Thực tập: Viết thư

— Glen Schneider —

Đây là sự thực tập kết hợp của cả hai loại thực tập: viết thư cho em bé và lắng nghe em bé trong mình muốn nói gì. Khi thực tập bài tập này, chúng ta nên hỏi: “Em cảm thấy như thế nào?” mà không phải ôn lại chi tiết về những gì đã xảy ra khi mình còn là một đứa trẻ. Và chúng ta cũng nên hỏi em: “Bây giờ trưởng thành rồi em muốn điều gì?”.

Kế đó chúng ta viết một bức thư mà ta nghĩ là em bé trong ta muốn viết. Đó có thể là một danh sách dài thậm thượt khiến ta thực sự bận rộn. Một vài thứ mà em bé trong tôi muốn có là một con thú nhồi bông để ngủ với nó, một cây kem đá có hương vị cam, một bữa ăn tối có gà nướng, được gặp lại người anh họ mình yêu quý mà đã hơn ba mươi năm rồi không gặp. Chỉ cần đặt bút xuống và ghi xuống bất cứ ý nào hiện ra trong ta. Đừng bận tâm về câu cú văn chương, chỉ cần viết ra thôi. Điểm mấu chốt ở đây là thiết lập sự truyền thông. Tôi đã viết hầu như tất cả những thứ mà em bé trong tôi yêu cầu, và từ khi làm được điều này tôi cảm thấy an ổn và hạnh phúc hơn. Cách thực tập này thực sự rất sâu sắc.

Thực tập: Mười sáu phép quán niệm hơi thở

Quán niệm hơi thở là phương pháp thực tập do chính đức Bụt trực tiếp giảng dạy. Mười sáu phép quán niệm hơi thở là những phương pháp thực tập chăm sóc thân thể, cảm thọ, tâm thức (những tâm hành), và đối tượng của tâm thức (những tri giác).

Những lời Bụt dạy về 16 phép quán niệm hơi thở rất hữu dụng cho sự thực tập hằng ngày của chúng ta, giúp ta xử lý nỗi khổ niềm đau một cách hiệu quả. Bất cứ khi nào ta khổ đau mà không biết cách xử lý, không biết phải làm gì thì ta áp dụng 16 phép quán niệm hơi thở.

Bốn hơi thở đầu: Quán chiếu về thân thể

Hơi thở đầu tiên là nhận diện hơi thở vào là hơi thở vào, hơi thở ra là hơi thở ra.

“Thở vào, tôi biết là tôi đang thở vào.
Thở ra, tôi biết là tôi đang thở ra.”

Sự thực tập hết sức đơn giản nhưng mang lại hiệu quả rất lớn. Khi ta chú tâm vào hơi thở vào và nhận diện nó, ta sẽ buông bỏ được quá khứ và tương lai một cách tự nhiên. Ta sẽ quay về được với giây phút hiện tại. Ta bắt đầu chế tác ra năng lượng của niệm, định và đạt được tự do ở một mức độ nào đó.

Hơi thở thứ hai là theo dõi hơi thở vào và hơi thở ra từ đầu cho đến cuối.

“Thở vào, tôi theo dõi hơi thở vào của tôi từ đầu cho đến cuối.
Thở ra, tôi theo dõi hơi thở ra của tôi từ đầu cho đến cuối.”

Chúng ta duy trì niệm và định của mình trong suốt thời gian thở vào và thở ra. Chúng ta không nói: “Thở vào – ôi chết, tôi quên đóng cửa…” Không có một thứ gì xen vào làm gián đoạn trong khi ta theo dõi hơi thở vào ra, như thế chúng ta sẽ phát triển được nguồn định lực. Đây gọi là theo dõi hơi thở vào và hơi thở ra.

Trong một vài văn bản khác gọi là nhận diện chiều dài của hơi thở.

“Thở vào một hơi ngắn, tôi biết tôi đang thở vào một hơi ngắn.
Thở ra một hơi ngắn, tôi biết tôi đang thở ra một hơi ngắn.
Thở vào một hơi dài, tôi biết tôi đang thở vào một hơi dài.
Thở ra một hơi dài, tôi biết tôi đang thở ra một hơi dài.”

Chúng ta không cố ép hơi thở phải dài hơn hoặc ngắn hơn. Chúng ta thở một cách tự nhiên. Ý thức về hơi thở, hơi thở của ta tự động sẽ trở nên sâu hơn, đều đặn hơn, nhẹ nhàng và bình an hơn. Nhờ sự chú tâm mà phẩm chất của hơi thở được nâng cao.

Hơi thở thứ ba là đưa tâm trở về với thân.

“Thở vào, tôi ý thức về toàn thân tôi.
Thở ra, tôi ý thức về toàn thân tôi.”

Trong đời sống hằng ngày, thường thì thân chúng ta ở đây nhưng tâm chúng ta lại đang rong ruổi ở một nơi nào khác. Tâm của chúng ta có thể bị kẹt vào quá khứ, tương lai, hay những dự án, lo lắng, buồn phiền, giận dữ. Ta đang ở đây nhưng thật sự ta không có mặt ở đây. Ta không có mặt cho bản thân cũng như không có mặt cho những người khác. Cho nên sự thực tập của ta là trở về với hơi thở.

Hơi thở là chiếc cầu kết nối thân và tâm. Chúng ta chỉ cần chú ý đến hơi thở, tâm ta sẽ trở về với thân một cách tự nhiên. Ta gọi là “thân tâm hợp nhất”. Hơi thở của chúng ta sẽ trở nên lắng dịu hơn, và thân tâm của chúng ta sẽ được hưởng nhiều lợi lạc từ đó. Đây là sự thực tập chế tác an lạc. Chúng ta thiết lập thân tâm trong cái bây giờ ở đây, thật sự có mặt để sống với giây phút hiện tại, ý thức là mình đang còn sống và đang tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống. Chỉ cần thực tập đơn giản như vậy thôi là chúng ta đã thấy được phép lạ rồi, đó là khả năng sống sâu sắc trong mỗi khoảnh khắc của đời sống hằng ngày.

Chúng ta trở về với thân thể, ý thức là ta đang có một thân thể và chăm sóc nó. Có thể chúng ta đã bỏ bê hay đối xử tệ bạc với thân thể ta. Bây giờ chúng ta ôm ấp thân thể bằng năng lượng chánh niệm và ý thức về tất cả những gì mà thân thể ta cần được quan tâm. Chúng ta sẽ khám phá ra rằng cách chúng ta sống đã tạo ra những căng thẳng, đau nhức, mệt mỏi tích tụ trong thân thể ta một thời gian khá dài.

Hơi thở thứ tư là làm lắng dịu những căng thẳng nơi thân thể

“Thở vào, tôi làm cho toàn thân an tịnh.
Thở ra, tôi làm cho toàn thân an tịnh.”

Chúng ta có thể để cho những căng thẳng trong thân thể ta được lắng dịu khi ngồi thiền, đi thiền, hay khi nằm nghỉ.“Thở vào, tôi ý thức về toàn thân tôi; Thở ra, tôi làm cho toàn thân an tịnh”. Chúng ta có thể học hỏi những phương pháp buông thư và có thể thực tập thành công ở một mức độ nào đó. Tuy nhiên sự thực tập căn bản để thực sự buông thư căng thẳng là buông bỏ quá khứ và tương lai để trở về tiếp xúc với giây phút hiện tại và ý thức là ta đang còn sống, chúng ta đã có đủ những điều kiện hạnh phúc rồi. Chúng ta phải quán chiếu và thực tập cho được điều này.

Chúng ta phải nắm thật vững và thực tập thành thục bốn hơi thở đầu, vì đây là điều tối thiểu chúng ta cần phải làm. Chánh niệm về hơi thở là trở về với tự thân và chế tác năng lượng của sự có mặt đích thực của chúng ta, với năng lượng này chúng ta ôm ấp thân thể, làm cho thân thể được thư giãn và an tịnh. Buông thư thân thể cũng có khả năng làm cho tâm ý được buông thư. Nếu chúng ta không thành công trong việc buông thư thân thể thì khó để thành công trong việc buông thư tâm ý.

Bốn hơi thở tiếp theo: quán chiếu về cảm thọ

Với bốn hơi thở kế tiếp này chúng ta đi sang lĩnh vực cảm thọ. Một khi chúng ta đã thành công trong việc làm lắng dịu và buông thư thân thể, chúng ta có thể quay sang lĩnh vực cảm thọ.

Hơi thở thứ năm là chế tác niềm vui (hỷ)

“Thở vào, tôi cảm thấy mừng vui.
Thở ra, tôi cảm thấy mừng vui.”

