải học hỏi và thực tập để có khả năng buông bỏ sở tri mới có thể thành công. Nhà đạo học biết ông ta không nên bị kẹt vào những ý niệm, dù là những ý niệm căn bản nhất như ý niệm “tất cả đều có Phật tính”. Để giúp cho một thiền sinh thoát ra khỏi ý niệm ấy, một vị thiền sư (Triệu Châu) đã nói với vị thiền sinh ấy: “Con chó không có Phật tính”. Câu nói này có thể được xem như chống lại với giáo lý đạo Bụt là tất cả các loại hữu tình và vô tình đều có Phật tính. Nhưng lời nói của thiền sư không phải là để trao truyền hay xác nhận một ý niệm mà trái lại là để giúp vị thiền sinh vượt khỏi ý niệm ấy. Bởi vì còn bị một ý niệm giam hãm thì người ta vẫn chưa có tự do, dù cho đó là ý niệm Thượng đế hoặc ý niệm thực tại tối hậu.

 

Phiền não chướng

Nhưng sở tri chướng mới chỉ là trở ngại thứ nhất. Trở ngại thứ hai là những tâm hành hoang mang, giận ghét, lo sợ, tham đắm và hận thù v.v…được gọi là phiền não chướng. Chúng là những lớp bụi phủ lên đài gương sáng, làm cho đài gương không còn phản chiếu được trung thực cái thực tại trước mặt. Đối với nhà khoa học, những dụng cụ như toán học, kính viễn vọng, kính hiển vi, máy đo, máy gia tốc (accelerator) v.v… rất cần thiết cho công trình khảo cứu. Nhưng đối

với nhà đạo học, dụng cụ gần như duy nhất là tâm mình. Nếu tâm mình trĩu nặng lo âu, sầu khổ, thành kiến, hoang mang, giận ghét, thì khó cho mình thực tập niệm định tuệ để đạt đạo và có được cái thấy về bản thân mình và thực tại. Đằng sau những dụng cụ máy móc tinh vi, nhà khoa học còn có tâm là dụng cụ căn bản. Tâm mình phải được tự do đối với những thành kiến, định kiến, tâm mình còn phải được tự do đối với các phiền não kia. Nếu nhà khoa học biết chế tạo, bảo quản, và lau chùi những dụng cụ của mình cho hoàn hảo thì anh ta cũng phải biết cách xử lý và chuyển hóa những khổ đau phiền muộn và bức xúc của tâm mình, bởi tâm mình là dụng cụ căn bản đứng phía sau mọi dụng cụ khác. Buông bỏ thành kiến, sở tri và phiền não không những giúp cho nhà khoa học thành công dễ dàng hơn trong sự nghiệp nghiên cứu và phát minh mà cũng giúp cho nhà khoa học có nhiều hạnh phúc và thảnh thơi, thiết lập được liên hệ tốt với gia đình, bạn bè và thế giới.

 

Trực giác

Nhưng tâm mình không phải chỉ là trí năng (intellect), tâm mình còn là tiềm thức, vô thức, tính mẫn cảm, lòng khâm phục, niềm yêu kính và khả năng trực giác. Những khám phá lớn của các nhà khoa học thường không xảy ra trong phòng thí nghiệm hay lúc khảo cứu, suy tư, nghĩa là không phải những lúc anh ta đang sử dụng trí năng. Những khám phá ấy là công trình của trực giác, một cái thấy không đi qua suy luận. Suy luận và trí năng có thể kiểm tra lại cái thấy của trực giác, nhưng chúng không đem lại cái thấy ấy. Những nhà đạo học thấy được điều này rất rõ. Cái “ hoát nhiên đại ngộ” không tới từ suy tư mà tới bằng trực giác.

Trong truyền thống thiền, trực giác đến nhờ một phần lớn ở sự thực tập. Đó là gieo vào tiềm thức (đạo Bụt gọi là tàng thức) hạt giống của câu hỏi, cũng như phó thác hạt giống cho đất và sau đó tiếp tục công phu tưới tẩm trong khi duy trì niềm tin nơi khả năng của tiềm thức. Trong khi ăn uống, nằm ngồi, làm việc, vị hành giả duy trì niềm tin ấy, ý thức được sự có mặt của hạt giống đã gieo vào tàng thức mà không cần tư duy và lý luận. Cái đó gọi là niệm và định. Niệm là nhận diện, là ý thức. Định là duy trì cái nhận diện và cái ý thức ấy. Nhận diện và ý thức mà không cần suy tư. Cũng như khi ngắm cảnh mặt trời mọc, ta chỉ cần nhớ là cảnh này đẹp quá, ta hoàn toàn có mặt cho nó, và ta không cần phải so sánh và suy nghĩ. Định là duy trì cho ý thức ấy được lâu dài. Niệm và định sẽ làm chín muồi hạt giống trong tàng thức và một buổi sáng nào đó hạt giống có thể đâm chồi và nở hoa một cách đột ngột. Đó là cái thấy của trực giác.

 

Nhị thủ

Cái tâm phân biệt của ta có thể là một chướng ngại. Ví dụ ta nghĩ rằng tâm nhận thức và cái thế giới thực tại mà ta đang tìm hiểu là hai thực thể có thể tách rời ra khỏi nhau mà tồn tại. Đó là vấn đề chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức. Các nhà khoa học thần kinh não bộ ưa đặt câu hỏi: “Làm thế nào mà những hoạt động vi tính của các tế bào thần kinh trong thế giới khách quan lại làm phát sinh ra được cái tâm thức chủ quan của con người?” (How come that objective computation activities of the neurons produce our subjective consciousness?) Một phần lớn các nhà khoa học vẫn còn tin rằng có một thế giới khách quan tồn tại ngoài tâm thức. Dù ta có nhận thức nó hay không thì nó vẫn cứ tồn tại. Và như vậy có nghĩa rằng sự có mặt của thế giới thực tại khách quan kia không tùy thuộc gì vào sự có mặt của tâm thức. Đã từ lâu, các triết gia đã đặt câu hỏi là liệu có thể có một thế giới khách quan nằm ngoài tâm thức hay không? Ngay từ thế kỷ thứ 18, David Hume đã nói: “Dù rằng ta không có nền tảng chứng cớ nào để tin rằng có một thực tại khách quan bên ngoài, ta vẫn không có cách gì hơn là hành động như là cái thực tại khách quan bên ngoài đó luôn luôn có mặt.” (Although we have no ground for believing in an objective reality, we have also no choice but to act as if it is true.) Phần lớn chúng ta đều tin rằng có một tâm thức chủ quan bên trong ta đang tìm cách vươn ra để tìm hiểu một thực tại khách quan bên ngoài (a subjective consciousness in here reaching out to an objective world of reality out there). Cái phân biệt đó theo đạo Bụt là chướng ngại lớn nhất cho sự phát sinh của tuệ giác. Cái tâm phân biệt đó trong đạo Bụt gọi là nhị thủ (dual grasping, tiếng Phạn grahadvaya), tức là tình trạng tâm ý kẹt vào ý niệm chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức là hai thực tại khác nhau, có thể tồn tại ngoài nhau.

Nhà đạo học, nhất là nhà Phật học, được huấn luyện kỹ càng về vấn đề này: đối tượng nhận thức và chủ thể nhận thức nương vào nhau mà phát khởi cùng một lúc, chủ thể nhận thức và đối tượng không thể có mặt cái này trước cái kia sau, hoặc độc lập với nhau. Trong tất cả các trường phái Phật học, thế giới vật chất trong đó có hình hài năm giác quan cùng với các cảm thọ, tri giác, tâm hành và nhận thức (gọi tắt là năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành và thức) đều được nhận thức là đối tượng của tâm thức (pháp, dharma, object of mind). Đối tượng tâm thức biểu hiện một lần với tâm thức, chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức nương vào nhau mà phát hiện một lần, tồn tại trong một sát na (giây lát ngắn nhất) và làm nền tảng cho sự phát sinh nhận thức của sát na kế tiếp. Đó gọi là nguyên tắc câu sinh (cùng sinh ra một lần, sahajàta) hay câu hữu (cùng nương vào nhau mà có mặt một lần, cái này không có mặt thì cái kia cũng không có mặt, sahabhù). Sahabhù cũng được dịch là tương tức (interbeing). Đây là cái tương đương với cái mà khoa học gọi là chồng chập (superposition) hay vướng mắc (entanglement).

Trong đạo Bụt không có pháp (sự vật) nào có thể tồn tại như một thực thể riêng biệt, cái này có đó vì cái kia có đó, cái này nằm trong cái kia, mà mình cứ tưởng cái này nằm ngoài cái kia. Tất cả đều thuộc về một màn lưới chằng chịt. Nếu một cái có mặt thì tất cả đều có mặt, nếu một cái không có mặt thì tất cả đều không có mặt. Đó là lời tuyên bố của một vị thiền sư Việt Nam ở thế kỷ thứ 12 tên là Đạo Hạnh (có thì có tự mảy may, không thì cả thế giới này cũng không: tác hữu trần sa hữu, vi không nhất thiết không). Cái thấy của đạo Bụt là không có gì có tự tính riêng biệt, không có ngã và pháp riêng biệt. Đó là tuệ giác ngã khôngpháp không. Tất cả đều nương vào nhau mà có mặt. Chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức cũng thế. Cũng giống như một tờ giấy có hai mặt trái và phải. Trái và phải nương vào nhau mà có mặt, nếu không có trái thì không có phải, nếu không có phải thì không có trái. Cho nên tách rời chủ thể nhận thức ra khỏi đối tượng nhận thức là một sai lầm căn bản. Trường phái triết học hiện tượng luận (phenomenology) cũng có chủ trương tương tợ: “Ý thức bao giờ cũng là ý thức về một cái gì. Ý thức không thể có mặt như một chủ thể không đối tượng.”(Conscience est toujours conscience de quelque chose.) Tâm thức của chúng ta không phải là một cái gì đứng ngoài đối tượng nhận thức, độc lập với đối tượng nhận thức. Nhiều nhà khoa học đã hé thấy điều này. Họ nói: “Nhà khoa học không thể chỉ là một quan sát viên đứng bên ngoài thực tại nhìn vào thực tại, mà phải là một tham dự viên thì mới có cơ hội hiểu được bản chất của thực tại.” (Scientist should be a participant rather than an observer.) Nếu ta nhìn địa cầu như một khối vật chất, nằm ngoài ta thì ta chưa thấy được địa cầu đích thực. Ta phải thấy ta là một phần của trái đất, và trái đất đang có mặt trong ta, ta phải thấy ta là đất mẹ và đất mẹ là ta. Nhà sinh vật học Lewis Thomas quan sát địa cầu và thấy đất Mẹ là một cơ thể, một tế bào của vũ trụ, cho nên ông ta đã viết cuốn The lives of a cell (những hình thái của sự sống trong một tế bào). Tế bào này là đất Mẹ. Khi thấy được địa cầu là một sinh mạng thì mình đã vượt được ý niệm địa cầu chỉ là vật chất. Sinh mạng là sự sống bao hàm tâm linh và tâm thức. Khi ta gọi địa cầu là đất Mẹ, ta cũng thấy địa cầu không còn là vật chất mà là một bà mẹ kỳ diệu đã sinh ra bao nhiêu chủng loại của sự sống, trong đó có con người, các vị thánh, các vị Bụt và các vị bồ tát. Nhìn trái Đất như thế là ta nhìn bằng tính mẫn cảm, bằng tâm kính trọng, lòng khâm phục và niềm yêu thương, chứ không phải chỉ nhìn bằng trí năng. Nhìn như thế thì sự giao cảm sẽ có mặt, ranh giới giữa chủ thể và đối tượng không còn, và những cái thấy trực giác có thể xảy ra. Như vậy là ta thoát ra được cái gọng kềm của nhị thủ, nghĩa là cái tập khí đã từng làm cho ta kẹt vào cái ý niệm chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức là hai thực tại riêng biệt, cái này là chủ quan, cái kia là khách quan, và cái này phải vươn ra để tìm hiểu cái kia.

 

Quán sát và tham dự

Einstein nói rằng khi quan sát vũ trụ ông ta thấy phát sinh trong lòng một nỗi niềm cảm phục và một thái độ kính ngưỡng đối với vẻ đẹp và sự hòa điệu của vũ trụ. Ông nói đó là bản chất tôn giáo trong tự thân ông. Chính tính mẫn cảm ấy, niềm cảm phục và xúc động ấy của ông với cái đẹp đẽ và mầu nhiệm của đất trời đã giúp cho ông có được những trực giác bén nhạy mà kết quả là những khám phá về môi trường liên tục (continuum) không thời gian, thuyết tương đối hẹp và thuyết tương đối phổ quát của ông. Vì thế nếu nhìn mặt trời mà ta chỉ thấy có Hydrogen và Helium thì mặt trời đối với ta chỉ là một khối vật chất, trong khi đó những người như thánh Francois d’Assise thì thấy mặt trời là một người huynh đệ (xem bài Cantique de Frère Soleil), và những người Phật tử khi nhìn mặt trời thì thấy đó là một vị Bụt Như Lai với hào quang vô lượng và thọ mạng vô lượng (Đại Nhật Như Lai, Amitayus, Vairocana Tathàgata). Tâm phân biệt chủ thể và đối tượng, tinh thần và vật chất, ta và không phải ta .v.v…, cái tâm ấy bị kẹt vào nhị thủ, khó thiết lập được đồng cảm và trực giác vốn rất cần cho sự phát minh và ngộ đạo. Tiếng Pháp có động từ comprendre, cũng như tiếng Anh có động từ comprehend đều có nghĩa là hiểu biết. Động từ này gồm có tiền tố com nghĩa là chung cùng, là một với nhau, và động từ chính prendre nghĩa là nắm lấy. Muốn thực sự hiểu thì phải trở thành một với cái đối tượng mình muốn tìm hiểu. Nắm lấy cái đó và trở thành một với nó, đó là nghĩa của chữ comprendre. Cũng như một hạt muối đứng trên bờ đại dương muốn biết độ mặn của nước biển. Cách duy nhất là nó nhảy vào đại dương và trở thành một với nước biển. Cái hiểu này mới thật sự là cái hiểu thấu triệt vì trong đó không còn sự phân biệt chủ thể và đối tượng, chủ quan và khách quan. Thành ngữ “il faut être dans sa peau pour pouvoir le comprendre” cũng có nghĩa ấy. Đó là cái thấy mà đạo Bụt gọi là vô phân biệt trí (nirvikalpajnàna), một cái thấy không còn rào cản chủ thể đối tượng, thoát ly mọi so sánh mặc cảm: hơn người, thua người và bằng người. Nếu ta nhìn đất Mẹ mà thấy được ta là đất Mẹ và đất Mẹ là ta thì ta cũng vượt thoát được cái nhìn lưỡng nguyên và vượt thắng được nỗi sợ hãi về sinh tử.

 

Tàng thức

Trong truyền thống thiền, người hành giả biết rằng sự đạt đạo hoặc giác ngộ (satori) là hoa trái của tàng thức hiến tặng chứ không phải là kết quả của tư duy. Tàng thức là phần căn bản của tâm thức, có khi gọi là căn bản thức (mùlavijnana) có công năng tiếp thu thông tin, bảo trì thông tin, xử lý thông tin, học hỏi và nuôi dưỡng những hạt giống tuệ giác. Công việc của Tàng na ná như công việc của một máy tính, nhưng khác hơn là trong Tàng tất cả đều chuyển biến không ngừng như một dòng sông, không có gì bất động như những dữ liệu mà máy tính cất giữ. Cũng vì vậy có khi Tàng được gọi là một dòng chảy, một môi trường liên tục (continuum) tiếng Phạn là bhavàngasrota, tiếng Việt là Hữu Phần Lưu, hoặc gọi tắt là Hữu Phần Thức. Ý thức chỉ đóng vai trò gieo trồng hạt giống vào Tàng thức và chuyên cần tưới tẩm cho hạt giống ấy bằng năng lượng Niệm và Định của mình. Niệm và Định không phải là tư duy mà là ý thức nhận diện và khả năng duy trì ý thức ấy. Nhà đạo học hoặc người hành giả sống trong một môi trường thuận lợi cho sự thực tập ấy, gọi là tăng thân (Sanghakàya). Năng lượng Niệm và Định tập thể của tăng thân nâng đỡ rất nhiều cho người hành giả. Nhà khoa học nếu được sống trong một môi trường có sự nuôi dưỡng Niệm và Định ấy, thế nào cũng thành đạt dễ dàng hơn trong công phu tìm kiếm của mình. Có thầy có bạn, người hành giả cũng có cơ hội được nhắc nhở để buông bỏ những chướng ngại về sở tri và về phiền não để thân tâm được nhẹ nhàng hơn trong khi theo đuổi công trình khám phá.

Tập khí xem tâm vật là hai thực thể tách biệt, xem chủ thể và đối tượng là hai cái có thể tồn tại ngoài nhau, đó là một tập khí lâu đời phải có công phu luyện tập mới buông bỏ được. Cái thấy lưỡng nguyên đó gọi là nhị kiến (double grasping). Thiền sư Tuệ Trung Thượng Sĩ đời Trần có nói: “Nếu buông bỏ được cái kiến chấp nhị nguyên đó thì thực tại sẽ hiện ra trong cái toàn thể của nó.” (Đản năng vong nhị kiến, pháp giới tận dung thông– Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục).

Nhà đạo học hoặc nhà khoa học một khi đã buông bỏ được nhị kiến thì đã bước được một bước khá dài. Bây giờ buông bỏ những ý niệm căn bản khác như ý niệm có không, sinh diệt.v.v…trở nên tương đối dễ dàng hơn.

 

Bất sinh bất diệt

Ví dụ ta nói đến ý niệm sinh và diệt. Ý niệm sinh và diệt của ta được phát sinh từ ý niệm có và không (being and non being) và có liên hệ mật thiết với ý niệm có và không. Ta cho rằng sinh có nghĩa là từ không mà trở thành có và diệt có nghĩa là từ có mà trở thành không trở lại. Với định luật bảo toàn năng lượng (the law of conservation of energy), các nhà khoa học đã khám phá ra rằng bản tính của năng lượng là không sinh không diệt, tại vì ta không thể nào tạo ra năng lượng cũng không thể nào chấm dứt được năng lượng. Ta chỉ có thể chuyển tải (transfer) năng lượng mà thôi. Tính vô sinh bất diệt cũng là tính của vật chất bởi vì vật chất cũng là một hình thái của năng lượng. Khi Lavoisier nói: “Không có gì sinh, không có gì diệt, tất cả đều chuyển biến.” (Rien ne se crée, rien ne se perd, tout se transforme), nhà khoa học này tuyên bố một điều y hệt như Tâm Kinh Bát Nhã: “Thể vạn pháp là không, không sinh cũng không diệt.” Nếu tự tính của vạn pháp đã không sinh cũng không diệt, thì tự tính của chúng cũng không có cũng không không. Ý niệm sinh-diệt được vượt thắng rồi thì ý niệm có-không cũng được vượt thắng. Nhưng nhiều nhà khoa học cũng vẫn còn bị kẹt vào ý niệm có-không, cho nên họ mới đặt câu hỏi: “Thế giới này từ đâu mà đến? Tại sao nó có thay vì nó không có? (Where did all this come from? Why is there something rather than nothing?) Trong đạo Bụt ý niệm được định nghĩa rất rõ ràng: có nghĩa là có thực thể, có bản chất, có tự tính (self-nature, svabhàva). Thiền quán là nhìn sâu vào các hiện tượng, các “pháp”. Không một vật gì có tự tính riêng biệt, không một vật gì có thể tồn tại riêng biệt, tất cả đều không có tự tính, tất cả đều là duyên khởi, tất cả đều phản ảnh mạng lưới nhân duyên. Vì vậy chúng không thật có. Gán cho chúng ý niệm có (being) là sai lầm. Gán cho chúng ý niệm không (non being) cũng là sai lầm. Những ý niệm có và không không diễn tả được thực tại. Thực tại không có cũng không không, từ Thượng đế cho tới đám mây và hòn cuội.

Tự tính của đám mây là không sinh không diệt. Đám mây đã không phải từ không mà trở thành có, đám mây đã không từ lĩnh vực của vô thể (non being) mà đi vào lĩnh vực của hữu thể (being). Bản tính của đám mây là vô sinh. Đám mây cũng không thể nào chết được, nghĩa là không thể nào từ có mà trở thành không. Đám mây cũng như năng lượng, chỉ có thể chuyển biến mà không thể chết. Đám mây chỉ có thể biến thành mưa, hoặc tuyết, hoặc nước đá, vv…và như vậy là đám mây không lưu chuyển trong sinh tử, đám mây đang rong chơi ở cõi niết bàn, nghĩa là trong cõi không sinh và không diệt, không có và không không.

 

Lý trí và giác ngộ

Vậy thì khi Antoine Laurent Lavoisier khám phá ra được tự tính không sinh diệt của vạn vật, đáng lý nhà khoa học ấy cũng phải đồng thời khám phá ra được tự tính không có không không của chúng, như vậy thì mới hợp lý và mới đầy đủ. Và nếu nhà khoa học tài ba của chúng ta duy trì được tuệ giác không có không không, không sinh không diệt ấy trong đời sống hằng ngày thì khi bị lên máy chém (Antoine Laurent Lavoisier bị hành quyết năm 1794), ông cũng có thể mỉm cười được trong giờ phút ấy, bởi vì ông đã được giải thoát khỏi những ý niệm sinh tử và có không. Đến đây, ta có thể nói tới sự khác biệt giữa tuệ giác và kiến thức. Một người có thể có kiến thức về vô thường, vô ngã và vô sinh diệt, người ấy tin vào những nguyên lý ấy và có thể giảng giải rõ ràng hợp lý và hùng biện về những nguyên lý ấy, nhưng vẫn sống và hành xử như vạn vật là thường, là có ngã, là có sinh và có diệt. Có những nhà khoa học nghĩ rằng khi chết là không còn gì nữa cả, dù nhà khoa học đó tin vào nguyên lý không có gì sinh cũng không có gì diệt như Lavoisier đã tìm thấy và đã tin. Cái biết về vô thường, vô ngã và vô sinh diệt không đủ để giải phóng con người ra khỏi sợ hãi, thèm khát và hận thù. Chỉ khi nào con người trực tiếp chứng nghiệm được bằng trực giác ấy, duy trì được tuệ giác ấy trong đời sống hằng ngày, thì tuệ giác ấy mới thực sự giải thoát được cho mình. Do đó trong đạo học phải thực tập niệm và định. Niệm (smrti) là duy trì ý thức, định (samadhi) là duy trì được tuệ giác. Sự thực tập hàng ngày của người tu là để tuệ giác trở thành sự sống hàng ngày. Nhà khoa học nhờ có thực tập Niệm và Định tới một mức độ nào đó cho nên đã buông bỏ được những hành xử trái với nhận thức khoa học, như tin vào thần linh, ma quỷ, tướng số, v.v…nhưng những phát kiến của khoa học phần lớn chỉ để áp dụng vào kỹ thuật mà ít được áp dụng vào đời sống tình cảm và tâm linh hàng ngày. Đây là sự khác biệt giữa kiến thức và tuệ giác, giữa lý trí (trí năng-intellect) và giác ngộ.

 

Khởi nguyên và chung cuộc

Tính chất của thực tại đã không sinh không diệt, không có không không thì tại sao ta phải đi tìm một cái bắt đầu và một cái chung cuộc? Cái bắt đầu tức là cái sinh, cái chung cuộc tức là cái diệt. Lý thuyết ‘big bang’ là để giải thích cái bắt đầu của vũ trụ. Vũ trụ có cần một cái bắt đầu không? Trong khi tất cả mọi hiện tượng trong vũ trụ đều không có cái bắt đầu và không có hoại diệt. Đã có sinh thì phải có diệt, cho nên đã nói tới cái ‘big bang’ thì phải nói tới cái ‘big crunch’, phải nói tới cái hữu thể và cái vô thể. Những nhà chủ trương thuyết ‘big bang’ cho rằng không gian và thời gian chỉ bắt đầu từ khi có ‘big bang’. Nhưng theo các vị này thì hiện tượng ‘big bang’ xảy ra sau sự bắt đầu của thời gian, chỉ một sát na sau cái bắt đầu của vũ trụ (10-35 giây). Cái điểm bắt đầu của thời gian (time zero), khoa học vẫn chưa thể hình dung ra được nó như thế nào. Tại sao không nói sự biểu hiện của vũ trụ này chỉ là một sự tiếp nối của một vũ trụ khác, hoặc của nhiều vũ trụ khác, như sự biểu hiện của một đám mây là sự tiếp nối của hơi nước, sức nóng, mặt trời và những dòng sông, dòng suối khác? Nếu có một vũ trụ này thì cũng có những vũ trụ khác. Có phải là đã có những nhà khoa học chủ trương có nhiều vũ trụ biểu hiện song song với nhau đó không? Vũ trụ này có thể chỉ là một biểu hiện của mạng lưới tất cả các vũ trụ, tại sao không?

 

Hai loại sự thật

Trong đạo Bụt có nguyên tắc quán chiếu gọi là tùng tướng nhập tánh, nghĩa là từ thế giới hiện tượng ta đi vào thế giới bản thể. Nếu ta quán chiếu cho thật sâu sắc thế giới hiện tượng ta sẽ tiếp xúc được với thế giới bản thể. Đi vào thế giới bản thể ta phải bỏ lại mọi ý niệm và mọi nguyên lý mà ta từng sử dụng để mô tả thế giới hiện tượng. Ta sử dụng một thứ ngôn ngữ có vẻ biểu tượng hơn. Như vậy đạo Bụt chủ trương có hai loại sự thật: sự thật ước lệ (tục đế, samvritisatya) và sự thật tối hậu (chân đế, paramarthasatya). Ví dụ trong thế giới hiện tượng ta có thể sử dụng các ý niệm sinh diệt, có không, tới đi, một khác, v.v…nhưng khi đi vào tới thế giới thực tại ta phải buông bỏ những ý niệm ấy. Trong đạo Bụt, thế giới bản thể ấy gọi là thật tế (the realm of reality; tiếng Phạn là bhūta-koti), chân như (suchness; tiếng Phạn là tathātā) hay niết bàn (nirvana, extinction of notions). Trong kinh Udana, Bụt nói: “Này các vị khất sĩ, có một cái không sinh ra, không tồn tại, không tạo tác, không tập hợp…Nếu không có cái không sinh ra, không tồn tại, không tạo tác, không tập hợp ấy thì không có chỗ thoát cho tất cả những cái có sinh, có tồn tại, có tạo tác, có tập hợp.” Cái vô sinh, vô hữu, vô tác và vô hành ấy chính là thế giới bản môn, là thực tại tối hậu. Con đường “tùng tướng nhập tánh” là con đường tiệm tiến, gọi là không tương ưng duyên khởi tùy thuận (sùnyatà pratisamyukta pratityasamutpàda anulomata). Nghĩa là ta có thể khéo léo sử dụng các ý niệm và tuệ giác về duyên khởi để đi vào thế giới bản môn của không mà không thấy có sự mâu thuẫn chống đối. Anulomata có nghĩa là tùy thuận (adaptation), nghĩa là sử dụng các ý niệm và các nguyên lý của đạo lý duyên khởi cho khéo léo, đừng bị kẹt vào chúng, để từ duyên sinh mà đi vào vô sinh, từ hiện tượng mà đi vào bản thể. Hai loại sự thực tương đối và tuyệt đối không chống đối nhau và cả hai loại sự thực đều có thể được sử dụng và có ích tùy theo trường hợp. Những kinh sách nói về sự thực ước lệ (conventional truth) thì gọi là những kinh không liễu nghĩa. Những kinh sách nói về sự thực tối hậu (ultimate truth) thì gọi là những kinh sách liễu nghĩa. Hai loại kinh sách đều được sử dụng tùy theo trường hợp. Nói giữa chúng sinh và Phật có sự khác nhau là đúng, mà nói giữa chúng sinh và Phật không có sự khác nhau nào cũng đúng. Câu nói đầu diễn tả sự thực ước lệ, câu nói sau diễn tả sự thực tối hậu. Nagarjuna, trong tác phẩm Trung Quán Luận, nói về tính vô sinh của sự vật như sau: “Sự vật không tự mình sinh ra mình, cũng không do một vật khác sinh ra, cũng không do cả hai cái đó, và cũng không phải là tự nhiên sinh ra. Vì vậy ta biết tự tính của chúng là vô sinh.” Nếu tự tính của sự vật là vô sinh thì tự tính ấy cũng là vô diệt, là không có cũng không không. Từ ý niệm duyên sinh đi tới cái thấy vô sinh là như thế.

Trong khoa học cũng có hai loại sự thực như thế. Sự thực đầu đại diện bởi khoa học cổ điển, khoa học của Newton. Khoa học này tin tưởng ở một thế giới thực tại khách quan có mặt ngoài tâm thức, trong đó mỗi sự vật có vị trí của nó trong không gian và thời gian, có những đặc tính nhất định, và hoàn toàn không phụ thuộc vào người quan sát chúng. Khoa học này mang tính thực tại luận (realism) và quyết định luận (determinism). Ngay cả Einstein cũng tin như thế. Chính ông đã viết: “Để sắp xếp các sự vật được coi là đối tượng của khoa học vật lý, điều thiết yếu là các sự vật ấy phải tồn tại độc lập ít nhất là trong một thời gian nào đó, và có vị trí riêng của chúng trong không gian.” (For the classification of things that are introduced in physics, it is essential that these things require for a certain time an independent existence, as far as these things lay “in different parts of space”.) Trong đạo Bụt, lúc bắt đầu quán chiếu thế giới hiện tượng (pháp tướng), người ta cũng định nghĩa sự vật (pháp) như thế: “Nhậm trì tự tính, quỷ sinh vật giải”, nghĩa là sự vật phải duy trì được tự tính (nghĩa là những đặc tính) của chúng, đủ để cho người ta có thể có một quan niệm về chúng và nhận ra được chúng. Trong khoa học mới, nhất là trong cơ giới lượng tử, các nhà khoa học không còn thấy sự vật như thế nữa. Sự vật, trong đó có các hạt nguyên tử và hạ nguyên tử, không thể tồn tại như là một cái gì độc lập mà chỉ có thể có mặt như một phần của cái tất cả. Các hạt nguyên tử và hạ nguyên tử cũng không có vị trí nhất định trong không gian và tốc độ nhất định trong không gian trước khi chúng được quán sát và đo đạt bởi một quan sát viên. Stephen Hawkins viết trong cuốn The Grand Design: “Các hạt phân tử và nguyên tử vận hành một cách hoàn toàn khác lạ so với kinh nghiệm hàng ngày của chúng ta. Vật lý học lượng tử là một mẫu hình vẽ thực tại mới. Nó cho ta hình ảnh của một thế giới trong đó những ý niệm căn bản của chúng ta về thực tại không còn nghĩa lý gì nữa.” (Individual atoms and molecules operate in a manner profoundly different from that of our every day experience. Quantum physics is a new model of reality that gives us a picture of the universe. It is a picture in which many concepts fundamental to our intuitive understanding of reality no longer have meaning) (trang 68). Để diễn đạt cái thấy mới của mình, các khoa học gia bị bắt buộc phải buông bỏ những ý niệm và ngôn từ đã được sử dụng trong khoa học cổ điển. Họ dùng những danh từ rất mới có tính cách biểu tượng như charm, color, string, savor,v.v… những danh từ này không có cùng ý nghĩa như khi chúng được sử dụng trong đời sống hằng ngày. Họ thấy nhiều cái vô lý và trái ngược trong thế giới lượng tử, và họ bắt buộc phải chấp nhận những cái vô lý và trái ngược ấy. Ví dụ tính cách lưỡng nguyên của hạt căn bản: gọi nó là hạt nhưng nó cũng là sóng. Trong khi đó trong thế giới sinh hoạt hằng ngày, sónghạt là hai ý niệm thật khác nhau. Một ví dụ khác là nguyên lý bất định (uncertainty principle), những cặp đặc tính của các hạt nguyên tử như vị trí và tốc độ không thể được xác định đồng thời, cái này càng rõ ràng thì cái kia càng xa mờ. Một ví dụ khác, đó là sự vướng mắc lượng tử (quantum entanglement). Ta không thể lấy cái này ra khỏi cái kia. Cái này không phải là cái kia nhưng cái này cũng là cái kia. Cái này không phải chỉ có mặt ở đây, nó cũng đang có mặt ở một nơi khác. Richard Feynman nói: “Cơ học lượng tử đang đối đầu với sự vô lý. Bản chất của thực tại là phi lý” (Quantum mechanics deal with nature as she is absurd). Ông lại nói: “Tôi nghĩ là tôi có thể nói mà không sợ sai lầm là chưa ai có thể thực sự hiểu được cơ học lượng tử.” (I think I can safely say that nobody understands quantum mechanics.)

Sở dĩ ta còn thấy thực tại là phi lý là tại vì ta chưa buông bỏ được mọi khái niệm và thói quen nắm bắt thực tại bằng khái niệm. Khoa học đã hé thấy được thời gian và không gian không phải là những thực thể khác biệt, cả hai đều không tuyệt đối, cả hai đều tùy thuộc vật thể, tốc độ, vị trí của người quán sát và tâm thức. Khoa học đã hé thấy được là không sự vật nào có sự tồn tại độc lập, tất cả đều chỉ là một phần của mạng lưới và mang mạng lưới trong tự thân mình. Các hạt điện tử không tồn tại độc lập, những lực tương tác giữa các điện tử với môi trường và với những hạt khác là một phần của chúng, hoặc là tất cả chúng. Cũng như một bông hoa chỉ được làm bằng những gì không phải là hoa: mặt trời, đám mây, đất, phân bón, người trồng hoa, v.v… Lấy ra khỏi bông hoa những yếu tố không phải bông hoa, thì bông hoa không còn. Một điện tử cũng thế, mà cả một tinh cầu cũng thế. Đó là cái mà đạo Bụt gọi là tương tức, là duyên khởi. Duyên khởi là tùy thuộc vào các điều kiện mà biểu hiện ra. Bụt nói: “Cái này có mặt vì cái kia có mặt, cái này không có mặt thì cái kia cũng không có mặt.” Điều này đúng cho cặp thời gian và không gian và đúng cho mọi cặp khác như sinh-tử, có-không, động-tĩnh, trước-sau, này-kia, tôi-anh, chủ thể-đối tượng, chủ quan-khách quan, tâm-vật, trong-ngoài, một-khác, v.v… Thấy được duyên khởi thì buông bỏ từ từ được mọi ý niệm, và tiếp xúc được với thực tại tối hậu. Trong đạo Bụt, thế giới sinh diệt và thế giới bất sinh bất diệt không phải là hai thế giới riêng biệt. Phải tìm cái bất sinh bất diệt ngay trong cái sinh diệt, và vì vậy nếu khéo léo nương vào nhận thức duyên sinh thì sẽ đi được vào vô sinh. Khéo léo ở đây là tùy thuận, là khả năng buông bỏ được những ý niệm và những thói quen nắm bắt thực tại bằng ý niệm. Ý niệm sinh tử cần buông bỏ đã đành, ý niệm niết bàn, không sinh không tử cũng phải buông bỏ. Niết bàn nếu được nhận thức như một thực tại có mặt ngoài sinh tử cũng chỉ là một ý niệm. Trong Phật học, người hành giả được dạy phải tìm niết bàn ngay trong sinh tử, cũng như không thể bỏ sóng mà đi tìm nước. Một đợt sóng có lên có xuống, có cao có thấp, có bắt đầu có chung cuộc, có có có không, nhưng tất cả những cái ấy đều thuộc về sóng. Nếu sóng biết được mình là nước thì những mong cầu, so sánh và sợ hãi do những ý niệm lên xuống, cao thấp, có không, v.v…kia làm phát sinh sẽ không còn nữa, và đợt sóng sẽ có tự do. Và đợt sóng không cần đi tìm nước, bởi vì sóng đã là nước.

