I. Thời thơ ấu

1. Bé Em

Thiền sư Thích Nhất Hạnh sinh ngày 11 tháng 10 năm 1926 trong một đại gia đình Phật giáo tại kinh đô Huế, miền trung Việt Nam. Thầy thuộc thế hệ thứ 15 của dòng họ Nguyễn Đình. Trong dòng họ của thầy có nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu, thuộc thế hệ thứ 9, là một danh nhân của Việt Nam. Cha là Nguyễn Đình Phúc, pháp danh Trừng Tuệ, người làng Thành Trung (nay thuộc huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế). Ông làm quan võ trong chính phủ Nam triều nhà Nguyễn dưới  thời Pháp thuộc, đảm trách công việc di dân lập ấp. Mẹ là Trần Thị Dĩ, pháp danh Trừng Thính, người làng Gio Linh, nay thuộc làng Hà Trung, xã Gio Châu, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị. Cả hai ông bà thọ Năm giới với Hòa thượng trụ trì chùa Từ Hiếu vào dịp Tết Nguyên đán năm 1947. Thầy có ba người anh, một người chị và một em trai út. Bé Em, tên gọi của Thầy lúc nhỏ, đã sống trong nhà của ông bà nội cùng với bà nội, các chú bác và anh em họ cho đến lúc lên năm. Đó là một ngôi nhà lớn trong thành nội Huế có hồ sen, lũy tre, cây đào sai hoa trĩu quả. Bé Em có tánh nhút nhát và thường ngại làm phiền người khác. Bé Em rất chú tâm khi làm bất cứ việc gì như đi dạo trong vườn nhà, chơi với một con ốc sên hay với một hòn sỏi. Mỗi lần đi chợ về, mẹ thường cho Bé Em một cái bánh ít hay bánh in. Cầm lấy cái bánh mẹ cho, Bé Em ngồi thưởng thức một cách chậm rãi và thanh thản. Bé Em đưa bánh lên miệng cắn một miếng nhỏ để cho hương vị của miếng bánh thấm vào trong lưỡi, đưa mắt nhìn lên trời xanh, rồi cúi xuống, đưa chân phải hất nhẹ con chó, lấy tay trái vuốt con mèo, rồi cắn thêm một miếng thứ hai. Cứ như vậy Bé Em ăn hết cái bánh. Cái bánh tuy nhỏ xíu, ấy vậy mà Bé Em mất gần nửa giờ đồng hồ để thưởng thức. Cái bánh in, bánh ít thời thơ ấu ấy là một kỷ niệm mà sau này Thầy đã nhớ lại và hướng dẫn cho không biết bao nhiêu người thực tập an trú chánh niệm trong mỗi bữa ăn. Bé Em cũng thích ăn kẹo, một trong những loại kẹo mà Bé Em thích ăn là kẹo cau.

Lên bốn tuổi, Bé Em bắt đầu đi học và có tên mới là Nguyễn Đình Lang. Một năm sau, gia đình Lang chuyển về huyện Nông Cống, Thanh Hóa để sống cùng với cha, nơi ông được thuyên chuyển đến khai hoang một vùng miền núi. Lớn lên, Lang nói được giọng Thanh Hóa một cách tự nhiên. Lang thích thú đọc tất cả những cuốn sách hay những tờ báo Phật giáo mà anh Nho, anh cả của Lang mang về nhà. Lang cũng rất thích xem anh Nho chụp hình và rửa ảnh từ một cái máy do anh tự chế. Sau này, Lang xin anh dạy cho mình cách chụp hình, rửa ảnh và vẽ tranh truyền thần.

2. Những hạt giống Phật pháp được tưới tẩm lần đầu trong đời

Một hôm, hình ảnh Bụt ngồi thật an nhiên tự tại giữa bãi cỏ với nụ cười từ bi in trên trang bìa tạp chí Phật giáo Đuốc Tuệ số 104 đã gây chấn động và để lại một ấn tượng sâu đậm trong Lang. Hình ảnh ấy thật tương phản với những khổ đau và bất công mà Lang nhìn thấy xung quanh mình. Lang ước muốn được giống như Bụt, hiện thân của sự tĩnh lặng, bình an, thảnh thơi, có khả năng giúp những người xung quanh cũng làm được như vậy.

Năm học lớp bốn, Lang háo hức khi được tham gia chuyến dã ngoại tới núi Na do trường tổ chức. Lang nghe nói trên núi có một ông đạo giác ngộ. Buổi trưa, Lang tách nhóm và lẻn đi tìm ông đạo. Không tìm thấy ông đạo trong thất, Lang đi ra xa hơn. Có tiếng nước chảy róc rách. Lang phát hiện một cái giếng thiên nhiên bằng đá. Nước giếng trong vắt. Vừa mệt vừa khát, cậu bé liền quỳ xuống vốc nước uống. Nước ngọt và mát lạnh. Cảm giác sảng khoái khó tả, Lang nằm xuống tảng đá bên bờ giếng, ngắm nhìn trời xanh, thưởng thức tiếng chim hót, tiếng lá cây xào xạc. Khung cảnh thanh thoát nơi đây khiến Lang nhớ đến chùa Đại Bi ở núi Mật. Cảm được đây là quê hương của mình, Lang​ ngủ thiếp đi một giấc ngon lành. Thức dậy, trong đầu cậu bé đi lên một câu tiếng Pháp: J’ai bu à une source où l’eau est la plus douce de toute (ta đã uống được từ một nguồn nước ngon ngọt hơn bất kỳ ở đâu). Lang cảm thấy mình đã được gặp ông đạo bên giếng nước thơm trong. Cũng vào năm đó, Lang được trường chọn đi thi học sinh giỏi môn hành văn tiếng Pháp toàn quốc. ​Thầy Tiệp dạy lớp của Lang cũng là thầy hiệu trưởng của trường. Thầy nói Lang khá nhất lớp cả môn quốc văn và Pháp văn. Những môn khác như toán,  sử, Lang học đều khá. Cuối năm, Lang được phần thưởng lớn.

Một hôm, sau giờ cơm chiều, Lang cùng anh Nho, anh An (anh kế của Lang) và hai người bạn ngồi chơi, trò chuyện với nhau về ước muốn của mình sau này. Có người muốn làm bác sĩ, có người muốn làm kỹ sư. Anh Nho là người đầu tiên trong nhóm muốn trở thành một tu sĩ. Sau một hồi thảo luận, tất cả đều đồng ý đi tu. 

Anh Nho xuất gia tại chùa Đại Bi trên núi Mật, Thanh Hóa, với pháp tự là Thích Giải Thích[4]. Thầy Giải Thích sau đó được Bổn sư là ngài Trừng Pháp Chân Không gửi đến tu học tại chùa Từ Hiếu, Huế với sư huynh đồng sư là thầy Chánh Kiến. 

Lang muốn đi tu theo anh. Lang tập ăn chay, tự học thêm tiếng Hán và đọc kinh sách. Lang rất thích những bài viết về Nhân gian Phật giáo trong tạp chí Đuốc Tuệ, nói về một đạo Bụt được thực tập trong gia đình và xã hội mà không chỉ giới hạn trong khuôn viên chùa. Lang thích truyện Quả dưa đỏ, và đặc biệt thích chuyện Cô con gái Phật hái dâu của Đồ Nam Tử Nguyễn Trọng Thuật, tác giả của một trong những cuốn tiểu thuyết đầu tiên viết bằng chữ quốc ngữ và là người khởi xướng tư tưởng Nhân gian Phật giáo ở Việt Nam. Lang thuộc lòng nhiều bài thơ lục bát trong tác phẩm Quả dưa đỏ. Bài thơ Trước cảnh cao rộng của Thế Lữ cũng đã làm Lang rúng động. Trái tim Lang bắt đầu nhen nhúm chí nguyện đem đạo Bụt đi vào cuộc đời. Lang có niềm tin rằng đạo Bụt sẽ mang lại công bằng, tự do và thịnh vượng cho xã hội. 