Là một hành giả, chúng ta phải có khả năng đem niềm vui đến cho tự thân ngay trong giây phút hiện tại, bây giờ và ở đây. Càng có chánh niệm và chánh định, chúng ta càng có hạnh phúc an vui.

Sự thực tập đầu tiên để mang đến niềm vui là buông bỏ (ly sinh hỷ lạc). Để có được niềm vui, chúng ta phải có khả năng buông bỏ. Chúng ta thường nghĩ rằng niềm vui là cái ở bên ngoài ta, ta phải chạy theo để đạt cho được. Nhưng nếu ta biết cách nhận diện những khó khăn, chướng ngại đang có mặt trong ta và buông bỏ chúng thì niềm vui sẽ đến với chúng ta một cách rất tự nhiên.

Hơi thở thứ sáu là chế tác hạnh phúc, an lạc.

“Thở vào, tôi cảm thấy an lạc.
Thở ra, tôi cảm thấy an lạc.”

Thực tập những bài tập này có thể mang đến cho chúng ta hạnh phúc, an lạc. Thực tập chánh niệm và làm lắng dịu những căng thẳng là suối nguồn của hạnh phúc. Chánh niệm giúp ta nhận diện những điều kiện hạnh phúc mà ta đang có sẵn. Vì vậy mang lại niềm an vui và hạnh phúc là điều rất dễ dàng. Chúng ta có thể thực hiện mọi lúc mọi nơi.

Trong truyền thống nhà thiền, thiền tập được xem như là một loại thức ăn, ‘thiền duyệt vi thực’, nghĩa là niềm an vui hạnh phúc của thiền tập là thức ăn hằng ngày của chúng ta. Chúng ta có thể được nuôi dưỡng và trị liệu bằng thiền tập.

Hơi thở thứ bảy là xử lý khổ đau và những cảm xúc đang có mặt trong ta.

“Thở vào, tôi ý thức về những hoạt động tâm ý trong tôi.
Thở ra, tôi ý thức về những hoạt động tâm ý trong tôi.”

Bài tập này giúp chúng ta học cách xử lý năng lượng đau khổ, buồn rầu, sợ hãi, tức giận trong ta. Chúng ta thực tập hơi thở chánh niệm, đi thiền hành để chế tác năng lượng niệm và định. Với năng lượng niệm định này, chúng ta có thể nhận diện và ôm ấp những cảm thọ khổ đau đang có mặt trong ta. Chúng ta không nên khỏa lấp nỗi khổ niềm đau của mình, trái lại ta phải chăm sóc nó. Chạy trốn hay đè nén khổ đau là chúng ta đang đối xử bạo động với bản thân mình. Chánh niệm cũng là mình mà khổ đau cũng chính là mình. Chúng ta không nên đánh nhau với chính mình. Đây là tuệ giác bất nhị.

Khi chúng ta tránh né, không chịu trở về với bản thân mình là chúng ta đang cho phép những nỗi khổ đau trong ta lớn lên. Phương pháp mà Bụt đề nghị là trở về chăm sóc. Chúng ta cần một ít niệm định. Chúng ta phải có khả năng chế tác niệm định để chúng ta đủ vững chãi mà không bị ngụp lặn trong những nỗi khổ niềm đau của mình, và với năng lượng niệm định chúng ta có thể tự tin trở về với bản thân và nhận diện những cảm thọ khổ đau ấy. “Thở vào, tôi nhận diện những cảm thọ khổ đau đang có trong tôi. Thở ra, tôi ôm ấp những cảm thọ khổ đau trong tôi”. Đây là sự thực tập đích thực. Là một hành giả, ta phải có khả năng nhận diện nỗi khổ đau của mình và ôm ấp nó một cách nhẹ nhàng như một bà mẹ đang ôm ấp đứa con của mình. Thỉnh thoảng trong khi thực tập ta gặp một vài khó khăn nào đó, đặc biệt là lúc mới bắt đầu. Tuy nhiên, năng lượng tập thể của tăng thân sẽ giúp chúng ta đi qua những khó khăn đó.

Hơi thở thứ tám là buông bỏ căng thẳng và làm lắng dịu cảm xúc.

“Thở vào, tôi làm cho những hoạt động tâm ý trong tôi được an tịnh.
Thở ra, tôi làm cho những hoạt động tâm ý trong tôi được an tịnh.”

Với hơi thở thứ bảy và thứ tám, chúng ta sử dụng chánh niệm để ôm ấp và làm vơi nhẹ nỗi khổ đau trong ta. Bài tập này cũng tương tự như thực tập về lĩnh vực thân thể. Chúng ta trở về với những cảm thọ, nhận diện và ôm ấp chúng một cách nhẹ nhàng. “Thở vào, tôi ý thức về những cảm thọ khổ đau trong tôi. Thở ra, tôi làm lắng dịu những cảm thọ khổ đau trong tôi”. Với những bước chân thiền hành và hơi thở chánh niệm liên tục, chúng ta có thể ôm ấp và xoa dịu những cảm thọ khổ đau của ta. Sau đó, nhờ thực tập nhìn sâu, chúng ta sẽ khám phá ra được bản chất của những phiền não mà ta đang có, giúp ta đạt được tuệ giác và vượt thoát những phiền não đó. Tuy nhiên, chỉ cần ôm ấp nỗi khổ niềm đau một cách chánh niệm dịu dàng, thì nỗi khổ niềm đau của ta cũng đã vơi nhẹ đi phần nào.

Bốn hơi thở kế tiếp: quán chiếu về tâm thức

Với hơi thở thứ chín, chúng ta đi đến những tâm hành khác. Cảm thọ chỉ là một trong những tâm hành thôi. Hành (saṃskāra) là một thuật ngữ chỉ cho nhiều điều kiện kết hợp lại với nhau để cho một sự vật hay một hiện tượng biểu hiện. Những hiện tượng tồn tại trong tâm ý gọi là tâm hành. Có những tâm hành thiện và cũng có những tâm hành bất thiện.

Hơi thở thứ chín là ý thức về tâm ý và nhận diện tình trạng tâm ý của chúng ta, cũng giống như bài tập hơi thở thứ ba là ý thức về thân thể và hơi thở thứ bảy là ý thức về cảm thọ.

Thở vào, tôi ý thức về tâm ý trong tôi.
Thở ra, tôi ý thức về tâm ý trong tôi.

Chúng ta ý thức hơn về tất cả những tâm hành đang biểu hiện trong ta. “Thở vào, tôi ý thức về những tâm hành đang có trong tôi”. Tâm thức là một dòng sông và mỗi tâm hành là một giọt nước trong dòng sống ấy. Chúng ta ngồi trên bờ sông và quan sát sự đến đi của mỗi tâm hành. Chúng ta không cần phải đánh nhau, không cần phải nắm bắt hay xua đuổi những tâm hành của mình. Chúng ta chỉ cần điềm tĩnh nhận diện chúng, mỉm cười với chúng, bất kể là chúng dễ chịu hay khó chịu. Khi cơn giận xuất hiện trong ta, ta thực tập: “Thở vào, tôi biết tâm hành giận dữ đang có trong tôi”. Khi có tâm hành nghi kỵ trong ta, chúng ta cũng thở vào và nhận diện tâm hành nghi kỵ đang có trong ta. Chúng ta là người thực tập đồng thời cũng là người quan sát. Chúng ta cần niệm và định để nhận diện tất cả các tâm hành. Kế đó, chúng ta có thể nhìn sâu vào bản chất của các tâm hành ấy.

Hơi thở thứ mười là làm cho tâm ý được hoan lạc, hạnh phúc.

“Thở vào, tôi làm cho tâm ý tôi được hoan lạc.
Thở ra, tôi làm cho tâm ý tôi được hoan lạc.”

Chúng ta làm cho tâm ý hoan lạc, hạnh phúc là để cho tâm ý lớn mạnh, vững chãi, can trường và đầy sinh lực. Khi chúng ta giúp cho tâm có nhiều an lạc, nhiều năng lượng thì tâm sẽ cho ta sức mạnh để ôm ấp và nhìn sâu vào những khó khăn của chúng ta. Nếu biết được cách vận hành của tâm thì chúng ta sẽ dễ dàng thực tập hơi thở thứ mười hơn. Thực tập tứ chánh cần cũng giúp ta ý thức về tâm ý và cho phép những hạt giống tiêu cực trong ta có cơ hội nghỉ ngơi.