 

Trung đạo

Trong đạo Bụt có giáo lý Không hay Trung đạo. Không nghĩa là sự vắng mặt của mọi ý niệm. Trung đạo là sự vượt thắng những cặp ý niệm tương phản như sinh diệt, có không, chủ khách, còn mất, tâm vật, tới đi, v.v… Biện chứng pháp mà thầy Nagarjuna sử dụng là để làm cho vô lý đi (reductio ad absurdum) tất cả mọi khái niệm. Những cặp đối nghịch kia không những không tiêu diệt nhau mà ngược lại nương vào nhau mà thành lập. Chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức là như thế đã đành, mà có không, sinh diệt, còn mất cũng thế. Cũng như hai mặt của một tờ giấy, mặt này có mặt cho nên mặt kia mới có mặt. Cũng như tướng sóng và tướng hạt của một điện tử. Trung đạo là con đường ở giữa, không kẹt vào bên nào, vượt thoát cả hai bên. Anton Zeilinger nói rằng: “Khoa học vật lý không phải là khoa học của thiên nhiên mà là khoa học của những lời tuyên bố diễn giải về thiên nhiên. (Hình ảnh mình có về) tự thân thiên nhiên luôn luôn chỉ là những xây dựng của tâm thức mình.” (Ultimately physical sciences are not sciences of nature. Nature itself is always a construction of the mind). Đối với nhà đạo học, niết bàn hay chân lý tuyệt đối không thể diễn tả được bằng ngôn ngữ và khái niệm (ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt), thì những lời tuyên bố về niết bàn làm sao diễn tả được niết bàn. Trong đạo Bụt có một loại trí tuệ được gọi là tùy thuận trí (anulomajnàna), có thể dịch ra tiếng Anh là adaptation wisdom, hay conformity wisdom, có công năng đưa ta từ những sự thực ước lệ tương đối đến những sự thực tuyệt đối mà không thấy sự chống đối giữa hai sự thực. Ban đầu, đạo Bụt cũng nói tới sự có mặt của các hiện tượng, các hiện tượng có vị trí riêng của chúng trong không gian và thời gian, có đặc tính riêng biệt của chúng và được nhận thức như những thực tại có mặt ngoài nhau, cũng như khi David Bohm nói về trật tự ngoại nhiếp (the explicate order). Đó là cái thấy ước lệ của ta trong đời sống thường ngày. A chỉ có thể là A mà không thể là B được. Con gà là con gà, không phải là cái bàn, hay cái trứng, hay một bông hoa. Đó là nguyên tắc đồng nhất. Nhưng khi áp dụng cái thấy về duyên khởi, ta thấy một bông hoa chỉ có thể được hình thành bởi những yếu tố không phải là bông hoa như hạt giống, phân, đất, ánh sáng mặt trời, nước mưa, v.v…Lấy những cái ấy ra khỏi bông hoa thì bông hoa không thể nào còn có mặt. Như vậy A không thực sự là A mà chỉ là sự tập hợp của B, C, D, E, F, v.v…mà thôi. Kinh Kim Cương sử dụng biện chứng pháp ấy, nói rằng: “Chúng sinh không phải là chúng sinh mới thật là chúng sinh.” Như thế ta có thể viết A ≠ A = A. Thấy A không phải là A, thấy A được tập hợp nên toàn bằng những yếu tố không phải là A, thì lúc đó ta mới thật sự thấy được A. Và ta đã có thể bắt đầu viết A=B+C+D v.v… Đó là tùy thuận trí, có khả năng phá được nguyên tắc đồng nhất, đưa ta vào thế giới duyên khởi. Ta thấy được cái này nằm trong cái kia, cái kia nằm trong cái này, vạn vật không có mặt ngoài nhau mà là có mặt trong nhau. Đó là cái thế giới mà David Bohm gọi là trật tự nội nhiếp (the implicate order). Với cái thấy này ta bắt đầu thấy được tính tương tức của vạn vật, và cái thấy của ta bắt đầu tùy thuận với cái thấy không của Bát Nhã: không sinh cũng không diệt, không dơ cũng không sạch, không thêm cũng không bớt. Sử dụng trí duyên khởi để từ cái thấy có ngã có pháp, ta đi tới cái thấy không ngã không pháp, đó là cái mà kinh Tạp A Hàm số 293 gọi là duyên khởi tùy thuận không tương ứng (pratitya samutpada ànulomata sunyata samyukta). Với cái thấy này, thời gian, không gian, vật thể và tâm thức đều có mặt trong nhau, cũng như cái sinh nằm trong cái diệt, cái có nằm trong cái không, mà không còn là những thực tại có mặt riêng biệt ngoài nhau nữa.

 

Toán học tương tức

Trong đạo Bụt có cái thấy tương đãi và tương tức giúp ta thoát được cái nhìn nhị nguyên và đạt tới tuệ giác vô phân biệt trí để có thể tiếp xúc với thực tại đích thực. Ý niệm tương đãi cũng gần như ý niệm đối xứng (symmetry) trong khoa học. Ý niệm tương tức cũng na ná với ý niệm vướng mắc (entanglement). Theo cái thấy tương đãi, thì ý niệm điểm (point) và ý niệm đường (line) trong hình học nương nhau mà được thành lập. Để định nghĩa điểm, ta phải sử dụng ý niệm đường, và để định nghĩa đường ta phải sử dụng ý niệm điểm. Khi ta nói điểm là nơi gặp gỡ giữa hai đường và đường là sự di chuyển của điểm, ta công nhận tính cách tương đãi của cả hai ý niệm. Cái này có thì cái kia mới có. Điểm và đường chỉ có thể có mặt với nhau một lần. Điểm và đường nương vào nhau mà được thành lập. Điểm và đường không thể là hai thực tại cách biệt: trong điểm có đường và trong đường có điểm. Đó là tương đãi, đó là tương tức. Điều này cũng đúng về ý niệm cộng và ý niệm trừ, ý niệm cộng vô cực và ý niệm trừ vô cực. Chúng nương nhau mà được thành lập.

Theo hình học xạ ảnh (projective geometry), người ta đã dùng một hình ảnh để mô tả bằng cách nào mà cộng vô cực và trừ vô cực có thể được nhìn trở thành một điểm đồng nhất: Có một bản vẽ tỉ lệ 1:1 vẽ một đường thẳng kéo dài từ trừ vô cực đến cộng vô cực, lên trên một vòng tròn, với một điểm nằm trên vòng tròn tượng trưng cho cả trừ vô cực và cộng vô cực. Các điểm a, b, và c trên đường thẳng được kẻ lần lượt đến các điểm A, B và C trên vòng tròn. Khi các mũi tên (đi ngang qua a và A; b và B; c và C) được chiếu qua đỉnh vòng tròn và quét ngày càng xa hơn về bên trái và phải theo hướng cộng vô cực và trừ vô cực thì những điểm tương ứng trên vòng tròn sẽ ngày càng tiến lại gần đỉnh của vòng tròn hơn, từ bên trái hoặc phải. Trong giới hạn, điểm ở đỉnh cao nhất của vòng tròn có thể đồng thời tượng trưng cho cả cộng vô cực và trừ vô cực.

Chúng ta thường hình dung thời gian trôi qua như một đường thẳng kéo dài từ quá khứ, qua hiện tại đến tương lai. Vì một lý do nào đó, chúng ta có cái ý tưởng rằng cái khoảng thời gian quá khứ thì ngày càng dài ra và thời gian của tương lai thì càng ngày càng ngắn lại. Trong đạo Bụt, thời gian có thể được mô tả bằng một vòng tròn – hay đúng hơn là giống như hình vẽ một đường thẳng nằm trên một vòng tròn có thật như đã được giải thích ở trên. Chúng ta hãy tưởng tượng một loại máy chiếu (slide-projector), trong đó, slide đang được chiếu tượng trưng cho hiện tại, và những slide được chiếu từng cái từng cái một, đến từ phía tương lai và đang được dự trữ ở phía của quá khứ.

Thế nhưng, điều gì sẽ xảy ra khi cái slide đầu tiên đi hết vòng tròn và được chiếu trở lại? Trong đạo Bụt, chúng ta nói về dị thục (vipāka). Những kinh nghiệm của giây phút hiện tại được tích trữ trong tàng thức, dưới dạng những hạt giống và đến khi chín muồi, chúng được biểu hiện trở lại một lần nữa trong hiện tại. Hình ảnh về cái máy chiếu khá hay nhưng cũng chưa đầy đủ lắm vì những slide không thay đổi khi chúng đi từ hiện tại, vào quá khứ, vòng qua tương lai và vào hiện tại một lần nữa, trong khi đó trong tàng thức, tất cả những hạt giống đều có bản chất hữu cơ (organic nature) và hằng chuyển (always changing). Chúng ta có thể nói về dị thục mọi lúc. Theo cách này, chúng ta có thể thấy rằng quá khứ được làm bằng hiện tại nhưng tiếp theo sẽ trở thành nền tảng của tương lai mà sẽ trở thành hiện tại lần nữa. Điều này được biết đến như sự tương tức của ba thời – quá khứ, hiện tại và tương lai.

Trên một đường thẳng số học, một điểm có thể luôn được so sánh với một điểm khác dưới dạng lớn hơn, bằng hoặc nhỏ hơn. Chúng ta thường bị kẹt vào khuynh hướng so sánh khi chúng ta chỉ xem xét một mặt của vấn đề. Chúng ta có thể so sánh chiều cao, sự giàu có, thành công, quyền lực và thấy rằng chúng ta hơn, thua hay bằng một người khác. Thật thú vị để ghi nhận rằng chỉ cần ngay khi nhìn nhận sự vật sự việc với thêm một góc cạnh khác thì chúng ta đã có thể được giải thoát hoàn toàn khỏi ba loại mặc cảm hơn, kém và bằng này. Khi so sánh hai điểm khác nhau nằm trên một vòng tròn, chúng ta thấy chúng không bằng nhau mà cũng không thể nói điểm này nhỏ hơn hay lớn hơn điểm kia. Một số triết gia chính trị đã vẽ biểu đồ về sự ủng hộ chính trị trên hai trục với những kết quả rất thú vị, phá vỡ hai cực tả và hữu truyền thống.

‘Lý thuyết tập hợp’ (set theory) được xây dựng trên nguyên tắc của tập hợp quy nạp (set-inclusion) và nguyên tắc đồng nhất. Một tập hợp là một sự kết hợp lại của nhiều yếu tố, ví dụ như {1,2,3} được gọi là một tập hợp và những con số 1, 2 và 3 là những yếu tố của tập hợp đó. Nếu tất cả những thành phần của tập hợp A là thành phần của tập hợp B thì A được gọi là “tập hợp con”(subset) của B. Chúng ta có thể nói A ở trong B. Nếu B cũng là tập hợp con của A thì A và B bằng nhau (A=B) bởi vì tất cả những yếu tố của A nằm trong B và tất cả những yếu tố của B cũng nằm trong A. Điều này tương ứng với sự thật tương đối (conventional truth). Nhưng nếu nhìn sâu hơn, ví dụ chúng ta có thể thấy cha ta trong ta và ta trong cha ta, thế nhưng ta không phải là cha ta. Ta và cha ta không là nhau mà cũng không khác nhau. Do đó ‘lý thuyết tập hợp’ với công thức hiện thời như trên không thể giải thích được cho loại liên hệ này.

Những con số mà ta gọi là những con số thật (real numbers) nằm giữa cộng vô cực và trừ vô cực cũng thế: con số 1 không thể có nếu không có con số 0, con số -1, con số 2 , con số 10, con số 100, v.. v…Như vậy trong con số 1 có con số 0, có con số -1, có con số 10, con số 100 và tất cả các con số khác, cũng giống như trong bông hoa có mây, có nắng, có đất, và có tất cả vũ trụ. Ý niệm về 1 được phát sinh từ các ý niệm về 0, về 2, về 100, v.v. Số 1 chứa đựng tất cả những con số không phải là 1. Số 1 là một giả danh (conventional designation) cũng như tất cả các số khác, cũng như giây, phút, năm, tháng, tôi và anh.

Bông hoa tuy được xem là nhỏ nhưng chứa đầy cả vũ trụ trong đó. Thoát được ý niệm nhỏ và lớn, trong và ngoài, thì mới thấy được bông hoa một cách chân thực. Thấy được ý niệm khởi thủy và ý niệm chung cuộc, nương vào nhau mà phát khởi, ta cũng thấy được ý niệm trừ vô cực và cộng vô cực cũng nương vào nhau mà phát khởi. Lấy được hai ý niệm trừ vô cực và cộng vô cực ra thì con đường thẳng giữa trừ vô cực và cộng vô cực sẽ trở thành con đường vòng tròn, và các số A, B, C, v..v.. trên con đường thẳng sẽ có cùng một giá trị: tập hợp A sẽ bằng tập hợp B. Cái biệt tướng cũng có giá trị bằng cái tổng tướng, bởi vì biệt tướng cũng là một loại tổng tướng, như tập hợp con cũng là một tập hợp cha cho các tập hợp con khác. Lúc đó thì bình đẳng tánh trí biểu hiện, và tuyệt đối sẽ không còn mặc cảm nào nữa, kể cả mặc cảm thua người, hơn người và bằng người. Toán học xây dựng trên luận lý hình thức và nguyên tắc đồng nhất phải được thay đổi để có thể diễn bày và chuyên chở được thực tại tương tức và bất nhị.

Này nhà khoa học trẻ, anh có thể dựng nên một nền toán học mới căn cứ trên biện chứng pháp trung quán và tuệ giác tương tức hay không? Biện chứng pháp ấy là: Nếu nhìn vào A mà chỉ thấy được những cái không A thì lúc ấy mới thực sự thấy được A. A chỉ là một giả danh (conventional designation). A không có thực thể, A chỉ có thể cùng có mặt trong liên hệ duyên khởi với những cái không phải là A. Đó là tuệ giác tương tức.

 

Nắm tay cùng đi

Nhà đạo học rất vui khi thấy khoa học giảng giải và chứng minh được những điều mà nhà đạo học khám phá ra được từ lâu bằng trực giác thiền quán như tính vô sinh bất diệt của vật chất và năng lượng, tính bất nhị của hạt và sóng, của thời gian và không gian, tính tương tác của mọi hiện tượng, tính tương tức (interbeing: superposition, entanglement) và tính vô định xứ (non locality) của các hạt nguyên tử và hạ nguyên tử. Nhà đạo học có thể sử dụng những điều ấy để nói và để giảng giải về những khám phá của mình. Vì vậy nhà đạo học cần tới nhà khoa học, vì nhà khoa học có thể giúp nhà đạo học giảng giải được những điều mà mình đã thực hiện được trong lĩnh vực tâm linh bằng những thực nghiệm khoa học. Nhưng nhà khoa học cũng có thể thừa hưởng được những khám phá và những phương thức khám phá của nhà đạo học. Ví dụ những phương pháp thực tập niệm, định, và tuệ để buông bỏ sở tri chướng và phiền não chướng để cho tâm mình có khả năng lớn hơn trong công trình khám phá, và buông bỏ dễ dàng hơn những thói quen và những khái niệm mà mình chưa buông bỏ được để có thể thực sự đi vào thế giới bản thể. Bởi vì nhà khoa học nhận thức rằng mình phải làm công việc của nhà triết học là gõ vào cánh cửa bản thể học.

Nhà đạo học có thể thừa hưởng được nhiều từ những khám phá của khoa học, ví dụ, sinh học hiện đại khám phá ra rằng sự cộng sinh có thể phổ biến hơn nhiều trong những hệ thống và những cơ quan, cơ thể sống so với suy nghĩ trước đây. Nhà sinh học Lynn Margulis cho rằng phác họa về sự tiến hóa của Darwin, được dẫn giải đơn độc bằng sự cạnh tranh (sinh tồn) là không đầy đủ. Bà quả quyết rằng thật ra sự tiến hóa phải được đặt một cách vững chắc trên việc cùng hoạt động, tác động qua lại và phụ thuộc lẫn nhau trong những tổ chức. Hiện nay đại đa số đều đồng ý rằng một số cơ quan trong tế bào của tế bào chân hạch (eukaryotic cell), đặc biệt là ti thể (mitochondria) và lạp lục (chloroplasts) thì có nguồn gốc từ những vi khuẩn nội cộng sinh (endosymbiont: một cơ thể nào đó sống trong cơ thể khác hoặc tế bào của cơ thể khác tạo thành endosymbiosis (Theo tiếng Latin: endo “within” – bên trong, sym “together” – cùng nhau và biosis “living” – sống)). Ti thể có mặt trong mọi tế bào cơ thể người và chịu trách nhiệm sản xuất phần lớn năng lượng để tế bào sử dụng, thỉnh thoảng chúng được biết tới như những “trung tâm năng lượng” của tế bào. Không có ti thể chúng ta không thể nhấc người lên được, thậm chí là một cử động nhẹ, hoặc đi, hoặc thở. Tuy nhiên, ti thể có DNA riêng của chúng, riêng biệt với bộ gen người và người ta nghĩ rằng trước kia chúng đã từng là vi khuẩn sống độc lập. Từ rất xưa trong quá trình tiến hóa, chúng đã xây nhà cho mình trong những tế bào chân hạch rộng hơn và có chức năng chuyển đổi các vật chất hữu cơ thành năng lượng dưới dạng ATP cung cấp cho tế bào (ATP – Adenosine triphosphate). Lạp lục thì có mặt trong mọi tế bào thực vật và chịu trách nhiệm quang hợp. Chúng có khả năng bắt lấy năng mặt trời và dự trữ chúng dưới dạng ATP, như một nguồn năng lượng sẵn có mà thực vật có thể sử dụng. Lạp lục cũng có bộ DNA riêng của chúng và người ta tin rằng khoảng một tỉ rưỡi năm về trước chúng có nguồn gốc từ vi khuẩn lam sống độc lập, được hợp nhất vào tế bào chân hạch qua nội cộng sinh. Đây chỉ là hai trong số nhiều ví dụ từ sinh học hiện đại để chứng minh tính chất liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau của mọi loài sinh sống. Chúng ta có thể nào tưởng tượng được một thế giới mà không có sự quang hợp không? Một thế giới không có cây xanh, không có bóng mát và ô xi cho chúng ta thở. Là một nhà đạo học và khoa học, chúng ta có thể sử dụng những ví dụ như vậy để chứng minh và giải thích về ý niệm tương tức. Nhìn sâu vào cơ thể chính mình, chúng ta nhận thấy rằng chúng ta không phải là một cá nhân mà là một cộng thể. Khi thấy được mỗi tế bào trong cơ thể ta phụ thuộc vào sự cộng sinh để hoạt động, chúng ta có thể chạm đến được tự tính vô ngã của mình.

Một ví dụ khác là, trước khi khám phá ra được những trụ đá của vua Ashoka và những kinh Lá Bối xưa, người Tây Phương cứ nghĩ rằng Bụt là một nhân vật thần thoại, một vị thần linh do người Á Đông tưởng tượng ra, mà không phải là một con người thật trong lịch sử. Các khoa khảo cổ học và bác ngữ học (philology) cũng đã giúp rất nhiều cho người Phật tử trong việc xác định nguồn gốc của các kinh Đại Thừa xuất hiện ở thời gian nào và địa điểm nào, để người Phật tử có được một cái thấy đích xác hơn về lịch sử tư tưởng và văn học Phật giáo. Kính viễn vọng và khoa học vũ trụ ngày nay cũng đã giúp các nhà Phật học xác định được cái thấy về tam thiên đại thiên thế giới của mình.

Ở Châu Âu, cho đến trước khi Copernic ra đời, và trước khi có kính viễn vọng, vũ trụ còn rất bé nhỏ. Galilée tuy bị mù mắt vào năm 1638, đã viết cho một người bạn tên Diodati là ông đã thấy được vũ trụ lớn gấp “trăm ngàn lần” cái vũ trụ mà những bậc hiền triết Tây Phương đã thấy trước đó. Ở Ấn Độ, vào thời của Bụt, 2500 năm trước, các bậc hiền triết đã thấy được hơn thế. Thời gian trong đạo Bụt không được đếm bằng năm mà đếm bằng kiếp (kalpa). Một kiếp có thể dài hơn 1.280.000.000 năm. Hình ảnh diễn bày về một kiếp như sau: Một ngọn núi lớn như Hy Mã Lạp Sơn, có một người kia một trăm năm mới trèo lên một lần và với một cây phất trần làm bằng lụa để phất qua một cái, và thời gian cần đến để cho cả ngọn núi san bằng là thời gian một kiếp. Một thế giới được nghiền ra thành cát bụi, và một hạt bụi ấy là một đời người. Đó là hình ảnh trong kinh Pháp Hoa nói về Bụt Đại Thông Trí Thắng Như Lai (Màhàbhijna bhibhùtathàgatha). Một thế giới nhỏ (tiểu thế giới) , theo đạo Bụt, được làm bằng nhiều ngôi sao, mặt trời và mặt trăng. Một ngàn thế giới nhỏ như thế làm nên một tiểu thiên thế giới (small chiliocosm), một ngàn tiểu thiên thế giới làm nên một trung thiên thế giới (medium chiliocosm), và một ngàn trung thiên thế giới như thế làm nên một đại thiên thế giới (great chiliocosm). Kinh Bụt thường nói đến thế giới ba ngàn, tam thiên đại thiên thế giới, tức là thế giới của ba ngàn đại thiên thế giới ấy. Tiếng Phạn là tri-sahasra-mahà-sahasra-lokadhatù. Theo đạo Bụt, sự sống không phải chỉ có mặt ở đây mà là có mặt nhiều nơi khác trong vũ trụ bao la. Đó là cái thấy trong đạo Bụt về vũ trụ, đạt được do trực giác và được diễn tả một cách đơn giản hóa, cũng như cách diễn tả Siddharta tiếp xúc với khổ đau của cuộc đời qua bốn lần đi dạo ngoài bốn cửa hoàng thành. Ta không nên so sánh cái diễn tả ấy với cái thấy của khoa học đang có về vũ trụ tinh hà. Bởi vì mục đích chính của đạo Bụt không phải là tìm hiểu vũ trụ mà là tìm hiểu cách thực tập để vượt thoát những sở tri chướng và phiền não chướng để con người có thể sống thảnh thơi hơn và an lạc hơn. Vào thời của Bụt có biết bao nhiêu người, trong đó có các vị đệ tử, thường hỏi Bụt những câu hỏi về vũ trụ và thế giới siêu hình, như vũ trụ có từ hồi nào, vũ trụ có giới hạn hay không có giới hạn, và Bụt luôn luôn trả lời rằng đó là những câu hỏi không cần thiết lắm, và người không chịu trả lời. Người bảo hãy hỏi những câu hỏi về đau khổ, và về sự thực tập để chuyển hóa khổ đau. Nhà khoa học cũng là con người có khổ đau, muốn đi tìm hạnh phúc cho nên phải thấy được rằng đạo Bụt là một thứ khoa học thực tiễn với những phương pháp thực tiễn để chuyển hóa khổ đau và tạo dựng hạnh phúc. Nhà bác học Einstein trong đời tư có khá nhiều khổ đau, ông không có được sự truyền thông dễ dàng với vợ và các con. Ông không thấy được rằng tiếp xúc với bản thân, hiểu được chính những nỗi khổ niềm đau của mình, chấp nhận được chính mình, đem lại bình an cho thân tâm mình là một đối tượng rất cấp thiết của khoa học. Đây là khoa học nội hướng. Hiểu được mình và chấp nhận được mình thì sẽ dễ dàng hiểu được và tiếp cận được dễ dàng với kẻ khác. Có chánh niệm, ta nhận diện và tiếp cận được với những gì đang xảy ra trong giây phút hiện tại, và nếu ta duy trì được cái ý thức và cái tiếp cận ấy thì cái thấy sẽ đến. Ta thấy được rằng chính cái thấy của ta, chính cái tâm thức của ta như là khởi nguồn của mọi dòng chảy và ta vượt thoát được ý niệm bên trong và bên ngoài, khách quan và chủ quan, chủ thể và đối tượng. Tính cách bất định, tính cách xác suất của những gì ta tìm hiểu cũng đã từ các dòng chảy tâm thức ấy mà lưu lộ ra. Ta thấy cái tướng chung (tổng tướng, the universal) chỉ là một cái tướng không có thực thể, mà cái tướng riêng (tự tướng, the particular) cũng là một cái tướng không có thực thể, bởi vì nó cũng có thể được xem như một cái tướng chung của những cái tướng riêng bé nhỏ hơn. Cũng như tuyết và mây là hai cái tướng khác nhau, không có thực thể, mà H2O tuy gọi là tướng riêng cũng không có thực thể. Đối với các hạt hạ nguyên tử, thì các hạt nguyên tử vẫn là tướng chung. Trong đạo Bụt tất cả các tướng đều là hư vọng (phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng), kể cả tướng có tướng không, tướng sinh tướng diệt, tướng đến tướng đi. Thấy được không có tướng nào có tự thể thì không những ta buông bỏ được mọi ý niệm, mọi nguyên lý, và do đó không còn có gì đáng gọi là vô lý nữa cả.

Chắc hẳn phải có một con đường tâm linh mà sự thực tập có thể đưa tới sự bình an, thảnh thơi, niềm an lạc, vui sống và nâng cao khả năng truyền thông và hiểu biết giữa người với người, giữa ta với thiên nhiên, với đất mẹ, với cha trời. Nhà khoa học trẻ tuổi, anh có cảm thấy cái nhu yếu của một con đường như thế không? Một con đường tâm linh, một con đường Đạo, một con đường dẫn về tự tâm, về suối nguồn, một thứ tôn giáo không được xây dựng trên thần khải mà chỉ dựa vào những gì ta thực chứng, có thể kiểm soát được bằng kinh nghiệm của mỗi người.

 

Một niềm tin có căn cứ

Bất cứ ai trong chúng ta cũng đều cần đến một chiều hướng tâm linh trong đời sống hàng ngày. Thiếu chiều hướng tâm linh ấy ta khó có thể vượt thắng được những khó khăn mà ta có thể gặp phải. Vì vậy nhà khoa học cũng cần một nếp sống tâm linh. Nếp sống tâm linh ấy cần được dựa trên những gì xác thực có thể kiểm chứng được, chúng không phải những niềm tin mơ hồ không thể kiểm chứng. Sau đây là một số đề nghị về các nguyên tắc căn bản làm nền tảng cho nếp sống tâm linh ấy. Xin mời nhà khoa học trẻ tuổi chiêm nghiệm

Chúng ta có thể ngồi xuống với nhau, phát họa ra hoặc ghi lại một số những cái thấy mà cả nhà khoa học lẫn nhà đạo học có thể chấp nhận được. Ví dụ:

1. Nhìn vào tự thân và vào vũ trụ ta thấy có một sự hòa điệu, một vẻ đẹp có khả năng làm phát sinh trong ta một niềm thán phục, một niềm kính ngưỡng có khả năng tưới tẩm ý chí muốn tìm hiểu và muốn yêu thương trong ta.

2. Cái cảm giác sùng kính và ái mộ đó giúp ta tiếp cận dễ dàng hơn với chính bản thân và với cả vũ trụ trong tinh thần bất nhị, giúp ta vượt thắng được rào cản chủ thể và đối tượng vốn thường được xem là hai thực thể tách biệt.

3. Có hai sự thật, sự thật ước lượng (tục đế) và sự thực đúng mức (chân đế), và sự thực này có thể dẫn tới sự thực kia, không hẳn là phải chống đối nhau, nếu ta biết khéo léo từ bỏ dần dần những ý niệm ta có về sự vật. Cái phân biệt trí có thể đưa tới cái vô phân biệt trí.

4. Thực tại tối hậu không thể được nắm bắt bằng khái niệm và diễn tả bằng ngôn ngữ và khái niệm.

5. Trực giác của chúng ta có thể mang tới một cái thấy sâu sắc (tuệ giác về thực tại) và giá trị của cái thấy ấy có thể được xác nhận bởi những khảo nghiệm của khoa học.

6. Tâm thức con người là dụng cụ căn bản để tìm cầu sự thật; khả năng của tâm thức này có thể bị giới hạn bởi thành kiến (sở tri chướng) và khổ đau (phiền não chướng). Có những phương pháp thực tập để buông bỏ thành kiến, để chuyển hóa khổ đau, lo lắng, sợ hãi, thèm khát, hận thù, tuyệt vọng, để tâm thức có lại được sự trong sáng và khả năng chiếu rọi mầu nhiệm của nó.

7. Quán sát thiên nhiên như vật chất, năng lượng và tâm ý, ta thấy không có gì sinh ra, không có gì mất đi, không có gì thêm vào, không có gì bớt đi và những ý niệm có không, sinh diệt, thêm bớt, đi tới…không thể áp dụng được vào cho sự vật.

8. Ý niệm “tâm và vật, chủ thể và đối tượng nhận thức là những gì có thể tồn tại tách rời ngoài nhau” cần được buông bỏ.

9. Thời gian và không gian không phải là hai thực thể độc lập với nhau và với tâm thức người quán sát. Tất cả nương nhau mà biểu hiện.

10. Có (to be) nghĩa là cùng có (to interbe), sự vật không thể tự mình có mặt.

11. Cái một không thể có nếu không có cái tất cả, cái tất cả không thể có nếu không có cái một. Ý niệm về một và về tất cả cũng cần được buông bỏ.

12. Thân và tâm không thể có mặt ngoài nhau như những thực thể độc lập. Không thể lấy thân ra khỏi tâm và tâm ra khỏi thân. Thân và tâm cũng như hai mặt của một tờ giấy, mặt này nương vào mặt kia để có mặt.

13. Tính bất sinh bất diệt của sự vật dẫn tới tính không có, không không của sự vật. Sự vật chỉ biểu hiện chứ không sinh khởi và hoại diệt. Không phải vì sự vật đã biểu hiện mà chúng có, không phải vì chưa biểu hiện mà chúng là không. Không có gì từ không mà đi vào có, không có gì từ có mà đi vào không. Có và không chỉ là hai ý niệm.

14. Sự vật không có tự tánh (svàbhàva) riêng biệt, bởi vì một bông hoa chỉ có thể được biểu hiện khi các yếu tố không phải là hoa (như ánh sáng mặt trời, mây, nước, đất cát, phân bón, hạt giống v.v…) tới được với nhau. Bông hoa không thể tự mình có mặt mà phải nương vào những cái không phải là mình để có mặt. Tự tính (self nature) đã không thì tha tính (nature of others) cũng không. Vô ngã, vô thường và tương tức (non self, impermanence, and interbeing) là tính chất của mọi sự vật.

15. Tâm thức và đối tượng tâm thức không thể tồn tại biệt lập. Nhận thức không thể biểu hiện nếu không có đối tượng nhận thức đi kèm. Đối tượng nhận thức (sở duyên duyên) là một phần không thể không có của nhận thức và có mặt trong nhận thức.

16. Tự thân thực tại vượt thoát mọi ý niệm có không, sinh diệt, tới đi, trước sau, thiện ác, chủ thể và đối tượng.

17. Kinh nghiệm về khổ đau và hạnh phúc dẫn tới ý niệm thiện ác. Khổ đau và hạnh phúc không phải là những thực tại khách quan, chúng tùy thuộc vào cách nhìn và cách hiểu của mỗi người. Một sự chuyển đổi của tâm ý có thể biến khổ đau thành hạnh phúc và hạnh phúc thành khổ đau. Thiện và ác cũng thế, những ý niệm này cũng có thể được buông bỏ, chúng không phải là thuộc tính của thực tại.

18. Tuệ giác bất sinh bất diệt, không có cũng không không nếu được duy trì bởi định và niệm có thể chuyển hóa được sợ hãi, lo buồn và làm lớn lên hạnh phúc.

19. Hiểu được bản chất và nguồn gốc của khổ đau trong ta và nơi kẻ khác có thể giúp chế tác được khả năng chấp nhận, thương yêu, tha thứ và cứu giúp.

20. Cái thấy cố chấp, kỳ thị, lưỡng nguyên đem tới sợ hãi lo lắng hận thù và bạo động. Cái thấy tương dung, bất nhị và hòa đồng đem tới sự chấp nhận, thương yêu và bình an.

21. Sợ hãi, hận thù, cố chấp và tuyệt vọng là những năng lượng tiêu cực có khả năng gây nhiều khổ đau cho bản thân và cho kẻ khác; từ bi, hiểu biết, tha thứ, hy vọng, niềm vui… có khả năng mang đến trị liệu, hòa giải và hạnh phúc. Thấy được và hiểu được khổ đau trong ta giúp ta thấy được và hiểu được khổ đau nơi người khác.

22. Có những lối sống và hành xử có thể đem đến khổ đau hoặc hạnh phúc cho mình và cho kẻ khác, những lối hành xử ấy có thể được gọi là tốt hay xấu, thiện hay ác. Những lối hành xử có khả năng đem lại bình an, hòa giải và hạnh phúc có thể được gọi là đạo đức ứng dụng. Đạo đức ứng dụng được dựa trên một nền tảng hiểu biết vững chãi về thực tại, một cái thấy vượt khỏi mọi kỳ thị và thành kiến, một cái thấy không bị vướng vào khái niệm lưỡng nguyên, đó là chánh kiến. Cái thấy này gọi là siêu đạo đức học (meta-ethics).

23. Dựa trên cái thấy bất nhị, những nguyên tắc làm căn bản cho một nền đạo đức ứng dụng có thể được thiết lập. Sống theo những nguyên tắc ấy con người có khả năng chế tác hạnh phúc và chuyển hóa khổ đau. Từ cái thấy sai lạc (tà kiến) phát xuất những tư tưởng sai lạc (tà tư duy), những lời nói sai lạc (tà ngữ) và những hành động sai lạc (tà nghiệp) có công năng đưa tới khổ đau. Từ cái thấy chính xác (chánh kiến) phát xuất những tư tưởng lành (chánh tư duy), những lời nói lành (chánh ngữ) và những hành động lành (chánh nghiệp) có công năng đưa tới hòa giải, cứu giúp và hạnh phúc. Cái thấy sai lạc là cái thấy vướng vào các ý niệm có không, sinh diệt, trong ngoài, ta người. Những ý niệm này đưa tới mặc cảm kỳ thị, sợ hãi, lo lắng, hận thù, tranh chấp. Cái thấy chính xác là cái thấy dựa trên tuệ giác duyên khởi, tương tức, giúp ta vượt thoát mọi phân biệt, mặc cảm, kỳ thị, sợ hãi, lo lắng, hận thù, tranh chấp, nhờ đó mọi tư tưởng, lời nói và hành động đều mang tính chất không kỳ thị, chấp nhận, hiểu biết và thương yêu.

24. Những cái thấy do khoa học đạt được, cũng như những cái thấy do đạo học đạt được đều có thể được ứng dụng không phải chỉ trong lĩnh vực kỹ thuật mà còn cả trong lĩnh vực hành xử để chuyển hóa sợ hãi, kỳ thị, hận thù và đem tới truyền thông, hòa giải, hòa điệu và hạnh phúc.

25. Những khám phá của nhà đạo học có thể được các nhà khoa học tìm cách kiểm chứng bằng những phương pháp khoa học và nhà khoa học phải chấp nhận chúng là sự thật nếu không có khả năng chứng minh ngược lại.

26. Thực tập chế tác năng lượng niệm và định có thể đem lại tuệ giác. Những năng lượng này có thể được chế tác bằng sự thực tập hàng ngày.

27. Thực tập hơi thở và bước chân chánh niệm có thể giúp ta trở về với giây phút hiện tại, giúp ta tiếp xúc được với hình hài, cảm thọ, tri giác, tâm tư, tâm thức ta và với những gì mầu nhiệm khác đang có mặt như địa cầu, mặt trời, trăng sao, những gì có khả năng nuôi dưỡng và trị liệu thân tâm ta.

28. Thực tập chánh niệm giúp ta buông bỏ căng thẳng trong thân tâm và làm êm dịu bớt những đau nhức của thân và của tâm.

29. Nhận diện và ôm ấp những niềm đau nỗi khổ bằng chánh niệm có thể làm vơi nhẹ những niềm đau nỗi khổ ấy. Năng lượng chánh niệm tập thể của một nhóm người biết thực tập có thể yểm trợ ta làm việc này dễ dàng hơn.

30. Năng lượng chánh niệm, chánh định và tuệ giác có thể giúp ta nhận diện những cảm xúc mạnh và làm êm dịu lại những cảm xúc ấy.

31. Sự thực tập lắng nghe và ái ngữ có thể giúp ta tái lập truyền thông, giảm bớt khổ đau và đem tới hòa giải. Lắng nghe với tâm từ bi có khả năng làm vơi nhẹ khổ đau nơi người khác. Sự thực tập lắng nghe này sẽ thành công nếu ta duy trì được chánh niệm từ bi trong suốt thời gian lắng nghe để giúp người kia nói ra được những niềm đau nỗi khổ của mình cho tâm tư nhẹ nhõm. Duy trì được chánh niệm từ bi thì những hạt giống bực bội trong ta không bị tưới tẩm trong khi người kia nói, và ta sẽ không ngắt lời người kia trong khi người kia nói.

32. Khi ta quán sát tự thân, ta thấy Đất Mẹ có trong ta, Mặt Trời có trong ta và cả những vì sao rất xa cũng có trong ta. Ta và Đất Mẹ là không phải là hai thực tại riêng biệt: Ta là đất Mẹ và đất Mẹ là ta. Đất Mẹ không phải chỉ là môi trường (the environment), đất Mẹ chính là ta. Ta phải sống như thế nào để cho đất Mẹ tiếp tục được xanh tươi. Nếu đất Mẹ khô héo thì ta cũng khô héo. Sự có mặt của đất Mẹ là sự có mặt của chính ta, và nhìn sâu tự tánh của ta và của Mẹ đều là vô sinh bất diệt. Sinh mạng ta không phải chỉ được giới hạn trong 100 năm, bởi vì ta với Mẹ không phải hai. Một nền đạo đức ứng dụng cho toàn cầu phải được xây dựng trên cái thấy ấy, và bất cứ anh là ai, nhà khoa học, nhà chính trị, nhà doanh thương hay nhà đạo học, dù anh thuộc tôn giáo nào hay đảng phái chính trị nào, cách sống của anh cũng phải phản chiếu cái thấy ấy.

Chúng ta có phải là tri kỷ của Bụt không?

Thích Nhất Hạnh

Ghi lại vắn tắt sự hành trì và học hỏi trong khóa tu

Mùa An Cư Kết Đông năm nay (2012 – 2013) tại Mai Thôn cũng kéo dài đúng 90 ngày như mọi năm. Tại các trung tâm khác như Lộc Uyển, Bích Nham, Mộc Lan, Pak Chong, Vô Ưu và Liên Trì cũng thế.

