Giảng kinh

(Phiên tả Pháp thoại ngày 12, 15, 19, 22 & 26 tháng 02 năm 1998, Làng Mai, Pháp)

Kinh Bốn lĩnh vực quán niệm tiếng Pāḷi là Satipaṭṭhāna Sutta, tiếng Anh dịch là The Four Foundations/Establishments of Mindfulness. Đây là kinh văn hết sức quan trọng với người tu thiền. Kinh này thường được các thầy học thuộc lòng. Có thể gọi kinh này là sách gối đầu giường của người tu thiền. 

Cho đến nay, nhiều thầy trong truyền thống Nam tông vẫn còn học thuộc lòng kinh này. Trong truyền thống Bắc tông, chúng ta học thuộc lòng nhiều kinh, trong đó có kinh A Di Đà. Khi có người hấp hối, các thầy Nam tông đọc kinh Tứ niệm xứ vì đó là cơ hội cuối cùng cho người hấp hối. Khi biết rằng ta sẽ chết trong vòng bảy ngày tới, hoặc chỉ còn một ngày nữa để sống thì ta sẽ rất tinh tiến, hết lòng sử dụng những giờ phút còn lại để thực tập. Đó là một cơ hội cuối cùng. Trong kinh, Bụt dạy rằng nếu thực tập trong bảy năm thì hành giả có thể chứng đắc được quả vị giải thoát; mà đừng nói gì đến bảy năm, nếu thực tập cho chuyên cần thì trong vòng bảy tháng cũng có thể đạt tới giải thoát; mà đừng nói đến bảy tháng, trong vòng một tháng cũng có thể thành công; hoặc nếu chỉ có bảy ngày mà thực tập cho chuyên cần thì cũng có thể có cơ hội; thậm chí đừng nói bảy ngày, nếu chỉ có hai mươi bốn giờ mà thực tập chuyên cần thì cũng có một cơ hội. Những lời này cho chúng ta thấy rằng đây là một cơ hội cuối cùng cho những người hấp hối. Vì vậy, các thầy thường đọc kinh này khi đến thăm và độ cho những người hấp hối.

Kinh này được gọi là kinh Bốn lĩnh vực quán niệm vì có bốn đối tượng của sự quán chiếu: thân thể, cảm thọ, tâm hành và nội dung của tâm hành (tức là tất cả các pháp).

Trong Hán tạng còn hai tụng bản. Một tụng bản là kinh Niệm xứ, thuộc Trung A hàm, kinh thứ 98. Tụng bản này do học phái Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ (說一切有部) hay Hữu Bộ (有部, Sarvāstivāda) truyền lại, từ chữ Phạn đã được dịch ra chữ Hán. Hữu Bộ là phái chủ trương tất cả đều hiện hữu. Hữu nghĩa là có.

Tụng bản khác do tông phái Đại Chúng Bộ (大眾部, Mahāsāghika) truyền đạt lại trong Tăng nhất A hàm. Thầy Dharmanandi dịch là Nhất nhập đạo. Nhất nhập đạo dịch từ chữ Ekayāna (eka là một, yāna là con đường). Danh từ Ekayāna (nhất đạo) có ở cả ba tụng bản: tụng bản tiếng Pāḷi và hai tụng bản tiếng Hán. Nhất nhập đạo tức là Một con đường vào, hoặc có thể dịch là Con đường duy nhất để đi vào, The one way in hay The one way out. Tựa đề kinh cho chúng ta thấy tầm quan trọng của bản kinh và sự thực tập trong kinh. Tụng bản tiếng Pāḷi là tụng bản của phái Xích Đồng Diệp Bộ (赤銅鍱部, Tāmraśāīya), là tông phái khoác y màu hỏa hoàng (màu đồng đỏ). Sau này tông phái Xích Đồng Diệp Bộ được gọi là Thượng Tọa Bộ (上座部, Theravāda). 

Những tụng bản tiếng Hán hiện giờ chúng ta đang có được dịch vào cuối thế kỷ thứ IV, trễ lắm là đầu thế kỷ thứ V. Nếu có thời giờ và cơ hội, chúng ta có thể đem ba tụng bản này đối chiếu, so sánh với nhau. Bởi vì ba tụng bản này do ba tông phái khác nhau (Hữu Bộ, Đại Chúng Bộ, Xích Đồng Diệp Bộ) truyền lại, những tông phái này cách nhau lâu đời nên sự truyền thừa có khác biệt và có những yếu tố mới được thêm vào. Khi đối chiếu và so sánh, chúng ta sẽ tìm ra được những điểm đồng nhất và những điểm dị biệt. Chúng ta có thể dùng tụng bản này để bổ túc cho tụng bản kia vì bốn trăm hay năm trăm năm đầu, sự truyền thừa chỉ bằng miệng, bằng trí nhớ chứ chưa viết xuống, cho nên trong khi tụng đọc có thể có những sai sót, hoặc đôi khi người ta đem một đoạn kinh này ghép vào một đoạn kinh kia. Do đó, việc so sánh ba tụng bản là công việc rất thú vị và có tính cách khám phá. Trong cuốn Con đường chuyển hóa, thầy đã nghiên cứu và so sánh một cách sơ lược, nếu có thời giờ, quý vị có thể đi sâu hơn vào việc nghiên cứu và so sánh ba tụng bản này. Tuy mới nghiên cứu và đối chiếu sơ sơ, ta đã có ánh sáng, đã tìm ra được những chi tiết rất hay, giúp ta hiểu được bản kinh một cách sâu sắc hơn. 

Kinh Bốn lĩnh vực quán niệm đã được dịch ra tiếng Việt, Anh, Pháp, Ý, Đức,… và có thể dịch sang mười mấy thứ tiếng với những lời chú giải rất thực tế có thể đem áp dụng được trong đời sống hằng ngày. Sách tiếng Pháp có tên là Transformation et Guérison, tiếng Anh là Transformation and Healing và tiếng Việt là Con đường chuyển hóa

Hai học phái Theravāda (Xích Đồng Diệp Bộ) và Sarvāstivāda (Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ hoặc Hữu Bộ) cách nhau gần hai ngàn năm nên khi đem hai tụng bản so sánh với nhau, ta có thể tìm ra những điều rất hay và những điểm đồng nhất giữa hai tụng bản. Học phái Sarvāstivāda đã di cư lên miền Bắc và lập căn cứ ở Kashmir trên một ngàn năm và từ đây, nền văn học của học phái này đã được truyền sang Trung Quốc, các bản dịch từ tiếng Sanskrit cũng được chuyển sang chữ Hán. 

Bốn lĩnh vực quán niệm ở đây gồm thân thể, cảm thọ, tâm hành và đối tượng tâm hành (pháp), tức là nội dung của tâm hành. Tâm hành là những tâm tư của ta như buồn, giận, ghét,… Nhưng buồn bao giờ cũng là buồn cái gì, giận bao giờ cũng là giận cái gì, ghét bao giờ cũng là ghét cái gì, tri giác bao giờ cũng là tri giác về cái gì. “Cái gì” ở đây là đối tượng của tâm hành, danh từ chuyên môn gọi là pháp. Các pháp trong đạo Bụt không phải là những thực thể riêng biệt. Theo ngôn từ Phật giáo, các pháp chỉ có nghĩa là đối tượng của tâm. Ví dụ, bông hoa này không phải là thực thể riêng biệt mà nó là đối tượng của tri giác tôi, của nhận thức tôi, và bông hoa này là một pháp. Một pháp có nghĩa là một đối tượng của nhận thức.

Đó là bốn lĩnh vực để chúng ta quán chiếu, cho nên gọi là kinh Bốn lĩnh vực quán niệm. Chữ Hán dịch là Niệm xứ kinh (念處經). Xứ tức là đối tượng. Niệm xứ tức là đối tượng của quán niệm. Nói cho đúng là Tứ niệm xứ kinh (四念處經), tức  bốn đối tượng của sự quán chiếu.

Sau đây là những lời mà tôi đã được nghe đức Thế Tôn dạy, hồi Người còn đang cư trú ở Kammassadhamma, nơi một ấp phố của giống dân Kuru.

Đứng về phương diện nơi chốn, tụng bản tiếng Pāḷi của Sarvāstivāda và tụng bản của Hữu Bộ, kinh Niệm xứ giống nhau về địa điểm, nơi Bụt đã dạy kinh này. 

Trong bản chữ Hán, Kammassadhamma dịch là Kiềm ma sắt đàm. Kurusu dịch là Câu lưu sấu.

Một hôm đức Thế Tôn gọi các vị khất sĩ: “Này quý thầy!” Các vị khất sĩ đáp: “Thưa đức Thế Tôn, có chúng con đây.” Bụt nói: “Này quý vị, đây là con đường duy nhất để giúp chúng sanh thực hiện thanh tịnh, vượt thắng phiền não, tiêu diệt ưu khổ, đạt tới chánh đạo và chứng nhập niết bàn: Đó là con đường của bốn phép an trú trong quán niệm.

Bốn phép an trú trong quán niệm ấy là những phép nào?

Này các vị khất sĩ! Vị khất sĩ an trú trong phép quán niệm thân thể nơi thân thể, cảm thọ nơi cảm thọ, tâm thức nơi tâm thức và đối tượng tâm thức nơi đối tượng tâm thức, tinh cần, sáng suốt và tỉnh thức, loại ra ngoài mọi tham dục và chán bỏ đối với cuộc đời.

Trong câu này, bốn lĩnh vực quán niệm là: Thân thể nơi thân thể, cảm thọ nơi cảm thọ, tâm thức nơi tâm thức và đối tượng tâm thức nơi đối tượng tâm thức. Câu hỏi đầu tiên chúng ta tự đặt ra là: “Tại sao không nói quán niệm thân thể mà lại là quán niệm thân thể nơi thân thể?”. Nếu là một nhà khảo cứu, chúng ta có khuynh hướng cho rằng đối tượng của sự khảo cứu là một đối tượng độc lập với nhận thức của ta, như con vi trùng nằm dưới kính hiển vi của nhà khoa học không dính líu gì tới nhà khoa học; người quán chiếu và đối tượng quán chiếu là hai thực thể riêng biệt. Đó là phương pháp của khoa học hay là phương pháp của nhận thức dung thường ở đời. Nhưng khi tu tập, chúng ta phải học để vượt qua khỏi ranh giới chia cách chủ thể quán chiếu và đối tượng quán chiếu. Chúng ta phải làm thế nào để chủ thể quán chiếu và đối tượng quán chiếu trở thành một, lúc đó sự hiểu biết của ta mới trở nên sâu sắc. 

Đối tượng nghiên cứu của ta mang màu sắc của tâm thức nghiên cứu vì không thể tách rời đối tượng quán chiếu và chủ thể quán chiếu. Đạo Bụt luôn nói rằng pháp là đối tượng của tâm thức, ngoài pháp không có tâm và ngoài tâm không có pháp. Vì vậy nếu chủ thể quán chiếu đi vào trong lòng đối tượng quán chiếu thì ranh giới giữa người quán chiếu và vật quán chiếu được lấy đi. Khoa học bây giờ cũng bắt đầu thấy được điều đó. Họ biết rằng chủ thể quán chiếu ảnh hưởng tới đối tượng của sự quán chiếu. Không thể nào lấy tâm thức chủ quan ra khỏi đối tượng quán chiếu được. Như khi người ta rọi ánh sáng vào một điện tử thì ánh sáng sẽ làm biến hình, ảnh hưởng tới điện tử. Tại vì ánh sáng này cũng là một nguồn năng lượng, khi nguồn năng lượng ấy chiếu vào, ôm ấp đối tượng nào thì đối tượng đó sẽ thay đổi. Nhận thức của ta cũng vậy, cũng là một nguồn năng lượng, khi ta quán chiếu, ôm ấp một đối tượng nào thì đối tượng đó cũng sẽ thay đổi. Đó là sự liên hệ giữa chủ thể và đối tượng. 

Khoa học vật lý lượng tử bây giờ cũng khuyên ta là muốn thấu hiểu bản chất của một điện tử thì phải học làm một người tham dự (the participant) chứ đừng khư khư giữ vai trò một người quan sát (the observer). Nếu chỉ làm một người quan sát thì ta không bao giờ hiểu được đối tượng. Ta phải tham dự vào, phải hòa làm một với đối tượng. Trong tiếng Pháp có động từ comprendre, nghĩa là hiểu, và chữ comprendre gồm tiền từ com là hiểu và động từ prendre là cầm lấy. Muốn hiểu một vật gì thì cầm vật đó lên và đồng nhất ta với vật đó. Ví dụ nếu muốn hiểu sư chị của ta thì ta phải đặt mình vào trong con người của sư chị, phải thấy được những tâm hành, những lo lắng, buồn khổ, hạnh phúc, hy vọng của sư chị. Ta đặt mình vào trong xương thịt, hòa làm một với sư chị thì mới có thể hiểu sư chị được. Nếu ta vẫn là một quan sát viên ở ngoài thì không thể nào hiểu được người kia. Người Ấn Độ có một ví dụ: Một hạt muối đứng trên bờ biển và thao thức muốn biết nước biển mặn tới mức nào. Người ta mới nói với nó, nếu muốn biết nước biển mặn ra sao thì chỉ có cách nhảy xuống biển, hòa vào nước biển, lúc đó hiểu biết của nó về độ mặn của nước biển sẽ toàn vẹn. Đó là cách người ta giải thích tại sao muốn hiểu một cái gì thì phải tham dự vào và trở thành một với cái đó. Lúc đó, cái hiểu mới sâu sắc được, còn không thì cái thấy, cái hiểu vẫn còn tính cách phân biệt và kỳ thị. 

Đứng về phương diện chính trị và văn hóa cũng vậy. Khi có những cuộc xung đột, tranh chấp, mỗi bên luôn tự cho mình là đúng và bên kia là sai. Nhưng nếu hai bên ngồi vào bàn hội nghị và có người giúp cho cả hai đứng vào vị trí của nhau thì tự nhiên hai bên có thể hiểu được những khó khăn, khổ đau của nhau và đi tới hiệp ước sống chung trong hòa bình một cách dễ dàng hơn. Anh em, vợ chồng giận nhau, làm cho nhau buồn khổ là tại vì người này nghĩ rằng người kia hoàn toàn khác biệt với mình. Nhưng nếu tìm cách để đặt mình vào vị trí của người kia và thấy được những khổ đau, khó khăn, thao thức của người kia thì tự nhiên mình sẽ hiểu. Hiểu được rồi thì có thể chấp nhận và đi tới sự tha thứ, chung sống hòa bình, an lạc với nhau như xưa. Cho nên, không chỉ trong lĩnh vực quán chiếu, thiền tập, chúng ta còn phải xóa bỏ ranh giới giữa chủ thể và đối tượng ngay trong đời sống hằng ngày, nếu chúng ta muốn đạt tới hiểu và thương.

Do đó, quán niệm thân thể nơi thân thể nghĩa là quán niệm thân thể như thế nào để ta có thể hòa nhập, trở thành một với thân thể, từ đó ranh giới giữa người quán chiếu và đối tượng quán chiếu không còn nữa. Quán chiếu như vậy mới thành công. Điều này ta chỉ có thể hiểu được khi đi sâu vào kinh và nhất là khi ta đem kinh áp dụng vào trong sự thực tập quán chiếu. Ví dụ, kinh dạy phải quán chiếu một cơ thể đang tan rã, cơ thể đó ta có thể thấy trong bãi tha ma hay chính cơ thể ta. Ta phải quán chiếu rằng: Khi cơ thể đó phình trương lên thì những chất nước bắt đầu rịn ra; sau khi cơ thể đó tan rã rồi chỉ còn một bộ xương được nối kết nhau bằng những sợi gân; sau đó, những sợi gân tan rã và những khúc xương rời rạc mỗi nơi một cái. Trải qua nắng mưa, những khúc xương đó trắng ra như vỏ sò, rồi sẽ dần mục tan thành bụi; gió thổi qua sẽ cuốn những bụi xương trắng đó bay đi. Khi quán chiếu như vậy, ta không thể cho rằng bộ xương đó là bộ xương của người khác, ta phải thấy mình là bộ xương đó thì sự quán chiếu mới thành công. Đó gọi là quán chiếu thân thể trong thân thể.

Tinh cần là chuyên cần, bền bỉ, không bỏ nửa chừng. Sáng suốt là giữ cho tâm được tỉnh táo. Khi ngồi thiền, khi quán chiếu, ta giữ cho tâm thực sự có mặt trong giây phút đó, đừng phiêu lưu trong thế giới của suy tưởng, thế giới của mơ mộng, thế giới của cơn buồn ngủ. Tỉnh thức là thân và tâm cùng có mặt và biết những gì đang xảy ra. Loại ra ngoài mọi tham dục và chán bỏ đối với cuộc đời. Có hai trạng thái mà chúng ta phải buông bỏ là trạng thái vướng mắc và trạng thái ghét bỏ. Một bên là bị kẹt vào (vướng mắc, tham dục), một bên là sợ, muốn bỏ chạy (ghét bỏ, chán bỏ). 

I. QUÁN NIỆM THÂN THỂ NƠI THÂN THỂ

Bây giờ chúng ta đi vào lĩnh vực quán niệm đầu tiên là niệm thân, quán thân trong thân:

Này các vị khất sĩ! Vị khất sĩ an trú trong phép quán niệm thân thể nơi thân thể như thế nào?

Trong bộ Trung A hàm, có kinh thứ 81 là kinh Niệm thân (The sutra of the contemplation of the body). Trong kinh này ta cũng thấy nội dung tương tự như kinh Niệm xứ mà ta đang học.

Vị khất sĩ ấy tìm tới một khu rừng, hoặc một gốc cây, hoặc một căn nhà vắng, ngồi xuống trong tư thế kiết già, giữ thân hình ngay thẳng và thiết lập chánh niệm trước mặt mình.

Câu này có nghĩa là chúng ta phải tìm ra một khung cảnh thích hợp để thực tập. Đó có thể là một khu rừng, một gốc cây hoặc một căn nhà vắng. Nếu không có những điều kiện thuận lợi đó thì ta sẽ bị tiếng ồn, sự xáo trộn phá rối và không thành công được. 

“Ngồi xuống trong tư thế kiết già, giữ thân hình ngay thẳng.” Bụt dạy rất rõ ràng là ta phải giữ thân hình cho ngay thẳng. Vì vậy, trong khi ăn cơm, nghe pháp thoại, ta phải tập giữ cho thân hình ngay thẳng. Ngay thẳng mà vẫn mềm mại, nhẹ nhàng chứ không cứng đờ như một khúc gỗ. Khi ngồi ngay thẳng và buông thư thì những bắp thịt trên vai và trong cơ thể của ta không co rút lại, nhờ thế ta có thể ngồi được khá lâu mà không mỏi mệt. Nghệ thuật ngồi thẳng và buông thư là điều ai cũng phải học. Ta phải luôn có sự an lạc và hạnh phúc trong khi ngồi. 

Thiết lập chánh niệm trước mặt mình. Chữ trước mặt được dịch từ chữ tiếng Phạn parimukha, có nghĩa là cửa, tức là có một cánh cửa, một lối vào trước mặt ta. Ta có thể dịch chữ mukhaoutlet, ouverture, opening, the door, the front, in front of. Thiết lập chánh niệm trước mặt mình tức là dùng chánh niệm mở ra một khoảng không gian, mở ra một cánh cửa để ta có thể thoát khỏi tình trạng bế tắc. 

1. Quán niệm hơi thở:

Người ấy thở vào với ý thức minh mẫn là mình đang thở vào. Người ấy thở ra với ý thức minh mẫn là mình đang thở ra. 

Đoạn kinh này lặp lại những ý giống với kinh Quán niệm hơi thở:

Thở vào một hơi dài, người ấy ý thức rằng ta đang thở vào một hơi dài. Thở ra một hơi dài, người ấy ý thức rằng ta đang thở ra một hơi dài. Thở vào một hơi ngắn, người ấy ý thức rằng ta đang thở vào một hơi ngắn. Thở ra một hơi ngắn, người ấy ý thức rằng ta đang thở ra một hơi ngắn.

Hơi thở được liệt vào đối tượng quán niệm thứ nhất, tức là thân thể. Vì vậy, khi thực tập quán niệm thân thể, ta phải bắt đầu bằng quán niệm hơi thở. Hơi thở là phần gần nhất của thân thể mà ta có thể tiếp xúc được. Khi đã tiếp xúc được với hơi thở rồi ta mới có thể đi sâu vào trong thân thể. Hơi thở là phương tiện chuyên chở đưa ta đi sâu vào các thành phần khác của thân thể. Do đó, khi bắt đầu thực tập, ta chỉ tiếp xúc với hơi thở thôi.

Người ấy thở vào với ý thức minh mẫn là mình đang thở vào. Người ấy thở ra với ý thức minh mẫn là mình đang thở ra. Như vậy, bài tập thứ nhất trong mười sáu phép quán niệm hơi thở đúng là vào – ra chứ không phải là ý thức về chiều dài của hơi thở như trong kinh Quán niệm hơi thở. Điều này phù hợp với kinh An ban thủ ý trong Tạp A hàm.

Cũng như khi xoay một vòng dài, người thợ tiện khéo tay ý thức rằng mình đang xoay một vòng dài, và khi xoay một vòng ngắn, ý thức rằng mình đang xoay một vòng ngắn. Vị khất sĩ mỗi khi thở vào một hơi dài, ý thức rằng mình đang thở vào một hơi dài, mỗi khi thở ra một hơi dài, ý thức rằng mình đang thở ra một hơi dài, mỗi khi thở vào một hơi ngắn, ý thức rằng mình đang thở vào một hơi ngắn, mỗi khi thở ra một hơi ngắn, ý thức rằng mình đang thở ra một hơi ngắn.

Kinh này có một chi tiết mà ta không thấy trong kinh Quán niệm hơi thở, đó là hình ảnh người thợ tiện bánh xe bò. Ngày xưa xe bò là phương tiện dùng để chuyên chở, có những người thợ chuyên môn tiện bánh xe. Tay phải người thợ cầm rìu để đẽo, tay trái xoay bánh xe và hai tay phối hợp với nhau, vì vậy, khi cần tiện một khúc ngắn hay dài thì tay người thợ xoay một khúc ngắn hay dài. Người thợ phải có ý thức là cần một khúc ngắn hay một khúc dài để tiện bánh xe một cách chính xác. Bởi vì nếu không có ý thức thì không tiện đúng được bánh xe. Cũng vậy, khi thở vào thở ra, hơi thở đó dài bao nhiêu và ngắn bao nhiêu, chúng ta phải có ý thức về điều đó. Đây là bài tập thứ hai.

Người ấy tự mình tập luyện như sau:

Tôi đang thở vào và có ý thức rõ rệt về trọn thân thể tôi. Tôi đang thở ra và có ý thức rõ rệt về trọn thân thể tôi.

Đây là bài tập thứ ba, gọi là thân hành giác. (Breathing in, I am aware of my whole body. Breathing out, I am aware of my whole body). Dùng hơi thở có ý thức ôm trọn lấy thân thể, biết rõ sự có mặt của thân thể. 

Tôi đang thở vào và làm cho sự vận hành trong thân thể tôi trở nên an tịnh. Tôi đang thở ra và làm cho sự vận hành trong thân thể tôi trở nên an tịnh.

Đây là bài tập thứ tư, gọi là thân hành tức. (Breathing in, I calm the activity of my body. Breathing out, I calm the activity of my body). 

Trên đây là bốn bài tập liên hệ đến thân thể: vào – ra, dài – ngắn, ý thức thân hành và an tịnh thân hành. 

Như vậy, quán niệm về thân thể, trước hết là quán niệm về hơi thở. 

2. Quán niệm những tư thế của thân thể: 

Khi đi, vị khất sĩ lại cũng ý thức rằng mình đang đi; khi đứng, ý thức rằng mình đang đứng; khi ngồi, ý thức rằng mình đang ngồi; khi nằm, ý thức rằng mình đang nằm. Bất cứ thân thể mình đang được sử dụng trong tư thế nào, vị ấy cũng ý thức được về tư thế ấy của thân thể.

Chúng ta thường gọi đây là tứ uy nghi: đi, đứng, ngồi, nằm (hành, trụ, tọa, ngọa). Thân thể ta đang ở tư thế nào trong bốn tư thế đó, ta đều phải ý thức được. Ta đang đứng thì phải biết rằng ta đang đứng. Ta đang đi thì phải biết rằng ta đang đi. Ta đang nằm thì phải biết rằng ta đang nằm. Ta đang ngồi thì phải biết rằng ta đang ngồi. Các sư cô và sư chú phải nhớ là, trong các tư thế hành, trụ, tọa, ngọa, ta phải biết, phải ý thức được. Đi mà không biết là đang đi thì ta đang làm cái gì? Ta đang bị ma đuổi? Một khi đã có ý thức về bốn tư thế của thân thể rồi, tự nhiên ta có sự thảnh thơi, ta sống hòa hợp với thân thể và nhờ vậy ta có sự thong dong. 

3. Quán niệm những động tác của thân thể:

Khi đi tới hoặc đi lui, vị khất sĩ cũng chiếu dụng ý thức sáng tỏ của mình về sự đi tới hay đi lui ấy; khi nhìn trước, nhìn sau, cúi xuống, duỗi lên, vị ấy cũng chiếu dụng ý thức sáng tỏ ấy; khi mặc áo ca sa, mang bình bát, vị ấy cũng chiếu dụng ý thức sáng tỏ ấy; khi ăn cơm, uống nước, nhai thức ăn, nếm thức ăn, vị ấy cũng chiếu dụng ý thức sáng tỏ ấy; khi đi đại tiện, tiểu tiện, vị ấy cũng chiếu dụng ý thức sáng tỏ ấy; khi đi, đứng, nằm, ngồi, ngủ, thức, nói năng, hoặc im lặng, vị ấy cũng chiếu dụng ý thức sáng tỏ ấy vào tự thân.

Những lời chỉ dạy của đức Thế Tôn rất rõ ràng. Phần này dạy về động tác của thân thể. Đọc 391 thiên uy nghi trong sách Bước tới thảnh thơi thì sẽ thấy rõ tại sao chúng ta phải có uy nghi. Những thiên uy nghi và những bài thi kệ áp dụng thực tập chánh niệm hằng ngày là để thực thi những điều dạy trong kinh Niệm xứ

Là người tu, chúng ta phải có ý thức và chánh niệm với mỗi cử động của cơ thể: đi tới, đi lui, nhìn trước, nhìn sau, cúi xuống, ngẩng lên,… đó là sự thực tập chánh niệm. Vì vậy, khi làm việc trong bếp, dù chỉ một mình, ta cũng phải làm trong chánh niệm. Mở nước phải mở trong chánh niệm, lấy củ cà rốt phải lấy trong chánh niệm, cầm dao lên phải cầm cho chánh niệm và gọt củ cà rốt phải gọt trong chánh niệm. Phải xem nhà bếp như một thiền đường. Khi đi vào nhà bếp của một ngôi chùa, ta biết ngay chùa này có tu tập nghiêm chỉnh hay không. Trong nhà bếp có sáu bảy người, người nào cũng làm việc chánh niệm, cầm củ cà rốt biết cầm củ cà rốt, vặn nước biết vặn nước,… ta sẽ cảm nhận được một năng lượng rất lớn ở nơi ấy. Khi bước vào, năng lượng chánh niệm cũng thấm vào trong con người ta. 

Do đó, nhà bếp cần sắp đặt, trang trí như thế nào để phù hợp với tinh thần thực tập này, giống như một đạo tràng để thực tập chánh niệm. Trong nhà bếp, chúng ta có thể lập một bàn thờ nhỏ, trên đó đặt một bình hoa. Buổi sáng, khi đi vào và trước khi bắt đầu làm thức ăn sáng, chúng ta đến trước bàn thờ, xá xuống và thắp một cây nhang trong chánh niệm. Trong nhà bếp xóm Mới, người nào đó đã treo lên một tấm bảng có câu: Tôi đang làm gì đó? (What am I doing?). Đó là một tiếng chuông chánh niệm. Ta đang làm gì đó hay ta đang đuổi theo những buồn khổ, những lo lắng trong quá khứ hoặc tương lai mà không thực sự thực tập chánh niệm? Theo phương pháp thực tập chánh niệm, cắt cà rốt là phải cắt cà rốt trong chánh niệm, thân và tâm ta phải hoàn toàn có mặt cho củ cà rốt, nếu không, củ cà rốt sẽ tủi thân. Bởi vì ta được ở chùa mà nó cũng đang được ở chùa. Khi ở trong bếp, ta và củ cà rốt phải thực sự có mặt. Ở Đạo tràng Mai thôn, chúng ta thường khuyến khích rằng trong nhà bếp nên có một cái chuông và lâu lâu được thỉnh lên; hay một chiếc đồng hồ có nhạc ngân lên mỗi mười lăm phút. Khi nghe  tiếng chuông, mọi người dừng lại những việc đang làm, để tâm vào hơi thở, mỉm cười nhìn nhau và trở về với chánh niệm, giúp cho công việc của mỗi người được diễn biến trong sự thực tập. Như vậy, làm bếp cũng là thiền tập. Khi chấp tác ở ngoài trời, chúng ta cũng phải làm theo tinh thần đó. Đây là điều khác nhau duy nhất giữa cuộc sống trong tu viện và cuộc đời bên ngoài. Bên ngoài mọi người nấu ăn, tắm giặt, làm việc,… và trong tu viện chúng ta cũng nấu ăn, tắm giặt, làm việc,… Nếu chúng ta không thực tập chánh niệm theo kinh Niệm xứ này thì thử hỏi có gì khác nhau giữa chúng ta và những người sống ngoài đời? 

Tại Làng Mai, khi khóa tu mùa Hè sắp bắt đầu, thỉnh thoảng chúng ta bị hấp dẫn bởi ý tưởng là nên thuê một người nấu ăn chuyên nghiệp tới để các thầy, các sư cô, các vị cư sĩ, các vị giáo thọ nhẹ bớt các công việc. Nhưng sau khi suy đi nghĩ lại thì không ai đồng ý cả. Bởi vì một đầu bếp chuyên nghiệp (professional cook) mà không thực tập, chỉ làm việc như một cái máy, cho dù nấu ăn giỏi nhưng sẽ làm hỏng hoàn toàn không khí tu học trong chùa. Giữa những người tu chánh niệm bỗng có một người không tu chánh niệm, điều đó có tính cách phá hoại rất nhiều. Vì vậy chưa bao giờ chúng ta bị cái hấp dẫn đó điều khiển. Tương tự, những nơi như nhà vệ sinh, phòng tắm,… đều có thể trở thành đạo tràng. Trong những nơi ấy cũng thường có một bình hoa. Do đó, chúng ta đều phải thực tập chánh niệm khi rửa mặt, rửa chân, tắm, kỳ cọ hay khi đi vệ sinh… Đây là nội dung của đoạn kinh này.

Khi những vị sa di và sa di ni mới học thi kệ và những thiên uy nghi trong luật, họ có thể không biết rằng tất cả những thi kệ và những uy nghi đó là để thi hành những điều đức Thế Tôn đã dạy trong kinh này. Mỗi cử động, mỗi tư thế của thân thể đều phải đặt dưới ánh sáng của chánh niệm. Ta phải làm chủ thân tâm, làm bạn với thân tâm và trở thành một với thân tâm thì chánh niệm mới có thể chuyển vào và chuyển hóa được thân tâm. Ta thành công trong sự tu học hay không là ở điểm này, vì một khi đã nắm được thân, ta bắt đầu nắm được tâm. Khi nắm được thân tâm, ta làm chủ được thân tâm, từ đó mới có sự chuyển hóa. Không nắm được thân thì khó mà nắm được tâm. Vì vậy, niệm thân là sự thực tập căn bản đầu tiên. 

Ở chùa năm năm mà khi đi ta chưa nắm được từng bước chân của ta thì thử hỏi làm sao ta nắm được tâm của ta? Khi nắm được bước chân của ta rồi thì tất nhiên ta nắm được tâm của ta, bởi vì thân với tâm là một. Dù có học thuộc tam tạng kinh điển mà ta chưa nắm được hơi thở, chưa nắm được bước chân, chưa nắm được những  động tác của thân thể thì sự thuộc lòng tam tạng kinh điển đó không đưa ta đi đến đâu hết. Do đó, ta phải hạ thủ công phu. Người có thực tập chánh niệm trong bốn tư thế đi, đứng, nằm, ngồi và trong từng cử động của thân thể đã bắt đầu có định và có tuệ, vì người đó đã có niệm. Người nào thực tập giới luật và uy nghi là người đó đang thực tập niệm, mà thực tập niệm thì sẽ có định, có tuệ. Có niệm, định, tuệ thì sẽ có sự chuyển hóa. 

4. Quán niệm những thành phần tạo nên cơ thể:

Vị khất sĩ lại quán niệm chính thân thể này, từ gót chân trở lên và từ đỉnh tóc trở xuống, bao bọc bởi một lớp da và chứa đầy nhiều loại bất tịnh: thuộc về thân thể ta, này đây là tóc, này đây là lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, hoành cách mạc, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, phân, mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mật, mỡ da, nước bọt, nước mủ, nước ở các khớp xương và nước tiểu. 

Ở Làng Mai, chúng ta thường thực tập đoạn kinh này khi chúng ta nằm (thiền nằm hay thiền buông thư). Trong khi thực tập thiền nằm, chúng ta theo dõi hơi thở, chú ý và nhận diện được những thành phần của cơ thể, từ tóc trên đầu cho đến móng chân, đến đâu thì nhận diện những thành phần của cơ thể đến đó. Trong kinh liệt kê ba mươi mấy phần rất rõ ràng. Đức Thế Tôn đưa ra cho chúng ta một ví dụ. Ngài nói rằng, có một nông dân lấy một bao hạt giống và mở bao ra. Ông để những hạt giống tràn ra trên sàn nhà, nhờ có mắt tốt nên ông biết đây là đậu xanh, đây là đậu ngự, đây là hạt lúa, đây là gạo hẻo rằn, đây là hạt mè, đây là gạo trắng,… Những bộ phận trên cơ thể con người cũng được ví như một bao hạt giống, khi ngồi hay nằm, với ý thức sáng tỏ, ta biết rằng đây là tóc, đây là lông mi, đây là lỗ tai, đây là con mắt, đây là lỗ mũi, đây là phân, nước tiểu, phổi, tim, gan,… Ta dùng chánh niệm để nhận diện, làm quen và ôm lấy từng bộ phận của cơ thể. Trong đời sống hằng ngày, có thể ta là một kẻ xa lạ đối với chính cơ thể ta. Cho nên ta phải trở về làm quen lại với cơ thể, ôm ấp, chấp nhận và trở thành một với cơ thể ta. Đây là sự thực tập hòa bình với tự thân. Rất quan trọng. 

Này các vị khất sĩ! Ví dụ có một cái bao tải đựng đủ các loại ngũ cốc, như gạo lức, gạo hẻo rằn, hạt lúa, đậu xanh, đậu ngự, mè, gạo trắng và hai đầu bao tải có thể mở ra. Một người có mắt tốt, khi mở bao ra, thấy rõ mọi loại hạt chứa đựng trong bao. Này đây là gạo lức, gạo hẻo rằn, này đây là hạt lúa, này đây là đậu xanh, này đây là đậu ngự, này đây là hạt mè, này đây là gạo trắng. Cũng như thế, khi quán sát về chính thân thể của mình, vị khất sĩ thấy được mọi thứ, từ gót chân đến đỉnh đầu, và từ đỉnh đầu xuống đến gót chân, bao bọc bởi một lớp da và chứa đầy nhiều loại bất tịnh: thuộc về thân thể ta, này đây là tóc, này đây là lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, hoành cách mạc, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, phân, mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mật, mỡ da, nước bọt, nước mủ, nước ở các khớp xương và nước tiểu.

Có một chi tiết chúng ta phải nhận diện, đó là chữ nhiều loại bất tịnh. Trong đoạn kinh trên, sáu chữ chứa đầy nhiều loại bất tịnh được lặp lại hai lần, và thầy tin rằng những chữ này đã được thêm vào sau. Nếu học Phật theo kiểu học Toán thì kinh Bốn lĩnh vực quán niệm sẽ là thân, rồi đến thọ, đến tâm, cuối cùng là pháp. Khi còn là một chú tiểu, là một học tăng, thầy đã được học kinh Tứ niệm xứ một cách đơn giản, và người ta “ráp” những giáo lý bất tịnh, khổ, vô thường, vô ngã với tứ niệm xứ. Trong khi tứ niệm xứ là một phương pháp rất đặc biệt, đó là dùng chánh niệm để nhận diện những gì đang có mặt. 

Chánh niệm là khả năng nhận diện những gì đang có mặt. Ban đầu ta nhận diện sự có mặt của đối tượng, rồi từ sự nhận diện ta sẽ có những cái thấy sâu sắc hơn về đối tượng ấy. Thầy đã được học rằng: thân là bất tịnh, thọ là khổ, tâm là vô thường và pháp là vô ngã. Sư chú, sư cô nào cũng thuộc lòng câu thân bất tịnh, thọ thị khổ, tâm vô thường, pháp vô ngã. Câu này đã trở thành một công thức. Các sư chú, sư cô học thuộc lòng và nói như một con vẹt. Như vậy tức là gán cho thân, thọ, tâm, pháp các thuộc tính bất tịnh, khổ, vô thường, vô ngã. Tất nhiên, đây là bốn giáo lý của Bụt, nhưng ghép bốn giáo lý này vào Tứ niệm xứ như vậy thì có tính cách gượng ép. Ví dụ thọ chẳng hạn. Thọ đâu chỉ có khổ, thọ có ba trạng thái (tam thọ) là: khổ thọ, lạc thọ và xả thọ. Vậy tại sao chỉ nói thọ là khổ? Có phải đây là thái độ giáo điều, muốn ghép cái này vào cái kia? Và nếu thân là bất tịnh thì pháp không bất tịnh sao? Nếu pháp là vô ngã thì thân, thọ, tâm không vô ngã sao? 