Được sự đồng ý của cha mẹ, năm 16 tuổi, Lang xuất gia. Thầy Giải Thích đưa Lang đến chùa Từ Hiếu, xin cho Lang được làm đệ tử Hòa thượng Thanh Quý Chân Thật (1884-1968). Trước khi bước vào cổng tam quan, thầy Giải Thích dặn Lang phải vừa đi vừa niệm Phật, để Phật gia hộ cho Lang được tu trọn đời. Vào chùa, hành trang mang theo của Lang là một tuổi thơ hạnh phúc và một khối lửa trong tim: Lang muốn tu và muốn đem đạo Bụt làm đẹp cho cuộc đời. Ngày xuống tóc, Lang được đặt tên mới là Sung, nghĩa là sung túc, thịnh vượng.

Gieo trồng hạt giống bình an

(Sư cô Chân Định Nghiêm)

Trong những khóa tu mùa hè đầu tiên tại xóm Mới (Làng Mai), tôi thường chăm sóc các em nhỏ nói tiếng Pháp. Mỗi ngày, tôi được học hỏi và được nuôi dưỡng rất nhiều từ các em. Quả thật là chăm sóc các em cũng khá vất vả, vì các em có nhiều năng lượng lắm, nhưng đó cũng là phần thưởng cho tôi vì các em đón nhận tình thương của tôi rất dễ dàng và tôi cũng nhận được rất nhiều tình thương từ các em. Những gì tôi làm cho các em đều có thể cho hoa trái ngay lập tức. Các em chia sẻ với tôi niềm hạnh phúc khi ở Làng Mai dù chúng tôi chỉ có vài món đồ chơi đơn giản cho các em. Các em nói rằng các em vui vì khi ở Làng, cha mẹ của các em nói chuyện nhỏ nhẹ và cư xử nhẹ nhàng hơn khi ở nhà. Các em thích ở Làng vì thấy được sự thay đổi của cha mẹ mình.

 

 

Các em làm tôi bất ngờ mỗi ngày. Các em luôn luôn cựa quậy và lao nhao trong suốt giờ pháp thoại nhưng sau đó tôi hỏi câu gì liên quan đến bài pháp thoại thì các em đều biết. Khi trở về lại nhà, chính các em là người ghi nhớ và duy trì sự thực tập lâu hơn cả cha mẹ mình. Các em như một tờ giấy trắng vậy. Nhìn lại thời gian tôi được tới chùa lúc còn nhỏ xíu, hồi đó tôi cũng ghi nhớ mọi thứ. Khi chăm sóc cho các em tại Làng Mai, tôi thấy các em đích thực là tiếng chuông chánh niệm cho tôi, các em đã giúp tôi rất nhiều trong sự thực tập. Tôi làm gì, nói gì, các em đều ghi nhớ suốt mấy năm trời. Tôi chỉ muốn vẽ lên những trang giấy trắng ấy những gì đẹp và lành nhất mà thôi.

Tôi nhớ có một lần, các em cứ nhốn nháo gây ồn làm tôi mệt mỏi quá chừng. Chỉ sau một tuần, tôi bị mất tiếng luôn. Các em xúm nhau la hét, chạy nhảy, làm đủ thứ mà các em muốn. Quá mỏi mệt nên tôi nằm xuống đất, lúc đó, các em gái bảo các em trai: “Im lặng nào, nhìn sư cô Định Nghiêm nè, sư cô mệt vì chúng ta ồn ào quá.” Rồi các em tự lắng xuống mà chẳng cần tôi phải nói gì. Chúng tôi thương yêu nhau nên khi thấy tôi mệt là các em tự động tìm cách giúp tôi hết mệt.

Tôi nhận ra rằng điều quan trọng nhất mà ta có thể trao truyền cho các em chính là cách sống của chúng ta. Trẻ em rất nhạy cảm. Các em không sống bằng lý trí mà sống bằng cảm xúc. Vậy nên, sự có mặt trọn vẹn, lắng dịu, nhẹ nhàng và bình an là món quà quý nhất mà chúng ta có thể hiến tặng cho các em. Và chúng ta cần thực tập để có thể chế tác được những phẩm chất này.

 

 

Cách tốt nhất để trao truyền sự thực tập cho các em là kể chuyện và cho các em biểu diễn những câu chuyện ấy qua hình thức kịch. Các em cũng thích thực tập Làm mới và Thiền trà với ba mẹ. Vì vậy, sẽ rất hay nếu ta mời ba mẹ các em tới tham dự những buổi sinh hoạt này. Lần nào chúng tôi tổ chức các buổi sinh hoạt như vậy, cả ba mẹ và các em đều rất xúc động và hạnh phúc.

Có nhiều em mỗi năm đều về Làng, vì vậy, tôi được chứng kiến các em lớn lên. Mùa hè năm ngoái, tôi nghe nói các em nhỏ thành lập một tăng thân và thường xuyên liên lạc với nhau. Khi về Làng, các em cùng nhau tạo thành một nhóm, rồi chào đón các bạn mới, làm các bạn cảm thấy dễ chịu. Các em chơi với nhau rất vui vì vậy dù bước qua tuổi thiếu niên, nhiều em vẫn muốn ở lại trong chương trình trẻ em.

Nhìn các em, tôi có thể thấy được tương lai đạo Bụt ở phương Tây. Sự thực tập chánh niệm giờ đây đã trở nên thân thuộc, tự nhiên đối với các em. Vì đã được học từ khi còn nhỏ nên khi lớn lên, sự thực tập trở thành điều rất đỗi bình thường và là sự sống của các em. Các em nắm được tinh yếu của sự thực tập mà không còn bị mắc kẹt vào những lập luận của trí năng. Vì vậy, tôi tin là các em sẽ biết cách sáng tạo và làm cho sự thực tập chánh niệm phù hợp hơn với xã hội phương Tây trong tương lai.

Chắp tay – xá chào

Trong thiền viện hay trong các khóa tu, mỗi khi gặp nhau ta phải chắp hai tay trước ngực thành một búp sen để chào nhau. Cử chỉ này cần được làm trong chánh niệm: ta thấy rõ ta đang làm một búp sen để tặng người đối diện. Trong khi chắp tay ta trở thành tỉnh thức, và người được ta chào cũng trở nên tỉnh thức. Người này cũng phải chắp tay lại thành búp sen để đáp lễ. Tuyệt đối không nên chắp tay một cách máy móc. Chắp tay máy móc còn tệ hơn là không chắp tay. Gặp người khác, ta phải dừng lại, và phải chắp tay chào một cách cung kính như ta chắp tay chào Bụt vậy. Thái độ cung kính và tỉnh thức của ta, người ấy cũng sẽ chắp tay lại và trong tâm người ấy cũng sẽ phát sinh niềm cung kính và sự tỉnh thức. Một cái chắp tay như thế có thể đem tính Bụt trở về nơi hai con người cùng một lúc. Khi chắp tay thành búp sen ta thầm đọc bài kệ sau đây:

Sen búp xin tặng người

Một vị Bụt tương lai

 

 

Gặp một em bé ta cũng chắp tay cung kính như gặp một người lớn. Nếu ta chào em bé như thế, em bé sẽ biến đổi một cách lạ kỳ, và chính ta, nếu ta thực tập cách chào này cho nghiêm chỉnh ta cũng sẽ biến đổi. Ta không chào người vì bằng cấp, địa vị, trí thông minh hay nhan sắc của người ấy mà vì người ấy là một người, người ấy có khả năng tỉnh thức. Cái chào của ta có tính chất bình đẳng tuyệt đối. Chào được như thế, sau này ta sẽ có một cái nhìn rất lạ đối với mọi loài và mọi vật, kể từ sỏi đá cỏ cây côn trùng cho đến một đám mây bay.