Sự thực tập đầu tiên của tứ chánh cần là để cho những hạt giống tiêu cực ngủ yên trong tàng thức và không cho chúng cơ hội biểu hiện. Nếu chúng biểu hiện thường xuyên, chúng sẽ lớn mạnh hơn. Sự thực tập thứ hai là khi hạt giống tiêu cực biểu hiện, chúng ta giúp nó trở về tàng thức càng sớm càng tốt. Nếu nó biểu hiện quá lâu, chúng ta sẽ khổ đau, và gốc rễ của hạt giống đó sẽ trở nên mạnh mẽ, kiên cố hơn. Sự thực tập thứ ba là thay thế tâm hành tiêu cực bằng tâm hành tích cực. Chúng ta chuyển sự chú tâm của ta đến một đối tượng khác. Ta gọi đó là “thay chốt”. Khi cái chốt nối hai thanh gỗ đã bị mục nát, người thợ mộc sẽ đóng một cái chốt mới vào cái lỗ nối hai thanh gỗ ấy để đẩy cái chốt cũ ra. Cũng như thế, ta phải tưới tẩm hạt giống tốt thường xuyên. Sự thực tập thứ tư là khi một tâm hành tốt biểu hiện, chúng ta cố gắng duy trì càng lâu càng tốt. Giống như khi có một người bạn thân quý đến thăm làm cho cả nhà vui vẻ thì ta muốn mời người ấy ở lại chơi lâu hơn. Chúng ta cũng có thể giúp người khác thay đổi những tâm hành của họ. Nếu những suy nghĩ tối tăm, giận dữ, sợ hãi biểu hiện nơi người đó, chúng ta có thể thực tập tưới tẩm những hạt giống tốt nơi họ để những hạt giống tốt biểu hiện, thay thế cho những tâm hành tiêu cực kia. Chúng ta gọi sự thực tập này là “tưới tẩm có chọn lọc”. Chúng ta có thể tổ chức đời sống của mình như thế nào để những hạt giống tích cực được chạm đến và được tưới tẩm vài lần trong ngày.

Hơi thở thứ mười một là thu nhiếp tâm ý vào định để đạt được tuệ giác.

“Thở vào, tôi thu nhiếp tâm ý tôi vào định.
Thở ra, tôi thu nhiếp tâm ý tôi vào định.”

Định có sức mạnh đốt cháy phiền não. Giống như cái thấu kính hội tụ khi chiếu ánh sáng mặt trời vào đủ lâu thì nó có thể đốt cháy mảnh giấy. Khi định có khả năng đốt cháy hết mọi phiền não thì trí tuệ phát sinh. Bụt dạy cho chúng ta rất nhiều cách thực tập để chế tác định. Vô thường, vô ngã, tánh không là các loại định mà chúng ta có thể thực tập hằng ngày. Ví dụ như bất cứ điều gì ta tiếp xúc trong ngày, có thể là một người bạn, một bông hoa hay một đám mây, chúng ta có thể thực tập để thấy được tự tính vô thường, vô ngã và tương tức trong ấy.

Hơi thở thứ mười hai là cởi mở cho tâm ý được giải thoát tự do.

“Thở vào, tôi cởi mở cho tâm ý được giải thoát tự do.
Thở ra, tôi cởi mở cho tâm ý được giải thoát tự do.”

Chúng ta cần sức mạnh của định để cắt đứt những khối phiền não như buồn rầu, sợ hãi, giận dữ, phân biệt đang ràng buộc, cột chặt tâm ý ta. Giáo lý vô thường cũng chỉ là một ý niệm, tuy nhiên ta có thể sử dụng nó như một phương tiện để làm phát khởi tuệ giác vô thường. Que diêm có thể tạo ra lửa. Và khi có lửa thì ngọn lửa sẽ đốt cháy que diêm. Cái mà chúng ta cần để đạt được giải thoát tự do là tuệ giác vô thường. Khi đã có tuệ giác rồi thì tuệ giác sẽ đốt cháy ý niệm. Chúng ta thực tập định vô thường là để làm phát khởi tuệ giác vô thường. Trong khi ngồi thiền, đi thiền hay làm những công việc hằng ngày, chúng ta định tâm trên tự tính vô thường. Định (samadhi) có nghĩa là duy trì ý thức liên tục từ giây phút này sang giây phút khác, càng lâu càng tốt. Chỉ có định mới có khả năng mang đến tuệ giác và giúp ta giải thoát tự do.

Giả sử ta sắp sửa cãi nhau với một ai đó. Và nỗi đau khổ đang khởi phát trong ta, tâm ta không được tự do. Định về vô thường sẽ giải phóng cho ta và cho người kia ra khỏi sự tức giận. “Thở vào, trong ba trăm năm nữa, tôi đâu và người thương của tôi đâu?”. Chỉ cần một hơi thở vào là ta đã có thể tiếp xúc được với thực tại vô thường. “Thở vào tôi biết tôi vẫn còn sống và người kia vẫn còn sống”. Khi chúng ta mở mắt ra, điều duy nhất mà chúng ta muốn làm là ôm lấy người kia vào lòng. “Thở vào, bạn vẫn còn sống đây, tôi rất hạnh phúc”. Đó là sự giải thoát nhờ tuệ giác vô thường. Nếu chúng ta ở trong tuệ giác vô thường, chúng ta sẽ ứng xử với người kia đầy trí tuệ. Chúng ta sẽ làm bất cứ điều gì có thể để người kia hạnh phúc. Chúng ta không đợi ngày mai mới thực hiện, bởi vì ngày mai có thể sẽ quá muộn. Nhiều người đã phải khóc rất nhiều khi người thương của mình qua đời. Đó là do họ đã không hành xử tốt với người thương của họ khi người thương của họ còn sống. Chính mặc cảm tội lỗi ấy làm cho họ đau khổ. Sở dĩ như vậy là bởi vì họ đã không có tuệ giác vô thường. Vô thường là một loại định mà chúng ta có thể thực tập.

Bốn hơi thở cuối cùng: quán chiếu về đối tượng tâm ý (tri giác)

Bây giờ chúng ta bước sang một lĩnh vực khác, đó là đối tượng của tâm ý. Trong đạo Bụt, thế giới và tất cả mọi hiện tượng đều được coi là những đối tượng của tâm ý chứ không phải là những thực tại khách quan nằm ngoài ta. Chúng ta thường bị kẹt vào cái ý niệm rằng có một thế giới khách quan bên ngoài ta và có một cái thức bên trong ta muốn cố gắng hiểu về cái thế giới khách quan bên ngoài đó; chính điều này đã ảnh hưởng đến tri giác của chúng ta. Dưới ánh sáng của tương tức thì chủ thể và đối tượng không thể tồn tại biệt lập. Khi chúng ta nhận thức về một thứ gì đó thì đối tượng nhận thức luôn luôn biểu hiện đồng thời với chủ thể nhận thức. Ý thức luôn có nghĩa là ý thức về một cái gì đó.

Hơi thở thứ mười ba là quán chiếu về tính vô thường.

“Thở vào, tôi quán chiếu về tính vô thường của vạn pháp.
Thở ra, tôi quán chiếu về tính vô thường của vạn pháp.”

Chúng ta đã đồng ý rằng mọi vật đều vô thường, nhưng chúng ta vẫn sống và hành xử như thể chúng ta mãi mãi thường hằng, bất biến, không hề thay đổi, vẫn mãi như chúng ta bây giờ. Thực tế là mọi thứ đang thay đổi trong từng giây từng phút. Khi chúng ta ở với một người nào đó, hay ngồi chơi với ai đó, có thể chúng ta đang tiếp xúc với người đó cách đây hai mươi năm. Chúng ta không có khả năng tiếp xúc với người đó ngay trong giây phút hiện tại. Người đó thực chất bây giờ đã có những suy nghĩ khác và cảm xúc khác, không còn như xưa nữa. Chúng ta không thực sự tiếp xúc được với sự thật vô thường. Cho nên chúng ta phải sử dụng ý thức để quán chiếu về vô thường. Định về vô thường sẽ mang đến tuệ giác vô thường, và tuệ giác này sẽ giải phóng cho chúng ta được tự do.

Vô thường chính là một loại định. Đi sâu vào vô thường chúng ta sẽ khám phá ra vô ngã, tánh không và tương tức. Vì thế vô thường đại diện cho tất cả các định. Trong khi thở vào chúng ta duy trì định vô thường, khi thở ra chúng ta cũng duy trì định vô thường cho đến khi chúng ta chọc thủng được màn vô minh và tiếp xúc được với trái tim thực tại. Đối tượng quán sát của chúng ta có thể là một bông hoa, một hòn sỏi, người thương của ta, hay là người ta ghét bỏ, hoặc cũng có thể là những nỗi khổ đau buồn tủi của ta. Tất cả đều có thể là đối tượng để ta quán chiếu, và ta phải tiếp xúc được với tự tính vô thường bên trong mỗi đối tượng đó.

Hơi thở thứ mười bốn là quán chiếu về tính không đáng tham cầu và vướng mắc của vạn pháp.