Thực ra, nếu nói về bất tịnh, khổ, vô thường, vô ngã thì thân là bất tịnh mà cũng là khổ, cũng là vô thường, cũng là vô ngã. Thọ, tâm và pháp cũng vậy. Đưa hai nhóm thân, thọ, tâm, pháp và bất tịnh, khổ, vô thường, vô ngã đồng nhất với nhau là không đúng. Trong khi đó, chánh niệm là nhận diện đơn thuần, không cần phải nói nó là cái này hay cái kia. Nhận diện nó trước, sau đó nhìn sâu vào, ta có thể thấy nó như thế này hoặc như thế kia, chứ không hẳn là phải tự mình nhồi nhét trước rằng thân phải là bất tịnh, thọ phải là khổ, tâm phải là vô thường và pháp phải là vô ngã. Đó là lối học nhồi sọ. Phương pháp nhồi sọ đó, theo dòng thời gian đi vào ngay trong các kinh của Bụt. Thân có thể bất tịnh, nhưng chánh niệm về thân trước hết là để nhận diện thân thể, nhận diện những thành phần của thân thể, rồi trong khi nhận diện và nhìn sâu vào thân, ta có thể thấy được những thứ bất tịnh. Không nên nói thân bất tịnh ngay! Đó là sự nhồi sọ, giáo điều. Cho nên, các chữ “chứa đầy nhiều loại bất tịnh” là người ta thêm vào, tuy có ý tốt là nhắc nhở về giáo lý bất tịnh, nhưng thêm vào như thế thì không thích hợp. Nói như vậy không có nghĩa rằng ta chủ trương thân là không bất tịnh. Nhưng bất tịnh phải là sự khám phá của công trình quán chiếu, chứ không phải là giáo điều hay một sự nhồi sọ. 

Ở đây ta không nói đến bất tịnh, khổ, vô thường, vô ngã mà chỉ nói đến sự ý thức được về những thành phần của cơ thể: tóc là tóc, phổi là phổi, máu là máu, đàm là đàm,… vậy thôi. Thành ra, vì học theo tinh thần giáo điều nên người ta nói quá nhiều về khổ, bất tịnh, vô thường, vô ngã. Đến nỗi sau này có người phản ứng, nói rằng không tịnh cũng không bất tịnh. Đó là trong Tâm kinh Bát nhã. Thực tại vượt ra khỏi tịnh và bất tịnh, vượt ra khỏi thường và vô thường. Kẹt vào ý niệm tịnh là một thứ kẹt, nhưng kẹt vào ý niệm bất tịnh cũng là một thứ kẹt khác. Cho nên Tâm kinh Bát nhã nói tính không của các pháp không tịnh mà cũng không bất tịnh, không sinh mà cũng không diệt. 

Đoạn này giúp chúng ta thực tập nhận diện những thành phần của thân thể. Mỗi ngày, có thể một hoặc hai lần, chúng ta ngồi lại hoặc nằm xuống, theo dõi hơi thở và trở về với cơ thể, để nhận diện những thành phần của cơ thể. 

Ở nhà thương có máy scanner (máy chụp cắt lớp), họ đưa bệnh nhân đi qua máy scanner để có thể thấy rõ những bộ phận trong cơ thể bệnh nhân. Họ dùng một tia ánh sáng (tia laser) để giúp ta thấy được những gì không thể thấy bằng mắt thường trong môi trường ánh sáng thường. Phương pháp của Bụt ở đây là dùng tia chánh niệm. Ta nằm hay ngồi xuống và dùng tia chánh niệm quét chầm chậm từ đỉnh đầu đến gót chân. Tia chánh niệm đi tới đâu, ta nhận diện được những thành phần của cơ thể tới đó. Phương pháp này có thể gọi là phương pháp body scanning của đạo Bụt, thay vì dùng tia laser thì dùng tia chánh niệm. Ví dụ: “Thở vào, tôi có ý thức về hai mắt của tôi. Thở ra, tôi mỉm cười với hai mắt của tôi. Thở vào, tôi có ý thức về trái tim tôi. Thở ra, tôi mỉm cười với trái tim tôi.” Đó là phương pháp chúng ta thường thực tập trong tư thế ngồi hay tư thế nằm đều được. 

Khi nằm trên giường và chưa ngủ, thay vì nghĩ mông lung về chuyện này chuyện kia, ta nằm duỗi tay, sử dụng hơi thở ý thức để ôm lấy những thành phần của cơ thể và mỉm cười với nó. Như vậy, ta ôm lấy toàn thân và toàn thân ta sẽ trở nên an tịnh. Sự thực tập này rất hay, ta trở về được với cơ thể, làm quen với cơ thể và tỏ lòng ưu ái với cơ thể. Có thể trong quá khứ ta đã rất tệ bạc với cơ thể ta. Ta lo danh, lo lợi, lo đủ thứ mà bỏ bê, xa lạ với cơ thể ta. Ta không thương lấy cơ thể ta. Giờ đây, ta trở về ôm lấy cơ thể và tỏ bày sự thương yêu lân mẫn, nói rằng: Tôi là cơ thể tôi. 

Nói như trên, có thể có người cho đó là thân kiến. Thực ra không phải như vậy. Thân thể là một phần rất quan trọng của con người. Trở về để thấy cơ thể rất thân thiết với ta, để làm hòa, để chăm sóc cơ thể là một sự thực tập rất quan trọng. Nhất là khi trong cơ thể ta có những thành phần đang đau nhức, ta trở về ôm lấy bộ phận đó bằng chánh niệm, mỉm cười với nó, tỏ bày sự ưu ái, thương yêu thì ta có thể làm cho bộ phận đó được trị liệu mau chóng hơn. Ta đã đối xử với gan, với phổi, với mật như thế nào? Ta đã rất tệ bạc với những bộ phận đó. Ta đã ăn như thế nào? Uống như thế nào? Ta đã làm tình làm tội lá gan, buồng phổi, trái tim ta thế nào? Bây giờ là lúc ta trở về và hòa giải với những bộ phận đó: “Thở vào, tôi có ý thức về trái tim tôi. Thở ra, tôi mỉm cười với trái tim tôi.” Sự thực tập này nằm trong tinh thần của đoạn kinh trên. 

Tại Làng Mai, chúng ta thực tập không chỉ với tư cách cá nhân. Khi thực tập thiền nằm (thiền buông thư), mọi người nằm hết xuống và có một người hướng dẫn, chúng ta thực tập như một tăng thân. “Thở vào, tôi biết tôi đang thở vào. Thở ra, tôi biết tôi đang thở ra. Thở vào, tôi có ý thức về trái tim tôi. Thở ra, tôi mỉm cười với trái tim tôi.” Trở về với cơ thể, với những thành phần của cơ thể, ôm ấp và bày tỏ sự ưu ái. Như vậy, chúng ta có thể giúp cơ thể trị liệu những cơn đau nhức và những bệnh tật bên trong. Chúng ta còn có thể khai thác nhiều hơn nữa đoạn kinh này để áp dụng vào đời sống hằng ngày. Chúng ta hãy tổ chức như thế nào để mỗi ngày ta đều có thể thực tập được đoạn kinh này, với tư cách cá nhân, một nhóm trong tăng thân hay toàn thể tăng thân. 

5. Quán niệm bốn yếu tố làm nên cơ thể:

Lại nữa, các vị khất sĩ! Trong bất cứ tư thế nào của thân thể này, vị khất sĩ cũng quán chiếu những yếu tố tạo nên chính thân thể ấy: “Trong thân thể này có yếu tố đất, có yếu tố nước, có yếu tố lửa và có yếu tố gió.”

Đại (tiếng Phạn là Mahābhūta) là đất, nước, lửa và gió – bốn yếu tố làm nên cơ thể (the four elements: earth, fire, water, air). Khi đọc tụng bản thứ hai là kinh Niệm xứ (tiếng Pāḷi), và tụng bản thứ ba là kinh Nhất nhập đạo (tiếng Hán), chúng ta thấy không phải chỉ có bốn đại mà là sáu đại. Khái niệm về sáu đại được đưa vào sau. Sáu đại là đất (địa), nước (thủy), lửa (hỏa), gió (phong), hư không (không, space) và tâm thức (thức, consciousness). Hư không và tâm thức được thêm vào sau này.

Bốn đại hay sáu đại cũng vậy. Ta thở vào, thở ra và nhận diện được yếu tố đất trong ta. Đất là mẹ của ta. Ta là con nên đất cũng có trong ta. Khi thấy yếu tố đất trong ta rồi thì ta cũng thấy yếu tố đất ngoài ta. Ta thấy yếu tố đất bên trong và bên ngoài ta giao lưu với nhau mỗi ngày. Khi ta ăn rau trái, yếu tố đất đang lưu chuyển từ ngoài vào trong và khi ta đi đại tiện thì yếu tố đất cũng đi ra ngoài. Thở vào, tôi thấy yếu tố đất trong tôi. Thở ra, tôi thấy yếu tố đất trong tôi. Nếu có thể thực tập hay hơn, ta quán chiếu: Thở vào, tôi thấy yếu tố đất ngoài tôi. Thở ra, tôi thấy yếu tố đất ngoài tôi. Thở vào, tôi thấy yếu tố đất ngoài tôi và trong tôi đang giao lưu… Ta thoát khỏi sinh tử là nhờ quán chiếu những điều bé nhỏ như vậy. Đất ở trong tôi và ngoài tôi đều là tôi hết. Ngoài và trong chỉ là ý niệm. 

Thở vào, tôi thấy yếu tố lửa trong tôi. Thở ra, tôi thấy yếu tố lửa trong tôi. Lửa là hơi nóng. Mỗi khi hơ nóng những huyệt đạo bị lạnh là ta đang đưa thêm yếu tố lửa vào cơ thể. 

Thở vào, tôi thấy yếu tố nước trong tôi. Thở ra, tôi thấy yếu tố nước trong tôi. Thân thể ta được hình thành bởi rất nhiều nước, nhiều hơn yếu tố đất. Hơn bảy mươi lăm phần trăm trọng lượng cơ thể con người là nước. Ta thấy nước ở trong ta và nước ở ngoài ta. Ta thấy sự giao lưu giữa nước ở trong và ở ngoài. 

Thở vào, tôi thấy không khí ở trong tôi. Thở ra, tôi thấy không khí ở trong tôi, ở ngoài tôi và sự giao lưu giữa không khí ở trong và ở ngoài.

Như một bác đồ tể rành nghề hoặc một đồ tể tập sự, giết một con bò và ngồi giữa ngã tư và xẻ con bò ra thành nhiều phần; vị khất sĩ cũng vậy, trong bất cứ tư thế nào của thân thể mình cũng quán chiếu những yếu tố tạo nên chính thân thể ấy: “Trong thân thể này có yếu tố đất, có yếu tố nước, có yếu tố lửa và có yếu tố gió.”

Sự thực tập này không có tính chất máy móc, không phải được làm bằng chữ nghĩa mà ta phải thực sự thấy yếu tố đất, yếu tố nước, yếu tố lửa và yếu tố gió trong cơ thể ta. Xin nhắc lại, sự thực tập này tuy đơn giản, nhưng nó giúp ta vượt thoát sinh tử và sự sợ hãi sinh tử. Ở đây, Bụt cũng đưa ra một ví dụ (khiến chúng ta hết sức ngạc nhiên), là bác đồ tể giết một con bò rồi xẻ con bò ra thành từng mảnh và biết được đây là phần nào của con bò. Chúng ta cũng phải mổ xẻ, phân tích cơ thể mình tương tự như vậy. Đây gọi là trạch pháp (investigation into our body). Ta biết được rằng cơ thể ta được làm bằng các yếu tố: đây là yếu tố nước, đây là yếu tố đất, đây là yếu tố lửa và đây là yếu tố gió. 

6. Quán niệm tử thi:

Lại ví như khi thấy một xác chết bị liệng vào bãi tha ma đã được một ngày, hai ngày hoặc ba ngày, sình lên, xanh lại, thối nát ra, vị khất sĩ quán chiếu sự thật ấy vào chính thân thể mình: “Chính thân thể ta đây cũng vậy, cũng sẽ trở thành như thế, không có lối nào tránh thoát.”

Đây là một thái độ rất can đảm, thấy rõ ràng rằng ta cũng vô thường, ta cũng sẽ chết. Khi nhìn vào tử thi kia, ta có thể đi vào được tử thi kia và biết rằng thân ta cũng sẽ như vậy. Đó là quán niệm thân thể trong thân thể. Cố nhiên là đối với các em thiếu nhi, phương pháp Cửu tưởng quán này không thích hợp. Nhưng nếu ta muốn đi sâu vào sự hiểu biết thực tại thì phải biết phương pháp quán tử thi này mang lại rất nhiều lợi lạc. Cửu tưởng quán (九想觀, The contemplation of the nine stages of a decaying corpse) là quán chiếu về quá trình tàn hoại của cơ thể, thấy được quá trình hủy diệt của một thân thể từ khi tắt thở cho đến khi xương cốt tan thành tro bụi. Quá trình này có cả thảy là chín giai đoạn, cho nên gọi là cửu tưởng quán. Cửu tưởng quán có thể giúp ta đối trị ái dục.

Rồi như thấy một xác chết liệng bỏ trong bãi tha ma, bị quạ rỉa, bị diều hâu, kên kên, chó sói rừng ăn và bị các loài dòi bọ rúc rỉa, vị khất sĩ quán chiếu sự thật ấy vào chính thân thể mình: “Chính thân thể ta đây cũng vậy, cũng sẽ trở thành như thế, không có lối nào tránh thoát.”

Rồi như thấy một xác chết liệng bỏ trong bãi tha ma, chỉ còn là một bộ xương dính ít thịt và máu, các khúc xương còn được nối liền nhau nhờ có những sợi gân…

Dấu “…” ở đây có thể đọc thêm câu: “Vị khất sĩ quán chiếu sự thật ấy vào chính thân thể mình: ‘Chính thân thể ta đây cũng vậy, cũng sẽ trở thành như thế, không có lối nào tránh thoát.’”

Rồi như thấy một xác chết liệng bỏ trong bãi tha ma, chỉ còn là một bộ xương, không còn dính chút thịt nào nhưng vẫn còn vướng máu, các khúc xương còn được nối liền nhau nhờ có những sợi gân…

Rồi như thấy một xác chết liệng bỏ trong bãi tha ma, chỉ còn là một bộ xương, không còn dính chút thịt nào và cũng không còn vướng chút máu nào, các khúc xương còn được nối liền nhau nhờ có những sợi gân…

Rồi như thấy một xác chết liệng bỏ trong bãi tha ma, chỉ còn lại một đống xương rời rạc đó đây, chỗ này là xương tay, chỗ nọ là xương ống chân, chỗ kia là xương bắp vế, chỗ kia nữa là xương mông, xương sống và đầu lâu…

Rồi như thấy một xác chết liệng bỏ trong bãi tha ma, chỉ còn lại một mớ xương trắng màu vỏ ốc…

Rồi như thấy một xác chết liệng bỏ trong bãi tha ma, chỉ còn lại một đống xương khô, để hơn một năm trên bãi…

Rồi như thấy một xác chết liệng bỏ trong bãi tha ma, chỉ còn lại một mớ xương mục tan thành bụi…

Vị khất sĩ quán chiếu sự thật ấy vào chính thân thể mình: “Chính thân thể ta đây cũng vậy, cũng sẽ trở thành như thế, không có lối nào tránh thoát.”

Sau phần trên còn một đoạn như thế này: 

Cứ như thế, vị khất sĩ an trú trong sự thường trực quán niệm thân thể nơi thân thể, hoặc quán niệm bên trong hoặc quán niệm bên ngoài thân thể ấy, hoặc quán niệm cả bên trong lẫn bên ngoài. Vị ấy an trú trong sự quán niệm quá trình sinh khởi nơi thân thể, hoặc quán niệm quá trình hủy diệt nơi thân thể, hoặc quán niệm cả quá trình sinh khởi lẫn quá trình hủy diệt nơi thân thể. Hoặc người ấy quán niệm: “Có thân thể đây”, đủ để quán chiếu và ý thức được sự có mặt của thân thể đó, và như vậy, người ấy an trú một cách tự do, không bị bất cứ một thứ gì trong cuộc đời làm vướng bận. Vị khất sĩ quán niệm thân thể nơi thân thể là như thế đó, thưa quý vị.

Có người sẽ phản ứng rằng, “Tại sao lại phải bi quan như vậy? Tại sao lại mất thời giờ để quán chiếu những hình tượng tiêu cực và bi quan như vậy?” Câu trả lời là: “Đây không phải là vấn đề bi quan hay lạc quan. Vấn đề là sự thật.” Tất cả chúng ta ai cũng thao thức đi tìm sự thật. Sự thật là vô thường. Sự thật là cơ thể chúng ta một mai kia sẽ già, sẽ bệnh, sẽ chết. Những người không thấy được hoặc không chấp nhận được sự thật là những người có rất nhiều đau khổ. Những người thấy được sự thật thì có ít đau khổ hơn. Vì vậy, đối diện với sự thật, không sợ hãi, ta sẽ không bị đau khổ, không bị đè nén, không bị làm cho tan nát bởi những khổ đau của chính tâm thức ta. 

Hơn nữa, ý thức về vô thường giúp ta trải qua đời sống hằng ngày một cách sâu sắc, cho ta khả năng sống an lạc và hạnh phúc, biết trân quý những giây phút của đời sống hiện tại. Vì vậy, cửu tưởng quán có thể đem lại cho ta rất nhiều niềm vui và hạnh phúc. Khi cần chết, tôi sẽ chết. Nhưng khi còn sống, tôi phải sống thật sâu sắc mỗi giây phút trong cuộc đời. Chính vì tôi biết rằng ngày mai, ngày mốt, tôi sẽ chết, thân tôi sẽ tan thành cát bụi, cho nên hôm nay tôi phải sống thật sâu sắc những giây phút còn lại của đời mình. Và cũng vì biết rằng sự vật là vô thường cho nên hôm nay tôi biết chăm sóc anh, biết chăm sóc chị, tôi biết làm những gì có thể làm được để anh, chị được hạnh phúc mà không cần hẹn đến ngày mai. Như vậy là tôi đang tạo hạnh phúc cho tôi, cho anh và cho chị ngay trong chính hôm nay. Đó là hạnh phúc bừng nở như một đóa hoa nhờ tuệ giác về vô thường. Nếu u mê, không biết vô thường, không biết thân ta ngày mai sẽ tàn hoại, chúng ta sẽ sống mà để cho khổ đau của cuộc đời kéo đi, không có khả năng hạnh phúc và liên tục tạo ra những khổ đau cho chính chúng ta và cho những người khác. 

Cửu tưởng quán là sự thực tập rất quan trọng, rất ích lợi. Cửu tưởng quán giúp chúng ta thấy được sự thật, dạy chúng ta sống đời sống hôm nay như thế nào để tự thân có hạnh phúc và những người xung quanh cũng có hạnh phúc. Ta sống như thế nào để có thể chọc thủng màn bí mật của thực tại và khi chọc thủng được bức màn ấy rồi, ta sẽ giác ngộ, sẽ vượt thoát mọi sợ hãi và buồn đau. 

Ngày 20 tháng 02 năm 1998, chúng ta mang về Làng Mai một bộ xương bằng nhựa để quán chiếu. Chúng ta làm như ở Làng Mai không có một bộ xương nào hết cho nên phải đi mua một bộ xương ở trường đại học về. Kỳ thực, mỗi chúng ta đều mang một bộ xương, chỉ cần có chánh niệm là ta có thể tiếp xúc với bộ xương đó, bất cứ giờ phút nào. Vậy mà phải bỏ tiền ra để đi mua một bộ xương bằng plastic!

Trước khi đi sang phần quán niệm cảm thọ nơi cảm thọ, chúng ta hãy đi sâu hơn nữa phần quán niệm thân thể nơi thân thể.

Ở phần thứ ba là động tác của thân thể, ta phải cố gắng áp dụng trong đời sống hằng ngày vì cơ thể chúng ta luôn luôn có những cử động. Hôm trước, sư cô Giới Nghiêm có làm thử. Sư cô để rơi một cây bút xuống sàn. Khi cây bút rơi xuống sàn, sư cô biết rằng cây bút rơi xuống sàn. Rồi sư cô có ý muốn cúi xuống để nhặt cây bút lên. Khi thân cúi xuống, sư cô biết thân đang cúi xuống và khi đưa tay nhặt bút, sư cô biết tay đang đưa ra nhặt bút. Khi đứng dậy, sư cô ý thức mình đang đứng dậy. Đó là một ví dụ. Trong đời sống hằng ngày, khi làm gì chúng ta cũng phải có ý thức sáng tỏ về việc làm đó. Những bài thi kệ thực tập chánh niệm trong Sa di luật nghi – sách Bước tới thảnh thơi là thực thi giáo lý này của đức Thế Tôn. Ví dụ, khi đưa tay chạm vào công tắc để mở đèn, ta phải biết là ta đang đưa tay chạm vào công tắc đèn, và thay vì làm một cách máy móc, ta làm theo bài kệ:

Thất niệm là bóng đêm

Chánh niệm là ánh sáng

Đưa tỉnh thức trở về

Cho thế gian tỏ rạng.

Ta đưa tay bấm công tắc, khi đó ánh sáng bừng lên. Ta thấy ánh sáng đó là ánh sáng của đèn nhưng đồng thời cũng là ánh sáng của chánh niệm. Người tu là phải như vậy. Không phải muốn bật đèn là bật. Bật đèn một cách máy móc thì cũng như ngoài đời bật rồi, còn ta ở trong đạo, là một hành giả, ta phải bật đèn cách khác. Những bài thi kệ thực tập chánh niệm giúp chúng ta an trú chánh niệm nơi mỗi động tác, mỗi phút giây của đời sống hằng ngày. Khi chúng ta cởi áo ra, mặc áo vào hay đi vào phòng tắm,… tất cả những cử động đó đều phải đi cùng với ánh sáng chánh niệm. 

Nếu muốn cho ánh sáng chánh niệm soi sáng tất cả cử động của đời sống hằng ngày thì chúng ta phải tập luyện cho thành thói quen. Thói quen này có thể được tập luyện trong các khóa tu, vì khi ấy sẽ có đông người cùng thực tập như nhau. Chúng ta cùng thực tập một thời gian thì tự khắc mọi thứ trở thành thói quen, và bất cứ công việc gì như đi, đứng, nằm, ngồi, ăn, uống, làm việc tay chân,… chúng ta đều có khả năng làm trong chánh niệm. Phương pháp này có trong kinh Hoa nghiêm, phẩm Tịnh hạnh, trong đó có nhiều bài thi kệ để sử dụng khi chúng ta mặc áo, khi đi vệ sinh, khi vượt qua một dòng nước, khi rửa chân, súc miệng,… Truyền thống này có từ lâu đời, phát xuất từ kinh Quán niệm hơi thở. Trước khi thắp lên một ngọn nến, chúng ta cầm một cái hộp quẹt và biết ta đang cầm một cái hộp quẹt. Ta quẹt que diêm cho cháy thành ngọn lửa và biết ta đang quẹt que diêm, lửa cháy lên. Khi châm lửa vào ngọn nến thì ta biết ta đang châm lửa vào ngọn nến.

Thắp lên một ngọn đèn

Cúng dường vô lượng Bụt

Một tâm niệm an lành

Làm rạng ngời mặt đất.

Chúng ta thở vào khi đọc câu đầu, thở ra khi đọc câu thứ hai. Như vậy, chúng ta nhiếp thân và tâm vào trong vòng chánh niệm. Sự thực tập này làm ra chất liệu đẹp đẽ của người tu. Chính chất liệu đẹp đẽ đó, chất liệu của chánh niệm đưa tới định và tuệ. Cho nên, mỗi cử động của thân thể phải được soi sáng bởi chánh niệm.

Trong một số truyền thống, có khi sự thực tập được đẩy tới rất chi ly và nhiều khi chúng ta có cảm tưởng hơi máy móc và không được tự nhiên. Ví dụ như việc xúc thức ăn đưa vào miệng. Khi xúc một muỗng thức ăn, chúng ta nói thầm: xúc, xúc, xúc… Khi đưa lên, ta nói: đưa lên, đưa lên, đưa lên… Khi bỏ vào miệng, ta nói: bỏ vào miệng, bỏ vào miệng. Khi nhai, ta nói: nhai, nhai, nhai… Ta lặp lại từng chữ nhiều lần, rồi nuốt thức ăn. Trong khi làm như vậy, ta có quyết tâm để thực tập chánh niệm, và chánh niệm có thể có mặt khi ta an trú vào những ngôn ngữ được lặp lại nhiều lần. Nhưng chúng ta cũng có thể rơi vào tình trạng máy móc mà không thấy có sự sống, sự tự nhiên cũng như niềm an lạc. 

Nếu đã từng tham dự những khóa tu như vậy, chúng ta có thể thấy trong khi thiền hành, thay vì có ý thức rằng: đây là bước chân trái, đây là bước chân phải, đây là hơi thở vào, đây là hơi thở ra, thì việc thực tập ở đây trở nên chi li hơn nhiều. Hành giả thực tập như thế này: dở chân lên, đưa chân tới, đặt chân xuống, dở chân lên, đưa chân tới, đặt chân xuống… Đó là phương pháp tu chánh niệm ở nhiều khóa tu thuộc truyền thống Nam tông. Chúng ta thấy rất rõ ràng là người hành trì muốn thực thi lời dạy của đức Thế Tôn. Thậm chí có người còn đi xa hơn nữa khi thực tập như vầy: muốn nhấc lên, nhấc lên, đã nhấc lên, muốn đi tới, đang đi tới, đi tới rồi, sắp đặt xuống, đã đặt xuống… Họ chia chẻ việc thực tập ra thành từng sát na, từng khoảnh khắc rất ngắn. Chúng ta có quyết tâm muốn bám sát lấy từng cử chỉ của thân thể, muốn làm cho thật hay, nhưng chúng ta có thể rơi vào cái lỗi là trở thành máy móc và không có sự sống. 

Pháp môn của Làng Mai rất rõ ràng là thực tập chánh niệm như thế nào để trong khi thực tập thì ta có sự sống, có sự hiện diện của bản thân và có cả niềm vui. Vì sao? Vì sự sống có những mầu nhiệm, những mầu nhiệm đó ở trong ta và xung quanh ta. Khi có chánh niệm, ta tiếp xúc được với sự sống, với sự mầu nhiệm. Chánh niệm đem lại niềm vui, an lạc và sự sống. Đó là nguyên tắc của Làng Mai. Nếu anh nói: “Dở lên, đưa tới, đặt xuống, dở lên, đưa tới, đặt xuống… ” và anh đi một giờ đồng hồ như vậy mà không có niềm vui gì, không tiếp xúc được với sự sống, thì sự thực tập đó chỉ mang tính hình thức. Chúng ta có thể nói điều quan trọng của việc tập luyện là để đạt được niệm và định. Có niệm và định là có tuệ. Niệm ở đây đưa tới sự sống. 

Chúng ta ai cũng muốn thực hành phương pháp thực tập cho thật hay, thật toàn hảo, nhưng chúng ta cũng biết rằng giáo pháp của đức Thế Tôn đã được Người trực tiếp nói: “Giáo pháp của ta đem lại hạnh phúc trong khi thực tập, bây giờ và sau này.” (My teaching, my practice is lovely in the beginning, in the middle and at the end.) Sự an lạc của ngày hôm nay mang lại sự an lạc của ngày mai. Nếu ngày hôm nay không an lạc thì ngày mai làm sao an lạc được? Niềm an lạc của ngày hôm nay làm thành niềm an lạc của ngày mai. Vì vậy, trong sự thực tập tuyệt nhiên phải có sự sống và phải có hạnh phúc. Nếu trong sự thực tập không có sự sống và không có an lạc, theo tiêu chuẩn mà đức Thế Tôn đề ra thì đó chưa phải là chánh pháp (living Dharma). 

Bất cứ tôn giáo nào cũng dễ dàng sa vào chủ nghĩa hình thức nên chúng ta phải tránh đi theo lối đó. Trong khi ăn cơm chẳng hạn, chúng ta phải ăn sao cho có an lạc và hạnh phúc. An lạc và hạnh phúc trong khi ăn là do chúng ta thực sự có mặt trong bữa ăn với đại chúng. Chúng ta tiếp xúc với thức ăn, tặng phẩm quý giá của đất trời và tiếp xúc với tăng thân đang ngồi cùng chúng ta. Nếu ta suy nghĩ vẩn vơ về quá khứ, tương lai, ngồi đó mà không có mặt ở đó thì sự thực tập không thể nào thành công. Nếu không ý thức được rằng chúng ta đang ngồi đây, đang có mặt đây, đang ăn những thức ăn này và đang được bao bọc bởi tăng thân thì sự sống đang không có mặt cho ta, niềm vui vì thế cũng không hiện diện. Còn nếu ta thực tập mà bị kẹt vào chỗ đây là xúc, xúc… đây là đưa lên, đưa lên… đây là bỏ vào miệng, bỏ vào miệng… đây là nhai, nhai… đây là nuốt, nuốt… thì đứng về phương diện hình thức, đó có thể là sự thực tập chánh niệm, nhưng về nội dung, ta cần phải xét lại. Định nghĩa của sự thực tập chánh niệm là có mặt một cách hoàn toàn, thân tâm nhất như và tiếp xúc sâu sắc với sự sống, với những mầu nhiệm của sự sống đang có mặt trong giây phút hiện tại (To be mindful is to be totally present, to be touching life in every second, and to experience the wonders of life in every second). Chánh niệm giúp ta có mặt trong mỗi giây phút của đời sống hằng ngày. Khi thực tập máy móc, chúng ta có thể không tiếp xúc được với những mầu nhiệm đó. Nếu đang đi mà ta nói rằng đây là nhấc lên, nhấc lên, đang nhấc lên, nhấc lên rồi, đưa tới, đưa tới, sắp sửa đặt xuống, sắp sửa đặt xuống, đặt xuống rồi… thì có thể là thành công đứng về phương diện theo dõi và bám sát lấy những cử chỉ, nhưng cử chỉ đó không còn là những cử chỉ tự nhiên nữa và nó có thể làm cho ta không có mặt thực sự, không tiếp xúc được với sự sống, vì ta đang bị kẹt vào hình thức. 

Pháp môn Làng Mai trình bày là trong mỗi giây phút của đời sống, sự sống phải có mặt đích thực và ta phải có mặt đích thực. Khi cả hai – ta và sự sống – đều có mặt đích thực thì tự nhiên ta tiếp xúc được với những mầu nhiệm của cuộc sống. Ta sống và biết là ta đang sống, ăn và biết là ta đang ăn, đi và biết là ta đang đi, tức là có sự tỉnh thức, awakening. Đi mà không biết mình đang đi là người mộng du (sleepwalker), ăn mà không biết mình đang ăn là mộng thực, ngồi mà không biết mình đang ngồi là mộng tọa. Chúng ta phải khéo léo, thông minh và thực tế trong khi thực tập. 

Trong một khóa tu ba ngày, năm ngày hay bảy ngày, chúng ta phải tổ chức để tất cả mọi người tập luyện như thế nào mà chánh niệm về mỗi động tác của cơ thể trở thành một thói quen. Ai cũng làm như vậy. Bước một bước chân thì biết là ta đang bước một bước chân, nhai một miếng cơm và tàu hủ thì biết là ta đang nhai một miếng cơm và tàu hủ. Tâm ta đặt ở đó, Phật giáo gọi là tâm tại, tức là tâm có mặt. Khi làm không có ý tứ, tâm để chỗ khác, gọi là tâm bất tại

Chúng ta không theo phương pháp chẻ một sợi tóc ra làm tư rồi lấy một phần tư đó chẻ ra làm tư nữa, làm như vậy tuy là có thiện chí làm cho thật hay lời Bụt dạy, nhưng cũng có thể không làm được theo lời Bụt dạy. Khuynh hướng phân tích chi ly đã có từ ngàn xưa. Trong văn học A tỳ đàm cũng có khuynh hướng đó, phân tích một sợi tóc làm tư rồi làm tám, đến sự thực tập cũng làm như vậy. Ta sợ rằng khuynh hướng đó khiến ta có thể đánh mất tinh ba và sự sống sinh động. 

Đến phần thứ tư của quán thân trong thân, ý thức về những thành phần cơ thể, là chúng ta thắp lên ngọn đuốc chánh niệm chiếu rọi những thành phần cơ thể trong ta. Mỗi thành phần trong cơ thể đều có sự mầu nhiệm. Biết rằng khi một ngón chân đau nhức thì toàn thân cũng đau nhức, vì vậy ta trở về chăm sóc, ôm ấp từng bộ phận của cơ thể để tỏ lòng ưu ái, trân quý. Chúng ta thường rất xem nhẹ ngón chân của ta, ít cho nó là quan trọng, nhưng giả sử trong đó có những tế bào bắt đầu bị ung thư thì ta nghĩ thế nào? Mấy chục năm nay, những ngón chân đã rất dễ thương với chúng ta, nó giữ gìn, tự săn sóc, cho đến hôm nay nó vẫn chưa bị thương, chưa có những tế bào ung thư, thì ta phải chắp tay lại nói: “Cám ơn những ngón chân của tôi, ngón chân của tôi giỏi lắm, từ xưa đến nay chưa bao giờ bị thương. Tôi rất biết ơn ngón chân của tôi.” Tự nhiên ta có sự trân quý ngón chân của ta. Sự an lạc của ngón chân tức là sự an lạc của toàn thân. Vậy mà lâu nay có thể ta đã đối xử rất tệ với ngón chân của ta. Ta phải trở về ôm ấp lấy ngón chân, thấy rằng ngón chân rất giỏi, rất hay và ta cần phải chăm sóc nó. 

Thở vào, tôi có ý thức về hai mắt của tôi. Thở ra, tôi mỉm cười với hai mắt của tôi.” Đó là trở về để làm quen với hai mắt. Nếu trở về, ôm ấp hai mắt bằng năng lượng chánh niệm và mỉm cười, ta sẽ thấy được quả thật hai mắt ta quý giá hơn hai hạt minh châu nhiều. Nhờ có đôi mắt sáng, ta tiếp xúc được với trời xanh mây trắng, với hình dáng mềm mại đến màu phơn phớt vàng của bông hoa thủy tiên, với mọi hình và mọi sắc của thế gian. Ta được ở trong thiên đường của màu sắc và hình ảnh. Những người không may bị mù đều biết có đôi mắt là rất quý. Còn chúng ta – những người có đôi mắt sáng – đâu có thèm để ý, cho đôi mắt là bình thường. Mùa xuân đến, chúng ta biết đôi mắt sẽ giúp ta tiếp xúc với bao nhiêu mầu nhiệm. Thở vào, tôi biết rằng đôi mắt tôi có đó. Thở ra, tôi mỉm cười với đôi mắt tôi. Tự nhiên ta có hạnh phúc. Ta thấy ta là người may mắn. Người mù do tai nạn, bệnh tật, chỉ có một ước mong duy nhất là làm sao để thấy lại được. Họ nghĩ rằng, nếu như họ bắt đầu thấy lại thì cũng giống như từ dưới địa ngục đi lên được thiên đường của hình ảnh và màu sắc. Chúng ta đang ở trên thiên đường. Nhưng mấy ai thưởng thức được thiên đường và có khả năng biết được giá trị của thiên đường đó, chỉ nhờ vào đôi mắt của chính mình mà thôi. 

Thở vào, tôi có ý thức về trái tim tôi. Thở ra, tôi mỉm cười với trái tim tôi.” Ta trở về, có thể đây là lần đầu tiên, ưu ái ôm lấy trái tim mình. Lâu nay ta lo những chuyện đâu đâu, lo chạy chọt để có danh lợi, lo thi đậu để có một bằng cấp. Ta bỏ mặc trái tim, cho là không quan trọng. Ta hút thuốc, uống rượu, thức khuya, ăn nhiều chất béo làm hại đến trái tim. Trong khi tiêu thụ như vậy, ta làm cho trái tim đau khổ, đến khi trái tim bị tắc nghẽn thì ta bắt đầu khổ đau. Trái tim là một điều kiện hạnh phúc căn bản của ta mà ta không hay. Ta đã đối xử với trái tim tệ bạc, không có từ bi, không ưu ái, không thương tưởng. Bây giờ ta phải trở về. Thở vào, tôi có ý thức về trái tim tôi: “Trái tim của tôi ơi, em đang có đó, tôi đang trở về với em đây.” Thở ra, tôi mỉm cười với trái tim tôi. Có thể đây là lần đầu tiên ta trở về hòa giải với trái tim mình. Nếu ta thở được như vậy trong ba phút và ôm lấy trái tim ta thì trái tim sẽ đỡ khổ nhiều lắm. Lâu nay trái tim đã khổ rất nhiều, ta đã ăn, uống, hút, làm tội làm tình nó. Có mặt với trái tim, ta sẽ bắt đầu hiểu ra. Hiểu rồi thì sẽ thương. Ta hứa rằng: “Từ nay trở đi, trái tim của tôi ơi, tôi sẽ không ăn, không uống, không thức khuya như vậy nữa. Tôi sẽ không để trong tôi tràn ngập những xúc cảm mạnh như sợ hãi, lo lắng nữa. Tội nghiệp cho trái tim của tôi quá! Trái tim phải làm việc suốt ngày đêm để nuôi dưỡng những tế bào trong cơ thể tôi. Ấy vậy mà tôi không biết, tôi dại dột, tôi đã làm tình làm tội trái tim của tôi bao lâu nay.” 

Khi trở về ôm ấp trái tim như vậy, tự nhiên ta giác ngộ, ta tỉnh thức và hiểu biết. Nhờ đó, ta có sự chuyển hóa và từ đây về sau ta sẽ làm bạn với trái tim, sẽ chăm sóc trái tim. Ta biết rằng mỗi khi châm một điếu thuốc và hút vào một hơi là ta đang có hành động thù nghịch với trái tim. Trái tim ta đau khổ vì chuyện này lắm! Vì vậy ta đừng hút thuốc nữa. Đó là tỏ lộ lòng thương tưởng của ta đối với trái tim. Những người có thai mà hút thuốc sẽ làm tổn hại đến thai nhi, khoa học đã chứng minh như vậy. Ta nói rằng ta thương con quá chừng, con ta đang ở trong ta, ta chờ đợi ngày nó ra đời để ẵm bế, trong khi đó thì ta hút thuốc. Em bé mới có một, hai tháng ở trong bụng đã bắt đầu khổ rồi! Khổ vì người thương, vì mẹ của bé. Có chánh niệm mới có thương yêu. Có chánh niệm mới có sự săn sóc. Chánh niệm là một cái gì rất sống động chứ không máy móc. 

