Thư gửi các thầy cô giáo

(Pháp thoại của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, ngày 15/6/2014 trong khóa tu 21 ngày tại Làng Mai, Pháp.)

Là một nhà giáo, tôi rất yêu nghề. Là những thầy giáo, cô giáo, chắc hẳn quý vị cũng yêu nghề. Chúng ta đều muốn đào tạo ra những con người lành mạnh, có khả năng tạo dựng hạnh phúc cho tự thân và cho xã hội. Nhiệm vụ của chúng ta không chỉ là trao truyền kiến thức mà còn là xây dựng con người, xây dựng một xã hội nhân bản để có thể chăm sóc hành tinh yêu quý của chúng ta.

Tôi có rất nhiều may mắn vì những người trẻ đến với tôi đều có cùng một ước muốn chuyển hóa tự thân, sống hạnh phúc và giúp cho những người khác cũng sống hạnh phúc như mình. Mỗi khi vào lớp, tôi luôn cảm thấy hạnh phúc vì giữa thầy trò có sự cảm thông, có tình huynh đệ, điều này giúp cho việc trao truyền và tiếp nhận trở nên dễ dàng hơn rất nhiều. Tôi hỏi thăm các học trò của tôi về đời sống của họ và tôi cũng kể cho họ nghe những khó khăn cũng như những ước mong của tôi, vì vậy luôn luôn có sự kết nối giữa thầy và trò.

Những khó khăn trong công tác giáo dục

Chúng ta biết những người trẻ và các bậc phụ huynh trong thời đại chúng ta có rất nhiều nỗi khổ, niềm đau trong lòng. Cha mẹ không truyền thông được với nhau hay giữa cha mẹ và con cái không dễ dàng nói chuyện được với nhau. Trong lòng những người trẻ luôn có sự cô đơn, trống vắng và chúng tìm cách khỏa lấp nỗi cô đơn trống vắng ấy bằng những trò chơi điện tử, phim ảnh, nghiện ngập hay những thú tiêu khiển độc hại.

Khổ đau trong lòng những người trẻ càng nhiều thì công tác giáo dục càng trở nên khó khăn. Là những thầy giáo, cô giáo, chúng ta cũng có những khó khăn. Chúng ta đã luôn cố gắng nhưng môi trường sống và làm việc của chúng ta quá nhiều khó khăn.

Là những thầy giáo, cô giáo, nếu chúng ta không hạnh phúc thì làm sao chúng ta mong đợi con em mình hạnh phúc? Đây là một vấn đề vô cùng quan trọng. Có phải là do chúng ta chưa có đủ kiên nhẫn, hiểu biết, thương yêu và tươi mát để xử lý những khó khăn này? Có phải là chúng ta đang cần một đường hướng tâm linh cụ thể để giúp chúng ta chuyển hóa tự thân và sau đó giúp chuyển hóa những người thương đang sống quanh mình? Bởi vì khi chúng ta chưa thay đổi được tự thân thì chúng ta khó lòng giúp được những người khác làm vơi bớt khổ đau của họ. Một khi chúng ta đã có được sự thành công trên con đường chuyển hóa, chúng ta sẽ trở nên vui tươi hơn, từ bi hơn và ta sẽ có khả năng giúp cho những người xung quanh cũng làm được như vậy.

Đem tâm về với thân

Điều đầu tiên chúng ta có thể làm là trở về với tự thân chúng ta. Lối ra tùy thuộc đường vào nội tâm. Trở về để chăm sóc chính mình. Chúng ta cần học cách chế tác niềm vui, cách xử lý những cảm thọ khó chịu hay lắng nghe những nỗi khổ, niềm đau trong mình để có thể hiểu được, thương được và nhờ vậy, khổ đau cũng từ đó mà được vơi nhẹ. Có những phương pháp giúp chúng ta làm được điều này.

Bằng hơi thở chánh niệm, ta đem tâm trở về với thân và sẽ nhận ra rằng trong thân của ta đang có sự căng thẳng, đau nhức và ta thở như thế nào để làm lắng dịu sự đau nhức đó. “Thở vào, tôi ý thức rõ rệt về thân thể tôi. Thở ra, tôi buông thư những căng thẳng trong thân thể tôi”. Chỉ cần thực tập thở như thế trong nửa giờ đồng hồ, hay thậm chí là trong năm phút, thì ta cũng đã có thể thay đổi được cảm xúc.

Nếu không có sự bình an trong thân thì cũng sẽ không có bình an trong tâm bởi vì thân và tâm tương tức. Ta có thể thực tập thở như thế trong những tư thế đi, đứng, nằm, ngồi. Ta có thể thực tập khi ngồi trong xe buýt hay trong xe hơi. Ta cũng có thể thực tập khi chuẩn bị bữa ăn sáng hay khi rửa bát. Vì vậy ta có rất nhiều thì giờ để thực tập buông thư.

Nghệ thuật sống

Thực tập chánh niệm là phải vui. Đó là một nghệ thuật sống. Với niệm, định và tuệ, ta có thể chế tác niềm vui bất cứ khi nào ta muốn. Cũng với năng lượng chánh niệm, ta có thể ôm ấp và xử lý những nỗi khổ, niềm đau. Thiếu năng lượng chánh niệm này, ta sẽ cảm thấy sợ hãi mỗi khi đối diện với những nỗi khổ, niềm đau đang tràn ngập trong lòng ta.

Chánh niệm là nguồn năng lượng giúp ta có mặt trọn vẹn ngay bây giờ và ở đây, giúp ta tiếp xúc được với những gì đang xảy ra trong hình hài, cảm thọ, tâm ý và trong vũ trụ này. Từ đó, ta có thể tiếp xúc với những mầu nhiệm của cuộc sống để ta được nuôi dưỡng và trị liệu.

Khi ta thở vào, thở ra có ý thức là ta đang thở chánh niệm. Khi ta đi trong ý thức là ta đang thực tập thiền đi. Khi ăn sáng trong chánh niệm là ta đang thực tập thiền ăn. Ta không cần phải ngồi suốt ngày trong thiền đường mới gọi là thực tập thiền. Chúng ta có thể thực tập mọi nơi, ngay cả khi đang tắm, đang lái xe, hay đang tập trung cho một dự án, một công việc tại công sở, hay trong những mối quan hệ với mọi người xung quanh. Năng lượng chánh niệm được chế tác bằng những hơi thở ý thức hay những bước chân chánh niệm. Chánh niệm giúp ta đem tâm trở về với thân và một khi thân tâm đoàn tụ thì ta đang thực sự an trú trong phút giây hiện tại. Những mầu nhiệm của sự sống chỉ có mặt trong giây phút đó. Quá khứ đã qua, tương lai chưa tới, sự sống chỉ thật sự có mặt ngay bây giờ và ở đây.

Chánh niệm giúp ta nuôi lớn chánh định. Với niệm và định thì tuệ giác cũng được phát sinh. Thở vào một hơi thở ý thức, ta sẽ khám phá ra những điều vô cùng đơn giản mà thiết yếu, như cái thấy rằng ta đang còn sống và đang có một hình hài. “Ta biết là ta đang có một hình hài”, đó đã là một tuệ giác rồi. “Thở vào, ta biết ta đang còn sống, còn sống là một mầu nhiệm, mầu nhiệm lớn nhất trong tất cả những mầu nhiệm.” Những người đã chết thì đâu có thể thở được nữa. Thở ra, ta có thể ăn mừng sự sống rằng phổi ta còn khỏe để thở vào, chân ta còn mạnh để có thể bước đi, có thể chạm lên đất Mẹ. Duy trì niệm và định, tuệ giác sẽ được lớn lên.

Dừng lại sự rong ruổi

Ta đang có đầy đủ những điều kiện hạnh phúc, ta không cần phải kiếm tìm thêm. Nếu ta ngồi yên và viết xuống những điều kiện hạnh phúc mình đang có thì một trang giấy không đủ, hai trang giấy cũng không đủ, hay thậm chí đến mười trang rồi mà vẫn còn quá nhiều những hạnh phúc chưa được viết xuống. Và ta sẽ nhận ra rằng mình may mắn hơn nhiều người khác, mình may mắn được sống hạnh phúc bây giờ và ở đây. “Hạnh phúc có thể có được ngay bây giờ và ở đây”, đó là lời Bụt dạy.

Nhiều người nhầm lẫn giữa hạnh phúc và sự hưng phấn. Khi ta vui trong chộn rộn, ta không có đủ bình an trong lòng, chính vì vậy hạnh phúc lúc đó không đủ sâu. Chánh niệm giúp ta nhận biết được rằng hạnh phúc chân thật không đến từ danh vọng, quyền hành, giàu sang và dục lạc. Hạnh phúc chân thật đến từ hiểu biết và thương yêu.

Hạnh phúc chân thật có nghĩa là ta không còn phải chạy đi tìm cầu thêm bất cứ điều gì nữa. Ta hài lòng với những gì ta đang có bây giờ và ở đây, ta nhận thấy có quá nhiều những điều kiện hạnh phúc vốn có quanh ta rồi. Cái thấy đó đem lại cho ta niềm vui lớn. Đó là nghệ thuật hạnh phúc, rất dễ dàng và giản dị mà ai cũng có thể làm được.

Ta chế tác niềm vui không những cho chính ta mà còn cho những người xung quanh. Khi ta có chánh niệm, năng lượng đó sẽ được lan truyền đến mọi người. Một khi ta có được niềm vui, hạnh phúc và sự tỉnh thức, ta cũng đang thắp sáng ngọn đèn tỉnh thức ấy trong những người khác. Hạt giống chánh niệm, tỉnh thức ai cũng có, chỉ là chưa được tưới tẩm, chưa được thắp sáng mà thôi. Đây là một nghệ thuật, không có gì quá khó. Một giáo viên cũng vậy, chỉ trong tích tắc bạn có thể biểu diễn những phép mầu đó, chắc chắn học sinh của bạn sẽ cảm thấy hạnh phúc.

Nhịp cầu cảm thông

Cuộc sống ngày nay tuy có nhiều phương tiện truyền thông như điện thoại thông minh, mạng xã hội… nhưng càng ngày thì sự truyền thông giữa vợ và chồng, bố mẹ và con cái, thầy cô giáo và học sinh… lại càng trở nên khó khăn. Điều đó nói lên rằng phương tiện truyền thông hiện đại không hề giúp ta truyền thông tốt hơn. Nếu ta không trở về tiếp xúc với tự thân để thấy được đâu là nguyên nhân của những sợ hãi, giận hờn và nỗi khổ, niềm đau trong ta, thì làm sao ta có thể truyền thông được với chính mình? Và một khi ta không thể truyền thông với tự thân thì làm sao ta có thể truyền thông được với những người khác?

Tái lập truyền thông và đem lại sự hòa giải là chuyện có thể làm được. Sự thực tập ái ngữ và lắng nghe giúp cho chúng ta thiết lập lại truyền thông và đưa tới sự hòa giải.

Trước tiên, chúng ta cần có mặt và hiểu được hình hài, cảm thọ, tri giác và khổ đau của chính chúng ta. Chánh niệm giúp ta có khả năng đối diện và hiểu thấu những khổ đau trong ta mà không phải trốn chạy hay tìm cách khỏa lấp chúng.

Tiếp đến, thầy cô giáo có thể ngồi lại với học sinh của mình để cùng chia sẻ những khó khăn nằm sâu bên trong mỗi người. Một khi học sinh đã cảm thông được những khó khăn của thầy cô giáo rồi thì các em sẽ không tiếp sức làm cho những khó khăn ấy lớn thêm. Cũng vậy, một khi thầy cô giáo đã lắng nghe được những khó khăn của học sinh, thầy cô giáo sẽ biết cách để giúp cho các em bớt khổ. Khi đó lớp học sẽ trở thành một không gian chia sẻ hạnh phúc cho tất cả mọi người.

Lắng nghe với tình thương và sự cảm thông giúp cho người kia trải hết lòng ra. Đó là thực tập của Bồ tát Quán Thế Âm, chỉ lắng nghe thôi, không phán xét, không phản ứng. Trong vòng nửa giờ đồng hồ lắng nghe, chúng ta đã có thể làm vơi nhẹ khổ đau trong lòng của người kia.

Thực tập nói lời ái ngữ cũng rất quan trọng. Chúng ta dùng ngôn ngữ hòa ái để nói lên sự thật về niềm đau, nỗi khổ trong ta và cũng nhẹ nhàng khuyến khích người kia mở lòng nói ra những khổ đau của họ. Ái ngữ chính là chìa khóa để mở cửa trái tim của nhau.

Chúng ta có thể áp dụng sự thực tập ái ngữ và lắng nghe trong trường học như thế nào? Chúng ta cần tạo ra những cơ hội để thầy cô giáo và học sinh có thể ngồi lại bên nhau, lắng nghe nhau để có thể cảm thông và hiểu thấu được những khó khăn của nhau. Hiểu được thì thương được. Thử tưởng tượng hình ảnh người thầy ngồi yên chăm chú lắng nghe những tâm tư nỗi niềm của những người học trò của mình. Đó là một hình ảnh đẹp và nuôi dưỡng. Ở nhà, ba mẹ các em đã quá bận rộn nên không thể có mặt được cho các em thì làm gì có thời gian để ngồi xuống và lắng nghe các em? Đó là một thiệt thòi lớn. Đến trường, thầy cô giáo cho các em một cơ hội khác để bù đắp, để các em được lắng nghe, được cảm thông và được thấu hiểu. Chỉ cần được thấu hiểu, các em đã bớt khổ nhiều rồi. Khi đó, thầy cô giáo và học sinh có thể nối kết với nhau, xây dựng niềm tin trong nhau và lấy đi những giận hờn và sợ hãi trong nhau. Đây là một sự thực tập rất cần thiết và nên được khuyến khích tổ chức thường xuyên trong nhà trường. Thầy cô giáo và học sinh nhờ sự thực tập này mà có thêm năng lượng để dạy và học, và đặc biệt là khoảng cách giữa hai thế hệ cũng được gần lại với nhau nhờ nhịp cầu cảm thông.

Nghệ thuật khổ đau

Nhiều người trong chúng ta tin rằng ta không thể có được hạnh phúc bây giờ và ở đây. Ông bà tổ tiên ta cũng từng nghĩ như vậy. Điều này lý giải vì sao ta luôn có khuynh hướng chạy về tương lai để kiếm tìm hạnh phúc. Chúng ta có tập khí rong ruổi, tìm cầu và chẳng bao giờ hài lòng với những gì mình đang có. Tập khí này rất mạnh. Mỗi hơi thở, mỗi bước chân chánh niệm giúp ta dừng lại, nhận diện và mỉm cười.

Xử lý khổ đau là một nghệ thuật. Chúng ta nói tới nghệ thuật hạnh phúc nhưng cũng có thể nói tới nghệ thuật khổ đau. Chúng ta phải học cách khổ đau. Người biết cách khổ đau thì khổ ít hơn những người khác. Sự thật thì khổ đau đóng một vai trò rất quan trọng. Nếu chúng ta biết cách ôm ấp, chăm sóc và nhìn sâu vào bản chất của khổ đau, chúng ta có thể chế tác được rất nhiều hiểu biết và thương yêu, nền tảng của hạnh phúc chân thật.

Hoa là rác – Rác là hoa

Thầy trò chúng tôi vừa hoàn thành xong Năm giới tân tu, có thể được xem là nền tảng của đạo đức mang tính chất toàn cầu. Nó không mang màu sắc tín ngưỡng cục bộ của một tôn giáo hoặc của một chủ thuyết. Tôn giáo nào, văn hóa nào, chủng tộc nào, địa phương nào cũng có thể lấy Năm giới làm cương lĩnh cho một nếp sống có hòa điệu, có thương yêu, có hiểu biết, có sự tương kính và chấp nhận lẫn nhau. Thực tập theo Năm giới (hay còn gọi là những nguyên tắc sống) này, chúng ta có thể xử lý những khổ đau và hạnh phúc, tái lập lại truyền thông và góp phần giúp cho gia đình, cộng đồng và thế giới vơi đi nỗi khổ. Thực tập theo Năm giới chúng ta cũng có thêm nhiều niềm vui, bình an và hạnh phúc. Nền tảng đạo đức này dựa trên tuệ giác tương tức của đạo Bụt.

“Tương tức” có nghĩa là ta không thể tồn tại một cách riêng biệt. Nhìn vào một bông hoa, ta thấy được những yếu tố không- phải-bông-hoa có mặt. Ta thấy được mặt trời, đám mây, đất đai, người làm vườn, vân vân… Cả vũ trụ đều đang có mặt trong một bông hoa.

Hạnh phúc cũng vậy. Hạnh phúc cũng được làm từ những yếu tố không-phải-hạnh-phúc. Nếu chúng ta liệng bỏ hết những gì không hạnh phúc ấy đi thì chúng ta cũng không bao giờ có được hạnh phúc. Chúng ta cần có bùn để nuôi sen. Mọi thứ nương vào nhau để biểu hiện.

Với tuệ giác tương tức này, chúng ta thấy rõ rằng hạnh phúc không còn là vấn đề cá nhân. Nếu chúng ta hiểu được những khổ đau của chúng ta, nếu chúng ta đủ khéo léo để sử dụng những khổ đau ấy thì chúng ta có thể chế tác được hạnh phúc. Khổ đau và hạnh phúc tương tức nhau là vậy.

Không có gì có thể tự mình tồn tại. Tuệ giác tương tức lấy đi ý niệm về một cái ta biệt lập. Mặc cảm hơn người, thua người và bằng người – nền tảng của khổ đau – cũng từ đó mà không còn. Hầu hết những khổ đau xuất hiện cũng chính từ những tri giác sai lầm như vậy.

Ăn cơm có canh, tu hành có bạn

Chúng ta phải nghĩ tới việc xây dựng tăng thân, tức là một đoàn thể trong đó có những đồng nghiệp hay những người làm việc trong trường học, có thể là 3 hay 4 người mà ta truyền thông được dễ dàng nhất. Chúng ta phải đến với nhau để có thể tiếp tục sự thực tập, thực tập không phải với tính chất một cá nhân hay một gia đình mà là với tính chất một đoàn thể. Chúng ta có thể cùng đi thiền, cùng uống trà hay thực tập thiền buông thư với nhau.

Chúng ta hãy bắt đầu với một nhóm gồm những thầy giáo, cô giáo có hạnh phúc. “Thầy giáo, cô giáo có hạnh phúc sẽ thay đổi thế giới”. Với tăng thân nhỏ bé đó ta có thể làm thay đổi cả tập thể của trường. Chúng ta có thể viết một lá thư: “Chúng tôi là một nhóm người, chúng tôi đã thực tập như vậy và đã đạt được nhiều sự chuyển hóa trong đời sống, trong việc làm cũng như trong lớp học. Chúng tôi nghĩ thật là tuyệt vời nếu quý vị cùng thực tập với chúng tôi”. Như vậy những đồng nghiệp khác cũng sẽ bắt đầu nếm được sự bình an, tình huynh đệ và sự buông thư đó.

Chúng ta không thể tiếp tục như hiện nay, tại vì nếu các giáo chức không có hạnh phúc, không có sự bình an và sự hòa hợp với nhau thì làm sao chúng ta giúp được cho những người trẻ bớt khổ và thành công trong sự học hành. Xây dựng tăng thân là một công tác cấp bách và mỗi giáo chức phải là một người dựng tăng. Sau khi giác ngộ, việc đầu tiên Bụt đã làm là xây dựng một tăng thân. Ngài biết rất rõ là nếu không có tăng thân thì Ngài sẽ không hoàn thành được sự nghiệp của một vị Bụt.

Giáo chức là một nghề rất cao quý, rất đẹp, rất đáng được kính trọng. Nhưng nếu không có một tăng thân thì chúng ta cũng không làm được gì nhiều. Vì vậy xây dựng tăng thân là một việc tối cần thiết!

Các bạn thân mến, bộ sách trên tay các bạn là hoa trái của công trình biên tập và làm việc hết lòng của cô Katherine Weare – một nhà giáo dục và cũng là một người hướng dẫn chánh niệm – và những người học trò của tôi. Trong bộ sách này, rất nhiều giáo viên đã chia sẻ kinh nghiệm làm thế nào họ có thể tưới tẩm những hạt giống tỉnh thức trong mình và trong mọi người để tạo ra những thầy giáo, cô giáo hạnh phúc có mặt trong các lớp học tại các trường phổ thông và đại học. Những thực tập và phương pháp trình bày trong này đều đã được chia sẻ trong các khóa tu dành cho giới giáo chức đã được tổ chức tại nhiều nước trên thế giới. Cô Katherine, với tuệ giác và kinh nghiệm giảng dạy lâu năm của mình, đã thu thập và trình bày lại một cách rõ ràng, dễ hiểu để chúng ta có thể áp dụng được vào đời sống của chúng ta cũng như trong các lớp học.

Mong sao tất cả chúng ta có đủ thời gian và cơ hội để cùng nhau thực tập những điều này. Chúc các bạn thưởng thức được sự thực tập của mình.

Thích Nhất Hạnh Làng Mai, Pháp Tháng 10, 2014

Tập 1: Cẩm nang hạnh phúc

Lời tựa

JON KABAT-ZINN

Bộ sách bạn đang cầm trên tay là một món quà đặc biệt quan trọng – hay nói cách khác là một sự trao truyền – từ Thiền sư Thích Nhất Hạnh trao tặng vào giai đoạn chín muồi của một nhân cách vĩ đại. Bạn sẽ thấy rằng nó là kết tinh tình thương sâu sắc của Thiền sư đối với những người trẻ và sự mong mỏi không ngừng về một nền giáo dục bồi dưỡng tài và đức cho các thế hệ mai sau. Ở mỗi trang, bạn có thể cảm được sự tôn vinh dành cho những con người đang thực hiện sứ mệnh này, thường là âm thầm không ai biết, và khối lượng công việc khổng lồ mà họ gánh vác từng ngày nhằm phục vụ cho công cuộc kiến tạo, chuyển hóa và hàn gắn thế giới của chúng ta từ dưới lên, từ thế hệ này sang thế hệ khác – đó là những người thầy, người cô. Đây cũng đồng thời là tác phẩm được kết tinh từ sự cộng tác đầy cảm hứng với giáo sư Katherine Weare, một nhà giáo dục và cũng là một giáo viên về chánh niệm, người đã có nhiều năm nghiên cứu những tác động của thực tập chánh niệm trong môi trường học đường, và đội ngũ các cây bút cố vấn, những học trò lớn của Thiền sư từ Làng Mai. Cùng nhau họ đã thiết kế một cẩm nang thiền tập mang tính đa diện và rất dễ sử dụng để giúp các thầy cô giáo có thể đem chánh niệm vào lớp học cũng như vào đời sống của chính mình bằng nhiều hình thức.

Thực tập chánh niệm có thể giúp người học ở mọi lứa tuổi điều chỉnh công cụ học tập của mình. Điều đó có nghĩa là toàn bộ con người của họ – cơ thể, tâm trí, trái tim và não bộ cũng như các mối quan hệ giữa họ với tư cách là những người học, vì vậy khía cạnh xã hội/môi trường cũng rất quan trọng để đạt kết quả học hỏi và tìm tòi tốt nhất. Điều cốt yếu là phải nuôi dưỡng chính khả năng tập trung chú ý. Thầy cô cần các em tập trung và tìm tòi với sự sáng suốt để thấy được cái gì là quan trọng nhất. Việc chú trọng phát triển khả năng này trở thành một kỹ năng là điều thật sự hữu ích. Kỹ năng này có thể khơi dậy và duy trì trí tò mò cùng niềm đam mê học hỏi suốt đời, cũng như giúp cho người học nắm bắt một cách hiệu quả và hiểu sâu bất cứ bài học cụ thể nào. Ngày càng có nhiều giáo viên trên khắp thế giới nhận thấy điều này… Vì sao không dạy các em làm thế nào để tập trung và lắng nghe sâu, thay vì chỉ đòi hỏi các em phải tập trung như thường thấy trong lớp học khi bản thân các thầy cô lại bị căng thẳng quá mức? Phương pháp thực tập chánh niệm được đưa ra trong bộ sách này là con đường phát triển khả năng đó một cách tự nhiên.

Điều cốt yếu của sự thực tập chánh niệm là sự chú tâm, nhận diện, tìm tòi, khám phá và làm phát khởi cái thấy sâu sắc bằng sự có mặt cẩn trọng, đầy tình thương. Thực tập lắng nghe và nhìn sâu gắn liền với việc học cách tiếp nhận những tri giác và kinh nghiệm của bản thân. Những hoạt động này khơi dậy trí tưởng tượng và óc sáng tạo, giúp chúng ta lột bỏ những lớp vỏ bên ngoài và làm hiển lộ những gì đang thực sự diễn ra ở bên dưới. Đi đôi với các kỹ năng xã hội thiết yếu được trau dồi trong quá trình thực tập chánh niệm, sự thực tập lắng nghe và nhìn sâu giúp chúng ta có thể mở lòng chia sẻ cả những giây phút đầy tuệ giác cũng như những giây phút khó khăn với các đồng nghiệp hoặc học sinh của mình.