“Thở vào, tôi quán chiếu về tính không đáng tham cầu và vướng mắc của vạn pháp.
Thở ra, tôi quán chiếu về tính không đáng tham cầu và vướng mắc của vạn pháp.”

Chúng ta đã biết thức thứ bảy, mạt na, luôn luôn đi tìm cầu dục lạc và không thấy được những hiểm nguy của việc tìm cầu dục lạc. Quán chiếu về vô thường sẽ giúp cho thức mạt na chuyển hóa. Chúng ta nhìn sâu vào đối tượng tham muốn để thấy được bản chất đích thực của nó. Đối tượng mà ta đang tham muốn có thể làm hủy hoại thân tâm của chúng ta. Ý thức về những thứ ta đang tham muốn và những thứ ta đang tiêu thụ là một sự thực tập rất quan trọng.

Bụt dạy chúng ta về bốn loại thức ăn mà chúng ta tiêu thụ hằng ngày. Đầu tiên là tư niệm thực, là ước muốn lớn lao nhất đời ta, cho ta sinh lực để sống. Chúng ta phải nhìn vào bản chất của những ước muốn ta đang mong cầu để thấy được liệu nó có thực sự tốt cho chúng ta hay không. Mong ước của chúng ta có thể là việc đi tìm kiếm dục lạc, điều này có thể rất nguy hiểm. Mong ước của ta cũng có thể là mong muốn trả thù và trừng phạt. Những ước muốn bất thiện này về bản chất chúng tạo nên rất nhiều tri giác sai lầm. Chúng ta cần phải nhìn sâu để nhận diện được những ước muốn như thế phát xuất từ những nỗi sợ hãi, lo lắng, giận hờn, nghi kỵ,… trong ta.

Tất Đạt Đa cũng được hung đúc bởi một ước muốn, một tâm nguyện. Thái tử nhìn thấy những nỗi đau khổ trong vương quốc và ngài hiểu được rằng sức mạnh chính trị không đủ để giải quyết những nỗi đau khổ đó. Vì vậy thái tử đã đi tìm một con đường khác để chuyển hóa tự thân và giúp cho người khác chuyển hóa. Chúng ta gọi ước muốn đó là tâm giác ngộ hay sơ tâm. Chúng ta nên có những ước muốn mạnh mẽ để duy trì sơ tâm của chúng ta. Chính tâm giác ngộ đem lại cho ta sức mạnh và năng lượng để tiếp tục thực tập.

Loại thức ăn thứ hai là thức thực. Đây là nguồn năng lượng tập thể hay tâm thức tập thể. Những cá nhân trong cùng một nhóm có khuynh hướng tạo ra cùng một loại năng lượng. Khi chúng ta đến với nhau để thực tập niệm, định và từ bi là chúng ta cùng nhau chế tác ra nguồn năng lượng hiền thiện tập thể, có công năng nuôi dưỡng và trị liệu. Cho nên xây dựng tăng thân sẽ mang lại sự trị liệu rất lớn lao cho thế giới.

Nếu ta ở trong một nhóm người đang giận dữ thì năng lượng tiêu cực của họ sẽ đi vào ta. Ban đầu có thể ta không giống như họ. Nhưng nếu ta ở đủ lâu, dần dần năng lượng tập thể của nhóm người đó sẽ đi vào ta, đến một lúc nào đó ta sẽ giống họ dù có khi ta không nhận ra được điều này. Cho nên thấy được mình có đang ở trong một môi trường tốt hay không là điều vô cùng quan trọng. Chúng ta cần một môi trường an toàn có năng lượng tập thể lành mạnh cho chính bản thân và cho con cháu chúng ta.

Loại thức ăn thứ ba là xúc thực, là những gì chúng ta tiêu thụ qua mắt, tai, mũi, thân, ý như âm nhạc, phim ảnh, quảng cáo, các cuộc chuyện trò,… Khi chúng ta đọc một bài báo, xem một bộ phim, hay một chương trình có chứa đựng bạo động và giận dữ thì những bạo động và giận dữ đó sẽ đi vào ta. Vì vậy ta phải chọn lọc những gì ta tiêu thụ và những gì không nên tiêu thụ.

Các nhà tâm lý trị liệu cần phải rất thận trọng. Vì nhà tâm lý trị liệu phải lắng nghe rất nhiều loại đau khổ và giận dữ của người khác. Nên ta cần phải thực tập vững mạnh để duy trì sức khỏe và sự vững chãi của ta, nếu không ta sẽ bệnh hoạn. Ta đang cố gắng giúp đỡ nhưng có thể ta bị những nguồn năng lượng tiêu cực của khách hàng hằng ngày xâm chiếm ta.

Mỗi nhà tâm lý trị liệu đều phải xây dựng một tăng thân. Có tăng thân, ta được bảo hộ, được nuôi dưỡng mỗi khi ta đến với tăng thân. Nếu không, ta sẽ bị kiệt sức và ta không thể tiếp tục giúp đời được.

Bụt đã dành rất nhiều thì giờ cho việc xây dựng tăng thân, và chúng ta cũng nên làm như vậy. Chúng ta có thể tìm những yếu tố chung quanh ta để xây dựng tăng thân, để được bảo hộ, để được nuôi dưỡng và duy trì sự thực tập của mình. Nếu không, sau vài tháng chúng ta sẽ đánh mất sự thực tập. Và xúc thực, những thứ mà chúng ta tiêu thụ qua mắt, tai, mũi, thân, ý sẽ thẩm thấu vào ta. Tiêu thụ có chánh niệm là sự thực tập bảo hộ cho tự thân, cho gia đình và cho xã hội. Đó là con đường trị liệu, ngăn chặn sự tàn phá hành tinh xanh của chúng ta.

Loại thức ăn thứ tư là đoàn thực, là thức ăn chúng ta đưa vào cơ thể bằng đường miệng. Chúng ta chỉ nên ăn những loại thức ăn có tác dụng đem lại an lạc, hòa bình và sức khỏe cho thân tâm. Chúng ta ăn như thế nào để có thể duy trì lòng từ bi trong trái tim mình. Làm được điều này, chúng ta có thể cứu lấy hành tinh xanh của chúng ta và đảm bảo cho con cháu chúng ta một tương lai tươi sáng.

Hơi thở thứ mười lăm: quán chiếu về bản chất không sinh diệt của vạn pháp.

“Thở vào, tôi quán chiếu về bản chất không sinh diệt của vạn pháp.
Thở ra, tôi quán chiếu về bản chất không sinh diệt của vạn pháp.”

Không sinh diệt là tự thân của thực tại, là sự đoạn diệt hết tất cả các ý niệm, là niết bàn (Nirvana). Tự thân của thực tại vượt thoát tất cả mọi ý niệm, bao gồm ý niệm sinh-diệt, có-không. Đây chính là trái tim của thiền tập, nỗ lực sau cùng để đạt đến tự do. Quán chiếu về vô thường, vô ngã, tánh không, không sinh không diệt có thể đưa đến sự giải thoát. Ý niệm về sinh diệt có thể là nguồn gốc của những phiền não, khổ đau, lo lắng và sợ hãi. Chỉ có tuệ giác không sinh không diệt mới giúp ta vượt thoát khỏi lo âu và sợ hãi.

Hơi thở thứ mười sáu: quán chiếu về niết bàn.

“Thở vào, tôi quán chiếu về sự buông bỏ.
Thở ra, tôi quán chiếu về sự buông bỏ.”

Hơi thở này giúp chúng ta buông bỏ tất cả mọi ý niệm để đạt được tự do giải thoát. Buông bỏ sẽ giúp ta tiếp xúc được với bản chất chân thực của thực tại. Tuệ giác thâm sâu này sẽ giúp ta thoát khỏi sự sợ hãi, giận dữ và tuyệt vọng. Từ Niết bàn có nghĩa là dập tắt. Niết bàn không phải là một nơi chốn để chúng ta đi đến, niết bàn cũng không phải là điều mà chúng ta đạt được ở tương lai. Niết bàn là tự thân của thực tại. Niết bàn có mặt ngay bây giờ và ở đây.

Con sóng trên đại dương được hình thành từ nước, nhưng đôi khi nó quên nó là nước. Con sóng thì có bắt đầu, có kết thúc, có lên, có xuống, có thể cao hơn, thấp hơn, mạnh hơn hay yếu hơn những con sóng khác. Nhưng nếu con sóng kia bị kẹt vào những ý niệm về bắt đầu-kết thúc, lên-xuống hay mạnh hơn- yếu hơn những cơn sóng khác thì nó sẽ đau khổ. Nếu nó biết nó đã là nước rồi thì tình trạng sẽ thay đổi ngay tức khắc. Biết mình là nước, con sóng không còn tâm phân biệt bắt đầu-kết thúc, lên-xuống hay mạnh- yếu nữa. Đi lên nó cũng vui mà đi xuống nó cũng vui, là con sóng này nó cũng vui mà con sóng kia nó cũng vui, không phân biệt kỳ thị, không sợ hãi. Nó không cần phải đi tìm nước. Vì nó đã là nước ngay trong giây phút hiện tại rồi.