“Thở vào, tôi có ý thức về phổi của tôi. Thở ra, tôi mỉm cười với hai lá phổi.” Chúng ta trở về ôm lấy hai lá phổi. Hai lá phổi lọc khí và mang oxy đi khắp các cơ quan trong cơ thể để vận hành sự sống. Ta phải sống như thế nào để hai lá phổi có thể làm việc một cách dễ dàng. Khi thiền hành ta thở không khí trong lành, khi thiền tọa ta thở cho thoải mái, và không hút thuốc là ta đang nuôi dưỡng hai lá phổi của ta. 

“Thở vào, tôi có ý thức về lá gan của tôi. Thở ra, tôi mỉm cười với lá gan của tôi.” Có những người có lá gan yếu, không lọc được những chất độc. Trong quá khứ, ta đã ăn uống như thế nào để lá gan yếu đến vậy? Có khi chúng ta đưa vào nhiều độc tố quá khiến lá gan bị tổn thương. Có những thứ thuốc lành hơn, công hiệu chậm hơn mà ta không sử dụng, ta sử dụng thuốc rất mạnh, rồi ăn quá nhiều đồ ngọt, chất béo,… những chất làm cho gan càng ngày càng mệt, nhất là ta uống rượu nên lá gan của ta phình ra, chai đi. Khi đó, gan không thể lọc máu được và phẩm chất của máu gửi về tim rất thấp. Lá gan của ta rất đau khổ. Có thể lá gan đã gửi những lời kêu cứu khẩn cấp ngày đêm, nhưng chúng ta vẫn cứ sống nhởn nhơ, không cần tiếp nhận những thông điệp đó. Ta cứ tiếp tục ăn, uống thiếu chánh niệm. Bây giờ, khi ta trở về ôm lấy lá gan và nói: “Tội nghiệp lá gan của tôi quá! Thở vào, tôi biết là lá gan có đó. Thở ra, tôi mỉm cười với lá gan của tôi. Từ nay trở đi, tôi sẽ chăm sóc lá gan cẩn thận hơn.” Ta bắt đầu có sự giác ngộ, có sự cam kết, có sự thương yêu. Ta cương quyết làm như thế nào để từ đây trở về sau lá gan của ta bớt đau khổ. 

Thực tập chánh niệm như vậy, trước hết là ta có mặt, rồi sự sống có mặt, rồi có sự trị liệu và có hạnh phúc. Sự thực tập chánh niệm có liên hệ mật thiết tới hạnh phúc và sự trị liệu của chúng ta.

Thực tập chánh niệm trước tiên là nhận diện đơn thuần (mere attention/recognition) những gì đang xảy ra. Khi leo cầu thang thì biết là đang leo cầu thang, khi ăn cơm thì biết là đang ăn cơm, khi đi thiền thì biết là đang đi thiền. Đơn thuần có nghĩa là chỉ nhận diện những gì đang xảy ra thôi mà không có sự phán đoán, không có sự phán xét, không có hai thái cực là vướng mắc hay ghét bỏ. Nó như thế thì ta chỉ gọi tên như thế. Đây là một bông hoa thủy tiên. Hoa thủy tiên còn tươi thì ta biết hoa thủy tiên còn tươi. Sự nhận diện đơn thuần xảy ra trước, rồi có thể có những yếu tố, những nhận thức khác xảy ra sau. Khi nhận thức khác xảy ra, ta cũng nhận diện. Ví dụ, sau khi thấy hoa thủy tiên, ta có tư tưởng: “À, hôm nay mới giữa tháng Hai thôi mà có hoa thủy tiên rồi, hoa thủy tiên này nở sớm quá!” Như vậy, tư tưởng “hoa thủy tiên này nở sớm quá” là một đối tượng của chánh niệm, thuộc về tâm, ta cũng nhận diện luôn tư tưởng đó. Nếu có sự ưa thích và tham đắm xảy ra, ta cũng nhận diện sự ưa thích và tham đắm đó. Nếu có một sự ghét bỏ: “Hoa này xấu quá, ta sẽ không đem hoa này về cắm trong nhà” thì ta cũng nhận diện đó là sự ghét bỏ. 

Khi có một cơn giận nổi lên, ta biết đó là cơn giận, chứ đừng phán xét: “Ta đã tu rồi mà còn giận như vậy thì dở quá.” Chánh niệm là như vậy. Nếu có cơn giận thì nhận diện: “Tôi đang giận và tôi biết là tôi đang giận.” Tương tự, “Tôi đang buồn và tôi biết là tôi đang buồn”, hoặc “Tôi đang giận và tôi biết tôi cần phải thực tập để xử lý và chăm sóc cơn giận của mình. Tôi đang giận và tôi biết rằng tôi đang không thực tập để xử lý cơn giận của mình.” Tất cả những điều đó đều là chánh niệm. Vì vậy, trong chánh niệm không có mặc cảm, không có sự phán xét, không có phản ứng. Chánh niệm bắt đầu bằng sự nhận diện đơn thuần cái gì đang xảy ra, về phương diện thân cũng như tâm.

Ban đầu, ta nhận diện là ta đang bước đi. Trong khi bước như vậy, có thể có một cái thấy là, vào mùa xuân mà ta được bước từng bước thong thả trên hành tinh đẹp đẽ này là một điều rất mầu nhiệm. Điều đó có thể xảy ra. Ta cũng nhận diện là ta vừa có một tư tưởng “vào mùa xuân mà ta được bước từng bước thong thả trên hành tinh đẹp đẽ này là một điều rất mầu nhiệm.” Ta thấy ta có niềm vui, niềm hân hoan là ta đang còn sống, đang bước những bước thảnh thơi, an lạc trên trái đất này thì ta cũng nhận diện những niềm vui đó. Tuy nhiên, chúng ta đã đi qua lĩnh vực quán tâm trong tâm. 

Chúng ta đã học kinh An ban thủ ý và bây giờ là lúc chúng ta có thể áp dụng kinh An ban thủ ý để bổ túc cho kinh Niệm xứ. Khi so sánh An ban thủ ý với Niệm xứ thì có thể Bụt đã dạy An ban thủ ý hàng trăm, hàng ngàn lần. Kinh An ban thủ ý mà chúng ta đã học trong Công phu sáng thứ Ba là một văn bản khá đầy đủ, có lẽ vì vậy mà các thầy ngày xưa đã sử dụng văn bản đó. 

Bốn bài tập đầu của kinh An ban thủ ývào – ra (thở vào biết thở vào, thở ra biết thở ra), dài – ngắn (thở vào một hơi dài biết thở vào một hơi dài, thở ra một hơi dài biết thở ra một hơi dài, thở vào một hơi ngắn biết thở vào một hơi ngắn, thở ra một hơi ngắn biết thở ra một hơi ngắn), thân hành giác (thở vào, tôi có ý thức về toàn thân tôi; thở ra, tôi có ý thức về toàn thân tôi), và an tịnh thân hành (thở vào, tôi làm an tịnh toàn thân tôi; thở ra, tôi làm an tịnh toàn thân tôi). 

Chúng ta thấy trong kinh Niệm xứ không có bài tập thứ tư này. Có rất nhiều bài tập về ý thức thân hành nhưng chưa có an tịnh thân hành. Vì vậy chúng ta hãy dùng kinh An ban thủ ý để bổ túc cho kinh này. Thân hành (cơ thể) của ta có thể không ở trong trạng thái an tịnh. Nếu thân hành không an tịnh thì nó không được nuôi dưỡng và không làm chỗ nương tựa tốt đẹp cho sự thực tập về tâm hành. Do đó, ở đây chúng ta có thể bổ túc kinh Bốn lĩnh vực quán niệm bằng kinh An ban thủ ý

Chúng ta có thể làm công việc bổ túc thêm đoạn sau vào kinh văn giúp Bụt: Này các vị khất sĩ, vị khất sĩ an trú trong phép quán niệm thân thể nơi thân thể như thế nào? Vị khất sĩ ngồi xuống trong tư thế hoa sen hoặc nằm xuống trong tư thế buông thư và sử dụng hơi thở để an tịnh thân hành của mình: “Thở vào, tôi đang làm cho thân hành của tôi trở nên an tịnh. Thở ra, tôi làm cho thân hành của tôi trở nên an tịnh. Thở vào, tôi có ý thức về trái tim tôi. Thở ra, tôi mỉm cười với trái tim tôi và làm cho sự vận hành của trái tim tôi được an tịnh.” Những điều này thật sự ta đang làm, đang thực tập trong những phép thực tập như thiền buông thư. 

Tụng bản II của kinh này (tạng kinh chữ Hán), thầy đã dịch ra tiếng Việt và được in trong quyển Con đường chuyển hóa, có những đoạn không tìm thấy trong bản kinh chúng ta đang học: 

Lại nữa, các vị khất sĩ! Vị khất sĩ quán thân như thân, nhờ xa lìa nếp sống ngũ dục mà niềm hỷ lạc được phát sinh và thấm nhuần đầy dẫy trong châu thân. Trong thân thể này, niềm hỷ lạc do sự xa lìa ngũ dục mà phát sinh ấy không chỗ nào là không phổ biến, như một người hầu tắm sau khi bỏ bột tắm vào chậu, nhồi bột tắm ấy vào nước, cho đến khi cục bột tắm không chỗ nào là không có thấm nhuần chất nước. Vị khất sĩ cảm thấy niềm vui do sự xa lìa ngũ dục mà phát sinh đầy dẫy trong châu thân mình, không chỗ nào là không thấm nhuần. Như thế, vị khất sĩ quán thân như thân, bên trong cũng như bên ngoài, thiết lập chánh niệm nơi thân có biết, có thấy, có sáng, có đạt. Đó gọi là quán thân như thân.

Đó là một trong nhiều đoạn chúng ta thấy trong tụng bản II, có thể bổ túc cho tụng bản I. Đoạn trên có mục đích đưa vào châu thân ta niềm hỷ lạc để nuôi dưỡng, điều này trong kinh Niệm xứ phù hợp với kinh An ban thủ ý. Ở đây có khí vị của tứ thiền. 

Có một điều là sự thực tập này có liên hệ tới thân mà cũng liên hệ tới thọ, cho nên liệt nó vào phần quán thân trong thân hay phần quán thọ trong thọ đều được. 

Bản chất của nhất thiền là ly sinh hỷ lạc (離生喜樂, Letting go born joy and happiness). Ly có nghĩa là xa lìa, tách rời ra khỏi, abandon. Sinh là sinh khởi, create, generate. Hỷ là niềm vui, joy. Lạc là hạnh phúc, happiness. Hỷ và lạc sinh ra nhờ sự xa lìa và buông bỏ. Buông bỏ ở đây là buông bỏ ngũ dục, tức là những đối tượng mà người ta thường theo đuổi trong cuộc đời (tài, sắc, danh, thực, thụy). Đây là hạnh phúc đầu tiên của người tu. Người đời cứ tưởng rằng nắm được năm thứ đó là hạnh phúc, nhưng thực ra họ phải đổ mồ hôi để chạy theo nó và rốt cuộc họ chìm ngập trong đau khổ. Khi buông bỏ được ngũ dục, ta trở về với không khí của rừng núi, của tu viện thì tự nhiên ta cảm thấy thật nhẹ nhàng, an lạc. Tất cả chúng ta hẳn ai cũng từng nếm qua mùi vị này rồi. Chúng ta phải trầy da, phỏng trán, đau khổ da diết là vì chạy theo ngũ dục. Bây giờ ta thấy khỏe ru, nhẹ nhàng quá chừng vì ta đã lìa được ngũ dục. 

Những người sống tại các thành phố lớn biết chắc rằng ở đó có nhiều xe, tiếng còi, mùi khói, mùi gas,… đủ thứ có thể tưới tẩm sự bực bội. Cuối tuần, người nào cũng muốn thoát về miền quê. Cũng may là họ có xe hơi. Lúc leo lên xe để thoát ra khỏi thành phố là giờ phút họ náo nức nhất. Phải lái xe nửa giờ, một giờ và đến khi thoát ra khỏi thành phố, có những đồng ruộng xanh rờn hiện ra, họ thấy lòng phơi phới. Đó gọi là ly sinh hỷ lạc. Nhưng đây chỉ mới là ly thành phố. Chúng ta cần ly một thứ còn ghê gớm hơn, đó là ly ngũ dục. Người nào đã lìa được năm thứ ham muốn đó rồi sẽ có rất nhiều tự do, hạnh phúc. Khi một vị tu sĩ ngồi xuống, đi thiền, hay ngồi ăn cơm thì nên biết rằng mình đang có hỷ, có lạc, do sự xa lìa ngũ dục mà phát sinh và mình lấy hỷ lạc đó để nuôi thân thể. Tổ sư Tăng Hội nói rằng, cũng như một người bị oan gia theo đuổi muốn giết mà người đó trốn lên được đỉnh núi ngồi một mình, biết chắc rằng những tên oan gia kia không bao giờ tìm tới được, thế là người đó có tự do, có an ổn. Đó là hỷ lạc. Những tên oan gia theo đuổi để giết ta là ngũ dục (objects of our craving). 

Tụng bản thứ II, tức là kinh Niệm xứ có đưa điều này vào. Thành ra, khi ta ngồi thiền, đi thiền hoặc nằm thiền thì phải nghĩ là ta đã xa lìa được oán tặc, oan gia và ta đang được tự do. Niềm vui, hạnh phúc và tự do đó phải làm sao cho thấm vào từng thớ thịt, từng tế bào để nuôi dưỡng thân thể ta. 

Thứ hai là định sinh hỷ lạc (定生喜樂, Concentration born joy and happiness, happiness born from concentration). Hỷ và lạc được sinh ra từ định. Trước hết là từ ly, sau đó là từ định. Tại sao định lại sinh ra nhiều hỷ lạc? Khi tâm ta không đi lang thang, không bị phóng ra ngoài, tâm được thu nhiếp về một mối và ta tiếp xúc được với những nhiệm mầu của sự sống, tự nhiên những hỷ lạc tràn đầy và trở thành chất liệu để nuôi dưỡng thân thể, gọi là định sinh hỷ lạc, bản chất của nhị thiền. 

Chúng ta đang thực thi những điều Bụt dạy tại Làng Mai. Liên hệ đến ly sinh hỷ lạc, trong kinh đưa ra một ví dụ về bột tắm. Ngày xưa, người hầu sửa soạn nước tắm cho chủ, họ pha nước đủ độ ấm, rồi cho một cục bột tắm vào và hòa tan cục bột tắm đó ra hết cả bồn, khi người chủ bước vào trong bồn tắm thì không có chỗ nước nào là không thấm đẫm bột tắm. Cũng vậy, chúng ta thực tập thế nào để hỷ và lạc do sự xa lìa sinh ra có thể thấm vào từng thớ thịt, từng tế bào của cơ thể. Đó là sự nuôi dưỡng thân. 

Người tu phải biết nuôi mình bằng hỷ lạc chứ đừng đợi đến khi bị lưu lạc ra giữa cuộc đời, bị những oán tặc của năm dục cắt, xẻo, làm tình làm tội rồi mới nhận ra rằng “Ồ, ngày xưa sống trong tu viện vậy mà khỏe quá.” Ở Đài Loan, có nhiều baby monkbaby nun (chú tiểu). Khi cha hoặc mẹ được xuất gia, mà trước đó đã có ba bốn đứa con nhỏ thì những đứa con nhỏ ấy cũng được vào chùa và trở thành những chú tiểu. Con gái không phải đi quân dịch nên số lượng các sư cô đông hơn các sư chú rất nhiều. Các sư chú đến tuổi đi quân dịch là phải  vào sống trong môi trường quân đội. Lần đầu tiên họ thấy sống ngoài đời được tự do quá, muốn ăn gì thì ăn, muốn làm gì thì làm. Sống ở chùa sao mà lắm kỷ luật. Họ như chim sổ lồng, đi theo bạn bè. Sau thời gian quân dịch, có những sư chú quyết định ra đời luôn. 

Nhưng cũng có những người trong số đó, sau khi nếm mùi ngũ dục thì nhớ lại ngày xưa ở trong chùa, tuy ghép vào nếp sống kỷ luật nhưng sao thân và tâm luôn thấy an lạc và thanh tịnh. Những người đó quyết dứt bỏ để trở về chùa tu lại, và đó là những người tu rất vững, tu đến trọn đời và rất thành công. Còn những người kia, sau khi ra đời và bị những cái móc quấn lấy, những sợi dây buộc vào rồi, vùng vẫy thoát ra không được và không thể trở về chùa. Dù có nghĩ đến ngày xưa ở chùa sao mà thân và tâm nhẹ nhàng như vậy thì cũng không trở về chùa được nữa, vì họ đã đưa sự sống của mình cho những cái móc sắt của ngũ dục móc vào rồi. Đi quân dịch một trăm sư chú thì có thể trở về được ba mươi sư chú, còn bảy mươi sư chú đi luôn. Đi luôn không có nghĩa là những vị ấy không thấy được giá trị của hạnh phúc, an lạc trong chùa, mà là họ không thể trở về được nữa, họ đã bị những cái móc sắt của cuộc đời dằn níu, kéo lại. Ba mươi phần trăm số lượng các sư chú trở về chùa đều tu rất vững do họ đã biết ngũ dục ngoài đời như thế nào. 

Về định sinh hỷ lạc, kinh đưa ra hình ảnh rất đẹp, là trên một triền núi, nước chảy ra thành một hồ nước mát lành, và khi được bơi tắm trong hồ đó ta thấy nhẹ nhàng, thư thái, an lạc, hạnh phúc. 

Lại nữa, các vị khất sĩ! Vị khất sĩ quán thân như thân, thấy niềm hoan hỷ do định phát sinh (định sinh hỷ lạc) thấm nhuần đầy dẫy trong châu thân mình; trong thân thể ấy niềm hoan hỷ do định phát sinh không chỗ nào mà không phổ biến. Như một dòng suối trong núi, trong sạch không ô nhiễm, chảy ra đầy dẫy khắp cả bốn mặt; những nơi nào không có nẻo để nước chảy thì nước của dòng suối ấy lại từ dưới đất phun lên, thấm nhuần núi non, không chỗ nào là nước không chảy đến…

Cả một vùng núi xanh tươi là do nước ở dưới đất phun lên và nước ở dòng suối tụ lại. Thân thể ta cũng vậy, trong khi thực tập thiền thì thân thể ta được nuôi dưỡng bằng an lạc, hạnh phúc sinh ra từ định lực. Do đó, ly đem lại an lạc mà định cũng đem lại an lạc. Là người tu, ta phải biết chế tác hạnh phúc từ ly và từ định. 

Thứ ba là ly hỷ diệu lạc (離喜妙樂, joy of detachment, remarkable happiness). Ở đây cũng có một chữ lạc, nhưng chữ lạc này rất đặc biệt, gọi là diệu lạc. Hạnh phúc này là một dạng hạnh phúc “phơi phới”, có tính cách tâm linh chứ không phải là hạnh phúc bình thường. Ví dụ, khi ăn cơm với đại chúng, thức ăn lành mạnh không có độc tố, ta thấy ngon, thấy vui, đó là hạnh phúc thật, nhưng đó chưa phải là hạnh phúc tâm linh cao vút, chưa được gọi là diệu lạc. Diệu lạc có thể dịch sang tiếng Anh là wonderful joy, spiritual joy. Khi ta lìa được niềm vui thường tình thì hạnh phúc mới sâu sắc và mầu nhiệm. 

Kinh nói đến hai loại hạnh phúc là hỷ và lạc. Chúng ta cần nắm rõ nội dung các chữ này. Hỷ, prīti, là sự vui mừng và trong sự vui mừng đó có tính chất kích thích (excitement), nhưng chưa hẳn là lạc. Trong kinh có một ví dụ, ta đang đi trong sa mạc nóng cháy, đang khổ sở như vậy bỗng nhiên thấy có một hồ nước, ta vui mừng vì biết sắp được uống nước. Đó gọi là hỷ – chưa được uống nước nhưng đã có niềm vui rồi. Khi ta đến được hồ nước, quỳ xuống bên bờ, vốc nước và bắt đầu uống, đó gọi là lạc. Trong hỷ còn có tính chất động của phấn khích (excitement), còn khi có lạc rồi thì sự phấn khích đó không còn nữa. Trong lạc có nhiều bình an hơn hỷ. 

Ở phương Tây, nhất là ở Mỹ, người ta hay lầm hỷ với lạc. I am so excited, điều này chưa phải là hạnh phúc, chỉ là trông chờ một hạnh phúc trong tương lai. Hỷ mang lại năng lượng cho ta nhưng chưa thực sự là lạc. Khi ta chạm tới lạc rồi thì hỷ từ từ lắng xuống. Khi sự kích thích đó hoàn toàn lắng lại, không còn nữa, ta mới bắt đầu tiếp xúc, kinh nghiệm được cái gọi là diệu lạc. Ly hỷ tức là vượt thoát sự kích thích (excitement), vượt thoát sự trông chờ (expectation), lúc này niềm an lạc của ta rất êm đềm và  vững vàng. Không còn là những niềm hỷ lạc nhất thời, không còn có sự kích thích và sợ hãi rằng liệu ngày mai có còn được như vậy hay không. 

Kinh lấy ví dụ một hồ sen, từ đất bùn có những cọng sen đi lên, có những chiếc lá sen, ngó sen, búp sen, bông sen,… hàng ngàn cái nhưng cái nào cũng có chứa nước bên trong, vì sen mà không có nước thì làm sao sống được. Cơ thể ta cũng vậy, từ tai, mắt, mũi, họng, toàn thân này, chỗ nào cũng thấm nhuần cái gọi là diệu lạc. 

Lại nữa, các vị khất sĩ! Vị khất sĩ quán thân như thân, thấy niềm hoan lạc phát sinh do sự vắng mặt của hoan hỷ được thấm nhuần đầy dẫy trong tự thân. Trong thân thể của vị khất sĩ này, không có chỗ nào là niềm an lạc phát sinh ra do sự vắng mặt của hoan hỷ ấy không thấm nhuần đầy dẫy, như các loại sen xanh, sen hồng, sen đỏ, sen trắng sinh ra từ trong nước, lớn lên từ trong đáy nước, rễ sen, ngó sen, lá sen, hoa sen đều thấm nhuần chất nước, không có chỗ nào là nước không thấm nhuần. Như thế niềm lạc phát sinh từ sự vắng mặt của hỷ thấm nhuần vào toàn thân của vị khất sĩ, không nơi nào mà niềm hoan lạc ấy không phổ biến.

Làng Mai giống như một ốc đảo (oasis), ở đó có những lùm cây, có bóng mát, có những dòng suối. Ốc đảo là một vùng tươi mát có cây, có suối ở giữa sa mạc. Những người đi trên sa mạc lâu ngày khi đến ốc đảo này thì rất hạnh phúc vì họ được ngồi bên dòng suối, dưới những bóng mát, và uống nước từ dòng suối trong. Nhưng có thể những người ở trong ốc đảo đó lại không có nhiều hạnh phúc như vậy, và đôi khi họ muốn chạy ra ngoài nắng, muốn chạy ra ngoài sa mạc. Đó là vì họ thất niệm, họ quên rằng, “ngoài đó” là chỗ tranh đấu của ngũ dục, của thèm khát. Ở đó, thiên hạ đang đau khổ vô cùng, thiên hạ đang giết nhau, đàn áp nhau, giận hờn nhau. 

Đang trong chỗ an tịnh, đáng lý ta hưởng được cái vui của nhất thiền, nhị thiền và tam thiền, vậy mà ta không biết nuôi dưỡng thân tâm bằng hỷ lạc thì thực sự rất uổng. Cho nên, lâu lâu đi ra tiếp xúc với những khổ đau ngoài đời thì mới thấy rằng ta có may mắn, có những điều kiện của hạnh phúc ngay trong hiện tại. Đức Thế Tôn đã dạy ta phải làm thế nào để mỗi ngày có thể tự nuôi dưỡng mình bằng hỷ, lạc và diệu lạc. Ta phải thực tập và tổ chức tăng thân cùng thực tập để mỗi ngày đều có niềm vui và được nuôi dưỡng bởi niềm vui đó. 

Chúng ta hãy tưởng tượng có người liệng xuống dòng sông một hòn sỏi. Khi hòn sỏi rơi xuống nước, nó không cần phải cố gắng, không cần phải tranh đấu gì cả, nó tự cho phép nó chìm xuống mà thôi. Khi hòn sỏi tự cho nó chìm xuống đáy sông thì nó đang đi theo một con đường có thể nói là ngắn nhất. Rơi xuống tới đáy rồi, hòn sỏi được nghỉ ngơi, không cần phải du hành trong không gian như trước nữa. 

Khi ngồi thiền hay thiền buông thư cũng vậy, chúng ta không cần cố gắng, không cần tranh đấu, không cần lao động gì cả. Chúng ta cho phép cơ thể tự động chìm xuống chỗ nghỉ ngơi và cho phép cơ thể được thấm nhuần sự mát mẻ của ly sinh, của định sinh và của diệu lạc. 

Cơ thể chúng ta có khả năng tự trị liệu những chứng bệnh. Điều này rất rõ. Khi bị đứt tay, ta chỉ cần rửa vết thương cho sạch thì trong vòng 24 hay 48 giờ vết thương sẽ lành. Khi chúng ta có những hiện tượng như đau phổi, đau tim, đau gan hay cùng lắm là có những chứng bệnh ung thư, sở dĩ căn bệnh không lành được là vì ta không cho phép cơ thể nghỉ ngơi. Chúng ta chữa chạy rất nhiều, chúng ta làm đủ thứ, và nhất là chúng ta lo lắng, không yên được. Chúng ta phải có niềm tin nơi cơ thể, cho phép cơ thể có cơ hội nghỉ ngơi, không làm gì hết, thì tự động cơ thể sẽ biết cách tự chữa trị những đau nhức. 

Các nhà nghiên cứu động vật nói rằng, khi những con thú trong rừng bị thương, chúng sẽ tìm một chỗ vắng và nằm yên như vậy trong nhiều ngày, không thiết đến chuyện đi ăn, đi kiếm mồi. Chúng biết rằng nếu muốn vết thương mau lành thì phải nằm xuống và không làm gì hết. Đó là phương pháp hay nhất. Chúng không lo lắng chuyện không có chất bổ, không có thức ăn. Trí tuệ của loài vật truyền xuống từ nhiều thế hệ cho chúng biết rằng không cần ăn, chỉ cần nghỉ ngơi thôi là cơ thể có thể tự chữa lành những vết thương. Sau khi nằm ba ngày, năm ngày, bảy ngày hay mười ngày như thế thì vết thương được chữa lành và con thú có thể đứng dậy. Con thú làm gì có nhà thương, bác sĩ hay y tá. Chúng ta không làm được như chúng vì ta lo lắng quá mức, không có khả năng nằm yên. Chúng ta nghĩ rằng nếu không ăn, không có chất bổ chắc là chết quá. Vì vậy chúng ta lo ăn, và khi ăn vào thì cơ thể lại mệt hơn. 

Chúng ta cố gắng làm việc để mùa hè được nghỉ ngơi. Thế nhưng thời gian lên núi hay ra biển với mục đích nghỉ ngơi đó, chúng ta lại khiến cho cơ thể mệt hơn nữa. Chúng ta không biết phương pháp nghỉ ngơi, không có khả năng để cơ thể nghỉ ngơi và vì vậy sự trị liệu trong cơ thể rất khó được thực hiện. Phương pháp của kinh Quán niệm hơi thở là an tịnh thân hành, tức là để cơ thể được nghỉ ngơi. Chúng ta phải làm như hòn sỏi khi rơi xuống sông thì buông hết để tự chìm xuống bằng con đường ngắn nhất và cuối cùng nằm yên ở đáy sông. Lúc đó, tất cả dòng nước đi qua không làm xao động được hạt sỏi, không cuốn hạt sỏi trôi theo. Chúng ta cũng vậy. Trong đời sống hằng ngày, ta không để những điều ta thấy, ta nghe cuốn ta đi, bởi vì ta đang nằm nghỉ. Ta không để cho những kích thích làm ta nhổm dậy, vì nếu nhổm dậy tức là ta đã buông bỏ sự nghỉ ngơi. 

Phương pháp của đức Thế Tôn rất rõ, đó là sử dụng hơi thở. “Thở vào, tôi làm cho thân hành của tôi trở nên an tịnh. Thở ra, tôi làm cho thân hành của tôi trở nên an tịnh.” Khi đi thiền chầm chậm, khi nằm trong tư thế buông thư, chúng ta phải thực tập nghỉ ngơi và nghỉ ngơi với hơi thở có ý thức. Người thầy thuốc hay nhất trên đời là hơi thở, nhất là hơi thở có ý thức, vì nó khôi phục được sự an tịnh và sức khỏe của chúng ta. Những ai là nhà trị liệu giỏi, người đó phải khai thác kinh Quán niệm hơi thở và kinh Niệm xứ để giúp cho xã hội ngày nay nắm rõ được phương pháp và nghệ thuật nghỉ ngơi. Xã hội ngày nay không có khả năng nghỉ ngơi và là nạn nhân của chứng bệnh rất phổ biến, chứng căng thẳng thần kinh, stress. Có những người bị bệnh ung thư, sau khi chữa trị từ năm này sang năm khác, đã lo lắng đến cùng cực. Sau cùng, áp dụng phương pháp buông thư và không lo lắng, thực tập phép hiện pháp lạc trú mà tự nhiên bệnh ung thư được chữa lành. Điều này không phải hiếm mà đã xảy ra nhiều lần và ở nhiều nơi. Vì vậy, học được phương pháp nghỉ ngơi, buông thư, theo dõi hơi thở để giúp cơ thể có thể nghỉ ngơi hoàn toàn và làm cho cơ thể thấm nhuần chất liệu của hỷ, lạc và diệu lạc là một trong những phương pháp trị liệu hay nhất. 

Hiện nay, trong các trường Đại học Y khoa lớn trên thế giới đã bắt đầu có những người đem phương pháp buông thư và hơi thở chánh niệm ra áp dụng (mindful breathing and total relaxation). Do đó, trong tu viện, ta càng phải thực tập như vậy để tự nuôi dưỡng và trị liệu thân tâm. Trong khi nằm trên giường, trên bãi cỏ, hãy theo dõi hơi thở và quán chiếu ta là một hạt sỏi đang rơi xuống một dòng sông. Trong thời gian đó, ta thực tập hơi thở có ý thức. Khi hạt sỏi đã rơi xuống dòng sông rồi, ta tiếp tục nằm buông thư, tiếp tục thở, mỉm cười và bắt đầu chuyển sự quan tâm chú ý của ta tới những thành phần khác của cơ thể: từ những bộ phận trên đầu, đi ngang qua những bộ phận trong ngực, đi xuống những bộ phận dưới bụng và cuối cùng xuống dưới chân. Ta đem năng lượng chánh niệm ôm ấp lấy những thành phần đó của cơ thể, mỉm cười với chúng và cho chúng cơ hội được thương yêu, chăm sóc và được nghỉ ngơi để sự trị liệu được thành tựu.

Đi sâu vào kinh Bốn lĩnh vực quán niệm, chúng ta biết rằng sự thực tập ý thức thân hành rất quan trọng: ý thức toàn thân và an tịnh toàn thân, ý thức thân hành và an tịnh thân hành. 

Trong kinh Quán niệm hơi thở, phần quán thân có bốn bài tập: vào – ra, dài – ngắn, ý thức toàn thân và an tịnh toàn thân. Chữ toàn thân trong nguyên bản tiếng Phạn là sattvakaya, là tất cả thân, cũng có nghĩa là hết thảy mọi bộ phận của cơ thể. Do đó chữ toàn thân có hai nghĩa: một là ta có ý thức về thân thể ta như một hợp thể và hai là ta ý thức về cơ thể ta với tất cả những thành phần bên trong  cơ thể. Học kinh Niệm xứ, chúng ta thấy rõ ràng hơn sự thực tập ý thức về thân thể khi đi, đứng, nằm, ngồi và những động tác khác. 

Quán chiếu những bộ phận của cơ thể, thấy được bản chất của cơ thể là bốn đại (đất, nước, gió, lửa),  ta đồng thời cũng quán chiếu tính chất hoại diệt của cơ thể, tức là cửu tưởng quán (chín giai đoạn tan rã của một cơ thể người). Khi đã ý thức, ôm ấp và nhìn sâu vào trong lòng thân hành, chúng ta sẽ có tuệ giác về vô thường, vô ngã, tương tức và thấy được rằng thân thể này không phải là của ta, ta không nên bám víu vào nó, không nên đồng nhất nó là ta, vì nếu như vậy thì ta sẽ đau khổ. Một khi đã hiểu ra rồi ta mới thấy sự thực tập ở Làng Mai, trong khi đi, đứng, nằm, ngồi, làm việc, thiền buông thư,… là hành giả đang thực thi những điều mà đức Thế Tôn dạy trong kinh Niệm xứ

Những bài thiền tập có hướng dẫn trong sách Sen búp từng cánh hé đều là để thực thi một cách nghiêm chỉnh những điều đức Thế Tôn dạy trong kinh Niệm xứ và trong kinh Quán niệm hơi thở. Nhờ đọc kinh Tứ niệm xứ, bây giờ chúng ta hiểu rõ hơn từng chi tiết hai bài tập thứ ba (ý thức thân hành) và thứ tư (an tịnh thân hành) của lĩnh vực quán thân trong kinh Quán niệm hơi thở. Làm thế nào để ý thức được thân hành và làm thế nào để an tịnh được thân hành? Trong kinh Quán niệm hơi thở, tuy Bụt không đi vào chi tiết dạy ta quán chiếu về từng tư thế của cơ thể, về những yếu tố tạo nên cơ thể, về ba mươi hai bộ phận của cơ thể nhưng ta thấy trong bài tập ý thức thân hành thì những thực tập này đều được bao gồm trong đó. 

Khi trở về có mặt được với thân bằng chánh niệm, chúng ta bắt đầu điều phục được thân và trở thành một với thân. Nếu chánh niệm còn yếu thì thân ta giống như một con trâu rừng. Chánh niệm là người chăn trâu. Nhờ sự thực tập chánh niệm mà người chăn trâu tới với con trâu, làm quen được với con trâu và từ từ điều phục được nó. Sau đó, người chăn trâu có thể ngồi hoặc nằm trên lưng trâu mà con trâu vẫn đi đúng về hướng người chăn trâu muốn đi. Đó là hình ảnh của Thập mục ngưu đồ, mười bức tranh về nghệ thuật chăn trâu. Ban đầu, con trâu và người chăn trâu là hai thực thể riêng biệt, không đi đôi với nhau. Nhưng từ từ, người chăn trâu làm quen được với con trâu, thuần phục được con trâu và cuối cùng thì con trâu và người chăn trâu thành một. Người chăn trâu có thể ngồi trên lưng trâu mà ca hát, trong khi con trâu dù đi đường nào thì cũng đến đúng nơi mà người chăn trâu muốn. Đôi khi người chăn trâu nằm trên lưng trâu và trâu đưa người ấy về nhà.

Nếu không điều phục được thân, ta khó điều phục được tâm. Vì vậy cho nên phép niệm xứ bắt đầu từ bài tập quán thân trong thân: nắm được hơi thở, nắm được mỗi tư thế của cơ thể (đi, đứng, nằm, ngồi), nắm được mỗi hành động của cơ thể (cúi xuống, ngẩng lên, đi tới, đi lui), thấy được những bộ phận của cơ thể, mỉm cười với nó, lân mẫn nó, chơi với nó, đồng nhất với nó, thấy được những yếu tố trong cơ thể,… Đó là phép thực tập rất quan trọng. Nếu nói rằng “Tôi chỉ tu tâm thôi” nghĩa là ta đang không hiểu chữ tu. Tu tâm không đủ đâu, ta còn phải tu thân nữa. Cơ thể là đối tượng của sự tu tập, ta phải tu tập với cơ thể của ta trước. Nếu không nắm được bước chân và hơi thở thì ta sẽ không nắm được những tâm hành. Chỉ khi nắm được bước chân, hơi thở và những động tác trong đời sống hằng ngày, thì chúng ta mới nắm được tâm hành và hiểu được những tâm hành. Lúc đó, con trâu và ta mới trở thành một đôi bạn. Con trâu mới trở thành ta và ta mới trở thành con trâu của ta. Đức Thế Tôn thường dạy rằng, giáo pháp của Ngài là để điều phục thân và tâm, và phải theo đúng phương pháp điều phục đó, ta mới có được sự hòa bình với thân tâm. 

Một lần, có vị điều mã sư (người luyện ngựa, the horse trainer) đã thực tập với Bụt một thời gian, đến thăm đức Thế Tôn. Trong một buổi thiền trà, Bụt hỏi: “Này bạn, bạn điều phục những con ngựa của bạn như thế nào, hãy nói cho chúng tôi nghe?”. Vị điều mã sư nói: “Có những con ngựa ưa ngọt nên con dùng phương pháp ngọt và con thành công rất dễ; có những con ngựa ưa những biện pháp mạnh thì con dùng biện pháp mạnh và có những con ngựa phải dùng cả phương pháp ngọt và phương pháp mạnh thì mới thành công. Có ba trường hợp như vậy.” Đức Thế Tôn mỉm cười và hỏi: “Nếu có con ngựa sau khi dùng cả ba phương pháp ấy rồi mà vẫn không thành công thì bạn phải làm cách nào?” Vị điều mã sư nói: “Trong trường hợp đó thì con sẽ giết con ngựa vì để nó lại như vậy rất nguy hiểm và có hại, nó sẽ làm gương xấu cho tất cả những con ngựa khác.”