Tỉnh thức (chánh niệm) là một khả năng tự nhiên của con người mà trong môi trường giáo dục có lẽ chưa được chú trọng bằng khả năng tư duy. Song có thể thấy sự kết hợp của hai khả năng này giúp người học phát triển vượt trội so với việc chỉ tập trung rèn luyện tư duy đơn thuần. Sự tỉnh thức lớn hơn nhiều so với suy nghĩ, bởi nó chứa đựng suy nghĩ, nhận ra được đó là suy nghĩ chứ không phải sự thật, và vì vậy giúp ta phân biệt được xem thử điều đó có đúng, có hoàn chỉnh, có chính xác hay chưa và có liên quan tới hay là có vẻ mơ hồ đối với vấn đề đang được bàn đến. Đây là một kỹ năng quan trọng đối với việc phát triển tư duy phản biện. Thú vị hơn nữa, nó giúp ta trau dồi khả năng tư duy về mặt cảm xúc, qua đó có thể điều chỉnh cảm xúc và những phản ứng liên quan một cách hiệu quả hơn. Khi tư duy được bổ sung bởi sự tỉnh thức, tư duy sẽ trở nên lớn mạnh và sắc bén hơn, giúp ta tự tin hơn về điều ta biết cũng như nhận ra được những gì ta chưa biết (hy vọng là như vậy), vốn cũng là lĩnh vực quan trọng không kém trong giáo dục, sáng tạo và đời sống.

Có thể thấy rõ rằng các tác giả đã được thấm nhuần truyền thống Phật giáo quý báu từ ngàn xưa khi chánh niệm được trình bày một cách bài bản và tinh tế, song họ đã đóng góp to lớn vào việc biến sự thực tập này trở nên phổ quát, chính thống và mang tính phi tôn giáo. Việc này cũng không phải quá khó, bởi tự bản chất của chánh niệm đã mang tính phổ quát – như nhiều người trong chúng ta vẫn cảm được và chứng nghiệm nó như là “một lối sống” hay “một nếp sống trong tương quan với hiện hữu xung quanh”, vì lẽ đó mà nó cũng chính là sự nhìn sâu vào bản chất các mối quan hệ trong cuộc sống. Giáo dục phần đa là được phát triển dựa trên việc xây dựng và thu nhận kiến thức. Nhiều sinh viên bị lạc lối khi không nhìn ra được mối tương quan giữa điều mình phải học với cuộc đời của mình. Có một điều nghịch lý là khi việc học tập và sự quan tâm của chúng ta được xây dựng trên nền tảng chỉ cần có mặt, tỉnh thức (“being”), thì việc chúng ta làm (và điều chúng ta học) phát sinh từ cái “không làm” đó lại mạnh mẽ, đa dạng và hiệu quả hơn nhiều. Điều này được chứng thực bởi sự phát triển rầm rộ của phong trào thực tập chánh niệm trong học đường trên toàn thế giới, khi ngày càng có nhiều giáo viên thấy cần phải tổ chức công tác dạy học như thế nào để ngay từ đầu sự có mặt trở thành một sự thực tập, chứ không chỉ đơn thuần là “điểm danh” để biết có bao nhiêu học sinh đến lớp trong khi thân của các em có mặt trong lớp nhưng tâm trí và trái tim của các em có thể không có mặt. Tính phổ quát của cách tiếp cận này đã được minh chứng bằng sự tiếp nhận của nhiều giáo viên không theo Đạo Bụt từ khắp nơi trên thế giới. Họ đã thực tập chánh niệm, đã chia sẻ những câu chuyện và đã góp ý cho bộ sách này dựa trên kinh nghiệm thực tiễn của mình. Như các tác giả đã chỉ ra và trích dẫn trong bộ sách này, có một nền tảng chứng cứ khoa học ngày càng phát triển mạnh mẽ cho thấy hiệu quả của việc rèn luyện các năng lực căn bản của tâm thức (tất cả các giác quan, và chính sự nhận thức, cũng như các cảm xúc về tình thương, lòng từ bi), thậm chí ngay từ tuổi nhỏ, để chúng có thể vừa thúc đẩy khả năng học tập tối ưu vừa kích thích sự tò mò không ngừng về bản thân cuộc sống.

Nhà trường phổ thông và đại học từ lâu đã nhận ra được tầm quan trọng của giáo dục thể chất, bởi ai cũng biết lợi ích của việc vận động và tập luyện thể lực từ thuở nhỏ cho đến suốt cuộc đời. Tuy nhiên mọi người đều hiểu rằng nếu chỉ có nói và nghĩ về chuyện vận động hay tập luyện thì không đủ. Phải thực sự vận động cơ thể và tập luyện cơ xương khớp hằng ngày thì những lợi ích thực sự mới có thể tích lũy dần và trải nghiệm được. Giáo dục thể chất và thể thao cũng giúp ta giảm căng thẳng khi phải tập trung hoạt động trí óc quá mức trong khoảng thời gian quá dài, và cho phép học sinh, sinh viên có cơ hội phục hồi sự cân bằng giữa thể lực và trí óc. Tương tự như vậy, việc thực tập chánh niệm trong trường học có thể được xem như một hình thức rèn luyện trí óc hay giáo dục trí óc để những “cơ bắp” chánh niệm được thức tỉnh, đào luyện và củng cố thông qua sự thực hành chánh niệm một cách liên tục.

Thế giới đang thay đổi quá nhanh đến nỗi chúng ta không thực sự biết được nền tảng tri thức và kỹ năng nào sẽ là quan trọng nhất mà các thế hệ kế cận cần phải trau dồi. Nhưng điều mà chúng ta có thể biết chắc là muốn sáng tạo, yêu nghề, thích nghi với thời đại kỹ thuật số và học hỏi suốt đời thì người trẻ ở lứa tuổi nào cũng cần phải phát triển kỹ năng sống với giây phút hiện tại. Điều này bao gồm kỹ năng làm bạn với chính mình, tin tưởng những trải nghiệm trong nội tâm và học cách làm chủ môi trường bên trong, gồm thân và tâm của mình, cũng như biết cách thích nghi với môi trường học tập bên ngoài khi tương tác với những người khác. Đánh thức khả năng sáng tạo và trí tưởng tượng của bản thân trong suốt cuộc đời theo cách thức này là một yếu tố quan trọng dẫn tới thành công và hạnh phúc như tiêu đề của bộ sách.

Một trong những nguyên tắc chính ở đây là các thầy cô giáo cần thực tập chánh niệm trong đời sống của chính mình trước khi có thể đưa nó vào lớp học một cách hiệu quả. Nếu bạn làm nghề giáo và mới biết đến phương pháp chánh niệm, bộ sách này sẽ hướng dẫn hết sức chi tiết cách bạn thực tập cho chính mình, cũng như cách bạn có thể đưa nó vào lớp học theo cách riêng của mình để giúp học sinh phát triển lành mạnh về thể chất và tinh thần, biết cách chăm sóc cảm xúc và có niềm vui trong khi học. Cần lưu ý rằng không có một phương pháp nào là phù hợp cho mọi hoàn cảnh. Cái hay của cách nhìn này là cho bạn một loạt các lựa chọn để thử nghiệm và trên hết là nhắc bạn nhớ rằng chính sự sáng tạo của riêng bạn, được nuôi dưỡng bởi sự thực tập chánh niệm, sẽ mang đến muôn vàn những cơ hội mới và đầy thú vị. Nói một cách thực tế thì học trò của bạn sẽ là người giúp khơi mở nguồn tuệ giác đó trong bạn. Các em chính là những người thầy chánh niệm vĩ đại nhất của bạn.

Điểm hay của phương thức tiếp cận này là nó có thể bắt nguồn từ tình yêu nghề và tấm lòng mong mỏi học trò tiến bộ, được ấp ủ và truyền đạt bởi chính trực giác và kinh nghiệm thực tiễn của bạn; tất cả những điều này đều dựa vào công phu thực tập trong từng thời khắc của bạn. Theo như tôi nghiệm thấy, những băn khoăn, học hỏi, quán chiếu cứ lớn lên không ngừng trên mảnh đất nuôi dưỡng ấy.

Một trong những tác phẩm đầu tiên của Thiền sư Thích Nhất Hạnh từng gây chấn động lớn ở phương Tây là cuốn Phép lạ của sự tỉnh thức. Ở đây, trong bộ sách này, phép lạ ấy đã biến thành sự thật. Xin được bày tỏ lòng biết ơn của bản thân tôi đối với những đóng góp của Thiền sư đã khơi nguồn cảm hứng để xây dựng thế giới trở thành một nơi tốt đẹp hơn với thật nhiều tình thương.

Jon Kabat-Zinn

Berkeley, California Ngày 22 tháng 02 năm 2017

Chú thích

[1] Anh Nho được xuất gia làm đệ tử của Thiền sư Trừng Pháp Chân Không, trú trì chùa Đại Bi. Nhiều thập kỷ sau, vào ngày 12 tháng 09, năm 2008, Sư Ông Làng Mai tổ chức họp báo (press conference) cùng với ông Thị trưởng của thành phố Waldbröl, nước Đức, để công bố về việc thành lập Viện Phật Học Ứng Dụng Châu Âu (European Institute of Applied Buddhism – EIAB) tại thành phố này. EIAB có hai cơ sở, một là Viện Vô Ưu với tinh thần của một Học viện phi tôn giáo (non-sectarian) và hai là Lâm Tuyền Địa Đại Bi Tự với tinh thần tôn giáo của một tu viện Phật giáo. Tên chùa Đại Bi được Sư Ông chọn để vinh danh ngôi chùa đầu tiên Người tìm đến với đạo Bụt tại Thanh Hóa.

[2] Thầy đã viết về những tháng ngày hạnh phúc ấy trong “Con nghé nhỏ đuổi chạy mặt trời” – Thơ từng ôm và mặt trời từng hạt cũng như trong tác phẩm Tình người.

[3] Ngoài ra, chùa Từ Hiếu còn trùng khắc mộc bản và in các kinh văn khác như:

– Phật thuyết báo phụ mẫu ân trọng kinh 

– Phật thuyết Cao vương Quán Thế Âm kinh 

– Đại thừa vô lượng nghĩa kinh   

– Pháp bảo đàn kinh  

– Niệm Phật vãng sanh nghi.

[4] Con nghé nhỏ đuổi chạy mặt trời. 

[5] Trong tác phẩm Tình người, chú đã kể về tình bạn giữa chú và một người lính Pháp trẻ tuổi. Chú đã hiểu ra rằng những người lính Pháp qua Việt Nam bắn giết thời chiến tranh cũng chỉ là những nạn nhân. Gốc rễ của khổ đau trong chiến tranh không nằm ở con người mà nằm ngay trong sự vô minh.

[6] Pháp thoại ngày 17.4.2014 tại xóm Mới, Làng Mai trong khóa tu mùa xuân.

[7] Tác phẩm “Bây giờ mới thấy” – NXB Phương Đông. Đến năm 1970, có 72 trường tiểu học và 65 trường trung học tư thục được xây dựng dựa trên mô hình này. Các trường này có tên là trường Bồ Đề, với 58.000 học sinh. Đến năm 1975, tất cả các trường này đều trở thành trường công, dưới sự quản lý của Bộ Giáo dục.

[8] Giáo sư âm nhạc Nguyễn Hữu Ba trường Quốc gia Âm nhạc Sài Gòn cũng có những nghiên cứu sâu về âm nhạc cổ điển, trong đó có âm nhạc Phật giáo.

[9] 10 bài viết gồm:

Đạo Phật là một triết học hay một tôn giáo?

Phật học với các môn học khác

Vấn đề đức Tin trong đạo Phật

Vấn đề Chân lý trong đạo Phật

Vấn đề Khổ Vui trong đạo Phật

Vấn đề Giải thoát trong đạo Phật

Vấn đề Tâm Vật trong đạo Phật

Vấn đề Linh hồn trong đạo Phật

Vấn đề Nguyên nhân Đầu tiên trong đạo Phật

Vấn đề Nhân vị trong đạo Phật.

[10] Tất cả những ai làm việc cho chính phủ Ngô Đình Diệm đều phải theo thuyết Nhân vị này – một đường lối khác biệt với chủ nghĩa tự do cũng như chủ nghĩa Cộng sản.

[11] Trong thời gian giảng dạy ở chùa Ấn Quang, Thầy đã đọc cuốn sách của tác giả Uông Trí Biểu – một nhà khoa học Trung Hoa – có tên là Nhất cá khoa học giả nghiên cứu Phật Kinh đích báo cáo (Bản báo cáo của một nhà khoa học đã từng nghiên cứu Kinh điển Phật giáo), nói về những điểm tương đồng giữa khoa học và Phật học. Cuốn sách này đã được HT. Thích Tuệ Đăng dịch sang tiếng Việt vào năm 1961 với tên Nhìn Phật giáo qua Khoa học.

[12] Năm 1970 tại Paris, trong quá trình nghiên cứu, Thầy phát hiện được rằng Sơ tổ Việt Nam là thiền sư Tăng Hội, lớn hơn Tổ Tỳ Ni Đa Lưu Chi khoảng 300 tuổi.

[13] Trích Nẻo về của ý, chương I: “Năm 1955, chắc Nguyên Hưng còn nhớ, tôi được Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam giao cho chủ bút tờ Phật Giáo Việt Nam. Lúc đó, tôi đã có dịp gây ý thức về một nền Phật giáo nhân bản và dân tộc. Tôi cũng đã thấy rõ tính cách rời rạc phân tán của tổ chức đạo Phật, nên đã cố gắng viết tất cả những gì tôi nghĩ về một nền Phật giáo thống nhất toàn vẹn. Tôi chắc Nguyên Hưng biết rõ những nguyên do gần xa trong ngoài của sự rời rạc. Hơn hai năm sau, tờ báo bị đình bản. Lý do là hết tiền. Nhưng kỳ thực, đó là vì các nhà lãnh đạo Phật giáo miền Trung và miền Nam không chịu đựng được những loạt bài nói về vấn đề thống nhất thực sự. Trong một buổi họp, họ đã lấy cớ hết tiền để kết liễu sinh mệnh của tờ báo. Họ có nói: “Ai lại tờ báo của Tổng hội mà đi dạy Tổng hội về vấn đề thống nhất bao giờ”.

Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận III.

[14] Mười ba cây tùng: Nguyễn Thị Thu Hà (sau này xuất gia với Hòa thượng Thanh Từ và trở thành Ni sư Thuần Đức), Huỳnh Bá Huệ Dương, Huỳnh Bá Dương, Cao Ngọc Phượng, Cao Ngọc Thanh, Lê Kim Chi, Trương Thị Nhiên, Tôn Thất Chiểu, Đỗ Tuấn Khanh, Phạm Thị Ngọc Liên, Đặng Ngọc Cương, Nguyễn Ngọc Điệp, Nguyễn Ngọc Bích.

[15] Thầy đã có cảm hứng sáng tác bài thơ Đêm hội trăng rằm. Xem Thơ từng ôm và mặt trời từng hạt – NXB Hội Nhà Văn.

[16] Xem Sen nở trời phương ngoại – Thầy Nhất Hạnh giảng kinh Pháp hoa, NXB Lá Bối.

[17] Trích Nẻo về của ý.

[18] Trích từ tác phẩm At Home in the World (2016), tr. 87.

[19] Giáo sư Cerbu hơn Thầy 3 tuổi. Ông đã qua đời sau một cuộc phẫu thuật tim vào tháng 11 năm 1964, chỉ một vài tháng sau khi Thầy về lại Việt Nam. Nghe tin, Thầy sửng sốt và đã viết bài thơ Anh ấy chết sáng nay tặng ông. Xem Thơ từng ôm và mặt trời từng hạt.

[20] Tổng luận về việc Đối phó với Dân ngoại.

[21] Thông tin từ website của Union Theological Seminary, và tác phẩm Nẻo về của ý.

[22] Thông tin từ Union Theological Seminary, và tác phẩm Nẻo về của ý: “Từ đầu mùa Thu tôi được nhận làm việc tại trường đại học Columbia. Tôi dạy mỗi tuần năm giờ, ngoài ra còn có một số giờ phải ngồi văn phòng để tiếp sinh viên và giúp đỡ cho họ về việc sưu tầm tài liệu. Lương tôi được ba trăm năm chục đồng.”

[23] Nửa thế kỷ sau, vào năm 2017, Chủng viện Thần học trực thuộc trường đại học Columbia đã xây dựng chương trình Thạc sĩ về đạo Bụt dấn thân, “Thich Nhat Hanh Master’s Program for Engaged Buddhism”, để vinh danh Thầy – một cựu sinh viên của trường.

[24] Tập thơ Chắp tay nguyện cầu cho bồ câu trắng hiện Thử tìm dấu chân trên cát.

[25] Trích pháp thoại của Thầy ngày 11.02.2002 tại xóm Hạ, Làng Mai

[26] Đó là ngày 31.01.1964, trong buổi họp có các thầy Trí Thủ, Thiện Hoa và Thiên Ân.

Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất được chính thức thành lập vào ngày 31 tháng 12 năm 1963, hợp nhất tất cả các tông phái Phật giáo Việt Nam lại thành một Giáo hội duy nhất. Đây là kết quả từ sự nỗ lực của Tổng Hội Phật giáo Việt Nam từ 10 năm trước.

[27] Khái quát, Thể thức thu nhận sinh viên, Sinh viên chính thức và bán chính thức, Khóa học, Thể thức ghi tên, Các chứng chỉ, Những liên hệ giữa viện và trường Đại học Văn khoa Sài Gòn, Bằng cử nhân Phật học, Các chứng chỉ ban cử nhân Phật học, Học phí, Học bổng, Lưu xá, Thư viện và Các bằng cấp cao học và tiến sĩ.

[28] Sinh viên phải thi đậu mười hai chứng chỉ để có bằng cử nhân Phật học. Trong mười hai chứng chỉ ấy có năm chứng chỉ bắt buộc: đó là các chứng chỉ Phật học đại cương (6 giờ mỗi tuần), Pháp tướng duy thức học (5 giờ mỗi tuần), Pháp tánh không tuệ học (5 giờ mỗi tuần), Pháp giới viên giác học (5 giờ mỗi tuần) và Thiền tập và Hóa đạo (4 giờ mỗi tuần). Ngoài ra sinh viên phải thi một chứng chỉ sinh ngữ (Anh, Pháp, Đức, Hoa, Nhật) và một chứng chỉ cổ ngữ (Pali, Sanskrit, Tây Tạng hoặc Hán). (Tài liệu từ Thư viện Nhất Hạnh ở Sơn Cốc, Pháp). Sau này, Viện sẽ cung cấp hai mươi sáu chứng chỉ khác nhau để sinh viên rộng bề chọn lựa, trong đó có bốn chứng chỉ về Phật giáo sử và Tôn giáo Tỷ giáo, tám chứng chỉ về Triết học Phật giáo, mười một chứng chỉ về Văn học Phật giáo, ba chứng chỉ về Thực tập.

[29] Chứng chỉ Phật học Đại cương được đảm nhiệm bởi các thầy Thanh Kiểm, Thiên Ân, Nhất Hạnh, Trí Quang và cư sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền; chứng chỉ Pháp tướng Duy thức bởi các thầy Nhất Hạnh, Thiện Hoa và Thiên Ân; chứng chỉ Văn hóa Đại cương bởi các giáo sư Nguyễn Đăng Thục, Nghiêm Thẩm, cư sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền và thầy Nhất Hạnh; chứng chỉ Hán học bởi các giáo sư Phan Khoang và Cao Hữu Đính; chứng chỉ Pali bởi các thầy Minh Châu và Hộ Giác; chứng chỉ Văn học Bát nhã bởi các thầy Trí Quang và Nhất Hạnh; chứng chỉ Văn học Abhidharma bởi thầy Minh Châu. (Tài liệu từ Thư viện Nhất Hạnh ở Sơn Cốc, Pháp).

[30] Trước đó Thầy đã nhận dạy môn Lý tưởng xã hội của người học tăng mới hàng tuần ở Phật học viện Huệ Nghiêm theo lời yêu cầu của thầy Thanh Từ. Xem Tương lai Thiền học Việt Nam.

[31] Tác phẩm Con đường mở rộng – 60 năm theo Thầy học đạo và phụng sự – Hồi kí của Sư cô Chân Không, chương 8.

[32] Bà bác sĩ Ngô Văn Hiệu đã tặng cho 50.000 đồng để in tác phẩm đầu là Bông Hồng Cài Áo, bìa sách do họa sĩ Hiếu Đệ trình bày.

[33] Nhà văn Dương Nghiễm Mậu vẽ bìa cho tác phẩm Tình Người.

[34] Cày Đáy tức là đi thả lưới bắt cá dưới sông.

[35] Nhà thơ Vũ Hoàng Chương – người phụ trách trang thơ của tuần san Hải Triều Âm – đã nói với thầy Châu Toàn rằng “tuy các anh ở nhóm Sáng Tạo ‘lăng xê’ thơ tự do nhiều như thế, nhưng rốt cuộc theo ông thì những bài thơ ‘hòa bình’ của thầy Nhất Hạnh đăng trong Hải Triều Âm lại là những bài thơ tự do thành công nhất, tuy chưa bao giờ thầy nói thơ thầy là thơ tự do” ( Bây giờ mới thấy, NXB Phương Đông)

[36] I.F. Stone, một nhà báo Hoa Kỳ của tuần báo I.F. Stone Weekly rất thích nghe Thầy nói chuyện về thơ. Ông xin đăng những bài thơ hòa bình của Thầy trên tờ The New York Review of Books, một tờ báo rất được giới trí thức Hoa Kỳ ưa chuộng. Thầy dịch cho ông bốn bài, trong đó có bài này, bài Thông điệp và bài Hòa bình.

[37] Trong số này, có thêm giáo sư Dương Kỵ phụ trách tổ chức kỷ niệm 200 năm ngày sinh của thi hào Nguyễn Du, có truyện của Sơn Nam (một nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu văn hóa Nam Bộ nổi tiếng) và hồi ký của Thiên Giang, một trong ba nhà văn của nhóm văn học Chân trời mới với nhiều ảnh hưởng và đóng góp.

[38] Giữ thơm quê Mẹ là chữ nhạc sĩ Phạm Duy dùng trong Mẹ Việt Nam: “Chúng con đã về khát khao hơi Mẹ, chúng con xin nguyện giữ thơm quê Mẹ”. Nhà thơ Hoài Khanh đảm trách khoảng mười số đầu của tạp chí này, sau đó là nhà thơ Trụ Vũ.

[39] Các đài phát thanh Bắc Kinh, Hà Nội và Giải Phóng lên án gắt gao những bài thơ phản chiến của Thầy. Nhưng Thầy chưa bao giờ xem những bài thơ của mình là “thơ phản chiến”. Thầy nói rằng những bài thơ đó chẳng “chống” bất cứ cái gì; nó chỉ đơn thuần là “những bài thơ kêu gọi hòa bình” mà thôi.

[40]Kẻ thù của chúng ta là cuồng tín, là bạo tàn

Là tham lam, là vu khống

Kẻ thù chúng ta không phải con người

– dù con người gọi là Việt cộng –

Giết con người đi rồi, chúng ta ở với ai ?” – Trích từ bài thơ Chiến tranh, trong tập thơ Chắp tay nguyện cầu cho bồ câu trắng hiện.

[41] Lá thư của Thầy gửi cho Mục sư King: https://plumvillage.org/about/thich-nhat-hanh/letters/in-search-of-the-enemy-of-man/

Bản dịch tiếng Việt: https://langmai.org/tang-kinh-cac/vien-sach/giang-kinh/hoa-sen-trong-bien-lua/phu-luc/

[42] Thành lập bởi Alfred Hassler cùng với một số nhân sĩ ở các nước có chi nhánh FOR, theo lời đề nghị của Thầy.

[43] Để hiểu thêm về hoạt động của trường TNPSXH, xin xem tại đây.

[44] Dược sĩ Nguyễn Cao Thăng cúng dường miếng đất này, một địa điểm tương lai cho Viện Đại học Vạn Hạnh.

[45] Xin đọc thêm chi tiết trong tác phẩm Sáu mươi năm theo Thầy học đạo, hồi ký Sư cô Chân Không.

[46] Trong số các nữ tác viên có cô Hoàng Thị Ngọ mà sau này được nhắc tới trong bản nhạc Ngày xưa Hoàng Thị của Phạm Duy, và cô Bùi Thị Hương, sau này đã đi Nhật và sang Pháp làm việc trong phái đoàn Phật giáo với Thầy.