Đi không nói và không suy nghĩ

Mỗi buổi sáng, sau thời công phu, đại chúng được nhắc nhở là trong suốt ngày, mỗi khi đi thì không nói năng và suy nghĩ mà phải thực tập tiếp xúc với đất Mẹ với tất cả những mầu nhiệm của sự sống. Lời nhắc nhở như sau, được đọc bằng tiếng Anh và tiếng Việt: “Đất Mẹ đang có mặt dưới chân chúng ta. Xin đại chúng khi đi đem hết thân tâm một trăm phần trăm đầu tư vào mỗi bước chân, để tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống để được nuôi dưỡng và trị liệu, không nói năng cũng không suy nghĩ.Nếu cần nói một điều gì hay nghe một điều gì thì xin dừng lại để nói và để nghe trước khi đi tiếp. Xin toàn thể đại chúng thực tập và yểm trợ cho sự thực tập này.”

Ăn cơm cũng không suy nghĩ

Vào bữa cơm trưa, trước khi đọc năm lời quán nguyện (Ngũ quán), đại chúng cũng được nhắc nhở là trong khi thọ trai đừng nên suy nghĩ mà chỉ chú tâm tới thức ăn tặng phẩm của đất trời và tới tăng thân đang có mặt cho mình trong buổi ăn. Đây là lời mở đầu cho năm quán: “Ngoài đời, thiên hạ cũng biết tắt máy truyền hình mỗi khi ăn cơm. Xin mọi người trong đại chúng cũng tắt đài phát thanh NST (Non-Stop Thinking, suy nghĩ liên miên không ngừng) trong đầu để có thể có mặt thực sự trong bữa ăn của đại chúng. Chúng ta sẽ ăn cơm như thế nào để có thảnh thơi, tình huynh đệ và hạnh phúc trong khi ăn.”
Mỗi khi ăn cơm, ta cũng quán chiếu từng miếng cơm ta nhai là để nuôi sống tổ tiên và con cháu trong ta. Ta ăn cho tổ tiên, cho bố mẹ, cho con cháu, cho Bụt và cho Tổ.

Lạy và đi với tổ tiên và con cháu

Về thực tập địa xúc (thiền lạy), đại chúng được nhắc nhở mỗi khi lạy xuống thì không nên chỉ lạy xuống với tư cách một cá nhân mà nên lạy xuống như một dòng họ, có đủ tổ tiên tâm linh và huyết thống cũng như có đủ con cháu tâm linh và huyết thống. Như vậy trong khi lạy mình tiếp xúc được tự tính vô ngã trong thân tâm mình. Khi đi cũng vậy, mình có thể quán chiếu là mình bước đi một lần với tất cả tổ tiên và con cháu tâm linh và huyết thống. Ta có thể đi bằng chân của Bụt, của Tổ, của ông bà cha mẹ và con cháu chúng ta. Ta có thể bước như thế nào để tất cả giòng họ đều được tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống để tất cả được nuôi nấng và trị liệu trong từng bước chân. Sáng nào sau khi ngồi thiền, đại chúng cũng có thực tập địa xúc, sử dụng Sám Pháp Địa Xúc và lạy xuống trong tuệ giác vô ngã.

Hình hài là một cộng đồng

Trong lúc đi, đứng, nằm, ngồi, ta phải thấy hình hài ta là hình hài tổ tiên và con cháu ta. Phải thấy cái mà ta thường nghĩ rằng ta chính là một cọng đồng của các tế bào cơ thể đang sống chung, có cả hàng trăm tỷ tế bào như thế, không những là tế bào con người mà là tế bào của hàng tỷ sinh vật đơn tế bào đang sống chung trong cơ thể ta, nhất là trong hệ thống tiêu hóa trong đó có những loài rất cần thiết cho sự sống của cơ thể.
Mỗi khi nhìn một người khác đang ngồi trước mặt hoặc đang từ xa đi tới, ta cũng có thể quán chiếu để thấy người ấy không phải là một cá nhân, mà là cả một dòng họ, một đất nước, một dân tộc. Thấy được như thế thì ta mới thực sự thấy được người ấy, mới tiếp xúc được tự tính vô ngã của người ấy, mới thấy được những tài năng của người ấy, những tài năng mà tổ tiên người ấy đã trao truyền cho người ấy mà nhiều khi chính người ấy cũng không nhận diện được. Thấy được như thế ta mới có thể giúp cho người ấy vượt được mọi mặc cảm, trong đó có mặc cảm thua người, hơn người hoặc bằng người. Thực tập nhìn ta và nhìn người như thế, ta có cơ hội chứng đạt được chân lý vô thường và vô ngã. Vô thường và vô ngã không còn là những ý niệm để học hỏi nữa mà đã trở thành tuệ giác đích thực có thể giải phóng cho ta và cho người.
Mùa Đông năm nay nhờ thực tập theo những chỉ dẫn nói trên cho nên năng lượng thực tập của đại chúng khá hùng hậu và có rất nhiều hiện tượng chuyển hóa và trị liệu đã xảy ra trong đại chúng.

Ta có hiểu lầm Bụt không?

Khóa mùa Đông này có đề tài là “Chúng ta có phải là tri kỷ của Bụt không?” Ta biết không những người ngoài đạo Bụt hiểu lầm Bụt mà trong chính hàng đệ tử Bụt cũng có rất nhiều người hiểu lầm Bụt. Có thể nói là đa số đã hiểu lầm Bụt. Không những nhiều thành phần trong sáu phái triết học đương thời hiểu lầm rằng Bụt chủ trương thuyết hư vô hoại diệt mà chính nhiều vị trong hàng đệ tử xuất gia của Người cũng đã hiểu lầm như thế. Ví dụ thầy Yamaka (Diệm Ma Ca) chẳng hạn. Kinh Tương Ưng Bộ (S. III 109) có ghi chuyện thầy Yamaka. Thầy này tin rằng một vị xuất gia thành đạo giải thoát rồi thì khi chết đi không còn gì còn lại nữa, nghĩa là đoạn diệt hoàn toàn. Một số các thầy khuyên thầy Yamaka nên buông bỏ tà kiến ấy nhưng thầy cứng đầu, không chịu, tin rằng kiến giải của thầy là trung thực với kiến giải của đức Thế Tôn. Sau cùng nhờ thầy Xá Lợi Phất khai thị thầy mới chịu buông bỏ tà kiến đoạn diệt ấy.

Tín ngưỡng luân hồi, nghiệp và quả báo có trước khi Bụt ra đời

Trong khóa tu mùa Đông năm nay, đại chúng đã được học rằng các tín ngưỡng luân hồi, nghiệp và quả báo đã có sẵn trong vài bộ Áo Nghĩa Thư (Upanishads) trước khi Bụt ra đời. So với tín ngưỡng Vệ Đà, tín ngưỡng Áo Nghĩa Thư đã là vượt bực lắm rồi, bởi vì trước đó, người ta chỉ tin vào sức cứu độ của thần linh và của sự cúng tế cùng chú thuật. Tin vào nghiệp và báo tức là không còn tin vào thần linh nữa. Tin vào luật nhân quả có tính cách lý trí và khoa học hơn. Bụt đã chấp nhận tín ngưỡng luân hồi, nghiệp và báo nhưng trong giáo lý của Bụt không có một cái ngã (atma), một linh hồn bất diệt đi luân hồi, tạo nghiệp và thọ báo. Tín ngưỡng của đạo Bụt về luân hồi, nghiệp và quả báo như thế rất khác với tín ngưỡng luân hồi, nghiệp và quả báo của truyền thống Bà La Môn. Nếu mình còn tin ở một linh hồn bất tử tạo nghiệp, thọ báo và đi luân hồi, thì niềm tin ấy không thật sự là một niềm tin Phật giáo.

Pháp ấn phải có Niết bàn

Điều thứ hai đại chúng được học là trong ba Pháp ấn của đạo Bụt phải có Pháp ấn Niết bàn. Nhiều vị kinh sư của Thượng tọa bộ đã bị ám ảnh bởi ý niệm về khổ cho nên đã thay thế Pháp ấn Niết bàn bằng Pháp ấn Khổ. Kinh Chiên Đà (Channa), kinh 262 của bộ Tạp A Hàm, còn giữ lại được nguyên vẹn công thức của ba Pháp ấn: chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, Niết bàn tịch tĩnh (anityāh sarvasamskārāh, nirātmānah sarvadharmāh, santam nirvānam). Công thức này được lặp lại tới năm lần trong kinh này. Kinh Channa của tạng Pāli cũng nói tới chuyện thầy Channa đi cầu Pháp, nhưng đã bỏ mất Pháp ấn thứ ba là Niết bàn, tuy nhiên không dám thêm vào pháp ấn Khổ, sợ nói nếu tất cả các pháp đều là Khổ thì như thế là vơ đũa cả nắm, cho các pháp Tứ diệu đế, Bát chánh đạo v.v… của Bụt cũng là Khổ. Đó là lời giải thích về sau của các tổ Thượng tọa bộ.
Tam Pháp ấn là ba dấu ấn rất quan trọng trong Phật pháp. Thiếu Pháp ấn thứ ba là Niết bàn thì giáo lý không thể đích thực là giáo lý của Bụt. Trên bình diện Tích môn ta thấy có sinh có diệt, có có có không, có người tạo nghiệp có người thọ báo, có pháp hữu vi có pháp vô vi, nhưng trên bình diện Bản môn thì ta phải thấy được tự tính của các pháp là không sinh không diệt, không có không không, không tác giả không thọ giả, không hữu vi cũng không vô vi. Đó là lời Bụt dạy trong các kinh Ưu Đà Na và Như Thị Ngữ: có cái vô sinh, vô hữu, vô tác và vô hành. Thật tướng của các pháp là vô thường và vô ngã nhưng thật tướng của các pháp cũng là Niết bàn, do đó Niết bàn có thể tìm thấy trong sinh tử chứ không phải ngoài sinh tử. Truyền thống Bắc tông còn giữ lại được ba pháp ấn nguyên vẹn, và chính bộ Đại Trí Độ Luận của thầy Long Thọ cũng xác nhận ba pháp ấn là vô thường, vô ngã và Niết bàn. Chính công phu quán chiếu về Vô thường và Vô ngã đưa tới sự tiếp cận Niết bàn tức là thể tính bất sinh bất diệt của vạn pháp.

Vô thường không làm ra khổ

Tứ diệu đế bắt đầu bằng xác nhận sự có mặt của khổ đau, nhưng không phải Tứ diệu đế chỉ nói về khổ đau. Sự thực (đế) thứ ba là Diệt, có nghĩa là sự vắng mặt của khổ đau (nirodha) cũng có nghĩa là sự có mặt của sự lắng dịu và của hạnh phúc, kể cả hạnh phúc của Niết bàn. Nhưng cái ám ảnh về Khổ đã làm khuất lấp sự thực ấy, cho đến nỗi người ta có khuynh hướng cho tất cả là Khổ, quên mất trong cái tất cả ấy có Bụt, có Pháp, có Tăng, có con đường đi về Niết bàn an lạc. Những cái ấy đâu phải là khổ cho nên nói tất cả là vô thường vô ngã thì đúng mà nói tất cả là Khổ là không đúng. Cái ám ảnh này do thái độ giáo điều cố chấp mà có. Nó đi cả vào trong kinh văn và trong phép hành trì. “Đạo nhân thanh cố khởi” nghĩa là nếu thành đạo được cũng do mình lặp đi lặp lại cái công thức “idam dukkhan ti”, “cái này là khổ, cái này là khổ.” Phải than khổ như thế nhiều lần trong ngày thì mới mong thấy được con đường Bát chánh đạo. Vì vậy khổ là thức ăn nuôi Bát chánh đạo (dukkhāhāro maggangam magg-apariyantan ti).
Đoạn kinh sau đây, được lặp lại cả mấy trăm lần trong các bộ Nikaya và A hàm, là một chứng tích của cái ám ảnh đó được đưa vào trong kinh tạng, chỉ một vài trăm năm sau khi Bụt nhập diệt:
– Này các thầy Khất sĩ! Các thầy nghĩ sao? Sắc là thường hay vô thường?
– Bạch đức Thế Tôn, vô thường.
– Thọ, tưởng, hành và thức là thường hay vô thường?
– Bạch đức Thế Tôn, vô thường.
– Vậy thì những gì vô thường là khổ hay là lạc?
– Bạch đức Thế Tôn, khổ.
– Vậy thì những gì vô thường, khổ, luôn luôn biến dịch ấy, mình có thể nói rằng: cái này là của tôi, tôi là cái này, cái này là cái ngã của tôi không?
– Bạch đức Thế Tôn, không.
(Tương Ưng Bộ, 22.59)
Theo tinh thần của đoạn kinh văn này, vô thường là nguyên do của khổ đau. Sự thực không phải như vậy. Vô thường có thể là nguyên do của giải thoát, của an lạc, của hạnh phúc. Thử hỏi: nếu không có vô thường thì hạt bắp làm sao trở thành được cây bắp cho ta có trái ăn? Nếu không vô thường thì một người có bệnh không bao giờ được chữa lành, một chế độ độc tài không bao giờ được trở nên dân chủ, một phiền não không bao giờ được chuyển hóa để trở thành một bồ đề. Nguyên do của cái khổ không phải là vô thường mà là cái tri giác sai lầm của ta về sự vật: sự vật vô thường mà ta cứ cho chúng là thường cho nên ta khổ. Uẩn, xứ và giới là vô thường và vô ngã, nhưng vì chúng ta cho chúng là thường, vì chúng ta vướng mắc vào chúng cho nên chúng ta khổ. Nói vô thường là nguyên do của khổ đau là vu oan cho Bụt. Vô thường là một cái thấy giúp ta tiếp cận được với vô ngã, với duyên sinh và sau đó với Niết bàn. Vô thường rất mầu nhiệm. Đó là một ngón tay chỉ cho ta thấy mặt trăng. Nó là cứu tinh của ta.
Thấy được như thế, ta có thể phục hồi được nguyên ý của Bụt, bằng đoạn kinh văn sau đây:
– Này các vị khất sĩ! Các thầy nghĩ sao? Sắc là thường hay vô thường?
– Bạch đức Thế Tôn, vô thường.
– Thọ, tưởng, hành và thức là thường hay vô thường?
– Bạch đức Thế Tôn, vô thường.
– Vậy thì những gì vô thường ấy, luôn luôn biến diệt trong từng sát na ấy, ta có thể gọi chúng là những cái ngã không? Ta có thể nói rằng: “cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là cái tôi của tôi” không?
– Bạch đức Thế Tôn, không.
– Này các vị khất sĩ! Quán chiếu về vô thường, về vô ngã, người hành giả sẽ đạt tới cái thấy duyên sinh, trung đạo, không sinh diệt, không có không, không tới đi, không thường đoạn, đó là Niết bàn, là sự lắng dịu, là giải thoát mọi niềm đau, là niềm vui cứu cánh.
Đọc đoạn kinh văn tân tu này ta thấy mọi chữ mọi câu đều có tính liễu nghĩa, không đưa lại cảm giác tiêu cực, bi quan và sự hiểu lầm như khi ta đọc đoạn trước. Vì vậy phục hồi được tam Pháp ấn rất quan trọng. Với sàng lọc tam Pháp ấn ta có thể tóm bắt được rất nhiều con sâu rọm từ bên ngoài đưa vào và từ sự bất cẩn trong quá trình truyền thừa đưa xuống. Hễ trùng tụng sai lầm một lần là sự sai lầm trở thành đồng bộ, giống như trong máy tính. Cho nên có không biết bao nhiêu là sai lầm và mâu thuẫn trong đại tạng. Vì thế chư tổ đã căn dặn: y kinh giải nghĩa, tam thế Phật oan. Bụt đã bị oan nhiều rồi, ta phải sử dụng những phương pháp khoa học như khảo cổ học và văn bản học để minh oan bớt cho Ngài.

Lấy râu ông nọ cắm cằm bà kia

Ta hãy thử lấy một ví dụ:
Trong kinh Mahasaccaka (M.36) Bụt có kể chuyện trước khi thành đạo Ngài đã sử dụng phương pháp đè nén áp bức hình hài Ngài để mong chiến thắng tâm Ngài, nhưng Ngài đã thất bại. Kinh chép: “Tôi nghĩ tại sao tôi không ngậm cứng hai hàm răng lại, lưỡi đè sát nóc họng, lấy tâm mà quật ngã tâm, lấy tâm mà đàn áp tâm? Rồi như một người lực lưỡng có thể nắm lấy đầu hoặc hai vai của một người yếu hơn mà chế ngự người ấy, ép buộc người ấy phải tùng phục, đàn áp người ấy, tôi đã ngậm cứng hai hàm răng lại, lưỡi đè sát nóc họng, và cố sức lấy tâm mà quật ngã tâm, đánh bại tâm. Mồ hôi tôi chảy ra nhễ nhại khi tôi làm như thế. Dù năng lực tuôn ra đầy dẫy trong tôi, dù chánh niệm vẫn được duy trì không đứt đoạn, nhưng thân tâm tôi vẫn bất an và tôi kiệt sức vì những cố gắng mệt nhọc ấy. Những cảm thọ đau đớn như thế phát sinh nơi thân tôi và vẫn không có tác dụng điều phục được tâm tôi …”
Vậy mà đoạn kinh này đã được đưa vào kinh Vitakkhasanthana (M.20), tương đương với kinh Tăng Thượng Tâm trong Hán Tạng (Trung A Hàm, 101) để khuyên người ta nên thực tập theo cách đó. Nguy hiểm hơn nữa là đoạn kinh ấy cũng đi vào trong kinh Niệm Thân (Trung A Hàm 8), tương đương với kinh Kāyagatasati (M. 119) và trong cả kinh Niệm Xứ (Trung A Hàm 98), một kinh thực tập căn bản về Thiền. Oan ức cho Bụt biết chừng nào.

Ý niệm Hữu và Vô được thiết lập cùng với ý niệm Sinh và Tử

Đại chúng cũng đã được có cơ hội khảo cứu về những kinh nguyên thỉ có đề tài về Không, về Niết bàn và cũng đã tìm thấy những đoạn kinh không được liễu nghĩa đưa vào những kinh có mục đích đưa hành giả đi vào liễu nghĩa. Ví dụ giáo lý Mười hai nhân duyên. Giáo lý Duyên khởi là một giáo lý quan trọng vào bậc nhất, và tuệ giác Duyên khởi có khả năng đưa hành giả tới cái thấy tương tức, bất nhị và trung đạo. Đức Thế Tôn đã trình bày giáo lý duyên khởi bằng nhiều cách và với những hình ảnh tuyệt diệu như hình ảnh những cây lau đứng dựa vào nhau (giao lô). Hình ảnh màn lưới Đế thích (Đế châu) cũng rất tuyệt diệu. Mười hai nhân duyên mà ta thấy lặp lại hàng ngàn lần trong kinh không phải là hình thức giảng bày đạo lý duyên khởi hay nhất. Có khi Bụt chỉ nói tới 4 chi, 5 chi, 6 chi, 7 chi mà không cần nói tới cả 12 chi. Luận Đại Tỳ Bà Sa, quyển 24: Bụt vì hiểu thấu căn cơ của chúng sinh cho nên đã giảng dạy pháp duyên khởi nhiều cách, có khi dạy một chi, có khi dạy hai chi, 3 chi, 4 chi… cho đến 12 chi. Bốn chi: vô minh, hành, hữu vô, sinh tử. Trong hình thức mười hai chi, nhân quả được trình bày theo hệ thống chiều dọc, dây chuyền, đường thẳng (linear structure), chi này sinh ra chi kia, điều này đã khiến cho cái thấy tương duyên mờ đi. Trong quá trình biểu hiện của các chi, ta thấy hành (được hiểu là hành nghiệp) xuất hiện trước cả thân tâm (danh sắc) và trước cả thức. Hành (samskāra) trong văn học đạo Bụt phải có nghĩa là các hiện tượng, các pháp, thân và tâm, tình thế gian và khí thế gian. Ta bị buộc phải hiểu hành ở đây là sức đẩy, là những vọng động của tâm thức. Đã thế, ta lại được nghe rằng thọ đưa tới ái. Đó chỉ là một phần sự thực. Chỉ có lạc thọ mới đưa tới ái, và cái này chỉ đúng với người không tu, với người không có trí tuệ. Với người có tu như một vị Bụt, một vị La Hán, hay một vị cư sĩ chứng đạo, thì thứ lạc thọ có thể đưa tới sự đau nhức hiểm nguy không gây được sự tham ái nơi những vị này. Hơn nữa, thọ cũng là khổ thọ và xả thọ. Khổ thọ không làm phát sinh ái mà làm phát sinh ố, nghĩa là sự chán ghét, xa lánh. Vì vậy muốn cho đúng tinh thần đạo Bụt, phải nói xúc sinh cả khổ thọ và lạc thọ – và thọ có thể làm phát sinh cả ái và ố. Chỉ nói một phân nửa thôi là có ý gò ép. Và nếu đó là một khổ thọ đưa đến sự tránh né, ghét bỏ thì cái tránh né và ghét bỏ đó không đưa tới sự nắm bắt (thủ) mà chỉ đưa tới sự buông bỏ khí xả (xả). Thủ là nắm bắt, ràng buộc, khát ái. Khát ái không phải chỉ là khát ái cái hữu mà có thể là là khát ái cái vô. Những người tự tử, những người không muốn sống, họ ghét cái hữu và họ muốn cái vô. Trong Trường Bộ (D.22), Bụt dạy có ba thứ khát ái (tanhā): khát ái Dục (kāma tanhā), khát ái Hữu (bhava tanhā) và khát ái Vô (vibhava tanhā). Mục tiêu của sự tu học là siêu thoát cả hữu cả vô chứ không phải là chỉ để siêu thoát cái hữu. Mười hai chi không trình bày được sự thực đó. Trong kinh Ca Chiên Diên, Bụt dạy rất rõ ràng là chính kiến rằng cái thấy vượt thoát hữu và vô. Vậy mà trong Mười hai chi, ta chỉ thấy ý hướng muốn thoát khỏi cái Hữu. Điều này đưa lại một hiểu lầm rất lớn: người ta cho đạo Bụt muốn bỏ cái hữu (bhava) để tìm cái vô (vibhava), và đạo Bụt là một đạo chủ trương thuyết hư vô đoạn diệt; Niết bàn, mục tiêu của người Phật tử là hư vô, là cái chết vĩnh viễn. Hàng chục học giả Tây Phương nghiên cứu đạo Bụt trong cuối thế kỷ thứ 19 và đầu thế kỷ thứ hai mươi đã đi đến kết luận như thế: Niết bàn là hư vô tịch diệt, là cái chết tuyệt đối. Siêu thoát luân hồi có nghĩa là khi chứng quả A la hán, bậc thánh sẽ không bao giờ sinh ra trở lại nữa. Sở dĩ có những hiểu lầm lớn lao như thế một phần cũng do sự truyền thừa sai lạc của chúng ta mà ra.

Giáo lý Mười hai chi chỉ có mục đích giải thích kết sinh tương tục

Vì vậy cho nên thay vì nói thủ đưa tới hữu, ta phải nói thủ đưa tới hữu và vô thì mới đúng. Hữu và Vô, theo kinh Ca Chiên Diên, là hai tà kiến che lấp chính kiến. Và thay vì nói Hữu đưa tới Sinh, ta phải nói Hữu và Vô đưa tới Sinh Tử thì mới đúng ý Bụt. Vì trong đầu ta, ta đã quen nghĩ là sinh ra có nghĩa là từ không trở thành có và chết đi có nghĩa là từ có mà trở thành không. Nếu ý niệm hữu vô mà được lấy đi thì ý niệm sinh tử cũng không còn. Đây là một nhận thức luận chứ không phải là một nhân sinh quan. Mục đích của giáo lý Mười hai chi là chỉ để giải thích hiện tượng luân hồi sinh tử cho những người có căn cơ trung bình. Đó là sự giải thích kết sinh tương tục, trong thứ tự tam thế lưỡng trùng nhân quả.

Tùy thuận Duyên Khởi để được tương ứng với Không

Cách trình bày duyên khởi của Mười hai chi không đủ sức đưa người tiếp cận với chính kiến đích thực, nghĩa là cái thấy vượt khỏi có không, sinh diệt, còn mất, tới đi v.v… Chánh kiến là nền tảng của Bát chánh đạo, con đường vương đạo đưa tới Niết bàn. Chánh kiến không phải chỉ là niềm tin nơi nhân quả thiện ác, mà là cái thấy cao nhất của đạo Bụt: cái thấy không sinh diệt, hữu vô, cấu tịnh, nhất dị, lai khứ, cái thấy duyên sinh có thể làm tiêu tan mọi biên kiến, mọi kỳ thị, mọi phân biệt, nguồn gốc của tất cả những phiền não khổ đau như sợ hãi, oán thù, tuyệt vọng, thèm khát. Nếu không có chính kiến thì không thể nào thực sự có chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp,… nghĩa là bảy yếu tố khác của con đường. Giáo lý của Mười Hai Chi không những không giúp đưa ta tới cái thấy ấy mà còn có thể gây hiểu lầm tai hại, khiến cho rất nhiều người, trong đó có cả thầy Yamaka (Diệm Ma Ca) hiểu lầm rằng mục đích của sự tu tập là đi tới cái đoạn diệt vĩnh viễn (eternal death). Đưa giáo lý Mười Hai Chi vào các kinh như kinh Ca Chiên Diên (Tạp A Hàm 301), kinh Không Tương Ưng Duyên Khởi Tùy Thuận (Tạp A Hàm 293), kinh Đại Không Pháp (Tạp A Hàm 297), kinh Duyên Sinh Pháp (Tạp A Hàm 296), kinh Đệ Nhất Nghĩa Không (Tạp A Hàm 297) v.v.. nghĩa là những kinh nói về Không, về liễu nghĩa, là tạo mâu thuẫn cho các kinh này, bởi vì nó không có công năng tùy thuận giúp cho cái thấy của ta tương ứng được với Không, với Niết bàn, với chánh trí. Kinh Không Tương Ưng Duyên Khởi Tùy Thuận (Tạp A Hàm 293) đã dạy về chuyện này. Cụm từ không tương ưng duyên khởi tùy thuận (sūnyatāpratisamyukta  pratītyasamutpādānulomatā) có nghĩa là: tùy thuận duyên khởi có khả năng đưa tới sự tương ứng với Không – Mười hai chi tuy nói về duyên khởi nhưng không làm được việc ấy, và không đại diện cho tùy thuận trí (anulomatajñāna).

Sắp lại cho gọn

Trong ánh sáng của những điều kể trên, ta có thể trình bày lại đơn giản hơn giáo lý Mười hai chi để có thể tương ứng với Không như sau:
1. Vô minh
2. Hành
3. Thức
4. Danh sắc
5. Khổ Lạc Thọ
6. Ái Ố
7. Thủ Xả
8. Hữu Vô
9. Sinh Diệt
10. Luân hồi
Ta có thể giải thích chung như sau: Vì vô minh cho nên mới thấy các hành (như là ngã và pháp), và mới thấy thức là chủ thể (tách rời khỏi đối tượng), thấy thân và tâm (danh và sắc) là hai thực tại có thể tách rời nhau mà tồn tại, rồi mới có xảy ra chuyện yêu cái này ghét cái kia (ái ố) rồi mới có tâm muốn lấy cái này bỏ cái kia (thủ xả), mới bị kẹt vào hoặc cái hữu hoặc cái vô (hữu vô) và rốt cuộc bị giam giữ hoài trong các ý niệm có sinh và có tử (sinh diệt), phải luân hồi mãi mà không thực chứng được Niết bàn. Tuy nhiên, hai chi Thức và Danh Sắc không cần thiết lắm, bởi vì Hành đã là năm uẩn rồi, trong khi Thức và Danh Sắc đều đã có mặt trong uẩn với tư cách là các Hành.

Bốn Chi và Năm Chi
Theo kinh Ca Chiên Diên ta có thể thiết lập:
1. Vô minh
2. Hữu Vô
3. Sinh Tử
4. Khổ
Theo kinh Như Thị Ngữ và Vô Vấn Tự Thuyết:
1. Vô minh
2. Sinh Diệt
3. Hữu Vô
4. Tác giả Thọ giả
5. Hữu vi Vô vi
Nói tóm lại, có thể có nhiều lối trình bày Duyên Khởi giúp ta tương ưng được với Chính Kiến. Và cách trình bày hay nhất là không theo chiều dọc mà theo chiều tương duyên, trong đó các chi đồng thời duyên nhau, không có chi nào có trước và chi nào có sau, ví dụ:

Tương sinh, tương hữu, tương tác, tương hành

Quán sát vạn vật ta thấy không có pháp nào có trước và sinh ra pháp khác, mà tất cả các pháp đều dựa vào nhau để biểu hiện, để cùng phát sinh. Tuệ giác tùy thuận trí sử dụng ý niệm tương sinh (hay câu sinh, sahajata, inter-arising) để giúp ta vượt thoát cả hai ý niệm sinh và diệt. Anh không thể sinh một mình diệt một mình. Anh phải cùng sinh diệt với tất cả. Vì vậy không thật sự có sinh và có diệt, mà chỉ có sự biểu hiện. Tùy thuận trí cũng sử dụng ý niệm tương tức hay tương hữu (sahabhūta, interbeing) để giúp ta vượt thoát ý niệm hữu và vô. Tùy thuận trí cũng sử dụng ý niệm tương tác (sahakrta, interacting) để giúp ta vượt thoát ý niệm tác giả và thọ giả, ý niệm tác giả và tác nghiệp (actor and action), và cuối cùng sử dụng ý niệm sahasamkrta, (interconditioning) để giúp ta vượt thoát cặp đối lập hữu vi và vô vi. Tìm Niết bàn vô vi ngay trong sinh tử hữu vi. Đó là giáo chỉ của Bụt về Niết bàn trong kinh Như Thị Ngữ. Kinh chép: “Atthi, bhikkhave, ajātam, abhūtam, akatam, a sankhatam” nghĩa là “Này các vị tỳ khưu, có cái không sinh, không hữu, không tác, không hành” để làm nẻo thoát cho những cái có sinh, có hữu, có tác, có hành. Trong kinh Pháp Cú ở Hán tạng, phẩm Nê hoàn, cũng có câu ấy: “Tỳ khưu, hữu thế sinh, hữu hữu, hữu tác hành, hữu vô sinh, vô hữu, vô tác, vô sở hành.” Vì vậy cho nên cái thấy Duyên Khởi đem đến cái thấy Trung Đạo giúp ta vượt thoát mọi cặp đối nghịch, mà căn bản là bốn cặp nói đến trong đoạn kinh vừa trích dẫn: sinh tử, hữu vô, tác giả thọ giả, hữu vi và vô vi. Chỉ có giáo lý Duyên khởi và Trung đạo mới có khả năng đưa tới tuệ giác lớn và quét sạch được vô minh. Vô minh không còn thì hữu vô và sinh tử cũng không còn.

Thủ và thủ uẩn

Trong khóa Kết Đông này đại chúng cũng có cơ hội thẩm sát về vấn đề Niết bàn có dư y và Niết bàn không dư y. Y (upādi) có nghĩa là chấp thủ, là nắm bắt, là những phiền não cần chuyển hóa để ta có tự do và giải thoát. Sinh y (upadhi) là chất liệu sinh tử luân hồi, trong khi y (upādi) là những gì ngăn cản không cho ta có tự do. Đó là phiền não chướng và sở tri chướng. Phiền não làm chướng ngại giải thoát, như đam mê, hận thù, sợ hãi, tuyệt vọng… Sở tri là những cái thấy sai lạc, những tà kiến làm chướng ngại giải thoát, như những ý niệm về sinh diệt, có không, tác giả thọ giả, hữu vi vô vi, những phạm trù tư tưởng có công năng tạo ra sự phân biệt, kỳ thị, tranh chấp, đưa tới phiền não. Trong những kinh điển xưa nhất, Bụt dạy rằng nếu tu tập cho tinh chuyên thì hành giả có thể đạt tới hai quả vị ngay trong đời sống hiện tại: đó là quả vị thánh trí, cho ta tự do lớn, không còn dư tàn phiền não và sở tri, gọi là Niết bàn vô dư y (nirupādisesanirvāna). Còn nếu chưa chuyển hóa được hết các phiền não và sở tri ấy, thì tuy mình đã có được tự do và giải thoát, nhưng cái tự do và giải thoát ấy không hoàn toàn. Mình cũng chứng đạt được một quả vị, đó là quả vị thứ hai, gọi là bất hoàn (không trở lại trạng thái hệ lụy nữa). Cái tự do chưa hoàn toàn ấy được gọi là Niết bàn hữu dư y (sa-upādisesanirvāna), nghĩa là vẫn còn có một ít những hạt giống phiền não và sở tri đang còn nằm ngủ trong chiều sâu tâm thức; những hạt giống này có thể phát hiện một ngày nào đó làm cho mình không có tự do giải thoát hoàn toàn. Trong kinh Niệm Xứ ta đọc: “Này các Tỳ khưu, vị nào tu tập bốn niệm xứ này như vậy trong bảy năm (hoặc sáu, năm, ba năm v.v…), vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: một là chứng chánh trí ngay trong hiện tại, hai là nếu còn dư y thì chứng quả bất hoàn.” Lời dạy này có mặt trong rất nhiều kinh, như A. III, 143, Pháp Cú tạng Pāli, câu thứ 418, Pháp Cú tạng Hán, kệ thứ 37, phẩm Phạm Chí, Vô vấn tự thuyết (Ithivuttaka 44) v.v… Nhưng trong một số các kinh khác, người ta đã diễn dịch và cho vào ý niệm là chỉ khi nào buông bỏ sắc thân và bốn uẩn khác thì mới có Niết bàn vô dư y, và dư y ở đây (upādi) đồng nghĩa với uẩn (skandha). Đây cũng là một con sâu rất lớn, có thể gây ra hiểu lầm là Niết bàn vô dư y chỉ có thể đạt được sau khi chết. Điều này trái chống với lời Bụt dạy trong các kinh mới được dẫn trên đây.
Chính thầy Thế Thân (Vasubandhu) vào thế kỷ thứ tư Tây Lịch cũng đã nói upādi là upādāna, y là thủ, chứ không phải là uẩn. Ta còn có thể nói upādi là thủ uẩn (upādānaskandha) chứ nói upadi là uẩn thì chắc chắn là sai lạc. Chính những câu kinh sai lạc ấy đã đưa tới kết luận Niết bàn là cái chết vĩnh viễn ngàn đời.

Đạo đế chính là diệt đế

Đại chúng được khai thị trong khóa tu: không có con đường nào đưa về Niết bàn, Niết bàn chính là con đường (there is no way to Nirvāna, Nirvāna is the way). Điều này có nghĩa là nếu ta nhìn vào sự thực thứ tư (đạo đế) ta có thể thấy được sự thực thứ ba (diệt đế). Bản thân sự hành trì đạo đế chính là Niết bàn.
Con đường Bát chánh đạo nếu được hành trì thì mỗi giây phút đều có Niết bàn, có tự do và giải thoát. Có chánh kiến là có Niết bàn, có tự do. Có chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp v.v… cũng thế. Mỗi một công phu hành trì đem tới một sự lắng dịu khổ đau, một khoảng trời tự do. Chuyển hóa một cơn giận là dập tắt được một ngọn lửa giận, đó đã là sự lắng dịu, sự mát mẻ, sự tự do. Lấy đi một tri giác sai lầm, một thành kiến cũng đem lại sự lắng dịu và tự do. Không thể lấy Niết bàn ra khỏi con đường, không thể lấy diệt đế ra khỏi đạo đế, cũng như không thể lấy đạo đế ra khỏi diệt đế. Hai đế tương tức. Niết bàn, sự lắng dịu, sự mát mẻ, sự tự do có thể có mặt trong từng giây phút của đời sống hàng ngày, nếu ta đang thực sự sống theo con đường Bát chánh. Nhưng Niết bàn trong hiện tại ấy, Niết bàn mà trong kinh gọi là hiện pháp Niết bàn (drstadharmnirvāna) ấy có thể chỉ mới là Niết bàn còn dư y. Nếu bạn đạt được chánh trí, có được chánh kiến tuyệt đối thì bạn đạt được Niết bàn hết dư y, cũng ngay trong đời sống hiện tại. Những câu kinh chứng minh cho cái thấy này vẫn còn được tìm thấy trong kinh tạng. May mắn cho chúng ta biết mấy. Chỉ cần nhìn vào con đường bát chánh, ta đã có thể thấy được Niết bàn. Ta có thể thấy ngay rằng Niết bàn là nếp sống thảnh thơi, tự do, có hiểu, có thương, có sự lắng dịu, có hạnh phúc, chứ không phải là sự hủy diệt, hư vô, cái chết ngàn đời. Không lý chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định, những thực tập tích cực và đẹp đẽ như thế mà lại có mục đích đưa tới cái chết vĩnh hằng?

Có kẻ làm người chịu không? Họ là một hay là hai?