Sau đó, vị điều mã sư quay lại hỏi Bụt: “Còn đức Thế Tôn, Ngài dạy đệ tử như thế nào, Ngài điều phục đệ tử như thế nào, bởi vì con thấy trong giáo đoàn của Ngài cũng có những phần tử rất khó điều phục?”. Đức Thế Tôn mỉm cười không nói. Vị điều mã sư gặng hỏi, đức Thế Tôn mới đáp: “Thì đại khái tôi cũng làm như ông vậy. Tức là có những đệ tử phải dùng phương pháp ngọt thì thành công, có những đệ tử phải dùng phương pháp mạnh mới thành công và có những đệ tử khác vừa dùng ngọt và vừa dùng mạnh thì mới thành công.” Cố nhiên vị điều mã sư cũng hỏi Bụt câu hỏi mà Bụt đã hỏi ông: “Bạch đức Thế Tôn, vậy với những vị đệ tử đã áp dụng cả ba phương pháp rồi mà vẫn không thành công thì Thế Tôn làm thế nào trong trường hợp đó?” Thế Tôn đáp: “Thì tôi cũng làm như ông vậy.” “Nghĩa là sao?” “Giết vị đệ tử đó!” Vị điều mã sư mới trợn mắt lên nói: “Nhưng đức Thế Tôn thực tập giới bất sát mà, tại sao có thể giết đệ tử được?” 

Bụt đáp rằng: “Giết ở đây không phải là giết bằng gươm hay súng mà là không cho ở trong tăng chúng nữa. Nếu một người xuất gia không được ở trong tăng thân và thực tập thì coi như đời người đó “tiêu” rồi còn gì, đó chính là cái chết. Cho nên, với những người mà sau khi đã áp dụng biện pháp thứ nhất, thứ hai, thứ ba không thành công thì chỉ còn cách không cho ở trong tăng chúng nữa thôi.” 

Lúc đó, vị điều mã sư mới hiểu được ý nghĩa chữ “giết” mà Bụt sử dụng. Khi phải lìa tăng thân, không được thực tập chung với tăng thân nữa thì xem như cuộc đời, lý tưởng xuất gia của người đó thất bại và như vậy là tương đương với cái chết. Cố nhiên, trong một tăng thân thì luôn có lòng từ bi, sự bao bọc, ấp ủ và tăng thân áp dụng phương pháp “ôm ấp” (inclusiveness), ôm lấy, không đẩy đi hay đào thải ra ngoài. Nhưng nếu đã làm hết sức mà phần tử kia vẫn không tự cố gắng chuyển hóa thì tăng thân cũng đành chịu. Đó là ý của đức Thế Tôn. Tuy nhiên, năng lượng của đức Thế Tôn và của tăng thân rất lớn. Theo kinh nghiệm của đức Thế Tôn, những con ngựa hung hăng nhất, khó tính nhất nếu điều phục được sẽ trở thành những con ngựa rất giỏi. Những con voi cũng vậy. Những con voi rừng hung hăng khó tính nhất, đến khi điều phục được sẽ trở thành những con voi rất giỏi, có thể dùng để diễu hành hay tham gia chiến trận. Vì vậy, những vị điều mã sư hay điều tượng sư (người luyện voi) giỏi luôn biết cách chế ngự những con ngựa hay voi hoang. Có khi họ dùng cả xích sắt, cả búa. Làm như vậy không phải là để trừng phạt con voi hay con ngựa đó mà là cách thuần dưỡng để chúng bỏ được tập khí hung hăng như khi còn ở trong rừng. Với sự khôn khéo, nhẹ nhàng hay cứng rắn, vị điều mã sư hay điều tượng sư có thể thuần phục được những con thú hoang để chúng trở nên vâng lời và đóng góp được những tài năng quan trọng. 

Nếu có quyết tâm cao thì vị điều mã sư đó sẽ kiên nhẫn, sử dụng tất cả những biện pháp của mình để điều phục con ngựa bất kham. Điều phục không có nghĩa là trừng phạt mà là giúp con ngựa bỏ được tập khí hoang dã của nó để luyện được tập khí tốt. Điều quan trọng nhất không phải là kỷ luật mà là lòng từ bi và sự thông minh của vị điều mã sư. Lòng từ bi đó được biểu lộ ra bằng nhiều cách và thực chất của lòng từ bi đó là sự kiên nhẫn. Ở đâu có sự kiên nhẫn là ở đó có tình thương. Nếu ta thiếu kiên nhẫn, tức là tình thương của ta chưa bền vững lắm. Đối với những con ngựa chướng, hung hăng thì phải có nhiều thời gian hơn, phải có nhiều lòng từ bi hơn. Nếu ta thành công thì sự thành công của ta sẽ rất lớn lao. Theo đức Thế Tôn, nếu có kiên nhẫn, có tình thương, ta sẽ thành công trong hầu hết mọi trường hợp. 

Trúc Lâm Đại sĩ Trần Nhân Tông có nhiều đệ tử và người đệ tử được biết đến nhiều nhất là tôn giả Pháp Loa, vị trở thành Tổ thứ hai trong dòng truyền thừa của thiền phái Trúc Lâm. Rất ít người biết đến thầy Bảo Phác. Thầy là một vị đệ tử rất được Trúc Lâm Đại sĩ thương quý. Sau này thầy Bảo Phác là bổn sư của công chúa Huyền Trân, tiếp độ cho công chúa được xuất gia và tu học. Thầy đã từng làm thị giả cho Trúc Lâm Đại sĩ và có mặt trong đêm Trúc Lâm Đại sĩ qua đời trên núi Yên Tử. Đêm đó, trên núi chỉ có vài thầy, trong đó có sư chú Pháp Đăng. Đại sĩ đã sai sư chú lên núi Tử Tiêu tìm thầy Bảo Phác về vì biết rằng có thể Ngài sắp thị tịch. 

Sau khi được sư chú Pháp Đăng báo tin, thầy Bảo Phác lập tức lên đường để mong được gặp vị thầy kính quý. Thế nhưng khi đi ngang một con suối thì trời mưa lớn nên thầy không vượt qua được và phải ngủ lại bên bờ suối. Đợi đến sáng hôm sau trời tạnh, nước rút xuống, thầy mới vượt qua suối được. Khi lên đến am của đức Điều Ngự thì Ngài vẫn còn sống. Ngài nhìn Bảo Phác và hỏi: “Sao mà con đến trễ vậy?” Thầy Bảo Phác kể chuyện nước suối dâng cao. Trúc Lâm Điều Ngự nói: “Ta sắp đi rồi, con có điều gì muốn hỏi ta thì hỏi đi!” Và hai thầy trò nói chuyện với nhau. Thầy Bảo Phác làm thị giả cho Ngài. Vào lúc nửa đêm hôm đó, Trúc Lâm Đại sĩ rất muốn được nhìn bầu trời đầy sao nên nói thầy Bảo Phác mở cửa am Ngọa Vân ra. Trúc Lâm Đại sĩ nhìn thấy một mảng trời có nhiều sao, lấy làm sung sướng và hỏi: “Mấy giờ rồi?” Thầy Bảo Phác thưa: “Bây giờ là giờ Tý”. Trúc Lâm nói: “Đúng giờ ta phải đi rồi.” Thầy Bảo Phác hỏi: “Tôn đức đi đâu trong giờ khuya khoắt như thế này?”. Đại sĩ nói: 

Nhất thiết pháp bất sinh

Nhất thiết pháp bất diệt 

Nhược năng như thị giải 

Chư Phật thường hiện tiền 

Hà khứ lai chi hữu. 

一 切 法 不 生

一 切 法 不 滅

若 能 如 是 解

諸 佛 常 現 前

何 去 來 之 有

Nghĩa là: Tất cả các pháp đều không sinh, không diệt. Nếu thấy được điều đó thì tất cả các đức Thế Tôn đều ở trước mặt mình. Không đi đâu hết và cũng không đi về đâu. Hà khứ lai chi hữu: Ta có đi đâu đâu. Ta nói đi vậy thôi nhưng thực ra ta không đi, không tới. 

Nói xong thì Ngài tịch. Kể chuyện như vậy để quý vị biết rằng thầy Bảo Phác là người có mặt bên cạnh Trúc Lâm Đại sĩ trong giờ Ngài nhập diệt và thầy là một đệ tử rất thương quý của Ngài. Tuệ Trung Thượng sĩ là thầy của Trúc Lâm Đại sĩ. Ngày Tuệ Trung Thượng sĩ nhập diệt, Trúc Lâm Đại sĩ yêu cầu các học trò của mình mỗi người làm một bài kệ để viết vào cuốn sách tập hợp tất cả các lời dạy của Thượng sĩ. Thầy Bảo Phác viết một bài kệ rất hay. Bài kệ chứng tỏ thầy là một vị cao tăng, một thiền sư lớn. Sau này thầy Bảo Phác được tôn làm quốc sư dưới triều vua Trần Anh Tông. Bài kệ đó như sau:

Linh sơn thân đề nhĩ 

Tước đắc ngốc Hồ tủy

Bão hậu bộ nhi tôn

Hồ ly biến sư tử

Phùng trường ngữ mặc nhàn

Nguyệt tiếu thu giang thủy.

靈山身提耳

嚼得禿胡髓

飽後哺兒孫 

狐狸變獅子

逢張語默閒

月笑江水

Linh sơn thân đề nhĩ: Thượng sĩ đã đích thân nâng được lỗ tai của đức Thế Tôn, nghĩa là Thượng sĩ có được lỗ tai của đức Thế Tôn, đã nghe và hiểu được đức Thế Tôn. Linh sơn là núi Thứu. Thân là đích thân của ta. Đề là cầm lấy, nâng lấy. Nhĩ là lỗ tai. 

Tước đắc ngốc Hồ tủy: Thượng sĩ đã ăn được, nuốt được cốt tủy của Bồ Đề Đạt Ma. Tước có nghĩa là ăn, nuốt. Hồ là người Ấn Độ, người Trung Quốc ngày xưa gọi người Ấn Độ là Hồ. Ngốc là trên đầu không có tóc. Ngốc Hồ là người Ấn Độ mà đầu không có tóc, đó chính là Bồ Đề Đạt Ma. Tủy là óc tủy.

Bão hậu bộ nhi tôn: Sau khi ăn no rồi thì mớm cho con, cho cháu. Bão hậu có nghĩa là sau khi ăn no rồi. Bộ là mớm cho. Nhi là con. Tôn là cháu.

Hồ ly biến sư tử: Sau khi tiếp nhận những thức ăn vô cùng bổ dưỡng như vậy  thì những con chồn, con cáo đều biến thành sư tử.

Phùng trường ngữ mặc nhàn: Gặp trường hợp, hoàn cảnh cụ thể thì có thể tùy tâm ta mà cất lên lời nói hoặc giữ sự im lặng. Ngữ là nói lên, mặc là giữ im lặng. Tùy trường hợp mà người đó biết nên im lặng hay nên nói ra.

Nguyệt tiếu thu giang thủy: Mặt trăng cười trong nước sông mùa thu.

Thầy có tạm dịch bài kệ xưng tụng Tuệ Trung Thượng sĩ của thầy Bảo Phác:

Tai Bụt nâng trong tay

Tủy Đạt Ma miệng nhai

No rồi mớm con cháu

Chồn hóa sư tử ngay

Nói, im tùy trường hợp

Sông thu bóng trăng đầy.

Thầy thích bài này một phần nhờ câu: Hồ ly biến sư tử. Nhờ pháp và luật của đức Thế Tôn, tất cả những con ngựa chướng, những con voi điên đều trở thành những pháp khí rất quý giá. Ăn thua là ta có được lỗ tai của đức Thế Tôn, bộ óc của tổ Đạt Ma thì ta có khả năng chuyển hóa được những căn cơ khó khăn mà không chịu thua. Nếu ta có những tập khí nặng, những thói quen xấu, ta gây những lầm lỗi đổ vỡ trong đời sống hằng ngày thì cũng đừng nên tuyệt vọng, đừng mất niềm tin. Có giáo pháp, giới luật của đức Thế Tôn, nếu ta quy y, chấp nhận quay về để thuần phục trong giáo và pháp đó, ta sẽ trở nên một pháp khí của đức Thế Tôn. Không sợ hãi. Đó là ý nghĩa của câu Hồ ly biến sư tử

Trong số những câu chuyện Bản sinh, Jātaka, chuyện kiếp trước của đức Thích Ca, có một chuyện thầy được đọc hồi ấu thơ làm thầy rất cảm động. Một kiếp xưa của đức Thích Ca do làm việc ác nên bị mang thân một con quỷ và phải gánh chịu những đau khổ dưới hỏa ngục. Khi đó, tiền thân của đức Thích Ca đang bị bọn đầu trâu mặt ngựa đánh đập, và  thấy một tên lính đang hành hạ một người khác, tự nhiên trong lòng ông phát sinh một niềm xót thương, một sự bất nhẫn. Ông ngẩng mặt lên phản đối tên lính đầu trâu mặt ngựa: “Thì cứ để thong thả cho nó làm, tại sao mà anh đâm, anh chém, anh hành hạ nó dữ vậy?” Thấy ông can thiệp, tên lính đầu trâu mặt ngựa nổi xung lên, nó quay lại và dùng chĩa ba thọc vào bụng ông. Ông chết. Nhờ trong lòng có một chút từ bi, can thiệp cho người bạn tù đang đau khổ dưới sự hành hạ của tên đầu trâu mặt ngựa, ngay sau đó ông tái sinh làm người. Từ đó trở về sau, tiền thân của đức Thích Ca chỉ có đi lên mà không đi xuống nữa. Tiền thân đức Thích Ca vốn đã xuống đến chỗ thấp nhất rồi mà còn đi lên được, huống hồ ta còn đang lơ lửng, chưa xuống thấp lắm! Cũng vì lý do đó mà hồi ấy, tuy còn nhỏ tuổi, thầy đã rất thích câu chuyện tiền thân này. Đã đến đáy khổ đau đen tối rồi mà vẫn vươn lên được và một lần vươn lên thì không trở lui nữa, cứ lên cho đến khi thành bậc Chánh đẳng Chánh giác. 

Thầy Rāhula là đệ tử của Bụt, cũng là con huyết thống của Bụt và Bụt đã dạy thầy Rāhula một cách rất kỹ lưỡng. Có một hôm, sư chú Rāhula, lúc đó chừng bảy, tám tuổi, vì sợ bị phạt nên đã nói dối với thầy Xá Lợi Phất. Thầy Xá Lợi Phất mới nói: “Nói như vậy là con phạm giới!” Nói dối vì sợ bị rầy thôi. Nhưng khi nói dối một lần thì phải nói dối lần thứ hai vì sợ bị lòi ra, vì vậy nên phải tìm cách che, mà càng che thì càng lộ. 

Một hôm, Bụt gọi Rāhula tới, bảo Rāhula bưng cho Bụt một chậu nước để rửa chân. Rửa chân xong, Bụt nghiêng chậu, nước đổ ra ngoài chỉ còn lại một phần tư trong chậu, xong Bụt bảo: “Này Rāhula, người nói dối thì sẽ làm mất hết những thiện căn của mình, căn lành còn lại ít như nước trong chậu này. Con hiểu không?” Rāhula thưa: “Dạ con hiểu.” Sau đó, Bụt lại đổ hết nước trong chậu đi và hỏi: “Rāhula, con có thấy nước trong chậu không còn giọt nào không?” Rāhula đáp: “Dạ con thấy.” Bụt mới dạy: “Thiện căn của mình cũng vậy. Nếu ta phạm giới, ta nói dối thì những thiện căn của ta không còn nữa, như chiếc chậu không còn nước này. Vì vậy cho nên, từ rày trở đi con không được nói dối, dù là nói để khôi hài, để chơi đùa.” 

Từ đó về sau thầy Rāhula nhất quyết không nói dối nữa và thầy đã trở thành một trong mười đệ tử giỏi nhất (thập đại đệ tử) của đức Thế Tôn. 

Đức Thế Tôn đã dạy con, dạy học trò kỹ lưỡng như thế đó. Khi được thầy, được chúng thương và tin cậy thì ta có nhiều hạnh phúc lắm, quý vị đều biết điều này. Khi người ta mất đức tin nơi mình rồi thì hạnh phúc tan nát hết, không còn nữa. Cho dù có điều kiện thuận lợi cách mấy đi nữa mà ta không được anh chị em, không được thầy tin thì ta cũng không có hạnh phúc. Cho nên ta phải xây dựng lại niềm tin. Anh chị em ta cũng muốn tin ta lắm, không ai muốn nghi ngờ ta làm gì, nhưng vì ta không cẩn thận nên đã đánh mất niềm tin đó. Bây giờ bằng bất cứ giá nào của sự thực tập, ta cũng phải khôi phục niềm tin để hạnh phúc có mặt trở lại. Không biết ở nơi khác thì sao chứ tại Làng Mai, tăng thân luôn sẵn sàng nâng đỡ và tin tưởng ta, chỉ cần cố gắng trong vòng mười đến hai mươi ngày là ta đã có thể xây dựng lại được những gì đổ nát, có thể phục hồi niềm tin của tăng thân. Thực tập ngay trong đời sống hằng ngày của ta là phương pháp duy nhất để có thể khôi phục lại được niềm tin đó.

II. QUÁN NIỆM CẢM THỌ NƠI CẢM THỌ

Này các vị khất sĩ! Vị khất sĩ an trú trong phép quán niệm cảm thọ nơi cảm thọ như thế nào?

Mỗi khi có một cảm thọ khoái lạc, vị khất sĩ ấy ý thức rằng: “Ta đang có một cảm thọ khoái lạc.”

Vị ấy cũng thực tập như thế với các cảm thọ khổ đau, với các cảm thọ trung tính, với mọi cảm thọ về tinh thần và vật chất.

Khi có một cảm thọ khổ đau, ta biết rằng ta có một cảm thọ khổ đau. Khi có một cảm thọ khoái lạc, ta biết rằng ta có một cảm thọ khoái lạc. Khi có một cảm thọ không khoái lạc cũng không khổ đau (xả thọ), ta biết rằng ta có một cảm thọ không khoái lạc cũng không khổ đau. Ba loại cảm thọ đó có thể thuộc về vật chất (physical) hay tinh thần (mental). Nếu đó là một cảm thọ dễ chịu, khoái lạc về vật chất thì gọi là pleasant physical feeling, dễ chịu về tinh thần thì gọi là pleasant mental feeling. Khi có những cảm thọ, dù khổ đau, dễ chịu hay trung tính, dù thuộc về thân hay tâm, ta cũng phải nhận diện cảm thọ đó. 

Có một điều chúng ta cần nhớ về những cảm thọ trung tính. Mặc dù trong các bộ Luận, chư Tổ thường nói rằng lạc thọ và khổ thọ dễ nhận diện hơn xả thọ, nhưng sự thật xả thọ cũng dễ nhận diện. Xả thọ là những cảm thọ trung tính, không khổ cũng không vui. Trong ta có một dòng sông cảm thọ mà mỗi giọt nước là một cảm thọ hoặc là khổ hay lạc, hay xả thọ. Có khi ta đang có một xả thọ mà lại nghĩ rằng ta không có thọ nào hết. Xả thọ cũng là một thọ chứ không phải là không có thọ. Cũng như khi nhức răng, ta có khổ thọ, và khi không nhức răng thì ta nghĩ ta không có thọ, kỳ thực ta đang có một xả thọ. Khi không nhức răng, thọ biểu hiện lúc đó có thể là xả thọ hay lạc thọ? Thực sự, nó có thể là lạc thọ. Vì khi nhức răng quá, ta ao ước điều này chấm dứt. Khi cảm thọ nhức răng chấm dứt thì ta sẽ sung sướng, nghĩa là ta rất bằng lòng với cái mà ta thường gọi là xả thọ, cũng tức là điều ta mong cầu – lạc thọ. Thực sự, đang nhức răng mà được hết nhức răng thì đó là một lạc thọ. Do đó, gọi nó bằng cái tên nào cho đúng? Gọi xả thọ là đúng hay gọi lạc thọ là đúng? Đây là một đề án. 

Ở Làng Mai, ta thường nói rằng người tu tập chánh niệm có thể biến tất cả xả thọ thành lạc thọ, mà xả thọ lại chiếm số đông trong các thọ. Ví dụ hai cha con ngồi chơi ngoài bãi cỏ vào mùa xuân, người cha đang thực tập hơi thở và cảm thấy ngồi trên bãi cỏ mùa xuân với những bông hoa vàng tím xung quanh, không khí rất trong lành, chim chóc ca hát rất tươi vui, thì người cha đang có lạc thọ. Trong khi đó, đứa con ngồi một hồi lại cảm thấy chán và nó không muốn ngồi với cha nữa. Như vậy, cùng ở trong một hoàn cảnh, người cha có lạc thọ nhưng đứa con thì có xả thọ và đứa con vì không biết xử lý xả thọ nên xả thọ biến thành khổ thọ, buồn chán. Cuối cùng đứa con phải đứng dậy lao vào nhà bật tivi lên, chạy trốn khổ thọ để tìm lạc thọ. 

Khi không có lạc thọ là chúng ta đang có xả thọ. Nếu không biết quản lý thì xả thọ sẽ trở thành khổ thọ. Ngược lại, nếu ta biết quản lý thì xả thọ sẽ trở thành lạc thọ. Chúng ta hãy nghĩ đến giây phút nhức răng, ta có thể làm bất cứ điều gì để đổi cảm thọ nhức răng thành cảm thọ không nhức răng. Do đó, cảm thọ không nhức răng là một lạc thọ chứ không phải là một xả thọ. Vì vậy, với người có chánh niệm thì tất cả xả thọ trong đời sống hằng ngày đều có thể biến thành lạc thọ. Sự thực tập hiện pháp lạc trú của chúng ta có liên hệ tới sự thực tập quán niệm cảm thọ nơi cảm thọ. Theo thầy, phương pháp hiện pháp lạc trú mà Làng Mai đang thực tập quan trọng vô cùng. Đó là sự khôn ngoan. Mỗi ngày, chúng ta được hiến tặng hai mươi bốn giờ để sống và nếu khôn khéo, ta có thể biến tất cả những xả thọ thành lạc thọ:

Chim hót, thông reo, hoa nở

Trời xanh, mây trắng là đây

Ánh mắt thương yêu sáng tỏ

Nụ cười ý thức đong đầy.

Này người giàu sang bậc nhất

Tha phương cầu thực xưa nay

Hãy thôi làm thân cùng tử

Về đây tiếp nhận gia tài.

Tiếp nhận gia tài bằng cách thắp lên ngọn đèn chánh niệm để thấy rằng có những mầu nhiệm của sự sống trong ta và quanh ta, để phát sinh hỷ lạc nuôi dưỡng ta. Đó là phép thực tập hiện pháp lạc trú. Thầy thấy rằng nếu thực tập được hiện pháp lạc trú là ta đủ vốn rồi, còn những thành tựu khác như giúp được người, đóng góp vào sự nghiệp cứu độ của Bụt và Bồ tát là những món lời rất lớn. Nếu ta sống an lạc được hai mươi bốn giờ mỗi ngày trong tinh thần của hiện pháp lạc trú thì ta không lỗ vốn. Ở tuổi nào cũng vậy, ta đều có thể học để sống với tinh thần hiện pháp lạc trú. 

Ngày hôm nay ta sống như thế nào, có hạnh phúc không, có áp dụng được phương pháp hiện pháp lạc trú không? Nếu không làm được như vậy tức là ta lỗ vốn. Ngoài ra, sự thực tập của ta sẽ đưa tới những món lời rất lớn. Đây là nói theo ngôn từ của người buôn bán. 

Khi có một lạc thọ, khổ thọ hay xả thọ, ta phải dùng năng lượng chánh niệm soi chiếu vào những cảm thọ đó để thấy rõ hơn bản chất của chúng. Năng lượng chánh niệm có thể ôm ấp được thọ và cũng có thể nhìn thấy rõ được bản chất của thọ. Trong kinh có nói, ta phải nhìn vào để thấy thọ phát sinh từ thân hay từ tâm? Khổ thọ, lạc thọ hay xả thọ đều có nền tảng của nó là sinh lý, tâm lý hay xã hội. Khi nhìn sâu vào thọ, ta có thể thấy được những điều kiện làm phát sinh thọ có thể từ sinh lý, tâm lý hay xã hội, nhưng nếu không có những điều kiện thuận lợi thì thọ không phát sinh. Nhìn vào tính chất duyên sinh của thọ ta sẽ thấy được tính vô thường. Dù đó là lạc thọ, thì cũng có tính cách mong manh, tính vô thường. Khi đã thấy được tính vô thường của lạc thọ, ta sẽ không bị vướng mắc vào lạc thọ. Nếu đó là một khổ thọ, ta cũng thấy được nguồn gốc sinh lý, tâm lý hay xã hội cũng như những điều kiện đã đưa tới khổ thọ. Ta nói rằng khổ thọ này cũng vô thường nên ta không bị vướng mắc vào khổ thọ này; nó chỉ là một thọ thôi và bất cứ thọ nào cũng vô thường, ta đừng làm nô lệ cho thọ ấy vì nó sẽ đi qua, và nếu biết cách, ta có thể chuyển hóa khổ thọ, không còn vướng mắc hay chán ghét khổ thọ nữa. Cũng như vậy với lạc thọ, ta không vướng mắc và cũng không chán ghét.

Khi ăn một trái quýt, cảm nhận trái quýt ngọt, ngon thì ta có lạc thọ, nhưng ta biết lạc thọ cũng vô thường. Có quýt để ăn thì tốt mà không có quýt để ăn cũng không sao. Ăn quýt có thể có lạc thọ mà không ăn quýt cũng có thể có lạc thọ. Ta không vướng mắc vào lạc thọ, cũng không lo sợ về lạc thọ. Hôm nay ăn quýt, ngày mai có còn được ăn quýt hay không? Đó là lo sợ và vướng mắc vào lạc thọ. Có người bảo ta không nên ăn quýt, không nên có lạc thọ này, phải ghê sợ lạc thọ vì ngày mai không có lạc thọ này mình sẽ khổ. Do đó, phải bỏ hai thái cực, một mặt là vướng mắc lạc thọ, mặt kia là sợ hãi lạc thọ, không dám chấp nhận lạc thọ. 

Đối với khổ thọ cũng vậy, một là ta vướng mắc, hai là ta sợ hãi khổ thọ. Hai thái độ đó ta đều phải buông bỏ, ta phải tự do. Có những người bị vướng mắc vào khổ thọ, đôi khi còn cố ý để vướng mắc. Trường hợp thú đau thương là cố ý vướng mắc vào khổ thọ, thấy rằng nếu có giận, có buồn, có nhớ, có thương mới vui, không có những cái đó thì không vui. Do đó, ta phải nhìn sâu để thấy tính vô thường, tính tương tức của thọ, để không bị vướng mắc vào nó và cũng không trốn chạy nó. Lúc đó, ta giữ được sự tự do. 

Cứ như thế, vị khất sĩ sống trong sự thường trực quán niệm cảm thọ nơi cảm thọ; hoặc quán niệm bên trong, hoặc quán niệm bên ngoài cảm thọ ấy, hoặc quán niệm cả bên trong lẫn bên ngoài.

Ta quán niệm cảm thọ của chính ta hay có thể quán niệm cảm thọ của người khác: Quán niệm cảm thọ trong cảm thọ, quán niệm cảm thọ trong những nguyên do xa gần của cảm thọ đó, trong phạm vi sinh lý cơ thể, phạm vi tâm lý hoặc phạm vi xã hội. Đó gọi là quán niệm bên trong cảm thọ, quán niệm bên ngoài cảm thọ hoặc quán niệm cả bên trong lẫn bên ngoài.

Vị ấy sống trong sự thường trực quán niệm quá trình sinh khởi của cảm thọ, hoặc quán niệm quá trình hủy diệt của cảm thọ, hoặc quán niệm cả quá trình sinh khởi lẫn quá trình hủy diệt của cảm thọ. Hoặc vị ấy quán niệm: “Có cảm thọ đây”, đủ để quán chiếu và ý thức được sự có mặt của cảm thọ đó, và như vậy, vị ấy an trú một cách tự do, không bị bất cứ một thứ gì trong cuộc đời làm vướng bận. Vị khất sĩ quán niệm cảm thọ nơi cảm thọ là như thế đó, thưa quý vị.

Here is the feeling. This is the feeling. Tất cả những chữ này, thầy gọi tên là “nhận diện đơn thuần”. Tuy kinh không dùng danh từ này nhưng ý của kinh chính là như vậy. Nhận diện đơn thuần nghĩa là không vướng mắc vào nó và cũng không xua đuổi nó. Vị ấy quán niệm: “có cảm thọ đây”, đủ để quán chiếu và ý thức được sự có mặt của cảm thọ đó. Tất cả những chữ này đều diễn tả sự nhận diện đơn thuần, nhận diện nó thôi chứ không đi xa hơn để vướng mắc hoặc xua đuổi.

Điều quan trọng nhất vẫn là sự tự do của hành giả đối với các cảm thọ. Đối với lạc thọ ta cũng rất tự do, nhìn lạc thọ bằng con mắt rất sáng, không vướng mắc cũng không sợ hãi. Nhìn khổ thọ bằng con mắt sáng, không vướng mắc cũng không sợ hãi. Với xả thọ cũng vậy. Ta trở nên một người có quyền phép, có thể chuyển hóa những cảm thọ đó tùy theo ý  muốn của mình. Đối với người khác đó là khổ thọ, nhưng đối với ta, ta có thể mỉm cười được. Đối với người khác, nếu không có cái đó thì không sống được, còn ta thì có thể mỉm cười và thấy mình đâu đến nỗi như vậy. Đối với điều mà người ta cho là không có gì thích thú hay là nhàm chán (xả thọ), ta vẫn có thể mỉm cười được, thấy điều đó có thể rất mầu nhiệm. Một người tu có quyền phép có thể biến xả thọ thành lạc thọ. Thở một hơi, nhìn mây trắng, thưởng trời xanh, đối với người khác có thể không có gì lạ, không có gì đặc biệt hay thích thú, nhưng đối với ta, những điều đó có thể trở thành những lạc thọ rất lớn và có khả năng nuôi dưỡng ta. Có năng lượng chánh niệm, ta có quyền năng biến hóa vô cùng và cái hay nhất là ta giữ cho ta được tự do. Dù đối với khổ thọ, xả thọ hay lạc thọ, ta vẫn là một con người tự do.

Chúng ta đọc lại câu này để thấy được ý của Bụt:

Vị ấy sống trong sự thường trực quán niệm quá trình sinh khởi của cảm thọ, hoặc quá trình hủy diệt của cảm thọ, hoặc quán niệm cả quá trình sinh khởi lẫn quá trình hủy diệt của cảm thọ. Vị ấy quán niệm: “có cảm thọ đây”, đủ để quán chiếu và ý thức được sự có mặt của cảm thọ đó, và như vậy, vị ấy an trú một cách tự do, không bị bất cứ một thứ gì trong cuộc đời làm vướng bận.

Here is only a feeling. Đó chỉ là một cảm thọ thôi, sao mà ta quá hoảng sợ, mê mệt đến như vậy. Ta đừng quan trọng hóa nó quá, đừng chết vì nó, đừng đắm chìm trong đó nữa. Sự tự do của ta mới là điều cao quý nhất.

Đọc câu kinh này, ta thấy điều người tu trân quý nhất trên đời là sự tự do. Chúng ta không nên đánh đổi sự tự do với bất cứ thứ gì trên đời. Tự do là hạnh phúc của chúng ta.

Câu này cũng có trong đoạn nói về quán niệm thân thể nơi thân thể. Chúng ta đọc lại: 

Cứ như thế, vị khất sĩ sống trong sự thường trực quán niệm thân thnơi thân thể; hoặc quán niệm bên trong, hoặc quán niệm bên ngoài thân thể ấy, hoặc quán niệm cả bên trong lẫn bên ngoài.

Ta thấy bên trong thân thể và bên ngoài thân thể ấy, tức là những yếu tố đất, nước, lửa, gió ở bên trong, và những yếu tố đất, nước, lửa, gió ở bên ngoài. 

Vị ấy sống trong sự thường trực quán niệm quá trình sinh khởi của thân thể, hoặc quá trình hủy diệt của thân thể, hoặc quán niệm cả quá trình sinh khởi lẫn quá trình hủy diệt của thân th. Vị ấy quán niệm: “Có thân thể đây”, đủ để quán chiếu và ý thức được sự có mặt của thân thể đó, và như vậy, vị ấy an trú một cách tự do, không bị bất cứ một thứ gì trong cuộc đời làm vướng bận. Vị khất sĩ quán niệm thân thể nơi thân thể là như thế đó, thưa quý vị.

Đây là những câu mà các thầy học thuộc lòng từ xưa đến nay. Ta cần phải hiểu và đem ra áp dụng trong đời sống hằng ngày. Chúng ta thấy rất rõ rằng sự thực tập này là để nuôi lớn tự do và bảo vệ tự do của ta, bởi vì tự do chính là nền tảng của hạnh phúc, tự do chính là giải thoát. Khi có một cảm xúc tuyệt vọng, sợ hãi, hận thù lớn dần và bùng lên như những ngọn lửa làm đốt cháy cả thân tâm, ta có cảm tưởng là ta sẽ chết, ta chịu không nổi, vì đó là một khổ thọ. Nhìn một thân cây đứng đơn độc trong cơn bão, nếu ngước lên, ta sẽ thấy những cành lá đang oằn oại theo chiều gió, rất mong manh, có thể bị quật ngã, gãy đổ bất cứ lúc nào. Chúng ta khi ấy cũng như cái cây đang đứng trong cơn bão  cảm xúc lớn. Ta đau khổ vô cùng, ta muốn chết vì nghĩ rằng chết là cách duy nhất để chấm dứt khổ thọ này. Có biết bao nhiêu người trẻ chỉ vì không biết xử lý những cảm thọ mạnh mà phải tự tử. Họ không có phương pháp nào khác ngoài cách chấm dứt sinh mạng. Số người tự tử bây giờ rất nhiều, nhất là những người trẻ châu Âu. Theo những báo cáo mà thầy biết, số người chết vì tự tử nhiều hơn số người chết vì tai nạn giao thông. Chúng ta phải thực tập, phải nắm vững phương pháp xử lý những cảm thọ để có thể chia sẻ cho người khác, nhất là những người trẻ đang bị cơn bão cảm thọ làm cho rung chuyển và đau khổ đến mức không thể sống được, phải nghĩ đến việc tự tử để chấm dứt khổ đau. 

Phương pháp của đức Thế Tôn rất rõ ràng: Chúng ta ngồi lại và nhận ra rằng đây chỉ là một cảm thọ. This is only an emotion. Bất cứ một cảm thọ nào cũng vô thường, nó tới, nó ở lại một thời gian rồi đi. Phải thấy được tính vô thường của cảm thọ đó, lạc thọ cũng vậy mà khổ thọ cũng vậy. Cơn bão cảm thọ thổi tới vì có những căn nguyên của nó – những căn nguyên tâm lý, sinh lý hay căn nguyên xã hội. Ta nhận diện cảm thọ trong lòng cảm thọ và nhận diện cảm thọ ở ngoài cảm thọ, tức là tâm lý, sinh lý và hoàn cảnh đã được xếp đặt như thế nào để cho cơn bão cảm thọ đó xuất hiện và thổi bùng lên. Như vậy ta thấy được tính duyên sinh, những điều kiện xa gần đưa tới cảm thọ. Điều quan trọng nhất là ta phải học cách nói rằng: “Đây chỉ là một cảm thọ thôi!” mà không bị cảm thọ đó cuốn theo và trở thành nạn nhân của nó. Đức Thế Tôn dạy: “Vị ấy quán niệm: ‘Có cảm thọ đây’, đủ để quán chiếu và ý thức được sự có mặt của cảm thọ đó.” (He practices: “Here is an emotion, here is only an emotion”, enough to look into the nature of the emotion). Ta là gì, ta không chỉ là cảm thọ đó (We are much more than our emotions)! Cảm thọ chỉ là một phần rất nhỏ của ta, tại sao ta lại phải chết vì nó? Cảm thọ là một cái gì sinh ra, ở lại với ta một thời gian rồi rời đi, như một cơn bão. Tại sao ta lại chết vì một cơn bão? Vì vậy người tu phải chuẩn bị cho thân và tâm có khả năng xử lý khi những cảm xúc lớn ập đến. Một cảm thọ tới mà ta đã thất điên bát đảo, cảm thấy không sống nổi là tại vì ta đã không tu tập, không trải qua quá trình rèn luyện (training) cần thiết. 

Phương pháp của Làng Mai là: Mỗi khi nhìn một cái cây đang quằn quại trong gió, ta đừng chú ý nhiều đến ngọn cây, chỉ nên nhìn xuống gốc cây, ta sẽ có cảm giác an ninh hơn. Khi nhìn xuống gốc cây, ta sẽ thấy được cây đang cắm rễ rất sâu trong lòng đất, gốc cây vững vàng, tự nhiên ta có cảm tưởng là cây này sẽ không sao. Nếu chỉ nhìn phía ngọn cây thôi thì ta sẽ thấy cây đó có thể gãy đổ bất cứ lúc nào. Con người cũng vậy, đứng về phương diện sắc thân cũng như phương diện tâm lý đều có cái gốc khá vững. Nếu chỉ nhìn vào ngọn của thân và tâm, ta sẽ thấy rất mong manh, rất dễ gãy đổ. Nhưng nếu trở về và nắm được phần vững chãi của thân tâm (phần gốc), ta sẽ không còn là nạn nhân của những cơn bão cảm xúc nữa. 

Đứng về phương diện thân, gốc của ta nằm ở huyệt đan điền, ngay dưới rốn. Khi đối diện với một cảm xúc mạnh, ta đừng nên cư trú ở vùng não bộ và vùng trái tim, đừng nên quanh quẩn trong vùng suy nghĩ, tư duy và vùng cảm xúc, tình cảm mà phải đưa sự chú ý của ta xuống bụng dưới, phải an trú ở huyệt đan điền, bắt đầu theo dõi hơi thở vào – ra và chỉ chú ý tới sự phồng xẹp của bụng. Trong tư thế ngồi, thở vào, bụng phồng lên; thở ra, bụng xẹp xuống. 