Mỗi khi ta được trao một vật gì, như một tách trà, một trái lê hoặc một tờ giấy ta cũng nên chắp tay một cách cung kính trước khi đón nhận Cái chắp tay của ta, cũng giống như tiếng chuông có thể tạo ra sự tỉnh thức nơi ta và nơi người đối diện. Thiền tập là như thế: thắp sáng ý thức trong từng giây khắc của cuộc sống.

 

Điều gì xảy ra khi quơ dép có chánh niệm?

(Sư chú Chân Trời Tương Tức)

Bạn hiền ơi, có bao giờ bạn có một ước ao lạ lùng chưa? Chẳng hạn bạn có phép thần thông như bay trong không gian hoặc đi trên mặt nước. Có lẽ điều này chỉ có thể xuất hiện trong phim ảnh hay trong giấc mơ mà thôi. Tuy nhiên, ngày hôm nay, bạn sẽ khám phá và sở hữu phép thần thông một cách đơn giản và thực tế. Từ đó, bạn có thể có được một “THẦN thái chánh niệm, THÔNG suốt mọi chuyện”. Hơn thế nữa, bạn sẽ có dịp nhận diện và tiếp xúc những điều mầu nhiệm của cuộc sống bằng chính con người bạn mà không phải là ai khác.

Bạn có nhớ lần quơ dép gần đây nhất là lúc nào chứ? Có thể bạn nhớ hoặc không nhớ. Dù sao đi chăng nữa, hôm nay, bạn sẽ được chia sẻ một điều đáng nhớ khi quơ dép. Đó là ứng dụng thi kệ này vào trong cuộc sống để giúp bạn có được hạnh phúc hơn, bình an hơn. Bài thi kệ “Quơ dép” như sau:

“Đặt chân trên mặt đất

Là thể hiện thần thông

Từng bước chân tỉnh thức

Làm hiển lộ pháp thân”

 

 

Nếu như bạn được nhập vai trong phim “Tây Du Ký” thì bạn có muốn sở hữu 72 phép thần thông chứ? Phải chăng thần thông là khả năng biến hóa, bay lượn trên không trung hay đi xuyên qua mọi vật…? Đối với bài thi kệ này thì thần thông lại là khả năng đi trên mặt đất một cách tỉnh thức. Thần thông là khả năng nhận diện và tiếp xúc được với sự sống mầu nhiệm ngay bây giờ và ở đây. Bên cạnh đó, thần thông là một khả năng rất cụ thể, rất thực tế mà ai cũng có thể làm được. Và bạn cũng không cần tìm nó trong phim hay giấc mơ nữa vì thần thông đã có sẵn trong bạn rồi đó.

Bạn vẫn chưa tin ư? Được rồi, bây giờ mời bạn tham gia một thí nghiệm như sau. Đầu tiên, bạn hãy ngồi ngay ngắn trong tư thế vững chãi. Thở vào, bạn từ từ nhấc chân phải lên. Chú ý từng cảm giác xuất hiện nếu có. Rồi sau đó, thở ra, bạn từ từ hạ chân xuống sàn nhà. Chú ý sự xúc chạm của bàn chân với mặt sàn. Tốt lắm. Bây giờ, mời bạn đổi chân trái và làm tương tự như chân phải. Thở vào, đưa chân lên. Thở ra, hạ chân xuống. Bạn có thấy gì chứ? Một sự thoải mái hay nặng nề của đôi chân? Hoặc là cảm giác man mát ở lòng bàn chân. Dù bạn có thấy gì đi chăng nữa thì cũng xin chúc mừng bạn vì bạn vẫn còn đôi chân khỏe mạnh, vẫn có thể nhấc lên hạ xuống, đi lại thoải mái. Và nếu như bạn không có đôi chân bình thường để thực hiện thí nghiệm trên thì cũng vẫn tốt vì ít nhất bạn còn 2 tay để chống nạng bước đi. Có khi điều này còn tốt hơn so với những ai có đôi chân mà không chịu đi một cách tỉnh thức.

Đời như cơn mộng. Trong giấc mơ thì là mộng đã đành. Nhưng sống trong đời sống với mắt thấy tai nghe mà vẫn còn thấy mộng. Vì chẳng có gì là chắc thực. Con người cứ mải mê chạy theo những thứ ảo ảnh như tài, danh, sắc, thực, thuỳ rồi đâm ra tham lam, giận hờn, si mê. Bởi thế mà đau khổ cứ chồng chất, không có lối thoát. Sự thiếu hiểu biết là nền tảng cho khối khổ đau đó đã trầm luân bao nhiêu ngàn đời, ngàn kiếp. Con người cần được đánh thức sự hiểu biết và thương yêu trong mình. Tỉnh táo đón nhận mọi sự vật, hiện tượng như chúng đang là. Hoa là hoa. Chim là chim. Mình là mình mà không cần cố gắng trở thành một ai khác mới là đẹp, mới là tốt.

Nhưng để là hoa, để là chim, để là mình thì không thể tự nó có được. Mà nó cần nương vào những điều kiện, nhân duyên khác nhau mà tạo thành. Ví dụ để có hoa thì phải có nắng, phải có nước, phải có không khí… Nếu thiếu một trong những yếu tố đó thì hoa không thể biểu hiện và tồn tại. Thông thường mình nghĩ rằng mình là một thực thể tách biệt với mọi hiện tượng khác. Nhưng kỳ thực tất cả đang trong mình, làm nên mình. Khi mình gây khổ đau cho người khác thì mình cũng đã tự làm khổ đau mình rồi. Nó xảy ra ngay tức khắc chứ chẳng đợi một thời gian sau mới thấy. Nếu nói “Tôi không cần anh” thì đó là một lối suy nghĩ thiển cận và ngây thơ. Khi cùng trở về gia đình tâm linh thì điều đó lại trở nên quá dại dột và thiếu hiểu biết. Mộng nào còn hơn mộng này nữa chăng? Chính vì thế, mình cần “TỈNH táo chấp nhận – THỨC hạt hiểu thương”.

Bằng cách nào để có được sự tỉnh thức? Hãy bước từng bước chân có ý thức, có chánh niệm. Mỗi bước chân như thế sẽ nuôi dưỡng sự tỉnh thức. Lúc ấy, mình có cơ hội làm lắng dịu khổ đau để đi tới sự sáng suốt, minh mẫn và thấu hiểu rõ ràng hơn. Từng bước chân tỉnh thức nếu được duy trì thì bạn có thể làm phát khởi, thấy rõ pháp thân.

Vậy pháp thân là gì? Pháp thân là bản thể vạn hữu, là chân như. Hay nói một cách dễ hiểu hơn thì pháp thân là tất cả mọi hiện tượng như tiếng chim hót, tia nắng ấm, đám mây trắng, cành trúc xanh… Rõ ràng những mầu nhiệm ấy đang có đó nhưng mình còn đang rong ruổi chạy theo lo lắng, sợ hãi, buồn rầu… Nên mình đã đánh mất đi cơ hội thấy được sự mầu nhiệm của cuộc sống. Thường thì mình đi bằng đầu chứ chẳng phải bằng chân. Khi đi mình hay suy nghĩ này, suy nghĩ nọ, đi cho mau tới mà thôi. Nếu như bạn để tâm vào bước chân và hơi thở thì một lúc sau bạn sẽ cảm thấy tốt hơn nhiều. Tự nhiên mình cảm thấy khoẻ, thấy nhẹ. Ngoài ra, mình còn cảm thấy mọi chuyện hanh thông hơn với từng chân tỉnh thức. Bởi thế mà, “PHÁP khắp mọi nơi – THÂN chẳng trong ngoài”.