Bụt dạy về Niết bàn: “Có cái không sinh, không hữu, không tác và không hành.” Không sinh không hữu thì mình đã biết rồi, có nghĩa là Niết bàn là cái không sinh, không diệt, không hữu, không vô. Đây là cái thấy chính xác, là chánh kiến của Bát Chánh Đạo. Nhưng còn không tác và không hành? Không tác có nghĩa là vô ngã, là không có một tác giả và một thọ giả, cái chủ thể gây nghiệp và chịu quả báo, như một thực tại tách rời, có thể có mặt độc lập ngoài nghiệp và ngoài báo. Đó là sự phủ nhận linh hồn bất tử. Đạo Bụt không công nhận cái atma, cái thần ngã, cái linh hồn bất tử của Bà La Môn giáo nhưng trên phương diện thế tục đế, đạo Bụt công nhận có kẻ làm, người chịu, có Bụt, có chúng sinh, có thánh, có phàm. Nghĩa là đạo Bụt công nhận có con người, có kẻ trách nhiệm về hành động của mình, nhưng con người ấy không phải là một linh hồn bất tử, một thực tại bất biến, có thể tồn tại độc lập, thường còn mãi mãi, không thể biến thiên. Kinh Các hành đều không (Tạp 273) dạy: “Tất cả các pháp đều không phải là một cái ta, không phải là thường còn. Đó là một cái ta vô thường, một cái ta không vĩnh cữu, không an ổn, không thể không biến dị”. Câu kinh này cho thấy tinh thần linh động và không giáo điều của Bụt. Ý Bụt là mình có thể nói tới một cái ta, với điều kiện là mình ý thức rằng cái ta ấy là vô thường, không vĩnh cửu, không an ổn, luôn luôn biến dị. Cái ta này có thể được xem như là một dòng liên tục (a continuum), bề ngoài thì thấy như có vẻ có mặt lâu dài, nhưng trong thực chất thì chuyển biến trong từng giây phút như một dòng sông. Cái dòng liên tục ấy (samtati, tương tục), bản chất của nó là vô ngã, nghĩa là không có tính thường tại, vĩnh cửu. Vô ngã không phải là một học thuyết, một chủ thuyết mà chỉ là một phép quán chiếu để đạt tới cái thấy giải thoát. Đó là ngón tay chỉ mặt trăng. Nhưng có nhiều vị đệ tử của Bụt trong Thượng Tọa Bộ và trong Hữu Bộ đã không được linh động như vậy. Các vị ấy hiểu theo kiểu giáo điều, và trong bao nhiêu bộ luận đã tìm cách chứng minh cho được cái “chủ thuyết” vô ngã ấy. Họ khăng khăng nói là không có ai, không có người. Điều này làm cho khó khăn thêm ra sự giải thích về luân hồi, nghiệp và báo. Vì vậy mà đã có các tông phái ra đời phản đối lại thái độ giáo điều cứng nhắc kia, đó là các phái chủ trương có người, có bổ đặc già la (pudgala). Đó là các phái như Độc Tử Bộ (Vatsiputriya) và Chính Lượng Bộ (Sammitiya) v.v… Số lượng các thầy chủ trương thuyết “có con người” đông lắm. Hồi thầy Huyền Trang qua du học Ấn độ, đã có khoảng 60 ngàn thầy. Các thầy rất ưa trích từ kinh điển những lời Bụt nói để chứng minh chủ trương của mình. Ví dụ câu: “Có một người mà sự xuất hiện trên cõi đời này đem lại biết bao nhiêu lợi lạc cho thế gian. Người ấy là ai? Người ấy là Bụt.” Có khi họ còn phản ứng rất mạnh. Họ nói: “Nói rằng không có con người, đó là một tà kiến, đứng về phương diện chân lý cũng như đứng về phương diện thực tế.” Không những các bộ phái Độc Tử và Chính Lượng phản ứng như thế đối với Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ mà bộ phái Kinh Lượng (Sautrantika) cũng phản ứng một cách dữ dội. Kinh Lượng Bộ chuyên trích dẫn lời kinh, để chống lại chủ trương của các bộ luận, được các thầy trong Thượng Tọa Bộ nhất là trong Hữu Bộ biên soạn. Chủ trương của Hữu Bộ là ngã thì không mà pháp thì có. Dưới ánh sáng của kinh Ca Chiên Diên, chủ trương ngã không pháp hữu không tương ứng được với chánh kiến, bởi vì Bụt đã dạy chính kiến là cái thấy vượt thoát hai ý niệm hữu và vô. Đại Chúng Bộ có một bộ phái tên là Thuyết Giả Bộ (Prajnaptivada) chủ trương các pháp không thực sự tồn tại (hữu) mà chỉ là những giả danh, những tập hợp có tính cách vô thường, luôn luôn chuyển biến, không có tự tính độc lập, không vĩnh cửu. Ta có thể nói ngã là một sự tập hợp như thế, nghĩa là một cái hành (samskara, formation). Một tập hợp như thế, một giả danh (conventional designation) như thế, không thể được mô tả là có hay là không. Nó không thực có, mà nó cũng không phải là không. Chủ trương này có thể tương ứng (đi đôi) được với tuệ giác chánh kiến, không kẹt vào ý niệm có không. Thuyết Giả Bộ cũng là một phản ứng đối với thái độ giáo điều của Thượng Tọa Bộ và Hữu Bộ. Vô ngã, như thế, không phải là một chủ thuyết mà chỉ là một dụng cụ thực tập để đưa tới cái thấy Chánh kiến, giúp ta đạt được chánh trí và giải thoát. Vô tác cũng có nghĩa là không thể tách rời tác giả (actor) ra khỏi tác nghiệp (action). Hai cái dựa vào nhau mà biểu hiện, không thể lấy cái này ra khỏi cái kia, cũng như mặt phải và mặt trái của cùng một tờ giấy.

Tìm cái vô vi ngay trong cái hữu vi, ngón tay và mặt trăng

Vô tác là như thế, còn vô hành? Vô hành là các hiện tượng kia, trong đó có những cái ngã, đều có tính cách trống rỗng, không có thực thể, không có tự tính. Đây là giáo lý Không (sūnyatā). Giáo lý này không được Thượng Tọa Bộ và Hữu Bộ khai thác đúng mức. Vì vậy cho nên mới có chủ trương ngã không pháp hữu. Vô hành (asamskrta) có nghĩa là các hành ấy bề ngoài như là đang có nhưng thực sự chúng không thực sự có, vì chúng chỉ là những tập hợp (formation) không có thực chất. Đặc tính của các hành là trống rỗng (sūnya). Giáo lý ngã không pháp hữu của Hữu Bộ như vậy là không trung thực lắm với những gì Bụt dạy. Vì vậy mà bắt đầu từ thế kỷ thứ nhất trước Tây lịch, phong trào Đại thừa đã phát sinh để khai triển giáo pháp vô hành này bằng nền văn học Bát Nhã. Những kinh điển như Bát Thiên Tụng Bát Nhã (Astasāhasrikā prajñāparamitā sūtra) bắt đầu ra đời và cả một nền văn học phong phú được lập thành để khai triển giáo lý vô hành, nghĩa là giáo lý pháp không, công việc mà Thượng Tọa Bộ và Hữu Bộ đã không chịu làm. Tuệ giác tùy thuận trí (anulomatajñāna) cho ta thấy tất cả các hành đều nương vào nhau mà được thành lập, không phải cái này sinh ra cái kia, cho nên ý niệm tương hành (sahasamskrta, interconditioning) có thể giúp ta vượt khỏi cặp đối đãi cuối cùng là hữu vi và vô vi để ta có thể thấy rằng Niết bàn nằm ngay trong sinh tử. Bài học chúng ta học được là những gì Bụt dạy đều là những phương tiện quyền xảo như những ngón tay chỉ mặt trăng, ta phải khéo léo lắm mới thấy được mặt trăng và không bị kẹt vào ngón tay. Bụt ra đời để cứu độ chứ không phải để lập ra những chủ thuyết, dù đó là chủ thuyết vô ngã.

Tìm Niết bàn ngay trong sinh tử

Kẹt vào nhận thức lưỡng nguyên (dualistic thinking) rất nhiều người, trong đó kể cả những người theo đạo Bụt, đã không hiểu được Bụt và Niết bàn. Họ nghĩ rằng Bụt không phải là chúng sinh, và chúng sinh không phải là Bụt. Bụt ở ngoài chúng sinh, và chúng sinh ở ngoài Bụt. Bụt và chúng sinh là hai thực thể tách biệt nhau. Cũng theo cách nhận thức đó, họ cho rằng Niết bàn không phải là sinh tử, sinh tử không phải là Niết bàn, ngoài Niết bàn còn có sinh tử và ngoài sinh tử còn có Niết bàn. Để đối trị với cái nhìn nhị nguyên ấy, các vị thầy của chúng ta ngày xưa đã dạy “sinh Phật bất nhị” và “Niết bàn sinh tử thị không hoa”. “Sinh Phật bất nhị” có nghĩa là chúng sinh và Bụt không phải là hai thực thể tách biệt nhau. Nhìn vào chúng sinh thì thấy Bụt, và nhìn vào Bụt thì thấy chúng sinh. “Niết bàn sinh tử thị không hoa” là ngoài sinh tử không có Niết bàn, ngoài Niết bàn không có sinh tử, cái quan niệm Niết bàn và sinh tử là hai thực tại có thể tách rời nhau mà có, những ý niệm ấy sai lạc giống như những hoa đốm trong không gian, không có thật. Khi bị người khác đấm vào mắt ta thấy hoa đốm trong hư không, các hoa đốm này được ví dụ với Niết bàn và sinh tử như những thực tại tách rời nhau mà có, những cái không thể nào có được.
Nhiều học giả Tây phương nghiên cứu đạo Bụt vì đã sử dụng cái nhìn nhị nguyên cho nên không nắm được tinh yếu của Phật pháp. Nhiều người nói Niết bàn là cái chết vĩnh viễn, và mục đích tối hậu của đạo Bụt là đi tới cái chết vĩnh viễn để khỏi tiếp tục luân hồi khổ đau.

Cái chết vĩnh viễn?

Robert Caesar Childers, tác giả cuốn tự điển A Dictionary of the Pāli Language, xuất bản năm 1875, nói ở trang 268 rằng Niết bàn là một thời gian hạnh phúc ngắn ngủi và được tiếp nối bởi cái chết vĩnh cửu (Nirvana is a brief period of bliss followed by eternal death). Trang 76 sách ấy nói: mục đích của giáo lý đạo Bụt là cái chết vĩnh cửu.
Richard Pischel, trong tác phẩm Buddha, xuất bản năm 1906, cũng nghĩ như thế. Ông nói: Tôi đã chứng minh rằng mục đích của đạo Bụt là sự hoại diệt và Niết bàn chỉ là một thời gian ngắn ngủi của hạnh phúc tiếp nối bởi một các chết vĩnh cửu (I have shown that the goal of Buddhism is annihilation and that Nirvana is a brief period of bliss followed by eternal death).
Jules Barthélemy-Saint-Hilaire, triết gia Pháp (1805-1895), nói đạo Bụt là đạo của sự tịch diệt hư vô, Niết bàn là sự hoại diệt và Bụt là một vị thần linh đã chết (le Bouddhisme est la religion du néant, le Nirvana est l’annihilation, le Bouddha est un dieu mort depuis le Nirvana).
Chính Theodore Stcherbatsky, nhà học giả Phật học Nga nổi tiếng, tác giả nhiều sách về Luận Lý Học Phật giáo, cũng đã viết trong bài tựa sách La Théorie de la Connaissance et la Logique chez les Bouddhistes Tardifs, xuất bản ở Paris năm 1926: “Đạo Bụt nguyên thỉ trình bày đức Phật như một con người có sinh có diệt như tất cả mọi người, nhưng nhờ công phu hành trì, đã đạt tới được cái ân huệ tối cao là không bao giờ còn phải trở lại trong cõi đời này nữa và vĩnh viễn biến mất trong một cái chết vĩnh hằng.”

Thường tại và đoạn diệt

Các nhà học giả Tây phương chắc chắn đã đọc kinh Ca Chiên Diên và cũng đã biết Bụt không chủ trương thường tại (eternalism) mà cũng không chủ trương đoạn diệt (annihilation). Ngoài kinh Kaccāyana (Ca Chiên Diên, Tạp 301, S.II.17) còn có kinh Jānussoni (Bà La Môn Lạ Mặt, Tạp 300, S.II.76) trong đó Bụt cũng đã nói tới con đường Trung đạo vượt thoát có và không. Vị Bà la môn hỏi:
– Người làm và người chịu có phải là một không?
Bụt trả lời:
– Nếu nói người làm và người chịu là một thì rơi vào thường kiến (eternalism).
– Vậy thì có phải người làm và người chịu là hai người khác nhau?
Bụt trả lời:
– Nếu nói người làm và người chịu là hai người khác nhau thì ta rơi vào đoạn kiến (annihilation). Khi thuyết pháp, tôi lìa bỏ cả hai cực đoan ấy và trú ở con đường Trung đạo.
Lời kinh rõ ràng như thế, ấy vậy mà vẫn có nhiều người cứ khăng khăng cho rằng Bụt chủ trương thuyết hư vô đoạn diệt. Điều này chứng tỏ tập khí suy tư theo chiều huống lưỡng nguyên đã rất sâu nặng, dù cho đối với những học giả thông minh.

Vô ký

Các pháp, nghĩa là các hiện tượng, đang có mặt; nhưng đó không phải là sự có mặt của những thực tại có bản chất riêng, có tự tính riêng, một sự có mặt bất biến, vĩnh hằng. Chúng chỉ là những dòng biến chuyển liên tục, sinh diệt trong từng sát na, gọi là sát na diệt. Chúng có tính chất điện ảnh (cinématographique). Nói chúng là thật sự có thì không đúng, mà nói chúng thật sự không cũng không đúng, cho nên đối với Bụt, cái thấy chánh kiến vượt khỏi ý niệm có và không, còn và mất, sinh và diệt. Đó là cái thấy trung đạo.
Một trong những câu hỏi thường hay đặt ra là sau khi diệt độ, đức Thế Tôn còn hay là không còn, hoặc vừa còn vừa không còn, hoặc vừa không còn vừa không không còn. Thường thường với những câu như thế thì Bụt trả lời: đó là vô ký (avyakrta). Vô ký (non-declared) có nghĩa là không muốn trả lời. Tại sao không trả lời? Tại vì mình không biết cho nên không trả lời, hay tại vì nếu trả lời thì mình sẽ bị kéo theo vào một cuộc lý luận về các vấn đề siêu hình? Hoặc tại vì câu trả lời nếu có cũng không giúp ích được gì cho sự tu học giải thoát?
Tuy Bụt không trực tiếp trả lời những câu ta vừa hỏi nhưng ta đã biết rằng nếu trả lời thì phải sử dụng những phạm trù khái niệm như có, không, còn, mất, một, khác, tới, đi, v.v.. trong khi mình biết sự thực vượt thoát những phạm trù tư tưởng ấy. Tại sao các vị học giả không thấy được điều ấy? Bụt đã nói Ngài thuyết pháp ở trung đạo, xa lìa những ý niệm cực đoan như có không, còn mất, v.v… rồi mà?
Kinh A Nậu La Độ (Anuradha, S.IV. 380, Tạp 99) cho ta câu trả lời rất rõ ràng về vấn đề sau khi nhập diệt, Thế Tôn còn hay không còn v.v… Thầy A Nậu La Độ bị các thầy trong các giáo phái khác chất vấn bằng những câu hỏi ấy đã về hỏi lại Bụt để kỳ sau có thể trả lời hay hơn. Bụt hỏi thầy có thể tìm Như Lai trong sắc, thọ, tưởng, hành và thức không thì thầy nói không. Bụt hỏi thầy có thể tìm Như Lai ngoài sắc, thọ, tưởng, v.v… không thì thầy cũng nói không. Bụt nói với thầy: tôi đang còn sống sờ sờ đây mà thầy tìm tôi còn không ra thì nói gì tới chuyện tìm tôi sau khi tôi ẩn diệt?
Câu kinh như sau: “Như Lai kiến pháp, chân thực, như trú, vô sở đắc, vô sở thi thiết, nhữ vân hà ngôn…” nghĩa là ngay trong đời sống hiện tại của Như Lai (Như Lai kiến pháp), mà thầy cũng không nắm bắt được (vô sở đắc, anupalabhiya) một Như Lai thường chân, thường trú, bằng khái niệm (anupalabhiyamāna) thì thử hỏi làm sao thầy có thể nắm bắt được Như Lai sau khi hình hài này tan rã?” Chính vì sự vắng mặt của một cái thường chân, thường trú ấy, sự vắng mặt của một tự tính thường hằng vĩnh cửu ấy, sự vắng mặt của một linh hồn bất tử ấy mà ta không thể nói được là các pháp đang thực sự có. Và nếu cái có chỉ là một ý niệm thì cái không cũng chỉ là một ý niệm. Sự thực và chánh kiến vượt thoát cả hai ý niệm ấy. Cho nên không trả lời cũng đã là một cách trả lời rồi. Câu trả lời cho sự còn mất của Như Lai cũng có thể áp dụng cho tất cả các pháp hữu vi: một đám mây, một dòng sông, một bậc thánh, một người phàm, một dòng tâm thức v.v…Các nhà học giả Phật học Tây Phương chỉ cần nhìn vào sự có mặt của đạo Bụt trong văn hóa, tư tưởng, nghệ thuật và các truyền thống Phật giáo đang có mặt trong hiện tại là có thể trả lời sau khi nhập diệt, Bụt còn hay là không còn ngay, đâu có khó khăn gì.

Câu trả lời có lợi ích

Không trả lời cũng có thể là vì câu trả lời không giúp ích được cho người hỏi. Ví dụ trường hợp của Vacchagotta (S.IV). Vacchagotta (Bà Tha Chủng), một vị du sĩ Phạm Chí hỏi Bụt: Có ngã không? Bụt không trả lời. Ông ta hỏi tiếp: “Như vậy có nghĩa là không có ngã phải không?” Bụt cũng không trả lời. Sau khi vị du sĩ đi khỏi, thầy Ananda hỏi Bụt: Tại sao Thầy không trả lời cho ông ấy? Bụt dạy: Nếu tôi nói với ông ta là có ngã thì tôi nói không đúng sự thật. Nếu tôi nói với ông ta là không có ngã thì ông ra sẽ sửng sốt điên loạn, nghĩ rằng từ xưa đến nay mình đã tin chắc rằng mình có một cái ngã, bây giờ nghe nói rằng không có ngã thì làm sao mình sống cho được? Vì thế cho nên tôi đã giữ sự im lặng. (S.IV.400)
Chúng ta hãy đọc đoạn kinh tương đương trong Hán tạng (Tạp 961) như sau:
“Nếu ta nói có ngã, thì như thế là ta giúp cho tà kiến có sẵn ở nơi ông ta tăng trưởng. Nếu ta nói là không có ngã thì cái nghi ngờ có sẵn nơi ông ta cũng sẽ gia tăng. Đã có sẵn nghi ngờ, bây giờ ông ta sẽ nghi ngờ thêm lên, nghĩ rằng trước kia mình tin rằng mình có cái ngã (thì yên ổn biết mấy), bây giờ nếu không có ngã thì mình rơi vào đoạn diệt. Nếu trước kia tin có ngã, thì đó là thường kiến, mà bây giờ tin vào đoạn diệt thì đó là đoạn kiến. Như Lai lìa cả hai cực đoan, đứng ở giữa mà thuyết pháp, nói rằng cái này có thì cái kia có, cái này sinh thì cái kia sinh, duyên vô minh mà có hành… cho đến sinh lão bệnh tử”.
Trong trường hợp Vacchagotta (Bà Tha Chủng), chính tâm lý và căn cơ người hỏi đã quyết định rằng nên có câu trả lời hay không nên có câu trả lời. Như vậy, không có nghĩa là không trả lời. Không có nghĩa là mình không biết trả lời, mà có nghĩa là câu trả lời không có lợi ích cho người hỏi.

Mười bốn câu hỏi không nên trả lời

Kinh có chép lại 14 câu hỏi được xem là những câu hỏi không nên trả lời:

01. Thế giới thường?
02. Thế giới không thường?
03. Thế giới vừa thường vừa không thường?
04. Thế giới vừa không thường vừa không không thường?
05. Thế giới hữu biên?
06. Thế giới vô biên?
07. Thế giới vừa hữu biên vừa vô biên?
08. Thế giới không hữu biên cũng không vô biên?
09. Như Lai sau khi diệt độ còn?
10. Như Lai sau khi diệt độ không còn?
11. Như Lai sau khi diệt độ vừa còn vừa không còn?
12. Như Lai sau khi diệt độ vừa không còn vừa không không còn?
13. Linh hồn (mạng) và thân là một?
14. Linh hồn và thân là hai cái khác nhau?

Nếu nhìn với cái thấy trung đạo thì những ý niệm còn mất, có không, một khác, hữu biên vô biên, hữu hạn vô hạn… đều chỉ là những phạm trù tư tưởng không chuyên chở được sự thực, thì bất cứ câu trả lời nào cũng không nói lên được sự thật, như thế đâu phải là vì mình không biết cho nên không trả lời, hoặc vì mình biết mà không chịu trả lời?
Kinh Di Lan Đà Vấn Đạo (Milindapanhā) có một đoạn vấn đáp về mạng (linh hồn) và thân (hình hài) khá ngộ nghĩnh. Khi vua Di Lan Đà (Milanda) hỏi thầy Na Tiên (Nagasena) câu hỏi ấy thì thầy nói thầy không trả lời. Thái độ này rất đúng truyền thống. Vua trách thầy. Thầy hỏi lại: Trong vườn thượng uyển, xoài ngọt hay chua? Vua nói không trả lời được vì trong vườn thượng uyển không có trồng xoài. Thầy Na Tiên nói: Vậy thì có một linh hồn bất tử đâu mà nói rằng nó với hình hài này là một hay là khác?
Vì kẹt vào ý niệm có và không cho nên ta mới đặt những câu hỏi như câu hỏi này. Thoát khỏi ý niệm có và không thì ta sẽ thấy rằng không trả lời là đúng.
Học giả Louis de la Vallée-Poussin sau khi dịch và xuất bản các tác phẩm Câu Xá Luận và Thành Duy Thức Luận, đã viết cuốn Le Dogme et la Philosophie du Bouddhisme (Giáo điều và triết học Phật giáo) xuất bản năm 1930. Trong sách này ông còn viết rằng Bụt không chịu nói tận tường những gì cần nói (le Bouddha se refuse à éclairer le fond des choses). Ông tiếc rằng Bụt đã không nói rõ về cơ chế của nghiệp báo (la mécanism de la rétribution des actes), không định nghĩa đích xác về cái chủ thể đi luân hồi tức là linh hồn (la définition du principe qui transmigre) và nói rõ về Niết bàn (l’exégèse du Nirvana). Kỳ thực Bụt đã nói rất rõ về ba điểm ấy. Nếu nhà học giả kia thấy được rằng luân hồi, nghiệp và báo có thể xảy ra mà không cần sự có mặt của một linh hồn bất tử, một tác giả và một thọ giả, thì ông đã không nói như thế. Hãy nhìn đám mây: đám mây đang luân hồi sinh diệt mà có cần một cái ngã hay một linh hồn bất diệt nào đâu? Nếu nhìn kỹ vào đám mây, thấy được tự tính nó là không sinh không diệt, thấy được chân tướng nó mà không bị các tướng mây, tuyết, mưa, sương làm trở ngại, nhà học giả sẽ thấy nó đang rong chơi tự tại trong Niết bàn, không sợ hãi có không và sinh diệt, thì ông ta sẽ không còn thắc mắc tại sao không có một linh hồn bất diệt hay một nguyên lý chủ động (principe vivant) mà nó vẫn có thể rong chơi trong Niết bàn không sinh không diệt được. Và nhà học giả cũng sẽ thấy Niết bàn không phải là một cái gì xa xôi huyền bí chỉ có thể đạt được sau khi chết hoặc phải đi vào diệt thọ tưởng định mới có thể thân chứng. Vật chất và năng lượng, theo khoa học hiện đại, là không sinh không diệt, từ đám mây cho đến ngọn lửa, theo quy luật thứ nhất của nhiệt động học. Rien ne se crée, rien ne se perd, tout se transforme: không có gì sinh, không có gì diệt, tất cả đều chuyển biến, nhà khoa học Antoine Lavoisier đã nói như thế. Nếu vạn vật không sinh không diệt thì chúng cũng không có và không không, bởi vì các khái niệm sinh diệt và có không nương vào nhau mà được thành lập. Nếu không có sinh có diệt thì làm gì có cái chết vĩnh viễn hoặc cái sống vĩnh viễn? Nếu có cái chết vĩnh viễn thì theo nguyên tắc cũng phải có cái sống vĩnh viễn chứ?

Bất thối chuyển

Đại chúng cũng được khai thị về vấn đề bất thối chuyển. Thánh và phàm cũng tương tức như mê và ngộ, và thánh được làm bằng những yếu tố không phải thánh, trong đó có phàm, cũng như hoa sen được làm thành bởi các yếu tố không phải sen, trong đó có bùn. Nếu không có phàm thì không có thánh. Vì vậy cho nên nghĩ rằng sự có mặt của cái thánh là sự vắng mặt vĩnh viễn của cái phàm là một tà kiến. Cái thánh là một pháp cũng như cái phàm. Mà hễ nó là một pháp thì nó cũng vô thường như bất cứ một pháp nào khác. Vì vậy bất thối chuyển không có nghĩa rằng cái thánh là cái thường còn cái phàm là cái vô thường. Cái thánh, cũng như cái an lạc lắng dịu mà nó đem tới, cần được nuôi dưỡng và bảo trì bằng sự thực tập thì mới có được tình trạng không thối chuyển. Điều này giúp ta hiểu tại sao đã đạt tới toàn giác, đã thành Bụt rồi, mà đức Thế Tôn vẫn thực tập thiền tọa và thiền hành mỗi ngày. Bất thối chuyển là một trạng thái chỉ có thể kéo dài được nhờ công phu thực tập. Nắm vững được pháp môn thực tập, áp dụng pháp môn trong đời sống hàng ngày thì mới duy trì được tình trạng bất thối chuyển. Cũng như một khu vườn phải được chăm sóc hàng ngày mới không bị cỏ dại gai gốc xâm chiếm. Cỏ dại gai gốc, những bông hoa tàn, v.v.. tượng trưng cho phiền não. Khu vườn sạch cỏ, những bông hoa mới tiếp tục có mặt tượng trưng cho bồ đề. Phải có rác mới có hoa, phải có phiền não mới có bồ đề. Phiền não là phân bón, là thức ăn cho bồ đề. Phải tìm bồ đề ngay trong phiền não, vì vậy cho nên ta có các câu: “phiền não tức bồ đề” và “tìm Niết bàn trong sinh tử”.
Cho nên câu nói “sinh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, không trở lại trạng thái này nữa” (sinh dĩ tận, phạm hạnh dĩ lập, sở tác dĩ tác, bất thọ hậu hữu) cần phải xét lại. Sinh là phiền não, là chất liệu luân hồi. Nếu nghĩ rằng yếu tố này tuyệt đối không còn nữa, đã hoàn toàn tiêu diệt, thì ta rơi vào đoạn kiến, ta ra khỏi con đường trung đạo, ta bị kẹt vào ý niệm sình diệt, có không, còn mất. Phạm hạnh đã thành (đời sống người tu đã thành tựu) và việc cần làm đã làm, có nghĩa là bây giờ không cần phải làm gì nữa, không cần phải thực tập nữa, không cần phải tu nữa. Trong khi đó đức Thế tôn thành Phật rồi mà vẫn tiếp tục thiền tọa và thiền hành mỗi ngày. Nếu không tiếp tục hành trì thì không duy trì được tình trạng bất thối chuyển. Không còn trở lại tình trạng này nữa (bất thọ hậu hữu) nghĩa là không bị sinh tử luân hồi ràng buộc nữa. Ai trở lại và ai không trở lại? Có một cái ngã thường tại để trở lại hay không trở lại không? Với lại theo cái thấy trung đạo thì làm gì có chuyện trở lại với không trở lại, bởi vì thực tính của các pháp là không khứ cũng không lai? Không trở lại có nghĩa là không trở lại cõi sinh tử luân hồi, mà an trú ở Niết bàn. Nhưng Niết bàn ở đâu? Niết bàn có thể có ngoài sinh tử hay không? Có thể lấy Niết bàn ra khỏi sinh tử, có thể lấy bồ đề ra khỏi phiền não hay không? Tại sao thiền sư Vân Phong nói “phải tìm Niết bàn ngay trong cõi sinh tử?”
Khi đức Thế Tôn nói có một cái gì không sinh, không hữu, không tác, không hành, đức Thế Tôn đang nói về Niết bàn. Nhưng Thế Tôn không có ý nói rằng Niết bàn là một “cái”, nghĩa là một pháp. Nếu nó là một pháp thì Niết bàn cũng vô thường, cũng vô ngã, cũng hữu vi, nhưng Niết bàn là vô vi. Vô vi, thật sự không phải là một pháp. Nói vô vi là một pháp như những pháp hữu vi khác thì rất nguy hiểm, có thể đưa lại những hiểu lầm rất lớn. Niết bàn cũng không phải là một pháp, một “cái”.  Niết bàn là tính chất đích thực của tất cả các pháp. Nhìn bề ngoài các pháp dường như có sinh có diệt, có hữu có vô nhưng tiếp xúc được vào chiều sâu nhờ quán chiếu duyên khởi và trung đạo ta thấy được tính chất đích thực của các pháp là không sinh, không diệt, không hữu, không vô… và tính chất ấy là Niết bàn. Sinh tử là cái tướng bên ngoài của các pháp. Niết bàn là bản chất đích thực của các pháp. Tiếp xúc được Niết bàn thì hết sợ hãi và khổ đau, đạt tới lắng dịu. Cho nên nói là phải tìm Niết bàn ngay trong sinh tử, cũng như phải tìm Bụt trong chúng sinh.

Tâm Linh và Tín Mộ

Trong những tuần cuối của mùa An Cư Kết Đông chủ đề Tâm Linh và Tín Mộ được nêu lên. Ngay từ hồi Bụt còn tại thế, giáo lý và sự thực tập cung cấp cho giới tại gia có đủ chất liệu tâm linh (spirituality) và tín mộ (devotion), nhưng chủ yếu là chất liệu tâm linh, bởi vì dù sao đạo Bụt cũng là một đạo chủ trương cứu hộ bằng tuệ giác hơn là bằng ân huệ, chú trọng về tự lực hơn là tha lực. Các kinh dạy cho cư sĩ Cấp Cô Độc chẳng hạn, biểu trưng cho tinh thần và phương pháp này. Người đệ tử áo trắng (nghĩa là cư sĩ) nếu thực tập theo Năm giới và bốn phép Tùy niệm (bốn tâm cao đẹp – tứ tăng thượng tâm) là có thể có hạnh phúc ngay trong đời hiện tại, trong giây phút hiện tại, chứ không cần đợi đến kiếp sau hoặc sinh lên các cõi trời mới có hạnh phúc. Theo Kinh Người Áo Trắng (Ưu Bà Tắc Kinh, Trung A hàm 128) thì thực tập theo Năm giới và bốn phép Tùy niệm (Niệm Bụt, Niệm Pháp, Niệm Tăng và Niệm Giới) thì thân tâm được tịnh hóa, được bảo hộ bởi những năng lượng lành do sự thực tập chế tác mà không còn sợ bị sa đọa vào những nẻo khổ đau như địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh. Người hành giả có chất thánh nhờ có sự thực tập ấy nên được gọi là thánh đệ tử. Người ấy có thể chứng được quả Vào dòng (Nhập lưu) chỉ cần bảy lần sinh ra trong cõi trời hay cõi người là có thể đạt tới giải thoát hoàn toàn như một vị xuất gia đạt tới quả A la hán và sống trong Niết bàn hiện tại.
Trì giới là để tự bảo hộ mình. Niệm Bụt, Niệm Pháp, Niệm Tăng không phải là để cầu xin sự che chở của những thế lực bên ngoài mà là để cho tâm được thanh tịnh, đạt tới niềm vui, diệt trừ được các tâm niệm tham đắm, nhiễm ô, sầu khổ, nghi ngờ và lo lắng (nhược hữu ác dục tức hữu đắc diệt, tâm trung hữu bất thiện, uế ô, sầu khổ, ưu hoặc phục đắc diệt). Hành trì như thế có nghĩa là nương vào tự lực hơn là tha lực, có chất liệu tâm linh hơn là chất liệu tín mộ, khoa học hơn là tôn giáo. Nhưng giữa tâm linh và tín mộ không có một ranh giới rạch ròi. Tâm linh có thể làm sinh khởi thêm tín mộ, và cái tín mộ có thể giúp cho cái tâm linh lớn mạnh hơn. Cái quan trọng là đừng để cho cái tín mộ chiếm hết chỗ của cái tâm linh, nghĩa là làm mất đi sự thực tập tự lực. Nhưng bản chất của con người là có nhu yếu tín mộ, cho nên nếu không khéo léo dạy dỗ và duy trì thì một ngày nào đó cái tín mộ sẽ lấn hết chỗ của cái tâm linh, và người hành giả chỉ còn tin vào Bụt Pháp Tăng như những lực lượng che chở, bảo hộ, đến từ bên ngoài. Niệm Bụt trước tiên là tin tưởng ở khả năng giác ngộ tự độ trong chính bản thân mình. Bụt trước hết là một con người, nhưng nhờ có hành trì cho nên thành Bụt. Vì vậy, là con người mình cũng có thể làm như Bụt. Nhưng nếu thực tập không khéo, mình sẽ rơi vào tình trạng tin rằng mình hoàn toàn bất lực, mình chỉ có thể nương vào sức mạnh cứu hộ đến từ bên ngoài. Chủ ý của Kinh không phải như thế. Nhưng nếu ta thực tập thông minh thì những phép hành trì bên ngoài có tính cách tín mộ cũng có thể đem tới chất liệu tâm linh và tuệ giác, có khả năng tịnh hóa, làm lắng dịu và đem lại nguồn vui sống ngay lúc thực tập. Đó là những pháp lễ lạy, xưng tán, cúng dường, sám hối, phóng sinh, tu tạo công đức (bố thí, in kinh), ăn chay, tụng kinh, niệm Bụt v.v…
Kinh Độ Người Hấp Hối (Giáo Hóa Bệnh Kinh, Trung A Hàm 28, M. 143) cho ta thấy có những người cư sĩ như Cấp Cô Độc cũng rất muốn được tiếp nhận những giáo lý và phép hành trì cao nhất của đạo Bụt như giáo lý không sinh không diệt, không tới không đi, để vượt thoát sợ hãi và để thỏa mãn những nhu cầu tâm linh cao nhất. Kinh Người Áo Trắng là để đáp ứng lại những mối quan tâm thường nhật của người tại gia (làm sao sống có hạnh phúc, được che chở và bảo hộ trong đời sống hàng ngày). Kinh Độ Người Hấp Hối chứng tỏ rằng người cư sĩ cũng có thể có những quan tâm tối hậu (ultimate concern) liên quan tới vấn đề sống chết, và cung cấp những giáo lý đáp ứng được với những quan tâm tối hậu ấy. Trong kinh ta thấy thầy Xá Lợi Phất hướng dẫn cư sĩ Cấp Cô Độc thực tập quán chiếu về thực tại không sinh, không diệt, không tới, không đi để giúp ông qua đời một cách thanh thản. Vì vậy cho nên nói rằng đối với người cư sĩ tại gia, sự thực tập của họ chỉ là tín mộ và cúng dường để có công đức là không đúng.
Những kinh như kinh Người Áo Trắng cho ta thấy tín ngưỡng về nhân quả, nghiệp, báo, luân hồi và giải thoát, nhưng không dạy về vô ngã, duyên sinh và trung đạo. Người cư sĩ có thể nghĩ về một cái ngã tạo nghiệp, thọ báo, đi luân hồi, chứng đạt quả vị Vào Dòng và cuối cùng đi tới giải thoát hoàn toàn. Nhưng tin vào một cái ngã như thế không phải là một quan ngại, nếu ta biết cái ngã ấy vô thường, luôn luôn biến dịch, không có tính cách thường tại vĩnh viễn. Cái ngã ấy là một tương tục (santati), nhờ bên ngoài thì thấy như thường, nhưng nhìn kỹ thì thấy sát na diệt, như một dòng sông, hay một ngọn lửa nến. Trong thời gian bảy lần sinh ở cõi người và cõi trời thế nào người hành giả cũng có cơ duyên học hỏi về duyên sinh, vô ngã và trung đạo để thực chứng Niết bàn, bởi vì người ấy đã vào dòng. Cho nên ta thấy đạo Bụt đi từ cạn tới sâu, từ thấp lên cao, và sử dụng cả hai loại sự thực thế tục đế và thắng nghĩa đế, không thấy gì quan ngại. Tinh thần không cố chấp không giáo điều được trông thấy rất rõ.