Ta cứ thở như vậy. Đó là chỗ ta phải nắm lấy, là gốc của thân thể, đồng thời cũng là gốc của tâm. Gốc của tâm không phải là phần ý thức phía trên mà là phần tàng thức phía dưới. Ta phải đi xuống, phải trở về phần tàng thức, nắm lấy phần dưới của thân tâm mà không để cho cơn bão của tâm hành và cảm thọ phía trên thổi ta bay đi. Nếu biết cách ngồi cho vững và thở ra thở vào để theo dõi sự phồng xẹp của bụng, trong vòng 15 – 20 phút thì cảm xúc đó đi qua (cơn bão đi qua), ta sống sót được và mỉm cười. “Trời ơi! Nó chỉ là một cơn bão thôi! Trong cơn bão đó tôi đã khôn khéo, đã trở về trấn giữ gốc của tôi, nhờ vậy tôi không hề hấn gì cả.” Nếu ta cứ phiêu lưu trên phương diện suy nghĩ, tư duy và tình cảm thì ta sẽ “chết”. Thành ra khi có cơn bão ập đến, ta đừng để bị cuốn vào trong đó, ta phải đưa sự chú ý xuống bụng dưới, nắm lấy huyệt đan điền mà thở và biết rằng trong ta có yếu tố của vững chãi, của thảnh thơi, của Bụt, của Pháp và của Tăng mà ta đã xây dựng. Bài Quay về nương tựa hải đảo tự thân rất hay. Khi bị những xáo động về sinh lý, tâm lý đến nỗi ta có cảm tưởng là ta rất mong manh, dễ vỡ, lúc đó ta cần phải trở về thực tập.

Quay về nương tựa

Hải đảo tự thân

Chánh niệm là Bụt

Soi sáng xa gần.

Hơi thở là Pháp 

Bảo hộ thân tâm

Năm uẩn là Tăng

Phối hợp tinh cần.

Phải thực tập nương vào Tam bảo, vì hạt giống Tam bảo trong tiềm thức của ta rất mạnh. Đem thân mạng nương tựa vào Tam bảo thì những lúc cơn bão cảm xúc ập đến, ta sẽ được che chở, sẽ không sao hết. Nếu cứ để mình phất phơ, trôi nổi trên mặt biển của tư tưởng và cảm giác thì ta sẽ chết, ta sẽ bị nó thổi bay đi. Cho nên phải trở về rất sâu, nắm lấy hơi thở, nắm lấy huyệt đan điền và thực tập bài Quay về nương tựa hải đảo tự thân. Ta cũng có thể thực tập bài Con về nương tựa Bụt, người đưa đường chỉ lối cho con trong cuộc đời. Con về nương tựa Pháp, con đường của tình thương và sự hiểu biết. Con về nương tựa Tăng, đoàn thể của những người nguyện sống cuộc đời tỉnh thức. Thực tập quay về nương tựa Tam bảo (Tam quy) để hạt giống của Tam bảo trở nên vững chãi trong tiềm thức, để mỗi khi lao đao, khốn đốn, ta được trở về nắm vững lấy gốc rễ và có cơ hội vượt qua bão tố một cách bình an. 

Thầy đã đi qua những giai đoạn đầy bão tố trong cuộc đời. Mỗi lần như vậy, thầy luôn luôn áp dụng phương pháp quay về nương tựa Tam bảo và không hề hấn gì. Quý vị cũng có thể làm như vậy. Những cảm xúc mạnh, những tuyệt vọng, khổ đau, khủng hoảng tâm lý sẽ không làm gì được ta tại vì chúng vô thường. Chúng có gốc rễ của chúng: gốc rễ tâm lý, sinh lý hay xã hội. Gốc rễ trong sinh lý, ta có huyệt đan điền; gốc rễ trong tâm lý, ta có nền tảng của Tam bảo; gốc rễ trong xã hội, ta có tăng thân. Nếu biết quy y vào thân, tâm và tăng thân, ta sẽ vững chãi như đồng, ta sẽ sống sót, không cần lo lắng, sợ hãi gì hết. Đó gọi là quy y Tam bảo. Đó là phương pháp đối trị với những cơn bão tố của cuộc đời. 

Phương pháp ngồi trong tư thế hoa sen và thở bụng rất hay, đã cứu được rất nhiều người! Chỉ cần thở chừng hai mươi phút, ba mươi phút là cơn bão đi qua, và khi đứng dậy, ta sẽ trở lại bình thường. Nhưng đừng đợi đến khi cơn bão tới mới thực tập, vì thường trong những lúc ấy ta sẽ không nhớ để thực tập và ta sẽ “chết”, sẽ bị cuốn đi theo cơn bão. Cho nên, những lúc chưa có bão tố ta phải thở những hơi thở chánh niệm, tập trở về nương tựa Tam bảo, mỗi ngày vài mươi phút. Nếu có thể tập hai mươi mốt ngày trở lên thì sẽ trở thành thói quen, để khi cơn bão tới ta sẽ nhớ và thực tập liền. Một khi ta đã thực tập được, đã vượt qua được cơn bão thì ta có đức tin, ta nói: “Cứ tới đi, không sao đâu, ta sẵn sàng chờ đợi ngươi.” Đó chính là thái độ vô úy đối với cơn bão. Niềm tin nơi chánh pháp của ta sẽ vững chãi hơn. Khi ta vượt qua được hai lần, ba lần thì đức tin của ta đối với pháp môn hành trì càng lớn. 

Khi có một người em, một người con, người cháu đang lâm vào tình trạng tương tự, ta hãy bảo: “Con ngồi xuống, đưa bàn tay cho mẹ (chị) nắm và thở đi. Thở vào, bụng phồng lên. Thở ra, bụng xẹp xuống. Mỉm cười đi, đừng suy nghĩ, đừng để tâm đến cảm giác. Cứ để tâm vào bụng và thở đi.” Có thể chánh niệm của người ấy còn yếu, nhưng chánh niệm của ta mạnh hơn, ta có thể cầm tay người ấy, thở với người ấy và hộ niệm, yểm trợ cho người ấy có thể thở trong mười, mười lăm phút. Khi đó, người ấy có thể mỉm cười được, có thể vượt qua được. Ta nói rằng: “Nếu lần sau con có khó khăn thì con đến với mẹ, nắm tay mẹ, con thở, hai mẹ con ta cùng thở.” Ta có thể phải dạy cháu vài lần. Sau này, nhờ vậy, cháu sẽ không làm như những người khác là khi bộc phát một cơn cảm xúc mạnh thì nghĩ đến việc tự tử. Do đó, ta phải thực tập, phải nắm vững phương pháp thực tập để có thể giúp được những người chung quanh chúng ta, nhất là những người trẻ. 

Huyệt đan điền quý giá vô cùng. Quý vị phải biết huyệt đan điền là cứu tinh của mình, phải trở về nắm lấy nó mà thở. Hằng ngày, sự thực tập quay về nương tựa của ta rất quan trọng. Khi thở, dù đang ngồi hay đi, hãy thực tập bài Quay về nương tựa. Những lúc ốm đau thập tử nhất sinh, những lúc gặp nguy biến lớn mà thực tập quay về nương tựa, ta sẽ rất vững vàng. Nhất là nương tựa tăng thân, tăng thân chính là con thuyền, là cái phao cứu nguy của ta. Bỏ tăng thân mà đi, đánh mất tăng thân là một tai nạn rất lớn cho đời ta. Nếu có ba yếu tố sau, ta sẽ được an ninh trong suốt cuộc đời: thứ nhất là huyệt đan điền, thứ hai là hạt giống Tam bảo mà ta vun bón mỗi ngày và thứ ba là tăng thân. Nhờ ba yếu tố này ta sẽ vững chãi, sẽ không bao giờ bị cuốn đi bởi cảm xúc và tuyệt vọng. 

Chúng ta vừa học xong phần quán niệm cảm thọ nơi cảm thọ. Chúng ta phải biết tận dụng kinh An ban thủ ý, kinh Quán niệm hơi thở để hiểu thêm kinh Bốn lĩnh vực quán niệm. Kinh Quán niệm hơi thở và kinh Niệm xứ phải luôn đi đôi với nhau như hình với bóng, kinh này giúp ta hiểu kinh kia, kinh kia giúp ta hiểu kinh này.

Về phương pháp quán niệm cảm thọ nơi cảm thọ trong ánh sáng của kinh Quán niệm hơi thở, chúng ta có bốn bài tập: hỷ giác, lạc giác, tâm hành giác (ý thức tâm hành) và an tịnh tâm hành. 

Chúng ta có thể chia bốn bài tập này làm hai phần, phần đầu là thực tập nuôi dưỡng thân tâm bằng hỷ, lạc; phần thứ hai là ôm ấp, chữa trị và chuyển hóa những cảm thọ đau khổ. 

Người tu phải biết tự nuôi dưỡng mình bằng những cảm thọ hỷ và lạc. Muốn nuôi dưỡng mình bằng hỷ và lạc thì ta phải để ý tới những điều kiện đang thuận lợi cho hạnh phúc, cho nếp sống tu học. Khi để ý được đến những điều đó thì hỷ, lạc sinh khởi. Mỗi ngày ta phải tự nuôi thân tâm bằng hỷ và bằng lạc, nếu không thì làm sao ta có thể đi xa được. Tự nuôi dưỡng mình bằng hỷ lạc là bổn phận của mỗi người tu. Ngày nào không có hỷ và lạc là ngày đó chúng ta lỗ vốn, lỗ vốn cho chúng ta, cho tổ tiên và con cháu chúng ta. Không có ngày nào là không có hỷ, không có ngày nào là không có lạc. Hỷ và lạc phát sinh nhờ chánh niệm, nhận diện được những mầu nhiệm trong ta và xung quanh ta, những yếu tố tươi mát, lành mạnh có khả năng trị liệu. 

Sang phần thứ hai, ý thức tâm hành. Tâm hành ở đây là thọ, bất cứ một thọ nào biểu hiện trong ta thì ta phải ý thức được nó: lạc thọ cũng vậy mà khổ thọ cũng vậy. Nhất là khổ thọ, ta phải ý thức, nhận diện và ôm ấp được nó. Nhận diện và ôm ấp rồi ta sẽ thấy được chiều sâu, thấy được bản chất của nó. Kế đến là ta làm cho cảm thọ êm dịu, lắng đọng lại và không còn phá rối, xô đẩy, vùi dập ta. Người tu phải làm cho được việc này, nếu không thì chưa phải là người tu. Ta phải học hỏi thêm từ thầy, từ tăng thân. 

Đó là những chỉ dẫn của kinh An ban thủ ý mà ta phải đem ra soi chiếu vào trong kinh Bốn lĩnh vực quán niệm. Trong kinh Bốn lĩnh vực quán niệm có nói rất rõ: Tri giác có thể là tri giác về cơ thể, có thể là tri giác về tâm linh; lạc cũng vậy, có thể là hạnh phúc thuộc về cơ thể (physical happiness) hoặc hạnh phúc thuộc về tâm linh (spiritual happiness), cả hai đều có khả năng nuôi dưỡng ta. Ví dụ, cảm giác thanh bình trong con người ta, the feeling of well-being (le sentiment de bien-être), không phải khổ cũng không phải lạc mà ta thường gọi là xả thọ, cũng đã có tính cách nuôi dưỡng rồi. 

Tâm hành thọ có thể là dễ chịu, khó chịu, trung tính, có thể thuộc về cơ thể hay tinh thần. Ta phải nhận diện được tất cả những tâm hành thọ, gọi được đúng tên chúng và có khả năng ôm ấp, nhìn sâu vào chúng, làm cho chúng an tịnh. Ví dụ: “Tôi biết đây là một khổ thọ về vật chất; tôi biết đây là một khổ thọ về tinh thần; tôi biết đây là một lạc thọ về cơ thể; tôi biết đây là một lạc thọ về tinh thần; tôi biết đây là một xả thọ về cơ thể; tôi biết đây là một xả thọ về tinh thần.” Ta không chỉ làm an tịnh những khổ thọ mà còn  phải làm an tịnh lại những lạc thọ, vì chúng cũng có thể giết ta như những khổ thọ. Ví dụ khi một người được tin mình trúng số độc đắc, anh ta đứng tim chết luôn. Đó là chết vì một hỷ giác. Nên khi chúng ta nhận diện được cảm thọ đó, chúng ta đừng tìm cách chống báng, đàn áp nó bởi vì đó là chúng ta. Nếu ta đàn áp, đánh đuổi nó tức là ta bạo động với chính ta. 

Vì vậy, chỉ có nhận diện thôi và nhận diện xong thì chấp nhận sự thật như vậy: “Đây là một khổ thọ phát sinh từ cơ thể, đây là một khổ thọ phát sinh từ nhận thức…”. Ta phải biết khổ thọ này phát sinh từ cơ thể hay từ tâm thức. Có khi ta nói nó phát sinh từ xã hội hay từ hoàn cảnh, nhưng nhận thức của ta cũng đóng một vai trò rất lớn. Tùy vào nhận thức của ta mà điều xảy ra có gây khổ đau cho ta hay không. Điều đó xảy ra cho nhiều người cùng một lúc nhưng có người vẫn tỉnh bơ, có người thì rất đau khổ. Cho nên, điều đó là khổ hay không khổ còn tùy thuộc rất nhiều ở cách ta nhận thức. Chúng ta có thể gọi đó là “khổ thọ do nhận thức mà phát sinh”. Chúng ta thường cho rằng cái khổ đó là do xã hội mà có, do hoàn cảnh mà phát sinh, chúng ta ít khi biết nó là do nhận thức của mình mà phát sinh. Khi nhận diện được rồi ta phải chấp nhận, như chấp nhận một đứa em, một đứa con. Vì khi con (em) ta ốm đau thì ta phải chấp nhận, ôm ấp và chữa trị cho nó, chứ không thể nói: “Mày không phải là em tao. Mày không phải là con tao.” Khi đã chấp nhận được rồi thì khổ đau tự nhiên sẽ vơi bớt, bớt tới 80%. Chỉ khi nào không chịu chấp nhận ta mới khổ đau nhiều. Như khi phát hiện có một chứng bệnh nan y, ta rất đau khổ, đó là vì ta không chấp nhận được thực tế. Nhưng nếu ta chấp nhận được rồi, nỗi đau khổ sẽ tự nhiên vơi đi rất nhiều. Khi không còn thái độ phản kháng nữa, ta sẽ khổ rất ít và có thể ôm ấp, chuyển hóa, chữa trị căn bệnh dễ dàng hơn.

III. QUÁN NIỆM TÂM THỨC NƠI TÂM THỨC:

Này các vị khất sĩ! Vị khất sĩ an trú trong phép quán niệm tâm thức nơi tâm thức như thế nào?

Mỗi khi nội tâm có tham dục, vị khất sĩ ấy ý thức là nội tâm có tham dục. Mỗi khi nội tâm không có tham dục, vị ấy ý thức là nội tâm không có tham dục.

Tham dục tiếng Phạn là tṛṣṇā, nghĩa là thèm khát, craving. Có 51 tâm hành, gọi là tâm sở pháp. Tâm pháp có tám. Đây là theo Pháp Tướng tông – thường gọi là tông Duy Thức – tông phái miền Bắc. Tông phái này nghiên cứu về tướng trạng, về phương diện hiện tượng của các pháp. Có những tông phái nghiên cứu về bản tính của các pháp, như Tam Luận tông, chuyên nghiên cứu về tính Không của các pháp. 

Tánh 性, svabhāva

Tướng 相, lakaa

Vì vậy, những tông như Tam Luận tông còn gọi là Tánh tông, những tông như Duy Thức gọi là Tướng tông. Danh sách 51 tâm sở pháp thuộc về Pháp Tướng tông. 

Mỗi khi có sự thèm khát (tham dục), ta biết rằng có sự thèm khát. Đó là nhận diện, nhận diện sự có mặt của tâm hành hay tâm sở tham dục. Khi không có tâm hành đó ta cũng nhận diện: “Không có tâm hành tham dục trong tôi”. Khi nhận diện không có tâm hành tham dục trong ta thì tự nhiên sự hân hoan phát khởi, vì ta biết rằng mỗi khi có sự thèm khát trong người thì giống như bị lửa đốt, bất an, chạy đi tìm cái này cái kia, bị sai sử và mất tự do. Khi nhận diện tâm hành là vô tham (không có sự thèm khát), ta biết rằng ta đang có những điều kiện của hạnh phúc, tự nhiên hỷ lạc được phát sinh. Rất hay! Không có cái này nghĩa là có cái khác. Ngôn từ của Phật học rất thú vị. Nhiều khi ta nói “vô tham”, mà như vậy cũng đồng nghĩa là “có cái gì đó”. Cái gì đó chính là sự tự do. Có tự do thì có hạnh phúc. Hoặc là tâm hành vô sân (sự vắng mặt của giận hờn). Vô sân tức là có sự hiện diện của hoan hỷ, từ bi. Sự vắng mặt của giận hờn hay sự có mặt của tình thương đều là một tin vui, vì những điều đó mang đến cho ta nhiều hạnh phúc. Vì vậy ta đừng bị ngôn ngữ thường ngày áp đảo, đừng nói không có cái đó nghĩa là không có gì hết. Không có cái đó nghĩa là có sự hiện diện của cái khác. Ví dụ nói: “Đêm không có mặt”, tức là đang có ngày. Có ngày thì vui lắm. Hoặc nói: “Ngày không có mặt”, nghĩa là có đêm. Đêm có mặt cũng vui lắm. Đêm, ta có thể đi ngủ, có thể nghỉ ngơi hay ngắm sao, ngắm trăng. Hoặc nói “Niết bàn”, tức là sự tắt ngấm của những phiền não, nghĩa là có sự hiện diện của những cái không phải là phiền não như từ, bi, hỷ, xả. 

Ấn Độ có những dãy núi đá hùng vĩ được đục ra để làm những ngôi chùa rất lớn bên trong. Họ không cần phải đem xi măng, gạch ngói hay bất cứ thứ gì vào để làm chùa mà chỉ đục lấy bớt đá ra ngoài. Khi đi vào những hang động bằng đá đó, ta thấy có chánh điện, tượng Bụt, cột chạm trổ rất đẹp và có cả tăng xá… Cũng vậy, sự giác ngộ của ta nhiều khi không phải đem từ ngoài vào mà chỉ cần lấy những thứ không cần thiết trong người ra, tự nhiên bên trong ta liền có hạnh phúc, có thảnh thơi. Ta chỉ cần lấy anh chàng thèm khát, sân hận trong người ra thì bao nhiêu hạnh phúc tự nhiên biểu hiện. Đừng tưởng lấy ra là không còn gì hết. Ví dụ như khi ta hỏi một đứa trẻ: “Này em, em có biết làm toán không?” Đứa trẻ trả lời rằng không biết làm toán. Ta nói: “Tôi sẽ lấy sự ngu dốt về toán học trong em ra khỏi em.” (I remove the ignorance of mathematics in you.) Nói như vậy là nói theo ngôn ngữ của đạo Bụt, có nghĩa là tôi sẽ dạy em toán học. Lấy sự ngu dốt về toán ra, em sẽ giỏi toán. Tinh thần đạo Bụt là như vậy. Giải thoát, hạnh phúc, giác ngộ đã có sẵn trong ta rồi nhưng chúng còn mắc kẹt. Tu tập là lấy những cái không phải là giải thoát, giác ngộ, hạnh phúc ra khỏi ta thì tự nhiên giải thoát, hạnh phúc, giác ngộ sẽ biểu hiện. Đọc kinh, ta thấy trong đó dạy cách lấy những cái tiêu cực ra mà không chỉ phương pháp đưa những điều tích cực vào. Nhưng ta phải hiểu rằng, không có ngày nghĩa là có đêm, và không có đêm tức là có ngày, không có sự giận hờn tức là có sự hoan hỷ, mà có sự hoan hỷ thì vui lắm. 

Trong phần hai của kinh, chúng ta chỉ xử lý một loại tâm hành, đó là cảm thọ; còn trong phần ba của kinh, ta xử lý tất cả những tâm hành, trừ tâm hành thọ (phần hai) và tưởng (xử lý trong phần thứ tư). 

Bốn lĩnh vực quán niệm có thể chia ra như thế này: lĩnh vực đầu tiên là sắc thân, lĩnh vực thứ hai là tâm hành thọ, lĩnh vực thứ ba là tất cả các tâm hành (49 tâm hành), lĩnh vực thứ tư là tâm hành tưởng. Phần ba của kinh nói về lĩnh vực quán niệm tâm trong tâm. Tâm ở đây là tâm hành. 

Giả dụ trong khi thực tập chánh niệm, ta nhận ra rằng có một tâm hành thèm khát vừa phát sinh, ta nói: “Đây là một tâm hành thèm khát vừa phát sinh” và “Tâm hành này đã phát sinh và đang có trong ta.” Lúc đó ta nhận diện và chấp nhận nó, vì nó là ta, là một phần của ta, ta không đánh đuổi hay thù hận nó. Đây là phương pháp bất bạo động, căn cứ trên nguyên tắc bất nhị. Ta với tâm hành của ta là một, tâm hành của ta không phải là kẻ thù mà chính là ta và ta phải có bổn phận chăm sóc nó. Có những người nghĩ rằng thiền tập phải là sự chiến đấu giữa cái thiện và cái ác, giữa Phật và Ma. Nhưng trong ánh sáng của tương tức, rác làm ra hoa và hoa làm ra rác. Trong ta có phiền não và có bồ đề. Bồ đề không phải là kẻ thù của phiền não và phiền não không phải là kẻ thù của bồ đề. Nếu không giữ gìn thì bồ đề biến thành phiền não. Nếu biết cách tu tập chuyển hóa thì phiền não trở thành bồ đề. Không có rác thì không có hoa, không có phiền não thì không có bồ đề. “Phiền não tức bồ đề” là vậy. 

Giáo lý đạo Bụt được căn cứ trên nguyên tắc bất nhị (non duality). Khi có tuệ giác bất nhị, ta nhìn vào rác mà không thấy sợ hãi, không thù hận. Ta nói: “Được, em là rác hả? Em là tôi đó, tôi sẽ chăm sóc cho em. Không sao! Chúng mình không lo lắng, sợ hãi gì cả.” Thái độ chấp nhận đó làm cho ta bớt khổ rất nhiều. Với lại, cọng rác này đôi khi đã được ông bà, cha mẹ truyền lại, ta có bổn phận phải tiếp thu và chuyển hóa nó. Chuyển hóa được là ta làm đẹp lòng cả ông bà, cha mẹ, tổ tiên. Ta có niềm vui chuyển hóa được cho dòng họ, tổ tiên. Những điều tổ tiên chưa làm được, bây giờ ta có thể làm được. Ta không hổ thẹn về cọng rác. Chấp nhận được thì ta khổ ít lắm, gần như không khổ. Cũng như khi làm vườn, nhìn thấy có nhiều rác, ta tìm cách dồn rác vào một chỗ rồi ủ và chăm sóc, trong vòng mấy tháng thì rác biến thành phân bón rất tốt cho các loại hoa màu. Do đó, ta phải có thái độ bình tĩnh của người làm vườn. Hễ có rác thì phải biết chăm sóc và có phương pháp xử lý. Chỉ riêng cách chúng ta đối xử với nó đã giúp ta bớt khổ rất nhiều. Nó có thể là một tâm hành tham dục, thèm khát, và tâm hành đó hoặc phát sinh từ cơ thể, từ nhận thức, hoặc có thể đã được truyền trao và ta phải chấp nhận gia tài đó. Nếu biết được, ý thức được thì ta có thể chuyển hóa. 

Kinh có nói rằng: Mỗi khi nội tâm có tham dục, vị khất sĩ ý thức là nội tâm có tham dục, mỗi khi nội tâm không có tham dục, vị ấy ý thức là nội tâm không có tham dục. Rất rõ ràng. Không có tham dục nghĩa là có cái khác và cái khác này rất mầu nhiệm. Vô tham là một tâm hành thiện, là một tâm hành cao đẹp của Bụt và Bồ tát. Chúng ta ai cũng có tâm hành thiện. Lấy tâm hành tham ra, tâm hành vô tham sẽ tự nhiên biểu hiện, ta được thư thái, nhẹ nhàng, thảnh thơi, ta rất gần với Bụt. 

Vị ấy cũng quán chiếu như thế đối với tâm sân hận, tâm si mê, tâm thu nhiếp, tâm tán loạn, tâm khoáng đạt, tâm hạn hẹp, tâm cao nhất, tâm định và tâm giải thoát.

Chúng ta có danh sách sáu phiền não căn bản (kleśa). Phiền não (affliction) ở đây có nghĩa là những yếu tố làm cho ta não loạn, khổ đau, ưu phiền, bất an, thất điên bát đảo. Đây không phải là chữ phiền não mà ta dùng trong ngôn ngữ dân gian thông thường. Những phiền não thứ yếu, gọi là tùy phiền não (secondary affliction). Sáu phiền não gốc cội, khuấy động nhất là: tham, sân, si, mạn, nghi và kiến. Cái lõi của sáu phiền não căn bản chính là si. Nếu lấy tia laser bắn một phát vào trong cái lõi của các phiền não (nghĩa là bắn vào si) thì những phiền não đó sẽ tan rã. Những thèm khát, giận hờn, ngạo mạn, nghi ngờ và những nhận thức sai lầm kia đều có hạt nhân của si mê. Tia laser này chính là tia quán chiếu, làm bằng chất liệu của chánh niệm. Dùng chánh niệm làm năng lượng tạo ra tia sáng, làm cho mạnh lên bằng định lực rồi chiếu thẳng vào cái lõi của phiền não mà bắn một phát, cái lõi ấy tan rã và sáu phiền não căn bản cũng tan rã. Bản kinh không liệt kê ra hết tất cả mà chỉ nói một số tâm hành tiêu biểu. Ở đây không chỉ có tham, sân, si, mà còn có mạn, nghi, kiến, phẫn, hận, phú, não, tật,… Đây là công việc của nhà biên khảo, nhà luận học. Nhờ công việc của những nhà luận học này mà ta được hiểu thêm về kinh. 

Có nhiều nơi giải thích tâm hạn hẹp ở đây là khi tâm vướng vào thế giới của dục, tâm trở nên nhỏ bé, không đẹp đẽ. Có nơi chú giải rằng tâm cao nhất nghĩa là tâm vô thượng, là tâm đã lìa khỏi lĩnh vực của dục mà lên đến lĩnh vực của sắc và vô sắc. Đó chỉ là một cách giải thích mà thôi. Có những khi ta thấy ta rơi xuống thấp, tâm ta không hoan hỷ, nhỏ hẹp, không có khả năng thương, không có khả năng chấp nhận, muốn co rút về trong vỏ ốc của ta và trách móc, hờn giận, đó là lúc tâm ta hạn hẹp. Còn có những ngày ta thấy nhẹ nhàng, yêu thương và chấp nhận tất cả, ta thấy ta là sư anh, sư chị, sư em, là người thiền sinh, và ta chăm lo cho họ giống như chăm lo cho ta, lúc đó tâm ta lên rất cao, gọi là tâm cao nhất. Nếu có tâm cao nhất thì cũng có thể có tâm thấp nhất. Ta lên voi, xuống chó. Ta phải nhận ra tâm của ta: hôm nay là tâm xuống chó, ngày hôm qua là tâm lên voi. Ta phải nhìn sâu để thấy tại sao tâm hôm nay như vậy. Tại sao hôm qua tâm được như thế kia. Ta có thể nhìn ra rằng tâm phát sinh từ thân, từ hoàn cảnh hay từ thiện tri thức. Đôi khi chỉ cần ngồi bên cạnh một người thiện tri thức thôi thì tự nhiên tâm cao nhất (vô thượng – unsurpassable) của ta được sinh ra. Khi có tâm cao nhất, ta khỏe và rất hạnh phúc.

Trong kinh Quán niệm hơi thở, Bụt dạy bốn bài tập về phương diện tâm thức. Ta đang thở vào và có ý thức về tâm ý ta. Ta đang thở ra và có ý thức về tâm ý ta. Đó là ý thức tâm hành, nhận diện tâm hành. 

Bài tập tiếp theo Bụt dạy làm thế nào để tâm hành của ta sáng ra, vui lên, làm cho tâm hành hân hoan. Ta vốn có sẵn sự hân hoan rồi và khi có một tâm hành thiện, ta có thể thổi hơi ấm, chiếu rọi ánh sáng của chánh niệm vào để tâm hành thiện đó lớn lên. Có niềm vui, hạnh phúc, an lạc thì ta nhận diện và ôm lấy được tâm hành thiện trong chánh niệm, từ đó những niềm vui, hạnh phúc sẽ lớn lên thêm, gọi là tâm hân hoan. 

Khi có một tâm hành tiêu cực, chán nản, buồn phiền, thất vọng, lo lắng, thèm khát,… phát khởi, ta biết rằng tâm hành đó sẽ kéo ta đi xuống thì ta đừng chịu chết, đừng nằm co rút lại để tâm hành đó thống trị ta. Ta phải tự làm gì đó, hoặc nhờ sư anh, sư chị, sư em giúp đỡ để ta có thể ôm lấy và chuyển hóa tâm hành đó. Có những pháp môn Bụt đã trao truyền giúp ta thay đổi tình trạng, với sự yểm trợ của bạn đồng tu. Phương pháp đầu tiên gọi là “thay chốt”. Giống như khi xem một chương trình truyền hình, nếu nó quá dở thì đừng ngồi đó chịu đựng, phải bấm nút để thay đài khác. Nếu tất cả các đài đều dở thì tắt màn hình, ra ngoài đi thiền hoặc pha trà uống. Nhưng thực ra, kênh truyền hình đó đang nằm trong đầu ta, trong tàng thức ta, dù ta không bấm nút, nó cũng tự phát ra, dẫn đến sự buồn bực, ganh ghét, và nó cứ chiếu tới chiếu lui bộ phim tiêu cực. Là người có thực tập, ta đừng ngồi đó để trở thành nạn nhân. Ta phải làm cho tâm trở nên hân hoan. Đừng ngồi chịu chết! Thay chốt đi! Thiếu gì chương trình hay trong tàng thức ta không mời lên, mà cứ để chương trình xấu đó xâm chiếm hết ngày giờ của ta. 

Một người bạn đang trầm tư, lo lắng, có thể bạn ta đang bị trói vào một tâm hành. Ta đến bên cạnh và hỏi rằng: “A penny for your thoughts?” “Chị đang suy nghĩ gì đó? Anh đang suy nghĩ gì đó? Chị đang xem chương trình nào đó? Anh đang xem chương trình nào đó?” Điều này có nghĩa là ta muốn người ấy thoát khỏi tâm hành của họ. Câu “A penny for your thoughts?” có thể là một tiếng chuông chánh niệm. Khi ta nhìn thấy sư anh, sư chị, sư em đang trầm tư, đang co rúm lại thì ta phải làm gì đó để giúp người ấy. “A penny for your thoughts? A penny for your feelings? A penny for your mental formations?” Ta không sợ bị nói là muốn biết bí mật của tâm hồn người ấy. Ta không phải là một người tò mò. Là anh chị em của nhau nên khi thấy người kia bị vướng trong một tâm hành thì ta đi tới và nói: “Anh, chị đang suy nghĩ gì đó, sao không đi thiền với em?” Đó là một tiếng chuông chánh niệm. Nếu muốn thì có thể đặt ra một câu khác tương đương như vậy để gỡ người bạn tu ra khỏi tình trạng khó khăn. Người bạn nghe như vậy có thể cười xòa và nói: “Được thôi, tôi sẽ đi ra khỏi tâm hành đó và thực tập với anh để tâm của tôi được hân hoan lên.” Trời nắng đẹp như vậy mà ta lại giam mình trong tâm hành đen tối như thế kia, thật uổng, thật phí phạm! 

Nếu tâm hành đó quá mạnh, cố quên nhưng không thể nào quên, không thể nào thay chốt được thì ta bắt buộc phải quay về, ôm lấy nó để chuyển hóa. Ta vừa thay một cái chốt mới, ở được một hai phút thì rớt xuống và cái chốt cũ đi lên trở lại. Đó là chuyện có thể xảy ra. Trong trường hợp cứ lặp đi lặp lại nhiều lần, ta sẽ nói: “Được rồi, bây giờ tôi sẽ lo xử lý anh. Cứ đứng đó, tôi sẽ ôm lấy.” 

Chúng ta thực tập thiền hành, thiền tọa để ôm lấy tâm hành đó mà quán chiếu và nếu cần, ta nhờ một sư chị, sư anh, sư em đem năng lượng chánh niệm tới ngồi gần bên ta, đi gần bên ta để ta có thêm sức mạnh mà ôm ấp, xử lý. Thường thường, khi được một người bạn tu có năng lượng tốt giúp đỡ, ta có thể thành công dễ dàng. Đó là sức mạnh có được khi sống trong tăng thân. Chị ngã em nâng. Người nào cũng có những giây phút xuống thấp và những lúc đó ta phải nhờ tăng thân. Đôi khi một sư em mới tu nhưng vị ấy tươi mát, bình an, nhiều năng lượng tích cực, ngồi với sư em thì ta có đủ khả năng ôm ấp, quán chiếu và trị liệu tâm hành này của ta. Trong kinh gọi sự thực tập ấy là thu nhiếp tâm hành vào định. Ôm lấy tâm hành để chăm sóc gọi là đặt tâm hành vào định. Thay vì đẩy nó ra ngoài thì ta ôm lấy nó và nói: “Ổn thôi, tôi sẽ chăm sóc bạn – Ok, I take care of you.” Ta tập trung toàn bộ năng lượng của thân tâm để lo chuyện này. Với năng lượng ấy, ta có thể nhìn sâu để thấy được những cội nguồn xa gần đã làm phát sinh ra tâm hành đó. Vấn đề của ta thì ta phải chăm sóc mà không nên chạy trốn. Đây là bài tập thứ ba của phần quán tâm trong tâm. 

Bài tập thứ tư là giải thoát tâm hành (Liberating the mental formation). Phải cởi trói cho tâm dù đó là tâm hành tham đắm hay giận hờn. 

Một sư cô mới tu ba, bốn tháng có gửi thư cho thầy trình bày về phương pháp thực tập của sư cô. Ngày trước cô có bạn trai, mỗi khi giận bạn trai thì cô đi chợ mua bánh về tặng bạn trai. Và mỗi lần bạn trai cô giận cô thì anh ấy đi ra sau vườn để tưới hoa, tưới hoa một hồi thì chạy đi mua cà rem cho cô. Cô nhớ những chuyện đó. Ngày cô đi xuất gia thì ba cô, anh cô, người yêu cũ của cô ngồi đó nhưng không dám nhìn vào cô bởi vì biết rằng cô đã chọn một con đường khác. Những kỷ niệm đó có mặt thường xuyên trong lòng sư cô như những hạt mầm đẹp đẽ. Có một lần, sư cô cảm thấy như đang bị một sự ràng buộc, vương vấn thì những hình ảnh của ba, của anh, của người yêu cũ ngồi trong lễ xuất gia không dám nhìn cô xuất hiện. Sư cô nghĩ, những người dễ thương đã yểm trợ mình như vậy mà mình cũng đã từ giã ra đi vì chí nguyện lớn của mình. Bây giờ nếu để vướng mắc vào sợi dây mới thì mình không dễ thương, mình phản lại chính mình và phản lại những người mình thương. Quán chiếu như vậy trong vòng hai phút thì sư cô giải thoát được tâm hành vướng mắc. Trong hai phút mà làm được như vậy, đối với một sư cô mới trên hai mươi tuổi, mới tu được ba tháng, bốn tháng thì có thể gọi là rất khá. 

Cha mẹ ta, những người thương ta, những yếu tố đó luôn ở trong lòng ta. Nhưng vì phải đi theo một con đường, vì một chí hướng cao cả, ta phải tạm xa lìa những hạnh phúc đó. Thế mà giờ đây, trong khi thực tập, ta để cho một sự vướng mắc khác trói buộc thì thật không xứng đáng với tình thương, với hạnh phúc mà ta đã thừa hưởng. Biết bao nhiêu người thương ta, dòng họ, gia đình yểm trợ và trông đợi sự thành công trong hành trình tu học của ta để sau này ta có thể độ đời. Nếu để cho tâm bị vướng mắc thì hóa ra ta là một người tệ bạc với những người thương ta hay sao? Chỉ cần hai phút là vượt thoát khỏi tâm hành vướng mắc. Chúng ta ai cũng có những yếu tố như vậy trong người và nếu ý thức, biết sử dụng thì có thể cởi trói cho mình một cách hết sức dễ dàng. Giải thoát tâm hành không phải là chuyện xa vời. Ta có thể làm được và làm được ngay bây giờ, ở đây, trong vòng mấy phút. Sư cô đó đã làm một mình, và sau mấy phút thì cảm thấy trong lòng nhẹ nhàng, thoải mái, tâm nhất hướng trở lại.

Cứ như thế, vị khất sĩ an trú trong sự quán niệm tâm thức nơi tâm thức; hoặc quán niệm bên trong, hoặc quán niệm bên ngoài tâm thức ấy, hoặc quán niệm cả bên trong lẫn bên ngoài.

Nhìn vào tâm hành, quán sát bên trong lẫn bên ngoài tâm hành đó để thấy được bản chất của nó. Trước hết, ta phải gọi đúng tên: Đây là tâm hành tham dục; đây là tâm hành hận thù, kiêu mạn, nghi ngờ. Ta nghi ai? Ta nghi ta, sợ ta tu không được; nghi thầy ta, nghi những người trong chúng, nghi giáo pháp. Quán sát bên trong thì thấy bên ngoài, quán sát bên ngoài thì thấy bên trong. Không có hiện tượng nào mà không có nguồn cơn, gốc rễ. Tâm hành đó có thể sinh ra từ sinh lý, tâm tư, những hạt giống cũ hay từ hoàn cảnh xã hội.