Khi nào mình nên ứng dụng thi kệ này? Mỗi khi quơ dép, đi thiền hành hoặc bước đi đâu đó mình đều có thể đọc thầm bài thi kệ. Ngày trước con chẳng để ý nhiều về quơ dép. Cứ vơ phải dép là đi luôn. Vào chùa thấy mọi người xếp dép ngay ngắn thì con cũng làm như vậy như thể là mình tuân thủ nội quy răm rắp. Nhưng kể từ khi, con biết và ứng dụng thi kệ Quơ dép thì mọi chuyện đã khác. Quơ dép không chỉ là quơ dép. Quơ dép là khả năng chánh niệm, là tỉnh thức, là thấu hiểu, là thương yêu. Bạn còn nhớ câu “Bình thường tâm thị đạo” chứ? Tức là thấy đạo từ những điều bình thường, nhỏ nhặt như việc quơ dép… Bạn không cần làm một điều gì đó cao siêu mầu nhiệm hoặc ép xác khổ hạnh mới thấy đạo. Mà chỉ cần bạn chú ý, quan sát, lắng nghe thì mọi chuyện, mọi thứ đều cho bạn những bài học ý nghĩa, giúp bạn vượt thoát khổ đau mà bạn đang có.

 

 

Để ứng dụng thi kệ Quơ dép này hàng ngày, bạn cần có phương pháp cụ thể, rõ ràng. Tuy điều này nhỏ nhưng nếu không thực hiện Đúng – Đủ – Đều thì cũng rất khó hình thành thói quen và kết quả tốt được. Đầu tiên, bạn hãy chọn một khoảng thời gian cố định trong ngày như mới ngủ dậy buổi sáng hay trước khi đi ngủ buổi tối. Tiếp theo, bạn nên chọn không gian yên tĩnh, thoáng đãng như vườn cây xanh hay thiền đường… Bạn có thể xỏ dép, xỏ giày hoặc chân không đều được, miễn là bạn bước đi một cách thoải mái. Thay vì theo thói quen trước khi quơ dép, bạn có thể thở vào, thở ra một hơi rồi đọc thầm bài thi kệ Quơ dép. Điều này giúp bạn ý thức vào hành động bạn đang làm, cụ thể ở đây là quơ dép. Nếu bạn đã làm được đến đây thì bạn cũng nên tự chúc mừng bản thân vì mình đã làm được một điều mà trước đây bạn chưa từng làm. Cứ duy trì điều này trong vòng 2-3 ngày hoặc 1 tuần, nếu bạn cảm thấy ổn thì bạn nên nâng cao sự thực tập của mình. 

Cùng với không gian và thời gian đó, trong mỗi bước đi, bạn đều đọc thầm bài thi kệ. 

Thở vào, bước một bước, đồng thời đọc thầm câu “Đặt chân trên mặt đất”. 

Thở ra, bước một bước, đồng thời đọc thầm câu “Là thể hiện thần thông”. 

Tiếp theo, thở vào, bước một bước, đọc thầm câu “Từng bước chân tỉnh thức”. 

Thở ra, bước một bước, đọc thầm câu “Làm hiển lộ pháp thân“.

 

         Rút gọn lại là

“Thở vào/một bước/mặt đất”

“Thở ra/một bước/thần thông”

“Thở vào/một bước/tỉnh thức”

“Thở ra/một bước/pháp thân”. 

 

Ban đầu, mình sử dụng phương pháp này để chuyên chú nhất tâm. Nhưng nếu thực tập một thời gian thì tự nhiên mình sẽ có những cái thấy riêng. Những bước chân sau này sẽ khác hẳn với những bước chân trước đây cả về hình thức và nội dung.

Chúc bạn thực tập Quơ dép có nhiều hoa trái tốt lành !



Thắt dây an toàn

(Trích pháp thoại của Sư Ông Làng Mai ngày 20.07.2003 tại xóm Hạ, Làng Mai)

Làng Mai có một bài kệ để nhắc cho chúng ta là mỗi khi lên xe hơi phải buộc dây lưng lại và phải lái cho cẩn thận. Bài kệ đó như thế này:

 “Hai phần ba tai nạn
Xảy ra ở gần nhà
Biết vậy tôi cẩn trọng
Dù không đi đâu xa”
 

Khi mình đi ra chợ có mấy cây số, mình cần gì phải cột thắt dây lưng làm gì cho mất công và mình lái cũng không cẩn thận lắm. Mình nghĩ là chạy đường trường 5 giờ đồng hồ, 8 giờ đồng hồ mới cần phải thắt dây lưng đúng không? Nhưng mà kỳ thực khi người ta thống kê thì hai phần ba những tai nạn xảy đến cho mình trong những lúc mình đi những quãng đường rất ngắn. “Hai phần ba tai nạn, xảy ra tại gần nhà” đó là tiếng chuông chánh niệm “biết vậy tôi cẩn trọng, dù không đi đâu xa.” Rồi đi hai ba cây số cũng vậy, cũng phải thắt dây lưng lại và cũng phải lái cho thật đàng hoàng, đó là sự thực tập chánh niệm để bảo hộ cho cái thân của mình.

Khi chúng ta thực tập theo phương pháp Bụt dạy thì chúng ta cũng phải làm tương tự như vậy. Chúng ta phải thắt sợi dây lưng của chúng ta lại và sợi dây lưng này tức là “chánh niệm.” Sợi dây an toàn của chúng ta là chánh niệm. Nếu chúng ta có chánh niệm thì chúng ta tránh được rất nhiều tai nạn khi mình nói, khi mình cười, khi mình suy tư, khi mình hành động. Nếu mình có chánh niệm thì tai nạn nó ít xảy tới. Khi mình nói, mình biết rằng mình đang nói cái gì và nói điều đó có hại gì hay không? Tại vì khi nói chúng ta có thể làm tan nát hết tất cả. Chúng ta có thể gây ra sự xáo trộn trong gia đình, tạo ra sự khổ đau trong bản thân của chúng ta và gây ra những nỗi khổ niềm đau cho người khác. Nếu có chánh niệm chúng ta không có những cử chỉ gây ra đổ vỡ trong gia đình và trong đoàn thể của mình. Mỗi khi không có chánh niệm thì mình có thể làm những điều tạo ra sự bất hòa, tạo ra sự đổ vỡ. Vì vậy chánh niệm đích thực là sợi dây lưng an toàn của người tu và muốn có chánh nhiệm thì phải biết thực tập hơi thở và bước chân. Hơi thở và bước chân đích thực là hai sợi dây. Mỗi khi ta thở thì ta chú ý tới hơi thở, ta đừng để tâm phóng đi chỗ khác. Người nào mà biết chú ý tới hơi thở thì tâm luôn luôn ở với thân và khi tâm luôn luôn ở với thân thì tâm biết cái gì đang xảy ra, đó là chánh niệm.

Một sợi dây thứ hai nữa đó là bước chân của mình. Nếu mỗi khi bước đi, mình để ý vào từng bước chân của mình thì mỗi bước chân đó đều bước trong chánh niệm. Phần lớn chúng ta đi như bị ma đuổi, đi mà không biết là mình đang đi, đi như kẻ mộng du, cho nên tâm rong ruổi đi chỗ khác. Trái lại nếu mình biết bước từng bước chân trong chánh niệm thì tâm mình luôn luôn ở với thân và mình có sự an toàn. Bước chân chánh niệm cũng là một sợi dây an toàn thứ hai, theo kinh nghiệm của Thầy. Nếu tu mà không có biết nắm lấy hơi thở và nắm lấy bước chân thì khó có thể thành, khó có thể chuyển hóa được. Không phải lâu lâu mới nắm hơi thở một lần, lâu lâu mới nắm bước chân một lần. Nếu quyết tâm tu học để chuyển hóa thì phải suốt ngày nắm lấy hơi thở và suốt ngày nắm lấy bước chân.