[47] Quyết nghị này được đăng trong báo Sinh hoạt của Đại học Vạn Hạnh, số 6 ra đầu tháng 4 năm 1966.

[48] Quyết nghị này được đăng trong báo Sinh Hoạt của Đại học Vạn Hạnh, số 7, ra đầu tháng 5 năm 1966.

[49] Inter-University Committee for the Debate on Foreign Policy có trụ sở tại Thành phố Ithaca, miền bắc tiểu bang New York, gần đại học Cornell.

[50] Chuyến đi của Thầy do Nhóm liên đại học của trường Cornell (Cornell’s Inter-University Team) đài thọ.

[51] Hội làm việc cho hòa bình từ thế chiến thứ nhất và thứ nhì cho đến nay với 46 chi nhánh ở 46 quốc gia trên thế giới.

[52] Là thế ngồi mà bạn cảm thấy thoải mái nhất.

[53] Bài báo có tựa “A Plea For Life” của James A. Wechsler, đăng trên tờ New York Post, ngày 18.5.1966.

[54] Đăng ngày 9.6.1966.

[55] Learning to Love: The Journals of Thomas Merton vol. 6 (1997), tr.76.

[56] “Chúng tôi tin rằng những Phật tử Việt Nam hy sinh trong cuộc tranh đấu cho nhân quyền và cho hòa bình cũng như những người Hoa Kỳ chết vì phong trào tranh đấu dân quyền không ai nhắm tới việc làm hại những kẻ độc tài áp bức mà chỉ nhắm tới việc ép họ thay đổi chính sách. Kẻ thù của cuộc tranh đấu cho tự do và dân chủ không phải là người. Kẻ thù đích thực là kỳ thị độc tài, tham vọng bạo động và căm thù, chúng nằm trong trái tim người. Kẻ thù ta không phải là con người mà là những thứ ấy.

“Chúng tôi cũng tin rằng những cuộc tranh đấu cho tự do và bình đẳng […] không phải là để đánh chiếm địa vị cao thắng của một nhóm người trên một nhóm người khác. Mục đích của các cuộc tranh đấu ấy là quyền tự quyết, sự cải tiến xã hội trong tinh thần bất bạo động và một đời sống dễ thở hơn cho tất cả mọi người. Và chúng tôi tin rằng chỉ khi nào có hòa bình thì ta mới có thể đi tới trên con đường xây dựng một xã hội tốt đẹp…”

[57] Alfred Hassler đại diện tổ chức Fellowship of Reconciliation và Paul Lauter đại diện Southern Christian leadership Conference.

[58] Trích từ tác phẩm Hoa sen trong biển lửa:

1. Hoa Kỳ ngưng oanh tạc ở Bắc cũng như ở Nam.

2. Giới hạn hoạt động quân sự Hoa Kỳ và Việt Nam lại trong phạm vi tự vệ. Nếu Mặt Trận đáp ứng thì tức khắc đó là một cuộc ngưng bắn.

3. Hoa Kỳ long trọng cam kết rút quân khỏi Việt Nam trong một thời gian là bao nhiêu tháng, và bắt đầu thực hiện rút ít toàn quân để chứng minh thiện chí và sự thành thực.

4. Hoa Kỳ tuyên bố rõ rệt ý muốn tôn trọng ý chí người Việt trong việc thành lập một chính quyền đáp ứng được nguyện vọng của dân chúng Việt Nam, và thực hiện những hành động cụ thể để chứng minh lời tuyên bố đó như từ chối không ủng hộ nhóm này để đàn áp nhóm khác.

5.Thành thực giúp Việt Nam tái dựng xứ sở đã bị chiến tranh tàn phá. Sự giúp đỡ này hoàn toàn không có sự liên hệ chính trị và ý thức hệ – những thứ được coi là động chạm đến nền độc lập Việt Nam.

[59] Lời tựa của Võ Văn Ái, Paris, ngày 26.01.1967, Hoa sen trong biển lửa do hội Phật tử Việt kiều Hải ngoại xuất bản.

[60] Cuốn sách được phát hành tại Mỹ và Việt Nam đầu năm 1967.

[61] “Theo các phóng viên của Tòa thánh Vatican, các chuyến thăm miền Nam và miền Bắc Việt Nam sau đó của Tổng Giám mục Pignedoli và Đức Ông Huessler có liên hệ đến lời mời của thầy Nhất Hạnh.”— nguồn: Tài liệu của Hội Thân hữu Hòa Giải được lưu trữ tại Swarthmore, có tựa đề “Thich Nhat Hanh: A Brief Biography,” (Thích Nhất Hạnh: Tiểu sử vắn tắt) – năm 1970.

[62] https://langmai.org/cong-tam-quan/thich-nhat-hanh/moi-tinh-tri-ky/

Martin Luther King Jr., Letter of Martin Luther King Jr. to nominate Thich Nhat Hanh for the Nobel Peace Prize (hartford-hwp.com)

[63] Điển hình như trong cuộc biểu tình chống chiến tranh Việt Nam vào ngày 25.3.1967 tại Chicago (Los Angeles Sentinel).

[64] Thơ từng ôm và mặt trời từng hạtThử tìm dấu chân trên cát.

[65] Viện Hóa đạo GHPGVNTN ấn hành năm 1971, kỷ niệm ngày giỗ thứ tư của Nhất Chi Mai.

[66] Họa sĩ Võ Đình đã dịch vở kịch ra tiếng Anh dưới nhan đề The Path of Return Continues the Journey. Năm 1972, Jim Forest đã in tập sách với NXB Hòa Bình Press thuộc trung tâm Thomas Merton Life Center tại New York, với lời tựa của cha Daniel Berrigan.

[67] Tại Canada, Thầy là người ngoại quốc đầu tiên được mời diễn thuyết trước Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội Canada — nguồn: như trên.

[68] Ba điệu là điệu Trí, điệu Hồng và điệu Hải. Điệu Hồng hiện nay là hòa thượng Chí Viên trú trì chùa Linh Phong ở Nha Trang. Điệu Hải là hòa thượng Chí Thắng trú trì chùa Phước Thành ở An Cựu – Huế, còn điệu Trí là cố hòa thượng Chí Mậu.

[69] Thầy đi Portland và Eugene, tiểu ban Oregon; Seattle, tiểu bang Washington; Salem; San Jose, tiểu bang California…

[70] Bà thuộc tổ chức Hội Thân hữu Hòa giải của Anh và hội International Civil Service chuyên xây trường học, mẫu giáo, bệnh xá không công cho các nước nghèo. Bà đã từng giúp Thầy mang tin tức từ Anh về Việt Nam rồi sau đó bà tình nguyện làm việc cho trường TNPSXH về mặt liên lạc đối ngoại.

[71] Đọc thêm Hồi ký của Sư cô Chân Không: 60 năm theo thầy học đạo và phụng sự.

[72] Tên Nhật của cô là Masako Yamanouchi, một thiếu nữ Nhật Bản làm việc thiện nguyện cho Hội American Friends Service Committee (AFSC) của người Quakers, đã qua Việt Nam tình nguyện công tác ở Trường TNPSXH, giúp đỡ về mặt liên lạc quốc tế. Tiếng Anh của cô rất giỏi. Cô nói tiếng Việt cũng khá và hay mặc áo dài như người Việt.

[73] Số 11, đường Goutte d’Or bắt đầu từ tháng 05, năm 1970.

[74] Thích Minh Tâm, Thích Thiện Thắng, Thích Pháp Kiên, Thích Thiện Quả, Thích Thế Tịnh, Thích Chơn Hòa và Thích Trí Quảng.

[75] Người Tây Đức, một nhân vật tiến bộ lúc nào cũng cất cao tiếng kêu gọi hòa bình cho Việt Nam, chủ tịch Hội Hilfe Vietnam.

[76] Một nhà tranh đấu cho quyền sống của trẻ em đói kém vùng Sicilia, rất nổi tiếng vì dám chống lại tập đoàn Mafia ghê gớm của Ý.

[77] Một thành viên của chi nhánh Hội Thân hữu Hoà giải tại Anh và được giải thưởng Nobel Hòa bình.

[78] Học giả thần học người Hà Lan.

[79] Nhà tranh đấu hoà bình lừng danh ở Nam Mỹ.

[80] Nhân dịp đức Tăng thống Thích Tịnh Khiết phổ biến Thông điệp Hòa bình. Tại Việt Nam Quốc Tự và Tổng vụ Thanh niên, bài tụng đã được đem ra thực tập vào dịp cuối năm dương lịch. Xem bài tụng trong Hồi ký của Sư cô Chân Không: 60 năm theo thầy học đạo và phụng sự, cuốn 2.

[81] Nhóm Third Way in Vietnam tại Anh, Hội Thân hữu Hoà giải tại Hoa Kỳ, và nhóm của tiến sĩ Richard Murray.

[82] Hội Thân hữu Hoà giải tại Hoa Kỳ đã mời Thầy và mục sư Martin Luther King Jr. làm Phó giám đốc. Trước đó hội có khoảng 3.000 hội viên. Sau chuyến du thuyết đầu của Thầy, con số tăng lên trên 20.000 rồi đến 30.000. Hội còn lập thêm một chi nhánh lấy tên là Phật tử thân hữu tranh đấu cho hòa bình (Buddhist Peace Fellowship).

[83] Thầy cư trú với chú Thanh Hương và chú Chơn Hòa tại số 88 Avenue Gambetta, Maisons Alfort, ngoại ô Paris.

[84] Tiến sĩ Pierre Lépine, khoa trưởng Viện Pasteur Paris, tác giả nhiều chương trình khảo cứu về vi trùng học là người phát thảo bản tuyên ngôn.

[85] Thông tin về cuộc gặp gỡ giữa Thầy và ông U Thant, Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc ngày 11.05.1971, cũng như sự yểm trợ của ông U Thant được ghi lại và lưu tại kho lưu trữ của Liên Hiệp Quốc. Những thông tin về Hội nghị Đại Đồng được lưu tại Swarthmore Library. Trong thời gian ở Stockholm, chị Cao Ngọc Phượng có một loạt những cuộc gặp gỡ riêng đầy tâm huyết với các bộ trưởng và các cơ quan của Thụy Điển, và cô đã thành công trong việc thuyết phục họ bảo trợ cho chương trình từ thiện xã hội của GHPGVNTN giúp xây dựng lại làng mạc bị dội bom ở Việt Nam. Khoản viện trợ đầu tiên là 300.000 đô-la thông qua Nhà Thờ Tin Lành Thụy Điển (Swedish Lutheran Church). 

[86] Là đệ từ của thầy Bích Nguyên. Hồi nhỏ, điệu được học tại trường Tuệ Quang, Đà Lạt, sau đó sư chú theo học ở Ấn Quang rồi ra ở chùa Từ Hiếu và chùa Ba La Mật một thời gian.

[87] Các hội Third Way in Vietnam, Oxfam, Huddersfield Relief Committee, Christian Aid, Save the Children, Help the Age, Quaker AFSC (American Friend Service Committee) với Richard Murray, Ủy ban Hà Lan với cô Hebe Kohlbrugge và chị Kirsten Roep.

[88] 1 – Việt Nam Cộng hòa, 2 – Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, 3 – Mặt trận Giải phóng Miền Nam và 4 – Phái đoàn. 

[89] Thượng tọa Thích Thiện Hoà làm chủ tịch điều hành, thượng toạ Thích Châu Toàn vừa là Giám đốc Trường TNPSXH, vừa làm Tổng thư ký Uỷ ban, các thượng tọa Thích Thiện Minh và Thích Huyền Quang làm thanh tra điều hành Uỷ ban.

[90] Hồi ký của Châu Văn Thọ, Tổng thư ký trường TNPSXH từ năm 1971 – 1975.

[91] Năm 1970, Thầy tham dự Đại hội Tôn giáo Thế giới và Hòa bình (World Conference on Religion and Peace, WCRP) lần thứ nhất tại Kyoto, Nhật Bản và được đề cử làm Phó chủ tịch Hội đồng.

[92] Năm 1978, thầy Thiện Minh lại bị chính quyền Hà Nội giam giữ trong trại học tập và cuối cùng đã bị bức tử vào ngày 18 tháng 10 ở khám Chí Hoà, Sài Gòn. Tại Phương Vân Am, Thầy và các cộng sự đã làm ngay một bản tin gửi tới các hãng thông tấn quốc tế tại Paris. Ngay tối đó, Thầy viết bài thơ Mây trắng thong dong để tưởng niệm.

[93] Paul Demiéville (1894-1979) là nhà Hán học và Đông Phương học, người Pháp. Ông học văn học Sanskrit với Sylvain Lévi, đọc các văn bản chữ Hán trôi chảy, từng làm việc tại Hà Nội cho l’EFEO (1919-1924). Đến năm 1946, P. Demiéville được bổ nhiệm vào Collège de France, giữ chức giáo sư ngôn ngữ và văn chương Trung Hoa, thừa kế vị tiền nhiệm là Henri Maspero.

[94] Entretiens de Lin Tsi do Fayard ở Paris xuất bản năm 1972 trong loại sách Documents Spirituels.

[95] Trước đó hai năm, Thầy đã viết một tác phẩm với tựa đề là Nẻo vào Thiền học và nhà xuất bản Lá Bối đã phát hành ở Việt Nam. Nay Thầy viết lại bằng tiếng Pháp. Tiếng Anh có tựa Zen Keys: A Guide to Zen Practice, xuất bản năm 1974.

[96] Xem Tương lai thiền học Việt Nam, Cho đất nước đi lên và pháp thoại Thầy ngày 14.11.1991.

[97] Trích Cao Tăng Truyện của Huệ Hạo, Nhất Hạnh dịch.

[98] Căn hộ ở tòa nhà A số 69 đường Desgranges, Sceaux.

[99] Nguồn: Bài viết của Jim Forest với tựa đề “Only the Rice Loves You: a month with Thich Nhat Hanh in Paris,” (“Chỉ có cơm thương mình thôi: Một tháng cùng sống với Thầy Nhất Hạnh”) – 1972.

[100] Thầy viết những trang cuối của lá thư trên gác của giáo sư Thomas Roëp ở Alkmaar tại Hà Lan. Thomas là giáo sư địa chất học. Phu nhân là chị Kirsten, người gốc Đan Mạch, là người có công đầu trong việc vận động thành lập hội Bảo Trợ cho cô nhi chiến tranh ở Việt Nam. Hai anh chị Roëp đã từng qua Phương Vân Am nhiều lần để tu học và làm việc với sư cô Chân Không trong chương trình bảo trợ cô nhi ở Việt Nam. Giáo sư Thomas cũng có giúp Thầy khi Thầy in quyển sách này tại Phương Vân Am với máy offset Gestetner.

[101] Sau khi Mobi dịch xong, Thầy phải sửa lại rất nhiều nhưng Thầy vẫn rất kiên nhẫn. Sửa như vậy mất thì giờ hơn là Thầy tự dịch trực tiếp, nhưng Thầy muốn khuyến khích Mobi tiếp tục dịch những quyển khác. Quyển thứ hai Mobi dịch là Tình người, nhưng bản dịch đã bị thất lạc. Ngoài ra Mobi còn dịch thêm cuốn Am mây ngủ Đường xưa mây trắng.

[102] Đến năm 1987, nhà in Pax Christi ở London xuất bản tác phẩm với tựa đề Be Still and Know: Meditation for Peacemakers. Bản tiếng Pháp đầu tiên lại có tên là Le Miracle est de Marcher sur Terre (Phép lạ là đi trên mặt đất).

[103] Như Hannes de Graaf và Hebe Kolhbrugge ở Hòa Lan, Heinz Kloppenburg và Martin Noemoeller ở Đức, Bertrand Russell và Philip Noel Baker ở Anh, Danilo Dolci và Carlo Levi ở Ý, Andre Trocmé ở Thụy Sĩ, Paul Demiéville và Laurence Schwartz ở Pháp, Thomas Merton, Martin Luther King Jr., Dorothy Day, Arthur Miller, Robert Lowel, A.J. Mustee và Alfred Hessler ở Hoa Kỳ, v.v.

[104] Cùng các bạn, cha Berrigan đã có những hành động bất phục tùng như kêu gọi đốt thẻ trưng binh, lấy sơn đỏ giả máu đi vào những nơi chế tạo hay cất giữ các đầu đạn nguyên tử để trút lên các thứ vũ khí giết người ấy, v.v. Cha hành động theo Thánh kinh dạy là lấy gươm giáo đúc thành lưỡi cày.

[105] Mobi Warren, Pierre Marchand, Neige Achiary, Charles, Raphael, Marie Emmeny, bác sĩ Cao Thị Dung, tiến sĩ Tạ Huệ Châu, tiến sĩ Nguyễn Văn Hướng, Tổng thư ký hội Phật tử Việt Kiều, anh Trần Quang Hải, con trai giáo sư Trần Văn Khê, chị Trần Thị Hằng, anh Thanh Hương, anh Thái Quang Trung, Nguyễn Văn Liêm, Trần Thị Tuyết, Nguyễn Thị Nguyệt, anh Cao Thái, chị Bùi Thị Hương, Thoa và Lợi…

[106] Các tổ chức nhân đạo khác, như: tổ chức Ân xá Quốc tế (Amnesty International), Friends Quaker House, Christian Aid, Save the Children, Help the Aged, Huddersfield Famine Committee, War Resistance International (WRI), Mouvement Chrétien pour la Paix (MCP), Hilft fur Vietnam (Help for Vietnam in Germany), Oxfam, Huddersfield Relief Committee, Quaker AFSC (American Friend Service Committee) với Richard Murray, nhóm Hà Lan với chị Kirsten Roep.

[107] Xin xem hồi ký của Sư cô Chân Không: 60 năm theo thầy học đạo và phụng sự, cuốn 2.

[108] Thời bấy giờ, bán 1 hộp Campolon đủ mua 30 ký gạo, 1 hộp Aspirin PH8, 15 ký gạo, 1 hộp Becozyme chích, 25 ký gạo, 1 hộp Becozyme viên, 10 ký gạo…

[109] Giới học giả và văn nghệ sĩ mà Thầy đã yểm trợ là: các học giả Nguyễn Đăng Thục, Giản Chi; giáo sư Nguyễn Ngọc Lan; nhà cách mạng uyên bác Đào Duy Anh; các nhà văn Duyên Anh, Bình Nguyên Lộc, Võ Hồng, Trần Phong Giao, Hoàng Hải Thủy, Nhã Ca, Nguyễn Mạnh Côn, Lê Xuyên, Vĩnh Hảo; các thi sĩ Hoàng Cầm, Hồ Dzếnh, Vũ Hoàng Chương, Trụ Vũ, Nguyễn Đức Sơn; các nhạc sĩ Lê Thương, Vĩnh Phan, Lê Trọng Nguyễn, Nguyễn Đình Toàn, Ngô Nhật Thanh; nhà văn và nhà thơ Thanh Tâm Tuyền; triết gia Nguyễn Sĩ Tế; Nguyễn Cường, Thế Uyên, nhà trào phúng (hề) Khả Năng; nhà thổi sáo Nguyễn Đình Nghĩa; Vũ Đức Duy, các họa sĩ Trọng Nội, Minh Đăng Khánh; bình luận gia Lý Đại Nguyên; …

Xem thêm tác phẩm Phương hương xuôi vạn lý, Sư cô Chân Không.

[110] Giám đốc quản trị là giáo sư Yoshiaki Iisaka, thủ quỹ là ông Willie Tay Kim San và Mahaver Singh, phó giám đốc điều hành Chương trình là giáo sư Cao Ngọc Phượng. Ngoài ra trong Uỷ ban còn có bác sĩ Choy Leng, có Nancy Chug, Mobi Quynh Hoa, Luc Fogarty và Diễm Trang, Bob Allan, Vương Hồ, Kirsten Roep và anh Mừng.

[111] Trích lá thư “Bây giờ rõ mặt đôi ta” viết cho đệ tử ngày 07.03.2010.

[112] “Thầy nhận ra rằng nếu Thầy có thể thuyết phục tòa Đại sứ Pháp thay mặt Thầy can thiệp và thuyết phục chính quyền Singapore cho phép Thầy được ở lại thêm một tuần nữa, Thầy sẽ có đủ thời gian để sắp xếp, bảo đảm an toàn cho hàng trăm thuyền nhân tị nạn đang lênh đênh trên biển không nhiên liệu, không thực phẩm.” – At Home in the World , Thích Nhất Hạnh (2016), tr. 61. ), và lá thư “Bây giờ rõ mặt đôi ta” viết cho đệ tử ngày 7.3.2010.

[113] “Có một thời gian tôi đi học nghề in. Hiện bây giờ tôi in sách và đóng sách khá giỏi. In trong chánh niệm, đóng sách trong chánh niệm. Tôi đã in hàng chục cuốn sách, đóng hàng chục ngàn cuốn sách” – Trích Ngày em hai mươi tuổi, LTLM số 25

[114] Xuất bản năm 1977, những truyện ngắn của Bình Nguyên Lộc, Cung Khanh, Sơn Nam và Võ Hồng. Một năm trước khi có chương trình Máu chảy ruột mềm, ở Sceaux, Thầy cũng đã in một tuyển tập truyện ngắn. Trong đó có truyện Cửa Tùng đôi cánh gài, Ảo tượngGiọt nước cánh chim ký tên Nhất Hạnh và Thiều Chi. 

[115] Xuất bản năm 1981, gồm những bài văn của Trần Kha, Con trai bà Cả Đọi (Hoàng Hải Thủy), Hồ Khanh (Doãn Quốc Sỹ), Linh Thoại, Yên Ba, Hồng Ngọc và Thích Cao Đăng (Thích Quảng Độ).

[116] Tác phẩm này được viết ở Sceaux và xuất bản năm 1969 tại Sài Gòn, tái bản ở hải ngoại năm 1978.

[117] An Tiêm xuất bản tác phẩm này dưới bút hiệu Nguyễn Lang năm 1974 tại Sài Gòn.

[118] Antoine, Hiếu, Tâm, chị Rosalie, chị Marianne là các con cụ Lương Trọng Tường, và bác sĩ Sơn …

[119] Thầy sang New York để tham dự Hội nghị Tôn trọng Sự sống (Reverence for Life Conference ), một hội nghị liên tôn về vấn đề giải trừ vũ khí hạt nhân được tổ chức song song với một hội nghị thượng đỉnh của các nhà lãnh đạo quốc tế về vấn đề giải trừ vũ khí hạt nhân do Liên Hiệp Quốc tổ chức (“The United Nations Second Special Session on Disarmament”).

[120] Pháp thoại công cộng dành cho các nhà lãnh đạo tôn giáo tại Hàn Quốc ngày 19.3. 2003, được đăng trên báo Mindfulness Bell, số 34, mùa thu 2003.

[121] Để tìm hiểu thêm về lịch sử Làng Mai, xin đọc bài Ngày em hai mươi tuổi (LTLM số 25 – 2002) của Thầy và bài Làng Mai qua năm tháng (LTLM số 35 – 2012) của Sư cô Chân Không trên Trang nhà Làng Mai.

[122] Để tìm hiểu thêm về khóa tu mùa Hè đầu tiên ở Làng, xin đọc thêm Tý Cây tre triệu đốt & Chiếc lá ổi non, NXB Lá Bối châu Âu, NXB San Jose.

[123] Phỏng vấn với Don Latin cho tờ The San Francisco Chronicle, tháng 12 năm 1997.

[124] The 20th Century’s Greatest Hits: A Top 40 List, what works of art should be remembered and why?, Nhà xuất bản Forge/St Martin năm 2000, ISBN 0-312-87391-3.

[125] Những bài giảng cho doanh nhân và các chính trị gia đã được biên tập thành sách The Art of Power (Quyền lực đích thực, 2007); những bài giảng cho tù nhân và các cán bộ trại giam được xuất bản thành sách Be free where you are (Sống tự do ở bất cứ nơi nào ở đâu, 2002); những bài giảng cho người Israel và Palestine được làm thành sách Peace Begins Here: Palestinians and Israelis Listening to Each Other (2001).

[126] Phát biểu của Thầy ở Hàn Quốc, tháng 04 năm 1995, được Daniel J. Adams ghi lại trong “Thich Nhat Hanh Then and Now,”(Thích Nhất Hạnh ngày ấy và bây giờ), Phòng lưu trữ của Trung tâm Thomas Merton Center.

[127] Tại Ấn độ năm 1996, tại Davos năm 2000, tại Nhà trắng tháng 12 năm 2000.