Chuyển luân Thánh vương

Nếu đạo Bụt đã trở nên một nếp sống tâm linh toàn cầu, một phần công đức khá lớn là do các vị quốc vương đóng góp. Ngay từ hồi Bụt còn tại thế, các vị quốc vương như Ba Tư Nặc và Tần Bà Sa La đã là những nhà chính trị có tâm hộ pháp rồi. Các vị vua ấy đã nghe lời Bụt trị nước và giữ nước bằng đạo đức nhiều hơn bằng gươm giáo. Hình ảnh quốc vương là một vị Bồ tát hộ pháp đã được tiếp tục xây dựng qua nhiều thế hệ. Vua A Dục là biểu trưng cho một hình ảnh như thế. Sau khi chinh phục được toàn cõi Ấn Độ, thấy được cảnh bao sinh linh bị tàn sát, vua đã phát tâm quy y Bụt và do đó có biệt hiệu là Pháp A Dục (Dharmāsoka), nghĩa là một vị vua tên A Dục trị nước theo chánh pháp. Vua đã yểm trợ tự viện, tăng đoàn, đã yểm trợ đại hội Phật giáo kết tập, đã dựng trụ đá ca ngợi Bụt và khuyến khích dân chúng tu học và làm lành, đã gửi những phái đoàn truyền giáo ra nước ngoài. Hình ảnh những vị vua hộ pháp trị nước theo tinh thần đạo đức như thế đã đi vào trong các kinh điển, như kinh Hộ Pháp Nhân Vương. Nhân Vương là ông vua nhân từ, cai trị không phải bằng gươm đao mà bằng đức độ. Nếu ở Trung quốc ngày xưa người ta tin vua là con trời được sai xuống để trị dân thì trong truyền thống này, vua là một vị Bồ tát, một vị vua Phật. Sau vua Asoka, có vua Milinda (165-130B.C), vua Kanishka (78-102 A.C), vua Harshavardhana (606-647 A.C) và các vua trong triều đại Bà la (750-1150), vị nào cũng muốn mình có hình ảnh của bậc Nhân Vương Bồ Tát. Đạo Bụt đã tạo ra hình ảnh đó để làm mẫu mực lý tưởng cho những vị quốc vương noi theo, đó là hình ảnh Chuyển Luân Thánh Vương (Cakravartirājan). Hình ảnh một vị Chuyển Luân Thánh Vương được mô tả trong kinh Thiên Nghiệp Thí Dụ (Divyāvadāna) như sau: “Đó là một vị vua thống suất quân ngũ, công minh (tiếng Phạn: dhārmika), một vị vua theo chánh pháp, có đủ bảy báu: chiến xa, voi, ngựa, châu báu, cung phi, bách quan và tướng soái. Vua có một trăm con trai, đều là những thanh niên anh hùng và đẹp đẽ, có thể chiến thắng được quân đội của bất cứ kẻ thù nào. Vua chinh phục đất đai rộng rãi cho tới bờ đại dương, rồi tháo bỏ tất cả những nguyên nhân gốc rễ đưa tới nghèo đói và bạo hành. Vua trị nước mà không cần trừng phạt, không sử dụng gươm đao mà chỉ sử dụng đạo đức, chánh pháp và phủ dụ.”
Các vị cao tăng trong nước có bổn phận nhắc nhở các vị nhân vương hành xử theo chánh pháp, và các vị quốc vương biết rằng nếu được quần chúng Phật giáo yểm trợ thì việc cai trị sẽ dễ dàng hơn, cho nên các vị quốc vương ấy cố gắng đi theo con đường đức trị hơn là pháp trị. Các kinh như kinh Nhân Vương Hộ Quốc Bát Nhã Ba La Mật Đa ra đời là để xây dựng lên hình ảnh của một nhà vua như thế, một bậc Chuyển Luân Thánh Vương. Cuộc đối thoại giữa vua Ba Tư Nặc của vương quốc Kosala với Bụt trong kinh này cho thấy một vị vua trị nước có thể đi sâu vào chính pháp, và sử dụng chính pháp để trị dân như thế nào mà một nền hòa bình được duy trì lâu dài. Kinh đã đề cập tới mười sáu vị quốc vương trị nước đương thời, và nỗ lực tạo dựng niềm tin nơi các nhà lãnh đạo về một con đường chính trị nhân đạo. Vua Jayavarman VII của Cam Pu Chia cũng tin mình là một vị vua Bụt, đã tạc tượng mẹ của mình dưới hình thức Bát Nhã Ba La Mật, bởi vì theo Phật giáo, Bát Nhã Ba La Mật là mẹ của chư Bụt. Vào thế kỷ thứ 20 mà ở Thái Lan vẫn có vị vua tự gọi mình là Thánh Sư Bụt (Phra Phutticchao). Chính các nhà vua chinh phục của Mông Cổ cũng tin mình là Bồ tát. Genghis Khan(1), trong một bia đá khắc năm 1326 cũng được gọi là một vị Bồ tát nhất sinh bổ xứ, và Kublay Khan(2)cũng tự nhận mình là một Chuyển Luân Thánh Vương (Hutuku). Ở Việt Nam, vào đời Lý Trần, các vua đều có tu học, đều muốn noi theo con đường đức trị, và vua Trần Nhân Tông đã đi thật xa: thoái vị, xuất gia, và sử dụng cuộc đời còn lại của mình để dạy dân theo chính pháp. Chúa Nguyễn Phúc Chu cũng rất muốn là một vị vua như thế. Các vị vua , các nhà làm chính trị đến khi về già thế nào cũng có những thao thức, những mối quan tâm về sinh tử, cho nên sự xuất hiện của các kinh về đề tài trị nước theo chính pháp cũng là một trong những phương thức hoằng pháp giáo hóa quan trọng của truyền thống đạo Bụt.
Trong kinh Chuyển Luân Thánh Vương Tu Hành (Trường A Hàm 6, D 26) Bụt có đưa ra hình ảnh lý tưởng của một vị Chuyển Luân Thánh Vương (Universal monarch) như sau: “Vị vua ấy nương trên chánh pháp, trị nước hoàn toàn theo chánh pháp, cung kính, tôn trọng, học hỏi chánh pháp, lấy chánh pháp làm tiêu chuẩn, yểm trợ chánh pháp. Tu tập chánh pháp cho tự thân, vua dạy cho hoàng hậu, cung phi và các vương tử cùng thực tập theo. Vua lại khuyên các đại thần bách quan tu tập theo chánh pháp, và khuyên dân chúng nên thực tập theo chánh pháp. Vua thường tới lui thăm hỏi các vị sa môn và bà la môn để tham vấn và học hỏi. Nếu trong vương quốc có những vị sa môn đắc đạo, tu hành thanh tịnh, có tinh tiến, có nhẫn nhục, không kiêu mạn thì vua phải tới tham vấn về các vấn đề thiện và ác, tôn trọng và vi phạm, nên gần gũi ai, nên không gần gũi ai, nên làm gì, nên không làm gì, thực tập theo những pháp môn nào mà có được hạnh phúc lâu dài. Vua biết chu cấp cho cô nhi, quả phụ, tôn trọng luật pháp cổ truyền .v.v…”
Trong kinh Du Hành (Trường A Hàm 2, D16), vua cũng nói về những biện pháp khiến cho một nước dân chủ như Vajji có thể trở nên hùng mạnh mà không một nước nào có thể xâm chiếm được. Có bảy biện pháp như thế gọi là Bảy Pháp Bất Thối, trong đó có sự thực tập hội họp thường xuyên, đến với nhau trong đoàn kết, chia tay nhau trong tình huynh đệ, tôn trọng và sống theo luật pháp đã có sẵn, biết tôn trọng các bậc trưởng thượng, nghe theo lời dạy của họ, không bắt ép và lạm dụng nữ giới, siêng năng tới chùa viện để tu tập, tụng giới, và biết che chở cho các vị A la hán đang có mặt trong đất nước của mình.

(1) Genghis Khan (Thành Cát Tư Hãn, 1167-1227, tức là vua Nguyên Thái Tổ
(2) Kublay Khan (Hốt Tất Liệt, 1214-1294, tức là vua Nguyên Thế Tổ

_______________________

Các con của thầy ở xa,

Mùa Kết Đông năm nay, mỗi tuần thầy đi bộ từ thất Ngồi Yên ở Xóm Thượng xuống thất Da Cóc ở chùa Sơn Hạ ba lần vào các ngày thứ tư, thứ sáu và thứ bảy. Thầy khởi sự lúc 8.30 sáng. Có khi trời nắng, hoặc trời sương, đi qua con đường huyền thoại rất đẹp. Xuống tới thất Da Cóc thì thấy thầy Pháp Nguyện đã đốt sẵn một lò lửa rồi. Sau khi uống một chén trà, thầy đi viết thư pháp hay dịch kinh, trong khi hai thầy thị giả (Pháp Toại và Pháp Tại) ôn bài hay làm bài. Mười một giờ ba thầy trò bắt đầu leo đồi trở về Xóm Thượng. Vào lúc 12 giờ 30 thầy thọ trai cùng với đại chúng ở ngũ quán đường. Mỗi ngày thứ ba đều có ngày xuất sĩ tại nội viện Phương Khê.
Năm nay thiền sinh về trong hai tuần lễ Christmas (Giáng sinh) và New Year (Tết Tây) đông lắm, có khi đông như mùa Hè. Dân cư địa phương đã quen với mình, tới tham dự khá đông. Năm nay không có Đại Giới Đàn thành ra đại chúng có nhiều thì giờ để học kinh hơn. Ngày thứ hai là ngày Làm Biếng, thầy ở suốt ngày ở nội viện. Năm nay trời mưa khá, nên nước ở suối Phương Khê khá nhiều. Tháng năm này rừng tre sẽ cho nhiều măng lắm. Nhưng tới đầu tháng tư này Thầy đã đi Á châu rồi, không ở nhà để đi hái măng được. Tuần vừa qua, tuyết rơi khá nhiều. Các vị xuất sĩ trẻ chưa từng thấy tuyết đã được thầy mời lên Xóm Thượng đi chơi tuyết với thầy. Vui lắm.
Các con có nhớ bài “Lá thư gửi nhà khoa học trẻ” không? Bài ấy là để tóm tắt lại những bài pháp thoại trong suốt Khóa Tu Mùa Đông năm ngoái, đọc rất dễ hiểu, giúp ta nhớ lại hết những gì ta đã nghe qua. Những gì thầy viết trong lá thư này cũng thế, là để tóm tắt lại những bài pháp thoại nói trong mùa An Cư năm nay để các con ôn lại. Những kinh văn đã được in ra cho khóa tu, bằng Hán văn, Việt văn, Anh văn hay Pháp văn, xin các con hãy học hỏi và đối chiếu với những điều nhắc lại trong lá thơ này. Mùa An Cư Kết Đông cũng đã gần hết, chỉ còn vài tuần. Đại chúng đang thực tập soi sáng để chuẩn bị cho ngày tự tứ. Có thể sẽ có lễ truyền đăng cho một số các cây Hướng Dương vào dịp Tết này. Hẹn các con vào buổi Bình thơ Giao Thừa. Năm nay câu đối ăn Tết là “Con đã về rồi đó, con đã tới thật rồi”. Thầy chúc các con ăn một cái Tết ấm áp, bên Bếp Lửa Hồng của tình huynh đệ.

Thầy của các con
Phương Khê, hạ tuần tháng Giêng năm 2013.

 

Trăng sao là tâm thức – ta là trăng sao

Thiền sư Nhất Hạnh
Tóm lược những ý chính của Khóa tu Mùa Đông 2013 – 2014

Tải bài này về.PDF

Trăng sao là tâm thức - ta là trăng saoTừ Thức thân đến Tàng thức

Sự hình thành của nền văn học Abhidharma bắt đầu bằng công trình góp nhặt những danh từ Phật học và giải thích những danh từ ấy theo pháp số với mục đích là làm sáng tỏ nghĩa lý của những danh từ ấy, nghĩa lý đây là nghĩa lý của giáo pháp. Công việc này bắt đầu vào khoảng một trăm năm trước và sau Tây lịch. Tiếp theo đó là công trình hệ thống hóa giáo lý đạo Bụt mà kinh tạng chuyên chở. Giáo lý của Bụt nằm rải rác trong kinh tạng chứ chưa được hệ thống hóa. Những tác phẩm Abhidharma tới sau vài trăm năm đều có chủ đích hệ thống hóa giáo lý. Ta có thể nói Abhidharma là systematic dharma, Phật pháp hệ thống hóa. Khuynh hướng phân tích và giải nghĩa này rất mạnh, và các tác giả cứ nghĩ là càng phân tích thì càng làm cho cái hiểu về giáo lý ấy sâu sắc hơn. Hơn hai mươi bộ phái của Phật giáo, bộ phái nào cũng có những tác phẩm Abhidharma của mình. Còn giữ lại được nguyên vẹn là Abhidharma của hai bộ phái Sarvastivāda và Vibhājivàda (Hữu Bộ và Phân Biệt Thuyết Bộ). Hữu Bộ đóng đô ở Kashmir cả ngàn năm, còn Phân Biệt Thuyết Bộ truyền xuống Tích Lan và lấy tên Thượng Tọa Bộ trở lại, đó là bộ phái Theravada. Văn học Abhidharma của hai bộ phái này giàu có nhất là vào khoảng thế kỷ thứ năm Tây lịch.

Tác phẩm Đại Tỳ Bà Sa Luận (Mahavibhāsasastra) của Hữu Bộ là một tác phẩm vĩ đại phân tích và khai triển tới mức tối đa giáo lý của đạo Bụt, là một tác phẩm tập đại thành của giáo lý ấy. Truyền thuyết cho rằng vào thời đại vua Kanishka, Hiếp tôn giả (Pārsva) đã triệu tập 500 vị A La Hán làm việc chung tới mười hai năm mới hoàn thành được tác phẩm này. Ngoài công việc chú thích Phát Trí Luận và hệ thống hóa chủ trương của Hữu Bộ là “tam thế thật hữu, pháp thể hằng hữu”, Tỳ Bà Sa Luận cũng đã đem những chủ trương của các bộ phái khác ra phê bác, trong đó có những chủ trương của Đại Chúng Bộ, Pháp Tạng Bộ, Hóa Địa Bộ, Ẩm Quang Bộ, Độc Kể Bộ, Phân Biệt Thuyết Bộ… và phê  bác luôn các chủ trương bên ngoài Phật giáo như Số luận, Thắng luận, Thuận Thế luận và Kỳ Na giáo. Công việc này của Hữu Bộ đã ảnh hưởng tới đạo Bụt Đại thừa, và từ đó nền văn học Abhidharma của Đại thừa bắt đầu xuất hiện với các kinh luận có khuynh hướng pháp tướng học. Do đó nền Phật giáo Du Già đã ra đời, với những luận gia cự phách như Vô Trước và Thế Thân… Kinh Đại thừa A Tỳ Đạt Ma (Mahayanābhidharma sūtra) tuy bây giờ không còn nhưng đã được nhiều bộ luận của phái Du Già trích dẫn.

Đại Tỳ Bà Sa Luận phân tích và khai triển quá rộng lớn nên giới học giả cảm thấy choáng ngợp, vì vậy nên sau đó đã có những tác phẩm Abhidharma ngắn gọn ra đời vì nhu yếu của giới học giả trẻ. Câu Xá Luận (Abhidharmakōsasastra) của Thế Thân là một tác phẩm sáng giá nhất trong số những tác phẩm Abhidharma thu gọn đó. Nhưng khi biên tập Kōsa, Thế Thân đã chịu ảnh hưởng nhiều của Kinh Lượng Bộ, vì cũng đã bắt đầu bị ảnh hưởng Phật giáo Đại thừa. Người anh của thầy là Asanga (Vô Trước) đã sáng tác Nhiếp Đại Thừa Luận. Đây là một tác phẩm Abhidharma của Đại thừa, trong đó thức Alaya được nêu ra như căn bản và nguyên ủy của hiện hữu. Ngay trong chủ trương của Hữu bộ đã có thức thân, tương đương với Tàng thức. Từ ngữ thức thân đã có sẵn trong kinh (A Hàm, kinh 298) và đã được thầy Devaśarman (Đề Bà Thiết Ma) của học phái Hữu Bộ khai triển trong tác phẩm A Tỳ Đạt Ma Thức Thân Túc Luận (Abhidharmavijñanakāyapādasastra).

Trăng sao là Tâm Thức

Chức năng của Tàng là nắm giữ, nắm giữ tất cả những công năng (chủng tử, hạt giống) đã, đang và sẽ biểu hiện thành thế giới, vũ trụ, các chủng loại của sự sống (thân căn) và môi trường của những chủng loại ấy (khí thế gian). Biểu hiện để được nhận thức. Tàng là tâm thức, vì vậy đối tượng của Tàng là vũ trụ. Thế giới, mạng sống và môi trường sống cũng đều là tâm thức. Trăng sao là tâm thức. Ta cũng là trăng sao. Những gì mà ta nhận thức được qua giác quan và ý thức đều là Tàng. Nhận thức ấy có chính xác hay không, đó là vấn đề.

Đạo Bụt Đại thừa có nói tới ba loại duyên khởi: chân như duyên khởi, pháp giới duyên khởi và A lại gia duyên khởi.

Chân như duyên khởi là tất cả vạn hữu đều biểu hiện từ tự thân thực tại (chân như, tiếng Phạn là tathatā, suchness), cũng như tất cả các đám mây trên trời đều từ đại dương mà biểu hiện. Nhìn kỹ vào các đám mây ta thấy đại dương. Không có đại dương thì không có mây. Đây là liên hệ hiện tượng với bản thể.

Pháp giới duyên khởi là tất cả các hiện tượng nương vào nhau mà biểu hiện. Như mây, tuyết, mưa, băng, hơi nước, v.v.. đều nương vào nhau mà tiếp tục có mặt. Đây là liên hệ hiện tượng với hiện tượng. Có thể nói chân như duyên khởi là liên hệ chiều dọc, còn pháp giới duyên khởi là liên hệ chiều ngang. Pháp giới có nghĩa là lĩnh vực của các hiện hữu, nghĩa là các pháp.

A lại gia duyên khởi là tất cả mọi hiện tượng đều phát xuất từ Tàng thức. A lại gia duyên khởi cũng giống như chân như duyên khởi: đây cũng là liên hệ chiều dọc giữa hiện tượng và bản thể. Nhưng A lại gia duyên khởi có khác với chân như duyên khởi ở chỗ A lại gia được nghĩ tới như tâm thức và đối tượng của tâm thức. Trong ánh sáng của Duy Biểu học thì chân như (thực tại tối hậu) cũng là tâm thức mà không phải là một cái gì có mặt ngoài tâm thức. A lại gia cũng có thể được ví dụ cho đại dương, tổng thể của tất cả các công năng, hạt giống, làm biểu hiện ra tất cả các đám mây trên trời, đại diện cho tất cả năm uẩn, mười hai xứ và mười tám giới. Các pháp nương vào nhau mà biểu hiện, đó là pháp giới duyên khởi: các pháp đều được biểu hiện từ kho chủng tử của A lại gia, đó là A lại gia duyên khởi.

Chủng tử biểu hiện nên hiện hành. Hiện hành nghĩa là các hiện tượng đang lưu hành. Hiện hành chính là các hành (formations, samskāra), những hiện tượng do nhân duyên tập hợp mà biểu hiện, như núi sông, bông hoa, cây bưởi, v.v.. Vì do duyên khởi mà biểu hiện, các hành không có tự tánh (svabhava) riêng biệt, không thực sự là có mà cũng không phải là không, cho nên bản chất các hành là không có cũng không không. Những hiện tượng như ngã pháp vì không có thực thể cho nên được gọi là những giả thiết (upācara), những biểu tượng, những ước lệ (conventional designations). Bản chất của chúng là trống rỗng, là không (sunyāta). Ý này đã được thầy Thế Thân nói ra ngay trong bài tụng đầu của Ba Mươi Bài Tụng Duy Biểu. Tuy không có thực thể, tuy là không, nhưng các hành ấy rất mầu nhiệm, kể từ mây bạc trăng vàng cho đến năm uẩn, tất cả đều là những biểu hiện của pháp thân, không diệt không sinh, không nhiễm không tịnh. Chỉ có Mạt na và Ý thức vì còn là hữu phú cho nên mới thấy chúng là những cái ngã và những cái pháp có tự tính riêng biệt mà thôi.

Đối tượng của Tàng là chân như

Đối tượng của Tàng là Tánh Cảnh, nghĩa là bản thân của thực tại. Như vậy Tánh Cảnh đã là chân như. Duyên được chân như thì Tàng không thể là vọng thức được, vì vậy Tàng được gọi là vô phú (không bị che lấp – bởi tri giác sai lầm). Cũng vì lý do này mà Tàng không cần được chuyển hóa. Nói rằng ai đạt tới quả A la hán thì không còn Tàng nữa là không đúng. “A la hán vị xả” chỉ nên có nghĩa là vị A la hán thấy được Tàng là Tàng thực sự, và không còn thấy Tàng là một cái ngã hay những cái thuộc về ngã. Sự chuyển hóa ở đây không phải là sự chuyển hóa của Tàng mà là sự chuyển hóa của các chuyển thức, là Mạt na, Ý thức và Năm thức cảm giác. Tàng nhờ có chân hiện lượng nên duyên trực tiếp được Tánh Cảnh, và vì vậy Tàng luôn luôn tương ưng với tâm sở Tuệ. Tàng duy trì kinh nghiệm, đối tượng của Tàng cũng là ký ức, là kho nhớ, có khả năng bảo trì và truy cập tư liệu ở kho nhớ, cho nên Tàng luôn luôn tương ưng với tâm sở Niệm. Tàng là mảnh đất nơi đó được chôn vùi các công án thiền và có thể hiến tặng hoa trái của đốn ngộ, cho nên Tàng cũng tương ưng với tâm sở Định. Tàng không rơi vào tình trạng tán loạn như Ý thức cho nên luôn có Định. Theo Thượng Tọa Bộ, trong các tâm hành biến hành có cả Định và Mạng Căn.

Tàng là dị thục, là khả năng duy trì sự sống, bảo đảm sự tiếp nối của dòng sinh mạng, cho nên Tàng cũng luôn luôn tương ưng với tâm sở Mạng Căn, bởi vì Mạng Căn là sức sống, là động cơ của kết sinh tương tục.

Thành Duy Thức (cuốn III) nói rằng Tàng có hai địa vị: hữu lậu và vô lậu. Ở địa vị hữu lậu thì tánh vô ký và chỉ tương ứng với năm tâm sở biến hành, còn chức năng chỉ là nắm giữ chủng tử, căn thân và khí thế gian. Ở địa vị vô lậu, Tàng bỏ tánh vô ký, trở nên Thiện, do đó ngoài 5 tâm sở biến hành thì Tàng còn tương ưng với 11 tâm sở Thiện, và chức năng là lấy tất cả các pháp làm cảnh sở duyên. Nói như thế là không đúng. Tàng trong hiện tại đã duyên được với Tánh Cảnh, với chân như rồi, với tất cả các pháp rồi, vì nó là nơi sở y của tất cả các pháp (nhất thiết pháp đẳng y). Là vô phú, nó đã là tuệ giác viên cảnh có công năng chiếu soi rồi. Nó vô ký là đã vượt thoát những ý niệm thiện ác, nhiễm tịnh, có không, còn mất, hữu lậu và vô lậu rồi. Bây giờ kéo nó xuống, liệt nó vào phạm trù thiện để đối lập với ác, liệt nó vào phạm trù vô lậu để đối lập với hữu lậu, tức là mình đã đánh mất cái tuệ giác vô phú vô ký về Tàng. Đó là một bước thụt lùi chứ không phải là một bước tiến. Trăng sao mầu nhiệm như thế, không thiện cũng không ác, không nhiễm cũng không tịnh, không hữu lậu cũng không vô lậu, bây giờ mình bắt trăng sao đứng vào hàng ngũ của những cái thiện, những cái tịnh, những cái vô lậu, thì há chẳng tội nghiệp cho trăng sao lắm không?

Có lần Tuệ Trung Thượng Sĩ được hỏi “Pháp thân thanh tịnh là gì?”, ông đã nói: “Vào ra vũng nước trâu / nghiền ngẫm đống phân ngựa”. Đã là pháp thân rồi thì không thể nói là tịnh hay là nhiễm được. Tàng là vô ký, Tàng không mang các danh hiệu hữu lậu và vô lậu nữa. Những danh hiệu ấy đều là những tạo tác của Ý thức.

Các pháp đều siêu việt có không

Trong kinh Ca Chiên Diên (Tạp A hàm, 301), Bụt nói với thầy Ca Chiên Diên (Kātyāyana) rằng cái thấy chính xác (chánh kiến) vượt thoát hai ý niệm có và không. Đối tượng của Tàng là Tánh Cảnh. Tánh Cảnh là thực tại tối hậu. Vậy thực tại này không thể được nhận thức qua hai khái niệm có và không, thiện và ác, nhiễm và tịnh. Đây cũng là cái thấy của Tâm Kinh Bát Nhã. Do đó những chủng tử mà Tàng duy trì cũng cùng một bản chất với Tàng, không thiện không ác (vô ký), không nhiễm không tịnh, không một cũng không nhiều, không sinh không diệt, không chung cũng không riêng. Những đặc tính của các chủng tử vì vậy có thể được liệt kê như sau:

1. Sát na vô thường (thay vì sát na diệt)

2. Quả câu hữu (quả đi sát liền với nhân, không thể lấy nhân ra khỏi quả)

3. Hằng tùy chuyển (tuy sát na vô thường và vô ngã nhưng vẫn có sự tương tục)

4. Tánh vô ký (thay vì tánh quyết định)

5. Đãi chúng duyên (dựa vào nhau để biểu hiện)

6. Không có không không

7. Không trong không ngoài

8. Không cũ không mới

9. Không nhiễm không tịnh

10. Không một không khác

11. Không tới không đi

12. Không chung không riêng

Tính cách dẫn tự quả của Duy Biểu cổ điển không được chấp nhận ở đây vì nó chỉ có giá trị ước lệ (conventional). Trong ánh sáng duyên sinh, di truyền học và tánh vô ký (tánh vô ký cũng là tánh hữu cơ) thiện, ác, nhiễm, tịnh đều là hữu cơ.

Quả câu hữu là một trong những đặc tính của các chủng tử. Đám mây tuy là đám mây nhưng vẫn là hơi nước từ đại dương bốc lên. Trong đám mây có đại dương, trong quả có nhân, và trong nhân đã có sẵn quả. Mỗi hiện lượng trong uẩn, xứ và giới đều mang theo chân như, cũng như mọi đám mây đều mang theo đại dương.

Trong số sáu đặc tính của chủng tử mà luận Thành Duy Thức nói tới, có hai đặc tính cần phải xét lại: đó là tính quyết địnhdẫn tự quả, vì những đặc tính này chỉ có được trên bình diện thế tục đế.

Các đặc tính sát na diệt, quả câu hữu, hằng tùy chuyển và đãi chúng duyên là những đặc tính cần giữ lại bởi vì chúng rất phù hợp với giáo lý căn bản của đạo Bụt. Sát na diệt là vô thường. Đã là vô thường thì phải vô ngã. Các pháp tuy là vô thường, sát na diệt, và vô ngã, nhưng chúng không phải là những hiện tượng rời rạc không nối tiếp nhau, cũng như những hạt hạ nguyên tử luôn luôn kết hợp với nhau để tạo thành những dòng hiện tượng. Do đó hằng tùy chuyển là một đặc tính quan trọng. Hằng tùy chuyển có nghĩa là tuy không phải là những cái ngã tách rời nhau, nhưng các hiện tượng có khả năng tiếp tục nhau như một dòng chảy (continue as a series).

Dòng chảy này được gọi là dòng tương tục (samtati). Dòng chảy có thể cho ta cái cảm giác là có một cái gì thường tại, bất biến, một cái ngã, nhưng nếu nhìn sâu thì tất cả đều sát na diệt, vô thường và vô ngã. Quả câu hữu, như ta đã biết, cho ta thấy sự thống nhất giữa nhân và quả, nhân và quả không thể được tách rời nhau mà có mặt, đó cũng là một đặc tính rất căn bản của chủng tử. Đãi chúng duyên cũng là một đặc tính thiết yếu khác của chủng tử. Các chủng tử cần có đủ điều kiện mới có thể biểu hiện để được nhận thức như những hiện hành, trong những điều kiện ấy có tăng thượng duyên và đẳng vô gián duyên.

Chủng tử trong Tàng cũng vô ký như Tàng

Tánh quyết định là một trong hai đặc tính cần phải xét lại. Bản chất của các chủng tử của A lại gia, theo nguyên tắc, cũng vô ký như A lại gia mới được, nghĩa là không thiện cũng không ác. Vậy tự tính của các chủng tử phải vượt ra khỏi vòng thiện ác, nghĩa là phải vô ký. Đối tượng của Tàng đã là chân như, là Tánh Cảnh, thì bản chất của Tàng không thiện cũng không ác, không nhiễm cũng không tịnh.

Thành Duy Thức Luận của thầy Huyền Trang định nghĩa vô ký như sau: Chữ ký (vyākrta) có nghĩa là tính chất được quyết định là thiện hay là ác. Thiện ác được nhận thức trên căn bản nó tạo ra cái khổ hay cái vui, cái dễ chịu hay cái khó chịu: các pháp có thể được phân biệt. Vì Tàng không phải thiện hoặc ác cho nên nó được gọi là vô ký.

Luận Đại Tỳ Bà Sa có nói tới năm loại tương tục: trung hữu tương tục, sinh hữu tương tục, thời phần tương tục, pháp tính tương tục và sát na tương tục. Pháp tính tương tục được định nghĩa là cái thiện có thể do điều kiện chi phối mà trở thành cái ác hay cái vô ký, cái vô ký do điều kiện nên có thể trở thành  cái ác hay cái thiện, cái ác do điều kiện mà có thể trở thành cái vô ký hay cái thiện. Theo định nghĩa này thì tánh, cũng như bất cứ pháp nào khác, là vô thường, là có thể biến dị, cho nên không thể nói tính chất của chủng tử là tánh quyết định được. Còn tàng thì được định nghĩa là vô ký. Do nó vô ký cho nên các chủng tử cũng đều vô ký. Những khái niệm nhiễm tịnh, thiện ác, hữu vô là những ý niệm của Ý thức, trong khi tự tính của Tàng là siêu việt mọi ý niệm nói trên. Ý thức đóng vai người gieo trồng (huân tập). Những hạt giống nào (như lúa gạo) cần thiết cho sự sống thì Ý thức chuyên gieo trồng. Và những hạt giống ấy được gọi là thiện. Còn những hạt giống nào (như cỏ dại) không cần thiết cho sự sống thì Ý thức không gieo trồng, và những hạt giống ấy được gọi là ác. Đây cũng là định nghĩa của thiện và ác trong Thành Duy Thức Luận khi nói về vô ký (quyển 3). Đặc tính thứ ba của chủng tử thay vì là tánh quyết định phải là tánh vô ký.Và vì vô ký cho nên chúng có tính hữu cơ, có thể trở nên, trên bình diện thế tục đế, thiện hay ác.

Đã thế, bản chất của Tàng lại không sinh, không diệt, không có, không không, không thêm không bớt, không tới không đi, không một và không khác. Những ý niệm đối lập này chỉ có nơi các chuyển thức mà không có nơi Tàng. Nói tự tính các chủng tử là sát na diệt chẳng có nghĩa là các chủng tử có sinh và có diệt. Các chủng tử là vô thường, là hằng tùy chuyển nhưng không thực sự có sinh và có diệt. Cũng như nguyên tắc đầu của nhiệt động học là nguyên tắc bảo tồn năng lượng cho ta biết là bản tính của vật chất và năng lượng (matter + energy) là không sinh không diệt, không thêm không bớt. Ba chữ sát na diệt cần được hiểu là các chủng tử có tính cách sát na vô thường và do đó cũng có tính cách nhất kỳ vô thường. Nhất kỳ vô thường chính là hằng tùy chuyển (tương tục) vậy.

Tàng tương ứng với các tâm sở biệt cảnh

Nếu Tàng trực tiếp nhận thức được Tánh Cảnh, nếu đối tượng của Tàng đã là Chân như và Pháp giới tính thì chắc chắn Tàng cũng tương ứng với tâm sở Tuệ của năm tâm sở biệt cảnh. Nếu đã tương ưng với Tuệ thì Tàng cũng tương ứng với Niệm và Định, vì chính Niệm, Định đưa tới Tuệ. Bên Thượng Tọa Bộ, trong các tâm sở biến hành có thêm nhất tâm (định) và Mạng Căn (jivitā). Vậy ta có thể nói rằng ngoài xúc, tác ý, thọ, tưởng và tư, Tàng còn làm việc với dục, thắng giải, niệm, định, tuệ, và Mạng Căn. Mạng Căn (vitality) không phải là một pháp bất tương ưng với tâm như trong danh sách 100 pháp của Pháp Tướng Tông. Nó là sức sống, là động lực của ý chí muốn sống. Tàng có nhiệm vụ duy trì sự sống trong căn thân, nghĩa là cơ thể, và cả trong khí thế gian, nghĩa là môi trường sinh hoạt của căn thân, tức là hoàn cảnh, là thiên nhiên… Ý thức có khi gián đoạn, không làm việc, ấy vậy mà sự sống vẫn được duy trì nơi cơ thể. Đó là một trong những chức năng của Tàng. Tàng duy trì sự sống và làm nền tảng cho sự phát hiện trở lại của ý thức. Với hệ thần kinh tự trị, giao cảm và phó giao cảm, Tàng làm ổn định được tình trạng thăng bằng trong cơ thể để cơ thể có thể thích ứng luôn luôn được với hoàn cảnh. Đó là chức năng hằng định nội môi (homeostasis) mà sinh học nói đến. Điều hòa hơi thở, điều hòa nhịp tim và sự tuần hoàn của máu, điều hòa bộ máy tiêu hóa, tiết mồ hôi, tăng nhiệt độ v.v.. đều là những hoạt động vô thức, tất cả những hoạt động ấy đều được yểm trợ bởi tâm sở Mạng Căn, tức là ý chí muốn sống. Đói thì muốn ăn, khát thì muốn uống, bản năng sinh tồn và tiếp nối chủng loại, tất cả đều có liên hệ tới tâm sở Mạng Căn. Tất cả những tâm sở ấy, đều vô phú và vô ký như Tàng, không thể nói chúng là thiện hay là ác, nhiễm hay là tịnh. Thiện ác nhiễm tịnh là những phân biệt của các chuyển thức, chứ không phải là mối quan tâm của Tàng.

Dị thục từng phút giây

Bài tụng thứ 19 của Tam Thập Tụng nói rằng khi dị thục trước đã hết thì những dị thục sau được sinh. Điều này có thể gây hiểu lầm và khiến người ta nghĩ rằng Tàng (dị thục) là một cái Ngã, có khả năng duy trì tính đồng nhất của mình trong suốt một kiếp sống. Nếu Tàng hằng chuyển như một dòng sông, nếu các chủng tử là sát na vô thường thì dị thục cũng thế. Có hai thứ vô thường: sát na vô thườngnhất kỳ vô thường. Nhất kỳ đây không nhất thiết phải là một kiếp sống. Khi em bé tới tuổi dậy thì, nó đã là một dị thục mới. So sánh một thiếu niên vị thành niên vào tuổi dậy thì với hình ảnh nó mười năm về trước ta thấy rất khác. Em bé ngày xưa có vẻ như đã chết để cho vị thiếu niên này sinh ra. Vì vậy dị thục có thể xảy ra nhiều lần trong một kiếp sống. Thanh niên khác với thiếu niên, trung niên khác với thanh niên, lão niên khác với trung niên. Nhìn cho kỹ ta có thể thấy dị thục xảy ra trong mỗi phút giây. Có những trái trên cây đã chín, nhưng có những trái còn xanh, và có những trái mới tượng hình. Đám mây có thể chỉ trở thành mưa một phần mười, còn chín phần mười vẫn còn giữ hình thái mây. Dị thục này chưa hết mà đã có dị thục khác sinh ra rồi. Đám mây có thể nhìn xuống và thấy sự tiếp nối của mình dưới hình thức một con suối, một tảng băng hay một trận mưa tuyết. Trong kinh Tứ Thập Nhị Chương Bụt có nói mạng người không phải là một trăm năm mà là một hơi thở. Đó là sát na vô thường, sát na dị thục. Cho nên ở trong Năm Mươi Bài Tụng Duy Biểu đã có câu “Dị thục tùng phút giây” (bài tụng thứ 35).