 

Nguồn hình ảnh: Rob Walsh
Nguồn hình ảnh: Rob Walsh

 

Ở Làng Mai sự thực tập là như vậy đó, không phải chỉ khi nào ngồi thiền thì mình mới theo dõi hơi thở, không phải chỉ khi nào nấu ăn thì mình mới theo dõi hơi thở. Mỗi khi mình dọn dẹp thiền đường, tưới rau hay giặt áo, mình cũng phải theo dõi hơi thở. Nếu không theo dõi hơi thở tức là mình không có sợi dây an toàn buộc mình lại, đó gọi là thất niệm tức là không có chánh niệm. Người tu là người phải cột sợi dây an toàn vào 24 giờ đồng hồ một ngày và sợi dây an toàn thứ nhất là hơi thở; luôn luôn phải trở về hơi thở, hơi thở là pháp bảo hộ thân tâm. Nếu không có hơi thở thì cái tâm nó chạy đi chỗ khác và không còn ai, không còn cái gì để bảo hộ cho thân và tâm mình.

Sợi dây an toàn thứ hai là bước chân. Mỗi ngày chúng ta đi thiền hành với đại chúng một lần và những bước chân của chúng ta, bước nào cũng đi trong chánh niệm. Cái đó rất tốt nhưng chừng đó không đủ. Vì vậy cho nên suốt ngày mỗi khi cần di chuyển từ một chỗ này sang một chỗ khác dầu chỉ ba bước hay năm bước thì chúng ta cũng phải áp dụng phương pháp thiền đi, nghĩa là cột sợi dây chánh niệm đó lại. Bước nào cũng bước trong chánh niệm và bước nào cũng đi như người tỉnh thức mà không đi như bị ma đuổi, không đi như những người mộng du. Những người học trò giỏi của Thầy là những người làm được như vậy, có thể không thuyết pháp hay, không hiểu kinh điển. Những bước chân không có chánh niệm và hơi thở không có chánh niệm thì những người đó không phải là học trò giỏi của Thầy. Những người đó có thể làm máy vi tính rất giỏi, tổ chức khóa tu rất hay, tổ chức ngày Phật đản rất thành công nhưng không phải là đệ tử giỏi của Thầy. Đệ tử giỏi của Thầy là người suốt ngày nắm được hơi thở và nắm được bước chân. Khi mình nắm được hơi thở và nắm được bước chân thì chắc chắn thế nào cũng được chuyển hóa. Nắm được hơi thở, nắm được bước chân tức là luôn luôn có sợi dây an toàn. Không những mình sẽ được chuyển hóa, mà trong hiện tại mình biết nói những gì và không nên nói những gì, mình biết làm gì và không nên làm gì. Có những điều mình nói ra có thể tạo nên sự đổ vỡ trong lòng mình và trong lòng người kia; khi có chánh niệm thì mình sẽ không nói như vậy, mình sẽ không làm như vậy.

Hầu hết chúng ta thông minh, ta biết nhưng đến lúc sự việc xảy ra, mình vẫn cứ nói và làm hành động đó như thường. Ta gây ra đổ vỡ rồi ta bứt tóc, đánh ngực, ta nói: “Mình đã biết nói câu đó thì nó tan nát hết, mà tại sao mình cứ nói. Mình biết rằng làm hành động đó sẽ tan nát hết, tại sao mình cứ làm?”. Mình cúi xuống lạy Bụt và phát nguyện từ sau con sẽ không nói như vậy, sẽ không làm như vậy. Mình rất thành thật, mình rất thật lòng khi sống với Bụt. Nhưng 3-4 ngày sau hoặc là tháng sau, mình lại nói và hành xử trở lại giống hệt như vậy. Tại sao? Mình có dư thiện chí, mình có dư thông minh nhưng vì tập khí, thói quen của mình.

 

 

Đó gọi là tập khí, habit energy, là thói quen “ngựa theo lối cũ” và chỉ có một phương pháp để đối trị với nó, là chánh niệm. Nếu mình biết hơi thở chánh niệm, biết bước chân chánh niệm thì mỗi khi tập khí đó sắp lên,“trời ơi tập khí nó tới, nó đang đẩy tôi, nó xúi tôi nói cái đó nữa đây, nó xúi tôi làm cái đó nữa đây”. Nhưng mà kỳ này tôi không chịu xua nó đâu, đó là nhờ có chánh niệm. Chánh niệm là câu trả lời duy nhất. Thành ra muốn bẻ gãy vòng luẩn quẩn thì chỉ có chánh niệm. Chánh niệm không phải mình muốn là nó có liền. Chánh niệm cần phải thực tập, thực tập hơi thở và bước chân. Hơi thở và bước chân là hai sợi dây an toàn, cung cấp cho mình sự an ninh. Mỗi khi tập khí đó bắt đầu trồi lên và mình bắt đầu nói, bắt đầu làm những điều có thể gây tan vỡ thì chánh niệm có đó, phải không? Mình có khả năng không nói và không làm. Ba má nhiều khi gây lộn nhau cũng vì chuyện nhỏ xíu à. Má nói câu đó, ba phản ứng giống hệt như vậy rồi hai bên làm khổ nhau. Rồi hai ba tháng sau, má nói câu đó, ba phản ứng như vậy và hai bên làm khổ nhau. Không phải là má không biết, ba không biết; má biết rất rõ, hễ nói câu đó và phản ứng như vậy thì gia đình sẽ lục đục. Ba má biết rất rõ và không muốn làm như vậy mà vẫn cứ làm như thường. Và khi ba má làm khổ nhau thì đồng thời mình làm khổ con. Cho nên ba má phải thực tập hơi thở và bước chân.

Xin nhắc lại, mỗi ngày thực tập thiền đi một lần không đủ. Mỗi ngày thực tập một giờ đồng hồ, theo dõi hơi thở một giờ đồng hồ không đủ. Hăm ba giờ đồng hồ còn lại làm gì? Hăm ba giờ đồng hồ còn lại để cho thất niệm kéo mình đi và mình chỉ có chánh niệm một giờ đồng hồ thôi thì đâu có đủ. Cho nên trong một đạo tràng như là đạo tràng Mai Thôn, các thầy các sư cô và các phật tử thực tập hơi thở hăm bốn giờ một ngày, thực tập thiền hành hăm bốn giờ một ngày, nghĩa là mình phải thắt sợi dây an toàn suốt ngày. Ở chùa cũng vậy, ở Mai Thôn cũng vậy, ở Đình Quán cũng vậy, ở Từ Hiếu cũng vậy. Các thầy, các sư cô phải thực tập hăm bốn giờ đồng hồ một ngày mới chuyển hóa được, còn thực tập một giờ thì đâu có thấm thía gì, đó là vấn đề thứ nhất. Vấn đề thứ hai là tất cả mọi người đều phải thực tập chứ không phải chỉ một vài người thực tập. Ví dụ trong một đại chúng một trăm người mà chỉ có hai mươi người thực tập thiền hành, còn tám mươi người kia đi như bị ma đuổi thì hai mươi người này thực tập rất là khó. Tất cả mọi người đều thực tập đi thiền trong chánh niệm, người này nhắc người kia, thì chỉ trong vòng một tháng, hai tháng là không khí của đạo tràng đã thay đổi liền. Người nào cũng đi trong chánh niệm, không chỉ trong giờ thiền hành mà đi chánh niệm trong tất cả mọi trường hợp. Hễ mình di chuyển từ cư xá của mình tới nhà bếp là mình áp dụng phương pháp thiền đi hay từ phòng ở đi tới phòng rửa mặt, mình cũng áp dụng phương pháp thiền đi. Mỗi bước chân phải đi vào trong Tịnh độ, mỗi bước chân không thể nào bước ra khỏi Tịnh độ, phải quyết tâm như vậy thì mới có thể chuyển hóa được. Không phải chỉ một số người trong chúng quyết tâm như vậy là đủ, tất cả mọi người trong chúng đều phải làm như vậy thì mới tạo ra được năng lượng lớn bảo hộ cho cả chúng. Mình tu mà tu khơi khơi thì nó chỉ có hình thức và không đạt tới sự chuyển hóa và sự an toàn. Mình phải làm cho hết lòng, mình phát nguyện hễ mỗi khi bước một bước chân thì bước trong chánh niệm. Mỗi khi thở một hơi thở thì con nguyện rằng hơi thở đó nằm trong chánh niệm.