Khi đã thấy được gốc rễ, ta nói rằng tâm hành này phát sinh là tự nhiên, tại vì sinh lý, tâm lý, hoàn cảnh như vậy thì nó phải phát sinh như vậy. Ta biết xử lý sinh lý như thế nào để tâm hành như vậy không còn phát sinh nữa. Tu cũng là tu thân. Ví dụ như ta ăn quá nhiều và ăn những thức có chất kích thích thì tâm hành dục tự nhiên phát sinh. Cho nên ăn uống có chừng mực là một phương pháp tu rất hay. Người thực tập ăn ít vào buổi chiều và không ăn những thức có tính kích thích là có lý do chứ không phải vì kiêng cữ theo phương diện hình thức. Đó cũng là chánh niệm. Chăm lo cho thân thể, nhận thức, hoàn cảnh xã hội của ta để những tâm hành bất thiện không có điều kiện phát khởi. 

Vị ấy an trú trong sự quán niệm quá trình sinh khởi nơi tâm thức, hoặc quán niệm quá trình hủy diệt nơi tâm thức, hoặc quán niệm cả quá trình sinh khởi lẫn quá trình hủy diệt nơi tâm thức. 

Ta thấy tâm thức phát sinh như thế nào, tại sao nó phát sinh, do những điều kiện nào mà phát sinh và tại sao tâm hành đó có thể chuyển hóa được? Ta đã làm gì, nghe gì, quán chiếu gì, nhờ sư anh nói gì mà tâm hành đó tan rã? Ta phải thấy được như vậy để lần sau khi tâm hành đó phát sinh trở lại, ta sử dụng đúng phương pháp thì nó sẽ tan biến. 

Hoặc vị ấy quán niệm: “Có tâm thức đây”, đủ để quán chiếu và ý thức được sự có mặt của tâm thức đó.

Ta nhận diện đơn thuần, gọi đúng tên mà không lên án, ghét bỏ hay tham đắm. Đôi khi, ta bị kẹt không chỉ với những cảm thọ dễ chịu mà còn với cả những cảm thọ khó chịu. Ví dụ ta đang giận, và có người nói: “Anh giận như vậy là trật rồi! Người mà anh giận chưa bao giờ làm như vậy hết.” Ta biết rõ rằng người đó chưa bao giờ làm như vậy và ta vừa mới lên án người đó một cách không công bằng. Sự thật đã rất rõ ràng, nhưng vì đang giận “ngon trớn” mà bây giờ hết giận ngay thì khó quá, cho nên ta kẹt vào cái giận của mình. Vô minh trong ta rất lớn. Cái buồn của ta cũng vậy. Khi nghe một bài thơ hay một bài hát đứt ruột, ta biết rằng ruột ta đang đứt từng khúc, ấy vậy mà không chịu tắt, vì ta bị kẹt vào, bị nó nắm lấy. Thú đau thương mà! Chúng ta không những bị kẹt vào lạc thọ mà còn bị kẹt vào khổ thọ nữa. 

Những tâm hành phát sinh, tồn tại rồi tan biến thường sẽ trải qua một quá trình mà ta phải tôn trọng. Ta lỡ giận rồi, dù người kia đã chứng tỏ là ta giận không đúng một trăm phần trăm, nhưng ta vẫn chưa thể cười được. Người kia “lêu lêu” ta: “Cười đi! Giận như vậy là u mê quá.” Nhưng cái giận đã đi lên rồi, bỗng nhiên bảo hết giận ngay thì làm sao được! Ta cần thêm một ít thời gian để hết giận. Như cái quạt máy, khi tắt điện đi, cánh quạt vẫn tiếp tục quay nhiều vòng nữa mới ngừng. Cái giận, cái sầu của ta cũng vậy, chỉ có một điều an ủi ta là “nguồn thực phẩm”đã được cắt rồi thì thế nào nó cũng sẽ ngừng lại. Do đó khi có những sầu đau, buồn giận mà ta đã nhận thức được nguồn cơn rồi, nếu nó còn tiếp tục một chút nữa cũng không sao. Những tàn dư sót lại, trong một vài giờ đồng hồ hay vài ngày sẽ tiêu tan hết, với điều kiện là “nguồn thực phẩm”  của nó đã bị cắt đứt và phải cắt tận gốc.

Nhận diện đơn thuần: “Có tâm thức đây”, đủ để quán chiếu và ý thức được sự có mặt của tâm thức đó, và như vậy, vị ấy sống một cách tự do, không bị bất cứ một thứ gì trong cuộc đời làm vướng bận. Vị khất sĩ quán niệm tâm thức nơi tâm thức là như thế đó, thưa quý vị. 

Khi đọc kinh Quán niệm hơi thở, chúng ta nhớ rằng Bụt đã dạy sự thực hành bốn bài tập này. Lấy ánh sáng của lời dạy này mà soi vào đoạn kinh kia thì chúng ta thấy rất rõ cần phải làm gì.

IV. QUÁN NIỆM ĐỐI TƯỢNG TÂM THỨC NƠI ĐỐI TƯỢNG TÂM THỨC

Đối tượng tâm thức được gọi là pháp. Đứng về phương diện nhận thức, chúng ta có mắt và đối tượng của mắt là sắc. Khi sắc (trần) chạm vào mắt (căn) thì sinh ra cái thấy (thức), gọi là nhãn thức. Đối tượng của tai là thanh, của mũi là hương, của lưỡi là vị, của thân là xúc và của ý là pháp. Sáu thức gồm cái thấy, cái nghe, cái ngửi, cái nếm, cái xúc chạm và cái biết. 

Năm thức đầu có thể hoạt động riêng biệt nhưng cũng có thể hoạt động chung với ý thức. Nếu để hết tâm ý vào khi nhìn, gọi là nhãn thức hợp tác với ý thức. Có khi ta nhìn, dù thấy được nhưng ta không để hết ý vào. Đó là cái thấy độc lập, cái nhìn độc lập, nhãn thức độc lập. Ví dụ lúc đang đi xe đạp, đầu ta nghĩ tới bài toán mà một lát nữa phải viết lên bảng cho thầy xem. Lúc đó, tất cả ý thức của ta lo làm toán. Sở dĩ ta không tông vào người khác hay cán lên những luống hoa là nhờ nhãn thức. Nhãn thức làm việc độc lập trong khi ý thức cũng làm việc độc lập. Khi ý thức làm việc một mình, không cộng tác với năm thức khác thì gọi là độc đầu ý thức

Khi ta đang nằm mơ, năm giác quan nghỉ làm việc, chỉ còn ý thức làm việc. Tuy trong mơ có thấy, có nghe, có ngửi nhưng không phải là thấy, nghe, ngửi bằng năm thức cảm giác mà ý thức đang lấy tư liệu từ tàng thức để tạo ra một thế giới khác. Hoặc khi ngồi thiền, làm toán, viết văn thì ta cho năm thức kia hoàn toàn nghỉ ngơi và ta làm việc với ý thức riêng biệt, gọi là ý thức độc đầu. 

Khi ý thức làm việc chung với một trong năm thức, gọi là ý thức ngũ câu. Ngũ là năm, câu là chung với nhau, together (Mind is working with the other facts)

Đối tượng của ý thức là pháp. Một tư tưởng của ta là một pháp và những gì ta thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm đều có thể đi vào trong phạm vi pháp, đều trở thành pháp. Sắc là một pháp, thanh, hương, vị, xúc cũng là pháp. Tư liệu của pháp được lấy từ sắc, thanh, hương, vị, xúc và từ những tư liệu khác trong tàng thức của ta. Trong giấc mơ, ta lấy những tư liệu có sẵn trong tàng thức. Lúc tỉnh, ta lấy tư liệu qua những cửa ngõ của năm thức cảm giác. Trong đời sống hằng ngày, ta lấy tư liệu từ bên trong lẫn bên ngoài. Ví dụ lúc đang đi ngoài đường, ta gặp một người, và ngờ ngợ người này ta đã từng gặp ở đâu, tên là gì,… Lúc đó, hình ảnh của người ấy ở ngoài đi vào và ta đang lục soạn hồ sơ trong tiềm thức xem hình ảnh của người này cách đây mười năm ta chứa bên trong như thế nào, ta đưa hai cái ra so sánh. Trong bất cứ tri giác, nhận thức nào cũng có sự lắp ghép giữa cái bên trong và bên ngoài. Sở dĩ nhìn một con mèo mà biết “đó là con mèo” là vì có một con mèo từ ngoài đi vào và có một con mèo từ bên trong đi ra, ta so sánh và biết “đó là con mèo”, ta biết gọi tên nó là “con mèo”. Những tư liệu sẵn trong tàng thức, giúp ta nhận diện, đồng nhất được tín hiệu từ ngoài đi vào.

Phạm vi của ý thức rất rộng. Tất cả các pháp do mắt, tai, mũi, lưỡi, thân đưa vào, hay do những tư liệu chất chứa sẵn trong tàng thức đưa lên đều nằm trong phạm vi của pháp, đều là đối tượng của ý thức. Vì vậy, khi chúng ta phân biệt bốn lĩnh vực quán niệm gồm thân, thọ, tâm, pháp, ta thấy như có bốn lĩnh vực riêng biệt, nhưng sự thật, thân cũng là pháp. Khi quán thân trong thân thì thân là đối tượng của ý thức, do đó, thân cũng là pháp. Khi quán niệm thọ trong thọ thì thọ là đối tượng của ý thức, nên thọ cũng là pháp. Khi quán niệm tâm hành trong tâm hành, ta quán chiếu nỗi buồn, cơn giận, sự tham đắm thì nỗi buồn, cơn giận, sự tham đắm đó cũng là đối tượng của ý thức, cho nên tâm hành cũng là pháp. Chia ra bốn lĩnh vực để thuận tiện trong việc học hỏi mà thôi, kỳ thực, pháp là đối tượng của tâm, thân, thọ và tâm cũng là đối tượng của tâm. 

Hôm trước có một thầy hỏi, pháp mới là đối tượng của tâm, chứ tại sao tâm cũng là đối tượng của tâm? Thầy trả lời: Ví dụ ta đưa hai ngón tay lên xoa vào nhau, việc này là thân xúc thân. Tâm cũng vậy, khi ta quán chiếu về thân thì thân là đối tượng của tâm. Khi ta quán chiếu tâm hành thì tâm hành cũng trở thành đối tượng của tâm – tâm quán tâm. Cho nên, đối tượng của tâm có phạm vi rất lớn. Tất cả những gì thuộc đối tượng của tâm đều gọi là pháp. Chữ pháp này không có nghĩa là giáo pháp của Bụt dạy mà là hiện tượng, tiếng Pháp là les choses, les phénomènes, tiếng Anh là phenomena. Những hiện tượng đó có thể là hiện tượng sinh lý, tâm lý, vật lý, tất cả đều là pháp, đều là đối tượng của ý thức. 

Quán pháp trong pháp là quán niệm đối tượng của tâm. Đối tượng của tâm rộng lớn vô cùng. Do đó, đây là phạm vi của tưởng, tức là tri giác. Chúng ta có tri giác về chiếc lá, tiếng chuông, sư em, sư anh, về cơn giận, nỗi buồn,… Tất cả những tri giác đó đều có thể sai lầm. Quán chiếu để vượt thoát những sai lầm đó là sự thực tập quán pháp trong pháp. 

Này các vị khất sĩ! Vị khất sĩ an trú trong phép quán niệm đối tượng tâm thức nơi đối tượng tâm thức như thế nào?

Trước hết vị ấy quán niệm đối tượng tâm thức nơi đối tượng tâm thức về năm hiện tượng ngăn che. Nhưng quán niệm bằng cách nào?

Ở đây chúng ta dùng chữ đối tượng tâm thức thay vì dùng chữ pháp. Năm hiện tượng ngăn che gọi là ngũ cái, 五蓋, chữ Phạn là nivāraa. Cái tức là ngăn lại, che lại. Ngũ cái gồm ái dục, sân hận, thùy miên, trạo hối và nghi ngờ. Đây là năm chướng ngại của người tu thiền. Nếu chưa phá được năm chướng ngại này thì quán chiếu chưa sâu sắc, chưa  thành công. 

Thứ nhất là trong ta có sự vướng mắc, tham dục. Ta bị cuốn theo tham dục, vướng mắc vào ái dục và ngày đêm bị chúng nắm đầu, chỉ huy. Phải thực tập nhìn sâu vào đối tượng của tham dục. Cái gì đã khiến ta tơ tưởng cả ngày lẫn đêm và nắm đầu kéo ta đi? Chúng ta ngồi cũng không thành công, đi cũng không thành công, thở cũng không thành công là vì bị ái dục chiếm cứ. Ta thấy đó là một trở ngại cho sự tu hành. Người ta đã đi qua bao nhiêu chặng đường rồi mà ta còn lẹt đẹt đứng ở đây là vì chướng ngại của ái dục. Chưa đoạn trừ được ái dục thì thiền tập không thành công. Vì vậy phải quán chiếu vào pháp – đối tượng của ái dục. Quán chiếu để thấy trong đối tượng của ái dục những nguy hại, hiểm nạn, độc tố làm cho ta tán thất sơ tâm, hư hoại hạnh phúc và mất hết an lạc, để từ từ nhả chúng ra, tách rời chúng khỏi đối tượng ái dục. 

Khi có ái dục, vị khất sĩ ý thức rằng mình có ái dục. Khi không có ái dục, vị khất sĩ ý thức rằng mình không có ái dục.

Người có ái dục thì khổ đau và lãnh đủ vì ái dục. Khi không có ái dục thì ta biết rằng sự không có ái dục mầu nhiệm vô cùng, thật nhẹ nhàng, thanh thoát, khỏe khoắn. Thành ra, những khổ đau và kinh nghiệm ái dục đã đi qua là yếu tố rất có ích lợi. Chỉ cần nghĩ tới giai đoạn ta thất điên bát đảo vì nó thì tự nhiên ta biết thưởng thức, biết được giá trị của vô dục. Hạnh phúc nằm ở chỗ vô dục, không có sự ham muốn, không có ái dục. Quán chiếu trong tự thân và quán chiếu những người xung quanh, ta thấy ở những người đang bị ái dục điều khiển, niềm vui chưa thấy đâu mà khổ nạn thì quá nhiều. 

Khi một niệm ái dục chưa sinh khởi nay bắt đầu sinh khởi, vị ấy ý thức được sự sinh khởi ấy.

“Chào ái dục, ngươi mới phát sinh, tại sao vậy? Ta có công việc phải làm rồi đây! Sẽ nguy lắm nếu ta không biết cách xử lý ngươi.” 

Khi một niệm ái dục đã sinh đang được khử diệt, vị ấy ý thức được sự khử diệt ấy.

Tại sao niệm ái dục tàn hoại được? Nhờ những quán chiếu nào, nhờ những thiện tri thức nào, nhờ những đoạn kinh nào, nhờ cái thấy nào, ta phải nắm rõ được những phương tiện đó. Mỗi khi niệm ái dục đi lên thì ta sẽ sử dụng những phương tiện đó để ái dục kia không trấn ngự được ta nữa. 

Khi một niệm ái dục đã được khử diệt và không còn tái sinh nữa, vị ấy cũng ý thức được về điều đó. 

Có những người đã từng đau khổ và có kinh nghiệm trực tiếp với ái dục, người ấy không bị hấp dẫn bởi ái dục nữa mà cảm thấy lạnh như tro tàn. Người ấy biết rằng ái dục sẽ không tái sinh nữa. Nếu từng ăn chay lâu ngày thì quý vị biết, có những thức ăn mặn ngày xưa ta tưởng là ngon lắm, và nếu không được ăn thì chắc đời sống không có ý nghĩa. Vậy mà sau một thời gian ăn chay, nhìn người ta ăn những món kia, ta thấy sao mà tội nghiệp quá! Không biết tại sao trong quá khứ ta có thể đưa thức ăn đó vào miệng được. Ta biết rằng ta không thể đưa thức ăn đó vào miệng và sẽ không bao giờ ăn được những thực phẩm như vậy nữa. Đó là một loại ái dục mà ngày xưa không hiểu tại sao ta lao đầu vào và bây giờ, khi đã thấy được bản chất của nó, ta biết rằng không bao giờ ta trở lại chỗ đó nữa. 

Vị ấy cũng thực tập như vậy đối với sân hận, mê muội, buồn ngủ, dao động, bất an, hối hận và nghi ngờ.

Người mang thù hận thì tu thiền không thành công được. Vì vậy, phải dồn hết tất cả tâm lực của ta vào chuyện lấy sân hận ra ngoài mới có thể tu được. Có những người sân hận quá mạnh, chịu không nổi phải hộc máu ra. Dễ sợ như vậy đó! Sân hận ở trong tâm nhưng cũng ở trong thân, nó làm ta ngụp lặn trong địa ngục hận thù. Thực tập từ bi quán một cách sâu sắc về những khổ đau của người kia và sự ngu si của mình có thể giúp ta lấy sân hận ra khỏi tâm. Có như vậy ta mới tu được. Nếu còn mang nỗi hận thù, ta không thể nào tiến bộ, vì ngồi thiền không được mà đi thiền cũng không xong, thực tập hơi thở có chánh niệm hay ăn cơm yên lặng cũng không thành công.

Tiếp đến là sự hôn trầm (buồn ngủ). Có những người luôn buồn ngủ nhưng không phải do thiếu ngủ. Đối với một số người, buồn ngủ đã trở thành một thói quen, một sự phản kháng vì trong quá khứ họ ép xác quá sức. Có nhiều người mới ngồi xuống bồ đoàn là lập tức ngủ gục. Có phải đêm qua người đó không ngủ đâu, vẫn ngủ sớm đàng hoàng, ấy vậy mà ngồi xuống là gục, giống như cơ thể tìm cách biểu tình vì ngày trước người đó đã ép xác hơi nhiều. Những người này cần phải trải qua nhiều tháng ngày để có thể học tập và làm mới trở lại. Do đó, trong sự hôn trầm, ta phải tìm ra nguyên do thuộc về phạm vi cơ thể, phạm vi tâm lý hay thói quen. 

Nếu vừa nhắm mắt lại liền bị hôn trầm thì không nên nhắm mắt. Phải mở mắt ra. Phải có phương pháp để buổi thiền tập thực sự có phẩm chất. Ta phải chuẩn bị chương trình riêng cho buổi ngồi thiền, phải biết mình nên thực tập điều gì. Sau khi điều thân và điều tâm, làm an tịnh tâm hành, có hỷ, có lạc rồi ta phải quán chiếu về những điều ta thấy cần thiết nhất. Ta có những khúc mắc gì trong lòng cần phải giải quyết? Phải sử dụng buổi ngồi thiền để quán chiếu chứ không nên ngồi thiền hình thức. Ngoài ra, ta phải chú ý chuyện ăn uống như thế nào để thân thể đừng nặng nề. Ta cũng phải lo chuyện ngủ nghỉ thế nào cho đủ. 

Trong thiền viện có rất nhiều phương pháp được áp dụng để chống lại sự buồn ngủ. Có khi vị giám thiền dùng một cây hương bản, thấy một thiền giả buồn ngủ thì đến đứng trước người đó, giơ hương bản lên, người buồn ngủ chắp tay, cúi đầu, vị giám niệm đặt hương bản vào bả vai người đó và nghiêng mình đánh “chát” một cái. Nhận một hương bản như vậy thì người đó sẽ “tỉnh như sáo” và tất cả đại chúng trong thiền đường cũng tỉnh theo. Khi ta đang thực tập quán chiếu mà có một tiếng hương bản thì cũng mất trớn! Nhưng đôi khi cũng hay. 

Việc thực tập thiền hành chậm hay thiền hành nhanh trong thiền đường cũng là để đối trị với cơn buồn ngủ, vì khi đi, chúng ta vẫn có thể có chánh niệm một trăm phần trăm như khi ngồi. Làm sao để không khí trong thiền đường đừng quá nóng hay quá lạnh, cũng đừng ẩm ướt. Hoặc chúng ta dùng tiếng chuông. Trong sự hành trì truyền thống, mỗi khi có sự hôn trầm, ta đưa sự chú ý lên đầu chóp mũi, cột tâm ta ở chóp mũi và theo dõi hơi thở. Có biết bao nhiêu phương pháp được sử dụng để đối trị với cơn buồn ngủ. 

Ở Làng Mai có một vấn đề cần được pháp đàm. Vào mùa hè, mọi người về Làng gặp nhau nên trò chuyện và thức khuya, vì thế ngủ không đủ giấc và sáng hôm sau không ngồi thiền được, hoặc buồn ngủ trong lúc ngồi thiền. Đi ngủ đúng giờ rất quan trọng. Phải ngủ cho đủ và khi biết là ngủ đủ rồi thì không cho phép ta ngủ nữa. Trong giờ ngồi thiền, ta có việc phải làm, đó là công phu. Tụng kinh thì không ngủ gục nhưng ngồi thiền thì dễ ngủ gục, vì vậy có nhiều người chỉ ưa tụng kinh chứ không ưa ngồi thiền. Trong kinh nói rằng khi thức dậy, đừng ôm cái thây chết của ta mà ngồi. Vì nếu như vậy thì đâu có lợi gì cho ta hay cho đạo pháp, cho tăng thân. Trong buổi pháp đàm, chúng ta có thể đem đề tài hôn trầm ra để chia sẻ và học hỏi từ người khác. Khi có hôn trầm thì phải làm như thế nào? 

Tiếp đến là trạo hối. Trạo là động. Ta ngồi nhưng không yên, bất an, lăng xăng, đầu óc như có một tổ ong với cả đàn ong bay lên, không chịu lắng xuống. Ta có khuynh hướng muốn đứng dậy, muốn múa máy, muốn làm cái này hoặc cái kia. Những lúc như vậy các thầy dạy ta phải đưa tâm ý xuống huyệt đan điền và thở thì tâm sẽ êm dịu trở lại. Hối nghĩa là có những mặc cảm tội lỗi. Nếu không có phương pháp để chuyển hóa mặc cảm tội lỗi đeo đẳng thì ta cũng không tu thiền được. Những lúc như vậy hối là một chướng ngại, một sự ngăn che. Ta phải lấy cho được mặc cảm tội lỗi ấy ra. Trong đời sống, thỉnh thoảng chúng ta có những cư xử vụng về, vô tâm, nhiều khi là bất thiện làm người khác khổ. Ta phải viết thư và thực tập hòa giải với người đó để không còn hối tiếc. Nếu người đó đã chết thì ta phải hòa giải với người đó ở trong ta, vì người đó luôn luôn còn trong ta. Ta phải làm mới, phải hứa với người đó là từ nay ta sẽ không đối xử với bất cứ người nào theo cách như thế nữa. Thực tập  như vậy một thời gian thì cái hối của ta sẽ tan đi. 

Cuối cùng là nghi. Khi có một sự nghi ngờ trong lòng thì ta cũng không tu thiền được. Phải giải quyết cái nghi bằng phương pháp quán chiếu, bằng cách tới hỏi thẳng hoặc viết thư cho người kia. Nhờ thầy, nhờ anh, chị, em soi sáng để ta có thể thoát ra khỏi mối nghi đó.

Trong tụng bản I bằng tiếng Pāḷi thì pháp trước hết là Năm yếu tố ngăn che (Ngũ cái), tiếp đó là Năm uẩn, Mười hai xứ, Thất giác chi và Tứ đế. Trong khi đó, trong tụng bản II, tức là tụng bản Niệm xứ (Trung A hàm) thì phần này chỉ có Năm sự ngăn che, Mười hai xứ và Thất giác chi. Còn trong tụng bản III, tức là kinh Nhất nhập đạo của Đại Chúng Bộ thì pháp chỉ nói tới Thất giác chi. 

Pháp ở đây là đối tượng của tâm, và đối tượng của tâm trước hết là đối tượng của tưởng (perception). Nhưng khi truyền kinh lại bằng miệng (khẩu truyền) thì các thầy cắt nghĩa về pháp rộng hơn nữa, chứ không chỉ là đối tượng của tâm, ví dụ như Thất giác chi, Tứ đế, Bát chánh đạo. Cố nhiên các pháp của đức Thế Tôn truyền dạy cũng là pháp nhưng nội dung của chữ quán pháp trong pháp là quán chiếu về đối tượng của tâm thức. Đối tượng của tâm thức trước hết là đối tượng của tưởng, tức là Năm uẩn và Mười hai xứ; còn Thất giác chi, Tứ đế, Bát chánh đạo là do các thầy nghĩ rằng pháp là giáo pháp của đức Thế Tôn nên đưa vào. Điều này không gây trở ngại, nhưng chúng ta nên nhớ rằng pháp ở đây trước hết là thực tại – đối tượng của tâm – chứ không có nghĩa là giáo pháp. Theo nhận thức chúng ta đưa ra từ đầu, uẩnxứ đích thực là đối tượng của sự quán chiếu, là pháp. Năm sự ngăn che cũng nằm trong phạm vi của uẩn và xứ. Bảy giác chi và Tứ đế là phương pháp tu học. Ta thấy rằng trung tâm của sự quán chiếu ở đây là Năm uẩn (đối tượng của tâm) và Mười hai xứ (sáu căn và sáu trần – đối tượng của tâm). 

Trong kinh tạng Pāḷi có hai tụng bản của kinh Bốn lĩnh vực quán niệm và tụng bản mà chúng ta đang học đây được lấy trong kinh Trung bộ. Trong kinh Trường bộ có một tụng bản khác, giống hệt như vậy nhưng phát triển nhiều hơn, nhất là phần Tứ đế giải thích rất dài. Chúng ta thấy được khuynh hướng giảng giải, đưa thêm vào những lời sau này trong ý niệm làm cho đầy đủ hơn. Theo cái thấy của thầy, ban đầu, đối tượng để quán niệm pháp trong pháp ở phần này chỉ có Năm uẩn và Mười hai xứ. Nhưng sau này các thầy đã đưa thêm Ngũ cái, Thất giác chi và Tứ đế vào. Thêm vào như vậy không có hại gì, chỉ là nhiều quá. Ở tụng bản kinh Bốn lĩnh vực quán niệm trong Trường bộ, Tứ đế còn được phát triển ra rất rộng, dài bằng mười lần phần Tứ đế trong tụng bản của Trung bộ

Chúng ta gọi kinh Niệm xứ trong Trung bộ của phái Xích Đồng Diệp Bộ là tụng bản I. Ta gọi kinh Niệm xứ trong Trung A hàm của Hữu Bộ là tụng bản II. Tụng bản II chỉ nói tới Ngũ cái, Mười hai xứ và Thất giác chi, không nói tới Năm uẩn và Tứ đế. Tụng bản III là kinh Nhất nhập đạo thuộc Tăng nhất A hàm của Đại Chúng Bộ, chỉ nói tới Ngũ cái trong phần trước của kinh mà không nói trong phần quán pháp trong pháp, cũng không nói tới Năm uẩn và Mười hai xứ, chỉ nói tới Thất giác chi.

IIIIII
Năm ngăn chexx
Năm uẩnx
Mười hai xứxx
Thất giác chixxx
Tứ đếx

Trong tụng bản I, ban đầu chúng ta được thấy quán pháp trong pháp dưới hình thức Năm sự ngăn che, tiếp đến là quán chiếu về Năm uẩn. Chúng ta học tiếp đoạn nói về Năm uẩn trong tụng bản I này:

Tiếp đó, vị khất sĩ quán niệm về năm nhóm tụ hợp còn nằm dưới ảnh hưởng của sự bám víu, như đối tượng tâm thức nơi đối tượng tâm thức. Quán niệm bằng cách nào?

Vị khất sĩ quán chiếu như sau: Ðây là hình thể vật chất; đây là sự phát sinh của hình thể vật chất, và đây là sự hủy diệt của hình thể vật chất.

Hình thể vật chất ở đây chính là sắc. Đây là sắc, đây là sự phát sinh của sắc, đây là sự hủy diệt của sắc.

Ðây là cảm thọ; đây là sự phát sinh của cảm thọ, và đây là sự hủy diệt của cảm thọ.

Ðây là tri giác; đây là sự phát sinh của tri giác, và đây là sự hủy diệt của tri giác.

Ðây là tâm tư; đây là sự phát sinh của tâm tư, và đây là sự hủy diệt của tâm tư.

Ðây là nhận thức; đây là sự phát sinh của nhận thức, và đây là sự hủy diệt của nhận thức.

Liệt kê như vậy để thấy được nội dung của Năm uẩn chứ không có tư tưởng gì đặc biệt.

Tiếp đến, vị khất sĩ quán niệm về sáu giác quan và sáu loại đối tượng, như đối tượng tâm thức nơi đối tượng tâm thức.

Quán niệm như thế nào?

Vị khất sĩ ý thức về mắt và đối tượng của mắt là hình sắc và về những nội kết tạo nên do mắt và hình sắc. Vị ấy ý thức về những nội kết chưa sinh nay đang phát sinh. Vị ấy ý thức về những nội kết đã phát sinh nay đang được khử diệt. Vị ấy ý thức về những nội kết đã được khử diệt và không còn tái sinh nữa.

Vị ấy cũng quán chiếu như thế về tai và âm thanh, về mũi và mùi hương, về lưỡi và vị nếm, về thân và xúc chạm, về ý và pháp trần.

Tiếp đến là Mười hai xứ, tức sáu căn và sáu trần. Đây là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Đây là sự phát sinh của mắt, của tai, của mũi, lưỡi, thân, ý. Đây là sự hủy diệt của mắt, của tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Chỉ là nhận diện và gọi tên, thấy được sự phát sinh và hoại diệt của Mười hai xứ chứ cũng không có tư tưởng gì đặc biệt. 

Tiếp đó, vị khất sĩ quán niệm về bảy yếu tố của sự ngộ đạo như đối tượng tâm thức nơi đối tượng tâm thức.

Quán niệm như thế nào?

Khi có yếu tố chánh niệm, vị khất sĩ ý thức là mình có chánh niệm. Vị ấy quán chiếu rằng: Tâm mình có chánh niệm. Khi không có chánh niệm, vị ấy ý thức là mình không có chánh niệm. Vị ấy có ý thức về chánh niệm chưa phát sinh nay đang phát sinh, về chánh niệm đã phát sinh nay đang thành tựu viên mãn.

Vị ấy cũng quán niệm như thế về các yếu tố quán chiếu, tinh chuyên, an vui, nhẹ nhõm, định và buông thả.

Vị ấy quán chiếu rằng tâm mình có chánh niệm, là lúc mình có chánh niệm. Khi không có chánh niệm vị ấy ý thức là mình không có chánh niệm, ý thức mình không có chánh niệm tức là mình có chánh niệm rồi! Câu này rất thú vị!

Điều này cũng áp dụng cho các yếu tố khác của Thất giác chi là trạch pháp, an vui, nhẹ nhõm, định và xả. 

Tiếp đó, vị khất sĩ quán niệm về bốn sự thật cao quý như đối tượng tâm thức nơi đối tượng tâm thức.

(Quán pháp nơi pháp về Tứ đế: khổ, tập, diệt, đạo.)

Quán niệm như thế nào?

Khi sự kiện là khổ đau, vị khất sĩ quán niệm: “Ðây là khổ đau.”

Khi sự kiện là nguyên nhân tạo thành khổ đau, vị khất sĩ quán niệm: “Ðây là nguyên nhân tạo thành khổ đau.”

Khi sự kiện là khổ đau có thể được chấm dứt, vị ấy quán chiếu: “Khổ đau có thể được chấm dứt.”

Khi sự kiện là có con đường dẫn đến sự chấm dứt khổ đau, vị ấy quán niệm: “Có con đường dẫn đến sự chấm dứt khổ đau.”  

Câu kết của quán pháp trong pháp cũng giống hệt như câu kết của phần quán thân trong thân, quán thọ trong thọ, quán tâm trong tâm.

Cứ như thế, vị khất sĩ an trú trong sự quán niệm về thân thể, cảm thọ, tâm thức và đối tượng tâm thức; hoặc quán niệm bên trong, hoặc quán niệm bên ngoài, hoặc quán niệm cả bên trong lẫn bên ngoài các lĩnh vực ấy. Vị ấy an trú trong sự quán niệm quá trình sinh khởi nơi lĩnh vực ấy, hoặc quá trình hủy diệt nơi lĩnh vực ấy, hoặc quán niệm cả quá trình sinh khởi lẫn quá trình hủy diệt nơi lĩnh vực ấy. Hoặc vị ấy quán niệm: “Có lĩnh vực ấy đây”, đủ để quán chiếu và ý thức được sự có mặt của lĩnh vực ấy nơi lĩnh vực ấy, và như vậy, vị ấy an trú một cách tự do, không bị bất cứ một thứ gì trong cuộc đời làm vướng bận. Quán niệm về bốn lĩnh vực nơi bốn lĩnh vực là như thế đó, thưa quý vị.

Đoạn này là chung cho cả bốn lĩnh vực mà không phải chỉ riêng cho lĩnh vực quán pháp trong pháp. Văn bản mà chúng ta có trong sách Nhật tụng Thiền môn Năm 2000 là một văn bản đã được rút gọn để đừng bị dài quá, nhưng tất cả những ý tưởng, tư tưởng, những câu kinh cần thiết nhất đều có đầy đủ. Chúng ta chỉ giản lược những sự lặp lại. 

Bây giờ chúng ta sử dụng ánh sáng của kinh Quán niệm hơi thở để soi vào đoạn này. Chúng ta thấy rất rõ, trong kinh Quán niệm hơi thở, phần quán pháp trong pháp:

Bài tập thứ 13: Tôi đang thở vào và thấy được (quán chiếu) tính vô thường của vạn pháp. Tôi đang thở ra và thấy được (quán chiếu) tính vô thường của vạn pháp.

Bài tập thứ 14: Tôi đang thở vào và quán chiếu tính vô dục của vạn pháp. Tôi đang thở ra và quán chiếu tính vô dục của vạn pháp. 

Vô dục tức là tính không đáng tham cầu và vướng mắc. Ta có một nhận thức sai lầm về dục nên mới chạy theo nó. Một khi đã thấy được bản chất đích thực của dục rồi thì ta không còn chạy theo nó nữa.

Bài tập thứ 15: Tôi đang thở vào và quán chiếu về bản chất tịch diệt của vạn pháp. Tôi đang thở ra và quán chiếu về bản chất tịch diệt của vạn pháp. 

Tịch diệt tức là bản chất không sinh không diệt, không tới không đi, không một không nhiều, không thêm không bớt. Đó là bản chất của thực tại.

 Bài tập thứ 16: Tôi đang thở vào và buông bỏ những ý niệm mà tôi đã có về thực tại. Tôi đang thở ra và buông bỏ những ý niệm mà tôi đã có về thực tại. 

Buông bỏ, tiếng Hán Việt là xả ly (letting go, release), thầy Tăng Hội gọi là phóng khí.

Chính nhờ bốn bài tập cuối trong kinh Quán niệm hơi thở mà chúng ta thấy được và hiểu được phần quán pháp trong pháp. Mục đích của quán pháp trong pháp là để thấy được bản chất của thực tại (The purpose is to understand the nature of reality). Vì chúng ta có những vọng tưởng (wrong perceptions) về bản chất đích thực của thực tại cho nên trong nhận thức của ta, ta không thấy được tính vô thường, vô dục, niết bàn và tính đáng buông bỏ của vạn pháp. Chữ tưởng ở đây rất quan trọng. Vì những vọng tưởng mà ta bị kẹt lại, vướng mắc vào thực tại nên ta đau khổ. Thấy được chân tướng của thực tại để buông bỏ là mục đích của sự quán chiếu pháp trong pháp. 

Niết bàn ở đây có nghĩa là chân tướng của thực tại (the true nature of reality, reality as it truly is). Niết bàn là thực tại tối hậu vượt thoát những ý niệm sinh diệt, có không, còn mất, tới đi. Đó là thực tại bất sinh bất diệt. Ta không đạt tới được niết bàn là bởi vì ta có vọng tưởng. Khi buông bỏ những vọng tưởng, ta có thể đạt tới thực chất của niết bàn, tức là chân tướng của thực tại. Buông bỏ những vọng tưởng ở đây là vọng tưởng về có sinh, có diệt, có cái ta độc lập với tất cả những hiện tượng khác gọi là không ta. 

Mục đích của bốn bài tập này cũng như mục đích của sự quán pháp trong pháp là nhổ tận gốc những phiền não làm ta đau khổ: tham, sân, si, mạn, nghi, kiến. Phương pháp nhổ tận gốc là quán chiếu để trừ vọng tưởng, để thấy được tính vô thường, vô dục và niết bàn. 

Ví dụ khi nhìn vào tấm gỗ, ta có một cái tưởng về tấm gỗ. Tấm gỗ tự nó là nó. Ta chỉ có một ý niệm (tri giác) về tấm gỗ chứ chưa biết bản chất của tấm gỗ. Tri giác về tấm gỗ với bản chất tấm gỗ có thể rất khác nhau. Cũng vậy, với một hạt bụi, ta có một ý niệm (idea), một tri giác (perception) về hạt bụi. Tri giác và ý niệm của ta có thể rất xa với bản chất hạt bụi. Tại vì trong tri giác, trong ý niệm có tính chất vọng tưởng. Khoảng cách giữa ý niệm, tri giác của ta và bản chất thật của hạt bụi rất lớn. Chỉ khi nào ta quán chiếu được thì khoảng cách đó mới thu ngắn lại cho đến lúc không còn khoảng cách nữa. Bấy giờ, khoảng cách giữa tri giác và thực tại không còn thì tri giác không còn là tri giác nữa, ý niệm không còn là ý niệm nữa, chỉ có tuệ giác mà thôi. Khi đã buông bỏ hết tất cả các tri giác, các ý niệm và tiếp xúc trực tiếp với thế giới của thực tại rồi thì tất cả các phiền não trong ta như vướng mắc, tham đắm, giận hờn, tuyệt vọng sẽ được nhổ tận gốc. Lúc đó, ta trở thành một con người tự do, ta trở nên rất hạnh phúc. 