Tình Thức

Nếu Tàng là Căn Bản Thức, là Nhất Thiết Chủng Thức, là nền tảng của tất cả vạn pháp, ôm lấy mọi hạt giống, mọi biểu hiện từ căn thân đến vũ trụ, thì Mạt na là Tư Lượng Thức, ngày đêm âm thầm nắm lấy một phần của Tàng cho đó là chính mình, cho đó là một cái ngã. Ta có thể gọi Mạt na là Tình Thức, để phân biệt với Bản Thức tức là Tàng Thức. Đó là những danh từ do thầy Huyền Trang sử dụng trong tác phẩm Bát Thức Quy Củ Tụng. Tình Thức trước hết là ý chí muốn sống, là bản năng tự tồn. Hạt giống này đã có sẵn nơi Tàng: đó là Mạng Căn, là ý chí duy trì sự sống, là ước muốn được tiếp tục như một dòng chảy. Tàng cũng là một dòng chảy. Thân Kiến là cái thấy của Tình Thức. Thân kiến, satkāyadŗsti, nghĩa là cái nhận thức cho rằng hình hài này là tôi, là của tôi. Hình hài này, cùng với bốn uẩn khác là thọ, tưởng, hành và thức là một phần của Tàng, là một phần của tướng phần (sở duyên) của Tàng. Tuy hình thái nhận thức của Tình Thức (từ đây ta có thể gọi tắt là Tình) cũng là hiện lượng, nhưng đây không phải là chân hiện lượng, mà là tợ hiện lượng, nghĩa là một trực giác sai lầm. Nơi tướng phần của Tàng, năm uẩn là những mầu nhiệm của sự sống, là một phần của pháp thân, nhưng dưới nhận thức của Tình nó là một cái ngã, một cái sở hữu của ngã. Mạt na, dịch tiếng Anh là mentation hay cogitation, cũng có nghĩa là tư lương. Cái thấy của Tình bị che lấp, vì Tình không với tới được bản thân thực tại (Tánh Cảnh, hoặc tự tướng Svalakśana) mà chỉ tạo dựng ra một đối tượng cho chính mình, không phải là bản thân thực tại, mà là một hình ảnh sai lầm về thực tại, tuy có dựa vào thực tại. Đối tượng ấy là Đới Chất Cảnh, không phải Tánh Cảnh. Đới Chất nghĩa là có mang theo một ít bản chất của thực tại mà không hẳn chính là bản thân của thực tại. Đó là một tạo tác của tâm ý (mental construction). Năm uẩn mà Tình nắm lấy cho là Ngã không phải là tự thân năm uẩn mà là một hình ảnh năm uẩn được tạo tác ra do nhận thức chủ quan sai lầm (tợ hiện lượng – một thứ phi lượng). Phi lượng là nhận thức sai lầm. Cho nên Tình là hữu phú (bị che lấp) mà không phải là vô phú như Tàng. Tư lương (tư duy, nhận thức) của Tình là: cái này là ta, cái kia không phải là ta, ta phải lo cho ta trước đã, ta phải bảo hộ cho ta trước đã. Trên căn bản nhận thức đó, Tình có thể đi rất xa trên con đường hữu phú: chỉ có khuynh hướng đi tìm lạc thú mà không biết được những hiểm nguy do lạc thú đem lại, chỉ biết trốn chạy khổ đau mà không biết rằng khổ đau có công năng giúp mình nhận diện được hạnh phúc và chế tác được năng lượng hiểu và thương vốn là nền tảng của hạnh phúc đích thực. Tình cũng không thấy được cái nguy hại của sự hưởng thụ không có chừng mực, trong khi Tàng và Ý thức thấy được cái sự thực ấy.

Ham sống sợ chết, đó là tính của Mạt na, và đây cũng là một khuynh hướng bẩm sinh (câu sinh), có cơ sở nơi Tàng, bởi vì Tàng có chức năng duy trì sự sống và hoạt động thường xuyên với tâm sở Mạng Căn. Tham sống sợ chết là Mạt na mà ý muốn đi tự tử cũng là Mạt na, bởi vì Mạt na cũng có khuynh hướng chạy trốn khổ đau. Khi khổ đau tràn ngập thì năng lượng trốn chạy khổ đau sẽ mạnh hơn cả năng lượng ham sống sợ chết. Nhưng ở trong Tàng cũng có cơ sở cho một loại tuệ giác gọi là Vô sinh, có khả năng thấy được tính không sinh không diệt, không tới không đi, không có không không của vạn pháp. Nếu tu tập quán chiếu cho thấu đáo, Ý thức có thể đạt được cái thấy này và lấy bớt đi cái sợ hãi và cái lo lắng của Mạt na. Chính cái lo lắng sợ hãi ấy, cái khuynh hướng ham sống sợ chết ấy là chất bùn có thể được sử dụng để nuôi lớn đóa sen tuệ giác Vô sinh. Mạt na và tuệ giác Vô sinh là một cặp tương đãi đi đôi với nhau, dựa vào nhau mà biểu hiện, như trên và dưới, trái và phải, trong và ngoài. Có Mạt na là đã có Vô sinh trí, dù trí này chưa biểu hiện toàn vẹn.

Tướng phần của Tình Thức

Các vị luận sư Duy Biểu không đồng ý với nhau về đối tượng của Tình. Thầy Nan Đà (Nanda) cho rằng sở duyên của Tình là tự chứng phần của Tàng. Ông nói tự chứng phần hoặc tự thể phần (svabhāvabhāga) của Tàng là đối tượng của Mạt na, là ngã, trong khi các tâm sở tương ưng với Tàng là ngã sở. Thầy Hỏa Biện (Citrabhānu) thì nói Mạt na lấy kiến phần của Tàng làm ngã, và lấy tướng phần của Tàng làm ngã sở. Thầy An Huệ (Sthiramati) thì nói Mạt na lấy Tàng làm ngã và tất cả các chủng tử là ngã sở. Thầy Hộ Pháp (Dharmapāla) thì cho rằng Mạt na nắm lấy kiến phần của Tàng làm đối tượng – làm ngã.

Thực ra, đơn giản và cụ thể mà nói, đối tượng của Mạt na, của Tình, là căn thân này, là hình hài này và tất cả những vốn liếng kinh nghiệm, trí thức, tình cảm, bằng cấp, danh lợi, trình độ, quyền lợi , nhà cửa, ruộng vườn, vợ con v.v.. Tất cả những cái ấy là đối tượng của Tình. Tình chính là Ngã, và tất cả những cái nói trên là Ngã sở. Ngã là chủ thể nhận thức sai lầm về ngã, và ngã sở là những đối tượng của nhận thức ấy.

Ở Tàng, những nhu yếu như ăn khi đói, uống khi khát, ngủ khi mệt, toát mồ hôi, đi tiểu, xuất tinh khi có thặng dư, v.v.. đều là những cái gì tự nhiên, không nhiễm không tịnh, không thiện cũng không ác. Nhưng ở Tình, khuynh hướng tìm cầu dục lạc và chạy trốn khổ đau sẽ làm phát sinh các ý niệm thiện ác và nhiễm tịnh của ý thức sau này. Nguyên do căn bản là Tình bị che lấp bởi cái ngã kiến ấy. Ngoài ngã kiến, Tình còn bị các tâm hành ngã si, ngã mạn và ngã ái chi phối. Ngã mạn gồm có những mặc cảm hơn người, thua người và bằng người, cả ba đều dựa vào ngã kiến, có thể tạo ra nhiều khổ đau và bức xúc.

Tuy bị ngăn che (hữu phú) nhưng Mạt na cũng vô ký như Tàng, bởi vì bản năng tự tồn và tự bảo hộ cũng là một cái gì rất tự nhiên trong sự sống. Cũng vì Mạt na vô ký nên nó cũng có tính hữu cơ: phiền não của Mạt na có thể chuyển thành bồ đề, bùn có thể được sử dụng để nuôi sen. Nếu bản tính của Mạt na là quyết định (determinate), nghĩa là là thiện hay là ác thì Mạt na không đóng được vai trò của nó.

Có bùn mới có sen

Học Duy Biểu ta hãy tập tránh sử dụng những danh từ như nội tâm, ngoại cảnh, tâm duyên tâm, tâm duyên sắc, phải làm quen với ý niệm không trong cũng không ngoài, và làm quen với ý niệm chủ thể và đối tượng không thể có mặt ngoài nhau. Cho nên những câu như “chân đới chất, tâm duyên tâm” và “tợ đới chất, tâm duyên sắc” trong Duy Thức Tam Tự Kinh của Đường Đại Viên có thể đưa tới hiểu lầm là có cái trong và cái ngoài độc lập, có cái chủ thể và đối tượng độc lập với nhau. Cảnh của Tình Thức tức là sở duyên của nó, tuy gọi là năm thủ uẩn nhưng cũng là tướng phần của Tàng, nghĩa là của Tâm. Tình Thức chủ yếu là vô thức, âm thầm nắm giữ đối tượng mà mình vướng mắc. Trong phân tâm học của Freud, có ý niệm về “cái đó” (tiếng Đức Es, tiếng Pháp le Ca, tiếng Anh the Id) mà chức năng rất gần với Tình Thức: tìm lạc thú, tránh khổ đau, bất chấp những quy tắc chừng mực, những công ước đạo đức luân lý. Nối tiếp với Cái Đó là cái Ngã (tiếng Đức Ich, tiếng Pháp le Moi, tiếng Anh the Ego) có tác dụng ức chế, ngăn ngừa không cho Cái Đó hành xử trái với những quy tắc và những quy ước kia. Nhưng nếu có cơ hội thì cái Ngã cũng cho phép Cái Đó thỏa mãn sự tìm cầu của nó. Cái Ngã này tương đương với ý thức. Khi ý thức bị một hình ảnh hay một ý nghĩ kích thích, thì ý thức với Cái Đó là một. Nhưng khi ý thức tỉnh ra, biết là không thể làm cái không được làm, thì ý thức lại biết ức chế Cái Đó, không cho làm. Và nếu chỉ biết ức chế mà không biết soi sáng và thăng hoa thì sẽ đưa tới những đè nén vô thức, những gì bị đè nén lâu ngày có thể vùng dậy không kiểm soát được, trong đó có sự thèm khát hoặc niềm uất hận. Cái Ngã, nghĩa là ý thức, biết được những gì đang xảy ra trong hoàn cảnh cho nên có thể kích thích, cho phép hoặc ức chế. Do đó cái Ngã của Phân tâm học có lúc được đồng nhất với Cái Đó, nhất là dưới bình diện vô thức, có lúc trở thành cái chống đối với Cái Đó. Và trên cái Ngã còn có cái Siêu Ngã (tiếng Đức Über Ich, tiếng Pháp le Sur-moi, tiếng Anh the Super-Ego) có khuynh hướng vươn lên sự thăng hoa, tìm lạc thú nơi văn học, nghệ thuật, đạo đức, lý tưởng v.v.. Như vậy Cái Đó ở phần vô thức được tiếp nối bằng cái Ngã và cái Siêu Ngã ở phần ý thức. Trong truyền thống đạo Bụt, ý thức không những ngăn ngừa được Tình Thức mà còn tìm cách soi sáng cho Tình Thức, chứ không phải chỉ làm công việc ức chế. Nếu ý thức biết quán chiếu duyên khởi và tương tức, thấy được tình thế gian với khí thế gian có liên hệ duyên khởi mật thiết thì ý thức đạt được cái thấy vô ngã và chuyển hóa được những năng lượng tình dục và vướng mắc của Tình Thức thành những năng lượng lành như bồ đề tâm, hạnh nguyện, từ bi, tuệ giác tương tức và vô ngã, những đặc tính của Bình Đẳng Tánh Trí và Diệu Quan Sát Trí. Mạt na, Ý thức, Bình Đẳng Tánh Trí và Diệu Quan Sát Trí không phải là những tâm thức rời nhau mà có, trái lại tất cả đều nương vào nhautiếp tục cho nhau, cũng như rễ sen tiếp tục cho bùn, cọng sen tiếp tục cho rễ sen, và hoa sen tiếp tục cho cọng sen, không có cái này thì không có cái kia. Có bùn mới có sen, và có sen tức là đang có bùn. Đó là tuệ giác tương tức, hay tương đãi. Tương đãi (anyam-anya) nghĩa là nương vào nhau mà biểu hiện, như trên và dưới, như trong và ngoài, ngắn và dài, nhiễm và tịnh, hễ cái này có thì cái kia có. Đó là chân lý “thử hữu tắc bỉ hữu” được nhắc lại nhiều lần trong các kinh A-hàm.

Đừng vi phạm luật câu hữu y

Thầy Huyền Trang có trao lại cho thầy Khuy Cơ một bài kệ ngắn nói về bản chất của ba cảnh, nghĩa là ba thứ sở duyên của Thức: Tánh cảnh, Đới chất cảnh và Độc ảnh cảnh. Bài kệ như sau:

Tánh cảnh bất tùy tâm
Độc ảnh duy tùng kiến
Đới chất thông tình bản
Tánh chủng đẳng tùy ưng

(Tánh Cảnh không tùy thuộc vào chủ thể nhận thức, độc ảnh cảnh là sáng tạo của kiến phần (chủ thể nhận thức), đới chất cảnh là sáng tạo phẩm chung của Tình Thức và Bản Thức, những vấn đề còn lại như thiện ác, chủng tử cũng ứng hợp theo đó).

Tánh cảnh bất tùy tâm nghĩa là thực tại trong bản thân của nó là một thứ đối tượng nhận thức không thể bị ảnh hưởng và biến đổi theo chủ thể nhận thức. Điều này nghe như có vẻ đúng nhưng có thể đưa lại những hiểu lầm rất lớn. Trước hết người ta có thể hiểu rằng Tánh Cảnh là một cái gì độc lập ngoài tâm, luôn luôn có mặt đó dù chủ thể nhận thức có mặt hay không. Điều này vi phạm luật tương đãi, bởi vì đối tượng nhận thức dù là Tánh Cảnh cũng phải biểu hiện cùng lúc với chủ thể nhận thức. Đó cũng là nguyên tắc của câu hữu y (sahabhutāsraya). Đã đành Tánh Cảnh có chủng tử y (bijāsraya) của nó, nhưng nó cũng cần câu hữu y mới biểu hiện được. Từ đó xét ra, ta thấy rằng Tánh Cảnh chỉ có thể là Tánh Cảnh khi chủ thể nhận thức (kiến phần) là chân tâm chứ không phải vọng tâm. Chỉ có chân tâm (chân hiện lượng) mới duyên được Tánh Cảnh. Còn nếu đó là vọng tâm (tợ hiện lượng hay tợ tỷ lượng) thì không thể nào Tánh Cảnh (chân như) biểu hiện được. Vì vậy nói Tánh cảnh bất tùy tâm là chưa chính xác.

Câu thứ hai: độc ảnh duy tùng kiến có nghĩa là độc ảnh cảnh không thể tự mình có mặt mà chỉ là một tạo tác của kiến phần tức là chủ thể nhận thức. Điều này cũng vi phạm luật tương đãi. Người ta có thể nghĩ rằng chủ thể nhận thức (kiến phần) có mặt trước, rồi tự tạo tác ra những hình bóng nào đó làm đối tượng (tướng, ở đây là độc ảnh cảnh) cho chính mình. Nhưng ta biết rằng các hình ảnh này, dù là ảnh hữu chất hay độc ảnh vô chất, đều là những gì đã có mặt trong kho nhớ, dưới dạng chủng tử. Có một kích thích nào đó, một xung động thần kinh nào đó có thể truy cập được những bóng hình ấy từ kho nhớ để chúng có thể biểu hiện trở lại. Vậy độc ảnh cảnh cũng có chủng tử y của chúng như bất cứ đối tượng sở duyên nào. Và cố nhiên từ chủng tử biểu hiện (chủng tử y) chúng cũng cần nương vào kiến phần để đóng vai trò tướng phần (sở duyên) của nó. Đó là câu hữu y. Cho nên nói “độc ảnh duy tùng kiến” cũng không đúng. Dù cho đó là những hình ảnh tưởng tượng như lông rùa, sừng thỏ, ông già Noël v.v.., nhưng chúng không phải là những sáng tạo phẩm từ không mà trở thành có: hình ảnh một con voi có cánh đang bay trên trời tuy gọi là sáng tạo phẩm của trí tưởng tượng, nhưng hình ảnh đó cũng có bản chất: hình ảnh con voi là hình ảnh có thật, và hình ảnh hai cánh của con voi cũng đã lấy ra từ hình ảnh có thật của một con chim. Độc ảnh vô chất cũng được làm bằng những mảnh có sẵn của độc ảnh hữu chất. Các hình ảnh lông rùa, sừng thỏ tuy là tạo tác của tâm thức nhưng chúng cũng được chắp nối từ những hình ảnh có thật như những cái sừng nai chắp vào đầu của một con thỏ. Nói tướng phần (đối tượng) cùng có chung một chủng tử với kiến phần (chủ thể) cũng không được, bởi vì như thế cũng lại trái với tính cách chủng tử y của vạn pháp. Các hình ảnh độc ảnh kia cũng có chủng tử của chúng, và chủng tử ấy cũng được Tàng duy trì trong bộ nhớ.

Câu thứ ba của bài kệ (đới chất thông tình bản) có nghĩa là đối tượng của Mạt na là một tướng phần được phối hợp từ Bản Thức và Tình Thức. Bản là Tàng, và Tình là Mạt na. Đới chất cảnh không phải là bản thân thực tại mà là một hình ảnh phóng chiếu (projected) từ thực tại. Quan niệm về chân đới chất và tợ đới chất cũng cần phải xét lại. Theo cái thấy của Duy Biểu Luận Lý Học, khi tâm duyên tâm, nghĩa là khi Mạt na duyên Tàng thức, thì đối tượng của nó là đới chất cảnh, và đới chất cảnh này mới đích thực là đới chất cảnh; còn khi Ý thức và sáu thức giác quan duyên thế giới vật chất bên ngoài, tuy đối tượng cũng là đới chất cảnh nhưng đây không phải là chân đới chất mà là tợ đới chất. Nương vào bài kệ của thầy Huyền Trang, Đường Đại Viên đã viết trong Duy Thức Tam Tự Kinh: “Tợ đới chất, tâm duyên sắc, tướng tùng kiến, nhất đầu đắc” nghĩa là: khi tâm duyên sắc thì đối tượng chỉ là tợ đới chất mà không phải là chân đới chất, bởi vì tướng phần hoàn toàn tùy thuộc vào kiến phần, và cái đối tượng nhận thức có ra là nhờ ở cái chủ thể nhận thức. Nói như vậy cũng là vi phạm lý tương đãi, và không công nhận luật câu sinh y. Lý do là sự phân biệt giữa tâm và sắc: tâm có ngoài sắc và sắc có ngoài tâm. Đây là cái nhận thức sai lầm căn bản mà Duy Biểu gọi là nhị thủ: cho rằng chủ thể và đối tượng nhận thức có thể có mặt ngoài nhau. Nhiều nhà khoa học não bộ thần kinh cũng còn mắc kẹt vào cái nhận thức lưỡng nguyên này: có một cái chủ thể nhận thức độc lập đi tìm một cái đối tượng nhận thức độc lập, có một tâm thức chủ quan đi tìm một thực tại khách quan. Grāhaka là năng thủ, chủ thể nhận thức, và grāhya là sở thủ, đối tượng nhận thức. Bị kẹt vào cái ý niệm năng thủ sở thủ là hai thực tại có thể có mặt độc lập với nhau, đó là nhị thủ. Đó là the double grasping, la double prise. Ta phải thấy được cái mà ta gọi là sắc ấy cũng chính là tâm. Sự thật là những biểu hiện ngã và pháp mà ta nhận thức được đều thuộc về tướng phần của Tàng, nghĩa là đều là Tàng, nghĩa là tâm. Ta không thể nói kiến phần là tâm còn tướng phần là sắc được. Cái mà ta gọi là sắc chỉ là những hiện hành biểu hiện từ chủng tử. Nói “tướng tùng kiến, nhất đầu đắc” là kẹt vào một quan niệm duy tâm, không phù hợp với đạo lý Duy Biểu, bởi vì quan niệm ấy chưa vượt thoát được nhị thủ. Học Duy Biểu ta phải tập xóa đi ranh giới giữa tâm và vật, giữa chủ thể và đối tượng, giữa kiến và tướng. Nói đới chất cảnh là một sáng tạo phẩm của kiến phần là không đúng, bởi vì điều này trái với nguyên tắc chủng tử y và câu hữu y.

Cái khao khát tuyệt đối

Khó khăn căn bản trong quá trình học hỏi Duy Biểu là vượt thoát được cái nhìn nhị nguyên và cái ao ước tuyệt đối. Phần đông chúng ta ai cũng ao ước cái chí thiện, cái chân lý tuyệt đối, cái đẹp tuyệt đối, và cái hạnh phúc tuyệt đối. Nhưng học Duy Biểu, ta thấy được cái tương tức, cái câu sinh, và luật tương đãi. Không có bùn thì không có sen, không có khổ thì không có vui, không có nhiễm thì không có tịnh, không có ác thì không có thiện. Chúng ta nghĩ là khi đạt tới quả vị A la hán, Mạt na không còn nữa, mà chỉ còn lại Bình Đẳng Tánh Trí, khi thành Bụt rồi thì không khổ đau nữa, mà chỉ có hạnh phúc, nghĩa là cái thiện có thể có mặt mà không cần cái ác, cái tịnh có thể có mặt mà không cần cái mê, bông sen có mặt mà không cần bùn. Điều này vi phạm lý tương tức. Cho nên nói A la hán diệt định, xuất thế đạo vô hữu (tới địa vị A la hán, trong định diệt thọ và tưởng, trên con đường xuất thế gian, thì không còn Mạt na nữa) là không đúng. Nếu không còn Mạt na thì làm sao có Bình Đẳng Tánh Trí? Hai cái phải có mặt một lần và nương vào nhau như sen với bùn. Với lại, nếu không còn Mạt na thì làm sao có Ý thức? Nếu không còn Ý thức thì làm sao có Diệu Quan Sát Trí? Bụt không có Ý thức sao, các vị A la hán không có Ý thức sao? Như thế thì lấy gì để thực tập chánh niệm và quán chiếu? Muốn có Ý thức thì phải có Ý căn. Mạt na trước hết là ý chí muốn sống, là bản năng tự tồn và tự bảo hộ. Nó chính là căn cứ làm phát sinh ra Ý thức. Bình Đẳng Tánh Trí cũng là một thứ Ý căn. Nó là sự nối dài của Ý căn, của Mạt na, cũng như cọng sen và đóa sen là sự nối dài của rễ sen và của bùn. Có bùn mới có sen. Nếu không có ý căn thì không có ý thức. Cho nên ta phải học chấp nhận cái sự thực hiển nhiên này: không có bùn thì không có sen, không có diệu đế thứ nhất thì không có diệu đế thứ ba, không có đau khổ thì không có hạnh phúc, không có trái thì không có phải. Tu tập là để biết cách chế tác hỷ lạc và xử lý khổ đau. Xử lý khổ đau cũng là chế tác hỷ lạc. Có tuệ giác, biết cách xử lý khổ đau thì khổ đau rất ít, và ta có thể sử dụng khổ đau để chế tác hỷ lạc như sử dụng bùn để nuôi sen. Không bùn thì không sen, không khổ thì không lạc. Chúng ta thường nghe phiền não tức bồ đề, tìm Niết bàn ngay trong sinh tử, sự thực là như thế. Muốn có sen mà không cần bùn, đó là một ảo tưởng.

Người biết tu tập là người thường xuyên biết gieo trồng và tưới tẩm những hạt giống từ bi và tuệ giác. Từ bi và tuệ giác cũng vô thường như bất cứ hiện tượng nào khác, cho nên cũng cần được nuôi dưỡng và củng cố. Vì thế đã thành Bụt rồi mà Bụt vẫn ngồi thiền, đi thiền và quán chiếu. Dù chúng ta đã biết cách trồng lúa nhưng nếu mỗi năm ta không gieo giống và chăm bón thì ta không có lúa để gặt hái, để ăn. Nghe Pháp, trì giới, quán chiếu và thực tập hàng ngày chính là công trình gieo trồng những hạt giống trí tuệ và từ bi, và để ngăn ngừa các phiền não như tham, sân, si, mạn phát triển, như những thứ cỏ dại và sâu bọ lan tràn và làm cho người nông dân mất mùa. Huân tập là như thế. Ngưng lại sự tu tập nhiều tháng nhiều năm thì cũng như ngưng lại sự gieo trồng chăm bón nhiều tháng nhiều năm. Ta sẽ không có lúa ăn và cỏ dại sẽ lan tràn. Ta sẽ không còn chất liệu của trí, bi và các phiền não tham, sân, si sẽ chiếm phần thượng phong. Cho nên hiện tượng gọi là bất thối chuyển tuy rằng có thật, nhưng bất thối chuyển chỉ có thể được duy trì bằng sự tiếp tục thực tập. Các đức Như Lai và Bồ tát cũng phải duy trì sự thực tập mới duy trì được tình trạng bất thối. Tất cả các pháp đều là hữu vi, đều chịu điều kiện hóa, và phải được củng cố mới tồn tại được lâu dài. Cho nên chữ Bhāvāna (tu tập) dịch bằng từ gieo trồng (culture) là rất đúng.

Tánh cảnh vô tướng và tánh cảnh hữu tướng

Tự thân các chủng tử (bījā) được Tàng duy trì có thể được gọi là Tánh Cảnh vô chất, hoặc Tánh Cảnh vô tướng. Khi biểu hiện thành hiện hành, các pháp này vẫn còn là Tánh Cảnh, nhưng được gọi là Tánh Cảnh hữu chất, hoặc Tánh Cảnh hữu tướng, mang theo tự tướng, cộng tướng, đồng tướng, dị tướng, thành tướng và hoại tướng. Nhưng vì Tàng không bị ngăn che cho nên những tướng ấy vẫn là Tánh Cảnh, nghĩa là bản thân thực tại. Các chuyển thức thì có thể bị kẹt vào những tướng ấy cho nên mới làm phát sinh ra những phiền não như tham, sân, si, ái, mạn,v.v… Vật lý học đương đại cũng đang đi tìm cái thực chất (fabric) của vạn vật. Có người cho thực chất ấy là các hạt hạ nguyên tử (sub atomic particles), có người cho đó là những lực trường (force fields). Danh từ lực trường gần gũi nhất với danh từ chủng tử. Bởi vì chủng tử là một loại năng lượng, một tiềm thế (potential), được gọi là công năng trong Duy Biểu Học. Chủng tử chính là Tánh Cảnh vô tướng và khi biểu hiện thành vạn pháp thì được gọi là Tánh Cảnh hữu tướng. Tàng không bị đánh lừa bởi các tướng của vạn pháp.

Suy đoán và biệt hữu

Mạt na vì kẹt vào những tướng ấy cho nên mới ôm lấy năm uẩn mà cho là tự ngã. Năm uẩn do đó trở thành năm thủ uẩn (upādānaskandha). Ở Tàng, năm uẩn là pháp thân mầu nhiệm. Ở Mạt na, năm uẩn thành ra đối tượng của sự vướng mắc. Chân đới chất cảnh là đối tượng của Mạt na. Mạt na do suy đoán (infer, deduce, project) mà thấy năm uẩn là một cái ta riêng biệt. Vì vậy đối tượng của Mạt na có thể được gọi là đới chất cảnh suy đoán (projected representation). Đó là trường hợp ta thường gọi là tâm duyên tâm. Còn trong trường hợp mà ta gọi là tâm duyên sắc thì đối tượng của Ý thức là đới chất cảnh biệt hữu (objectivized representation). Nghĩa là Ý thức cho rằng đối tượng mà mình đang nhận thức là một thực tại khách quan, có tâm thức hay không thì nó vẫn cứ là nó. Biệt hữu là một danh từ mới, nó có nghĩa là cho rằng đối tượng nhận thức kia là một thực tại khách quan có ngoài tâm thức.

Hữu chất và vô chất

Ta cũng có thể nói tới hai loại độc ảnh cảnh, loại thứ nhất là độc ảnh hữu chất, đó là hạt giống của những hình ảnh đã được gieo vào Tàng và được Tàng cất giữ. Loại thứ hai là độc ảnh vô chất hoặc độc ảnh sáng tạo, là những hình ảnh được ráp nối chắp vá hoặc lẫn lộn của những hình ảnh hữu chất. Sức sáng tạo của một nghệ sĩ là ở chỗ biết sử dụng những hình ảnh hữu chất để tạo nên những hình ảnh vô chất sau này sẽ trở lại thành hữu chất trong Tàng.

Nối tiếp nhau mà không loại trừ nhau

Theo luật tương đãi thì Bình Đẳng Tánh Trí đứng chung với Mạt na làm một cặp, vì cái này có nên cái kia có, vì cái này đang có nên cái kia cũng đang có, không có cái này (Mạt na) thì không có cái kia (Bình Đẳng Tánh Trí), cũng như bùn với sen làm thành một cặp. Nếu nói chỉ khi hết bùn mới có sen là không đúng. Chính nhờ có bùn mới có được sen. Hai cái nương nhau, và cái hay của sự tu tập là sử dụng được bùn để nuôi sen. Cả hai đều hữu cơ, đều vô thường. Mạt na và Bình Đẳng Tánh Trí cũng thế. Cho nên nói “La Hán, Diệt Định, Xuất Thế Đạo vô hữu” là không đúng. Nếu Mạt na “vô hữu”, thì Bình Đẳng Tánh Trí cũng phải “vô hữu.”

Chấp nhận được Mạt na là đã có sự an tâm rồi. Sau đó, người tu mới học cách xử lý Mạt na một cách khôn ngoan để nuôi dưỡng Bình Đẳng Tánh Trí. Phiền não tức Bồ Đề là như thế. Ta bà là Tịnh độ là như thế. Sinh tử là Niết bàn cũng là như thế.

Phá bỏ mọi ranh giới

Học Duy Biểu ta cần tập xóa bỏ từ từ ranh giới giữa những cặp đối lập như thiện ác, mê ngộ, nhiễm tịnh, tâm vật, chủ thể đối tượng,v.v.. Khoa học cũng đang làm công việc ấy. Ban đầu ta tưởng trời và đất là hai thế giới khác nhau, nhưng với sự khám phá ra luật dẫn lực (gravitation universelle) thì ta thấy được rằng cả trời lẫn đất đều được cái luật ấy chi phối, do đó ta cũng thấy đất là một phần của trời và trời là phần khác của đất. Sau đó ta lại tìm ra là âm thanh và không khí là bất nhị: âm thanh do sự giao động của các phân tử không khí mà có. Rồi đến nhiệt lượng: nhiệt cũng do sự tương tác điện từ giữa các nguyên tử và phân tử nơi sự vật tạo ra. Điện và từ cũng không phải là hai cái khác nhau, mà chỉ là hai mặt của cùng một thực tại. Những làn sóng điện từ và những làn sóng ánh sáng cũng bất nhị. Vật chất và năng lượng cũng thế: vật chất có thể trở thành năng lượng và năng lượng có thể trở thành vật chất. Cái hay nhất mà Duy Biểu học khai thị là nếu ta muốn tiếp cận với Tánh Cảnh, ta phải buông bỏ nhị thủ. Nhị thủ là một cặp vướng mắc: tin rằng có một chủ thể nhận thức nằm ngoài đối tượng nhận thức, và một đối tượng nhận thức nằm ngoài một chủ thể nhận thức. Ta biết tướng phần và kiến phần nương vào nhau mà biểu hiện, chúng làm câu hữu nhân cho nhau, và do cái thấy đó ta có thể xóa đi ranh giới tách biệt giữa hai phần kiến và tướng (darsana = kiến, nimitta = tướng). Duy Biểu cần đi xa hơn, để giúp ta buông bỏ cái thấy nhị nguyên về danh và sắc (tâm và vật), nhiễm và tịnh, thiện và ác, khổ và lạc, mê và ngộ, v.v…

Chừng nào Duy Biểu làm được việc ấy thì Duy Biểu trở nên thượng thừa chứ không còn đóng vai quyền thừa như từ thế kỷ thứ năm cho đến nay. Thầy Pháp Tạng đời Đường đã bắt đầu sự nghiệp này, nhưng sự nghiệp ấy chỉ mới thực hiện được nửa chừng.

Hậu Đắc Trí

Tàng có thể được gọi là căn bản trí, và Ý thức là lực lượng chủ yếu để thực hiện Hậu Đắc Trí. Những hạt giống của Hậu Đắc Trí đã sẵn có trong Tàng. Ý thức chỉ cần nhận diện, truy cập và nuôi lớn cái thấy ấy bằng phương pháp quán chiếu và củng cố để tuệ giác này càng ngày càng vững mạnh để soi sáng trong đời sống hàng ngày. Tàng là đất. Ý thức là người làm vườn. Phải gieo trồng mới có ăn. Và phải tiếp tục gieo trồng, chăm bón và củng cố. Hậu Đắc Trí phải được nuôi dưỡng và củng cố mỗi ngày bằng công phu thực tập.

Duy Biểu xác nhận rằng Ý thức và Năm thức cảm giác đều có khả năng tiếp xúc với Tánh Cảnh, vì các thức này cũng có tiềm năng chân hiện lượng. Ý thức khi làm việc riêng một mình (Ý thức độc đầu) hay khi làm việc chung với Năm thức cảm giác (Ý thức ngũ câu) trong sát na đầu của nhận thức hiện lượng có thể tiếp xúc được với Tánh Cảnh, trong cái tự tướng (svalaksana) của nó. Nhưng với thói quen biến kế và phân biệt, cái tự tướng ấy lập tức biến thành cọng tướng (sāmānya-laksana), do đó không còn là Tánh Cảnh nữa mà đã là đới chất cảnh. Hình thái nhận thức (lượng = pramāna) có thể còn là hiện lượng, nhưng đây đã là tợ hiện lượng. Năm thức cảm giác dựa trên Ý thức cũng thế. Nhận thức biến kế (vikalpa) là tạo tác của tâm thức dựa trên một hình ảnh của Tánh Cảnh. Trong nhận thức này, mây chỉ là mây, chứ không phải là tuyết hay là hơi nước, cha chỉ là cha chứ không phải là con, thân căn chỉ là thân căn chứ không phải là khí thế gian (môi trường). Trong khi đó sự thực là tương tức: mây cũng là nước, con cũng là sự tiếp nối của cha, thân căn được làm bằng chất liệu của môi trường. Nhờ quán chiếu duyên khởi, tương tức và tương đãi mà Ý thức làm lộ ra được tính y tha khởi để cuối cùng Ý thức có thể tiếp xúc với viên thành thật. Tư tưởng kiệt xuất của Duy Biểu là Vô Ký và Nhị Thủ, chứ không phải là Tam Tự Tánh và Tam Vô Tánh.

Các lý luận gia như Pháp Xứng (Dharmakirti) hay Trần Na (Dignāga) đã đem vào Duy Biểu các ý niệm tam cảnh và tam lượng giúp soi sáng khá nhiều cho nhận thức luận Duy Biểu nhưng cũng có thể gây ra những cái thấy cực đoan đem lại sự củng cố ý niệm chỉ có tâm mà không có cảnh. Xóa bỏ được ranh giới tâm và vật, thấy được hai bên nương vào nhau mà biểu hiện theo nguyên tắc tương đãi là đã có thể vượt thắng cái chấp nhị thủ rồi.

Không đến cũng không đi

Cũng giống như cách trình bày của Thập nhị nhân duyên, Duy Biểu cũng muốn giải thích cơ chế luân hồi bằng cách nói rằng khi dị thục này hết thì những dị thục khác tiếp nối. Trong Bát Thức Quy Củ Tụng, thầy Huyền Trang có nói về Tàng như một ông chủ, một người lãnh đạo của cả tám thức: “Khứ hậu lai tiên tác chủ ông”, nghĩa là Tàng đóng vai ông giám đốc, tới trước và đi sau. Khi chết, các thức cảm giác và Ý thức ngưng hoạt động trước, rồi Tàng mới ngưng hoạt động sau. Nói như thế có thể gây hiểu lầm là có một linh hồn đang lìa khỏi xác thân, linh hồn này là Thức. Thực ra thì bản chất của Tàng là không tới không đi, không trước cũng không sau. Vấn đề là biểu hiện hay ngưng biểu hiện, chứ không phải là có hay không có, tới hay đi. Mùa đông, ta không thấy bướm và hoa, nhưng điều này không có nghĩa là bướm và hoa không có và đã diệt. Mùa xuân, bướm và hoa biểu hiện, điều này không có nghĩa là bướm và hoa từ không trở nên có. Tàng duy trì chủng tử của bướm và hoa để khi có điều kiện thì bướm và hoa lại biểu hiện. Tàng cũng duy trì những cánh hoa tàn và những cánh bướm tả tơi để mùa Xuân sau chúng trở nên chất liệu nuôi dưỡng những con bướm mới, những bông hoa mới. Luân hồi theo tín ngưỡng quần chúng là phải có một linh hồn. Theo Duy Biểu, Dị thục không phải là một linh hồn mà là một dòng sống liên tục hằng chuyển, là sức sống, là công năng, là chủng tử tiềm ẩn trong mọi hiện tượng hữu tình và vô tình.

Mười tám giới chưa phải là cái tất cả

Trước khi nói tới vai trò của Ý thức trong công trình tu tập và chuyển hóa, chúng ta hãy đề cập tới vấn đề “tất cả” (nhất thiết pháp). Trong kinh Bụt có dạy cái tất cả nằm gọn trong mười tám lĩnh vực (thập bát giới) là sáu căn, sáu trần và sáu thức. Nhưng nhìn sâu vào ý thức, ta thấy còn có Mạt na, và Tàng vốn nằm sâu ở chiều dưới như một tảng băng sơn vĩ đại chìm trong đại dương chỉ có một mỏm nhỏ lộ lên trên mặt biển Bắc Cực. Tàng thức là khối băng sơn ấy, và mỏm nhỏ lộ lên phía trên là Ý thức.