[128] Xem http://www.peace.ca/manifesto2000codeofethics.htm

[129] Xem thêm trong LTLM số 19 năm 1996, LTLM số 23-2000 (bài “Địa thượng thần thông”), LTLM số 25-2002 (bài “Đi như một dòng sông”) và LTLM số 26 – 2003

[130] Trong thư gửi các đệ tử viết tại tu viện Bích Nham ngày 12.10.2007, có tựa đề “Ăn chay để bảo vệ đất Mẹ”, Thầy kêu gọi toàn thể các trung tâm trực thuộc Làng Mai dùng thực phẩm thuần chay để không chỉ làm vơi nhẹ khổ đau cho muôn loài cầm thú mà còn giúp giảm thiểu dấu ấn carbon.

[131] “Spiritual Reflections on War and Peace” (Quán chiếu về hướng đi tâm linh cho vấn đề chiến tranh và hòa bình), in trong Mindfulness Bell số 34, mùa thu 2003.

[132] Xin xem báo cáo chi tiết về chuyến đi này trong LTLM số 29 – năm 2006 trên Trang nhà Làng Mai.

[133] Xin xem LTLM số 31 – năm 2008 về ba Đại trai đàn chẩn tế bình đẳng giải oan và LTLM 32 – năm 2009 về Đại lễ Phật đản (Vesak) tại Hà Nội.

[134] Đọc tác phẩm Cultivating the Mind of Love (1996).

[135] Phỏng vấn của John Malkin, tạp chí Shambhala Sun, ngày 01.07.2003

[136] Phỏng vấn với Melvin McLeod, đăng trên tạp chí Shambhala Sun, ngày 17.2.2017 với tựa đề Love and Liberation: An interview with Thich Nhat Hanh (Tình thương và giải thoát); Xem “Trở về dòng suối nguyên thỉ” – định đề số 37 trong 40 định đề của Làng Mai, tác phẩm Làng Mai nhìn núi Thứu.

[137] This Moment is Full of Wonders: The Zen Calligraphy of Thich Nhat Hanh (2015) & Hương Thơm Quê Mẹ (04.2021).

[138] Bài phỏng vấn Christina Figueres của Jo Confino: “Vị anh hùng ẩn danh đằng sau công cuộc chống biến đổi khí hậu trên thế giới”, đăng trên báo Huffington Post, ngày 22.1.2016.

[139] Bài viết “G. Inarritu trong phim tài liệu về chánh niệm Walk With Me” của Leo Barraclough, đăng trên báo Variety, số ra ngày 9.3.2017.

[140]  Jeff Wilson, Mindful America: The Mutual Transformation of Buddhist Meditation and American Culture (Nước Mỹ chánh niệm: Sự chuyển hóa có tính hỗ tương của thiền tập Phật giáo và văn hóa Mỹ) xuất bản năm 2014, trang 34.

PHỤ LỤC 2: Những tác phẩm của Thầy

1949 – Tiếng địch chiều thu – tập thơ đầu tiên của Thầy, họa sĩ Nguyên Trung vẽ bìa và minh họa, NXB Long Giang

1950 – Ánh xuân vàng dưới bút hiệu Hoàng Hoa, họa sĩ Lê Văn Vinh vẽ phụ bản ba bức, NXB Long Giang

1950 – Thơ ngụ ngôn dưới bút hiệu Hoàng Hoa, Thượng tọa Thích Tố Liên đề tựa, NXB Đuốc Tuệ

1950 – Đông phương luận lý học, họa sĩ Lê Văn Vinh trình bày bìa, NXB Hương Quê

1953 – Gia đình tin Phật, tập hợp những bài viết năm 1948 đã được đăng trọn trên tạp chí Hướng Thiện tại Đà Lạt năm 1951, họa sĩ Lê Văn Vinh vẽ bìa, NXB Đuốc Tuệ (chùa Phước Hòa, đường Audouit Bàn Cờ)

1953 – Là Phật tử, NXB Hương Quê

1955 – Chỉ quán yếu lược, in lại những bài viết của Thầy trên tạp chí Từ Quang, Hội Phật học Nam Việt ấn hành

1957 – Đạo Phật qua nhận thức mới dưới bút hiệu Thạc Đức, tập hợp mười bài viết của Thầy đăng trên báo Dân chủ năm 1955, cư sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền viết lời giới thiệu, họa sĩ Lữ Hồ trình bày bìa, Hội Phật học Nam Việt ấn hành

1958 – Duy thức học dưới bút hiệu Thạc Ðức, tóm tắt những bài dạy về Duy thức học mà Thầy đã giảng dạy tại lớp Tam niên trung học của Phật học đường Nam Việt, thượng tọa Thích Thiện Hòa viết lời giới thiệu, họa sĩ Tạ Tỵ vẽ bìa, Phật học đường Nam Việt ấn hành

1958 – Cậu Đồng, phóng tác kịch Le Tartuffe của Molière, NXB Sen Vàng

1958 – Đời của Phật, Phật học đường Nam Việt ấn hành

1959 – Để hiểu đạo Phật, dưới bút hiệu Phương Bối, họa sĩ Tạ Tỵ trình bày bìa, Phật học đường Trung Phần ấn hành

1962 – Bông hồng cài áo, NXB Lá Bối Saigon; NXB Hồng Đức (2015); NXB Thế Giới (2019)

1964 Tình người, dưới bút hiệu Tâm Quán, NXB Lá Bối Saigon

1964 – Đạo Phật đi vào cuộc đời, NXB Lá Bối Saigon; NXB Phương Đông (2010); NXB Văn hóa dân tộc (2016)

1964 – Đạo Phật ngày nay, đăng lần đầu tiên trên tạp chí Liên Hoa, Huế và đầu năm 1961, đăng trên báo Tin Tưởng ở Paris cuối năm 1963, xuất bản thành sách ở Paris, NXB Lá Bối Saigon tái bản; NXB Văn hóa dân tộc (2017)

1965 – Chắp tay nguyện cầu cho bồ câu trắng hiện, tập thơ do họa sĩ Hiếu Đệ trình bày bìa, NXB Lá Bối

1965 – Nói với tuổi hai mươi, NXB Lá Bối Saigon; NXB Văn Hóa Sài Gòn (2007); Phương Đông (2012); NXB Hồng Đức (2016)

1965 – Dialogue (Đối thoại: Cánh cửa hòa bình), tập hợp những lá thư do các nhân sĩ trong nước gửi tới các nhà lãnh đạo tâm linh và nhân quyền của Mỹ cũng như của châu Âu để kêu gọi sự can thiệp chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam, trong đó có lá thư của Thầy viết cho Mục sư Martin Luther King Jr., NXB Lá Bối Saigon (bản tiếng Việt in chui năm 1968)

1965 – Đừng quên xin đừng vội quên, tập thơ được in chui bởi Hội sinh viên Vạn Hạnh Saigon

1965 – Đạo Phật hiện đại hóa, NXB Lá Bối Saigon; NXB Văn hóa thông tin (2010)

1966 – Phật giáo Việt Nam và hướng đi nhân bản đích thực dưới bút hiệu Trần Thạc Đức, NXB Lá Bối Saigon

1967 – Nẻo về của ý, NXB Lá Bối Saigon; NXB Thời Đại (2011); NXB Hồng Đức (2015)

1967 – Tiếng đập cánh loài chim lớn, họa sĩ Hiếu Đệ trình bày bìa, NXB Lá Bối Saigon

1967 – Vietnam, Lotus in a Sea of Fire (Hoa sen trong biển lửa, in chui và phát hành tại Việt Nam), NXB Hill and Wang, New York, Mỹ

1967 – Nhìn kỹ quê hương, Tổng hội Sinh viên Vạn Hạnh in chui và lấy tên nhà xuất bản là Hội Phật tử Việt kiều Hải ngoại

1967 – Thơ Việt Nam, NXB Unicorn Press, Mỹ

1968 – The cry of Vietnam (Tiếng khóc Việt Nam), tập thơ đầu tiên của Thầy được xuất bản bằng tiếng Anh, NXB Unicorn Press, Mỹ

1969 – Vấn đề nhận thức trong Duy thức học, NXB Lá Bối Saigon

1970 – Đạo Phật ngày mai, dưới bút hiệu B’su Danglu (tên của làng người Thượng ở B’lao, nơi tọa lạc Phương Bối Am), NXB Lá Bối Saigon

1993 Love in action (Thương yêu là hành động), NXB Parallax Press, Mỹ

1971 – Nẻo vào Thiền học, NXB Lá Bối Saigon

1971 – Ảo tượng, tập truyện ngắn viết chung với nhiều tác giả khác. Ký các bút hiệu Thiều Chi (Ảo tượng), Nhất Hạnh (Cửa tùng đôi cánh gài), Tuệ Uyển (Đối diện), NXB Lá Bối Saigon

1972 – Nẻo về tiếp nối đường đi, một vở thoại kịch sáng tác năm 1967

1972 – The path of return continues the Journey (Nẻo về tiếp nối đường đi), NXB Hoa Binh Press, Mỹ

1973 – Đạo Phật áp dụng vào đời sống hàng ngày, viết chung với thầy Huyền Quang, Viện Hóa Đạo ấn hành (NXB Lá Bối Saigon in lần 2 năm 1974); NXB Phương Đông (2012)

1973 – Clefs pour le Zen, NXB Seghers, Paris

1974 – Văn Lang dị sử, dưới bút hiệu Nguyễn Lang, NXB An Tiêm (NXB Lá Bối Paris tái bản năm 1976, NXB Lá Bối Sunnyvale tái bản năm 1982 với tựa đề Hương vị của đất – Văn Lang dị sử); NXB Tôn Giáo (2005); NXB Văn hóa văn nghệ (2015)

1974 – Việt Nam Phật giáo sử luận I, dưới bút hiệu Nguyễn Lang, NXB Lá Bối Saigon

1975 – The Raft is not the Shore (Chiếc bè không phải là bờ bên kia) (được viết chung với cha Daniel Berrigan), NXB Beacon Press ở Boston, Mỹ

1975 – Kinh quán niệm hơi thở, Nhất Hạnh dịch và chú giải, xuất bản 75 cuốn dưới dạng một tập sách phổ biến nội bộ (NXB Lá Bối San Jose in năm 1987)

1976 –Hàm tiếu thiền (Phép lạ của sự tỉnh thức), dưới bút hiệu Thạch Đức, in chui tại Việt Nam. Phép lạ của sự tỉnh thức, NXB Lá Bối Paris tái bản năm 1977; NXB Tôn Giáo (2006); NXB Phương Đông (2015)

1976 – Zen Poems, thơ bằng tiếng Anh và tiếng Việt, họa sĩ Võ Đình minh họa, NXB Unicorn Press, Mỹ

1978 – Kinh người biết sống một mình, NXB Lá Bối châu Âu

1978 – Kinh bát đại nhân giác, NXB Lá Bối Paris

1978 – Việt Nam Phật giáo sử luận II, dưới bút hiệu Nguyễn Lang, NXB Lá Bối châu Âu

1979 – Bưởi, gồm nhiều truyện ngắn là Tùng, Bưởi, Hồng, NXB Lá Bối Paris

1980 – Tương lai thiền học Việt Nam, NXB Lá Bối Paris

1980 – Tố, gồm ba truyện ngắn là Tố (sau này có tên là Thạch Lang), ThiềuLan, NXB Lá Bối châu Âu

1980 – Thử tìm dấu chân trên cát – ghi chép về thơ thầy Nhất Hạnh, NXB Lá Bối châu Âu; NXB Phụ Nữ (2020)

1982 – Tương lai văn hóa Việt Nam, NXB Lá Bối châu Âu, NXB Lá Bối San Jose

1982 – Am mây ngủ – Truyện ngoại sử, NXB Lá Bối Paris ấn hành, NXB Lá Bối San Jose tái bản năm 2009; NXB Phương Đông (2015)

1982 – Trái tim mặt trời, NXB Lá Bối châu Âu ấn hành; NXB Hồng Đức (2019) 

1983 – Thiền hành yếu chỉ, NXB Lá Bối Paris, San Jose; NXB Phương Đông (2016)

1984 – Tý cây tre triệu đốt & Chiếc lá ổi non, NXB Lá Bối châu Âu, NXB San Jose

1985 – Việt Nam Phật giáo sử luận, NXB Lá Bối Paris; NXB Văn Học (2008); Phương Đông (2012); NXB Hồng Đức (2019)

1985 – Từng bước nở hoa sen, NXB Lá Bối châu Âu, NXB San Jose; NXB Văn hóa văn nghệ (2018)

1985 – Giới Tiếp hiện chú giải, NXB Lá Bối Paris

1986 – An trú trong hiện tại, tu viện Kim Sơn ấn hành, NXB Lá Bối San Jose tái bản năm 1990

1987 – Kinh Pháp ấn, NXB Lá Bối Paris

1987 – Being Peace, NXB Parallax Press, Mỹ. Muốn an được an, NXB Lao Động (2014)

1988 – Đường xưa mây trắng, NXB Lá Bối San Jose; NXB Tôn Giáo (2005); NXB Hồng Đức (2014)

1989 – Nghi thức tụng niệm, NXB Lá Bối San Jose

1989 – The Heart of Understanding, NXB Parallax Press, Mỹ

 – Trái tim của hiểu biết, NXB Lá Bối San Jose (1991)

1990 – Con đường chuyển hóa – Kinh Bốn lĩnh vực quán niệm dịch và chú giải, NXB Lá Bối; NXB Tôn Giáo (2006); NXB Hồng Đức (2015)

1991 – Peace is every step, NXB Bantam Books, Mỹ. 

  • An lạc từng bước chân, NXB Lá Bối, 1995; NXB Tổng hợp TP.HCM (2009)

1992 – Kim cang – Gươm báu chặt đứt phiền não, NXB Lá Bối; NXB Thời Đại (2011); NXB Văn hóa văn nghệ (2015) 

1992 – Touching Peace (Tiếp xúc bình an), NXB Parallax Press, Mỹ

1993 – Im lặng sấm sét – Kinh người bắt rắn (Alagaddupama Sutta) dịch và chú giải, NXB Lá Bối San Jose

1993 – Love in Action (Thương yêu là hành động), NXB Parallax Press, Mỹ

1993 – For a Future to be Possible, NXB Parallax Press, Mỹ. Để có một tương lai, NXB Lá Bối (2007); NXB Thế Giới (2019)

1994 – Sen búp từng cánh hé – những bài thiền tập hướng dẫn có công năng chuyển hóa và trị liệu, NXB Lá Bối

1993 – Kinh người áo trắng, NXB Lá Bối San Jose

1994 – Kiều và văn nghệ đứt ruột – cùng năm bài thuyết giảng khác và nhiều tài liệu ghi chép sinh hoạt chùa Làng Mai, NXB Lá Bối San Jose

1994 – A Joyful Path (Con đường vui), NXB Parallax Press, Mỹ

1995 – Living Buddha, Living Christ (Bụt ngàn đời, Chúa ngàn đời), best seller, NXB Riverhead, Mỹ

1995 – Thương yêu theo phương pháp Bụt dạy, NXB Lá Bối San Jose; NXB Phương Đông (2015); NXB Hồng Đức (2019)

1995 – Be Still and Know (Lặng yên thấy rõ), NXB Riverhead, Mỹ

1996 – Nói với người xuất gia trẻ tuổi, NXB Lá Bối

1996 – Bước tới thảnh thơi – Giới luật và uy nghi của các vị sa di (dùng chung cho nam và nữ), NXB Lá Bối; NXB Hồng Đức (2014)

1998– The Long Road Turns to Joy (Đường dài em bước như dạo chơi), NXB Parallax Press, Mỹ

1996 – Cultivating the Mind of love (Chế tác tâm thương yêu), NXB Parallax Press, Mỹ

1996 – Thơ từng ôm và mặt trời từng hạt – Tuyển tập thơ Nhất Hạnh, NXB Lá Bối; NXB Hội Nhà Văn (2015)

1997 – Nhật tụng thiền môn năm 2000 – toàn bằng quốc văn, NXB Lá Bối; NXB Hồng Đức (2012)

1997 – Trái tim của Bụt, NXB Lá Bối; NXB Tôn Giáo (2005); NXB Tổng hợp TPHCM (2009)

1998 – Schritte der Achtsamkeit (hình ảnh và pháp thoại Thầy trong chuyến hoằng pháp Ấn Độ năm 1997 do Thomas Luchinger thực hiện), NXB Herder, Đức

1997 – Những giọt không – tuyển tập nhạc Làng Mai, nhạc sĩ Anh Việt sưu tập và hiệu đính, NXB Lá Bối

1997 – Sự tích Quan Âm Thị Kính, NXB Lá Bối

1997 – Sự tích Quan Âm Hương Tích – The Bodhisattva on the Fragrant Mountain, NXB Lá Bối

1997 – Leo đồi thế kỷ và nhiều pháp thoại khác, NXB Lá Bối

1997 – Vivre en Pleine Conscience (Sống chánh niệm), NXB Terre du Ciel, Pháp

1999 – Đi gặp mùa Xuân – và nhiều pháp thoại khác cùng với tin tức sinh hoạt chùa Làng Mai (trích từ những Lá thư Làng Mai), NXB Lá Bối

1998 – Thiền sư Tăng Hội, NXB An Tiêm, Paris; NXB Lao Động (2015)

1999 – Tuổi Trẻ, Lý Tưởng Và Hạnh Phúc (Kinh Samiddhi bình giải), NXB Lá Bối

1999 – Nghi thức Tụng niệm Đại toàn, NXB Lá Bối San Jose

1999 – Nhạc kinh, NXB Lá Bối San Jose

1999 – Call Me by My True Names (Hãy gọi đúng tên tôi), NXB Parallax Press, Mỹ

1999 – Going Home: Jesus and Buddha As Brothers (Về nhà: Chúa và Bụt là anh em), NXB Riverhead, Mỹ

2000 – Thiết lập Tịnh độ Kinh A di đà thiền giải, NXB Lá Bối; NXB Tôn Giáo (2005); NXB Hà Nội (2020)

2000 – Thả một bè lau – Truyện Kiều dưới cái nhìn thiền quán, NXB Lá Bối, NXB Tôn Giáo (2005); NXB Hồng Đức (2015)

2000 – Giếng nước thơm trong – và nhiều bài pháp thoại khác cùng với tin tức sinh hoạt các chùa Làng Mai, NXB Lá Bối

2000 – Năm cánh tỏa kỳ hương, NXB Lá Bối

2000 – Das Erbluhen des Lotos (gồm bài giảng về từ, bi, hỷ, xả), NXB Theseus, Đức

2000 – The Path of Emancipation , NXB Parallax Press, Mỹ

  • Hơi thở nuôi dưỡng hơi thở trị liệu – Kinh Quán Niệm Hơi Thở Áp Dụng Vào Đời Sống Hằng Ngày, NXB Hồng Đức (2010)

2001 – Hạnh phúc mộng và thực – Kinh Tam Di Đề bình giải (Samiddhi Sutta), NXB Lá Bối; NXB Phương Đông (2015) – NXB Hồng Đức (2019)

2001 – Sen nở trời phương ngoại – thầy Nhất Hạnh giảng kinh Pháp hoa, NXB Lá Bối; NXB Văn hóa văn nghệ (2019)

2001 – Thiền – Chất Liệu Nuôi dưỡng, Trị Liệu và Chuyển Hóa, NXB Lá Bối

2001 – Anger, NXB Riverhead, Mỹ

  • Giận, NXB Lá Bối; NXB Văn Hóa Sài Gòn (2006); NXB Phương Đông (2009); NXB Hồng Đức (2020)

2001 – A Pebble for Your Pocket (Viên sỏi trong túi áo), NXB Parallax Press, Mỹ

2001 – Understanding Our Mind – Transformation at the Base (Hiểu thấu tâm ta – Chuyển hóa tận gốc), NXB Parallax Press, Mỹ

2001 –Transformation at the Base – Fifty Verses on the Nature of Consciousness (Chuyển hóa tận gốc – Năm mươi bài kệ Duy Biểu), NXB Parallax Press, Mỹ

2001 – Toucher la Vie (Tiếp xúc với sự sống), NXB Dangles, Pháp

2002 – Bồ tát tại gia – Bồ tát xuất gia – kinh Duy Ma Cật giảng luận, NXB Lá Bối; NXB Thế Giới (2020)

2002 – Sống chung an lạc – nghệ thuật xây dựng Tăng thân, NXB Lá Bối

  – Joyfully Together, NXB Parallax Press, Mỹ (2003)

2002 – Truyện Kiều văn xuôi – dành cho người trẻ, NXB Lá Bối; NXB Văn Hóa Sài Gòn (2006); NXB Phương Đông (2016); NXB Hồng Đức (2018)

2002 – Under the Rose Apple Tree (Dưới cây Hồng táo), NXB Parallax Press, Mỹ

2002 – Friends on the Path (Bạn đạo), NXB Parallax Press, Mỹ

2002 – Discorsi ai Bambini e al bambino interiore (Pháp thoại dành cho thiếu nhi), NXB Ubaldini, Ý

2002 – Eschenk der Achtsamkeit (trích từ sách và lời giảng của Thầy), NXB Herder, Đức

2002 – Be Free Where You Are , NXB Parallax, Mỹ

  • Sống tự do bất cứ nơi nào và ở đâu, NXB Lá Bối

2002 – No Death, no Fear , NXB Riverhead, Mỹ

  • Không diệt không sinh đừng sợ hãi, NXB Lá Bối; NXB Hội nhà văn (2018)

2002 – Each Breath a Smile, NXB Parallax Press, Mỹ

  •  Mỗi hơi thở một nụ cười, NXB Văn Hóa Văn Nghệ (2019)

2003 – Hiệu lực cầu nguyện, NXB Lá Bối; NXB Tổng hợp Tp. HCM (2009)

2003 – The Hermit and the Well (Ông Đạo và Giếng Nước), NXB Parallax Press, Mỹ

2003 – Sám Pháp Địa Xúc (Bhūmisparsha), NXB Lá Bối; NXB Thế Giới (2018)

2003 – Creating True Peace (Chế tác chánh bình an), NXB Free Press, Mỹ

2003 – I have arrived, I am home (Đã về, đã tới), NXB Parallax Press, Mỹ

2003 – Finding our True Home (Tìm thấy quê hương đích thực), NXB Parallax Press, Mỹ

2003 – Peaceful Action, Open Heart (Hành động bình an, trái tim rộng mở), NXB Parallax Press, Mỹ

2004 – Mẹ – biểu hiện của Tình thương, NXB Tôn Giáo (2004); NXB Hồng Đức (2009)

2004 – Peace Begins Here (Bình an bắt đầu từ đây), NXB Parallax Press, Mỹ

2005 – Tuổi trẻ Tình yêu Lý tưởng, NXB Lá Bối; NXB Văn Hóa Sài Gòn (2007), NXB Phương Đông (2011), NXB Hồng Đức (2018)

2005 – Calming the Fearful Mind (An tịnh tâm sợ hãi), NXB Parallax Press, Mỹ

2005 – Keeping the Peace (Giữ lấy hòa bình), NXB Parallax Press, Mỹ

2005 – Taming the Tiger Within (Điều phục mãnh hổ trong tâm), NXB Riverhead, Mỹ

2006 – The Coconut Monk (Ông Đạo dừa), NXB Parallax Press, Mỹ

2006 – Two Treasures (Hai kho báu), NXB Parallax Press, Mỹ

2007 – The Art of Power, NXB HarperCollins, Mỹ

  • Quyền lực đích thực, NXB Phương Đông (2009); NXB Hồng Đức (2020)

2007 – Buddha Mind, Buddha Body , NXB Parallax Press, Mỹ

  • Bụt là hình hài, Bụt là tâm thức, NXB Lao Động (2018)

2007 – Nowhere To Go, Nothing To Do (Không đi đâu nữa, có chi để làm), NXB Parallax Press, Mỹ

2008 – Mindful movements (Động tác chánh niệm), NXB Parallax Press, Mỹ

2008 – The World We Have , NXB Parallax Press, Mỹ

  • Hướng đi của Đạo Bụt cho hòa bình và môi sinh, NXB Phương Đông (2010); NXB Lao Động (2017)

2009 – Chỉ Nam Thiền Tập dành cho người trẻ, NXB Lá Bối; NXB Phương Đông (2016)

2009 – Người vô sự, NXB Hồng Đức 

2009 – Trái tim của Trúc Lâm Đại Sĩ, NXB Phương Đông

2009 – Con sư tử vàng của Thầy Pháp Tạng, NXB  Hồng Đức

2009 – Answers from the Heart , NXB Parallax Press, Mỹ

  • Hỏi đáp từ trái tim, NXB Lao Động  (2018)

2009 – Beyond the Self: Teachings on the Middle Way (Vượt ngoài cái tôi: Những giảng giải về giáo lý Trung đạo), NXB Parallax Press, Mỹ