Chẳng hạn với một hạt bụi, ta chỉ thấy hạt bụi là một hạt bụi rất nhỏ, nằm trên mặt bàn y như một hòn bi. Nhưng khi nghiên cứu hạt bụi, các nhà khoa học thấy hạt bụi không nằm yên như một hòn bi. Trong mắt các nhà khoa học, vật chất được tạo nên và chứa trong tự thân nó rất nhiều không gian. Nhìn miếng gỗ, ta thấy nó như một khối vững chắc, nhưng bên trong nó hầu hết là không gian. Gỗ cũng như hạt bụi, những nguyên tử bên trong đều có một hạt nhân và có những điện tử xoay xung quanh hạt nhân đó với tốc độ gần 300.000 km/giây. Ta đâu thấy được như vậy, ta tưởng những nguyên tử đó nằm im. Do đó ý niệm, tri giác, nhận thức của ta về hạt bụi thường rất sai lầm. Chỉ cần một lý thuyết của ngành  vật lý nguyên tử thôi cũng đủ để chứng minh rằng những ý niệm, tri giác của ta về thực tại chất chứa rất nhiều sai lầm. 

Hoặc như khi nhìn mặt trời đang lặn, ta có ý niệm rằng mặt trời ta nhìn là mặt trời của thực tại, nhưng ý niệm, ấn tượng ta có về mặt trời và bản chất của mặt trời là hai cái rất khác nhau. Nhìn mặt trời, ta thấy đó là một khối cầu lửa, nhưng khoa học cho chúng ta biết mặt trời có những đợt sóng lửa như ở đại dương. Ở đại dương, khi có bão tố, những đợt sóng lên cao tới mười, hai mươi thước, mà vì đứng xa nên ta không thấy được. Còn những đợt sóng lửa của mặt trời có khi lên cao tới hàng trăm cây số. Ý niệm của ta về mặt trời khác rất nhiều so với thực tại của mặt trời. Cái tưởng của ta về mặt trời là một vọng tưởng, ý niệm của ta về mặt trời là một vọng niệm. 

Sống đời sống hằng ngày với quá nhiều vọng tưởng, vọng niệm cho nên chúng ta khổ đau da diết vì những vọng tưởng, và vọng niệm đó. Phải quán chiếu pháp trong pháp để thấy được bản chất của các pháp. Khi đã thấy được bản chất đích thực của các pháp rồi thì vọng niệm, vọng tưởng sẽ tan rã, những phiền não trong tâm ta bị nhổ hết gốc rễ. Đức Thế Tôn có dạy, tất cả những khổ đau của ta đều do vô minh mà ra. Vô minh tức là không thấy được bản chất của thực tại. 

Có một điều ta phải biết là trong tụng bản III, tuy chỉ nói tới bảy giác chi như là đối tượng của sự quán niệm pháp trong pháp, nhưng ở đó ta thấy giữ lại được bản chất mà ta thấy trong kinh Quán niệm hơi thở. Do đó, sự nghiên cứu so sánh giữa các tụng bản rất quan trọng. 

“Vị khất sĩ tu tập quán pháp nơi pháp như thế nào? Vị khất sĩ khi tu tập yếu tố giác ngộ niệm thì nương vào phép quán, nương vào nguyên tắc vô dục, nương vào sự diệt tận và nương vào phương pháp buông bỏ các pháp.” 

Rõ ràng là tụng bản thứ III của Đại Chúng Bộ giữ được thông điệp của đức Thế Tôn. Khi tu tập các yếu tố khác của Thất giác chi như trạch pháp, tinh tấn, khinh an, hỷ, định và xả thì cũng sử dụng sự quán chiếu, nương theo nguyên tắc vô dục, diệt tận và buông bỏ. Cho nên chúng ta có một lý do rất mạnh nữa để thấy rõ ràng rằng quán pháp trong pháp có nghĩa là quán về bốn tính chất đó của thực tại, tức là thấy được tính vô thường, vô dục, niết bàn để có thể buông bỏ những tri giác và những ý niệm sai lầm. 

Trong đời sống hằng ngày, ta có một ý niệm về sư anh, sư chị, ý niệm đó có thể sai lầm. Ta có một tri giác về ta, tri giác đó cũng có thể sai lầm, ta không biết ta, ta không hiểu ta. Ta phải tập buông bỏ để có thể từ từ đến gần thực tại của ta, của sư anh, sư chị, của đóa hoa, mặt trời, tấm ván, hạt bụi. Ta quen sống trong thế giới của vô minh, của sự mê mờ, cho nên ta chắc chắn rằng những hình ảnh, âm thanh, ý tưởng mà ta thu vào sẽ phản chiếu thực tại. Ai dè, tất cả những hình ảnh, âm thanh, ý tưởng đó đều là những vọng niệm, vọng tưởng. Do đó, quán pháp trong pháp là để thấy được thực tại, để nhổ tận gốc vô minh, đồng thời nhổ tận gốc những đau khổ đã phát sinh từ vô minh. 

Chúng ta đã học kinh Quán niệm hơi thở trong Công phu ngày thứ Ba rồi, thành ra tới chỗ này ta chỉ cần ôn lại. Trước hết, đối với Năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức), Mười hai xứ (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) ta phải nhìn vào và phải thấy được tính vô thường của chúng. Thấy được tính vô thường thì bắt đầu thấy được tính vô ngã. Thấy được vô thường, vô ngã, ta thấy được tính duyên sinh, tức là duyên sinh nằm trong vô thường và vô ngã. Khi thấy được tính duyên sinh là thấy được đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn có nói rằng người nào thấy được tính duyên sinh là người đó thấy được Bụt. 

Nhìn vào một bông hoa mà thấy bông hoa được làm bằng mặt trời, đám mây, đại địa, không gian, thời gian,… thấy được tính duyên sinh của bông hoa tức là ta bắt đầu nhìn thấy được Bụt. Khi nhìn vào ta mà thấy ta được làm bằng thầy, bằng cha, mẹ, tổ tiên, bằng sư anh, sư chị, sư em, bằng rau, nước,… ta nhìn thấy ta trong ánh sáng của duyên sinh, tức là ta bắt đầu thấy được Bụt. Ta không thấy ta có một cái ngã, một cái thường. Duyên sinh nằm trong vô thường, nằm trong vô ngã. Và khi đã thấy duyên sinh thì thấy tương tức, thấy tính không, tức là không có một thực tại riêng biệt. Thấy được bản chất của thực tại thì ta thấy rõ ràng là những thực tại đó không giống như vọng tưởng của ta. Khi vọng tưởng tan rồi, ta không còn bị vướng mắc, không còn bị kẹt vào chúng nữa. 

Ta đang khát, nhìn thấy có một ly nước màu hồng rất tươi mát, ta liền muốn uống. Nhưng có người nói không được uống nước này, nước này nguy hiểm, uống vào không tốt, sẽ gây bệnh. Ta vẫn chưa thấy được lý do tại sao uống nước đó thì sẽ bệnh, sẽ không hết khát, sẽ quằn quại khổ đau. Còn người kia đã biết rõ trong nước có chất độc, biết rằng có người uống thứ nước đó vào đã quằn quại và đã chết. Người kia biết như vậy nên bảo ta đừng uống nhưng ta không thấy được như vậy. Là một hành giả, phải làm cách nào đó để cho người muốn uống thứ nước ấy thấy được rằng trong nước có thuốc độc, uống vào sẽ chết. Khi có cái thấy rõ ràng như vậy, thấy được bản chất đích thực của nó, ta mới buông bỏ được. Nếu không, ta sẽ chẳng hiểu được rằng tại sao ly nước ngon lành như vậy mà lại không được uống. 

Đối tượng của năm dục cũng như vậy. Ta chạy theo năm dục là vì chưa thấy kết quả chúng tạo ra khiến ta khổ đau, tai nạn, tàn hoại và chết. Thành ra cấm mình không được chạy theo thì không thành công, phải chỉ cho mình thấy được bản chất của ngũ dục thì mình mới tự ngưng lại được. 

Vô dục đi sau vô thường. Nếu thấy được vô thường, vô ngã, duyên sinh, tương tức và không thì tự nhiên ta thấy được tính vô dục. Thấy được tính vô dục thì ta có thể dừng lại, trở về thực tập hiện pháp lạc trú. Không còn chạy theo đối tượng của ngũ dục, đó là giải thoát. 

Niết bàn tức là thấy được các pháp không sinh không diệt, không có không không. Trước kia, khi chưa quán chiếu, ta nhìn vào thực tại với những ý niệm và tri giác của ta thì thấy rằng các pháp có sinh có diệt, có có có không và những ý niệm về sinh diệt, có không đó làm cho ta sợ hãi hoặc tham đắm. Sợ hãi và tham đắm khiến ta đau khổ. Các pháp chỉ biểu hiện hay ẩn tàng thôi mà ta cứ nghĩ rằng nó có, không, sinh, diệt. Vì bốn ý niệm, bốn tri giác, vọng tưởng đó trấn ngự nên ta mới sợ hãi, tham đắm và khổ đau. Khi soi chiếu ánh sáng chánh niệm vào các pháp, ta thấy rằng các pháp có tính bất sinh bất diệt, không có không không, vượt thoát ý niệm sinh diệt, có không, thấy tất cả các pháp đều an trú trong niết bàn. Tiếp xúc cho sâu sắc, ta thấy được tự tánh của các pháp. 

Có thể chúng ta hiểu niết bàn là sự xa lìa sinh tử, ta coi sinh tử và niết bàn là hai cái khác nhau, như vậy thì ta chưa hiểu niết bàn. Niết bàn tức là xa lìa sinh tử nhưng kỳ thực chỉ là xa lìa “ý niệm sinh tử”. Theo giáo lý của đức Thế Tôn, đặc biệt là trong truyền thống Đại thừa thì các pháp đều đã an trú trong niết bàn. Đóa mai kia và đám mây kia đều an trú trong niết bàn, tức là thực tính của hoa mai và đám mây là không sinh không diệt, không có không không mà ta tưởng là nó có sinh có diệt, có có có không (Everything has been in nirvāa for long time ago). Chúng ta thường nghe rằng niết bàn, sinh tử thị không hoa, tức là cả niết bàn và sinh tử chỉ là những hoa đốm trong hư không, chỉ là những ý niệm. Chúng ta nghĩ rằng niết bàn trái chống với sinh tử, sinh tử trái chống với niết bàn. Kỳ thực, nếu tiếp xúc với sinh tử cho thật sâu sắc thì ta khám phá ra rằng, sinh tử chính là niết bàn. Hoa mai mong manh như vậy, nhưng nó không sinh cũng không diệt, không có cũng không không. Kinh Pháp hoa có câu: 

Chư pháp tùng bản lai, 

Thường tự tịch diệt tướng.

Nghĩa là tất cả các pháp tự mình an trú trong niết bàn. Everything has been dwelling in Nirvāa. True nature of everything is Nirvāa already. Không cần nhập niết bàn. Niết bàn không phải là một cái gì trong không gian để ta có thể đi tới được, cũng không phải là cái gì trong thời gian mà ta phải chờ đợi. Nói rằng chúng ta đi tìm niết bàn và sẽ nhập niết bàn tức là chúng ta không biết sử dụng ngôn ngữ. Niết bàn đâu phải là cái gì trong không gian, thời gian để đi tìm và nhập vào. Chính mình đang an trú ở niết bàn, chính mình là những thực thể không sinh không diệt, không có không không. Niết bàn là sự vắng mặt của tất cả những ý niệm, như ý niệm có không, sinh diệt. 

Chúng ta đọc lại câu khai thị của Trúc Lâm Đại sĩ:

Nhất thiết pháp bất sinh

Nhất thiết pháp bất diệt

Nhược năng như thị giải

Chư Phật thường hiện tiền.

Bản chất của tất cả các pháp là không sinh, bản chất của tất cả các pháp là không diệt. Nếu có thể hiểu được như thế thì các đức Thế Tôn thường xuyên ngồi trước mặt ta. 

Ta nghe rằng người nào thấy được tính duyên sinh của vạn pháp thì người đó thấy được Thế Tôn. Đi sâu vào duyên sinh, ta thấy duyên sinh cũng là niết bàn. Duyên sinh tức là khi hội tụ đủ các điều kiện thì nó biểu hiện ra, còn nếu không hội đủ các điều kiện thì nó ẩn tàng đi. Thành ra, chỉ có vấn đề biểu hiện và ẩn tàng, không phải là vấn đề sinh hay diệt. Thấy được duyên sinh một cách sâu sắc thì thấy được niết bàn. Duyên sinh tức là niết bàn. Chữ “duy biểu” rất hay, có nghĩa là chỉ có sự biểu hiện và ẩn tàng chứ không có sinh không có diệt, không có có không có không. Trước khi nó biểu hiện mà ta nói nó là không thì cũng sai, sau khi nó biểu hiện mà ta nói nó là có thì cũng sai. Những ý niệm sinh diệt, có không là những vọng niệm, vọng tưởng. 

Niết bàn là bản chất của thực tại. Thực tập buông bỏ là buông bỏ những ý niệm. Buông bỏ ý niệm về tôi, ý niệm về giai đoạn sinh mạng sáu chục, bảy chục, tám chục năm là sinh mạng của tôi, trước đó tôi không có và sau đó tôi cũng sẽ không có, tôi chỉ có trong vòng mấy chục năm này thôi. Kinh Pháp hoa nói thọ mạng của đức Thế Tôn là vô lượng. Chúng ta quán chiếu sẽ thấy được thọ mạng của một chiếc lá cũng vô lượng, thọ mạng của ta cũng vô lượng. Ta là một pháp và bản chất của ta cũng không sinh không diệt, không có không không. Thấy được như vậy thì tất cả sợ hãi, lo lắng đều tiêu biến. Vì vậy, buông bỏ là phép thực tập tuyệt vời nhất trong đạo Bụt. Trong kinh Kim cương, Bụt dạy ta buông bỏ bốn tướng ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả; và những ý niệm dính vào ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả đó cũng đều phải buông bỏ hết. 

Như vậy, phép tu quán pháp trong pháp là phải khám phá cho được bản chất của thực tại. Bản chất đó là vô thường, vô dục và niết bàn. Khi đã khám phá ra được bản chất đó rồi, ta có thể buông bỏ tất cả những vọng tưởng. Buông bỏ được thì ta có tự do, không còn đau khổ nữa. Đó là điểm cao nhất của sự thực tập. Các thầy đưa thêm Thất giác chi, Bát chánh đạo, Tứ đế và Ngũ cái vào, điều đó không có hại gì cả, chỉ làm bản kinh dài hơn và che bớt điểm chính của kinh.

Đây là đoạn cuối:

Này quý vị khất sĩ! Vị khất sĩ nào thực hành bốn phép quán niệm như trên trong bảy năm, người ấy có thể có khả năng đạt được quả vị chánh trí ngay ở đây và trong kiếp này, hoặc nếu còn dư báo thì cũng đạt được quả vị không còn trở lại.

Này quý vị khất sĩ! Ðừng nói gì tới bảy năm. Kẻ nào thực hành bốn phép quán niệm này trong bảy tháng, hoặc sáu tháng, hoặc năm tháng, hoặc bốn tháng, ba tháng, hai tháng, một tháng hay nửa tháng, thì cũng có thể đạt được quả vị chánh trí ngay ở đây và trong kiếp này, hoặc nếu còn dư báo thì cũng đạt được quả vị không còn trở lại.

Bảy năm là một thời gian, nhưng đối với những người có căn cơ lớn thì có khi không cần bảy năm mà chỉ cần ba năm, hai năm hay bảy tháng. 

Chính vì lý do đó mà tôi đã nói rằng: “Đây là con đường duy nhất để có thể giúp chúng sanh thực hiện thanh tịnh, vượt thắng phiền não, tiêu diệt khổ ưu, đạt tới chánh đạo và chứng nhập niết bàn, con đường của bốn phép an trú trong chánh niệm.”

Đức Thế Tôn đã dạy như thế. Các vị khất sĩ hoan hỷ ghi nhận và làm theo lời Người.

Chúng ta đã có phước duyên được học kinh Quán niệm hơi thở và kinh Bốn lĩnh vực quán niệm, hai kinh thiền tập căn bản, hai kinh gối đầu giường của những người tu tập. Rất tiếc là trong nhiều thiền viện chúng ta không được học hai kinh này. Chúng ta phải làm thế nào để hai kinh này được phục hồi trong tất cả các chùa, cho tất cả mọi người đều có cơ hội học hỏi. Hai kinh này đi đôi với nhau, soi sáng cho nhau và có thể cho chúng ta thấy được các thầy, các sư cô trong thời đại của đức Thế Tôn đã thực tập như thế nào. Các thầy, các sư cô học thuộc lòng kinh Quán niệm hơi thở và kinh Bốn lĩnh vực quán niệm. Trong nhiều truyền thống như truyền thống Theravāda, cho đến ngày hôm nay, các thầy vẫn học thuộc lòng các kinh này.

Kinh Bốn lĩnh vực quán niệm

Kinh văn

Sau đây là những lời mà tôi đã được nghe đức Thế Tôn dạy, hồi Người còn đang cư trú ở Kammassadhamma, nơi một ấp phố của giống dân Kuru. Một hôm đức Thế Tôn gọi các vị khất sĩ: “Này quý thầy!”. Các vị khất sĩ đáp: “Thưa đức Thế Tôn, có chúng con đây.” Bụt nói: “Này quý vị, đây là con đường duy nhất để giúp chúng sanh thực hiện thanh tịnh, vượt thắng phiền não, tiêu diệt ưu khổ, đạt tới chánh đạo và chứng nhập Niết bàn: Đó là con đường của bốn phép an trú trong quán niệm.

Bốn phép an trú trong quán niệm ấy là những phép nào?

Này các vị khất sĩ! Vị khất sĩ an trú trong phép quán niệm thân thể nơi thân thể, cảm thọ nơi cảm thọ, tâm thức nơi tâm thức và đối tượng tâm thức nơi đối tượng tâm thức, tinh cần, sáng suốt và tỉnh thức, loại ra ngoài mọi tham dục và chán bỏ đối với cuộc đời.”

*

“Này các vị khất sĩ! Vị khất sĩ an trú trong phép quán niệm thân thể nơi thân thể như thế nào?

Vị khất sĩ ấy tìm tới một khu rừng, hoặc một gốc cây, hoặc một căn nhà vắng, ngồi xuống trong tư thế kiết già, giữ thân hình ngay thẳng và thiết lập chánh niệm trước mặt mình. Người ấy thở vào với ý thức minh mẫn là mình đang thở vào. Người ấy thở ra với ý thức minh mẫn là mình đang thở ra. Thở vào một hơi dài, người ấy ý thức rằng ta đang thở vào một hơi dài. Thở ra một hơi dài, người ấy ý thức rằng ta đang thở ra một hơi dài. Thở vào một hơi ngắn, người ấy ý thức rằng ta đang thở vào một hơi ngắn. Thở ra một hơi ngắn, người ấy ý thức rằng ta đang thở ra một hơi ngắn. Cũng như khi xoay một vòng dài, người thợ tiện khéo tay ý thức rằng mình đang xoay một vòng dài, và khi xoay một vòng ngắn, ý thức rằng mình đang xoay một vòng ngắn. Vị khất sĩ mỗi khi thở vào một hơi dài, ý thức rằng mình đang thở vào một hơi dài, mỗi khi thở ra một hơi dài, ý thức rằng mình đang thở ra một hơi dài, mỗi khi thở vào một hơi ngắn, ý thức rằng mình đang thở vào một hơi ngắn, mỗi khi thở ra một hơi ngắn, ý thức rằng mình đang thở ra một hơi ngắn.

Người ấy tự mình tập luyện như sau:

“Tôi đang thở vào và có ý thức rõ rệt về trọn thân thể tôi. Tôi đang thở ra và có ý thức rõ rệt về trọn thân thể tôi.

Tôi đang thở vào và làm cho sự vận hành trong thân thể tôi trở nên an tịnh. Tôi đang thở ra và làm cho sự vận hành trong thân thể tôi trở nên an tịnh.”

Khi đi, vị khất sĩ lại cũng ý thức rằng mình đang đi; khi đứng, ý thức rằng mình đang đứng; khi ngồi, ý thức rằng mình đang ngồi; khi nằm, ý thức rằng mình đang nằm. Bất cứ thân thể mình đang được sử dụng trong tư thế nào, vị ấy cũng ý thức được về tư thế ấy của thân thể.

Khi đi tới hoặc đi lui, vị khất sĩ cũng chiếu dụng ý thức sáng tỏ của mình về sự đi tới hay đi lui ấy; khi nhìn trước, nhìn sau, cúi xuống, duỗi lên, vị ấy cũng chiếu dụng ý thức sáng tỏ ấy; khi mặc áo ca sa, mang bình bát, vị ấy cũng chiếu dụng ý thức sáng tỏ ấy; khi ăn cơm, uống nước, nhai thức ăn, nếm thức ăn, vị ấy cũng chiếu dụng ý thức sáng tỏ ấy; khi đi đại tiện, tiểu tiện, vị ấy cũng chiếu dụng ý thức sáng tỏ ấy; khi đi, đứng, nằm, ngồi, ngủ, thức, nói năng, hoặc im lặng, vị ấy cũng chiếu dụng ý thức sáng tỏ ấy vào tự thân.

Vị khất sĩ lại quán niệm chính thân thể này, từ gót chân trở lên và từ đỉnh tóc trở xuống, bao bọc bởi một lớp da và chứa đầy nhiều loại bất tịnh: thuộc về thân thể ta, này đây là tóc, này đây là lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, hoành cách mạc, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, phân, mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mật, mỡ da, nước bọt, nước mủ, nước ở các khớp xương và nước tiểu. 

“Này các vị khất sĩ! Ví dụ có một cái bao tải đựng đủ các loại ngũ cốc, như gạo lức, gạo hẻo rằn, hạt lúa, đậu xanh, đậu ngự, mè, gạo trắng và hai đầu bao tải có thể mở ra. Một người có mắt tốt, khi mở bao ra, thấy rõ mọi loại hạt chứa đựng trong bao. Này đây là gạo lức, gạo hẻo rằn, này đây là hạt lúa, này đây là đậu xanh, này đây là đậu ngự, này đây là hạt mè, này đây là gạo trắng. Cũng như thế, khi quán sát về chính thân thể của mình, vị khất sĩ thấy được mọi thứ, từ gót chân đến đỉnh đầu, và từ đỉnh đầu xuống đến gót chân, bao bọc bởi một lớp da và chứa đầy nhiều loại bất tịnh: thuộc về thân thể ta, này đây là tóc, này đây là lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, hoành cách mạc, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, phân, mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mật, mỡ da, nước bọt, nước mủ, nước ở các khớp xương và nước tiểu.

Lại nữa, các vị khất sĩ! Trong bất cứ tư thế nào của thân thể này, vị khất sĩ cũng quán chiếu những yếu tố tạo nên chính thân thể ấy: “Trong thân thể này có yếu tố đất, có yếu tố nước, có yếu tố lửa và có yếu tố gió.”

Như một bác đồ tể rành nghề hoặc một đồ tể tập sự, giết một con bò và ngồi giữa ngã tư và xẻ con bò ra thành nhiều phần; vị khất sĩ cũng vậy, trong bất cứ tư thế nào của thân thể mình cũng quán chiếu những yếu tố tạo nên chính thân thể ấy: “Trong thân thể này có yếu tố đất, có yếu tố nước, có yếu tố lửa và có yếu tố gió.”

Lại ví như khi thấy một xác chết bị liệng vào bãi tha ma đã được một ngày, hai ngày hoặc ba ngày, sình lên, xanh lại, thối nát ra, vị khất sĩ quán chiếu sự thật ấy vào chính thân thể mình: “Chính thân thể ta đây cũng vậy, cũng sẽ trở thành như thế, không có lối nào tránh thoát.”

Rồi như thấy một xác chết liệng bỏ trong bãi tha ma, bị quạ rỉa, bị diều hâu, kên kên, chó sói rừng ăn và bị các loài dòi bọ rúc rỉa, vị khất sĩ quán chiếu sự thật ấy vào chính thân thể mình: “Chính thân thể ta đây cũng vậy, cũng sẽ trở thành như thế, không có lối nào tránh thoát.”

Rồi như thấy một xác chết liệng bỏ trong bãi tha ma, chỉ còn là một bộ xương dính ít thịt và máu, các khúc xương còn được nối liền nhau nhờ có những sợi gân…

Rồi như thấy một xác chết liệng bỏ trong bãi tha ma, chỉ còn là một bộ xương, không còn dính chút thịt nào nhưng vẫn còn vướng máu, các khúc xương còn được nối liền nhau nhờ có những sợi gân…

Rồi như thấy một xác chết liệng bỏ trong bãi tha ma, chỉ còn là một bộ xương, không còn dính chút thịt nào và cũng không còn vướng chút máu nào, các khúc xương còn được nối liền nhau nhờ có những sợi gân…

Rồi như thấy một xác chết liệng bỏ trong bãi tha ma, chỉ còn lại một đống xương rời rạc đó đây, chỗ này là xương tay, chỗ nọ là xương ống chân, chỗ kia là xương bắp vế, chỗ kia nữa là xương mông, xương sống và đầu lâu…

Rồi như thấy một xác chết liệng bỏ trong bãi tha ma, chỉ còn lại một mớ xương trắng màu vỏ ốc…

Rồi như thấy một xác chết liệng bỏ trong bãi tha ma, chỉ còn lại một đống xương khô, để hơn một năm trên bãi…

Rồi như thấy một xác chết liệng bỏ trong bãi tha ma, chỉ còn lại một mớ xương mục tan thành bụi…

Vị khất sĩ quán chiếu sự thật ấy vào chính thân thể mình: “Chính thân thể ta đây cũng vậy, cũng sẽ trở thành như thế, không có lối nào tránh thoát.”

*

Này các vị khất sĩ! Vị khất sĩ an trú trong phép quán niệm cảm thọ nơi cảm thọ như thế nào?

Mỗi khi có một cảm thọ khoái lạc, vị khất sĩ ấy ý thức rằng: “Ta đang có một cảm thọ khoái lạc.”

Vị ấy cũng thực tập như thế với các cảm thọ khổ đau, với các cảm thọ trung tính, với mọi cảm thọ về tinh thần và vật chất.

Cứ như thế, vị khất sĩ sống trong sự thường trực quán niệm cảm thọ nơi cảm thọ; hoặc quán niệm bên trong, hoặc quán niệm bên ngoài cảm thọ ấy, hoặc quán niệm cả bên trong lẫn bên ngoài. Vị ấy sống trong sự thường trực quán niệm quá trình sinh khởi của cảm thọ, hoặc quán niệm quá trình hủy diệt của cảm thọ, hoặc quán niệm cả quá trình sinh khởi lẫn quá trình hủy diệt của cảm thọ. Hoặc vị ấy quán niệm: “Có cảm thọ đây”, đủ để quán chiếu và ý thức được sự có mặt của cảm thọ đó, và như vậy, vị ấy an trú một cách tự do, không bị bất cứ một thứ gì trong cuộc đời làm vướng bận. Vị khất sĩ quán niệm cảm thọ nơi cảm thọ là như thế đó, thưa quý vị.

*

Này các vị khất sĩ! Vị khất sĩ an trú trong phép quán niệm tâm thức nơi tâm thức như thế nào?

Mỗi khi nội tâm có tham dục, vị khất sĩ ấy ý thức là nội tâm có tham dục. Mỗi khi nội tâm không có tham dục, vị ấy ý thức là nội tâm không có tham dục.

Vị ấy cũng quán chiếu như thế đối với tâm sân hận, tâm si mê, tâm thu nhiếp, tâm tán loạn, tâm khoáng đạt, tâm hạn hẹp, tâm cao nhất, tâm định và tâm giải thoát.

Cứ như thế, vị khất sĩ an trú trong sự quán niệm tâm thức nơi tâm thức; hoặc quán niệm bên trong, hoặc quán niệm bên ngoài tâm thức ấy, hoặc quán niệm cả bên trong lẫn bên ngoài. Vị ấy an trú trong sự quán niệm quá trình sinh khởi nơi tâm thức, hoặc quán niệm quá trình hủy diệt nơi tâm thức, hoặc quán niệm cả quá trình sinh khởi lẫn quá trình hủy diệt nơi tâm thức. Hoặc vị ấy quán niệm: “Có tâm thức đây”, đủ để quán chiếu và ý thức được sự có mặt của tâm thức đó, và như vậy, vị ấy sống một cách tự do, không bị bất cứ một thứ gì trong cuộc đời làm vướng bận. Vị khất sĩ quán niệm tâm thức nơi tâm thức là như thế đó, thưa quý vị.

*

Này các vị khất sĩ! Vị khất sĩ an trú trong phép quán niệm đối tượng tâm thức nơi đối tượng tâm thức như thế nào?

Trước hết vị ấy quán niệm đối tượng tâm thức nơi đối tượng tâm thức về năm hiện tượng ngăn che. Nhưng quán niệm bằng cách nào?

Khi có ái dục, vị khất sĩ ý thức rằng mình có ái dục. Khi không có ái dục, vị khất sĩ ý thức rằng mình không có ái dục. Khi một niệm ái dục chưa sinh khởi nay bắt đầu sinh khởi, vị ấy ý thức được sự sinh khởi ấy. Khi một niệm ái dục đã sinh đang được khử diệt, vị ấy ý thức được sự khử diệt ấy. Khi một niệm ái dục đã được khử diệt và không còn tái sinh nữa, vị ấy cũng ý thức được về điều đó.

Vị ấy cũng thực tập như vậy đối với sân hận, mê muội, buồn ngủ, dao động, bất an, hối hận và nghi ngờ.

Tiếp đó, vị khất sĩ quán niệm về năm nhóm tụ hợp còn nằm dưới ảnh hưởng của sự bám víu, như đối tượng tâm thức nơi đối tượng tâm thức. Quán niệm bằng cách nào?

Vị khất sĩ quán chiếu như sau: “Ðây là hình thể vật chất; đây là sự phát sinh của hình thể vật chất, và đây là sự hủy diệt của hình thể vật chất.

Ðây là cảm thọ; đây là sự phát sinh của cảm thọ, và đây là sự hủy diệt của cảm thọ.

Ðây là tri giác; đây là sự phát sinh của tri giác, và đây là sự hủy diệt của tri giác.

Ðây là tâm tư; đây là sự phát sinh của tâm tư, và đây là sự hủy diệt của tâm tư.

Ðây là nhận thức; đây là sự phát sinh của nhận thức, và đây là sự hủy diệt của nhận thức.”

Tiếp đến, vị khất sĩ quán niệm về sáu giác quan và sáu loại đối tượng, như đối tượng tâm thức nơi đối tượng tâm thức.

Quán niệm như thế nào?

Vị khất sĩ ý thức về mắt và đối tượng của mắt là hình sắc và về những nội kết tạo nên do mắt và hình sắc. Vị ấy ý thức về những nội kết chưa sinh nay đang phát sinh. Vị ấy ý thức về những nội kết đã phát sinh nay đang được khử diệt. Vị ấy ý thức về những nội kết đã được khử diệt và không còn tái sinh nữa.

Vị ấy cũng quán chiếu như thế về tai và âm thanh, về mũi và mùi hương, về lưỡi và vị nếm, về thân và xúc chạm, về ý và pháp trần.

Tiếp đó, vị khất sĩ quán niệm về bảy yếu tố của sự ngộ đạo như đối tượng tâm thức nơi đối tượng tâm thức.

Quán niệm như thế nào?

Khi có yếu tố chánh niệm, vị khất sĩ ý thức là mình có chánh niệm. Vị ấy quán chiếu rằng: Tâm mình có chánh niệm. Khi không có chánh niệm, vị ấy ý thức là mình không có chánh niệm. Vị ấy có ý thức về chánh niệm chưa phát sinh nay đang phát sinh, về chánh niệm đã phát sinh nay đang thành tựu viên mãn.

Vị ấy cũng quán niệm như thế về các yếu tố quán chiếu, tinh chuyên, an vui, nhẹ nhõm, định và buông thả.

Tiếp đó, vị khất sĩ quán niệm về bốn sự thật cao quý như đối tượng tâm thức nơi đối tượng tâm thức.

Quán niệm như thế nào?

Khi sự kiện là khổ đau, vị khất sĩ quán niệm: “Ðây là khổ đau.”

Khi sự kiện là nguyên nhân tạo thành khổ đau, vị khất sĩ quán niệm: “Ðây là nguyên nhân tạo thành khổ đau.”

Khi sự kiện là khổ đau có thể được chấm dứt, vị ấy quán chiếu: “Khổ đau có thể được chấm dứt.”

Khi sự kiện là có con đường dẫn đến sự chấm dứt khổ đau, vị ấy quán niệm: “Có con đường dẫn đến sự chấm dứt khổ đau.”

Cứ như thế, vị khất sĩ an trú trong sự quán niệm về thân thể, cảm thọ, tâm thức và đối tượng tâm thức; hoặc quán niệm bên trong, hoặc quán niệm bên ngoài, hoặc quán niệm cả bên trong lẫn bên ngoài các lĩnh vực ấy. Vị ấy an trú trong sự quán niệm quá trình sinh khởi nơi lĩnh vực ấy, hoặc quá trình hủy diệt nơi lĩnh vực ấy, hoặc quán niệm cả quá trình sinh khởi lẫn quá trình hủy diệt nơi lĩnh vực ấy. Hoặc vị ấy quán niệm: “Có lĩnh vực ấy đây”, đủ để quán chiếu và ý thức được sự có mặt của lĩnh vực ấy nơi lĩnh vực ấy, và như vậy, vị ấy an trú một cách tự do, không bị bất cứ một thứ gì trong cuộc đời làm vướng bận. Quán niệm về bốn lĩnh vực nơi bốn lĩnh vực là như thế đó, thưa quý vị.

Này quý vị khất sĩ! Vị khất sĩ nào thực hành bốn phép quán niệm như trên trong bảy năm, người ấy có thể có khả năng đạt được quả vị chánh trí ngay ở đây và trong kiếp này, hoặc nếu còn dư báo thì cũng đạt được quả vị không còn trở lại.

Này quý vị khất sĩ! Ðừng nói gì tới bảy năm. Kẻ nào thực hành bốn phép quán niệm này trong bảy tháng, hoặc sáu tháng, hoặc năm tháng, hoặc bốn tháng, ba tháng, hai tháng, một tháng hay nửa tháng, thì cũng có thể đạt được quả vị chánh trí ngay ở đây và trong kiếp này, hoặc nếu còn dư báo thì cũng đạt được quả vị không còn trở lại.

Chính vì lý do đó mà tôi đã nói rằng: “Đây là con đường duy nhất để có thể giúp chúng sanh thực hiện thanh tịnh, vượt thắng phiền não, tiêu diệt khổ ưu, đạt tới chánh đạo và chứng nhập Niết bàn, con đường của bốn phép an trú trong chánh niệm.”

Đức Thế Tôn đã dạy như thế. Các vị khất sĩ hoan hỷ ghi nhận và làm theo lời Người.

Chương trình Hiểu và Thương

(Thư cảm ơn của Sư cô Chân Không)

“Mùa thiên nhiên đã về, mang áo mới!

Tôi nghe mênh mông nắng reo đồng nội

Đất vùng quê khoai sắn lên tươi xanh

Hoa nở, chim ca, trái nặng trên cành

Sung túc quá, một mùa xuân vũ trụ !

Tôi linh cảm thấy loài người muôn xứ

Đang đứng lên, chèo chống giữa phong ba

Ủ nguồn nhân nơi tin tưởng chói lòa

Lấp cạn hố phân chia và sầu khổ

Bông trí tuệ đang tưng bừng đua nở

Cây tình thương đang khoác áo xanh tươi

Hương tự do ướp lấy cánh hoa đời.”

(Trích thơ “Mùa nhân loại mang áo mới”, Thầy Làng Mai)

 

Kính thưa quý vị đạo hữu và ân nhân!

Trong năm vừa qua, nhờ tấm lòng chung tay tiếp sức của quý vị, các nhà hảo tâm, các mạnh thường quân trong và ngoài nước, cùng với sự hỗ trợ từ các tổ chức Thich Nhat Hanh Foundation, Maitreya Fonds, tăng thân Sen Búp Sydney mà chương trình Hiểu và Thương đã tiếp tục thực hiện được những công tác xã hội, hành trình lan tỏa tình yêu thương đến với những hoàn cảnh khó khăn trên khắp đất nước Việt Nam:

Chương trình thường niên tại các trường mầm non có:

– Hỗ trợ tiền ăn bán trú cho 3.531 trẻ mầm non thuộc ba tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên Huế và Bình Thuận. Mỗi tháng các cháu được hỗ trợ từ 66.000đ – 80.000đ bổ sung thêm vào chế độ ăn dinh dưỡng.

– Hỗ trợ lương cho 209 giáo viên mầm non ở ba tỉnh Quảng Trị, TT Huế và Bình Thuận. Mức hỗ trợ tuỳ theo các cô giáo thuộc nhóm trường do chương trình Hiểu và Thương xây dựng và quản lý; nhóm trường do các chùa quản lý; hay công tác tại nhóm trường công lập. 

Chương trình dành cho các bô lão, mà đại diện là các Tiếp hiện xã hội thường xuyên mỗi ba tháng đến thăm trực tiếp, quan tâm, hỗ trợ đến 945 người già neo đơn ở các tỉnh Quảng Trị, Huế, Bình Thuận, Đồng Nai, Đồng Tháp và Bến Tre.

Chương trình “Giúp em đến trường” tiếp tục tiếp sức trao học bổng cho 787 học sinh và 326 sinh viên nghèo vượt khó ở các tỉnh Quảng Trị, Huế, Bình Thuận, Đồng Nai, Đồng Tháp, Bến Tre và một số tỉnh khác. Trong đó, với tình thương và quan tâm của tăng thân Sen Búp Sydney – Úc đã yểm trợ học bổng cho hơn 110 em, tạo cho các em thêm một chút điều kiện để trang trải trong cuộc sống cũng như sự hứng khởi và niềm tin vào con đường học vấn tương lai.