 

 Nguồn hình ảnh: Rob Walsh

Lời nguyện cầu cho tất cả những ai đang khổ đau vì chiến tranh và xung đột

 

 

Giờ phút này chúng con tập hợp tại đây như một gia đình tâm linh để cùng nhau chế tác và gửi năng lượng tâm linh và từ bi đến người dân Palestine, Do Thái và tất cả những ai đang bị kẹt trong hoàn cảnh chiến tranh và xung đột tại Trung Đông.

Chúng con cũng cầu nguyện cho người dân các nước Ukraina, Nga, Sudan và tất cả những ai đang đau khổ vì nạn chiến tranh. Hiện đang có hơn 100 cuộc xung đột vũ trang xảy ra trên thế giới, trong đó có những cuộc xung đột kéo dài hơn nửa thế kỷ.

Nguyện cho tất cả mọi người đều được an toàn. Mong cho ai cũng tìm được bình an trong chính tự thân dù hàng ngày phải sống trong sự hiểm nguy và gian khổ. Nguyện cho các nhà lãnh đạo thế giới của chúng ta thức tỉnh nhờ năng lượng của từ bi để cùng nhau tìm cách chấm dứt sự giết chóc và đau khổ vô biên do chiến tranh gây ra.

Mong sao chúng ta cùng nhau vun bồi sự cởi mở, tâm không phân biệt, không cố chấp vào quan điểm của mình để có thể chuyển hóa bạo động, cuồng tín, và giáo điều, là những gốc rễ của chiến tranh và xung đột.

Lạy đức Bồ tát Quan Thế Âm, trong giờ phút này, chúng con xin niệm danh hiệu của ngài. Chúng con nguyện học theo hạnh Bồ tát, biết lắng tai nghe cho cuộc đời bớt khổ. Chúng con nguyện ngồi nghe với tất cả sự chú tâm và thành khẩn của chúng con. Chúng con xin tập ngồi nghe với tâm không thành kiến. Chúng con xin tập ngồi nghe mà không phán xét, không phản ứng. Chúng con nguyện tập ngồi nghe để hiểu. Chúng con xin nguyện ngồi nghe chăm chú để có thể hiểu được những điều đang nghe và cả những điều không nói. Chúng con biết chỉ cần lắng nghe thôi, chúng con cũng đã làm vơi bớt rất nhiều khổ đau của thế giới rồi.

Thực tập: Làm lắng dịu cảm xúc và vận động thân thể

— Chân Pháp Ấn —

Thông thường khi chúng ta ngồi thiền để quán chiếu, tìm ra gốc rễ của những nỗi buồn phiền và vướng mắc trong ta thì trong vòng một hoặc hai phút, những hình ảnh sâu đậm từ thời thơ ấu sẽ đi lên. Điều quan trọng là chúng ta ý thức về cơ thể của mình trong những lúc ấy. Có thể cơ thể chúng ta bắt đầu run lên và chúng ta bật khóc – Chúng ta có thể khóc trong vòng vài phút hoặc thậm chí lâu hơn. Cảm xúc của ta cũng theo đó mà vơi nhẹ đi. Làm vơi nhẹ cảm xúc có công năng trị liệu rất lớn. Sau một hồi, chúng ta sẽ cảm thấy nhẹ nhàng hơn và chúng ta thường đạt được những cái thấy (tuệ giác) quan trọng. Dần dần, chúng ta sẽ có nhiều tự do hơn.

Quá trình làm vơi nỗi khổ đau này rất hay. Khóc và buông bỏ mang lại rất nhiều sự trị liệu. Đó là điều mà chúng ta ai cũng mong đợi. Lần đầu tiên những hình ảnh thời thơ ấu đi lên, có thể ở mức độ thứ 10 trên thang đo từ 1 đến 10, với 10 là nấc thang mạnh nhất, lần kế đến có thể là 8, rồi kế nữa có thể là 6, 5, 4, 3, 2, 1. Và với nguồn năng lượng được phóng thích ra ngoài, chúng ta có khả năng nhìn sâu và đạt được sự hiểu biết, chính lúc này tình thương yêu đích thực được phát sinh. Chúng ta sẽ không còn tức giận nữa, chúng ta có thể hiểu và thực sự thương được người đã làm ta tổn thương.

Điều quan trọng là chúng ta không để mình kẹt vào quá trình này, quá trình buông bỏ và làm lắng dịu khổ đau, cũng không kẹt vào nỗi khổ đau đang đi lên. Chúng ta chỉ quan sát xem chúng đi lên như thế nào. Quá trình này phải được diễn ra một cách tự nhiên. Sự trị liệu đích thực sẽ xảy ra cùng với sự hiểu biết đích thực. Những nguồn năng lượng khổ đau, căng thẳng, nặng nề này có thể ăn sâu vào cơ thể ta, vào trong những cơ quan nội tạng của ta như thận, gan hoặc tim. Sau khi nguồn năng lượng này được phóng thích, cơ thể và các cơ quan nội tạng của ta sẽ bị mất thăng bằng, dễ bị tổn thương, do đó điều quan trọng là ta phải chăm sóc chúng và chuyển nguồn năng lượng này ra bên ngoài bằng một loại hình thể dục thể thao đều đặn nào đó, như thái cực quyền, khí công,… để giúp cơ thể được trị liệu.

Thực tập: Làm mới

Chúng ta có thể thực tập làm mới trong gia đình, trong tăng thân, với người mà ta đang truyền thông khó khăn. Chúng ta cũng có thể làm mới với chính mình. Ở Làng Mai, chúng tôi thực tập làm mới mỗi tuần. Mọi người ngồi lại với nhau thành một vòng tròn, ở giữa có một bình hoa tươi. Chúng ta theo dõi hơi thở trong khi chờ vị chủ tọa bắt đầu. Làm mới có ba bước: thứ nhất là tưới hoa, thứ hai là bày tỏ sự hối tiếc, thứ ba là nói lên những niềm đau và khó khăn của mình. Sự thực tập này giúp ngăn chặn tình trạng khổ đau chồng chất từ tuần này sang tuần khác và tạo ra một nguồn không khí hòa hợp, an toàn cho mọi người trong tăng thân.

Chúng ta luôn bắt đầu bằng phương pháp tưới hoa. Khi có ai đó đã sẵn sàng làm mới, người ấy chắp tay lên, những người khác cũng chắp tay đáp lại tỏ ý là đã sẵn sàng lắng nghe và người ấy có thể chia sẻ. Sau đó người ấy đứng dậy, từ từ đi đến bình hoa, nâng bình hoa lên và trở về chỗ ngồi của mình. Khi nói, những lời nói của người ấy chứa đựng sự tươi mát, đẹp đẽ của những bông hoa trước mặt người ấy. Trong suốt thời gian tưới hoa, người ấy công nhận những phẩm chất hiền thiện, quý giá của những người khác. Đây không phải là một sự tâng bốc hay dua nịnh mà đó là một sự thật. Mỗi người ai cũng có những điểm tốt, điểm mạnh, chỉ cần ý thức là ta có thể thấy được những điều đó. Không ai được cắt ngang lời người đang chia sẻ (người đang giữ bình hoa). Mọi người phải thực tập lắng nghe sâu và cho phép người ấy có đủ thời gian để nói ra những gì người ấy cần nói. Khi nói xong, người ấy đứng dậy, từ từ mang bình hoa trả lại giữa vòng tròn.