Tự tánh của chúng ta là không khởi đầu, không kết thúc, không sinh, không diệt. Nếu chúng ta biết cách tiếp xúc với tự tánh của chúng ta, chúng ta sẽ không còn sợ hãi, giận dữ, tuyệt vọng nữa. Tự tánh của chúng ta chính là tự tánh niết bàn. Từ vô thỉ chúng ta đã là niết bàn rồi.

Chúng ta thường nghĩ rằng “chết” là từ cái có thình lình chúng ta trở thành cái không, từ một người đột nhiên ta biến mất không còn là ai cả. Chúng ta nên biết rằng một đám mây không thể nào chết được. Đám mây có thể trở thành mưa, thành tuyết, thành mưa đá, thành dòng sông, thành tách trà hay ly nước ép trái cây ta uống hằng ngày. Đám mây không thể chết được. Tự tánh của đám mây là tự tánh không sinh không diệt. Vì vậy, nếu người thân của chúng ta vừa mới qua đời, chúng ta phải tìm họ trong những hình thái biểu hiện mới. Người đó không thể chết được, người đó tiếp tục trong nhiều hình thái khác nhau. Nhìn bằng con mặt của Bụt, chúng ta có thể nhận ra người đó ở trong ta và chung quanh ta. “Em ơi, tôi biết em vẫn ở đây trong những hình thái mới”. Trước khi sinh ra, chúng ta đã tồn tại trong tử cung của mẹ rồi. Trước đó nữa, chúng ta cũng đã tồn tại một nửa trong cha ta và một nửa trong mẹ ta. Không có một cái gì từ không mà trở thành có. Chúng ta cũng vậy. Chúng ta luôn có trong hình thức này hay hình thức khác. Bản chất của chúng ta là tự tánh không sinh không diệt. Niết bàn có nghĩa là sự đoạn diệt tất cả mọi ý niệm, bao gồm ý niệm về sinh-diệt, có-không. Hơi thở thứ mười sáu này giúp ta buông bỏ tất cả mọi ý niệm để đạt được tự do giải thoát hoàn toàn.

Buông bỏ đối tượng

— Tăng thân Buckeye —

Thiền sư Lâm Tế là một vị thiền sư nổi tiếng người Trung Hoa ở thế kỷ 9, là người sáng lập ra thiền phái Tông Lâm Tế, Làng Mai cũng thuộc tông phái này. Thiền sư đã dạy phải “buông bỏ đối tượng”. Đối tượng ở đây là con người, là tình trạng mà ta đang nghĩ về. Ta phải buông bỏ đối tượng và trở về với thân thể, cảm thọ của mình. Bằng cách theo nguồn năng lượng trở về với thân thể và cảm thọ, ta có thể buông bỏ được những suy nghĩ và thấy được những nội kết trong ta. Ta ôm ấp chúng nhẹ nhàng, để cho những căng thẳng được thư giãn và chúng ta có cơ hội được chữa lành. Tương tự như cách ta tập lái xe đạp. Chúng ta có thể ngồi trên xe và ai đó vịnh cho ta ở đằng sau, đến một lúc nào đó ta có thể tự lái được. Ta sẽ reo lên sung sướng: “Ồ, tôi lái được rồi, tôi lái được rồi”.

Thực tập buông bỏ đối tượng như sau:

  1. Thở vào, tôi nhận diện đây là hơi thở vào; thở ra, tôi nhận diện đây là hơi thở ra.
  2. Thở vào, tôi mời đối tượng trong tâm tôi đi lên; thở ra, tôi cởi mở với đối tượng đó.
  3. Thở vào, tôi dừng suy nghĩ về đối tượng đó; thở ra tôi ôm ấp nguồn năng lượng đang có trong cơ thể tôi.
  4. Thở vào, tôi ý thức về cơ thể và những cảm xúc của tôi; thở ra, tôi dịu dàng ôm ấp cơ thể và những cảm xúc của tôi.
  5. Thở vào, tôi gửi hơi thở vào của tôi đến cơ thể và cảm xúc của tôi; thở ra, tôi buông bỏ những căng thẳng trên cơ thể và cảm xúc của tôi.
  6. Thở vào, tôi ý thức về hơi thở vào của tôi; thở ra tôi ý thức về hơi thở ra của tôi.

Đôi khi nguồn năng lượng trong cơ thể và cảm thọ của ta nặng nề, nhận chìm chúng ta xuống. Trong trường hợp này, chúng ta có thể tiếp xúc với tình trạng khó khăn hay khổ đau trong một thời gian ngắn, có thể từ 20 giây đến 1 phút. Sau đó chúng ta có thể mở mắt ra, hướng sự chú tâm của mình đến một đối tượng khác từ bên ngoài và nghỉ ngơi trên đối tượng đó trong vòng vài phút. Ta có thể nhìn ra ngoài cửa sổ để tiếp xúc với thế giới thiên nhiên. Sau đó khi nào thấy sẵn sàng, chúng ta quay lại tiếp xúc với những cảm thọ khổ đau ấy lần nữa. Chúng ta có thể thử tới lui với những cảm thọ đó vài lần. Thay đổi sự chú tâm của mình như thế cung cấp cho ta một nền tảng vững chắc bên ngoài và một không gian an toàn bên trong.

Ấm áp

Tôi bưng mặt trong lòng hai bàn tay

Có phải để khóc đâu anh

Tôi bưng mặt để giữ cho ấm áp sự cô đơn

Hai bàn tay chở che

Hai bàn tay nuôi dưỡng

Hai bàn tay ngăn cản

Sự ra đi hờn dỗi của linh hồn.

– Thích Nhất Hạnh

Ngồi với bạn mình

— Elmar Vogt —

Tôi đến Làng Mai tham dự khóa tu 21 ngày vào tháng 6 năm 2006 và tôi bệnh gần hết ba tuần. Hầu như lúc nào tôi cũng nằm trên giường vì chứng đau dạ dày dữ dội. Tôi cũng bị tiêu chảy nặng và không ăn được gì nhiều, mọi người xung quanh kể cả quý thầy, các bạn cùng phòng và các thiền sinh đều cố gắng hết mình để giúp đỡ tôi.

Tôi và một người bạn cùng phòng có mối quan hệ rất tốt với nhau. Anh ấy có mang theo một cây đàn concertina, một loại nhạc cụ giống như cây phong cầm mini có nhiều phím, và ngay từ đầu chúng tôi đã khám phá ra rằng mình có cùng chung niềm say mê hát hò. Vào một buổi chiều vàng nắng, thấy anh ta ngồi trên cánh đồng và chơi những bản nhạc dân ca Mỹ, tôi tiến đến gần anh và chúng tôi hát với nhau rất đồng điệu. Kể từ ngày ấy, hễ khi có giờ rảnh, chúng tôi đều ngồi lại hát cùng nhau. Chúng tôi trở nên thân thiết, tin tưởng nhau và trở thành bạn của nhau.

Sáng một ngày gần cuối khóa tu, lúc tôi đang còn nằm trên giường thì anh ấy đi ăn sáng về. Anh ngồi bên mép giường và hỏi thăm tình hình sức khỏe của tôi. Sau đó anh hỏi tôi có muốn khám phá cái cảm giác đau thắt trong lòng qua thiền tập không. Tôi đồng ý. Thế là anh hát cho tôi nghe hai bài, rồi anh thỉnh chuông và đề nghị tôi chỉ tập trung vào những cảm giác đang có, buông bỏ mọi suy nghĩ và mở lòng ra để những cảm giác tự do đi lên.

Một vài phút sau, tôi thấy mình trở lại là một cậu bé, đang trốn dưới tầng hầm, phía sau chỗ để than đá, tôi đang quát tháo bà tôi và đuổi bà ra khỏi nhà. Bà tôi sống cùng với gia đình tôi suốt cả cuộc đời từ trước khi tôi sinh ra, từ khi ông tôi mất tích trong trận đánh ở Stalingard trong Thế chiến thứ hai. Tôi chưa bao giờ được biết đến ông. Khi còn nhỏ, tôi đã rất bực bội, căng thẳng vì sự có mặt của bà trong nhà. Trong lúc thiền tập, đứa bé trong tôi yêu cầu cha tôi đưa tôi rời khỏi nơi ấy. Sau một hai phút như vậy, tôi cảm nhận được từ nơi khóe mắt mình những giọt nước mắt đang lăn dài trên má. Người bạn cùng phòng của tôi ắt đã thấy được điều này, anh ta với tay ra và bắt đầu vuốt ve tay tôi, anh nói: “Không sao, hãy để cho những cảm xúc ấy đi lên”. Tôi òa lên khóc nức nở trong một khoảng thời gian rất lâu, có lẽ là hai mươi phút. Sau đó tôi cảm thấy được chữa lành rất nhiều.