2009 – Savor (Thưởng Thức), NXB HarperCollins, Mỹ

2009 – Happiness, Parallax Press, Mỹ 

  • Gieo trồng hạnh phúc, NXB Lao Động (2014)

2009– Bàn tay cũng là hoa, NXB Phương Đông

2010 – Thiền tập cho người bận rộn, NXB Thanh niên; NXB Hồng Đức (2020)

2010 – Con đã có đường đi, NXB Phương Đông; NXB Lao Động (2018)

2010 – Đạo Phật của tuổi trẻ, NXB Đồng Nai; NXB Thế Giới (2015)

2010 – Fear, NXB Harper Collins, Mỹ

  • Sợ hãi, NXB Thế Giới (2021)

2010 – One Buddha is not Enough (Một vị Bụt không đủ), NXB Parallax, Mỹ

2010 – The Pocket Thich Nhat Hanh, NXB Shambala, Mỹ

  • Hạnh phúc cầm tay, NXB Lao động (2016)

2010 – Reconciliation, NXB Parallax Press, Mỹ

  •  Thiền sư và em bé 5 tuổi, NXB Dân Trí, 2020

2010 – Together We Are One (Cùng nhau, chúng ta chỉ là một), NXB Parallax Press, Mỹ

2010 – Your True Home (Quê hương đích thực), NXB Shambala, Mỹ 

2011 – Awakening of the Heart (Đánh thức trái tim- Bình giảng những Thiền kinh căn bản), NXB Parallax Press, Mỹ

2011 – Fidelity (Trung kiên), NXB Parallax Press, Mỹ

2011 – Making Space (Chế tác không gian), NXB Parallax Press, Mỹ

2011 – Planting Seeds , NXB Parallax Press, Mỹ

  • Trồng một nụ cười, NXB Hà Nội (2021)

2012 – Tâm tình với đất Mẹ, NXB Nắng Mới; NXB Hồng Đức (2013); NXB Văn Hóa Văn Nghệ (2019)

2012 – Đập vỡ vỏ hồ đào, NXB Phương Đông

2012 – A Handful of Quiet (Một vốc tĩnh lặng), NXB Parallax Press, Mỹ

2012 – The Art of Communicating, NXB HarperCollins, Mỹ

  • Nghệ thuật thiết lập truyền thông, NXB Thế Giới (2018)

2012 – Path of Compassion (Con đường từ bi), NXB Parallax Press, Mỹ

2012 – No Mud, No Lotus (Không bùn thì cũng không sen), NXB Parallax Press, Mỹ

2012 – Silence, NXB HarperCollins, Mỹ

  • Tĩnh Lặng, NXB Thế Giới (2017)

2012 – Work (Làm việc), NXB Parallax Press, Mỹ

2013 – Rong chơi trời Phương Ngoại, NXB Hồng Đức

2013 – Giọt nước cành dương, NXB Hồng Đức

2013 – Những con đường đưa về núi Thứu, NXB Hồng Đức

2013 – Peace of Mind (Tâm An), NXB Parallax Press, Mỹ

2014 – Cho đất nước đi lên, NXB Hồng Đức

2014 – Bây giờ mới thấy, NXB Nắng Mới, NXB Phương Đông

2014 – Làng Mai nhìn núi Thứu, NXB Phương Đông

2014 – Kết một tràng hoa, NXB Phương Đông

2014 – Muốn an được an, NXB Lao Động  

2014 – Tri kỷ của Bụt, NXB Hồng Đức

2014 – Is nothing something? – Kids’ questions and Zen Answers, Plum Blossom, Mỹ

  • Trong cái không có gì không? – Thiền sư Thích Nhất Hạnh trả lời cho trẻ em những thắc mắc về ý nghĩa cuộc sống, về cái chết, về gia đình, bạn bè và nhiều câu hỏi khác, NXB Kim Đồng (2020)

2015 – Tay Thầy trong tay con, NXB Lao Động 

2015 – Đạo Bụt nguyên chất, NXB Phương Đông, NXB Hồng Đức (2017) 

2015 – The Art of Living (Nghệ thuật sống), NXB HarperCollins, Mỹ

2015 – This Moment is Full of Wonders: The Zen Calligraphy of Thich Nhat Hanh (Giây phút tràn đầy sự mầu nhiệm: Thiền thư pháp của Thích Nhất Hạnh), NXB Chronicle Books, Anh

2017 – Tìm bình yên trong gia đình, NXB Thế Giới

2017 – Happy Teachers change the world, Parallax Press, Mỹ

  • Thầy cô giáo hạnh phúc làm thay đổi thế giới, NXB Hà Nội (2019)

2018 – Con gà đẻ trứng vàng, NXB Văn Hóa – Văn Nghệ

2019 – Bồ Tát ngàn tay ngàn mắt, NXB Phụ Nữ Việt Nam

2019 – Mẹ con sư tử, NXB Phụ Nữ Việt Nam 

2019 – Người thầy của tỉnh thức và thương yêu, NXB Hồng Đức 

2020 – Interbeing (Tiếp Hiện), NXB Parallax Press, Mỹ

2021 – Hương Thơm Quê Mẹ – Thể hiện nếp sống tâm linh qua nghệ thuật thư pháp,  NXB Phụ Nữ Việt Nam

PHỤ LỤC 1: Các khóa giảng của Thầy

(từ năm 1988 đến năm 2014)

An cư kiết đông 1988-1989: Duy thức tam thập tụng của thầy Thế Thân (Vasubandhu’s Thirty Verses on Manifestation Only; Triṃśikā-vijñaptimātratā, 唯識三十頌). 

An cư kiết đông 1989-1990: Đại tạng Nam truyền liên hệ tới A Hàm (Southern Transmission: The Five Nikāyas of the Sutta Piṭaka in the Pāli Canon, a comparative study with texts in the Chinese Canon)

Khóa tu 21 ngày – tháng 6 năm 1990: Kinh Tứ niệm xứ và Tâm lý học Phật giáo – Giành lại tự do (The Satipatthana Sutta and Consciousness Only – Buddhist psychology – Reclaiming our True freedom); so sánh kinh Tứ niệm xứ trong tạng Pali và trong Hán tạng. Những bài giảng – bằng tiếng Anh – trong khóa tu này đã được biên tập và xuất bản thành sách Transformation and Healing: Sutra on the Four Establishments of Mindfulness (1990).

An cư kiết đông 1990-1991, và 1991-1992: Đại tạng Bắc truyền, trong đó có các kinh: Bát thiên tụng Bát nhã (Aṣṭasāhasrikā Prajñāpāramitā Sūtra), Phật mẫu bảo đức tạng Bát nhã ba la mật kinh (Prajñāpāramitā Ratnaguṇasaṁcayagāthā), kinh Đại Bảo tích (the Ratnakūṭa Sūtra collection), kinh Duy Ma Cật (Vimalakīrti Sūtra), kinh Pháp hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), kinh Hoa nghiêm (Avataṃsaka Sūtra), và kinh Kim cương (Vajracchedikā Prajñāpāramitā Sūtra).

Khóa tu 21 ngày – tháng 6 năm 1992: Cultivating the Mind of Love: Vipassanā in the Mahāyāna tradition (Nuôi lớn Tâm bồ đề: thiền Minh sát trong truyền thống Đại thừa). Những bài giảng của khóa tu này được làm thành sách Cultivating the Mind of Love (1996).

An cư kiết đông 1992-1993: 50 Bài tụng Duy biểu.

An cư kiết đông 1993-1994: Phật Pháp căn bản với chủ đề “Trái tim của Bụt”. Những bài giảng trong khóa tu này đã được làm thành sách với tựa đề Trái tim của Bụt (1997).

Mùa thu 1994: Kinh Tam di đề (Samiddhi sutta); được xuất bản thành sách với tựa đề Thương yêu theo phương pháp Bụt dạyHạnh phúc mộng và thực.

An cư kiết đông 1994-1995, 1995-1996, 1996-1997: Truyền thống sinh động của thiền tập; một phần bài giảng được xuất bản thành sách Thiền sư Khương Tăng Hội.

Khóa tu 21 ngày – tháng 6 năm 1996: The Heart of the Buddha (Trái tim của Bụt), đi sâu vào Phật Pháp căn bản. Những bài giảng của khóa này đã được phiên tả thành sách và được nhà Parallax ấn hành dưới nhan đề The Heart of the Buddha’s Teaching.

Tháng 11 năm 1997: Khóa học về Tâm lý học Phật giáo (tại Key West, Florida, Mỹ). Được in thành sách Transformation at the base

Tháng 10 năm 1997 – tháng 3 năm 1999: Công phu nở đóa sen ngàn cánh (chú giảng về các kinh trong Nhật tụng thiền môn)

Khóa tu 21 ngày – tháng 5 năm 1998: The Path of Emancipation (Con đường giải thoát), đi sâu vào sự nghiên cứu Kinh An ban thủ ý (Ānāpānasati Sutta) tụng bản Pali. Những bài giảng của khóa tu này cũng đã được nhà xuất bản Parallax in lại thành sách dưới nhan đề The Path of Emancipation (2000).

An cư kiết đông 1999-2000, 2000-2001: Nhiếp Đại thừa luận của thầy Vô Trước (Asanga’s Mahāyānasaṃgraha 攝大乘論).

Khóa tu 21 ngày – tháng 6 năm 2000: The Eye of the Buddha (Con mắt của Bụt) 

An cư kiết đông 2001-2002 và 2002-2003: Trung quán luận của thầy Long Thọ (Nāgārjuna’s Mādhyamaka SastraCommentary on the Middle Way: 中觀論). Những bài giảng trong khóa tu đã được biên tập thành sách Đập vỡ vỏ hồ đào (2014).

Khóa tu 21 ngày – tháng 6 năm 2002: The Hand of the Buddha (Bàn tay của Bụt), đi sâu vào kinh Pháp hoa (Saddharma puṇḍarīka sūtra). Những bài giảng trong khóa tu được biên tập thành sách Opening the Heart of the Cosmos: Insights on the Lotus sutra (2003).

Mùa xuân 2003 và An cư kiết đông 2003-2004: Lâm Tế lục, 14 Bài kệ Chỉ quán, và Cương lĩnh Giới luật. Những bài giảng về Lâm Tế lục đã được làm thành sách Người vô sự (Bình giảng Lâm Tế ngữ lục), và được xuất bản bằng tiếng Anh với tựa đề Zen battles: Modern commentary on the teachings of Master Linji (2009).

Khóa tu 21 ngày – tháng 6 năm 2004: The feet of the Buddha (Bàn chân của Bụt)

An cư kiết đông 2004-2005, 2005-2006: Dị bộ tông luân luận (Samaya bhedavyūhocakra by Vasumitra) của thầy Thế Hữu (Commentary on “The tenets of the different Buddhist schools” by Vasumitra; also known as the Treatise on the wheel of propositions of different schools). Những bài giảng trong khóa tu đã được biên tập và xuất bản thành sách Những con đường đưa về núi Thứu (2014).

An cư kiết đông 2005-2006, 2006-2007: Định đề giáo lý Làng Mai (The forty tenets of Plum Village Buddhism), được biên tập và xuất bản thành sách Làng Mai nhìn núi Thứu. Ấn bản tiếng Anh dự kiến sẽ được NXB Parallax phát hành vào năm 2021 với tựa đề The heart of Plum Village teachings.

Khóa tu 21 ngày – tháng 6 năm 2006: The breath of the Buddha (Hơi thở của Bụt), đi sâu tìm hiểu về kinh Quán niệm hơi thở (Ānāpānasati sutta Discourse on the full awareness of breathing).

Tháng 8 năm 2006: Khóa tu dành cho các nhà khoa học thần kinh, với chủ đề “The brain of the Buddha” (Não bộ của Bụt). Nội dung của khóa tu này đã được biên tập và sẽ được phát hành trong thời gian tới.

An cư kiết đông 2007-2008: Hoa nghiêm Kim sư tử chương (Fa Tsang’s treatise on the golden lion – 金獅子章). Những bài giảng trong khóa tu đã được biên tập và làm thành sách Con sư tử vàng của thầy Pháp Tạng (2009).

An cư kiết đông 2008-2009: Con đường của Bụt – Đóng góp của đạo Bụt cho một nền đạo đức toàn cầu (trong khóa tu này, Thầy và tăng thân đã làm mới Năm giới, thể hiện cái thấy của đạo Bụt về một nền tâm linh và đạo đức toàn cầu). Những bài giảng của khóa tu này đã được biên tập và làm thành sách Con đã có đường đi (2010).

Khóa tu 21 ngày – tháng 6 năm 2009: The path of the Buddha (Con đường của Bụt). Những bài giảng của khóa tu này đã được biên tập và làm thành sách Good citizens: Creating enlightened society (2012), và The Mindfulness survival kit: Five essential practices (2013).

An cư kiết đông 2009-2010: Nghệ thuật Hạnh phúc, đi sâu học hỏi về kinh Nghĩa túc (Arthapada sutra 義足經). Những bài giảng của khóa tu này đã được biên tập và làm thành sách Đạo Bụt nguyên chất (2017).

An cư kiết đông 2010-2011: Pháp cú Hán tạng (Chinese Dhammapada法句經), trong đó có Nê hoàn phẩm. Những bài giảng của khóa tu này đã được biên tập và làm thành sách Kết một tràng hoa (2016) và Rong chơi trời phương ngoại (2017).

An cư kiết đông 2011-2012: Du già sư địa luận của thầy Vô Trước và Quán sở duyên duyên luận của thầy Trần Na (Asanga’s Yogācārabhūmi-śāstra 瑜伽師地論and Dignāga’s Ālambanaparīkṣāvṛtti 觀所緣論).

Khóa tu 21 ngày – tháng 6 năm 2012: The science of the Buddha (Nhà khoa học nắm tay nhà Phật học). Những bài giảng trong khóa tu này hiện đang được biên tập và sẽ được xuất bản trong thời gian tới.

An cư kiết đông 2012-2013: Tri kỷ của Bụt (Good friend of the Buddha). Trong khóa tu này, chúng ta cùng tìm hiểu xem quan điểm của chúng ta về những giáo lý căn bản của Bụt như khổ, Niết bàn, luân hồi, nghiệp báo, về Mười hai nhân duyên v.v… để có thể không hiểu sai ý của Bụt. Những bài giảng trong khóa tu đã được biên tập và làm thành sách Tri kỷ của Bụt (2017). Bản tiếng Anh sẽ được Palm Leaves Press xuất bản trong thời gian tới.

An cư kiết đông 2013-2014: Duy biểu học (xem lại những giáo lý của Duy thức tông – Yogacāra, trong đó có giáo lý về thực tại tối hậu hay bản môn, đồng thời so sánh với những học thuyết về tâm lý học của Freud)

Khóa tu 21 ngày – tháng 6 năm 2014: What happens when we die? (Cái gì xảy ra khi ta chết?). What happens when we’re alive? (Cái gì xảy ra khi ta đang còn sống?) Những bài giảng trong khóa tu đã được biên tập và làm thành sách The Art of Living: Peace and Freedom in the Here and Now (2017).

XV. Đám mây không bao giờ chết

1. Sáu mươi lăm năm hoằng pháp

Jeff Wilson, một giáo sư về Tôn giáo và châu Á của trường đại học Renison và đại học Waterloo ở Canada đã mô tả Thầy như là “nhân vật quan trọng bậc nhất trong đạo Bụt phương Tây… xét từ phương diện số lượng thiền sinh mà Thầy có ảnh hưởng trực tiếp, cũng như mức độ ảnh hưởng của các từ ngữ mà Thầy tạo ra hoặc nhấn mạnh (như: “engaged Buddhism” – đạo Bụt dấn thân; “interbeing” – tương tức, “mindfulness” – chánh niệm, v.v.) đến ngôn ngữ đương đại của đạo Bụt ở phương Tây[343]

Trong một nghiên cứu hàn lâm gần đây của John Powers với tựa đề The Buddhist World (Thế giới Phật giáo, xuất bản năm 2016), Thầy được chọn là một trong 10 nhà lãnh đạo tâm linh có tầm ảnh hưởng lớn lao, nổi bật nhất trong lịch sử đạo Bụt, dựa trên tầm ảnh hưởng của Thầy đối với nền Phật giáo đương đại trên toàn cầu. Các pháp môn thực tập chánh niệm cùng với mô hình khóa tu của Thầy – được phát triển dựa trên chính kinh nghiệm trực tiếp và tuệ giác của Thầy – đã được hàng trăm ngàn người từ khắp các châu lục, từ mọi tầng lớp trong xã hội học hỏi và thực tập. Chỉ trên nước Mỹ, sách của Thầy đã được bán trên 3 triệu quyển, và 10 triệu quyển trên toàn thế giới.

Trong chặng đường hoằng pháp bền bỉ suốt 65 năm, Thầy đã góp phần quan trọng vào công trình làm mới đạo Bụt cho thế kỷ 21; chuyển hóa đạo Bụt tín mộ, hay đạo Bụt có tính học thuật thành một đạo Bụt của tuệ giác, của kinh nghiệm tâm linh thực nghiệm, rất linh động và luôn tự mình làm mới. Thầy đã sống qua các thời kỳ hỗn loạn, suy vong của chế độ thuộc địa, chiến tranh, rồi toàn cầu hóa. Dù trong thời kỳ nào, Người cũng luôn cống hiến một hướng đi của Phật giáo phù hợp với thời đại. Thầy đã đem những tuệ giác trong kho tàng của đạo Bụt truyền thống kết hợp với những yếu tố tâm lý học, khoa học, sinh thái học, đạo đức học và giáo dục của phương Tây để giải quyết tận gốc rễ những nguyên nhân gây sợ hãi, bạo động, đàn áp, bất công và tàn hoại môi trường; đồng thời chỉ ra một hướng đi cho gia đình nhân loại để có thể tiếp xúc với bình an, hòa giải và hạnh phúc đích thực. Năm 2017, Hội Chủng viện Thần học Hoa Kỳ (Union Theological Seminary – UTS) tại New York đã khai giảng để đưa Chương trình Thích Nhất Hạnh với Đạo Bụt dấn thân (Thich Nhat Hanh Program for Engaged Buddhism) vào chương trình Thạc sỹ Thần học về đạo Bụt và Tinh thần Dấn thân Liên tôn giáo (Master of Divinity in Buddhism and Interreligious Engagement). Chương trình đã thu hút nhiều sinh viên theo học.

2. Mây nước về nguồn

“Chuyện gì xảy ra khi ta chết?” là chủ đề của khóa tu 21 ngày cuối cùng (tháng 06 năm 2014) mà Thầy hướng dẫn định kỳ mỗi hai năm. Từ cuối khóa tu mùa hè năm 2014, sức khỏe Thầy bắt đầu đi xuống. Chuyến hoằng pháp ở Đức ngay sau đó khiến Thầy đuối sức. Về lại Làng, Thầy vẫn gắng sức có mặt hướng dẫn cho khóa tu người Ý được ba hôm. Tuổi đã lớn, làm việc nhiều, lại không ăn uống và không ngủ được nên sức khỏe Thầy suy giảm trầm trọng. Mỗi khi có chút năng lượng, ngay cả vào nửa đêm, Thầy tranh thủ từng giây, từng phút để thâu âm những lời bình giảng cho Tâm kinh Tuệ giác qua bờ mà Thầy mới dịch lại bên Đức, hay ý của Thầy về một cuốn sách mới để xuất bản, v.v. Đến khóa tu tiếng Pháp cho ngành giáo dục, các giáo thọ chia phiên nhau nói pháp thoại và thiền sinh cũng hoan hỷ vì biết Thầy đang bệnh. Vậy mà vừa hơi khỏe lại, Thầy đã bảo thị giả đưa Thầy ra giảng đường để thuyết pháp cho mọi người an tâm. Rất đông thiền sinh cảm động đã bật khóc. Đó là bài thuyết pháp cuối cùng của Thầy.

Vào ngày 11 tháng 11 năm 2014, một tháng sau ngày sinh nhật thứ 89, Thầy bị một cơn tai biến mạch máu não trầm trọng. Bác sĩ tiên đoán là Thầy chỉ sống thêm được trong vài giờ tới vài ngày thôi, nhưng sau đó Thầy đã hồi phục như một phép lạ. Sau thời gian chữa trị ở Pháp và ở San Francisco, Mỹ, sức khỏe của Thầy đã tiến triển rất khả quan. Sau đó Thầy trở về Pháp và ở tại Làng Mai đến cuối năm 2016, trước khi bay qua Trung tâm quốc tế Làng Mai Thái Lan để sống cùng các đệ tử xuất sĩ trẻ của Thầy ở đây. Tháng 10 năm 2018, Thầy quyết định trở về sống những năm tháng cuối đời tại Tổ đình Từ Hiếu, Huế.

Điệu Hồng, thị giả đi theo hầu Sư Ông Thanh Quý năm xưa vào những buổi chiều lúc Người chống gậy đứng nhìn về hướng cổng tam quan hỏi nhỏ: “Thầy về chưa?”, nay đã trở thành Hòa thượng Chí Viên. Hơn nửa thế kỷ sau, Hòa thượng đã bạch lên Sư Ông: “Bạch Cố, Thầy đã về rồi!”

Những năm tháng còn lại là những chuỗi ngày bình an vô hành. Mỗi khi thấy khỏe trong người, Thầy đều đi thăm liêu Sư Cố. Vào trong liêu, với ánh mắt rất sáng và nét mặt rất tươi, Thầy luôn thành khẩn chắp tay xá bức chân dung Sư Cố, đắp bằng lụa nổi mà Thầy đã cúng dường Sư Cố năm 1955. Rồi trăm lần như một, Thầy quán sát từng đồ vật trong liêu với tất cả sự chăm chú và kính cẩn, không khác gì với lần đầu tiên khi Thầy được trở về lại thăm căn phòng này vào năm 2005.

Sự có mặt của Thầy nơi đây, tuy thầm lặng, nhưng đã làm cho cả triệu đệ tử của Thầy từ khắp năm châu hướng về cội nguồn và duy trì sự kết nối sâu sắc, không gián đoạn với gốc rễ tâm linh của mình ở Việt Nam. Tháng 04 năm 2019, chín thượng nghị sĩ của Mỹ đã đến Huế trong một chuyến viếng thăm chính thức để bày tỏ sự kính trọng và lòng tri ân đối với Thầy. Thầy tiếp phái đoàn hơn một tiếng đồng hồ. Phái đoàn bao gồm các thượng nghị sĩ Leahy, Murkowski, Stabenow, Whitehouse, Udall, Portman, Baldwin, Hirono, Kaine cùng với các tháp tùng viên. Một số vị đã từng tham dự pháp thoại của Thầy tại Quốc hội Mỹ năm 2003 và 2011; có người thậm chí đã tham gia khóa tu của Thầy. Họ nói rằng Thầy đã dạy họ cách chế tác bình an, cách mỉm cười, cách thưởng thức từng bước chân khi họ đi đến phòng bỏ phiếu. Bằng chính cuộc đời mình, Thầy đã dạy chúng ta rằng ta có thể ôm ấp được cả những nghịch cảnh lớn lao nhất bằng lòng can đảm và tâm từ bi, rằng sự có mặt đích thực chính là món quà quý nhất mà ta có thể hiến tặng cho những người mà ta yêu thương.

Tiếp tục công trình trị liệu, chuyển hóa và hòa giải của Thầy, các đệ tử của Thầy đã và đang xây dựng tăng thân khắp nơi trên thế giới. Số lượng người phương Tây đến xuất gia ở Làng Mai ngày càng tăng. Làng Mai từ một nông trại nhỏ tại miền quê nước Pháp đã biến thành một tu viện Phật giáo lớn nhất châu Âu.

Thầy trong bản môn

Tuy Thầy không còn nói pháp thoại hay tham dự các sinh hoạt với chúng, con số thiền sinh về Làng tu học vẫn ngày càng đông. Các trung tâm thuộc Làng Mai trên thế giới vẫn tiếp tục vận hành không gián đoạn. Các đợt xuất gia vẫn tiếp tục đều đặn mỗi năm. Đặc biệt trong đợt xuất gia vào năm 2020, có 18 người trẻ được xuất gia ngay tại chốn Tổ đình Từ Hiếu, nơi Thầy đang tĩnh dưỡng. Các đệ tử của Thầy vẫn tiếp tục tổ chức các Đại giới đàn và cung thỉnh Thầy làm Hòa thượng đường đầu. Tăng thân xuất sĩ Làng Mai đã đến những nơi mà Thầy chưa có dịp đến như Uganda và cả một số nước lân cận như Nam Sudan, Burundi và Rwanda, để dạy chánh niệm cho các giáo viên tiểu học ở đất nước này, cũng như cho một số tu sĩ Cơ Đốc và quần chúng. 