Chúng ta không nên xem thường bước tưới hoa đầu tiên này. Khi thật sự công nhận những phẩm chất tốt đẹp của người khác thì chúng ta dễ dàng buông bỏ những trách móc, giận hờn trong ta. Tự nhiên ta sẽ mềm ra, cái nhìn của ta cũng trở nên thoáng rộng và bao dung hơn. Ta có khả năng ôm ấp, chấp nhận được tất cả những gì đang xảy ra. Khi không còn bị kẹt vào những tri giác sai lầm, bực dọc và phán xét, chúng ta có thể dễ dàng tìm ra phương cách hòa giải với những người khác trong tăng thân hoặc trong gia đình. Điểm chính yếu của sự thực tập này là khôi phục lại tình thương và sự hiểu biết của mọi người trong tăng thân.

Bước thứ hai của phần làm mới là xin lỗi người mà ta đã làm tổn thương. Đôi khi chỉ cần một câu nói thiếu cẩn trọng, thiếu chánh niệm là ta đã làm cho người khác bị tổn thương rồi. Buổi làm mới là một cơ hội giúp ta nhớ lại những lỗi lầm của mình trong tuần để chuyển hóa và làm mới trở lại.

Bước thứ ba, chúng ta dùng lời ái ngữ để nói cho người kia biết là người kia đã làm ta tổn thương. Chúng ta nói ra sự thật mà không làm tổn hại nhau vì chúng ta muốn trị liệu cho tăng thân chứ không phải muốn phá hoại tăng thân. Lắng nghe sâu là một phần quan trọng của sự thực tập này. Khi ngồi trong vòng tròn mà tất cả mọi người đều đang thực tập lắng nghe sâu thì những lời nói của ta sẽ trở nên dễ thương hơn, có tính chất xây dựng hơn. Chúng ta không tranh cãi hay đổ lỗi.

Trong buổi làm mới, phần thực tập lắng nghe sâu bằng tâm từ bi rất quan trọng. Chúng ta lắng nghe những khó khăn và niềm đau của người khác với tinh thần tự nguyện để làm vơi bớt nỗi khổ đau của họ mà không phải để phê phán hay tranh cãi. Chúng ta lắng nghe với tất cả sự chú tâm của mình. Cho dù người kia có nói điều gì không đúng sự thật, chúng ta cũng vẫn tiếp tục lắng nghe để người kia có thể nói hết những niềm đau nỗi khổ trong lòng, giúp họ vơi bớt những căng thẳng. Nếu chúng ta trả lời lại hoặc chỉnh sửa họ thì sự thực tập sẽ không mang lại kết quả tốt đẹp. Chúng ta chỉ lắng nghe thôi. Nếu cần cho người kia biết những tri giác của họ không đúng thì chúng ta có thể đợi vài ngày sau và nói một cách kín đáo, trầm tĩnh. Rồi những buổi làm mới kế tiếp, có thể chính người kia tự sửa đổi những sai lầm ấy mà chúng ta không cần phải nói gì cả. Chúng ta có thể kết thúc buổi làm mới bằng một bài hát, hay nắm tay nhau và cùng thở với nhau trong vài phút.

Thực tập: Mẩu giấy nhắn tin

Khi có một ai đó làm chúng ta buồn khổ hoặc tức giận, chúng ta cần phải cho người đó biết trong vòng 24 giờ đồng hồ. Nếu vì quá buồn tủi, khổ đau mà chúng ta không có khả năng nói với người ấy bằng ngôn ngữ yêu thương thì chúng ta có thể viết một mẩu nhắn tin đưa cho người ấy trước khi 24 giờ trôi qua.

“Mẩu giấy nhắn tin” như sau:

Ngày:

Giờ:

Anh (chị,………) thương mến

Sáng nay (chiều nay) anh đã nói những điều làm cho em rất giận và em rất khổ đau. Em muốn anh biết điều này. Anh đã nói: ‘… ’

Xin anh hãy cùng em nhìn lại những gì anh đã nói và chúng ta cùng ngồi lại với nhau một cách cởi mở, bình tĩnh để hiểu rõ hơn vấn đề này vào tối thứ sáu.

Em của anh,……………

Ngay bây giờ không hạnh phúc lắm.

Thực tập: Năm cái lạy

Thiền lạy giúp chúng ta trở về với Đất Mẹ, trở về với gốc rễ tổ tiên tâm linh và huyết thống của chúng ta để nhận ra rằng chúng ta không bao giờ đơn độc một mình, trái lại chúng ta được kết nối với tổ tiên tâm linh, huyết thống và đất đai của chúng ta. Chúng ta tiếp xúc với Đất Mẹ để buông bỏ ý niệm ta là một cái ngã riêng biệt và nhắc nhở ta nhớ rằng chúng ta cũng là Đất Mẹ, một phần của sự sống.

Khi lạy xuống, chúng ta hít vào tất cả sức mạnh, sự vững chãi của Đất Mẹ, của tổ tiên huyết thống, tâm linh và tổ tiên đất đai. Và chúng ta thở ra những nỗi khổ niềm đau của chúng ta, những tâm hành giận dữ, hận thù, sợ hãi, thiếu thốn và sầu muộn.

Lạy thứ nhất

Trở về kính lạy, liệt vị tiền nhân, dòng họ tổ tiên, gia đình huyết thống, hai bên nội ngoại.

Con thấy cha mẹ mà xương thịt và sự sống đang có mặt và lưu nhuận trong từng tế bào và mạch máu của con. Qua cha con và mẹ con, con thấy ông bà, bên nội cũng như bên ngoại, đã và đang đi vào con với tất cả mọi năng lượng, mọi trông chờ, mọi ước mơ, cũng như tất cả trí tuệ và kinh nghiệm của tổ tiên trải qua bao nhiêu thế hệ. Con mang trong con sự sống, dòng máu, kinh nghiệm, tuệ giác, hạnh phúc và khổ đau của các thế hệ tổ tiên. Những yếu kém, những tồn tại và những khổ đau truyền lại, con đang tu tập để chuyển hóa. Những năng lượng của trí tuệ, của kinh nghiệm và của thương yêu mà liệt vị truyền đạt lại, con đang mở rộng trái tim con và xương thịt con để mà tiếp nhận. Con có gốc rễ nơi cha, nơi mẹ, nơi ông bà, tổ tiên. Con chỉ là sự nối tiếp của tổ tiên và dòng họ. Xin cha mẹ, ông bà và tổ tiên hỗ trợ cho con, che chở cho con, truyền thêm năng lượng cho con. Con biết rằng con cháu ở đâu thì tổ tiên ở đó; con biết cha mẹ nào, ông bà nào cũng thương yêu, đùm bọc và hộ trì cho con cho cháu, dù khi sinh tiền có lúc gặp phải khó khăn hay rủi ro mà không bộc lộ được niềm thương yêu và sự đùm bọc đó. Con thấy cha ông của con, từ Lạc Long Quân qua các vua Hùng và biết bao nhiêu thế hệ những người khai sáng đất nước, mở rộng cõi bờ, gìn giữ núi sông và un đúc nên nếp sống Việt Nam có thủy, có chung, có nhân, có hậu. Con là sự tiếp nối của liệt vị. Con cúi rạp mình xuống để đón nhận năng lượng của dòng họ và tổ tiên của gia đình huyết thống con. Xin tổ tiên phù hộ độ trì cho con.

Lạy thứ hai

Trở về kính lạy, Bụt và tổ sư, gia đình tâm linh qua nhiều thế hệ.