Khi tôi yên lắng lại, lòng tôi cũng đã đỡ hơn nhiều. Chúng tôi kể chuyện cho nhau nghe về sự trưởng thành của tôi, về cha mẹ tôi, và về con gái của chúng tôi, cả hai chúng tôi đều có con gái khoảng hai mươi mấy tuổi. Chúng tôi ăn trưa cùng nhau, và tôi dạy cho anh bạn tôi một bài dân ca Đức: “Bunt sind schon die Walder”, nói về sắc màu của những chiếc lá trên cánh đồng mùa thu.

Dạ dày của tôi vẫn còn khó chịu nhưng đã khác hơn nhiều so với trước khi thiền tập. Tôi biết rằng đó là nỗi tuyệt vọng của đứa bé đang nằm trong tử cung người mẹ mà không có cảm giác được an toàn. Và tôi cũng nhìn thấy cha tôi trong tôi, cha tôi đã bị gửi cho dì của cha nuôi khi cha chỉ mới hai tuổi. Cha không bao giờ biết lý do vì sao, và cha chưa bao giờ có một gia đình thực sự. Mẹ tôi mất cha (ông ngoại tôi) khi mẹ còn nhỏ, thậm chí còn không biết khóc khi ông bị mất tích. Không một ai biết được liệu ông có trở về hay không. Bà tôi đã cố gắng làm việc vất vả để nuôi hai người con của mình. Bà rất thương ông, nhưng ông không bao giờ trở lại. Và ông tôi cũng giống như cha tôi, cũng không được lớn lên trong vòng tay yêu thương của cha mẹ. Có một lần bà tôi kể với tôi, ông đã chia sẻ với bà rằng ông chỉ biết được tình gia đình là như thế nào từ khi ông kết hôn và chung sống với bà. Nhưng thương tâm làm sao, ông đã mãi mãi không trở về!

Khi nhìn lại, tôi thấy trong suốt thời gian ở Làng Mai, những vách ngăn trong tôi như đang vỡ òa ra. Bây giờ tôi vẫn còn cảm thấy đau và khó chịu ở dạ dày, nhưng tôi nhận ra rằng những nỗi đau và sự khó chịu đó không chỉ của riêng tôi mà của nhiều thế hệ gia đình tôi, và đó cũng là nỗi đau của người Đức chúng tôi. Có lẽ nỗi khổ đau ấy quá lớn và tôi không thể chuyển hóa hết được trong một đời. Tuy nhiên điều mà tôi cần làm bây giờ là tiếp xúc với em bé bên trong mình, lắng nghe em, trò chuyện với em và mời em cùng an trú trong giây phút hiện tại và chỉ cho em thấy những nhiệm mầu của sự sống.

Con người thật của tôi

— Glen Schneider —

Một buổi chiều nọ, tôi ngồi suy nghĩ về một tình bạn quan trọng đã đổ vỡ cùng nỗi đau mà tôi đã gánh chịu. Tôi tự hỏi liệu mình có nên gọi cho người bạn ấy một lần nữa không, xem thử chúng tôi có thể cởi mở giải quyết vấn đề này và hòa giải được không. Khi tôi tưởng tượng ra những gì cô ấy có thể nói và tôi sẽ trả lời cô ấy như thế nào, thì tôi cảm thấy lòng tôi dường như đang thắt lại. Tôi nghĩ rằng, đang là buổi chiều, mình đang có một ít thời gian rảnh rỗi và không ai ở nhà cả, tại sao mình không tìm hiểu xem cảm giác đó là gì.

Tôi ngồi trên chiếc ghế dài và tập trung hoàn toàn tâm ý vào cái nút thắt trong lòng. Chẳng mấy chốc, tôi bắt đầu nghe từ góc trái đầu mình những tiếng “chát, chát, chát”rất rõ ràng và dứt khoát. Tôi nhận ra ngay đó là tiếng dây nịt của cha tôi, tiếng dây nịt đang quất vào cái mông trần truồng của tôi hồi tôi mới có sáu tuổi. Tôi thực sự thấm thía những trận đòn đó. Tôi bật khóc, gào thét và van nài rất lâu. Giờ đây tôi đang sống lại trong ký ức của những trận đòn roi cùng hình ảnh mẹ tôi đang đứng trong nhà bếp. Mẹ kéo cha ra và đứa trẻ trong tôi van xin: “Đừng đánh con nữa, con sẽ ngoan mà”. Ngồi trên ghế, tôi tự hỏi rằng liệu tôi có bị tâm thần hay không khi nhớ lại những chuyện này, tuy nhiên, việc này cũng có công năng trị liệu rất lớn, tôi để cho nguồn năng lượng này đi lên và đi ra khỏi người mình.

Khi tôi bắt đầu yên lắng, trong tâm tôi xuất hiện một đường hầm đen tối và kéo tôi vào đó. Tôi cảm thấy sợ hãi, nhưng rồi tôi nghĩ: “Ôi, tôi sắp sửa khám phá một vết thương, một sự ngược đãi nào đó mà tôi không nhớ rõ”. Nhưng tôi vẫn quyết định tiến vào, và ngay khoảnh khắc đó…

… Tôi là một bé trai đang ngồi trong chuồng gà nhà mình và để tay dưới một con gà nằm trong ổ, cảm nhận hơi ấm toát ra từ nó, những chiếc lông mềm mại và những quả trứng láng lẫy, ấm áp. Khi tôi còn nhỏ, gia đình tôi sống ở nông thôn và nhà tôi nuôi khoảng năm mươi con gà. Gia đình chúng tôi bán trứng và nhiệm vụ của tôi là phụ giúp chăm sóc những con gà mái. Đặt tay bên dưới con gà là một trong những cảm giác tuyệt vời và đẹp đẽ nhất mà tôi đã từng có. Tôi nhìn xung quanh và thấy cạnh của những chiếc vỏ hàu mà chúng tôi cho gà ăn, thấy những chi tiết của cánh cửa chúng tôi đóng hằng đêm để ngăn cáo và gấu mèo; ngoài vườn có một cây mù tạc đang nở hoa vàng rực rỡ. Tôi mơ màng khoảng mười phút, như tôi đang ở trên thiên đường vậy, tôi mơ về những khung cảnh tuyệt vời vui tươi và những hương vị của tuổi thơ. Những màu sắc thật rực rỡ, những hình dáng thật sinh động và tôi cảm thấy bàng hoàng. Cuối cùng thì khoảnh khắc đó cũng kết thúc, cậu bé bước đi trên con đường về nhà và một giọng nói xuất hiện trong đầu tôi: “Họ đặt chúng vào trong mày đó”.

Nhờ sự giúp đỡ của một người chị trong Tăng thân, một người thường giúp đỡ những thanh niên khó khăn hay đang bị giam giữ, tôi bắt đầu hiểu được rằng “họ đặt chúng vào trong mày đó” có nghĩa là những người ấy đã đặt những tổn thương vào trong tôi, những điều tồi tệ đã xảy ra, nhưng đó thực sự không phải là tôi. Con người thật của tôi là một cậu bé yêu thương những khung cảnh, màu sắc và hình ảnh mà tôi đã cùng nó lớn lên. Năng lượng tiêu cực được đặt vào tôi như một cánh cửa đóng sầm lại ký ức của tôi, đóng sầm lại cái phần tốt đẹp trong quá trình trưởng thành của tôi, để mỗi khi nhớ về quá khứ, tôi chỉ nhớ đến những ký ức đau buồn và quên mất những thứ đẹp đẽ.

Tôi cảm thấy may mắn vì đã lấy ra khỏi mình nguồn năng lượng gây tổn thương đó. Tôi ước gì tôi có thể nói là tôi đã buông bỏ nỗi đau đó trong một buổi thiền tập, nhưng tôi không thể. Tôi phải “viếng thăm” chúng vài lần, tuy nhiên sau mỗi lần “viếng thăm” thì nỗi khổ đau đều giảm nhẹ hơn nhiều, và tôi cảm thấy khá đơn giản như khi làm những công việc lặt vặt trong nhà: “Ồ, đến lúc quét dọn rồi, mình đi quét dọn thôi”. Với thời gian và sự chuyên cần, tất cả đều được “quét đi” một cách nhẹ nhàng. Tôi nghĩ rằng phần bị tổn thương trong chúng ta cũng có khả năng thương yêu, đó là tính tốt của chúng ta. Mặc dù cái phần ấy có thể ẩn sâu bên dưới nỗi khổ niềm đau, nhưng trong ta vẫn sẽ luôn có một phần có khả năng ôm ấp và tận hưởng những thứ dịu dàng, đẹp đẽ, quý giá của thế giới, và thích thú chăm sóc, chia sẻ những thứ đẹp đẽ quý báu ấy bằng một tấm lòng cởi mở. Đó là trải nghiệm của tôi.