Tăng thân vẫn tiếp tục sự nghiệp của Thầy để yểm trợ cộng đồng người da màu. Sự ra đời của tăng thân Trì Địa (Earth Holder), cộng đồng đang phát triển phương thức bảo hộ đất Mẹ, cống hiến những pháp môn thực tập để đối trị nỗi sợ hãi, cô đơn và tuyệt vọng khi mọi người phải đối diện với tình trạng khủng hoảng khí hậu. Tháng 06 năm 2019, các nhà hoạt động vì hòa bình từ khắp nơi trên thế giới đã tập trung tại tòa nhà Quốc hội châu Âu ở Luxembourg để tham dự Lễ trao giải Hòa bình cho Thầy. Các đệ tử xuất gia đã đại diện Thầy và tăng thân tới Luxembourg để nhận giải thưởng này. Một tháng sau tại New Delhi, Ấn Độ, Quỹ Gandhi Mandela đã trao giải đầu tiên về Hòa bình của Quỹ này (Gandhi – Mandela Peace Award) cho Thầy, nhân dịp kỷ niệm 150 năm ngày sinh của Thánh Gandhi và 100 năm ngày sinh của cựu Tổng thống Nam Phi Nelson Mandela. Ban tổ chức phát biểu trong bài diễn văn rằng giải thưởng được trao cho Thầy vì sự nghiệp giảng dạy và ảnh hưởng tâm linh của Thầy đã làm thay đổi cuộc đời của hàng triệu người trên toàn thế giới.

Từ năm 2009, Thầy đã dạy các đệ tử cách làm Trang nhà Làng Mai theo mô thức một ngôi chùa điện tử, có cổng tam quan, Phật đường, thiền đường, trai đường, lầu chuông, tàng kinh các, … Lúc ấy chỉ mỗi pháp thoại của Thầy vào các ngày quán niệm được phát trực tuyến. Đến khi đại dịch Covid-19 bùng phát trên toàn cầu, khi cửa chùa bên ngoài bị đóng lại thì cổng chùa trên mạng được mở rộng hơn. Có lẽ Thầy đã thấy được tất cả những điều này từ trước. Khi chưa có đại dịch, Thầy đã tạo cơ hội để mở những khóa tu quanh năm tại tu viện và đi hướng dẫn khóa tu ở khắp các nước không mỏi mệt. Giờ đây, xây dựng “ngôi chùa điện tử” để mọi người dù bất cứ lúc nào, ở đâu cũng có thể “đến chùa” tu học. Đây là lĩnh vực quá mới mẻ cho phần lớn các thầy, các sư cô Làng Mai. Tuy vậy, với tinh thần vừa làm vừa học, các thầy, các sư cô đã can đảm dấn thân vào lĩnh vực công nghệ và cùng nhau vượt qua những giây phút khó khăn để tổ chức thành công nhiều khóa tu trực tuyến. Tại Làng Mai Pháp, ngoài các khóa tu định kỳ hằng năm vẫn được duy trì như khóa tu mùa Hè, khóa tu lớn nhất trong năm; khóa tu 21 ngày; khóa tu dành cho người Pháp; khóa tu dành cho người Ý…, tăng thân Làng Mai khắp nơi còn tổ chức những khóa tu trực tuyến như khóa tu dành cho các nhà hoạt động xã hội (Mindful Action Retreat for Activists); khóa tu dành cho thành viên nòng cốt (hay đại diện) của các tăng thân trẻ, còn được gọi là tăng thân Wake Up trên khắp thế giới (Wake Up Ambassadors Retreat); khóa tu dành cho người trẻ và Tiếp hiện Indonesia (Wake Up and OI Indonesia Retreat); khóa tu gia đình; khóa tu cuối năm với đề tại Nghị lực, Thương yêu và Hy vọng (Courage, Love and Hope Retreat for 2021) … Khóa tu do mỗi xóm ở Làng Mai Pháp tổ chức, những khóa tu lớn thì các xóm làm chung, hoặc kết hợp chung giữa các tu viện Làng Mai Pháp, châu Á (AIAB), hay các tu viện ở Mỹ. Năm ngày quán niệm và hội thảo trực tuyến Theo dấu chân Thầy (In the Footsteps of Thich Nhat Hanh) do tạp chí Lion’s Roar và Quỹ Thích Nhất Hạnh (Thich Nhat Hanh Foundation) đồng tổ chức tại Mỹ với hơn 90 ngàn người đăng ký tham dự. Dù các sinh hoạt diễn ra qua mạng nhưng các thiền sinh vẫn thấy có sự gắn kết rất rõ ràng.

Đại dịch Covid đã tạo ra những thói quen thực tập trực tuyến các thời khóa như ngồi thiền, tụng kinh, tụng giới, truyền Năm giới, Mười bốn giới, vấn đáp, đêm thơ nhạc, lễ bông hồng cài áo, be-in, v.v. Buổi lễ Đối thú an cư cũng đã được truyền trực tuyến qua mạng cho hơn 1000 thiền sinh đăng ký tham dự khóa tu An cư ba tháng cùng tăng thân ngay tại nhà. Một thiền sinh chia sẻ: “Con chưa bao giờ nghĩ rằng mình có thể cảm nhận được năng lượng của Làng Mai ngay trong phòng khách nhà mình. Nhìn những nụ cười của quý thầy, quý sư cô qua Zoom làm cho con cảm giác như mình đang có mặt ở Làng vậy.” Có nhiều người đã từng đọc sách, biết đến Thầy qua mấy chục năm nhưng chưa từng đủ điều kiện để về Làng hay tham dự một khóa tu do Làng Mai tổ chức. Nhờ các khóa tu trực tuyến mà rất nhiều “tri kỷ” của Thầy có cơ hội tham dự tu học với tăng thân.

Có thể nói sức mạnh, sự đa dạng và sức sống của tăng thân quốc tế mà Thầy đã dày công tạo dựng chính là di sản vĩ đại nhất mà Thầy để lại cho cuộc đời. Hạnh nguyện và niềm hy vọng của Thầy vẫn đang được tiếp nối bởi tăng thân mà Người luôn tin cậy – một tăng thân quốc tế đang không ngừng lớn mạnh gồm mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi quốc gia, mọi tầng lớp trong xã hội. Tăng thân ấy vẫn đang tiếp tục công trình làm mới đạo Bụt, đem đạo Bụt đi vào cuộc đời trong mọi hoàn cảnh mà Thầy đã trao truyền. Sự sáng tạo và phát triển những pháp môn mới ngày càng thích ứng với thời đại của chúng ta.

Trong những khóa tu, ngoài cho pháp thoại, Thầy luôn có mặt trong các thời khóa cùng đại chúng như ngồi thiền, đi thiền, truyền giới,… Sự có mặt qua thân giáo của Thầy chính là sự trao truyền trực tiếp những pháp môn căn bản đến học trò của Người. Trong những năm cuối, thấy các thiền sinh quyến luyến khi khóa tu sắp chấm dứt, thậm chí có nhiều người còn khóc khi sắp xa Thầy, Thầy hay an ủi mọi người rằng mỗi khi thở một hơi thở hay bước đi có ý thức là người ấy đang có Thầy bên cạnh. Do đó, tùy vào sự tu tập của mỗi người để Thầy có hay không có mặt trong mình.

Sau gần ba năm và ba tháng an dưỡng tại Tổ đình Từ Hiếu, vào lúc 1:30 ngày 22 tháng 01 năm 2022 (nhằm ngày 20 tháng Chạp năm Tân Sửu), Thầy viên tịch tại Tổ đình, nơi Người đã xuất gia cách đây tám mươi năm, trụ thế 97 tuổi và 72 hạ lạp.

Sáng hôm ấy, khi người dân Việt Nam thức dậy, những tờ báo lớn như New York Times, New York Post, CNN, BBC News, Le Monde, National Geographic, National Catholic Reporter, v.v. đã truyền tin Thầy viên tịch đi khắp nơi thế giới từ nhiều giờ trước. 

Tiếp nối hình ảnh Sư Ông Thanh Quý được sư anh của mình là thiền sư Huệ Minh làm lễ thế độ vào năm 1899 trước kim quan của Bổn sư, các đệ tử của Thầy đã tổ chức lễ xuất gia cho 34 em từ Việt Nam, tu viện Bích Nham (Mỹ), tu viện Vườn Ươm (Thái Lan) và Làng Mai Pháp, để các em được làm những đệ tử út của Thầy ngay trong thời gian diễn ra Tâm Tang. 

Một năng lượng chánh niệm tập thể hùng hậu làm cho nhiều người thật sự cảm nhận được rằng Thầy đang có mặt khắp nơi: ở ánh mắt sáng bao dung đầy trí tuệ; ở nụ cười nhẹ, hiền từ; ở dáng dấp những bước thiền hành chậm rãi, thong dong của các thầy, các sư cô, các cư sĩ; hay ở những dòng chữ chia sẻ của một người nào đó đã thay đổi cuộc đời nhờ đọc được một cuốn sách, nghe một bài pháp thoại hay dự được một khoá tu của Thầy, v.v. Năng lượng giác ngộ cá nhân đã tạo nên một năng lượng giác ngộ tập thể. 

Sự sợ hãi về cái chết không còn nữa. Ta không còn là một giọt nước nhỏ nhoi, lạc lõng nữa. Ta là một giọt nước trong dòng sông đang thanh thản về chơi biển lớn.

Vầng trăng ấy chưa bao giờ ngừng chiếu sáng. Hôm nay, chúng ta có thể cùng nhau mỉm cười chào Thầy và chắp tay tiếp nhận những gia tài tâm linh mà Thầy đã truyền trao:

“Ta vẫn còn đến đi thong dong

Có không, còn mất, chẳng băn khoăn

Bước chân con hãy về thanh thản

Không tròn không khuyết một vầng trăng”

(Đến đi thong dong, thơ Thầy)

XIV. Làng Mai – Một giai đoạn mới

1. Ba chuyến trở về Việt Nam

Năm 2005, sau một năm thương thuyết – đúng dịp Việt Nam nộp đơn xin gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Chính phủ Việt Nam cuối cùng đã cho phép Thầy trở về quê hương, cùng một phái đoàn với hơn 200 đệ tử sau 39 năm lưu vong.

Công án mà Thầy thực tập trong những năm hành đạo ở phương Tây là “Một đạo Bụt nào cho quê hương Việt Nam?”. Đạo Bụt Việt Nam ngay từ lúc đầu với thiền tổ Tăng Hội đã có những nét độc lập của mình. Thiền phái Trúc Lâm được thiết lập ở đời Trần rất có tính cách đại chúng và dân tộc, một nền Phật học nhập thế mà ngày nay Thầy gọi là đạo Bụt ứng dụng. Vào đời Lý và đời Trần, từ vua quan trở đi đã có công thanh lọc được đạo Bụt. Đạo Bụt qua các triều đại ấy có tính thực tập thiền, chứ không phải là một con đường tín mộ đầy mê tín dị đoan. Nếu tổ tiên ta đã thanh lọc được đạo Bụt trong quá khứ thì chúng ta, hàng con cháu cũng có thể làm được việc ấy ngay trong thời hiện tại. Một đạo Bụt của đức Thế Tôn có thể giúp ta chế tác hỷ lạc để nuôi dưỡng ta và những người ta thương ngay trong giây phút hiện tại; một đạo Bụt có thể giúp ta biết cách xử lý niềm đau nỗi khổ và giúp người bớt khổ ngay trong giây phút hiện tại; một đạo Bụt giúp ta biết cách sử dụng ái ngữ và lắng nghe để tái lập truyền thông và hòa giải với nhau ngay trong ngày hôm nay; một đạo Bụt hướng con người trở về bảo hộ cho thân tâm, cho gia đình, xã hội và hành tinh xinh đẹp bằng cách tiêu thụ có chánh niệm. Một đạo Bụt như thế chính là một đạo Bụt của Bụt, cần thiết cho đất nước Việt Nam.

Thầy đã cho pháp thoại công cộng, hướng dẫn các khóa tu, thực tập để chuyển hóa khổ đau, đem tới hỷ lạc ngay trong kiếp sống này mà không phát tâm nhàm chán cõi ta bà để cầu sinh qua tịnh độ. Trên căn bản nhận thức là tâm tịnh thì độ tịnh, Tịnh độ phải có mặt bây giờ và ở đây. Mỗi bước chân đi là đi vào tịnh độ. Một khi thân khẩu ý hợp nhất một cách toàn hảo thì những câu gì nói ra đều là những câu linh chú. Những câu linh chú sử dụng trong ánh sáng của sự thực tập chánh niệm như câu “Mẹ ơi, con biết là Mẹ đang khổ nên con có mặt cho Mẹ đây” có hiệu quả tức thời, ngay trong giây phút hiện tại. Các thiền sinh chuyển hóa được những khó khăn nội tâm, hòa giải được với nhau ngay trong khóa tu và nét mặt họ rạng rỡ. Điều này đã cho Thầy rất nhiều hạnh phúc và niềm tin. Một số sách của Thầy  cũng được phép chính thức xuất bản tại Việt Nam.

Ở phương Tây, Thầy đã truyền giới Tiếp Hiện cho cả ngàn người, truyền Năm giới tân tu cho cả hàng trăm ngàn người, và giới pháp đã chuyển đổi cả cuộc đời của họ. Nếu trên đất nước Việt Nam mà ai cũng biết thực tập Năm giới tân tu ấy và những phép chế tác hỷ lạc, xử lý niềm đau và hoà giải ấy thì chắc chắn đất nước sẽ thơm lừng hương đạo đức và trở nên giàu mạnh. 

Dù chương trình sinh hoạt của tăng đoàn không được phép quảng bá trên các phương tiện truyền thông và nằm dưới sự kiểm soát rất chặt chẽ của chính quyền, những ngày quán niệm và các khóa tu do Thầy hướng dẫn vẫn có hàng ngàn người tham dự. Hàng trăm người trẻ muốn xuất gia với Thầy được chào đón tại Bát Nhã, một tu viện mới được thành lập tại cao nguyên Lâm Đồng, không xa Phương Bối[321].

Năm 2007, Thầy trở lại Việt Nam để chủ trì ba Đại Trai đàn Chẩn tế Bình đẳng Giải oan, cầu nguyện cho hàng triệu người đã thiệt mạng trong chiến tranh. Ngày 18.07.2007, trong lá thư Thầy viết cho Thượng tọa Thích Lệ Trang, sám chủ Đại Trai đàn Chẩn tế bình đẳng Giải oan tại chùa Vĩnh Nghiêm có đoạn: “Các Đại Trai đàn Chẩn tế Bình đẳng Giải oan được tổ chức tại quê hương đầu năm nay đã làm ấm lòng bao nhiêu đồng bào và giúp cho không biết bao nhiêu người bớt khổ. Tuy trở ngại khá nhiều, khó khăn cũng không ít, nhất là ở miền Trung và miền Bắc, nhưng tình huynh đệ đã tạo ra được phép lạ giúp chúng ta vượt thoát những trở ngại và khó khăn kia, trong đó kể cả những kỳ thị, lo lắng, thờ ơ, sợ hãi và nghi ngờ. Trong khi thiết lập trai đàn, anh em chúng ta cũng đã xây lên được một Bảo tháp của Tình huynh đệ, một bảo tháp tuy không có hình tướng, nhưng rất hiện thực và không có một ai có khả năng phá đổ. Chúng ta, từ giới xuất gia cho đến giới tại gia, đã tìm tới với nhau để kiến lập các trai đàn với một trái tim thuần khiết, một tình thương không phân biệt không kỳ thị, không hề vướng một chút lợi hoặc một chút danh.”

Năm 2008, Thầy trở về Việt Nam một lần nữa để cho một bài phát biểu quan trọng nhân dịp đại lễ Phật Đản quốc tế (Vesak) do Liên Hiệp Quốc tổ chức tại Hà Nội[322]. Trong ba lần về thăm quê hương, Thầy đều có các cuộc gặp gỡ với các nhà lãnh đạo của Nhà nước Việt Nam. Trong những cuộc gặp này, cũng như trong những lần Thầy gặp gỡ các nhà lãnh đạo của Quốc hội Hoa Kỳ, Quốc hội Ấn Độ, Quốc hội Anh hay Quốc hội Bắc Ireland, Thầy đều đưa ra những lời khuyến nghị để giúp đem lại một nền đạo đức, thịnh vượng và tiến bộ trên các lĩnh vực như xã hội dân sự, giáo dục và quan hệ quốc tế.

Thầy đã nhận Trái đất này làm quê hương. Quyết định về lại Việt Nam, điều đó không có nghĩa là Thầy quá nhớ một nơi chốn cụ thể. Thầy biết ơn liệt vị Tổ sư Việt Nam và biết ơn thiền sư Thanh Quý Chân Thật, vị Bổn sư khả kính của Thầy, vì vậy Thầy muốn giới thiệu một nếp sống tỉnh thức để chỉ cho người Việt Nam biết quay về khám phá gia tài tâm linh quý báu vốn có sẵn trong lòng dân tộc.

Thế nhưng những điều kiện thuận lợi đó không kéo dài được bao lâu. Vào ngày 27 tháng 09 năm 2009, tất cả các vị xuất gia đã phải rời khỏi Bát Nhã. Các thầy và các sư cô Bát Nhã ngày ấy nay đã trở thành những giáo thọ trẻ đang phụng sự trong các tu viện của Làng Mai tại châu Âu, châu Mỹ, châu Úc và châu Á.

 

2. Nhà lãnh đạo tâm linh toàn cầu và “người cha của chánh niệm”

Kể từ năm 2007, một loạt các tu viện mới được thành lập ở khắp nơi trên thế giới, bao gồm tu viện Bích Nham ở phía Bắc ngoại ô New York (Hoa Kỳ), Viện Phật học Ứng dụng châu Âu tại Waldbrol (Đức), Làng Mai Hồng Kông, Ni xá Diệu Trạm (Việt Nam), Làng Mai Thái Lan, Ni xá Trạm Tịch (Việt Nam), Tu viện Nhập Lưu (Úc), Tu viện Mộc Lan (Hoa Kỳ), Viện Phật học Ứng dụng châu Á (Hồng Kông), Tu viện Suối Tuệ (Pháp), Tu viện Sơn Tuyền (Úc), Tu viện Trạm Nhiên (Việt Nam).

Năm 2008 và 2009 ghi dấu một làn sóng mới – một bước phát triển khá mạnh mẽ trong hoạt động của Thầy và tăng thân Làng Mai ở phương Tây và châu Á. Có nhiều điểm khá tương đồng với các hoạt động của Thầy trong những năm 1964 – 1966 về các lĩnh vực đạo đức (giới luật), giáo dục, và hoạt động dấn thân.Thầy đã mở ra cánh cửa con đường đạo Bụt ứng dụng để diễn tả chính xác hơn sự thực tập áp dụng chánh niệm một cách đích thực trong mọi lĩnh vực của đời sống. Đối với Thầy, giáo lý đạo Bụt, nếu muốn thực sự linh động, cần phải được ứng dụng vào đời sống hàng ngày, trong các mối quan hệ, cách tư duy, nói năng và hành động của chúng ta. Đạo Bụt ứng dụng là nền tảng tâm linh và căn bản thực tập cho đạo Bụt dấn thân. Nhân dịp UNESCO mời Thầy đến thuyết trình ở Paris, Thầy đã mở rộng và làm mới nguyên tắc của một nền đạo đức toàn cầu (dựa trên Năm giới tân tu) để nó thực sự trở thành một nguyên tắc đạo đức có tính phổ quát, có thể giải quyết tận gốc rễ những bất công xã hội, bạo động, sợ hãi, lo lắng, thèm khát, cô đơn và tuyệt vọng.

Thầy đã thành lập Viện Phật học Ứng dụng Châu Âu (EIAB) ở Đức; và khởi xướng một chương trình đào tạo thầy giáo, cô giáo trong việc đem chánh niệm vào trường học – chương trình có tên là Wake Up Schools. Thầy cho rằng chương trình Wake Up Schools có thể hiến tặng cho các em học sinh “một cơ hội thứ hai” để học những điều mà các em không được tiếp nhận từ gia đình như: cách xử lý căng thẳng và cảm xúc mạnh; cách lắng nghe sâu và nói năng bằng lời từ ái; cách chế tác một giây phút hạnh phúc cho chính mình và cho những người khác; cách nhận diện và biến ước mơ sâu sắc nhất của mình thành hiện thực. Thầy luôn tìm tòi những cách thức không mang tính tôn giáo để chia sẻ “nghệ thuật sống hạnh phúc” và “nghệ thuật chuyển hóa khổ đau” với những người trẻ trên khắp thế giới. Với trên ba mươi năm kinh nghiệm trong việc chia sẻ sự thực tập chánh niệm với gia đình và trẻ em, Thầy thấy được sự cần thiết phải gìn giữ bản chất đích thực của chánh niệm khi nó được đem vào trong lớp học và môi trường giáo dục. Quyển sách Thầy cô giáo hạnh phúc làm thay đổi thế giới đã phác họa phương hướng đem chánh niệm vào trường học dựa trên nền tảng xây dựng những cộng đồng tu học có thực chất. Những đoàn thể các giáo chức và các người trẻ được thành lập khắp nơi, kể cả Việt Nam, lấy tinh thần đạo Bụt ứng dụng làm lý tưởng sống và độ đời.

Ngoài ra Thầy còn khởi xướng phong trào Wake Up (dành cho giới trẻ Phật tử và không Phật tử cho một xã hội lành mạnh và từ bi). Rất nhanh chóng, phong trào này đã phát triển mạnh mẽ thành một mạng lưới gồm hơn 100 tăng thân địa phương hoạt động ở châu Âu, châu Mỹ và châu Á. Các bạn trẻ cùng nhau sinh hoạt định kỳ hàng tuần, tổ chức các buổi ngồi thiền công cộng, đi bộ trong chánh niệm, các khóa tu cuối tuần và các hoạt động dấn thân khác. Những chia sẻ chân thành của Thầy về cách thực tập xử lý khổ đau và cảm xúc mạnh, chuyển hóa những vướng mắc trong tình cảm cũng như ước nguyện phụng sự và giúp thế giới này tốt đẹp hơn đã chạm đến trái tim và tạo cảm hứng cho rất nhiều người trẻ[328]. Khi những người trẻ tổ chức một buổi ngồi thiền công cộng với Thầy tại quảng trường Trafalgar, London, đã có hơn 3000 người tham dự, làm cho sự kiện này trở thành sinh hoạt thiền tập lớn nhất trong lịch sử của thành phố London.

Năm 2011, Thống đốc Jerry Brown mời Thầy và tăng đoàn Làng Mai đến xem tượng đài của 25 vị quán quân về nhân quyền (Champions of Humanity) tại công viên thành phố Oakland, Hoa Kỳ, trong đó có mẹ Teresa, thánh Gandhi, Thầy,…

 

3.Trên bình diện toàn cầu

Thầy nhận ra rằng quan niệm sai lầm về hạnh phúc chính là gốc rễ của khổ đau: rất nhiều người cho rằng khi chạy theo tiền tài, danh vọng, quyền hành và dục lạc, họ sẽ có hạnh phúc. Thế nhưng những cái đó chỉ làm tăng thêm sự xa cách, thèm khát, bất an cũng như dẫn đến sự bất công và tàn hoại các tài nguyên thiên nhiên quý báu. Khi được hỏi điều gì làm Thầy ấn tượng nhất trong những năm đầu tiên ở tại phương Tây, Thầy nói: “điều đầu tiên tôi nhận ra rằng thậm chí khi người ta có rất nhiều tiền, quyền lực và danh vọng, người ta vẫn có thể cực kỳ đau khổ. Nếu ta không có đủ bình an và từ bi ở trong lòng, thì không có cách gì ta có thể hạnh phúc được”[330]. Giáo lý của Thầy nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc tiếp xúc cái mà Thầy gọi là hạnh phúc đích thực ngay trong giờ phút hiện tại. Thầy khẳng định rằng giúp cho mọi người tiếp xúc với hạnh phúc đích thực là cách tối ưu để giải quyết tận gốc rễ tình trạng bất công, bất bình đẳng và tình trạng chạy trốn khổ đau bằng tiêu thụ hiện đang xảy ra trong xã hội. Thầy nói khi chúng ta biết hạnh phúc đích thực là gì, ta sẽ dễ dàng sống một cuộc sống giản dị, và ta sẽ biết cách chăm sóc chính mình, chăm sóc các mối quan hệ cũng như chăm sóc đất Mẹ.