Con thấy thầy con, con thấy sư ông của con, người đã dạy cho con biết hiểu, biết thương, biết thở, biết cười, biết tha thứ, biết sống trong giây phút hiện tại. Con thấy, qua thầy của con, qua sư ông của con, con tiếp xúc được với các thế hệ thánh tăng qua các thời đại: các vị tổ sư Tăng Hội, Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông, Vạn Hạnh, Đại Đăng, Tuệ Trung, Trúc Lâm, Pháp Loa, Huyền Quang, Nguyên Thiều, Liễu Quán; con tiếp xúc được với các vị Bồ tát và với Bụt Thích Ca Mâu Ni, người đã khai sáng gia đình tâm linh của con, đã có từ 2600 năm nay. Con biết Bụt là thầy con mà cũng là tổ tiên tâm linh của con. Con thấy trong con có chất liệu nuôi dưỡng của Bụt, của tổ, của các thế hệ cao tăng và năng lượng của liệt vị đã và đang đi vào trong con, đã và đang làm ra sự bình yên, an lạc, hiểu biết và thương yêu trong con. Con biết Bụt đã giáo hóa cho gia đình huyết thống của con, đã làm đẹp, làm lành nếp sống đất nước của con và của dân tộc con. Bụt đã làm cho dân tộc con trở nên một dân tộc thuần từ và văn minh, điều này con thấy rõ trong nền văn minh Lý Trần. Con biết nếu không có Bụt, có tổ, có thầy thì con không biết tu tỉnh và thực tập an lạc cho con và cho gia đình con. Con mở rộng trái tim và xương thịt con để tiếp nhận kinh nghiệm, tuệ giác, tình thương, sự che chở và năng lượng từ bi của Bụt và của các thế hệ thánh tăng, gia đình tâm linh của con. Con là sự tiếp nối của Bụt và của các thế hệ tổ tiên tâm linh của con. Xin Bụt và chư tổ, xin sư ông và thầy truyền cho con nguồn năng lượng thương yêu, an lạc và sự vững chãi của liệt vị. Con nguyện tu tập để chuyển hóa và để truyền về cho thế hệ tương lai năng lượng của Bụt, của tổ và của thầy.

Lạy thứ ba

Trở về kính lạy, liệt vị tiền nhân, khai sáng đất này, sông núi khí thiêng, hằng ngày che chở.

Con thấy con đang đứng trên đất nước này và tiếp nhận công ơn tạo lập của tiền nhân đất nước này, trước hết là các vua Hùng, rồi các vị khai sáng các triều Tiền Lê, Tiền Lý, Ngô, Đinh, Lý, Trần, Hậu Lê, Nguyễn cùng với các thế hệ tổ tiên và biết bao nhiêu người có tên tuổi và không có tên tuổi đã đem tài trí, sự kiên nhẫn và sức chịu đựng để làm cho đất nước này trở thành nơi nương náu của mấy mươi dân tộc; đã lập nên trường học, nhà thương, xây dựng cầu cống, đường sá, chợ búa, đã thiết lập nên xã hội có luật pháp, có khoa học làm cho mức sống được nâng cao. Con tiếp xúc được với những thế hệ tổ tiên ngày xưa đã sinh sống trên đất nước này và đã biết sống an lành với mọi loài và với thiên nhiên. Con sống ở đây, học hòa hợp với thiên nhiên, với con người, và con cảm thấy năng lượng của đất nước này đi vào trong con, yểm trợ con, chấp nhận con. Con xin nguyện tiếp tục giữ gìn và làm tiếp nối những dòng năng lượng ấy. Con xin nguyện góp phần chuyển hóa những bạo động thù hằn và vô minh còn tồn tại trong xã hội này. Xin phù hộ độ trì cho chúng con.

Lạy thứ tư

Trở về kính lạy, gia đình huyết thống, gia đình tâm linh, gia hộ độ trì cho người con thương.

Những nguồn năng lượng vô biên mà con vừa tiếp nhận được, con xin truyền gửi cho cha con, cho mẹ con, cho những người con thương yêu: những người đã từng khổ đau, đã từng lo lắng, đã từng buồn khổ vì con, vì những vụng về và dại dột của con trong quá khứ, và cũng đã từng lo lắng buồn khổ vì hoàn cảnh khó khăn và không may của các vị. Con xin truyền gửi nguồn năng lượng ấy để nguyện cầu và tiếp sức cho cha con, cho mẹ con, cho anh chị em của con, cho tâm hồn họ lắng dịu lại, cho khổ đau trong lòng (những) người ấy được chuyển hóa, cho (những) người ấy nở được nụ cười, cho (những) người ấy cảm nhận được niềm vui sống, cho (những) người ấy được nhẹ nhàng trong thân thể và an lạc trong tâm hồn. Con hết lòng cầu mong cho (những) người ấy có hạnh phúc và an lạc. Con biết nếu (những) người ấy có an lạc thì con cũng có an lạc. Con cảm thấy trong lòng con không có oán hận trách móc (những) người ấy một mảy may nào. Con lạy tổ tiên, ông bà trong gia đình huyết thống và trong gia đình tâm linh của con phù hộ độ trì cho người con thương, cho những người mà con đã nguyện thương yêu và chăm sóc. Con thấy con không còn là một cái ta riêng biệt mà con đã trở thành một với những người con thương.

Lạy thứ năm

Trở về kính lạy, gia đình huyết thống, gia đình tâm linh, gia hộ độ trì người làm khổ con.

Con mở rộng lòng ra để truyền đi năng lượng hiểu biết và lòng xót thương của con tới những người đã làm con khổ đau và điêu đứng. Con biết người ấy cũng đã đi qua nhiều khổ đau, đã chứa chấp quá nhiều cay đắng và bực bội trong trái tim nên đã làm vung vãi những khổ đau và bực bội của người ấy lên con. Con biết những người ấy không được may mắn, có thể là từ hồi còn bé thơ đã thiếu sự chăm sóc và thương yêu, đã bị cuộc đời dằn vặt và ngược đãi bao nhiêu lần. Con biết những người như người ấy chưa được may mắn được học, được tu, đã chứa chấp những tri giác sai lầm về cuộc đời và về con, nên đã làm khổ con và làm khổ những người con thương. Con xin gia đình huyết thống và gia đình tâm linh của con truyền năng lượng cho (những) người ấy, để trái tim của họ được tiếp nhận giọt nước cam lộ mà nở ra được như một bông hoa. Con chỉ cầu mong cho người ấy được chuyển hóa để người ấy tìm ra được niềm vui sống, để không còn giữ tâm thù hận mà tự làm khổ mình và làm khổ người. Con biết vì những người ấy khổ mà không tự chủ được nên đã làm khổ con và làm khổ những người con thương. Con cũng cầu mong cho tất cả những ai đã làm cho gia đình con khổ, dân tộc con điêu đứng, kể cả những kẻ xâm lăng, cướp nước, những người hải tặc, những kẻ ích kỷ, dối trá và tàn bạo được nhờ ơn Bụt, ơn tổ, ơn tiền nhân mà cải hóa. Con thấy họ khổ và nỗi khổ ấy đang kéo dài qua nhiều thế hệ và con không muốn giữ tâm niệm sân hận, oán thù. Con không muốn cho họ khổ. Con có gốc rễ nơi tổ tiên, nơi giòng họ huyết thống và giòng họ tâm linh; trái tim con đã nở ra như một đóa hoa, con xin buông bỏ tất cả mọi hiềm hận, một lòng cầu nguyện cho kẻ đã làm khổ con, làm khổ gia đình và dân tộc con được thoát khỏi vòng tai nạn và đớn đau, để họ có thể thấy được ánh sáng của niềm vui sống và an lạc như con. Tâm con không còn mang một mảy may trách móc và oán thù. Con xin truyền đạt năng lượng của con cho tất cả những người ấy. Lạy Bụt, lạy tổ, lạy ông bà chứng minh cho con.