Nhờ khoa học chúng ta biết vũ trụ không phải là tất cả những gì ta cảm nhận được bằng năm giác quan. Mỗi giác quan chỉ giúp ta cảm nhận được một loại đối tượng, như mũi chỉ có thể tiếp xúc với hương mà không tiếp xúc được với sắc, thanh, vị và xúc. Và các giác quan của chúng ta có khả năng hữu hạn của chúng. Lỗ tai của con chó có thể giúp nó nghe được những âm thanh mà tai ta không thể nghe. Vì vậy những âm thanh có tần số cao hơn hay thấp hơn tần số mà ta tiếp thu được không nằm trong cái “tất cả” của chúng ta. Ánh sáng cũng vậy. Có những tần số ánh sáng mà ta không tiếp thu được. Nếu ta tiếp thu được thì vũ trụ chắc chắn sẽ rất khác với vũ trụ ta đang thấy. Có những loài động vật mà khứu giác cũng như thính giác bén nhạy hơn khứu giác và thính giác của ta nhiều, vì vậy cho nên với năm giác quan của ta, ta chỉ tạo tác được một vũ trụ nhỏ bé mà không quán chiếu được chân tướng của vũ trụ. Đối tượng của tâm thức ta, qua năm giác quan, phần lớn chỉ là đới chất cảnh mà không phải là Tánh Cảnh. Đối với những con sò sống dưới đáy biển, không có thị giác và thính giác, vũ trụ của chúng nhỏ bé hơn vũ trụ của ta nhiều, và cái “tất cả” của chúng nhỏ bé hơn cái “tất cả” của ta rất nhiều. Có thể có những chủng loại với nhiều cảm quan bén nhạy hơn và đối với họ, vũ trụ sẽ lớn lao và xinh đẹp hơn vũ trụ của ta. Những con sò sống dưới đáy biển không có cơ hội thấy được vũ trụ trăng sao, mặt biển xanh biếc với những đợt sóng hào hùng, và nghe được âm thanh của tiếng hải triều vang dội. Con dơi có một giác quan bén nhạy có thể cho nó biết một chướng ngại vật trước mặt cách xa ba cây số dù đó là ban đêm để nó đừng va chạm trong khi bay, giác quan đó cũng giống như máy ra đa mà cơ thể ta không có. Vậy ta không nên quá tin ở giác quan ta, và do đó Ý thức là một tâm thức có khả năng cảnh giác ta về giới hạn của nhận thức để cho ta đừng trở nên quá khích và giáo điều trong cách tiếp xử với thế giới và mọi loài. Thực ra, chúng ta có nhiều hơn năm giác quan. Những receptor (thụ thể) trên da ta, có loại chỉ tiếp xúc được với sự va chạm (xúc), có loại chỉ tiếp xúc được với cái lạnh, có loại chỉ tiếp xúc được với cái nóng và có loại chỉ tiếp xúc được với cái đau. Loại này không có khả năng làm công việc của loại kia. Phía trong chiều sâu của lỗ tai có một cảm quan gọi là mê lộ (labyrinthe), nhờ cảm quan đó mà ta biết được vị trí của cơ thể trong không gian, đâu là trên, đâu là dưới, đâu là trái, đâu là phải, nhờ giác quan ấy mà ta thiết lập được thế thăng bằng trong khi đứng, đi, nằm, ngồi, chạy và nhảy.

Khoa học giúp ta biết được giới hạn của năm giác quan, và nối dài thêm được khả năng thấy, nghe và di chuyển của chúng ta. Chưa có thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông và thần túc thông, nhưng nhờ khoa học và kỹ thuật mà hiện giờ ta thấy được và nghe được những gì xảy ra cách xa ta hàng vạn dặm, và ta cũng di chuyển được bằng tốc độ của máy bay và hỏa tiễn để có thể viếng thăm những tinh cầu láng giềng của trái đất.

Sinh lý học và vật lý học giúp ta xóa bỏ dễ dàng hơn cái thấy nhị nguyên về tâm và vật, tâm lý và sinh lý, để ta có thể thấy được tính tương đãi và tương tức giữa thân và tâm. Những tâm hành của ta như lo lắng, giận hờn, sợ hãi, buồn đau, tuyệt vọng có liên hệ mật thiết với những xung động thần kinh và những chất dẫn truyền thần kinh. Ta thấy được thân là sự nối tiếp của tâm và tâm là sự nối tiếp của thân, do đó ta buông bỏ được cái phân biệt gọi là biến kế, thấy được tính thống nhất giữa các pháp, giữa chủ thể và đối tượng, giữa tạo hóa và tạo vật, giữa bùn và sen, giữa nhiễm và tịnh. Duy Biểu trong thế kỷ của ta phải đi sát với sinh học và lý học, chứ không phải chỉ đi sát với luận lý học như ở thời kỳ Pháp Xứng và Trần Na. Tâm lý học và sinh lý học phải đi đôi với nhau. Nghiên cứu về quá trình phát sinh tư tưởng và cảm thọ, ta phải có kiến thức về thần kinh và não bộ. Năm thức cảm giác trong sát na đầu chưa có phân biệt biến kế và kẹt vào cọng tướng tuy tiếp xúc được với Tánh Cảnh, nhưng đó chỉ là một phần rất giới hạn của Tánh Cảnh, trong khi Tàng nắm giữ hết mọi hạt giống của Tánh Cảnh. Trong ánh sáng của tương đãi, năng tàng cũng chính là sở tàng, kiến cũng là tướng, ta không thể lấy cái này ra khỏi cái kia được.

Vai trò của Ý thức

Ý thức trong trạng thái tán loạn của nó (tán vị ý thức) rất dễ bị Tình Thức (Mạt na) kéo đi và có khuynh hướng tiếp xúc với những đối tượng của dục, và tác ý của nó là phi như lý tác ý (ayonisomanāskara). Hành xử như thế, Ý thức sẽ tạo ra khổ đau. Ý thức nếu không biết quán chiếu về bốn loại thức ăn (tứ thực) sẽ để cho thân tâm tiêu thụ những gì độc hại đem tới nhiều phiền não và khổ đau. Ý thức nếu không học tập giới luật và giúp Mạt na kiềm chế những xung lực tham ái, ích kỷ và hận thù thì sẽ làm tăng lượng bùn mà không sản xuất được thêm sen. Ý thức nếu không biết quán chiếu mà chỉ biết khỏa lấp và dồn nén khổ đau thì một ngày nào đó sẽ có những triệu chứng bệnh tâm thần và ý thức sẽ là loạn trung ý thức (Mind consciousness in psychosis). Nếu Ý thức thực tập niệm và định trong đời sống hằng ngày thì Ý thức có khả năng chế tác an, hỷ và lạc trong từng bước chân, từng hơi thở, từng động tác, và làm lắng dịu cả thân và tâm. Nếu Ý thức biết sử dụng hơi thở chánh niệm, nhận diện buồn đau mà không trốn chạy và khỏa lấp nó thì Ý thức có thể ôm ấp và làm lắng dịu những cảm thọ và những cảm xúc đau buồn, và cuối cùng với công phu quán chiếu có thể đạt tới cái thấy (tuệ) có khả năng chuyển hóa khổ đau thành hiểu biết và thương yêu, chuyển bùn thành sen ngay trong giây phút hiện tại. Quán vô thường, quán vô dục, quán duyên sinh, quán tương tức, Ý thức làm tan rã biến kế chấp và đạt tới cái thấy y tha khởi, xóa bỏ được mọi ranh giới tạo tác khổ đau. Nếu Ý thức tiếp tục quán chiếu y tha khởi thì cái thấy Viên Thành Thật sẽ biểu hiện từ từ, đó là cái Hậu Đắc Trí giúp cho Ý thức tiếp xúc được cảnh giới của Pháp Thân, của Chân Như, của Tánh Cảnh như Tàng.

Những pháp môn tu tập ấy rất thực tế, thực tế hơn nhiều những phép tu như bốn phép quán tầm tư, các quá trình tư lương, gia hạnh, thông đạt, tu tập, cứu cánh, thập địa, tứ thiền, tứ vô sắc định vốn giàu về lý thuyết mà không thực tế lắm về phương diện hành trì.

Tóm tắt những điểm chính

1. Tàng duy trì các chủng tử và những hiện hành của các chủng tử. Kiến phần của Tàng là Chân Hiện Lượng. Tướng phần của Tàng là Vô Chất Tánh Cảnh và Hữu Chất Tánh Cảnh, nghĩa là Tánh Cảnh vô tướng và Tánh Cảnh hữu tướng. Tàng vốn đã là Đại Viên Cảnh Trí, không cần chuyển hóa. Mình là A la hán hay chưa là A la hán thì Tàng vẫn thế, vì Tàng đã là vô phú (không bị ngăn che) rồi.

2. Các chủng tử và hiện hành của Tàng nắm giữ cũng đều là vô phú và vô ký. Bản chất của chúng cũng như bản chất của Tàng là không có không không, không thiện không ác, không hữu lậu không vô lậu. Chủng tử căn thân và khí thế gian mà Tàng chấp trì đều là pháp nhĩ.

3. Tướng và Kiến nương nhau để biểu hiện theo quy luật tương đãi. Không thể lấy đối tượng ra khỏi chủ thể, chủ thể ra khỏi đối tượng.

4. Tính chất của các chủng tử trong Tàng cũng là tính chất của Tàng:

Sát na vô thường – luôn luôn chuyển biến
Quả và nhân cùng có với nhau, không thể tách rời
Hằng tùy chuyển, tuy biến chuyển từng sát na, nhưng vẫn có sự tương tục
Tính vô ký (không thiện ác – có tính hữu cơ nên có thể được nhận thức như thiện hoặc ác)
Đợi nhân duyên đầy đủ mới biểu hiện hoặc chín muồi
Vượt ra ngoài các ý niệm có không, hữu và vô
Vượt ra ngoài ý niệm trong ngoài, chủ thể và đối tượng
Vượt ra ngoài ý niệm cũ và mới, câu sinh và tân huân
Vượt ra ngoài ý niệm nhiễm và tịnh, hữu lậu và vô lậu
Vượt ra ngoài ý niệm đồng và dị, nhất và dị
Vượt ra ngoài ý niệm tới và đi, khứ và lai
Vượt ra ngoài ý niệm chung và riêng, cọng và biệt

5. Trong Tàng, cả chủng tử và hiện hành đều là Tánh Cảnh, là tự thân thực tại. Chủng tử là Tánh Cảnh vô tướng và hiện hành là Tánh Cảnh hữu tướng. Tàng không bị kẹt bởi các tướng của hiện hành, bởi vì Tàng là Chân Hiện Lượng.

6. Vì là vô thường, tương tức và duyên khởi cho nên các chủng tử không nhất thiết phải có tính cách dẫn tự quả.

7. Tàng tương ưng với năm tâm hành biến hành, nhưng cũng tương ưng với năm tâm sở biệt cảnh, bởi vì Tàng có Tuệ (Chân Hiện Lượng), có Niệm (Tàng là kho nhớ), có Định (không tán loạn), luôn luôn có mặt đó để làm việc duy trì sinh mạng. Tàng cũng tương ứng với tâm sở Mạng Căn (Jivita), đó là sức sống.

8. Năm uẩn nơi Tàng cũng là pháp nhĩ như thị, mầu nhiệm như Pháp thân, đối tượng nắm bắt của Mạt na không đích thực là Tàng mà là một hình ảnh tạo tác của Mạt na về Tàng, hình ảnh ấy là Đới Chất Cảnh mà không phải là Tánh Cảnh.

9. Mạt na có cơ sở nơi Tàng, chủ yếu là Mạng Căn, là ý chí muốn sống, muốn vươn lên, muốn tiếp tục mãi. Mạt na là cơ chế tự tồn, là bản năng tự vệ, là năng lượng ham sống sợ chết, là khuynh hướng tìm cầu khoái lạc và trốn chạy khổ đau. Đó là cơ sở làm phát sinh ra các phiền não như buồn lo, tham đắm, sợ hãi, v.v.. có tác dụng tạo nên khổ đau. Nhưng Ý thức nương trên Tàng biết quán chiếu thì sẽ soi sáng và kiềm chế được Mạt na và làm biểu hiện Trí Vô Phân Biệt, vốn là một bông sen Tuệ giác nở trên bùn Mạt na. Có bùn thì có sen, có sen thì có bùn, cho nên Mạt na, Ý thức, Diệu Quan Sát Trí và Bình Đẳng Tánh Trí là một dòng liên tục nương vào nhau mà phát hiện, chứ không hẳn là những gì chống đối và loại trừ nhau. Không cần hết bùn mới có sen. Nếu hết bùn thì cũng hết sen. Phiền não tức bồ đề là như thế.

10. Theo nguyên tắc chủng tử y và câu sinh y thì kiến phần và tướng phần của thức đều có cơ sở ở chủng tử, và cả hai đều phải nương vào nhau để có mặt một lần. Vì vậy nói “tướng tùng kiến” và “nhất đầu đắc” là vi phạm luật câu sinh, luật tương đãi. Kiến phần không thể xuất hiện trước để tạo ra tướng phần.

11. Hễ còn sự sống là còn Mạt na. Thành A la hán, thành Bồ tát, thành Bụt rồi cũng còn Mạt na. Nhưng đối với các bậc thánh ấy, Mạt na không còn là một vấn đề. Bởi vì các vị biết xử lý Mạt na, thăng hoa Mạt na, biến những chất liệu của Mạt na thành những chất liệu của Niệm, Định và Tuệ. Bụt thành đạo năm ngài 35 tuổi. Ngài vẫn còn rất trẻ, vẫn còn năng lượng tình dục. Nhưng năng lượng ấy không phải là một vấn đề, bởi vì Bụt biết sử dụng chúng để làm nên những năng lượng từ bi trí tuệ để nuôi dưỡng mình và để độ đời. Những năng lượng ấy đã không phải là những chướng ngại mà còn là những nguồn năng lượng cần thiết để chế tác tuệ giác và hạnh phúc, như bùn có thể được sử dụng để nuôi sen.

12. Dị thục xảy ra trong từng giây phút (sát na) và cũng xảy ra sau từng giai đoạn (nhất kỳ). Ta không cần đợi đến khi thân tứ đại này tan rã rồi mới đi luân hồi. Mỗi ý tưởng, mỗi lời nói, mỗi hành động đều có thể đi luân hồi ngay khi mới được chế tác. Thời gian có thể khác, nhưng dị thục xảy ra từng phút giây.

13. Phải luyện tập trong đời sống hằng ngày, phải tập nhìn để xóa bỏ ranh giới giữa chủ thể và đối tượng, giữa trong ngoài, giữa tâm và vật, giữa mình và người thì mới vượt được nhị thủ, mới chứng được Duy Biểu tính.

14. Những thực tập cụ thể để có thể soi sáng, kiềm chế và thăng hoa được Mạt na:

Hành trì giới luật, thấy được giới luật có công năng bảo hộ tự do chứ không phải là những cấm cản và ức chế.

Sống chánh niệm để tiếp xúc được với những gì mầu nhiệm có công năng trị liệu và nuôi dưỡng, không buông bỏ hiện tại để đi tìm hạnh phúc trong tương lai.

Học chế tác hỷ và lạc bằng chánh niệm, biết sử dụng hơi thở và bước chân để làm việc ấy.

Quán chiếu tính duyên sinh, tương tức và tương đãi của vạn pháp để buông bỏ được cái thấy biến kế sở chấp, để chứng nhập y tha khởi, để đạt tới trí hậu đắc, buông bỏ thế giới đới chất và tiếp xúc được với thế giới Tánh Cảnh, Ý phải làm được như Tàng.

Chuyển y (asrayaparavritti) không phải là sự chuyển hóa của Tàng mà là sự buông bỏ của Mạt na và Ý thức đối với những tập khí cũ, và sự hình thành, củng cố của những tập khí mới có công năng chế tác hỷ lạc và xử lý khổ đau ngay trong giây phút hiện tại. Tính cách nhu nhuyến (plasticity) của não bộ và của thần kinh não cho thấy khả năng hình thành và củng cố của những tập khí tốt ấy. Tính cách nhu nhuyến ấy của não bộ cũng chứng tỏ rằng não bộ cũng vô ký và hữu cơ như Tàng.

Phật giáo Duy Biểu ban đầu cũng được gọi là Phật giáo Du Già (Yogacāra). Du già (yoga) có nghĩa là tương ứng, ứng hợp với chân lý, với thực tại tối hậu. Những pháp tu như Hơi thở chánh niệm, tập trung tâm ý, chỉ và quán… là để thiết lập sự tương ứng giữa người hành giả và thực tại tối hậu. Tác phẩm Du Già Sư Địa Luận của thầy Vô Trước sáng tác, chủ trương có mười bảy cảnh giới (địa, bhūmi) mà người hành giả phải đi qua. Cách trình bày rất lý tưởng, rất chi tiết, nhưng vẫn không có được tánh cách thực tiễn như những pháp môn tu học trong kinh tạng. Các kinh căn bản về thiền tập như An Ban Thủ Ý, Niệm Xứ, v.v.. chỉ bày sự thực tập một cách rõ ràng, đơn giản và thực tiễn hơn nhiều.

Phật giáo Duy Biểu chính là văn học Abhidharma của Đại thừa. Với cái thấy bất nhị và tương đãi, Phật giáo Duy Biểu có thể buông bỏ tính cách quyền thừa lâu nay của mình để trở nên một đạo Bụt Đại thừa trọn vẹn.

Bút nở hoa đàm – Vũ Hoàng Chương

Nở trắng bồ câu - thư pháp Nhất Hạnh

Bút nở hoa đàm - thơ Vũ Hoàng Chương - Nhất Hạnh chép tay

Vũ Hoàng Chương sinh năm 1916, đậu tú tài Tây, sau đó học luật. Nhưng chán không thích luật nên ông bỏ học, làm phó giám đốc cho sở hỏa xa. Làm ở sở hỏa xa cũng chán nên ông đi về học toán. Học toán cũng không thích cuối cùng ông làm thơ. Năm 1945 ông tham gia kháng chiến, năm 1950 bỏ kháng chiến. Không tìm thấy hạnh phúc trong ngành luật, toán học, hỏa xa, kháng chiến, nên năm 1951 ông di cư vào miềm Nam.

Năm 1963 khi Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu cho nhân quyền Việt Nam, Vũ Hoàng Chương xúc động vô cùng và ông đã viết bài thơ Lửa Từ Bi mà nhiều người Phật tử đã thuộc lòng. Hành động tự thiêu của Hòa thượng Quảng Đức đã làm chấn động tâm can Vũ Hoàng Chương, đã biến Vũ Hoàng Chương thành một con người khác và Vũ Hoàng Chương đã thấy rằng mục đích của con người là để xây dựng tình huynh đệ.

Vũ Hoàng Chương đã đem cả thân mạng và sự sống của mình tham dự vào cuộc đấu tranh bất bạo động để tranh đấu cho hoà bình tại Việt Nam từ 1963 cho đến 1977. Ông đã từng bị tù tội nhiều lần trong thời gian đó. Đọc tác phẩm Bút Nở Hoa Đàm của ông, ta thấy được điều này. Ông đã tranh đấu bằng thơ của ông và biến cố lớn nào của cuộc tranh đấu cũng đều được đánh dấu bằng một bài thơ. Ông thật có tinh thần vô úy và phong độ anh hào. Trong bài bút Nở Hoa Đàm, ông viết:

Ai sẽ là ngươi, cánh tay hào kiệt,
Trong tương lai, một sớm một chiều
Đủ sức hái cành hoa làm bút viết
Những vần Thương Yêu?

Đọc tới những câu đó, Thầy Làng Mai đã nói rằng: “Chính Vũ Hoàng Chương là người đã hái được cành hoa từ bi làm bút viết. Chính ông là người thi sĩ xứng đáng nhất của lịch sử tranh đấu bất bạo động cho hòa bình tại Việt Nam.” (Trích từ tác phẩm “Thử tìm dấu chân trên cát”  – Sư cô Chân Không)

 

Nở trắng bồ câu - tranh họa

“Bút sa nở trắng bồ câu
Xé đường bay, vỏ đêm sầu rách bung”

(Tranh minh họa: sư cô Trăng Tuyết Hoa)


Bút nở hoa đàm

Ai sẽ là Ngươi trong tương lai
Một sớm một chiều
Vươn tay hái cành hoa Thương Yêu
Làm bút viết
Nối vào trang sử loài người
Vẫn chép
Từ lâu
Bằng gươm, bằng súng đạn
Của Mông cổ Thành-cát-tư Đại-Hãn
Của Nã-phá-luân Hoàng đế Âu châu?

Bút sa nở trắng bồ câu
Xé đường bay, vỏ đêm sầu rách bung.

Dư ảnh chiến thuyền chưa nhạt
Hồi âm ngựa trận còn rung
Từng đã lên màu sát phạt
Hồn Chữ linh lung,
Từng đã say men gió cát
Hơi văn chập chùng
Muôn nét chữ, một nghe triều nhựa mát
Thấm quanh mình, cất cánh sẽ bay tung.

Ôi, mùa đăng trình
Có hoa làm bút
Nhựa tuôn giòng mực trắng tinh và trang giấy mang mang nằm đợi phút
Quay về bản thể nguyên trinh!
Đâu đó Trường sa Quảng đảo
Vật vờ tro bụi chúng sinh
Ngang dọc xương phơi chừ…
Nam Việt Bắc Bình!
Cao thấp máu trôi kìa…
Đông Tây Bá-Linh!
Ác mộng ấy phải không còn dấu vết!

Ai sẽ là ngươi, cánh tay hào kiệt,
Trong tương lai, một sớm một chiều
Đủ sức hái cành hoa làm bút viết
Những vần Thương Yêu?

Thông điệp lửa – Tưởng niệm Nhất Chi Mai

Khi Nhất Chi Mai tự thiêu, Vũ Hoàng Chương vô cùng xúc động và đã làm bài thơ “Lửa…Lửa…và Lửa” để ca ngợi chị. Lửa Nhất Chi Mai giống như hỏa lệnh, một hiệu lệnh bằng lửa để cho cánh chim Hòa Bình trở về. Đó là thông điệp của Vũ Hoàng Chương.

 

Sáng trưng hỏa Lệnh bồ câu trắng – Tranh vẽ: sư cô Trăng Tuyết Hoa

 

LỬA…LỬA…VÀ LỬA

Vừa mới hôm nào Lửa YẾN PHI

Bay lên…nối cánh LỬA TỪ BI;

Giờ đây, lại nỗi lòng dân Việt

Đau xé trời Nam: Lửa NHẤT CHI…!

Ba đợt cháy lên Thông Điệp Lửa,

Đêm sao có thể đặc như chì?

Đốt cho bom đạn tan thành lệ,

Hai ngả sông sầu hãy nguyện đi!

Hãy nguyện cho màu tang nổi gió

Trên đầu quả phụ với cô nhi!

Mẹ ơi, tóc hãy làm giông tố!

Màu tóc màu tang có khác gì…

Trắng một vòng bay quanh Trái Đất,

Nối dài Thông Điệp Lửa uy nghi.

Sáng trưng Hỏa Lệnh, bồ câu trắng

Sẽ đốt Thời Gian mở lối về.

(Đêm Phật Đản 2511)

Trích trong tập thơ Bút Nở Hoa Đàm của Vũ Hoàng Chương

 

Bút pháp thiền sư Thích Nhất Hạnh

 

LỜI TỰ THUẬT
SAU CÙNG CỦA NHẤT CHI MAI

Tôi viết tất cả 10 bức thư để lại.

Ngày mai tôi sẽ lo lắng một mình tôi buổi lễ tự thiêu.

Tôi cho các nhà báo, nhiếp ảnh hay và một ít bạn thân đến nơi tôi dự định mà không cho họ biết trước chuyện gì sẽ xẩy ra.

Tôi mua 10 lít xăng. Địa điểm tôi chọn là Chùa Từ Nghiêm, tôi có ý đến Nhà Thờ Đức Bà hay một nơi công cộng có tính cách lịch sử một chút, mà thôi.

Phía trước mặt tôi đặt hai bức tượng: Đức Mẹ Maria với hai bàn tay đưa ra. Đức Quán Thế Âm với đôi mắt dịu hiền. Cả hai nhìn tôi và ban ơn cho tôi tròn ước nguyện. Trước mặt và sau lưng tôi có hai biểu ngữ tôi viết:

“Con chắp tay quỳ xuống

Xin Đức Mẹ Maria

Đức Quan Âm, Phổ Hiền

Cho con và ước nguyện.”

Và:

“ Xin đem thân làm đuốc

Xin soi sáng U Minh

Xin Tình người thức tỉnh

Xin Việt Nam Hòa Bình”.

Cầu xin cho tôi can đảm, bình tĩnh mà ngồi yên trong lửa đỏ.

Tôi sẽ quỳ xuống chấp tay niệm Phật và thầm gọi “Việt Nam”.

Người tự thiêu cầu Hòa Bình
Thích Nữ Nhất Chi Mai
Tự: Nhất Chi
Pháp danh: Diệu Huỳnh.

 

Thư Nhất Chi Mai gởi Thầy

THƯ GỬI THẦY
(Chị Nhất Chi Mai là một trong sáu người đầu tiên được thọ 14 Giới Tiếp Hiện với Thầy Làng Mai)

Việt Nam, 15 – 5 – 67.
Kính bạch Thầy,

Ngày mai con sẽ thiêu thân để cầu Hòa Bình cho Việt Nam. Con xin đóng góp với Thầy, với tất cả những nhà nhân bản Việt Nam và thế giới trong phong trào Mong Hòa Bình cho Việt Nam bằng tất cả những gì con hiện có.

Con mong tất cả an lòng, tiếng nói nhân bản, chính nghĩa sẽ được tiếp nối và kết quả không lâu.

Kính thư,
Thích Nữ Nhất Chi Mai
Tự: Nhất Chi
Pháp danh: Diệu Huỳnh
Tự thiêu để cầu Hòa Bình Việt Nam
Mùa Phật Đản 2511 (5-1967)

 

____________________________________

Những bài có liên quan:

– Dòng tiếp hiện và những hoạt động dấn thân
– Bền bỉ lửa trái tim
– Giọt nước cánh chim

Từ điển Làng Mai

Tu dien Lang Mai 1Tu dien Lang Mai

Làng Mai không phải chỉ là một trung tâm thực tập thiền học mà còn là một tư trào văn hóa. Có cội nguồn Việt Nam, nhưng Làng Mai đã đối diện và tiếp thu những yếu tố của các cội nguồn văn hóa khác trên thế giới để trở nên một tư trào, một nếp sống mà bất cứ từ quốc gia nào, chủng tộc nào hay văn hóa nào, mỗi khi tới với Làng Mai, ai nấy đều cảm thấy thoải mái, an lạc và tìm lại được mình và cội nguồn của mình. Cách sống, cách thương yêu, cách làm việc, cách thực tập, cách tiếp xử theo Làng Mai đã đem lại niềm vui sống, nguồn tin yêu và sự hòa giải đến cho những người đã có duyên được tiếp xúc trực tiếp hay gián tiếp với Làng Mai.

Hiện đã có gần một ngàn tăng thân và cơ sở trên thế giới đang thực tập và sống theo nếp sống Làng Mai. Có nhiều bạn muốn tìm hiểu thêm về Làng Mai. Từ Điển Làng Mai sẽ giúp các bạn hiểu thêm về nếp sống và tư trào văn hóa Làng Mai. Những từ ngữ nào có mang ý nghĩa đặc biệt của Làng Mai đều có thể được tìm thấy trong Từ Điển này. Những danh từ Phật học không mang màu sắc, không mang những ý nghĩa đặc biệt của Làng Mai và có thể tìm thấy trong bất cứ bộ Từ Điển Phật học nào, thì sẽ không có trong Từ Điển Làng Mai. Những thuật ngữ Làng Mai, những pháp môn tu tập của Làng Mai, những kinh sách của Làng Mai, những cơ sở và tăng thân của Làng Mai trên thế giới, những khóa tu, những bài tụng, những bài hát của Làng Mai, những giai thoại về Làng Mai, tên tuổi những vị giáo thọ Làng Mai, những vị xuất gia Làng Mai, v.v… đều có thể tìm thấy trong Từ Điển Làng Mai.

Mọi phản hồi, đóng góp về nội dung cũng như thông tin có trong các mục Từ điển Làng Mai, xin hoan hỷ gửi về cho BBT theo email: tudien@langmai.org.

Kệ truyền đăng năm 2017

Kệ truyền đăng cho 13 vị giáo thọ tại Làng Mai Thái Lan trong Đại giới đàn Tánh Thiên (từ ngày 21 – 25/2/2017)
Thầy Thích Chân Pháp Hương
(Nguyễn Tâm Thành; Pháp danh: Tâm Hòa Phước)
Chân Pháp nhất vị
Trụ giải thoát Hương
Đẳng vô phân biệt
Nhập chúng y vương.
Thầy Thích Chân Giới Đức
(Nguyễn Phước Nhật; Pháp danh: Nhuận Bình)
Giới pháp Như Lai trao diệu dụng
Vô hành đạo Đức tiếp nguồn xưa
Mỗi bước chân thơm lòng Tịnh Độ
Hơi thở uyên nguyên một Phật thừa.
Sư cô Thích nữ Chân Chung Nghiêm
(Tống Thị Diệu Trang; Pháp danh: Diệu Hoàng)
Bàn tay của chân tình
Chung vui tịnh độ sinh
Hơi thở và ánh mắt
Nghiêm toả rạng bình minh.
Sư cô Thích nữ Chân Phát Nghiêm
(Đoàn Thị Uyên; Pháp danh: Tâm Liễu)
Dương xuân trời đất nẩy mầm xanh
Quyết phát tâm bi khởi niệm lành
Xây dựng nghĩa tình qua ánh mắt
Nghiêm từ buông xả tưởng vô minh.
Sư cô Thích nữ Chân Hoàng Nghiêm
(Nguyễn Thị Hồng Âu; Pháp danh: Tâm Phước Hải)

Bửu tháp huy hoàng rạng tổ tông
Tài bồi nghiệp tuệ nghiêm trời đông
Gió sớm mây chiều tuyên bát nhã
Cơ duyên đốn ngộ cứ thong dong.

Sư cô Thích nữ Chân Diên Nghiêm
(Đoàn Thị Ánh Tuyết; Pháp danh: Tâm Nhật Thành)

Ngọn lửa chân truyền soi cảnh huyễn
Diên trường thọ mạng nhờ nghiêm đức
Một sáng biển đông bừng trang sử
Tỳ lô trăng rọi cửa song thư.

Sư cô Thích nữ Chân Quế Nghiêm
(Phan Nữ Bích Câu; Pháp danh: Tâm Thanh Quang)
Sừng sững trên núi cao
Quế thanh quế vẫy chào
Nghiêm minh và tri túc
Im lặng tình thâm giao.
Sư cô Thích nữ Chân Cư Nghiêm
(Trần Thị Phượng; Pháp danh: Tâm Phước Quảng)
Vui nếp tĩnh trên thật địa
Thâm ân đáp trọn đạo uy nghiêm
Trước sau bền vững lời nguyện ước
Theo dòng nhập thế ngát hương thiền.
Sư cô Thích nữ Chân Đạm Nghiêm
(Phạm Thị Vy; Pháp danh: Tâm Quảng Pha)
Huyền Quang hiện áng mây thanh đạm
Hạt giống gieo trồng cõi tịnh nghiêm
Trái tim cam lộ nguyền tiếp nối
Giới tuệ chuyên cần tối chân nhân.
Sư cô Thích nữ Chân Tinh Nghiêm
(Nguyễn Thị Bé; Pháp danh: Tâm Quảng Hạnh)
Giới thân trọn vẹn tinh nguyên
Kho tàng pháp bảo thâm uyên trao rồi
Nghiêm trì hạnh nguyện cứu đời
Bước vào biển tuệ xa rời chốn mê.
Sư cô Thích nữ Chân Viên Nghiêm
(Lê Thị Tuyết Thư; Pháp danh: Tâm Diệu Như)
Nguyện xưa viên mãn,đức vun trồng
Giới thân nghiêm hộ, tuệ sáng trong
Buông hết thị phi ba nghiệp lắng
Tìm về thấy được tự tính không.
Sư cô Thích nữ Chân Trọng Nghiêm
(Lê Thị Minh Hoa; Pháp danh: Tâm Liên)

Chân Tăng kính trọng ở trong lòng
Nghiêm thường gieo rải hạt tịnh không
Cõi tâm trăng sáng hoa từ nở
Nụ cười nhẹ chớm chốn thong dong.

 

 

 

 

Sư cô Thích nữ Chân Lâm Nghiêm
(Đặng Thị Như Quý; Pháp danh: Tâm Nhuận Thủy)

Tùng lâm mỗi phút ươm hạt quý
Nghiêm mật từng giây tưới hạt bi
Mây lành dạo qua từ đỉnh núi
Chim hót thông đùa diễn pháp âm

 

 

 

 

 

Kệ truyền đăng cho 10 vị giáo thọ tại Làng Mai (Pháp) vào ngày 25.2.2017 trong khóa tu xuất sĩ:

 

Thầy Thích Chân Đức Tạng
(Peter Quốc Tuấn Trang; Pháp danh: Trung Lý)
 
Giới đức vun bồi vô tận tạng
Ngàn năm thơm mãi vẫn còn vương
Mỗi phút chân trâu là vô giá
Chỉ quán trong tay mọi nẻo đường.
Thầy Thích Chân Pháp Kim
(Nguyễn Vũ hoàng; Pháp danh: Tâm Hòa Niệm)
Pháp bảo kim cang tối thượng thừa
Tương ưng hành giải chẳng nhặt thưa
Rút gươm trí tuệ nhờ tay khéo
Chém sạch duyên trần rộng lối xưa.

 

 

 

 

 

Sư cô Thích nữ Chân Khuyến Nghiêm
(Ralu Mó Tuyết; Pháp danh: Tâm Thanh Tú)
Chim hót ca vang điều khuyến thiện
Bàn tay từ ái cõi tịnh nghiêm
Công phu vốn sẵn đầy châu ngọc
Gấm thêu dâng tặng khắp mọi miền.
Sư cô Thích nữ Chân Kế Nghiêm
(Đặng Thị Thu Duyên; Pháp danh: Tâm Quang Tiến)
Kế thừa sự nghiệp của Như Lai
Nghiêm minh tu học đức lẫn tài
Bước chân thanh thản cùng sông núi
Trăng sao mở hội đón ngày mai.
 

Sư cô Thích nữ Chân Thúy Nghiêm
(Nguyễn Thị Mỹ Lý; Pháp danh: Tâm Nguyên Trung)
Như chơn thâm Thúy kim ngôn
Nghiêm từ tánh giới sống còn ở đây
Vào dòng địa xúc phút giây
Tương dung lui tới chốn này rong chơi.
 

Sư cô Thích nữ Chân Trưởng Nghiêm
(Phạm Thị Ngọc Sương; Pháp danh: Lệ Phước)
Trưởng dưỡng nguồn tâm từ Pháp Võ
Trang nghiêm Bát Nhã diệu âm vang
Thân đâu tâm đó là nguồn sống
Tự tại vào ra cửa Lạc Bang.
Sư cô Thích nữ Chân Huấn Nghiêm
(Nguyễn Thị Kim Nhung; Pháp danh: Tâm Diệu Ngộ)
Nương lời giáo huấn nghiêm minh
Công phu cần mẫn an bình nội tâm
Tình thương chuyển hoá tình thâm
Trăng khuya vằng vặc khói trầm nhẹ bay.
 

Sư cô Thích nữ Chân Hào Nghiêm
(Nguyễn Thị Mộng Mơ; Pháp danh: Tâm Phước Hà)
Nụ cười chánh niệm tỏa hào quang
Trang nghiêm chiếu rọi khắp mười phương
Công phu giới định trình thật tướng
Ước nguyện năm xưa đã tận tường.
Sư cô Thích nữ Chân Diễn Nghiêm
(Bùi Thị Lệ Thu; Pháp danh: Tâm Phước Tuệ) 
Cõi Bụt diễn hiện ngay cõi này
Uy nghiêm an tịnh từng phút giây
Ba nghiệp tỏa sáng hương thơm ngát
Tiếp nối tổ tông pháp hiển bày.
 

Sư cô Thích Nữ Chân Lực Nghiêm:
(Emmanuelle Macaud; Pháp danh: Tâm Chân Lạc)
The Power of Love and Understanding
Is like Spring Rain beautifying Mother Earth
Life is music we make together
Removing all ideas of you and me.

Lễ Truyền đăng cho sư cô Chân An Nghiêm:

Vào ngày 19.07.2017, tại Phật đường, xóm Mới, Sư cô Chân Không và Sư cô Chân Đức đã thay mặt Sư Ông và tăng thân truyền đăng cho sư cô Chân An Nghiêm. Dưới đây là hai bài kệ truyền đăng dành cho sư cô Chân An Nghiêm (một bài tiếng Anh và một bài tiếng Việt):

Tiếng Anh:

A cool, refreshing breeze of peace

Adorns the ocean of insight.

You let long years of striving cease

And gently lay the burden down.

Tiếng Việt (trích trong bài thơ truyền đăng):

               

… Thầy bệnh, không nói năng

Mắt nhìn con đăm đăm

An nhiên và tự tại

Trang nghiêm con vâng lời …

 

Kệ truyền đăng năm 2016

Kệ truyền đăng cho 62 vị giáo thọ xuất sĩ trong Đại giới đàn Ân Nghĩa, từ ngày 22 đến 27 tháng 3 năm 2016, tại Làng Mai ở Pháp và Thái Lan

 

Thầy Thích Năng Độ

(vị xuất sĩ nam đầu tiên người Trung Hoa được truyền đăng từ Sư Ông và Tăng thân Làng Mai)

Năng tu tam học thường tinh tấn
Tự độ độ tha chứng nghĩa huyền
Liễu ngộ tương tức đạt chân không
Mai thôn phó pháp tổ đăng truyền.
 
 
 
 
 
 
 
 
Thầy Thích Chân Hạnh Ngộ
Thế danh: Nguyễn Bảo Ninh
Pháp danh: Quảng Định
 
Pháp Bụt ngàn năm hạnh ngộ
Cơ duyên đất tổ thọ trì
Cùng nhau xuôi về biển giác
Ngồi thuyền bát nhã đề thi.
 