Thầy luôn can đảm lên tiếng về một số vấn đề hóc búa nhất của xã hội, đồng thời hiến tặng những giải pháp thực tiễn qua các pháp môn thực tập chánh niệm. Thầy đã đóng góp nhiều tuệ giác cho xã hội phương Tây. Năm 2006, Tạp chí Time bầu chọn Thầy trong danh sách 60 vị anh hùng châu Á. Năm 2008, Thầy được mời sang Ấn Độ trong một chuyến thăm chính thức với tư cách là một vị khách quý của chính phủ. Thầy đã thuyết pháp và hướng dẫn khóa tu cũng như có một bài diễn văn tại Quốc hội, gặp gỡ bà Sonia Gandhi – Chủ tịch đảng Quốc đại, và được mời làm tổng biên tập danh dự cho tờ Thời báo Ấn Độ (The Times of India) trong ngày kỷ niệm Thánh Gandhi. Thầy đã được mời phát biểu tại Hội nghị Tôn giáo Thế giới (2009) và tại trường đại học Mahidol, Bangkok cho các chính trị gia Thái lan (2010). Năm 2011, Thầy được mời nói chuyện tại Quốc hội Mỹ lần thứ hai, và năm 2012 nói chuyện cho Quốc hội Anh tại điện Westminster, cho Quốc hội Bắc Ireland tại Stormont, và Thượng viện Pháp tại Paris. Sau buổi pháp thoại công cộng tại Dublin, thời báo của Ireland The Irish Times (số ra ngày 10.04.2012) đã gọi Thầy là “người cha của chánh niệm”.

Năm 2014, Tòa thánh Vatican đã gửi một phái đoàn chính thức đến Làng Mai mời Thầy đại diện cho Phật giáo tham gia Hội nghị các nhà lãnh đạo tôn giáo thế giới tại Rome để cùng ra một tuyên cáo toàn cầu phản đối chế độ nô lệ hiện đại và nạn buôn người. Khi Tổng thống Obama đến thăm Việt Nam, ông đã trích dẫn lời dạy của Thầy về hòa giải trong bài diễn văn chính thức tại Hà Nội vào ngày 24.05.2016: “Hai nước đã học được bài học như Thiền sư Thích Nhất Hạnh từng nói: đối thoại thực sự là khi cả hai bên đều sẵn sàng thay đổi… Theo cách đó, cuộc chiến vốn chia rẽ chúng ta nay lại là cội nguồn của sự hàn gắn”.

Thầy còn có những buổi cho tham vấn với từng cá nhân và giúp từng người nhìn thấy được con đường tâm linh để vững chãi bước tới.

 

4. Phát triển ở phương Đông 

Không muốn bị đóng khung bởi “nhãn hiệu” một vị thầy theo Thiền tông, Tịnh Độ tông hay Nam tông nên Thầy, trung thành với tinh thần thiền được truyền thừa từ Thiền sư Khương Tăng Hội, thường nói rằng Thầy chỉ “trình bày giáo lý của đạo Bụt nguyên thủy theo tinh thần Đại thừa”, hay “đem đạo Bụt Đại thừa về tắm lại trong dòng suối đạo Bụt nguyên thủy”[333]. Tại các trung tâm thực tập thuộc Làng Mai, các nghi lễ đã được Thầy giản lược đi rất nhiều để phục hồi sự tinh yếu sống động của Thiền Phật giáo. Làm như thế, Thầy đã đi xa hơn việc chỉ đơn thuần giảng dạy “thiền Đại thừa”. Trên thực tế Thầy đã truyền dạy một đạo Bụt hiện đại, cách tân nhưng vẫn giữ được gốc rễ của giáo lý nguyên thủy. Đây là một sự kết hợp giữa giáo lý nguyên thủy và tinh thần Đại thừa.

Thầy thấy được rằng công phu thực tập không phải là một cái gì lao nhọc, làm đầy đọa thân tâm. Thiền Làng Mai buông bỏ được các phép hành trì công án, thoại đầu và mặc chiếu, chấm dứt được mong cầu, dù là mong cầu đạt đạo, và trở nên một loại thiền tập ai cũng có thể áp dụng được trong đời sống hàng ngày. Trong nhận thức mới, thiền công án, thoại đầu và mặc chiếu đã trở thành xơ cứng, có tính cách hình thức, không có khả năng chế tác sức sống tâm linh như ngày xưa nữa. Thay vào những động tác có tính nghi lễ, pháp môn Làng Mai áp dụng hơi thở chánh niệm và các bài thi kệ thực tập chánh niệm. Giới xuất sĩ cũng như giới cư sĩ đều được chỉ dẫn cặn kẽ về cách sử dụng những bài tập thở trong kinh An ban thủ ý và những bài thi kệ thực tập chánh niệm, trong bốn tư thế của cơ thể, trong mọi động tác như chải răng, tắm gội, mặc áo, ôm bát, lái xe, v.v. Ngoài các khóa tu cũng phải thực tập như trong các khóa tu, và thực tập có nội dung, không bị kẹt vào hình thức. Nhìn cách đi, đứng, nói, cười, làm việc và tiếp xử, người khác nhận diện được mình và pháp môn của mình thực tập. Nhận diện cảm thọ, cảm xúc và làm lắng dịu chúng, ta cũng sử dụng hơi thở và bước chân. Thiền Làng Mai đã trở về suối nguồn nguyên thuỷ, và do đó tận dụng những kinh thiền nguyên thuỷ. Thầy thấy thiền công án và mặc chiếu không còn hợp thời nữa, không phải vì Thầy không theo truyền thống của Bụt mà tại Thầy thực sự muốn trở về truyền thống của Bụt.

Phần lớn các chùa ở Việt Nam đều thuộc về truyền thống thiền, Lâm Tế hay Tào Động, nhưng hiện giờ các chùa trong nước không thực tập thiền mà chỉ thực tập Mật và Tịnh độ. Pháp tu căn bản của phần lớn các chùa hiện giờ là hai thời công phu. Công phu sáng đầy đà la ni. Tâm Kinh vì được nhận thức như một linh chú (thị đại thần chú, thị đại minh chú) cho nên mới được đưa vào công phu sáng. Công phu chiều là tịnh độ. Phần lớn các chùa đều không còn ngồi thiền. Trong các buổi công phu, ta còn giữ được phép kinh hành, nhưng đó chỉ là đi để niệm Bụt, chứ không phải là thiền đi, như sự thực tập ngày xưa lúc đi khất thực. Thầy và tăng thân đã xuất bản Nhật tụng thiền môn bằng quốc văn, giúp cho việc thực tập trở nên cụ thể và sinh động.

Trong những chuyến về Việt Nam, Thầy đều ghé Thái Lan, Hồng Kông, và các nước Đông Nam Á khác để mở các khóa  tu. Vì vậy từ năm 2008 trở đi, tầm ảnh hưởng của Thầy ở châu Á tăng lên nhanh chóng, nhất là đối với giới trẻ. Những người trẻ thực sự ấn tượng bởi một đạo Bụt mới qua những lời giảng của Thầy, một đạo Bụt không bị ràng buộc bởi giáo điều, nghi lễ và sự mê tín. Năm 2013, hơn 10 ngàn người đã tham dự buổi pháp thoại công cộng của Thầy ở Busan, Hàn Quốc và 11 ngàn người tại buổi pháp thoại công cộng ở Hồng Kông, nơi Thầy cũng hướng dẫn những buổi huấn luyện đặc biệt cho thầy cô giáo và nhân viên y tế. Là một trung tâm của Làng Mai ở châu Á, trung tâm Làng Mai quốc tế Thái Lan với  gần 200 vị xuất gia, đã và đang hướng dẫn các khóa tu ở Nhật, Indonesia, Philippines và Đài Loan,… Ở Thái Lan, Thầy đã giảng dạy và hướng dẫn khóa tu tại trường đại học hoàng gia Mahachulalongkorn (MCU), trường đại học Phật giáo lớn nhất thế giới, quê hương của rất nhiều vị học giả nổi tiếng trong truyền thống Phật giáo Nam Tông. Ngày 26 tháng 03 năm 2011, Làng Mai và trường đại học MCU đã ký kết văn bản Hiệp ước đối tác, một sự cộng tác giữa hai bên trong việc chia sẻ các khóa tu và ngày quán niệm, yểm trợ cho phong trào Wake Up ở Thái Lan (chia sẻ giáo lý đạo Bụt ứng dụng và đạo đức học ứng dụng với thế hệ trẻ), và phát triển một chương trình Thạc sĩ về đạo Bụt ứng dụng tại MCU. Tại Trung Quốc, những kinh văn cổ bằng chữ Hán được Thầy dịch ra ngôn ngữ hiện đại đã được dịch ngược lại sang tiếng Trung Quốc đương đại và được chào đón bởi một số đông độc giả. Nhờ sự kết hợp giữa giáo lý nguyên thủy và tinh thần đại thừa, các khóa tu Thầy giảng dạy ở đâu cũng được hưởng ứng, các nước Phật giáo Nam tông cũng như Bắc tông, ở Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Đại Hàn, Nhật Bổn, hay Thái Lan, Ấn Độ.

Cũng tại châu Á, các tác phẩm thư pháp với những thiền ngữ giản dị mà sâu sắc, với nét bút rõ ràng thanh thoát chuyên chở năng lượng chánh niệm của Thầy được rất nhiều người yêu thích. Thư pháp của Thầy đã được triển lãm một cách quy mô tại Bảo tàng mỹ thuật của Đại học Hồng Kông vào tháng 11 năm 2010. Buổi triển làm này đã gây nguồn cảm hứng cho những buổi triển lãm kế tiếp ở Pháp, Đức, Canada, Hoa Kỳ, Thái Lan, Đài Loan và Việt Nam. Hai buổi triển lãm cuối cùng vào năm 2021 tại Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội đã gây tiếng vang lớn. Qua thư pháp, Thầy nhắc nhở các học trò thực tập chánh niệm qua những câu thiền ngữ như: Thở đi con, Mỉm cười, An lạc từng bước chân, Con đã về con đã tới,… Ngày nay, những bức thư pháp của Thầy đã trở thành những tác phẩm nghệ thuật được nhiều người yêu thích trên khắp thế giới, và đã được xuất bản dưới dạng sách[335].  

Trong các khóa tu, các đệ tử cư sĩ và thiền sinh cũng muốn thỉnh Thầy về nhà qua những tấm thư pháp để nhớ duy trì sự thực tập. Thầy đã viết hơn 10.000 tấm thư pháp.

5. Vị tu sĩ có ảnh hưởng lớn

Trong chuyến hoằng pháp cuối cùng của Thầy tại Bắc Mỹ vào năm 2013, Thầy đã hướng dẫn một khóa tu cho hơn 1500 nhà giáo dục ở Toronto, Canada; khai mạc triển lãm thư pháp của Thầy tại Broadway, New York; cho pháp thoại tại trường đại học Y khoa Harvard; hướng dẫn các buổi sinh hoạt chuyên đề về chánh niệm tại trụ sở Ngân hàng Thế giới ở Washington; nói chuyện tại trường đại học Stanford; hướng dẫn một ngày tu chánh niệm cho hơn 700 nhân viên của Google; và hướng dẫn một buổi chiều chánh niệm cho một số Giám đốc điều hành (CEO) hàng đầu của Thung lũng Silicon, trong đó có Marc Benioff, CEO của Salesforce. Marc Benioff đã trở thành một hộ pháp rất đắc lực của Thầy. “Anh muốn trở thành số một hay anh muốn được hạnh phúc?”, Thầy đã hỏi các CEO. “Nếu anh hạnh phúc, anh không thể nào là nạn nhân của hạnh phúc. Nhưng nếu anh thành công, anh có thể trở thành nạn nhân của sự thành công”, Thầy nói.

Mùa xuân năm 2014, Thầy đã làm hậu thuẫn cho Christiana Figueres, đệ tử của Thầy, khi bà chuẩn bị lãnh đạo các cuộc đàm phán về khí hậu (COP-21) tại Paris. Các cuộc đàm phán đã dẫn đến Hiệp ước Paris nổi tiếng. Sau này bà Christiana Figueres đã chia sẻ rằng nhờ sự hướng dẫn và những lời dạy của Thầy mà bà đã thành công[339]. Ảnh hưởng của Thầy cũng lan đến cả Hollywood. Hai đạo diễn từng đoạt giải Oscar là Alejandro G. Inarritu và Alfonso Cuarón đã đến dự các khóa tu và thực tập theo giáo pháp của Thầy. Cố nghệ sĩ hài Garry Shandling cũng là một người hết lòng thực tập theo Thầy. Ông là người nói lời giới thiệu Thầy trước khi Thầy phát biểu tại Quốc hội Mỹ[340].

 

6. Chánh niệm là con đường, không phải là một công cụ

Khi thiền chánh niệm trở thành một phong trào, các đệ tử giáo thọ cư sĩ của Thầy đặt câu hỏi là có nên giảng dạy chánh niệm cho các doanh nghiệp để giúp họ làm giàu nhiều hơn nữa, có nên huấn luyện chánh niệm cho quân đội để họ có thêm định mà giết người giỏi hơn không. Chánh niệm có thể làm lợi lạc cho tất cả mọi người hay chỉ nên làm lợi lạc cho một  người nào đó thôi. Thầy giải thích sự khác biệt giữa chánh niệm và tà niệm, giữa chánh kiến và tà kiến. Bất cứ khi nào một đệ tử của Thầy giảng dạy chánh niệm, họ nên cống hiến một giáo pháp hoàn chỉnh, bao gồm cả đạo đức, và không bao giờ nên pha loãng hay làm biến chất sự thực tập, hoặc sử dụng nó cho một mục đích phi đạo đức. Thầy nói, chánh niệm là con đường, mà không phải là một phương tiên hay một công cụ. Lấy chánh niệm ra khỏi bối cảnh của chánh đạo thì đây không còn là chánh niệm nữa.Tháng 09 năm 2014, Thầy hoàn tất bản dịch mới của Tâm Kinh Tuệ giác Qua bờ, trong đó làm rõ ý nghĩa của chữ “không” trong bản kinh. Thầy giải thích “không” không có nghĩa là “không có gì”, mà có nghĩa là “không có một cái ngã riêng biệt”. Thầy đã biến những giáo lý thâm sâu của Tâm kinh Bát nhã – một trong những bản kinh thiêng liêng nhất của đạo Bụt Đại thừa – trở thành một sự thực tập hết sức linh động.

XIII. Đạo Bụt không biên giới

1. Phi tôn giáo

Biết rằng những người mất gốc là những người đau khổ, Thầy không bao giờ khuyến khích ai bỏ đạo gốc, trái lại phải trở về với gốc rễ của mình để kết nối và bồi đắp. Từ những khóa tu đầu trong thập niên 80, các thiền sinh đến từ nhiều truyền thống như thiền Nhật Bản, Tây Tạng, Nam tông, và cả truyền thống Thiên chúa giáo, Tin lành, Hồi giáo và Do Thái giáo. Tất cả đều cảm thấy thoải mái với cách hướng dẫn của Thầy. Thầy đã mang giáo lý và sự thực tập đạo Bụt ra khỏi bối cảnh của tôn giáo để phụng sự một cách rộng rãi trong các trường học, cơ quan y tế, nơi làm việc và khắp nơi trên thế giới.

Nhiều thiền sinh sau này đã trở thành những người thầy dạy chánh niệm hàng đầu ở phương Tây, trong đó có Joan Halifax, Jack Kornfield, Joanna Macy và Sharon Salzberg. Bác sĩ Jon Kabat-Zinn dự khóa tu với Thầy tại Hội Thiền Minh Sát (Insight Meditation Society) ở Massachusetts năm 1987. Vị bác sĩ này vẫn đang tiếp tục sử dụng chánh niệm trong việc trị liệu. Đến nay, ông vẫn tìm mọi cách để áp dụng sự thực tập chánh niệm vào đời sống bằng cách vượt thoát ý niệm tôn giáo. Ông trở thành sáng lập viên cũng như giám đốc của bệnh viện Giảm căng thẳng tại trung tâm Y khoa Massachusetts.

Những cách thức mới mẻ, đầy sáng tạo và vô cùng hiệu quả trong thiền tập do Thầy giảng diễn đã được hàng ngàn người dạy thiền tiếp nhận và chia sẻ lại với hàng triệu người trên toàn thế giới.

Trong thập niên 1990 và đầu thập niên 2000, Thầy đã mang giáo lý và sự thực tập đạo Bụt ra khỏi bối cảnh của tôn giáo để phụng sự cho thế giới. Thầy đã hướng dẫn các khóa tu đặc biệt cho các nhà tâm lý trị liệu, thầy cô giáo, giới lãnh đạo doanh nghiệp, chính trị gia, khoa học gia, những nhà sinh môi, nghệ sĩ, nhân viên cảnh sát và thậm chí cả cho người Do Thái và người Palestine[311]. Có những giáo viên thỉnh chuông cho học sinh thở, và thậm chí có những linh mục tổ chức thiền trà cho giáo dân trong giáo phận của mình. Ngày nay tại Quốc hội Hoa Kỳ, có những nghị sĩ đã áp dụng thiền hành trong khi đi đến phòng bỏ phiếu. Thầy đã cống hiến một chiều hướng tâm linh bằng cách đưa chánh niệm vào trong sinh hoạt hằng ngày, không phân biệt tôn giáo. Tại Hoa Kỳ, Thầy đã hướng dẫn các khóa tu cho cựu chiến binh Mỹ, những người đã từng tham gia vào cuộc chiến tranh trên quê hương của Thầy, giúp mang lại sự hòa giải sâu sắc.

Mỗi năm, số người từ khắp nơi trên thế giới tìm tới Làng Mai để tu học ngày càng đông. Thầy nói: “Đạo Bụt của chúng tôi là một đạo Bụt không biên giới”[312]. Với Thầy, ai cũng có thể thực tập và hưởng được lợi lạc từ giáo lý đạo Bụt. Đạo Bụt là một gia tài của cả nhân loại chứ không chỉ dành riêng cho những người Phật tử, bởi đạo Bụt được làm bằng những yếu tố không phải là đạo Bụt. Không những Thầy đã làm mới lại đạo Bụt mà Thầy còn giúp các bạn phương Tây làm mới lại truyền thống của họ.

Giáo lý của Thầy về “chánh niệm trong đời sống hàng ngày” và phương pháp thiền hành do Thầy khởi xướng giờ đây đã được phổ biến rộng rãi bởi phong trào chánh niệm và đã đem đến sự trị liệu cho hàng trăm ngàn người ở khắp nơi trên thế giới.

 

2. Quy tắc của một nền đạo đức toàn cầu

Những năm Thầy ở Việt Nam, trong bối cảnh đất nước bị thực dân đô hộ và chiến tranh kéo dài với ý thức hệ và vũ khí của ngoại bang, Thầy đã đào sâu vào gia tài của Phật giáo Việt Nam để tìm một hướng đi cho dân tộc. Thầy cũng đã đào sâu vào gia tài tâm linh của đạo Bụt để cống hiến những quy tắc đạo đức có thể vượt ra khỏi biên giới của văn hóa và tôn giáo, gieo trồng hạt giống của một sự giác ngộ tập thể.

Thầy đã trình bày cái thấy của đạo Bụt cho một nền đạo đức toàn cầu qua Năm giới tân tu tại Hội nghị thượng đỉnh về AIDS được tổ chức tại Nhà Trắng; với Phó tổng thống Ấn độ K.R. Narayanan (kết quả là ông đã thành lập một Ủy ban Đạo đức ở Quốc hội), và tại Hội nghị Kinh tế Thế giới ở Davos, Thụy Sĩ[314]. Ước tính  từ thập niên 1980, trong các buổi lễ truyền giới do Thầy và tăng thân chủ trì, có hàng trăm ngàn người đã chính thức cam kết đem những nguyên tắc đạo đức này áp dụng vào đời sống hàng ngày. Năm 1999, UNESCO mời Thầy cùng với các ứng cử viên cho giải Nobel hòa bình khởi thảo bản “Tuyên cáo về một nền hòa bình và bất bạo động năm 2000” (“Manifesto 2000”) cho thiên niên kỷ mới[315]. Bản Tuyên cáo đó là một cam kết thực hành 6 điểm đạo đức cụ thể trong gia đình, nơi làm việc và cộng đồng dựa trên Năm giới tân tu của Thầy. Bản tuyên cáo đã lấy được trên 70 triệu chữ ký khắp  thế giới, trong đó có chữ ký của nhiều nguyên thủ quốc gia.

Rất nhiều năm trước khi Thầy được phép trở về Việt Nam, Thầy đã được mời đem giáo pháp đạo đức ứng dụng sang Trung Quốc: lần đầu tiên là vào  năm 1995. Sau đó, ba chuyến hoằng pháp liên tiếp dưới sự bảo trợ chính thức của Hiệp Hội Phật giáo Trung Quốc vào các năm 1999, 2001 và 2002[316]. Thầy đã có cơ hội tham bái tổ đình của dòng thiền Lâm Tế, được mời cho pháp thoại, hướng dẫn khóa tu và lần đầu tiên giới thiệu về bản Năm giới tân tu bằng chữ Hán. Thầy đã gặp gỡ Thứ trưởng về Tôn giáo và tặng ông câu thư pháp bằng tiếng Anh với dòng chữ “Spiritual Dimension” (Chiều hướng tâm linh). Thầy giải thích rằng “Hiện trong mọi lĩnh vực của sự sống xã hội và con người, như chính trị, kinh tế, giáo dục, y tế, v.v. yếu tố tâm linh đã trở nên rất cần thiết, vì vậy Thầy mong rằng Tôn Giáo Sự Vụ có thể nâng đỡ cho Phật giáo để Phật giáo có thể cống hiến được tuệ giác và kinh nghiệm cho xã hội, để làm giảm bớt bạo động, lo lắng và khổ đau trong những lĩnh vực của sự sống”.

Ngày xưa, chư Tổ đem giáo lý đạo Bụt từ Trung Quốc sang Việt Nam. Giờ đây, Thầy đem về lại cho Trung Quốc một đạo Bụt mới, đầy sức sống, mang tính thực tiễn và dễ áp dụng vào đời sống. Những cuốn sách của Thầy như Giận, Phép lạ của sự tỉnh thứcĐường xưa mây trắng được rất nhiều người Trung Quốc, đặc biệt là giới trẻ yêu thích. Thầy rất vui khi bản dịch quyển Bước tới thảnh thơi – cẩm nang dành cho sa di và sa di ni từ chữ Hán cổ sang chữ Hán hiện đại của Thầy có thể được xuất bản ở Trung Quốc và được sử dụng rộng rãi tại các Viện Phật học. 

3. Sinh thái học bề sâu

Đầu những năm 2000, Thầy trở thành một phát ngôn viên hàng đầu về “sinh thái học bề sâu”, phát triển giáo lý về môi trường mà Thầy đã bắt đầu từ hội nghị Đại Đồng vào những năm đầu của thập niên 1972. Tuệ giác về tương tức trở thành kim chỉ nam cho hoạt động dấn thân của Thầy. Trong tác phẩm The World We Have (Hướng đi của đạo Bụt cho hòa bình và môi sinh) được xuất bản năm 2008, Thầy không ngần ngại nói ra sự thật về sự khủng hoảng sinh môi ngày càng trầm trọng và đề ra hướng đi của đạo Bụt để đối trị với tình trạng ấy. “Nếu loài người chúng ta vẫn tiếp tục sống như hiện nay thì nền văn minh của chúng ta sẽ sớm bị diệt vong”. Năm 2007, theo sự chỉ dạy của Thầy, tất cả các trung tâm tu học của Làng Mai đã bắt đầu ngưng dùng những sản phẩm làm từ sữa như bơ, phô mai… nhằm gửi một thông điệp mạnh mẽ đến mọi người rằng một chế độ ăn chay không dùng các sản phẩm làm từ sữa, dựa trên rau củ quả có thể làm giảm thiểu khổ đau và bảo hộ trái đất[318]. Tuệ giác sâu sắc nhất của Thầy dành cho các nhà hoạt động môi trường, được ghi lại trong quyển sách Tâm tình với đất Mẹ, là một lời mời gọi “hãy yêu thương đất Mẹ”. Chính tình thương đối với đất Mẹ sẽ là nguồn năng lượng thực sự bền vững gây cảm hứng cho các nhà hoạt động môi trường trong hành động và sự dấn thân của họ.