Con có thể làm gì để giúp cha?

— Joanne Friday —

Mẹ tôi bệnh rất nặng gần cả năm, và trong thời gian ấy mẹ đã tám lần nhập viện. Giữa những lần nằm viện, mẹ được chuyển đến vài nơi an dưỡng để được chăm sóc đặc biệt. Tôi đã cùng cha đến thăm mẹ tại một trong những nơi đó. Cha tôi là một cựu chiến binh trong Thế chiến thứ hai, cha rất giỏi trong việc kiểm soát tình huống và tạo mọi điều kiện để ngăn những điều tệ hại xảy đến. Cha là một người cực kỳ tỉ mỉ. Sống gọn gàng ngăn nắp, đâu vào đó là điều rất quan trọng đối với cha. Cha tôi luôn chăm sóc mọi thứ chu toàn, và cũng rất tuyệt vời trong việc chăm sóc mẹ. Nhưng giờ đây, cha phải chứng kiến mẹ tôi hấp hối mà không có cách nào để giải quyết, đó là một điều cực kỳ khó khăn với cha. Khi mọi thứ nằm ngoài tầm kiểm soát thì cha tôi càng cố gắng nhiều hơn và trở nên thiếu kiên nhẫn, cáu gắt và giận dữ. Đó chính là tập khí của cha tôi.

Chúng tôi đang ngồi trong nhà an dưỡng thì cha tôi nổi giận và trở nên thiếu kiên nhẫn với mẹ. Tôi ngồi đó, cảm nhận cơn giận đang dâng lên trong thân mình. Nếu tôi đang ở quá khứ, tập khí của tôi sẽ nói với cha rằng: “Dừng lại đi, mẹ sẽ không thể chịu nổi như vậy”. Nhưng thay vì nói thế, tôi dừng lại, hít thở, và tôi biết rằng mình cần đi ra ngoài. Tôi biết rằng nếu tôi nói hoặc làm điều gì đó vào lúc này thì tôi chỉ gây thêm nhiều đau khổ hơn cho tôi và cho gia đình tôi. Vì vậy, tôi nói: “Con đi bộ một tí” rồi ra bãi đỗ xe và hành thiền.

Tôi tiếp xúc với hơi thở. Vài phút sau, tôi trở nên yên lắng và bình tĩnh. Sau đó, tôi mời cơn giận của mình lên. Tôi thở với nó, nhìn sâu vào nó để hiểu được bản chất của nó. Cơn cảm xúc đã đưa tôi về với quá khứ của mình. Tôi hiểu được phản ứng của tôi đối với cha thực ra là phản ứng của một đứa bé ba tuổi. Khi đó, cha tôi cũng giận dữ và thiếu kiên nhẫn với tôi y như thế. Đứa bé ba tuổi ấy đã vô cùng đau khổ, và nó đang phản ứng cực kỳ mạnh mẽ trong giây phút hiện tại, khi thấy mẹ chịu sự giận dữ của cha tôi.

Tôi chăm sóc đứa bé ba tuổi trong tôi. Ôm ấp em và giảng giải cho em hiểu, sự giận dữ và thiếu kiên nhẫn của cha không liên quan gì tới em cả. Khi em ba tuổi, làm sao em có thể hiểu rằng em đừng mang theo những giận dữ ấy bên mình, bởi đó chỉ là nỗi khổ của cha mà thôi. Với tất cả mọi người, cha đều cư xử như thế, không phải chỉ có riêng em. Khi tôi hiểu được điều này, lòng từ bi đối với chính mình và đối với cha dâng lên trong tôi. Đó là kinh nghiệm trực tiếp của về những điều Thầy (Thiền sư Nhất Hạnh) đã dạy: Niệm sẽ đưa đến định, định sẽ đưa đến tuệ, tuệ sẽ đưa đến hiểu, có hiểu thì mới phát tâm từ bi.

Mỗi người đều có những cách phản ứng khác nhau khi rèn luyện điều này. Đa số chúng ta chạy trốn cả đời với những cảm thọ đã làm ta sợ hãi. Song, chỉ cần dừng lại, thở và ôm ấp những cảm thọ ấy, thì trong ta đã bắt đầu quá trình chuyển hóa rồi, và chúng ta sẽ nuôi dưỡng dần khả năng vô úy (không sợ hãi) của chính mình. Trong trường hợp của tôi, cơn giận dữ đã đưa tôi về với quá khứ, về với đứa bé ba tuổi đang trải nghiệm những cảm xúc tương tự như tôi ở hiện tại, phải chứng kiến cảnh cha khó chịu và giận dữ. Khi cảm nhận được điều ấy, tôi biết có gì đó đã được chuyển hóa. Tôi biết là tôi có thể trở về với cha mẹ một cách ổn thỏa.

Lúc đi ra khỏi phòng, tôi đã xem cha mình như một tên hung bạo; nhưng khi trở lại, tôi chỉ thấy nỗi đau của cha tôi. Nỗi đau ấy quá lớn, không thể chịu đựng nổi. Tôi có thể hiểu được nỗi lo sợ của cha lớn đến mức nào. Và rồi, tất cả những gì tôi cảm nhận được đối với cha chỉ còn lòng từ bi. Không có gì khác ngoài lòng từ bi và chỉ có một điều tôi có thể nói: “Con rất tiếc vì cha phải trải qua khó khăn này. Con có thể làm gì để giúp cha không?”.

Rất rõ ràng là khi tôi bị kẹt vào nỗi khổ đau của bản thân, tôi không còn có thể thấy nỗi đau của bất kỳ ai nữa. Tôi không thể có cái nhìn sáng suốt, thông minh, tôi chỉ thấy nỗi khổ đau của riêng mình mà thôi. Tôi đã không thể chăm sóc cảm xúc của tôi, tôi đã tự cho mình là đúng. Tôi nói với bản thân rằng tôi là một đứa con gái ngoan, tất cả những gì tôi cần quan tâm là mẹ tôi. Tôi tin rằng tôi đang cố gắng để chăm sóc và bảo vệ mẹ, và cách để làm điều đó là nói với cha “dừng lại đi, đừng nói nữa”. Tuy nhiên, nếu tôi nói như thế, thì đó chính xác là sự giận dữ mà tôi đã tập nhiễm từ cha tôi: phản ứng lại mọi thứ bằng phê phán và chỉ trích. Có thể khi ấy cha sẽ cảm thấy giống như tôi, cảm thấy mình bị trách móc và có thể cha sẽ hành xử tệ hơn với mẹ. Và tôi sẽ tạo ra chính cái tình cảnh mà tôi muốn ngăn chặn.

Tôi đã rèn luyện đủ lâu để biết điều gì nên nói và nên nói điều đó như thế nào. Tôi có thể dừng lại, không phê phán cha mình ngay khi cơn giận phát khởi mà không cần đi ra ngoài. Nhưng có thể cảm giác tức giận vẫn còn đó, và dù tôi có nói những điều tương tự như “Con có thể làm gì để giúp cha không?”, thì lời nói của tôi vẫn có thể làm cho cha cảm thấy bị chỉ trích bởi giọng điệu, nét mặt và cử chỉ của tôi.

Vì vậy, tôi khám phá ra rằng nói lời chánh niệm không phải chỉ là chọn lựa từ ngữ đúng đắn, chánh niệm phải là chuyển hóa những ý xấu trong trái tim tôi. Khi tôi nhìn sâu và phát khởi sự thấu hiểu, tôi sẽ cảm nhận được lòng từ bi, lòng từ bi đối với tôi và đối với người khác. Khi nỗi khổ đau trong tôi được chuyển hóa, tôi sẽ hiểu và thương được cả hai. Những từ ngữ mà tôi chọn lúc này không còn quan trọng lắm. Người ấy sẽ cảm nhận tình thương từ tôi. Người ta sẽ biết khi nào thì họ được thương yêu thực sự.

Tôi đã nhận ra rằng, càng rèn luyện thì cường độ cảm xúc tiêu cực càng suy yếu, dù tôi vẫn trải qua những cảm xúc dữ dội. Tôi có thể nói: “Xin chào cơn giận, người bạn nhỏ của tôi, bạn trở lại đấy à” và cơn giận sẽ ra đi. Khi tôi chăm sóc đứa bé bị tổn thương trong tôi tử tế thì những cảm xúc tuy vẫn có thể còn đó, nhưng các mối quan hệ đã được chuyển hóa và những tri giác của tôi về thế giới này và về những người khác cũng được thay đổi. Đó là phép lạ của chánh niệm!