 
 
 
 
Thầy Thích Chân Mãn Thành
Thế danh: Trần Tiến Mạnh
Pháp danh: Tâm Pháp
 
Nhất tâm nguyện mãn chí thành
Ngoài kia mây trắng trời xanh gọi mời
Bình minh vừa dậy tinh khôi
Biết bao cơ hội độ người trầm luân.
 
 
 
 
 
Thầy Thích Chân Pháp Thăng
Thế danh: Nguyễn Thanh Thọ
Pháp danh: Tâm Thanh Bạch
 
Pháp môn có sẵn tầm tay
Công phu thăng tiến, ngày ngày đi lên
Quê hương nghĩa trả ân đền  
Đi trên thật địa, ngồi trên pháp tòa.
 
 
 
 
Thầy Thích Chân Pháp Tánh
Thế danh: Võ Văn Trinh
Pháp danh: Tâm Minh Trung
 
Pháp tánh vốn là thật tánh
Từ đời vô thỉ trinh nguyên
Biển thức gió yên sóng lặng
Bình an trăng chiếu bên thềm.
 
 
 
Thầy Thích Chân Pháp Thủy
Thế danh: Nguyễn Toàn
Pháp danh: Tâm Nguyên Thiện
 
Cam lộ tuôn pháp lực
Tịnh thủy mãi luân lưu
Niềm Có Không vượt thoát
Đạt như ý sở cầu.
 
 
 
 
 
Thầy Thích Chân Pháp Nhiệm
Thế danh: Lê Minh Trí
Pháp danh: Tâm Nguyên Huệ
 
Pháp Bụt quả là mầu nhiệm
An vui ngay tại nơi này
Lưới đế châu luôn ảnh chiếu
Nhìn hôm nay thấy ngày mai.
 
 
 
Thầy Thích Chân Pháp Nguyệt
Thế danh: Trương Nhật Danh
Pháp danh: Tâm Nhuận Nhân
 
Chí lớn hành trì Phật Pháp
Khiêng vầng nhật nguyệt trên vai
Linh Thứu nhìn về Xá Vệ
Trái tim ôm hết muôn loài.
 
 
 
 
Thầy Thích Chân Pháp Tồn
Thế danh: Phùng Duy Thanh
Pháp danh: Tâm Duy Trí
 
Giới pháp cánh hoa mầu nhiệm
Bảo tồn hương sắc đời tu
Tăng thân là dòng hướng thượng
Đi trong ánh sáng diệu từ.
 
 
 
 
Thầy Thích Chân Pháp Thiệu
Thế danh: Phạm Được
Pháp danh: Tâm Nguyên Lưu
 
Giáo pháp Như Lai ứng dụng
Thánh hiền hạt giống thiệu long
Phạm âm ngày đêm vang vọng
Đất thiêng dược thảo muôn trùng.
 
 
 
 
 
 
Thầy Thích Chân Pháp Xứ
Thế danh: Huỳnh Tài
Pháp danh: Tâm Khánh Quang
 
Pháp Phật cao siêu huyền diệu nghĩa
Tâm đăng Tổ ấn chiếu muôn đăng
Giới luật nghiêm trang thanh tịnh xứ
Từ bi trí tuệ thị thánh tăng.
 
 
 
 
 
Thầy Thích Chân Pháp Diệu
Thế danh: Bùi Quang Bình
Pháp danh: Tâm Khánh Viên
 
Pháp môn vi diệu thiết thân
Ý hòa hơi thở mở dần lượng tâm
Sớm hôm huynh đệ tương lân
Ngọt lành dâng tạ biển ân muôn trùng.
 
 
 
 
 
Thầy Thích Chân Pháp Khởi
Thế danh: Trần Phương Huy
Pháp danh: Tâm Thường Minh
 
Tịnh độ ca vang dòng suối pháp
Biển lòng thanh tịnh nước từ bi
Tăng thân khởi xướng vô sinh khúc
Đã về đã tới mỗi bước đi.
 
 
 
 
 
Thầy Thích Chân Pháp Công
Thế danh: Chu Minh Tiến
Pháp danh: Tâm An Lạc
 
Chân như pháp Bụt thả nên công
Chánh niệm thuyền đi lướt nhẹ nhàng
Thầy Tổ trao tay cung kiếm báu
Ngại gì không cười lớn reo vang.
 
 
 
 
 
Thầy Thích Chân Pháp Chí
Thế danh: Võ Văn Đức
Pháp danh: Tâm Nguyên Trí
 
Kho tàng pháp bảo còn lưu
Ngày đêm bền chí khéo cầu khéo tu
Vào ra hơi thở thuần nhu
Đượm tình quê cũ bây giờ ở đây.
 
 
 
 
 
Thầy Thích Chân Pháp Chứng
Thế danh: Nguyễn Tri Thức
Pháp danh: Tâm Trí Hải
 
Pháp Bụt cao siêu quá nhiệm mầu
Vào dòng thân chứng lặng buồn đau
Hoa nở lối về thơm đất mẹ
Trời khuya lấp lánh hội ngàn sao.
 
 
 
 
Thầy Thích Chân Pháp Hiên
Thế danh: Mai Văn Khảm
Pháp danh: Tâm An Hòa
 
Pháp thí năng lượng vô biên
Hiên ngang vượt thoát sử triền có không
Mỗi đi mỗi một vào dòng
Sông xanh về biển sáng cùng trăng sao.
 
 
 
 

 

 

Thầy Thích Chân Pháp Siêu
Thế danh: Davis Quang Nguyễn
Pháp danh: Tâm Quảng Minh
 
Crystal refracts rays of the Dharma Lamp
Bathing all beings in a transcendent light
Of acceptance, the fruit of your open heart and understanding.
It warms from within the ancient forest with life.
 
 
 
 
 
 

Thầy Thích Chân Pháp Tử
Thế danh: Junaidi Chua
Pháp danh: Thái Huệ
 
One vehicle bears son and father,
True love propagates one Dharma,
One taste there is no returning
One moment, unbound, no thinking.
 
 
 
 
 
Thầy Thích Chân Pháp Linh
Thế danh: Lucas Dylan Pugh
Pháp danh: Universal Compassion of the Source
 
The Dharma bell resounds across land and waters,
Harmonious spirit reaches hearts and minds,
Widening circles know well their true home –
This breath, this step, are the wonder, right now.
 
 
 
Thầy Thích Chân Pháp Nguyện
Thế danh: Trịnh Ngọc Hảo
Pháp danh: Tâm Trúc Hảo
 
Pháp thân mở rộng trời phương ngoại
Cõi Bụt tuôn dòng suối hiểu thương
Nguyện sống rong chơi trên đất mẹ
Hoa mai nở ngát cả ngàn phương.
 
 
 
 
 
Thầy Thích Chân Pháp Áo
Thế danh: Đoàn Thanh Ngọc Linh
Pháp danh: Tâm Hòa Kiên
 
Pháp nhà thâm áo khôn lường
Gươm mầu chỉ quán tỏ tường huyền cơ
Lòng đất nở đóa nguyên sơ
Sắc không không sắc vượt bờ tử sinh.
 
 
 
 
 
Thầy Thích Chân Pháp Cứ
Thế danh: Hoàng Minh Tân
Pháp danh: Tâm Hòa Khai
 
Chân pháp muôn đời ta y cứ
Niệm lực thắp sáng tỏ chân như
Đường về không lối thênh thang bước
Biển thức lặng hết mọi ngôn từ.
 
 
 
 
 
 
Thầy Thích Chân Pháp Dũng
Thế danh: Đào Văn Lợi
Pháp danh: Tâm Quảng Trường
 
Pháp âm thuở ấy mãi lưu truyền
Khéo nuôi dũng khí một thắng duyên
Ban đầu tâm ấy nhuần sông núi
Nở đoá hồng liên giữa não phiền.
 
 
 
 
 
 
Thầy Thích Chân Pháp Khả
Thế danh: Đinh Viết Năm
Pháp danh: Tâm Thiện Pháp
 
Con mắt chánh pháp truyền trao
Khả tri thực tướng liền vào cõi không
Tử sinh chẳng chút bận lòng
Tấu lên diệu khúc đại đồng yêu thương.
 
 
 
 
 
Sư cô Thích Nữ Chân Thùy Nghiêm
Thế danh: Nguyễn Thị Em
Pháp danh: Tâm Tuệ Trang
 
Bồ tát thùy từ rảy nhành dương
Tay vàng nghiêm tịnh cứu muôn phương
Ô hay, thuyền đã về Tây trúc
Định tuệ từng giây thẳng một đường.
 
 
 
 
 
Sư Cô Thích Nữ Chân Đan Nghiêm
Thế danh: Nguyễn Thị Nhân
Pháp danh: Tâm Diệu Hòa
 
Một hạt linh đan nghìn công tỉnh
Một tâm nghiêm tịnh đất trời bình
Đã sẵn trong tay kho bảo mật
Dạo bước vào đời vớt nhân sinh.
 
 
 
 
 
 
Sư Cô Thích Nữ Chân Nội Nghiêm
Thế danh: Dương Hồng Thanh
Pháp danh: Tâm Viên Xuân
 
Nội minh tỏa chiếu khắp vườn thiền
Giới định sáng soi nghiêm đất tịnh
Tâm đầu một hướng cùng chung bước
Dạo khúc vô sinh giữa mọi miền.
 
 
 
Sư Cô Thích Nữ Chân Đóa Nghiêm
Thế danh: Nguyễn Thị Thủy Tiên
Pháp danh: Tâm Bối Từ
 
Thiền tâm nở đóa giới hương
Nghiêm lòng nếp cũ gởi nương thượng thừa
Công phu gầy dựng thuở xưa
Sẵn thuyền bát nhã đón đưa người về.
 
 
Sư cô Thích Nữ Chân Tác Nghiêm
Thế danh: Nguyễn Thị Hồng Thắm
Pháp danh: Tâm Diệu Bình
 
 tác chung cùng niệm định sâu
Mật nghiêm đuốc tuệ chạm lẽ mầu
Thuyền từ huynh đệ chung tay lái
Xuống lên bình lặng đượm ân nhau.
 
 
 
 
 
 
Sư cô Thích Nữ Chân Thuấn Nghiêm
Thế danh: Phan Thị Thanh
Pháp danh: Tâm Nguyên Nhân
 
Thuấn tâm niệm niệm dưỡng nuôi
Nghiêm từ địa xúc tới lui mỗi ngày
Sống còn trong mỗi phút giây
Trước ba đào lặng đong đầy tình quê.
 
 
 
 
 
 
 
 
Sư cô Thích Nữ Chân Quốc Nghiêm
Thế danh: Dương Thị Đào
Pháp danh: Tâm Thanh Hà
 
Cố quốc đi về mỗi bước chân
Trang nghiêm đất tịnh tịnh thân tâm
Vũ trụ ngời lên từng hơi thở
Nở hoa định tuệ thấy xa gần.
 
 
 
 
 
 
 
 
Sư cô Thích Nữ Chân Áo Nghiêm
Thế danh: Phạm Thị Kiều Diễm Thương
Pháp danh: Tâm Diệu Quang
 
Mỗi bước tiến gần tới Chân nhân
Áo nghĩa thâm nghiêm đã nhập thần
Hiện tiền trăng rọi vườn Trăng Tỏ
Lối về thắp sáng cả Tăng thân.
 
 
 
 
 
 
Sư cô Chân Trạm Nghiêm
Thế danh: Mó Hai
Pháp danh: Tâm Thanh Tri
 
Trạm nhiên dấu ấn vô sinh
Nghiêm từ tỏa sáng hòa bình bước chân
Truyền thông bi thính xa gần
Vầng trăng vằng vặc hồ tâm tăng đoàn.
 
 
 
 
 
 
Sư cô Thích Nữ Chân Họa Nghiêm
Thế danh: Lê Thị Duyên Anh
Pháp danh: Tâm Quang Trú
 
Thiên nhiên bức họa thần kỳ
Thân nghiêm mang ấn luật nghi còn là
Khoan từ mỗi bước vào ra
Bốn mùa xuân thắm sơn hà bình yên.
 
 
 
 
 
Sư cô Thích Nữ Chân Tích Nghiêm
Thế danh: Mó Thôi
Pháp danh: Tâm Thanh Định
 
Công phu tích đức bao đời
Được thân thọ dụng ngời ngời uy nghiêm
Hương giải thoát tỏa khắp miền
Thong dong cất bước lên thuyền Đại Bi.
 
 
 
 
 
Sư cô Thích Nữ Chân Thuần Minh
Thế danh: Hoàng Thị Kim
Pháp danh: Nguyên Ngộ
 
Ngàn xưa non cũ thuần kinh sử
Mây nguồn gió cội tỏ tâm minh
Một hơi thở nhẹ đất trời chuyển
Mở lối đệ huynh đón chữ tình.
 
Sư cô Thích Nữ Chân Phẩm Nghiêm
Thế danh: Nguyễn Châu Thanh
Pháp danh: Tâm Tịnh Bình
 
Sóng xô nghiêng đổ bờ mê vọng
Cao tòa phẩm hạnh ngự trang nghiêm
Đàn tràng bát nhã về chung hướng
Dạo khúc tâm ca nhịp bước thiền.
 
 
 
 
 
Sư cô Thích Nữ Chân Nghĩa Nghiêm
Thế danh: Bùi Thị Kim Phương
Pháp danh: Tâm Diệu Châu
 
Một kiếp bồi đắp trọn nghĩa tình
Nghiêm lòng vững chí vượt tử sinh
Bến cũ thuyền về tay cứu độ
Cao lời dạo hát khúc vô sinh.
 
 
Sư cô Thích Nữ Chân Nhãn Nghiêm
Thế danh: Lê Thị Giang Phương
Pháp danh: Tâm Thanh Vinh
 
Tâm đăng nhãn tuệ thường toả chiếu
Không có không không khó thể lường
Giới hạnh nghiêm thân đừng xao lãng
Hoa đào nở sáng khắp quê hương.
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Sư cô Thích Nữ Chân Hiển Nghiêm
Thế danh: Phan Thị Mỹ
Pháp danh: Tâm Giác Lâm
 
Vườn thiền hiển lộ mạch từ bi
Núi trăng nghiêm hộ đức bảo trì
Phút giây xóa sạch bờ mê vọng
Tuệ giác bừng lên phép diệu kỳ.
 
 
 
 
 
 
 
Sư cô Thích Nữ Chân Tuấn Nghiêm
Thế danh: Nguyễn Thị Liên Phương
Pháp danh: Tâm Quảng Thảo
 
Cỡi sóng tử sinh lực tuấn cường
Vượt dòng hệ lụy giữ nghiêm cương
Thảnh thơi dạo bước bờ mê vọng
Mây núi hòa chung khúc lạc thường.
 
 
 
 
 
 
Sư cô Thích Nữ Chân Thuyết Nghiêm
Thế danh: Châu Thị Ty
Pháp danh: Tâm Hiền Nhàn
 
Thuyết giáo mãi mãi tùy cơ
Đoan nghiêm thân ý thuần từ bước chân
Giới hoa thơm tỏa biển tâm
Hương lan huynh đệ sớm hôm sum vầy.
 
 
 
 
 
 
 
 
Sư cô Thích Nữ Chân Tĩnh Nghiêm
Thế danh: Nguyễn Thị Ngân
Pháp danh: Tâm Nhuận Phương
 
Tĩnh lặng uy nghiêm dòng tịnh thuỷ
Suối từ ngọt lịm rưới ngàn phương
Tình sâu nghĩa nặng mong đền đáp
Lòng dạ sắc son ước hiểu thương.
 
 
 
 
 
Sư cô Thích Nữ Chân Hưng Nghiêm
Thế danh: Trần Thị Luy Na
Pháp danh: Tâm Huệ
 
Rừng thiền hưng thịnh nhờ nghiêm giữ
Đất lòng tinh sạch tự tâm khai
Phước tuệ song song cùng hội ước
Chẳng ngại trong tay một dấu tài.
 
 
 
 
 
 
Sư cô Thích Nữ Chân Lạc Nghiêm
Thế danh: Nguyễn Thị Kim Hòa
Pháp danh: Tâm Hoa Tâm
 
Cam lộ dâng dòng suối lạc nghiêm
Mai thôn đất mẹ tịnh thanh lương
Quê hương về đến nơi từng bước
Chim hót thông reo mọi nẻo đường.
 
 
 
 
 
 
Sư cô Thích Nữ Chân Vịnh Nghiêm
Thế danh: Vũ Thị Thanh Phúc
Pháp danh: Tâm Diệu Chúc
 
Ba cõi vịnh chung khúc đạo thiền
Bé thơ nghiêm bước dạo vườn tiên
Hồ tâm lóng lánh màu bi mẫn
Rưới mát nhân gian hết trược phiền.
 
 
 
 
 
 
Sư cô Thích Nữ Chân Hoằng Nghiêm
Thế danh: Lê Thái Minh Trinh
Pháp danh: Tâm Hoa Đức
 
Hoằng dương diệu pháp khắp hằng sa
Định tuệ nghiêm trang chốn ta bà
Giới luật uy nghi ngời phạm hạnh
Pháp thân tỏa sáng giữa bao la.
 
 
 
 
 
 
 
Sư cô Thích Nữ Chân Tạng Nghiêm
Thế danh: Trần Hồng Minh Thư
Pháp danh: Tâm Đại Hiếu
 
Năm tạng để xuống Thu Bồn
An Ban nghiêm giữ mãi còn tuổi thơ
Ước nguyền về tới bây giờ
Trời Quang- Trăng Tỏ hai bờ sông thiêng.
 
 
 
 
 
 
Sư cô Thích Nữ Chân Lập Nghiêm
Thế danh: Nguyễn Thị Thu Hà
Pháp danh: Tâm Nguyên Dung
 
Lên non lập nguyện trì nghiêm mật
Nắm chặt cương lòng giữ bi tâm
Ngày kia mây nước về chung hội
Bảo kiếm trong tay ứng hiện trần.
 
 
 
 
 
 
Sư cô Thích Nữ Chân Đăng Nghiêm
Thế danh: Phạm Thị Hải Âu
Pháp danh: Tâm Thanh Nguyện
 
Chánh pháp tâm đăng sáng tỏ tường
Nghiêm thân trì giới bước uy nghi
Bồ đề lấp lánh ngàn ánh lửa
Tuổi trẻ từ bi đẹp xuân thì.
 
 
 
 
 
 
 
Sư cô Thích Nữ Chân Huệ Nghiêm
Thế danh: Nguyễn Thị Thắm
Pháp danh: Tâm Thanh Diệu
 
Vô thường định huệ nghiêm trì
An nhiên hiện pháp luật nghi ra vào
Gió trăng lưng túi tiêu dao
Thong dong huynh đệ ngọt ngào suối thương.
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Sư cô Thích Nữ Chân Nguyệt Nghiêm
Thế danh: Phan Thị Ngọc Phương
Pháp danh: Tâm Thanh Túc
 
Bóng nguyệt in dòng suối thánh nghiêm
Rong chơi đất nước xót thương người
Trong tay cầm mặt trời trí tuệ
Tuổi trẻ hồn nhiên Bụt mỉm cười.
 
 
 
 
 
 
Sư cô Thích Nữ Chân Tiến Nghiêm
Thế danh: Nguyễn Thị Thái
Pháp danh: Tâm Diệu Hòa
 
Tinh tiến công phu một tấm lòng
Trang nghiêm đất Bụt bước thong dong
Vườn tâm hoa nở ngày chăm sóc
Sạch hết bao nhiêu lớp bụi trần.
 
 
 
 
 
Sư cô Thích Nữ Chân Toại Nghiêm
Thế danh: Phan Thị Mâu
Pháp danh: Tâm Diệu Thuần
 
Một nhà toại nguyện nhờ đức lớn
Thiền lâm nghiêm giữ chốn anh linh
Trời Quang lóng lánh màu châu ngọc
Trăng Tỏ mượt mà lộc tinh minh.
 
 
 
 
 
 
Sư cô Thích Nữ Chân Duyệt Nghiêm
Thế danh: Nguyễn Thị Hồng Ngọc
Pháp danh: Tâm Thanh Lương
 
Duyệt tâm ấp ủ mỗi ngày
Trang nghiêm linh địa phương này dựng xây
Nâng trà nhắp thắm am mây
Rừng khô đơm lộc đầm lầy nhả hương.
 
 
 
 
 
 
Sư cô Thích Nữ Chân Hiến Nghiêm
Thế danh: Natasha Phillips
Pháp danh: Ideal Realisation of the Heart – Tâm Tuyệt Đắc
 
Dedication springs up from the earth of the mind
Adorning the world with loving-kindness and joy.
Supporting each other all species interare.
From beginningless time we have not been apart.
 
 
Sư cô Thích Nữ Chân Hài Nghiêm
Thế danh: Prune Ramanoelina
Pháp danh: Joyeux Chemin du Coeur
 
Hài hòa chân hôn đất mẹ
Con đường vui chốn từ nghiêm
Mai thôn ý thiên (Dieulivol) gìn giữ
Nhẹ buông những mối ưu phiền.
 
Elle caresse la Terre Mere de ses pas harmonieux
Son joyeux chemin a égayé le temple de compassion
Dieu a voulu qu'elle protège le Village des Pruniers  
en présentant gentiment ses vues contrariées.

 
 
 
 

Sư cô Thích Nữ Chân Sĩ Nghiêm
Thế danh: Lee Fung Man
Pháp danh: Peaceful Presence of the Heart
 
Cam lộ thanh lương lòng thượng
Trái tim của Bụt ứa từ bi
Bao nhiêu khổ luỵ tiêu tan hết
Tự tại trang nghiêm cõi diệu kỳ.
 
 
 
 
 
 
Sư cô Thích Nữ Chân Xả Nghiêm
Thế danh: Nguyễn Thị Thanh Tâm
Pháp danh: Tâm Nhuận Chánh
 
Đông phương vừa sáng một vầng hồng
Vạn pháp tùy duyên vạn vật thông
Từ bi hỷ xả nghiêm tu tập
Chánh niệm dung thông chốn bụi hồng.
 
 
 
 
 
 
Sư cô Thích Nữ Chân Biểu Nghiêm
Thế danh: Nguyễn Thị Thạo
Pháp danh: Tâm Đức Hiếu
 
Vườn ruộng tổ tiên vẫn giữ gìn
Hạt lành biểu hiện đóa nghiêm trinh
Bối thơm thầy gửi nguồn thâm tín 
Âu Việt trăng tròn hương ngát thêm.
 
 
 
 
 
 
Sư cô Thích Nữ Chân Duy Nghiêm
Thế danh: Phạm Thị Tường Hân
Pháp danh: Tâm Phước Duyên
 
Đạo đời chung nhịp duy nhất thở
An ban nghiêm mật đất trời bình
Bàn tay tế độ tâm dung lớn
Ôm trọn ngàn phương giọt nghĩa tình.
 
 
 
 
 
 

 

Kệ truyền đăng cho 9 vị giáo thọ cư sĩ:

Tư Đồ Minh (Chân Viên Thành)

Biến kế buông rồi sáng cõi tâm
Viên thành tự tánh hiện ba thân
Giọt nắng mùa thu mang viễn vọng
Xuân về rạng rỡ chốn non sông.
 
 
 
 
 

Lesley Collington (True Lotus of Joy)

The purity of insight blooms like the lotus
Creativity is joy in interbeing
Surmounting the obstacles we touch the true self
And remove the 3 complexes to feel true peace.
 
 
 
 
 
 
 
 

Teri West (True Door of Virtue)

Wonderful is the universal Dharma door:
True virtue is relayed through the performing arts.
Harmony within makes harmony all around:
Listening deeply we hear the transcendent sound.
 
 
 
 
 
 
 
 

Susanne Olbrich (True Ever-present Stability)

Ever-present is the seed of deep understanding
True stability is like rain watering it.
How wonderful! We can both transform together
And enjoy playing the music that has no words.
 
 
 
 
 
 

Barbara Hickling (True Wonderful Land)

Lightly you touch the true wonderful emptiness
Ever-present the Pure land in each step and breath
Smiling you go forward on the heroic march
Building the sangha boat to rescue those in need.
 
 
 
 
 
 
 

Hilly Bol  (True Arising of Peace)

Arising from a refreshing source of mindfulness
Waters of contentment bring deep peace.
Responding with joy to the call for healing
The music of the heart resounds in all directions.
 
 
 
 
 
 
 
 

Dene Andrew Donalds (True Ever-present Peace)

Ever-present is the nirvāṇa here and now
Ancestors and descendants all enjoy its peace
You patiently remove the thorn of birth and death
Compassion brings beings to the shore.
 
 
 
 
 
 
 

Line Lacombe (Chân Bi Lực – Vrai Pouvoir de Compassion)

Chân Trời Tây rộng mở
Bi tâm trải muôn phương
Bờ Sông tăng thân trú
Hùng Lực thật phi thường.
 
L'occident ouvre largement sa porte
Bonté Aimante et Compassion   s'étalent dans dix directions
Le Sentier de la Riviere devenu point de refuge pour la sangha . Comme c’est tellement puissant le pouvoir de compassion.
 
 

Claude Godin – (Vraie Concentration sur la Compassion)

Chân Như thường vắng lặng
Bi tâm đã sẵn dành
Định Tuệ khơi dòng pháp
Bồ đề quả vị thành.
 
L’ainsi-été est l'extinction des notions
Compassion est toujours là
Concentration initie le courant du Dharma
L’éveil se revèle naturellement.
 
 
 
 

 

Lễ truyền đăng tại tu viện Mộc Lan (ngày 20.11.2016)

 

Thầy Thích Chân Pháp Mãn        
Thế danh: Aaron Kyle Solomon
Pháp danh: Peaceful Wonder of the Heart

      

Bích Nham tú lệ nét thanh cao         
Pháp bảo truyền trao bậc anh hào.  
Mãn khai hoa tuệ bừng khắp chốn   
Ngàn xưa truyền lại tới ngàn sau.       
 
 
 
 

Sư cô Thích nữ Chân Đài Nghiêm
Thế danh: Phạm Châu Tú Anh
Pháp danh: Tâm Thanh Liên
 
Chân trời mở rộng đường mây        
Đài sen thị hiện ngàn tay giúp đời   
Uy nghiêm nếp sống thảnh thơi      
Thiên thu cất tiếng, nhạc trời đồng thanh

Sư cô Thích nữ Chân Hải Nghiêm
Thế danh: Bùi Thị Mỹ Phương
Pháp danh: Tâm Diệu Hoa
 
Chân tâm ở tại lòng ta
Hải triều vang vọng lời ca thái bình   
Nghiêm trau giới đức, nội minh       
Trăng thu toả sáng mối tình thuỷ chung

Sư cô Thích nữ Chân Truyền Nghiêm
Thế danh: Hồ Thị Thắm
Pháp danh: Tâm Nguyên Hồng
 
Chân tình nở đoá hồng liên    
Truyền trao chánh pháp mãn nguyền tổ tông
Nghiêm hành tam học dung thông   
Quê hương từng bước núi sông rạng ngời      

 
Sư cô Thích nữ Chân Toàn Nghiêm
Thế danh: Trần Hà Vi
Pháp danh: Tâm Thanh Tú
 
Phước huệ song toàn trang dũng sĩ
Hương thiền nghiêm tịnh đức từ bi   
Ung dung phụng sự không ngừng nghỉ       
Mây trắng đi về vẫn thong dong        

Sư cô Thích nữ Chân Bạch Nghiêm       
Thế danh: Hoàng Thị Ngọc Hiền
Pháp danh: Như Lương
 
Bạch tịnh tâm trong như ánh nguyệt
Nghiêm trì giới sáng tợ sao Hôm
Nguyện muôn đời tiếp bước Thế Tôn         
Sạch lậu hoặc chứng vô sanh quả.

 

Kệ truyền đăng cho Thượng tọa Thích Nguyên Minh, trú trì chùa Kim Sơn, Nha Trang (ngày 9.12.2016 tại Sơn Cốc)
Nguyên sơ thể tánh sáng trong ngần
Minh lý Phật đà quả ứng nhân
Núi vàng sẵn có tay Bồ tát
Gieo hạt từ bi chẳng dính trần.
 
 
 
 
 
 

 

Kệ truyền đăng giáo thọ cư sĩ 2014

1.Chân Mật Lâm

(Lennis Lyon)

Thâm mật một kho giáo nghĩa
Trao truyền tự chốn thiền lâm
Tĩnh lặng trái tim mầu nhiệm
Phút giây tiếp thọ ân cần.

2.Chân Tịnh Sinh

(Michelle Pillot)

Mỗi bước đi vào Tịnh độ
Góp vào sự nghiệp độ sinh
Lắng nghe niềm đau nỗi khổ
Đưa người tới cõi an lành.

 

3.Chân Bảo Trì

(Jean Claude Blootaker)

Châu ngọc không gì bằng Tam Bảo
Công phu nhật dụng khéo duy trì
Mùa xuân đạo lý ngời an lạc
Đất trời hợp tấu khúc từ bi.

4.Chân Tịnh Tâm

(Corine Marquis)

Tịnh giới đóa sen tinh khiết
Hương thiền xông ngát chân tâm
Nuôi lớn trái tim đại nguyện
Mắt thương quán chiếu cõi trần.

5.Chân Thường Hỷ

(Tôn Nữ Diệu Liên)

Chánh niệm thường xuyên tu tập
Là nguồn hỷ lạc thân tâm
Đóa sen nhiệm mầu tinh khiết
Phát huy diệu dụng siêu trần.

 

6.Chân Giác Điền
(Nguyễn Hoàng Hùng)

 

Đuốc sáng soi về Giác ngạn
Gia phong còn lại phước điền
Quán chiếu đây nguồn niệm lực
Trên tay đèn tuệ quang minh.

 

7. Chân Giác Sơn

(Nguyễn Minh Chánh)

Nguồn tâm xuôi về Giác ngạn
Chân tình gửi lại Thứu sơn
Bên tai vẳng lời nguyện cũ
Vững chân từng bước an tường.

8.Chân Cam Lộ

(Nguyễn Kim Lê Việt)

Tào khê một giọt chân cam lộ
Sống dậy niềm tin cả vạn đời
Cứu hộ trần gian thường ứng hiện
Tâm lành cảm ứng đẹp muôn nơi.

9.Chân Phước Quả
(Trần Dung Hạnh)

 

Phước đức gieo trồng tự kiếp xưa
Bao nhiêu quả báu thấy bây giờ
Đường tu một hướng, tâm bền vững
Tiếp nối duyên lành đẹp nét thơ.

10.Chân An Tĩnh

(Bùi Hữu Tường)

Thiền lực chuyên vào một điểm an
Trăng soi biển tĩnh đẹp huy hoàng
Trời khuya thắp sáng ngời muôn nến
Gió mát trăng hiền đẹp thế gian.

11.Chân Giác Lưu

(Bùi Thị Kiều Trang)

Tuyển chọn đó đây vườn giác uyển
Kết thành liên đóa thật xinh tươi
Lưu truyền hậu thế ngàn muôn thuở
Vốn liếng tâm linh đẹp đất trời.

12.Chân Nguyệt Đăng
(Nguyễn Lê Diễm Trang)

 

Mở lòng, tâm lượng bao dung
Sông in bóng nguyệt tuệ đăng rạng ngời
Tìm về xứ sở thảnh thơi
Đi theo tăng bảo, cuộc đời vững an.

13.Chân Đại Trí

(Thomas Barth)

Quán chiếu tánh không chân đại trí
Trần gian lưu lộ biển từ bi
Công phu nuôi dưỡng nguồn tư niệm
Độ sinh sự nghiệp nguyện duy trì.

14.Chân Linh Từ
(Jean-Pierre Roussel)

Nhìn lên núi Thứu, đỉnh linh từ
Thanh thoát tâm hồn dậy ý thơ
Tục lụy trần gian buông bỏ hết
Phút giây nào cũng đẹp như mơ.

15.Chân Nguyệt Sắc

(Peggy Smith)

Trời khuya ánh nguyệt sáng ngời
Long lanh không sắc, tuyệt vời khúc ca
Bước chân đưa tới quê nhà
Lắng nghe ngôn thuyết rụng sa bao lần.

16.Chân Mật Hạnh

(Alexa Singer-Telles)

Siêu việt lưỡng nguyên chân mật ý
Hành vô hành hạnh phước không cùng
Tháng năm nuôi dưỡng tình huynh đệ
Công phu làm vững mạnh tăng thân.

17. Chân Bản Địa

(Terry Helbick-White)

Bản địa vốn là chân thật địa
Tình thương chân thật chẳng biên cương
Niệm lực dưỡng nuôi đường bát chính
Quán vô thường thấy được chân thường.

18.Chân Viên Hỷ
(Martine Serrano)

 

Thâm tín đạo mầu viên giác
Chế nên hỷ lạc từ bi
Ân nghĩa đôi đường trọn vẹn
Tiếp thu sự sống diệu kỳ.

19.Chân Đạo Xả

(Diana Daoud)

Trái tim tầm đạo năm xưa ấy
Mang đầy hỷ xả với từ bi
Hơi thở bước chân mang hạnh phúc
Công phu nhật dụng khéo duy trì.

 

20.Chân Đạo Từ

(Joelle Grosjean)

Bát chánh con đường thánh đạo
Dưỡng nuôi trí tuệ từ bi
Quán chiếu tuôn dòng suối ngọt
Công phu sớm tối hành trì.

21.Chân Minh Lộ

(Đặng Văn Thành)

Phương Đông bừng ánh quang minh
Lên đường sẵn có lộ trình tin yêu
Tình huynh nghĩa đệ còn nhiều
Cùng theo chí nguyện cao siêu một dòng.

22.Chân Đạo Lữ

(Andre Velino)

Chánh pháp dựng xây tình đạo lữ
Tăng thân hòa hợp đất trời vui
Ngoài kia chìm đắm bao nhiêu kẻ
Biển khổ thuyền dong cứu độ người.

 

23. Chân Anh Chân

(Laureen Osborne)

Tăng thân hòa hợp nẩy anh tài
Bao đóa chân tình đã mãn khai
Mỗi bước chân đi thành Tịnh độ
Đất trời trình diễn hội Hoa Mai.

24.Chân Diệu Học

(Mihaela Andronic)

Diệu pháp trao truyền sáng tỏ
Ba học phòng hộ sáu căn
Trái tim ứa đầy cam lộ
Hạt gieo hạnh phúc xa gần.

25. Chân An Lực

(Chantal Jacques)

An trú ngay trong hiện pháp
Ngày đêm niệm lực duy trì
Thân với tâm thường hợp nhất
Bình an mỗi bước chân đi.

26. Chân Viên Tụ

(Letizia Di Fonzo)

Giới đàn gặp hội đoàn viên
Đất trời quy tụ thánh hiền bốn phương
Bước chân hơi thở an tường

Đắp xây truyền thống, mở đường tương lai.

27. Chân Linh Tụ
(Giuseppe Gambadella)

 

Về đây linh khí chốn thiêng liêng
Tụ lại non sông đẹp một miền
Cùng bao thiện hữu ngời tri thức
Phúc tuệ song hành đủ phước duyên.

28. Chân Bồ Đề

(Nguyễn Văn Minh)

Chân tâm gốc rễ vẫn tài bồi
Bóng mát bồ đề rợp khắp nơi
Then cửa nhiệm mầu tay nắm giữ
Nhìn trong hiện pháp thấy tương lai.

29. Chân Trì Hỷ

(Matt Sherman)

Công phu chánh niệm tu trì
Khơi nguồn hỷ lạc từ bi cho đời
Bắc cầu hòa giải nơi nơi
Giong thuyền cứu độ bao người trầm luân.

30.Chân An Đức
(Tô Xuân Kỷ)

 

Bước chân hơi thở bình an
Vun trồng bốn Đức, không màng lợi danh
Lắng nghe, nói những lời lành
Gieo mầm hỷ lạc, viên thành nguyện xưa.

31.Chân Đại Hiếu
(Anton Bank)

 

Thế giới vươn lên hướng Đại Đồng
Trên đường Hiếu Thuận bước thong dong
Trái tim Bồ tát hằng nuôi dưỡng
Hóa độ nhân gian thỏa nguyện lòng.
32.Chân Minh Kính
(Nguyễn Thị Hải)

 

Chọn được tình thâm trả nghĩa thâm
Minh kính đài gương chẳng nhiễm trần 
Nghe hải triều lên bừng tỉnh ngộ
Sáu trần thoát lạc, nhẹ thân tâm.

34. Chân Hỷ Lạc
(Nguyễn Khoa Diệu Dung)

 

Hành giả ngày đêm thường quán chiếu
Tạo nguồn hỷ lạc, vốn tư lương
Lấy nguyện dựng tăng làm sự nghiệp
Lắng nghe ái ngữ đẹp khôn lường.

33.Chân Minh Khai
(Nguyễn Tấn Thọ)

 

Thiện duyên thấy được nẻo quang minh
Khai mở đường văn hạt giống lành
Đất mới lên xanh màu triển vọng
Mùa xuân tiếp nối nét đan thanh.

35.Chân Thiện Quả
(Hà Quốc Ngọc)

 

Ngàn năm nhân thiện, quả lành
Giữ sao được mãi tâm thành, ý trong
Nhớ câu lấy Bụt làm lòng
Bước chân nhẹ nhõm, thong dong đường về.