Tại các tỉnh miền Nam, chương trình đã hỗ trợ lợp mái tôn mới cho 55 căn nhà của các gia đình nghèo. Ngoài ra, 20 giếng nước tưới hoa màu được trao tặng cho những hộ nông dân nghèo ở Đồng Nai, và hỗ trợ xây dựng một cây cầu ở Đồng Tháp với trị giá 200.000.000 đ nhằm giúp bà con có thêm điều kiện canh tác và sinh sống.

Trong không khí chan hòa đón mùa xuân về, chương trình đã trao tặng 4.660 phần quà yêu thương đến đồng bào có hoàn cảnh khó khăn trên khắp các miền quê hương Quảng Trị, Huế, Bình Thuận, Khánh Hòa, Đồng Nai, Đồng Tháp, Bến Tre và một số nơi khác để mọi người cùng nhau đón mừng Tết nguyên đán Ất Tỵ thêm ấm áp. 

Và một chương trình không thể thiếu đó là những món quà Tết dành cho các cháu ở các trường mầm non thuộc ba tỉnh Quảng Trị, Huế và Bình Thuận. Với 3.320 chiếc áo ấm và 1.100 bộ đồng phục Hiểu và Thương đã được quý thầy, quý sư cô hay đại diện các tác viên xã hội đem đến các trường, tận tay mặc cho các cháu trong niềm vui ngập tràn yêu thương dành cho các thế hệ tương lai, những mầm non đang hé của dân tộc. Trong câu chuyện trao đổi về các sinh hoạt của chương trình, một bác Tiếp hiện đã chia sẻ rằng: 

“Trong chương trình phát áo quần Tết mà Ni Trưởng luôn quan tâm đến các cháu người dân tộc thiểu số thì luôn bắt gặp những hình ảnh rất dễ thương. Con cảm nhận nhiều nhất được sự vui mừng rỡ của các cháu khi được mặc trên người bộ áo quần mới. Có những khi đoàn đến trường vào đúng giờ ăn trưa nhưng vì chuyến đi của đoàn còn thăm nhiều trường khác nữa nên phải tranh thủ tặng cho các cháu. Khi nhìn thấy các bạn của mình được quý sư cô lần lượt mặc bộ áo quần mới thì các cháu liền bỏ cơm và đến nói thì thầm với cô giáo: “Con rất thích có áo mới!” với đôi mắt long lanh. Nhìn các cháu nâng niu bộ áo quần mới, chiếc áo ấm mới mà thương biết bao. Và dù đi đến đâu, sinh hoạt tại các trường mầm non hay tặng quà trong những chương trình cứu trợ, đón Tết, quý thầy, quý sư cô và các tác viên xã hội vẫn luôn hướng dẫn cho mọi người tập hát các bài thiền ca – một chất liệu nuôi dưỡng bằng những trái tim tràn đầy yêu thương cuộc đời – làm cho không khí trở nên vui tươi và hào hứng hơn”.

Kính thưa quý vị thân hữu!

Trong năm vừa qua, cả dân tộc Việt Nam ta lại dậy lên tinh thần tương thân tương ái đồng hành cùng với đồng bào các tỉnh miền núi miền Bắc đi qua những mất mát đau thương do ảnh hưởng tàn phá nặng nề của cơn bão Yagi, cùng những cơn lũ quét gây ra bao đau thương mất mát lớn lao về cả con người và tài sản. Chúng ta đã không cầm được những giọt nước mắt xót thương. Chương trình đã thông qua thầy Từ Hải làm trưởng đoàn và phái đoàn quý thầy, quý sư cô tại tổ đình Từ Hiếu – ni xá Diệu Trạm phối hợp với các tăng thân, các cơ quan địa phương và các tình nguyện viên với những bước chân của hiểu và thương đã tổ chức những chuyến đi hướng về đồng bào đang gặp nạn và trao tới tận tay những phần quà yểm trợ tinh thần cho nhiều gia đình bị mất người thân, bị trôi hay sập nhà, những hoàn cảnh neo đơn và đặc biệt cho những học sinh vùng cao. 

Sau đó là những chương trình động viên, hỗ trợ bà con lợp mái tôn khắc phục đời sống sau bão lũ tại những vùng bị sạt lở nặng nề thuộc huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên. Đoàn đã vượt qua nhiều đoạn đường xa khó khăn và nguy hiểm để tới thăm hỏi và tặng nhiều phần quà cho các em nhỏ tại các điểm trường mầm non, tiểu học tại các huyện Bảo Yên, huyện Sapa. 

Đoàn cũng tặng hơn 180 máy lọc nước cho người dân các bản làng; yểm trợ hệ thống máy nấu nước nóng cho trường THCS Nội trú số 2 để các em học sinh tắm vào mùa đông và xây dựng một cây cầu Hiểu và Thương nối liền hai bản ở xã Nậm Xây, huyện Văn Bàn; thực hiện dự án trồng rừng với 20 hecta cây dẻ cười ở Si Ma Cai, thuộc tỉnh Lào Cai; trao tặng những thiết bị, đồ dùng thiết yếu, hỗ trợ dự án khoan giếng nước, xây dựng lại bếp ăn, làm cầu dân sinh ở huyện Văn Yên tỉnh Yên Bái để giúp các thầy cô giáo vùng cao trong việc chăm sóc và giảng dạy cho các em học sinh tại các điểm trường bán trú, nội trú chịu ảnh hưởng do bão lũ gây nên… 

Thật xúc động biết bao khi nhìn thấy những nụ cười rạng ngời, những ánh mắt long lanh đầy vui sướng của các em nhỏ vùng cao khi được học những bài hát mới, được chơi đùa cùng quý thầy, quý sư cô. Lòng ai cũng hân hoan khi thấy các em cầm trên tay những chiếc balo với màu sắc mà mình yêu thích, những cuốn vở, những cây bút viết mới hay được đi thử đôi ủng để dành đi học trong những ngày mưa gió và được ăn những bát cơm đầy… Những món quà tuy nhỏ nhưng đã đem lại rất nhiều hy vọng, hiểu biết và thương yêu trong trái tim của rất nhiều người. Niềm vui của các em cũng là niềm vui, niềm hạnh phúc của quý thầy, quý sư cô và tất cả những vị bồ tát đã chung tay góp sức, đóng góp cho chương trình. 

Như quý vị đã biết về sự cố cháy bất ngờ xảy đến với cư xá Mây Tím của quý sư cô ở tại xóm Hạ, Làng Mai, Pháp những ngày cuối năm 2024 đã làm bao người nao lòng. Trong hoàn cảnh ấy, tăng thân đã đón nhận không biết bao nhiêu là tình cảm thương yêu mà quý vị đã dành cho, khiến ai cũng nhận ra rằng dù trong hoàn cảnh nào, cấp thiết đến đâu, những trái tim yêu thương, những đôi chân không ngại gian khó, hiểm trở, những bàn tay ấm áp vẫn luôn tìm đến nắm lấy những bàn tay, san sẻ tình người. Mỗi người trong chúng ta đã trở thành một cánh tay của đức Bồ tát Quán Thế Âm!

Thay mặt cho tất cả, Chân Không kính gửi lòng tri ân sâu sắc đến quý vị ân nhân, các cá nhân, đoàn thể, tăng thân đã luôn đồng hành gửi gắm tình thương và tịnh tài đến chương trình Hiểu và Thương – cánh tay nối dài của quý vị đem những giọt nước từ bi thanh lương đến với đồng bào còn nhiều thiếu thốn, khó khăn. Nguyện cầu cho tất cả chúng ta cùng gia quyến đón chào một năm mới với thật nhiều bình an và hạnh phúc!

Sen búp xin tặng người!

Kính mến và tri ân!

Sư cô Chân Không. 

Mọi đóng góp cho chương trình Hiểu và Thương, xin gửi về các địa chỉ hoặc các ngân hàng sau:

Tại Việt Nam:

     Chủ tài khoản: Đỗ Thị Mỹ Phượng (Sư cô Chân Tư Nghiêm)

     Số tài khoản:   1052.585.720

     Ngân hàng:      Vietcombank 

Tại châu Âu và Mỹ, xin liên hệ Thich Nhat Hanh Foundation theo đường link: https://thichnhathanhfoundation.org/love-and-understanding-program



Nghệ thuật sống hạnh phúc

(Trích từ sách “Hạnh phúc cầm tay” của Thiền sư Thích Nhất Hạnh)

Cuộc sống đầy rẫy khổ đau nhưng cuộc sống cũng tràn đầy những mầu nhiệm như trời xanh, mây trắng, nắng ấm, ánh mắt trẻ thơ… Cuộc sống không chỉ có khổ đau, chúng ta phải biết tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống. Bất cứ lúc nào, những mầu nhiệm ấy cũng có mặt khắp nơi trong ta và chung quanh ta.

Nếu tự thân ta không có hạnh phúc, bình an thì chúng ta không thể hiến tặng hạnh phúc và bình an cho ai được, kể cả những người ta thương, những người ta cùng chung sống trong một mái ấm gia đình. Có bình an, hạnh phúc thì chúng ta sẽ mỉm cười và nở ra như một bông hoa, khi đó, mọi người chung quanh ta, từ gia đình cho đến xã hội, ai cũng được thừa hưởng. Chúng ta có cần cố gắng để hạnh phúc không? Có cần cố gắng để thưởng thức vẻ đẹp của trời xanh không? Có cần phải thực tập để có thể tận hưởng được vẻ đẹp đó không? Không. Chúng ta chỉ tận hưởng thôi. Mỗi giây, mỗi phút của đời sống hằng ngày đều có thể như thế cả. Bất cứ lúc nào, ở đâu, chúng ta cũng có khả năng thưởng thức nắng ấm, thưởng thức sự có mặt của nhau, hay thưởng thức hơi thở của chính mình. Chúng ta không cần phải đến Trung Quốc để ngắm trời xanh. Không cần phải đi về tương lai để thưởng thức hơi thở. Chúng ta có thể tiếp xúc với chúng ngay bây giờ. Nếu chúng ta chỉ để ý đến khổ đau thôi thì rất tội nghiệp.

 

 

Chúng ta quá bận rộn đến nỗi không có thời gian để nhìn mặt những người ta thương, kể cả những người trong gia đình ta. Ta cũng không có thời gian để nhìn lại chính mình. Xã hội đã tạo ra một lối sống mà ngay cả khi có thời gian rảnh rỗi, ta cũng không biết cách trở về tiếp xúc với bản thân. Ta đánh mất thời gian quý giá của ta bằng cả triệu cách: mở ti vi ra xem, nhấc điện thoại lên gọi, nổ máy xe đi đâu đó… Chúng ta không quen đối diện với chính mình, chúng ta chán ghét bản thân và muốn chạy trốn khỏi bản thân.

Thiền là ý thức những gì đang xảy ra trong thân thể, cảm thọ, tâm hành và thế giới. Mỗi ngày có hàng ngàn trẻ em chết đói. Những nước siêu cường quốc có đủ vũ khí hạt nhân để tiêu diệt hành tinh của chúng ta nhiều lần. Tuy nhiên mặt trời mọc sáng nay rất đẹp, những đóa  hồng nở ven tường sáng nay là một mầu nhiệm. Cuộc sống đáng sợ nhưng cuộc sống cũng mầu nhiệm. Thiền tập là tiếp xúc với cả hai mặt. Đừng nghĩ rằng chúng ta phải trang nghiêm mới thực tập được. Kỳ thực, thực tập giỏi, chúng ta phải cười nhiều.

Gần đây, khi đang ngồi với một nhóm trẻ, thấy Jim cười rất đẹp, tôi nói: “Jim, con cười đẹp lắm!”. Em trả lời: “Cám ơn Thầy”. Tôi nói: “Con không cần phải cám ơn Thầy. Ngược lại Thầy phải cám ơn con. Bởi vì nhờ nụ cười của con mà sự sống đẹp hơn. Vì vậy thay vì nói cám ơn, con có thể nói: “Đâu có gì đâu thưa Thầy, tự nhiên thôi mà!”

Nếu em bé mỉm cười được, nếu người lớn mỉm cười được thì điều đó rất quan trọng và đáng quý. Nếu trong đời sống hằng ngày ta có thể mỉm cười, ta có khả năng bình an và hạnh phúc thì không những ta mà tất cả mọi người đều được thừa hưởng. Đó là nền tảng căn bản nhất của công việc chế tác hòa bình. Khi thấy Jim cười, tôi rất hạnh phúc. Nếu cậu bé ý thức rằng cậu đang làm cho người khác hạnh phúc thì cậu có thể nói: “Bạn quá tuyệt vời”.

Xuân trong thơ thiền sư

Sư cô Chân Trăng Bảo Tích

 

“Châu báu chất đầy thế giới

Tôi đem tặng bạn sáng nay

Một vốc kim cương sáng chói

Long lanh suốt cả đêm ngày…”

 

Mùa xuân đang đến theo từng nhịp gõ của thời gian, bàng bạc khắp đất trời, trong lòng người, trong từng hơi thở chuyển mình nơi mỗi tế bào của vũ trụ. Mùa xuân mang đến những món quà mà mỗi người sẽ đón nhận và cảm nhận nó theo mỗi cách khác nhau. Và bài viết này sẽ mời bạn đến với một khung trời mà nơi đó chúng ta sẽ cùng nhau được nếm một chút “sắc hương mùa xuân” qua những cái nhìn và cảm nhận đặc biệt của các vị thiền sư. Mời bạn ngồi thật bình yên, cùng nâng trên tay một chén trà ấm và thơm để cùng nhau xuyên không gian, và cùng ngược về dòng lịch sử của “những mùa xuân năm trước”

         “Người ở trên lầu hoa dưới sân

         Vô ưu ngồi ngắm, khói trầm xông

         Hồn nhiên người với hoa vô biệt

         Một đóa hoa vàng chợt nở tung.

         Phương phi xuân sắc trắng hay vàng

         Thời tiết tùy loài hợp sắc hương

         Khi mọi loài hoa rơi chật đất

         Dậu Đông hoa cúc vẫn chưa tàn.”

Đây là những dòng thơ của Thiền sư Huyền Quang, vị tổ thứ ba của thiền phái Trúc Lâm. Ngài được mệnh danh là “thiền sư yêu hoa cúc”. Hoa cúc chiếm một vị trí đặc biệt trong thơ Ngài. Như một người tri kỷ, Ngài ngồi ngắm hoa với cõi lòng thanh thoát, mặt rõ mặt, lòng tận lòng. Cả vũ trụ hội tụ nơi một điểm gặp gỡ. Không còn cái ranh giới phân biệt giữa hoa và người ngắm. Người đi vào trong hoa, hoa đã ở trong người. Đóa hoa vàng nở tung là một thực thể vật chất đang hiện hữu hay cũng chính là cái bừng sáng tĩnh tại trong cõi tâm thênh thang, rỗng lặng của người đang ngồi đó?

Mùa xuân, hàng trăm loài hoa đua nhau khoe sắc, én liệng bầu trời, hoàng oanh vẫy gọi. Không khó để hiểu những vị thiền sư thường cũng là những nhà thi sĩ, đó là bởi khả năng có mặt với thực tại, có mặt trong hiện tại để cảm nhận được những vẻ đẹp của sự sống xung quanh, những hiện hữu đang biến chuyển tinh tế trong từng sát na. Đây là những câu thơ trong bài “Cảnh xuân” của vua Trần Nhân Tông, vị tổ khai sơn của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử vào thế kỷ 13:

         “Liễu rủ hoa hồng chim hát ca

         Mây chiều in bóng trước hiên nhà

         Khách vào, thế sự không cần hỏi

         Chỉ tựa lan can ngắm cỏ hoa.”

Tâm thế của một người vô sự còn được thể hiện rõ nét qua bài “Lên núi Bảo Đài”:

          “Cảnh vắng đài thêm cổ

           Xuân sang màu chửa hồng

           Xa gần mây núi hợp

          Rợp bóng nẻo hoa trồng

          Vạn sự nước xuôi nước

         Trăm năm lòng ngỏ lòng

         Tựa lan, nâng sáo thổi   

         Trăng sáng đầy cõi tâm.”

 

 

Kim chỉ nam trong thiền tập mà Trúc Lâm Đại Sĩ nêu ra đó là “miễn được lòng rồi, chẳng còn phép khác”. “Cảnh tịch an cư tự tại tâm”, tâm bình thì thế giới bình. Tâm không còn ruổi rong, tìm kiếm thì tự dưng sẽ thấy “châu báu đầy nhà”. Châu báu của mùa xuân là liễu rủ, hoa hồng, là chim hát ca, là mây núi bao la, là một đôi mắt còn sáng để thấy được hết cảnh sắc đang phơi bày của thế giới, là một đôi tai còn có thể nghe để nhận diện sự sống sinh động hùng vĩ đang chảy tuôn rạo rực trong từng khoảnh khắc, và một tâm hồn vẫn còn những sợi tơ rung động để có thể hòa nhịp, đồng cảm với sự sống. Và để rồi từ đó thấy mình trong sự sống bao la và cũng chính là sự sống bao la ấy, phá tung đi hàng rào của cái tôi nhỏ bé, giải phóng cái cảm giác mình là một bản ngã cô đơn tách biệt.

Hạnh phúc của một người tu chính là sự tự tại. Một tâm hồn tự do, “vạn sự nước xuôi nước, trăm năm lòng ngỏ lòng”. Đó là một thái độ không nắm bắt, cái trí tùy thuận, tâm không bị sai xử bởi những cái như ý và bất như ý diễn ra của cuộc đời. Trong cái tâm thế đó, tiếng sáo cất lên ắt cũng sẽ thênh thang chạm đến tột cùng. Tiếng sáo hòa vào trong ánh trăng, trăng chảy tràn vùng tâm thức. Tất cả hòa quyện thành một. Đó là một bản hòa ca. Cái hiện hữu duy nhất là bản hòa ca của vũ trụ.

Tinh thần thong dong, thái độ ung dung tự tại này còn được bắt gặp trong rất nhiều bài thơ thiền. Chẳng hạn dưới đây là bài tả cảnh cuối mùa xuân của thiền sư Vô Sơn Ông trong bài “Chùa Gia Lâm”:

         “Chân dạo tới thiền đường

         Cuối xuân sắc hoa nhạt

         Rừng vẳng tiếng ve suông

         Mưa tạnh trời bích ngọc

         Hồ lặng lộ khuôn trăng  

         Khách về, tăng chẳng nói

         Hoa thông rụng ngát vườn.”

Cái gì đến thì sẽ đến, cái gì đi thì sẽ đi. Mọi thứ vận hành theo quy luật nhân duyên. Không phải vì tâm mình cố níu giữ mà mùa xuân sẽ ở lại. Mưa rồi cũng sẽ có lúc tạnh để lại bầu trời quang. Vì mặt hồ lặng mà thấy được vầng trăng soi bóng. Thiền sư Hương Hải thế kỷ 17 cũng có những câu thơ rất nổi tiếng: “Nhạn quá trường không/ Ảnh trầm hàn thủy/ Nhạn vô di tích chi ý/ Thủy vô lưu ảnh chi tâm”. Nhạn bay qua mặt hồ, nhạn đi rồi thì bóng cũng không để lại, mặt nước cũng không cố tình lưu bóng. “Đừng tìm về quá khứ, đừng tưởng tới tương lai”, đừng đánh mất mình trong những gì đang không là thực tại. Đó là nguyên tắc cốt lõi của chữ “thiền”. “Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền”. Đứng trước hiện tượng mà tâm lặng rỗng, không bị lay động bởi những nắm bắt hay xua đuổi, chỉ đơn thuần bình yên có mặt để thấy, để quán sát được tự tính nhân duyên đang vận hành, chữ “vô tâm” ấy chính là tinh yếu của thiền.

Khám phá với hai chữ “nhân duyên” sẽ giúp con người ta bớt được với nhiều khổ đau.

         “Niên thiếu chưa từng hiểu sắc, không

          Xuân sang hoa sắc vướng tơ lòng

          Diện mục xuân nay từng khám phá

          Thiền tọa an nhiên ngắm rụng hồng.”

                      ( Trúc Lâm đại sĩ– “Cuối xuân”)

          “Xuân sang hoa bướm khéo quen thì

           Bướm liệng hoa cười vẫn đúng kỳ

          Nên biết bướm hoa đều huyền ảo

          Thấy hoa, mặc bướm, để lòng chi.”

                    (Thiền sư Giác Hải – “Thị tật”)

 

 

Mọi thứ đều do nhân duyên mà tụ hội. “Có thì có tự mảy may/ Không thì cả thế gian này cũng không”. Đó là thái độ không còn vướng vào hình sắc, có thể nhìn sự vật bằng con mắt vô tướng. “Đám mây không bao giờ chết”. Hình ảnh Trúc Lâm Đại Sĩ an nhiên ngồi ngắm cánh hồng đang rơi cũng dễ làm ta liên tưởng đến cành “nhất chi mai” của Thiền sư Mãn Giác:

         “Xuân đi trăm hoa rụng

         Xuân đến trăm hoa cười

         Trước mắt việc đi mãi

         Trên đầu già đến rồi

         Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết

         Đêm qua sân trước một nhành mai.”

Sự sống vẫn đang luôn trong những chu kỳ tái sinh và tạo dựng. Và cũng để nhắc nhở chúng ta thử nhìn lại rằng một kiếp người kéo dài được bấy mươi năm? “Chim quyên kêu rã bao ngày tháng/ Đâu phải mùa xuân dễ luống qua?”. Chúng ta có đang hoài phí những mùa xuân của cuộc đời mình không? Cuộc đời mình là để làm gì? Ta đã làm chi đời ta?

Thơ của các vị thiền sư thường như những “tiếng sấm”. Và những bài thơ trên là những tiếng “sấm xuân”. “Một tiếng sấm xuân vừa chấn động/ Khắp nơi cây cối nảy mầm non” (vua Trần Thái Tông). Đọc thơ thiền cũng là một cơ hội để được nghe những “tiếng thét” của các bậc tiền nhân lão bối mà “tỉnh giấc hôn trầm”, sống tỉnh táo hơn, có ý thức hơn và để trân quý sự sống, sự có mặt của mình giữa cuộc đời này hơn. Trên đây là một chút lòng của bậc hậu sinh với những cái nhìn, cái thấy, cái hiểu còn sơ sài, nông cạn tuy vẫn luôn hầu mong tìm theo được vết tích ấn tâm của các bậc tiền bối. Mùa xuân đang đến với bao chồi non lộc biếc mang theo những niềm hy vọng mới, thổi những luồng sinh khí mới. Xin cảm tạ bạn đọc đã cùng ngồi với nhau trong chuyến du hành không thời gian này. Xin chúc nhau một năm mới với thêm nhiều những chuyến du hành mới và luôn khám phá ra những điều đặc biệt và mới mẻ trong những khoảnh khắc của mỗi hành trình.

Làng, An Cư Kiết Đông 2024-2025

Lớp Văn Học Thiền: Thơ Văn Lý – Trần

Người đã về đã tới

(Thầy Chân Trời Hải Thượng)

Thứ … ngày … tháng … năm …

Tôi nằm trên cái võng xanh bên hành lang, ngay bên khoảng vườn giữa lòng tăng xá. Làng bao nhiêu người mà làm biếng là vắng hoe, im lìm. Người đi hết nên tôi chẳng cần đi tìm không gian tĩnh lặng ở đâu khác nữa. Một lúc mới có một thầy đi qua, thấy tôi chăm chú đọc sách liền chọc một câu: “Thầy có đang làm biếng thật không đó?” (“Are you truly lazy?”). Biết thầy đang nhắc vui nên tôi chỉ cười. Làm biếng tức là ngược lại với làm siêng. Thật thú vị khi nghĩ rằng ngày đầu tuần ngoài kia cả thiên hạ mải miết đổ về những “business” (công việc làm ăn) của họ thì chúng tôi không có thời khóa ngồi thiền, đi thiền, ăn cơm im lặng gì cả. Thầy Kai Li kể lúc mới đến Làng, thầy đã rất lấy làm sửng sốt khi biết một tu viện mà làm biếng! Người ta còn chẳng dành bao nhiêu nước bọt để sách tấn nhau làm siêng. Một thầy tu làm biếng thì không phải không có, nhưng “lazy day” (ngày làm biếng) mà là thời khóa cho cả tu viện thì mới là điều đáng nói. Lúc đó, Sư Ông nói với thầy Kai Li rất nghiêm túc: “Đúng đó, thầy nên càng làm biếng càng tốt (Yes, you should be as lazy as possible)”. Sau này thầy nhận ra đó là một thực tập rất sâu sắc.

Thỉnh thoảng ta nghe người ta nói: “Đừng có ngồi không đó, làm gì đi chứ”. Điều này rất phổ biến vì xã hội của ta là một xã hội phải luôn có mục tiêu để hướng tới. Chúng ta có khuynh hướng luôn đi theo một chiều hướng nào đó và luôn có một mục tiêu đặc biệt trong tâm thức. Trái lại, đạo Bụt tôn trọng giáo lý vô nguyện (vô tác). Những người thực tập chánh niệm thì thường hay nói: “Đừng làm gì hết, hãy ngồi yên đó”. Không làm thực ra cũng là làm. Giáo lý này dạy ta không cần phải đặt ra một mục tiêu phía trước để chạy theo, bởi vì mọi thứ đã có sẵn trong ta rồi.

 

 

Tôi thấy mình thực tập thành công hơn với những ngày “im lặng hùng tráng” toàn chúng, khi không ai động đến sách vở, giấy bút, mạng máy gì cả. Còn thật tình tôi cũng hay biến thứ Hai thành ngày “xả hơi”, nghỉ ngơi, đi chơi sau những ngày “chạy việc”, chứ không theo đúng tinh thần “không đi đâu nữa, có chi để làm”. Đã từng đi học, đi làm, tham gia vào guồng quay bên ngoài nên vẫn còn cảm giác ngồi không là tội lỗi. Có mười lăm ba chục phút trống liền gắng tìm việc làm thêm cho đỡ tiếc. Còn các thiền sư thì dành mấy giờ đồng hồ chỉ để thiền trà, làm từng động tác và thưởng thức từng động tác. Tu rồi tôi mới biết người tu trông giống ngồi không, vô công nhưng thực ra không phải. Cái “business” (công việc) của người tu khác với người đời.

Giờ chiều cư dân của Làng từ những chỗ “ẩn cư” xuất hiện đông đúc trở lại. Có vài thầy và sư chú mặc áo tràng cúng cháo. Nhịp mõ khi tụng chú đi nhanh hòa với giọng tụng nghe rất đã tai. Vì tối nay có thời khóa nên Tâm Nguyên rủ tôi đi bộ sớm hơn hôm trước. Đi mời gọi thêm, cuối cùng chúng tôi có cả thảy bốn người. Dư âm của tiếng chuông tiếng mõ còn chưa dứt, tôi kể với các em là mỗi lần làm lễ mà tụng đến hai câu:

“Nguyện sinh về tịnh độ, Sen nở thấy vô sinh”

là tôi thấy tức cười. Tâm Nguyên vì từng là chú tiểu nên rành các nghi lễ truyền thống đã giải thích cho chúng tôi biết rằng những câu ấy không phải Sư Ông tự đặt ra. Để khai thị cho người nghe, các vị thiền sư xưa đã đưa vào các nghi lễ những giáo lý như:

“Tịnh Độ vốn sẵn nơi chân tâm, Di Đà hiện ra từ tự tánh, Chiếu sáng ba đời khắp mười phương, Mà vẫn không rời nơi hiện cảnh…”

để sau này ta còn thấy được thấp thoáng trong đạo Bụt tín mộ, đạo Bụt bình dân những viên ngọc tuệ giác như vậy. Tôi lấy làm vui trong lòng vì thấy Tâm Nguyên đã chững chạc, trưởng thành lên nhiều. Em trầm tính hơn, thích dành thời giờ ngồi yên một mình và ham đọc sách. Lớn lên từ nhỏ trong một ngôi chùa quê tu pháp môn niệm Phật, ban đầu khi giới thiệu em qua Làng tôi cũng lo em sẽ khó thích nghi với môi trường ở đây. Nhưng hôm nay tôi cảm được là Tâm Nguyên đã làm hòa được hai dòng chảy này trong mình rồi.

Thứ …, ngày… tháng… năm…

Tôi rời phòng đi ngồi thiền từ sớm để có được cái cảm giác đặt từng bước chân trên đường khi xung quanh tiếng chuông đại hồng âm vang theo lời kệ xướng. Lên tới thiền đường đã thấy có vị đến trước để thực tập lạy Bụt. Hôm nay mấy sư anh đi ra ngoài gần hết nên khi ngồi xuống tụng kinh thấy hơi lúng túng chuyện mình phải lên ngồi gần bàn thờ. Từng sống ở chúng rất đông cũng như chúng rất ít người mới biết quý cái không khí “hùng kinh mỗi sáng gọi nắng mai bừng lên”. Buổi tụng kinh nào cũng thường gồm một bài tụng và một bài đọc. Cách học kinh của Làng là tưới tẩm, người tu không buộc phải học thuộc lòng kinh hay giới nhưng quanh năm suốt tháng các bài kinh xoay vòng gieo vào lòng. Những câu kinh như “Nguyện thấy được Tịnh Độ, dưới mỗi bước chân mình; Nguyện tiếp xúc bản môn, trong mỗi khi hành xử” có thể chẳng tốn thời gian ôm sách ê a. Dễ hiểu một phần bởi nó là một với thứ ngôn ngữ ta nói hằng ngày. Nếu còn dùng những văn bản như “Tự thị bất quy, quy tiện đắc” thì chẳng khác phải học thêm một ngoại ngữ, bởi âm một đằng nghĩa một nẻo… “Thức đã không như bất cứ hiện tượng nào khác thì còn có gì cần được tạo tác nữa đâu? Phép quán sát này được gọi là Vô Tác, cánh cửa giải thoát thứ ba”. Hôm nay vị đọc câu kinh này đã ngắt đúng ở chữ “không”. Nếu đọc liền một mạch thì nghe xuôi nhưng thực ra nghĩa lý lại lộn ngược.

 

 

Giờ sáng phòng còn có mình tôi vì các sư chú đi học lớp ngoại ngữ. Thấy tờ Lá thơ Làng Mai cũ sẵn trên bàn của Tâm Nguyên, tôi lật vài trang xem hình. Bị cuốn vào bài bình thơ Bàng Bá Lân của Sư Ông, tình cờ tôi thấy một đoạn Sư Ông nói trúng ý mình đang tìm:

“Ai mà không cần một giấc mơ!? Theo phương pháp thực tập của Làng Mai thì mình phải làm cách nào để giấc mơ hiện thực ngay trong ngày hôm nay… Tôi cũng vậy, tôi nghĩ rằng mơ ước của tôi, tôi có thể đưa tay ra đụng tới nó bất cứ một giây phút nào trong đời sống hàng ngày.”

Đoạn này làm tôi nhớ có lần ở Đức, một cô cư sĩ hỏi rằng Sư Ông đã có tuổi rồi, liệu Sư Ông còn ước mơ nào chưa thực hiện nữa không? Sư Ông đã trả lời rằng:

“Này con, ngày nào thầy cũng được sống và làm những gì thầy ưa thích. Thầy không còn dự án nào nữa cả, không còn mong ước gì nữa cả.”

Một điều Sư Ông nhấn mạnh ở đây, đó là giấc mơ của mình, mình có thể chạm tới liền nếu mình muốn. Bằng cách nào? Đâu phải Sư Ông không chỉ bảo tận tình cho mình. Bao lần huynh đệ chúng ta đã hát “Chỉ cần một hơi thở nhẹ, là bao phép lạ hiển bày”. Một buổi ngồi thiền nào đó, ta có thể lại nghe giọng nói ấm áp của Sư Ông bên tai:

“Bạch đức Thế Tôn… khi con thở vào, con thấy là con đã về. Khi con thở ra con thấy là con đã tới. Con đã về trong phút giây hiện tại. Đó là quê hương đích thực của con. Con đã tới, tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống, với tịnh độ hiện tiền. Điều này có thể thực hiện trong vòng một hơi thở vào hay một hơi thở ra. Nếu con có thể về được, tới được thì con có cần phải làm gì nữa đâu. Con có thể mặc tình thích ý rong chơi trong cõi Bụt.”

Giống như “hạnh phúc”, “liền lập tức” đã trở nên quen tai tới mức nhiều người trong chúng ta đã quên đi giá trị đích thực của nó. Đó phải chăng chỉ để đáp ứng thị hiếu “mì ăn liền” của con người hiện đại? Giáo pháp của Đức Như Lai vốn “vượt thoát thời gian”, nếu không ăn được liền lúc này thì ta cũng không bao giờ nếm được nó. Now or never! (Bây giờ hoặc là không bao giờ)

Tôi định dành buổi chiều thứ Sáu để kiếm những dữ kiện cuối cùng cho bài viết. Tâm trạng nửa như bị hối thúc, nửa như chơi. Lên ngôi chùa điện tử, “Xứ sở của giây phút hiện tại”, lục tìm các hình chụp thư pháp của Sư Ông nhưng không thấy câu nào ưng ý. Hoặc là trong cái kho pháp thoại mênh mông vẫn có những ý hay nhưng ai biết chính xác ở đâu mà tìm?

Lang thang tình cờ tôi đọc được một bài viết của thầy Minh Hy, kể chuyện một lần Sư Ông dạy:

“Quả thứ nhất ‘Đã về – Đã tới’ ở Làng Mai hơi khác với quả Dự Lưu trong truyền thống. ‘Dự Lưu’ thì còn phải đi nữa, còn ‘Đã về – Đã tới’ thì không cần tìm cầu chi nữa. ‘Người chẳng tìm cầu chi nữa’. Câu này hay lắm, mình phải viết lại, nếu mất thì uổng lắm. Ai chứng được quả này rồi thì mình nhìn mình biết liền, không cần người ấy nói.”

Cả câu đối vốn là thế này:

Tịnh độ nơi đây thích ý rong chơi người chẳng tìm cầu chi nữa
Bản môn bây giờ phỉ lòng an trú ta há theo đuổi gì thêm

Chưa rõ nó đang ngự ở thiền đường nào. Tìm không thấy câu thư pháp mình cần, tôi tính bỏ cuộc. Chắc nhiêu đó cũng không thừa thiếu gì. Phòng máy vắng vẻ, chỉ có một sư em ngồi bên đang xem lại một đêm nhạc thiền. Văn nghệ ở Làng có nhiều kiểu loại. Những đêm nhạc thiền thì chất hơn cả, bởi các tiết mục được để tâm đầu tư nhiều về nội dung. Máy tính chỗ tôi ngồi không loa, tai nghe lại hỏng nên tôi chỉ xem ké máy bên một đoạn. Sư em nói rằng cả buổi trình diễn này chỉ đọc một bài thơ duy nhất, một câu chuyện được kể xen kẽ thơ với nhạc. Vậy ra Sư Ông có một bài thơ tên là “Câu chuyện của dòng sông”? Hay một truyện ngắn?

“Đêm hôm đó, dòng sông có cơ hội để nghe được tiếng khóc của mình. Đó là tiếng sóng vỗ vào hai bên bờ sông. Khi nó nghe được tiếng sóng vỗ của chính nó, dòng sông tỉnh ngộ. Nó hiểu ra là bản chất của sông cũng là bản chất của mây. Nó chính là mây. Mây đang nằm trong sông vì cả hai cùng có bản chất là nước. Mây làm bằng nước. Vậy thì tại sao mình phải chạy theo mây? Sông tự nhủ, “ta chỉ chạy theo mây nếu như ta không phải là mây mà thôi!”

Khi chúng ta chạy đuổi theo một thứ gì, muốn nắm bắt nó, ta sẽ đau khổ. Khi không có gì để đuổi theo, ta cũng khổ đau. Nếu bạn đã là dòng sông, nếu bạn đã từng chạy theo mây, đau khổ, than khóc vì cảm thấy cô đơn, xin hãy nắm lấy tay chính mình như nắm tay một người bạn. Hãy quán chiếu thật sâu, bạn sẽ thấy rằng thứ mà bạn tìm kiếm kia vẫn thường hiện diện ngay đây, đó chính là bạn! Bạn là thứ mà bạn muốn trở thành.

Vẫn là chuyện của kẻ đi kiếm và thứ để tìm. “Ai tìm, mà ai được?”. Tôi ôm võng đi tìm chỗ yên tĩnh, cắp thêm mấy cuốn sách Phép lạ của sự tỉnh thức, Trái tim mặt trời, Nẻo về của ý… để xem lại những tư tưởng thiền cô đọng nhất của Sư Ông thuở ban đầu mà tôi đã đánh dấu cho bài viết.

“Chúng ta quen sống với sinh diệt mà không quen sống với bất sinh và bất diệt. Sóng sống đời sống của nước hoặc ta sống đời sống của bất sinh bất diệt, điều ấy nào có lạ lùng gì, nào có khó khăn gì. Thì bao giờ mà sóng chẳng sống đời sống của nước, ta chẳng sống đời sống của bất sinh bất diệt? Chỉ cần biết là ta đang sống tròn đời sống của bất sinh bất diệt mà thôi. Tất cả nằm trong một tiếng biết, mà biết tức là nhận ra, là chánh niệm. Bao nhiêu công phu của thiền quán chỉ là để tỉnh dậy mà biết một điều đó: sinh diệt đâu có động gì được đến ta.” Trích tác phẩm Trái tim mặt trời của Sư Ông

Gập cuốn sách nhìn lên, tôi thấy trong tấm cửa kính lớn bóng mình nằm trên võng dưới hiên, quay lưng với nắng đang phối màu cho đồi xanh và mây trắng cuồn cuộn nổi. Lá rơi tơi bời, tôi nằm lơ lửng giữa trời. Mây trắng cao đẹp như vậy, ắt hẳn đâu đó vẫn có những dòng sông đang ôm mây trong lòng mà vẫn cồn cào. Bóng mây trôi qua, bức thư pháp nhỏ của ai sau cửa kính trong phòng lọt vào tầm nhìn tôi: “Ta còn tìm cầu chi nữa? This is it!”. Ngay ở đó, chính là nó!

 

(Trích từ Tập san Giếng Nước Thơm Trong, số 2)