Đôi mắt trẻ thơ

— Lillian Alnev —

Chỉ cần nói “tôi đã từng trải qua tổn thương sâu sắc” cũng có thể khiến cho tôi co rút lại vì mặc cảm.

Tôi có viết ra một danh sách thật dài trên giấy, và danh sách ấy cũng kiến cho tôi xấu hổ. Nó quá dài và kinh khủng đến nỗi khó có thể coi là sự thật. Tuy nhìn lại cũng chẳng có gì đáng kể nhưng lúc đó tôi rất khổ đau. Người ta nói với tôi rằng đó là mặc cảm tội lỗi của những người sống sót. Buông bỏ sự so sánh và phán xét chính mình có thể là điều mà tôi phải thực tập suốt đời.

Trong từng nghĩ rằng những người khiến tôi tổn thương có thể bị đưa ra tòa xét xử nếu họ bị phát giác. Tôi đã từng chứng kiến nhiều sự phẫn nộ tương tự đối với người khác. Sự kiện đau lòng nhất trong thời thơ ấu của tôi thực ra chẳng lớn lao, nhưng nó đã ảnh hưởng đến tinh thần tôi rất nhiều. Đó là một ví dụ điển hình cho quá trình chữa lành.

Tôi lớn lên trong một xóm nghèo với các món đồ hoen gỉ cũ nát. Nhưng ở lưu vực Great Lakes thì quanh năm bốn mùa đều xinh đẹp. Sự cực đoan của thời tiết đã làm cho các khoảng sân trở thành những chiếc hộp dụng cụ nghệ thuật từ thiên nhiên với đủ thứ gỗ, đá, bột màu và đồ trang trí cho những đứa trẻ thích sáng tạo.

Tôi đã dành hết thời gian rảnh rỗi của mình để xây dựng một tiểu vương quốc. Nơi đó không có trường học, không có quán rượu, không có nhà thờ hay nhà tù nào cả. Tôi xây dựng một thế giới tưởng tượng rất hoàn hảo như trong một giấc mơ, ở đó những kẻ hay ức hiếp người khác không được bước chân vào. Tôi làm những căn nhà bằng cây lợp mái cỏ tranh và những căn nhà đá ốp bằng đá cuội. Tôi làm những con đường trên băng đá, ngăn nước mưa thành hồ và kênh rạch. Nhà cửa, cao ốc và thị trấn từ từ mọc lên. Có cả một nông trại gieo trồng củ cải và cà rốt khổng lồ, những hạt giống này được lấy từ khu vườn của gia đình tôi.

Những chú khủng long và những con vật ở nông trại là những món đồ chơi tôi yêu thích, tôi mang chúng đến để chúng trở thành những thần dân của tôi. Vì tôi đã làm việc quanh năm, suốt bốn mùa, để xây dựng nhà cửa cho những công dân tí hon ấy, nên tôi đã phát triển những sự ngộ nhận về các giác quan của mình, tôi nhìn toàn bộ thế giới từ độ cao khoảng chừng 2,5 tấc. “Đôi mắt trẻ thơ” của tôi ánh lên niềm hân hoan, và tôi cảm thấy mình có thể tự bảo vệ được cho chính mình.

Vào một buổi sáng Chủ Nhật mùa đông, tôi thức dậy sớm và mặc đồ đi ra ngoài, tôi hân hoan nhìn ngắm thành phố của mình được bao phủ bởi một lớp tuyết mới. Khi tôi đi vòng quanh cây bách, chỗ chắn gió cho chiếc cửa sau, tôi thấy một loạt những dấu chân nhỏ màu đen in trên tuyết từ cổng trước hướng về vương quốc của tôi.

Một đôi giày đế cứng nào đó đã để lại những dấu chân này, hoàn toàn không phải loại giày cao su mà chúng ta thường mang vào mùa đông. Ý nghĩ đầu tiên trong tôi khi ấy là người đó hẳn sẽ gặp rắc rối khi mang giày đi học vào trong tuyết. Rồi những dấu chân ấy đã dẫn tôi đến một sự thật tàn nhẫn. Tôi còn nhớ rằng chỉ có dấu chân đi vào mà không thấy đi ra. Cả kẻ viếng thăm, lẫn cái tiểu vương quốc cùng những thần dân của tôi đã không cánh mà bay đi mất. Tôi chạy vào nhà, gào thét và buộc tội cha tôi đã phá hủy cái thế giới nhỏ bé đó của tôi như một hình thức trừng phạt tàn nhẫn.

Tôi vẫn không thể nào biết được chuyện gì đã thực sự xảy ra. Tôi đã trải qua nhiều đòn roi và cay nghiệt, nhưng tôi chưa hề trải qua nỗi mất mát. Ai đó đã mang đi những con thú, công trình của tôi, mang theo cả “đôi mắt trẻ thơ” của tôi. Tôi bắt đầu ngờ vực mảnh đất này. Từ đó, những tác phẩm nghệ thuật của tôi trở nên vụng về và không thường xuyên nữa.

May mắn rằng tôi vẫn sống và đã giác ngộ. Tôi biết ơn rằng mình đã có một đường hướng tâm linh. Tôi có thể thiền tập với mọi người là nhờ câu nói “gặp Phật giết Phật” đã an ủi tôi, nhắc nhở tôi rằng: không kẹt vào những hình tướng bên ngoài là tinh yếu của cuộc sống.

Khi các huynh đệ trong Tăng thân tổ chức khóa tu cho những người khổ đau vì những vết thương sâu dày trong quá khứ hay những người có tuổi thơ đã từng bị lạm dụng, và gọi tên khóa tu là “chữa lành em bé trong mình”, thì đứa bé hay chỉ trích trong tôi nổi điên lên. Nền công nghiệp “Tự chữa lành tâm thức”, nào là “Con người yếu đuối trong bạn”, “Thiên tài trong bạn”, “Nhà lãnh đạo trong bạn”,… đã khơi dậy con người nổi loạn và tổn thương trong tôi. Kỳ thực tôi rất sợ hãi. Tuy nhiên, tôi vẫn đăng ký khóa tu và tham dự các buổi rèn luyện. Tôi quyết định viết một lá thư cho em bé trong tôi. Tôi bắt đầu: “Này cậu bé. Ta biết cậu không thích cái tên của mình. Vậy ta nên gọi cậu là gì nhỉ?”. Tôi viết rất lâu nhưng không thể chạm được đến đứa bé ấy, cho đến khi giọng văn của tôi bắt đầu thay đổi. Chính đứa bé ấy đang viết cho tôi. Thoạt đầu tôi chỉ biết khóc. Sau đó tôi lắng nghe. Cuối cùng tôi bước ra ngoài và làm những gì mà đứa bé yêu cầu.

Tôi đến bên bờ suối, nhặt những viên đá cuội nhẵn nhụi và mát rượi. Tôi để chúng nằm yên lành trong tay tôi. Rồi tôi xếp chúng lên cát. Một lúc sau, tiếng chuông báo giờ ăn tối đã cắt ngang mạch tập trung của tôi. Tôi phủi cát trên tay và ngắm nhìn tác phẩm của mình. Một chiếc bàn đá, trên đó bày ra hai cái dĩa đá, chứa đầy hạt lấy từ cái cây cạnh bờ suối. Hai cái ghế đá đặt hai bên chiếc bàn. Chỗ ngồi hướng ra dòng nước có tầm nhìn rất đẹp.

Sáng sớm hôm sau tôi trở lại dòng suối. Chiếc bàn ăn nhỏ bé tối qua vẫn còn đó, và trên nền cát còn ẩm ướt tôi thấy dấu chân của những con hươu, chim và vài con thú nhỏ khác, chúng đã bước đi rất thận trọng quanh chiếc bàn. Nhưng đống hạt thì đã biến mất. Đến chiều, tôi trở lại một lần nữa. Dòng nước mát lạnh đã chuyển dòng và toàn bộ bờ suối xám xịt đã trở nên tươi mới, êm ả và trống vắng. Giờ đây, tôi biết, không ai có thể lấy đi của tôi bất cứ thứ gì nữa. Khi tôi bước tới thiền đường, tôi thấy đứa bé khoảng chừng vài ba tấc trong tôi nhìn mọi vật rất rõ ràng và sống động. Cuối cùng tôi cũng đã nhìn thấu nỗi khổ đau của mình. Đôi mắt trẻ thơ của tôi đã trở lại.