4. Nền tảng đạo đức để xây dựng hòa bình

Tháng 09 năm 2001, trong lúc Thầy đang ở Hoa Kỳ để hướng dẫn các khóa tu, cho pháp thoại công cộng và trả lời các buổi phỏng vấn về quyển sách Giận vừa mới xuất bản thì tòa tháp đôi của Trung tâm Thương mại Thế giới (WTC) ở New York bị tấn công. Thầy đã dẫn đầu đoàn thiền hành với hàng trăm người đi chung quanh khu Ground Zero – nơi tưởng niệm các nạn nhân thiệt mạng trong vụ khủng bố nói trên. Thầy đã đề cập tới vấn đề bất bạo động và sự tha thứ trong bài phát biểu trước một thính chúng hơn 2000 người tại nhà thờ Riverside, nơi mà 35 năm về trước Mục sư King đã lên tiếng chống chiến tranh Việt Nam. Rất nhiều người đã cố gắng thuyết phục Thầy đừng lên tiếng vì e rằng có thể Thầy sẽ gặp nguy hiểm khi kêu gọi người dân Mỹ bình tĩnh, thực tập từ bi và bao dung trong lúc sự căng thẳng đang lên đến đỉnh điểm. Thầy nói: “Cho dù thầy có bị bắn khi thầy lên tiếng thì thầy  vẫn còn là thầy của quí vị. Nhưng nếu vì sợ hãi mà thầy giữ im lặng thì thầy sẽ không còn xứng đáng là thầy của quí vị nữa, và sự mất mát ấy còn to lớn hơn nhiều”.Hai năm sau, lúc tình hình căng thẳng giữa Nam – Bắc Triều Tiên lên cao điểm, trong một bài phát biểu tại Hàn Quốc, Thầy nhận xét rằng “Các nhà lãnh đạo chính trị của chúng ta được huấn luyện về khoa học chính trị nhưng không được đào tạo về cách thức xây dựng hòa bình, trong nội tâm cũng như bên ngoài. Chúng ta cần giúp họ đem lại một chiều hướng tâm linh cho đời sống chính trị của đất nước”[319]. Năm 2003, sáu tháng sau khi Hoa Kỳ chiếm đóng Iraq, Thầy đã mạnh dạn kêu gọi hòa bình tại Thư viện Quốc hội (Library of Congress) của Hoa Kỳ, gặp gỡ Thượng nghị sĩ John McCain để nói lên mối quan ngại của mình. Cũng trong dịp này, Thầy đã hướng dẫn hai ngày tu chánh niệm cho các nghị sĩ Hoa Kỳ. Một lần nữa, Thầy khẳng định điều quan trọng là đừng cho kẻ thù của mình là quỷ dữ, như Thầy đã từng khẳng định trong chiến tranh Việt Nam, mà nên nhìn họ với con mắt từ bi, đó mới là cách hay nhất để bảo đảm sự an ninh và hòa bình đích thực. Theo Thầy, từ bi là biểu hiện của sức mạnh và lòng can đảm vô cùng to lớn, chứ không phải là sự yếu đuối như ta thường nghĩ.

XII. Làng Hồng – Làng Mai

1. Ước mơ Làng Hồng

Năm 1982, Thầy trò đã tìm ra được một nông trại ở làng Thénac, nằm trên đồi cao vùng thung lũng sông Dordogne, miền Tây Nam nước Pháp. Nông trại chỉ có một  ngôi nhà đá cũ kỹ còn ở được, ba nhà kho vách đá chứa rơm rạ, chuồng bò, chuồng cừu. Vườn không trồng cây ăn trái, đất chỉ toàn là đá. Nông trại nằm trên một ngọn đồi cao, bao bọc xung quanh bởi rừng cây, có thể ngắm được mặt trời mọc và lặn. Điều Thầy thích nhất là con đường đất nhỏ bao quanh ngọn đồi, hai bên đường cây rất xanh, rất tuyệt vời để thiền hành! Ông chủ nhà khi đó còn do dự không chịu bán, nên Thầy trò đành phải mua một nông trại khác, cách đó hai cây số, thuộc làng Loubès-Bernac của tỉnh Lot-et-Garonne. Đó là ngày 28.09.1982.

Tháng Giêng năm sau, ông chủ nông trại ở Thénac đồng ý bán miếng đất. Đã lỡ mua nông trại gần đó rồi, nhưng Thầy cũng quyết định mua luôn nông trại mà Thầy đã “chấm” vì con đường thiền hành. Làng Hồng ra đời với xóm Thượng tọa lạc trên ngọn đồi cao nhìn xuống xóm Hạ, bao quanh bởi những ruộng nho xanh mướt.

Làng Hồng là tên Thầy đã đặt cho ngôi làng tâm linh mà Thầy và thầy Châu Toàn có dự tính thành lập trong tương lai để làm chỗ tu dưỡng cho những người tác viên của trường TNPSXH như Phương Bối ngày xưa. Sau khi thầy Thanh Văn ra đi, thầy Châu Toàn trở thành giám đốc trường TNPSXH để cáng đáng công việc. Nhưng chưa được bao lâu thì thầy Châu Toàn cũng viên tịch. Thầy biết thầy Châu Toàn từ khi thầy còn là điệu Hòa mới  tám tuổi. Điệu Hòa là đệ tử duy nhất của thầy Mật Thể, vị thầy mà sư chú Phùng Xuân đã hết lòng ngưỡng mộ. Sau khi thầy Mật Thể viên tịch, Thầy Nhất Hạnh chăm sóc và thương thầy Châu Toàn còn hơn em ruột.

Trong lá thư Thầy viết cho các tác viên trường TNPSXH ngày 18.07.1974: “Nhưng nay thầy Châu Toàn không còn nữa, một cây cổ thụ đã bị đổ ngã rồi. Làng TNPSXH, mà tôi muốn đặt tên là làng Hồng nếu ở đó ta trồng nhiều cây hồng ăn trái hoặc là làng Mai nếu ở đó ta trồng nhiều hoa mai, chưa thành hình thì thầy đã ra đi. Tôi mắc kẹt bên này chưa về được, vừa xót xa vừa trống lạnh. 

“Thế nào các em cũng làm cho được Làng Hồng, các em nhé. Tôi sẽ viết thư cho anh Thiều, cho thầy giám đốc mới.

“Trong một khóa tu cách đây chừng hai tháng, thầy Châu Toàn viết cho tôi: “Em mong có hòa hình để ra Quảng Bình tìm lại mẹ, mong rằng bà còn sống.” Không biết mẹ thầy còn sống hay không nhưng thầy không còn có dịp gặp mẹ nữa. Lời ước hẹn đã không được thành tựu. Ngày thầy mất 24.06.74, là ngày tôi ước hẹn gặp thầy ở Vạn Tường để bàn chuyện làm Làng Hồng. Nhưng tôi đã không được gặp thầy. Nhận được tin dữ, tôi đóng cửa phòng một ngày. Tôi như một gốc cây bị đốn ngã. Tôi đánh điện về an ủi các em nhưng tôi thì không an ủi được, sao trên đời có những chuyện “lỡ hẹn” đớn đau đến thế, hả em?”

Tám năm sau, ước mơ Làng Hồng đã trở thành hiện thực. Thầy và các học trò đã không tạo dựng được ước mơ ngay trên chính quê hương Việt Nam mà đã xây dựng một Làng Hồng trên nước Pháp. Một cộng đồng thường trú được thành lập gồm gia đình anh Lê Nguyên Thiều và một số thanh niên người Việt vừa đến từ trại tị nạn các anh Ân, Dũng, Đôn và Nhàn… tất cả đều từng là thuyền nhân. Việc đầu tiên Thầy và dân Làng làm là trồng ở xóm Thượng bốn cây tùng lọng (pinus pinea), nhiều cây tùng đại tây (cedrus atlantica), tùng bút trường sinh (cupressus sempervirens), tùng đen Áo Quốc (pin noir d’Autriche), hai cây tùng thiên thọ (cedrus deodara) và một số các loại tùng khác nữa. Mỗi khi đi ngang qua những cây tùng này, Thầy hay dừng lại để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của chúng và xem đó là một sư chú hay một sư cô đang lớn lên rất mạnh khỏe trên đất Làng.

Công việc kế đó là cải tiến và tu bổ các căn nhà đã đổ nát. Sàn nhà và trần nhà của ba căn nhà đá được lót gỗ lại. Xóm Hạ có được hai thiền đường và một Tham vấn đường. Cách Thầy thiết kế rất đơn sơ nhưng thiền vị, làm cho người bước vào bỗng trở nên ý thức và bước những bước chân cẩn trọng. Tiếp theo đó, các chuồng bò và chuồng cừu đều được sửa sang lại làm thiền đường và phòng ngủ. Có một căn nhà đá hơn một trăm năm tuổi đã được dùng làm chuồng bò, phân bò và rơm đã lên cao tới gần một thước. Thầy trò đã để ra hơn một tuần để lấy phân và rơm ra, rồi thêm hai ngày để xịt nước rửa sạch từng viên đá của bốn bức tường. Cải tiến và tu bổ xong, ngôi nhà này trở nên sáng sủa và phong quang nhất ở xóm Thượng. Thầy dành ngôi nhà này làm pháp đường và đặt tên là Pháp đường Chuyển Hóa.

Thầy cùng dân Làng bắt đầu canh tác trồng hướng dương, bắp, nho, lúa mạch và đậu nành để tự túc kinh tế. Chưa có dụng cụ làm vườn như lưỡi cày, dụng cụ rải phân, remorque chở củi, máy bơm nước để tưới nên phải đi mượn của những người Pháp hàng xóm quanh vùng. Bác hàng xóm Mounet còn dạy cho dân Làng lái máy cày, tỉa nho và giúp đỡ nhiều việc khác. Các bạn người Pháp mang đến tặng Làng nhiều vật dụng cần thiết. Xóm Hạ có một nhà mặt trời rất lớn để trồng các loại rau thơm, các loại đậu, cải, mướp, cà… Dân Làng cũng bắt đầu trồng mận ngay vào năm đầu của Làng để tự túc kinh tế và để gây quỹ cho trẻ em nghèo ở Việt Nam. Cả trẻ em Việt Nam ở hải ngoại và trẻ em phương Tây đều hăng hái dành tiền ăn quà của mình để đóng góp vào việc trồng một hay vài cây mận giống Pruneaux d’Agen. Tổng cộng được 1250 cây, con số của tăng đoàn nguyên thủy thời Bụt. Làng Hồng được đổi tên thành Làng Mai. Cứ mỗi năm khi tiết trời bắt đầu ấm áp, rừng mai nở hoa trắng muốt. Dân Làng cùng nhau thưởng hoa trong tiết xuân ấm áp. Hội Thủy Tiên và Hội Hoa Mai trở thành một truyền thống của Làng.

Thầy quyết định mở cửa Làng ngay vào mùa Hè  năm 1983. Sổ tay của người về Làng bằng tiếng Việt được ấn hành, rồi sau đó bằng tiếng Anh. Đây là những hướng dẫn tổng quát về sự thực tập để mọi người có thể học và chuẩn bị trước khi đến.

   2. Làng Hồng mở cửa cho khóa tu mùa Hè đầu tiên

Ngày 15 tháng 07 năm 1983, Làng mở cửa lần đầu cho khóa tu mùa Hè kéo dài một tháng. Có 117 người về tu học. Dân Làng đã chuẩn bị mọi thứ cho khóa tu rất chu đáo.  Mỗi xóm chỉ có ba nhà vệ sinh. Các bác và các thanh niên  phải đào một hố tiêu khô có che mành nứa để dùng tạm. Vì thiếu phòng ngủ  nên Thầy đã nằm chung dưới đất với bốn năm thiếu nhi ở cư xá Hồ Đào gần cây Tilleul. Ban đêm các cháu nằm lăn ra khắp nơi và lấn luôn sang cả chỗ nằm của Thầy. Trong các phòng có nền xi-măng, những chiếc giường được thiết kế bằng một tấm nệm mỏng đặt trên một tấm ván, với năm viên gạch kê bốn góc và chính giữa. Cuộc sống  này kéo dài trong nhiều năm sau đó. Tuy thiếu thốn tiện nghi vật chất nhưng với bầu không khí tin yêu và thân thiện, cha mẹ con cái vẫn rất hạnh phúc trong thời gian cư trú ở Làng. Mọi người được nói tiếng Việt, được ăn cơm Việt, được mặc áo dài, áo bà ba, lại được tự tay mình cuốc đất trồng rau ngò, tía tô, xà lách, rau húng, và làm những giàn su su, bầu, mướp ngọt. Đây là cơ hội cho nhiều gia đình người Việt được trở về với người đồng hương cho đỡ nhớ nhà.

Các phụ huynh có dịp đưa con cháu về Làng học văn hóa Việt để không bị mất gốc. Các sinh hoạt đều nhắm đến chuyện giữ gìn văn hóa Việt Nam  như các buổi hội thảo về Tương lai văn hóa Việt Nam dành cho các em thanh thiếu niên. Các lớp tiếng Việt dành cho thiếu nhi và sau này có thêm 14 môn văn hóa cấp tốc như sử ký, địa dư, ca dao tục ngữ, truyện cổ tích, các bài hát. Thiếu nhi vừa học vừa chơi trong một tuần là đã có thể được cấp “bằng chứng chỉ văn hóa Việt Nam”. Các em rất thích lễ Bông hồng cài áo và đặc biệt là lễ Mừng trăng lên (Tết Trung thu). Các em thường tổ chức văn nghệ thiếu nhi và kéo người lớn ra trình diễn rất vui. Giáo pháp được diễn bày qua những vở kịch rất sâu sắc và vui tươi.

Ở quán Cây sồi, chỉ cần một quan thôi là vào giờ trưa, thiền sinh có thể thưởng thức những món đặc biệt như chè thưng, chè bông cau, chè tơn, chè chỏm, chè trôi nước, nước hạt é, sương sa hột lựu, hoặc bánh bò, bánh tiêu, giò cháo quẩy, chuối chiên, bánh bột báng, bánh ít trần, hủ tiếu, bún riêu, v.v. Thầy nói đã bao nhiêu năm rời Việt Nam rồi mà kỷ niệm ăn hàng thuở bé  vẫn là kỷ niệm làm  Thầy nhớ nhất. Do đó Thầy muốn trẻ em làng Hồng cũng được tận hưởng những thú vui rất Việt Nam ấy. Và số tiền thu được đều bỏ hết vào quỹ của chương trình từ thiện cho quê nhà.

Một trong những mục đích của Làng là làm sao để trẻ em Việt Nam ở phương Tây được hấp thụ tất cả những gì cao đẹp của cả hai nền văn hóa: cái đẹp của văn hóa Việt Nam và cái đẹp của văn hóa nơi các em cư trú. Thầy cũng dạy rằng cách thức bảo vệ văn hóa dân tộc hay nhất là tập trở lại cách đi, cách đứng, cách uống trà, cách chào hỏi, v.v. để chúng ta khôi phục lại con người tốt đẹp của chúng ta.

Thầy Joseph Liggett, một cao đệ của thiền sư Robert Aiken từ Hawaii tới dự khóa tu rất ngạc nhiên, thầy không hiểu vì sao trẻ em Làng Hồng dễ thương đến thế. Nhiều thiền sinh phương Tây khác cũng có cùng một thắc mắc. Có phải bởi vì người lớn hạnh phúc? Hay bởi vì thiếu nhi được dành một vị trí quan trọng ở Làng Hồng?

Từ kinh nghiệm tu học và sự chứng nghiệm của chính mình, Thầy dạy đồng bào, người lớn cũng như trẻ em các pháp môn thực tập chánh niệm để ôm ấp và chữa trị những vết thương chiến tranh, đồng thời tiếp xúc được với gốc rễ văn hóa tâm linh để có thêm sự bình an và sức mạnh. Tất cả các bài pháp thoại, Thầy đều dành ra mười lăm phút đầu để dạy thiếu nhi thực tập, đôi khi bằng cách kể chuyện cổ tích. Các em được học cách chào nhau bằng cách chắp tay búp sen, cách thỉnh chuông, cách thở bụng, hay “mình sẽ làm gì khi có cơn giận?”…  Sau đó, Thầy dạy người lớn làm thế nào để áp dụng hơi thở chánh niệm trong việc chữa trị thân tâm; làm sao để thưởng thức được những giây phút im lặng, làm sao để tập ngồi, tập đi đứng như một đức Bụt, nghĩa là luôn luôn an trú trong tịnh lạc. Thầy dạy cách thực tập rửa bát, giặt giũ, nâng một chén trà lên uống trong sự tỉnh thức và thanh tịnh. Thầy hướng dẫn để giúp mọi người thấy rõ được những gì đang xảy trong bản thân và nơi những người thương yêu đang chung sống với mình; làm sao đem sự an lạc cho mình và cho họ. Thầy dạy cách áp dụng thi kệ chánh niệm trong các hoạt động thường nhật như đánh răng, quét nhà, thắp nến. Như những gì Thầy đã từng làm trong thập niên 50, Thầy dịch hoặc phỏng dịch toàn bộ từ chữ Hán ra chữ quốc ngữ những bài thi kệ, các bài kinh, v.v. cho đồng bào thực tập. Thầy còn sáng tác thêm nhiều bài kệ thích ứng với xã hội ngày nay, như bài kệ thực tập khi nhấc điện thoại, khi rồ máy xe hơi, bật máy vi tính, v.v. Thầy chế tác và dạy mọi người những phương pháp thực tập như dừng lại và thở theo tiếng chuông.

Mỗi ngày Thầy đều hướng dẫn đồng bào từ đầu tới cuối, từ thiền ngồi qua ăn cơm trong im lặng và quán niệm, từ thiền hành, pháp đàm, cho đến thiền trà… Thầy đi chỉnh tư thế ngồi của từng người cho thẳng, đầu của từng người cho ngay ngắn. Từ bảy tuổi trở lên, phần đông các cháu thiếu nhi đã đi ngồi thiền và ngồi trọn buổi không thua gì người lớn, mặc dù Thầy cho phép các cháu khi nào mệt hay buồn ngủ thì các cháu cứ nhẹ nhàng đứng dậy, xá Bụt và lui ra khỏi thiền đường. Thầy dạy trẻ em cùng người lớn những pháp môn thực tập chánh niệm mà họ có thể áp dụng trong đời sống hàng ngày. Hàng tuần, trong khung cảnh trang nghiêm với sự có mặt của cha mẹ và bạn bè, các cháu thiếu nhi được lặp lại trước Bụt, trước Sư Ông (cách các thiếu nhi gọi Thầy) và ba mẹ, Ba sự quay về nương tựa (Tam quy) và Hai lời hứa. Sau đó, các cháu được ra khỏi thiền đường đi chơi trong khi người lớn ở lại tụng Năm giới hay giới Tiếp Hiện [295]. Ở Làng Mai, trẻ em được đặt vào một vị trí rất quan trọng. Đó là thế hệ tiếp nối và có khả năng làm giàu đẹp những giá trị truyền thống[296]. Thầy dạy các cháu rửa chén. Thầy thương trẻ em lắm. Chúng biết Thầy thương nên cứ bám theo Thầy. Thầy đi trước rửa chén, theo sau là một hàng dài con nít, không ai có thể chen vô được. 

Để thiếu nhi và người trẻ được tưới tẩm những hạt giống tốt và nhắc nhở mọi người sự thực tập, Thầy bắt đầu sáng tác và phổ nhạc những bài hát như Quay về nương tựa, Đã về đã tới, Thở vào thở ra, v.v. Vừa sáng tác, Thầy vừa khuyến khích các học trò sáng tác. Truyền thống thực tập thiền ca của Làng Mai đã bắt đầu từ những năm đầu khi Làng Hồng mở cửa. Các đệ tử người Tây phương cũng sáng tác song song những bài hát và những bài nhạc kinh tiếng Anh. Đến năm 1997, nhạc sĩ Anh Việt phổ nhạc các bài thơ của Thầy, các bài sám, bài kinh từ sách Thiền môn nhật tụng do Thầy biên soạn. Từ đó, các thầy và các sư cô đều hát nhạc kinh hai thứ tiếng trước pháp thoại của Thầy. Đối với Thầy, tán tụng trong truyền thống Phật giáo cũng là một loại âm nhạc, âm nhạc tâm linh. Khi những bài hát nhắc nhở ta thực tập, giúp tâm ta như lý tác ý và tưới tẩm những hạt giống tốt thì những bài hát này có cùng một tác dụng với những bài thiền hướng dẫn.

Khi con cái đi học, hòa nhập vào xã hội phương Tây và hấp thụ văn hóa phương Tây, hố khoảng cách văn hóa với cha mẹ mỗi ngày mỗi lớn. Tuy người Việt tị nạn đã được định cư an ổn và có một nếp sống tràn đầy tiện nghi về vật chất, nhưng không khí trong nhiều gia đình mỗi ngày mỗi nặng nề và căng thẳng hơn. Nhìn sâu vào những vấn đề mới của đồng bào ở hải ngoại, Thầy thấy nhu cầu cấp bách là cần chia sẻ những pháp môn khế lý, khế cơ để giúp mọi người cách truyền thông trong gia đình. Thầy dạy mọi người thực tập ái ngữ và lắng nghe, thực tập thiền ôm để giải tỏa nội kếtlàm mới với nhau. Những phương pháp cụ thể này đã thiết lập lại truyền thông và đem lại sự hòa giải cho không biết bao nhiêu cặp vợ chồng, cha mẹ, con cái trong các gia đình. Thầy luôn căn dặn mọi người duy trì sự thực tập khi về lại nhà bằng cách phải tổ chức thiền tọa, thiền hành, thiền trà,… Nhiều người trẻ đã phục hồi được niềm tin của họ nơi dân tộc và nơi tương lai.

Hôm nọ, một em trai tới đưa cho Thầy cuốn Tương lai văn hóa Việt Nam và xin Thầy viết vài câu gì vào đó để có thể nhắc nhở em bảo vệ văn hóa dân tộc. Thầy từ chối không viết. Thầy thân ái vỗ nhẹ vào vai em và nói: “Cách thức bảo vệ văn hóa dân tộc hay nhất là bảo trọng lấy thân thể mình. Chiến tranh đã gây trên thân thể và tâm hồn ta quá nhiều thương tích rồi. Chúng ta đã khổ đau, nghi kị, đã sợ hãi, đã căm thù, đã tuyệt vọng. Trong chúng ta ai cũng đã mang thương tích. Qua tới bên này, đừng để cuộc sống cướp giật và tàn phá chúng ta thêm nữa. Vì vậy ta phải bảo trọng thân mạng ta. Nếu cái hạt đào còn nguyên vẹn, nó sẽ mọc thành ra cây đào tốt tươi như cũ. Bảo trọng lấy thân mạng tức là bảo trọng lấy hạt đào của dân tộc. Do đó chúng ta phải tập trở lại cách đi, cách đứng, cách uống trà, cách chào hỏi, v.v. để chúng ta khôi phục lại con người tốt đẹp của chúng ta. Chúng ta khôi phục niềm tin cậy lẫn nhau và niềm tin tưởng ở tương lai. Các em hãy tổ chức thiền trà, thiền tọa, thiền hành… chúng ta phải tạo một tương lai cho con em, cho nòi giống, cho đất nước”. Trong khi Thầy nói, một em, rồi hai em, rồi tất cả các em khác lần lượt tới quây quần bên Thầy, lắng nghe với tất cả tâm hồn. Cảnh tượng thật mầu nhiệm. Nơi đó không còn sự chia cắt gốc Hoa, gốc Việt, miền Bắc, miền Nam. Chỉ còn một đàn con cùng mẹ đang quây quần với nhau, thao thức lo lắng cho ngày mai đất nước.

Ngay sau khóa mùa Hè đầu tiên vào tháng 09, thiền sư Zentasu, viện trưởng các thiền viện San Francisco và Tassajara ở Mỹ đến thăm và ở lại với Thầy một tháng tại  xóm Thượng. Các tác viên người Anh của các tổ chức Refugee Action, British Refugee Council và Save the Children cũng đến để học hỏi. Mùa thu năm đó, ông Giám đốc cơ sở thiết kế đầu đạn nguyên tử liên lục địa xuất hiện tại xóm Thượng và xin phép gặp riêng với Thầy, không có người thứ hai. Ông và người vợ trẻ bay từ Hoa Kỳ sang Bordeaux rồi mướn xe hơi tự lái từ phi trường về đây chỉ để xin gặp Thầy một giờ đồng hồ. Ông đang rất khổ khi  phải đứng đầu một chương trình mà đầu đạn nguyên tử một khi bắn đi xuyên lục địa có thể tàn phá cả một thành phố. 

Ngoài những người Việt tị nạn còn có những người phương Tây tìm đến Thầy từ khi Làng mở cửa. Họ tha thiết muốn được Thầy hướng dẫn tu học. Vào mùa hè thứ ba khi không còn chỗ, sáu thiền sinh người Đức và Hà Lan đã xin cắm lều để được ở lại tu học. Có cả thiền sinh người da đỏ. Thầy phải phân chia thì giờ cho hai cộng đồng người Việt và người phương Tây. Thầy giảng pháp thoại tiếng Anh ở xóm Thượng và pháp thoại tiếng Việt ở xóm Hạ. Thiền sinh cũng xin Thầy để được tham vấn hầu như mỗi ngày. Nghi thức tụng giới cũng được biên soạn bằng tiếng Anh. Sau đó, Làng không chỉ mở cửa vào mùa hè mà còn mở cửa quanh năm cho cộng đồng người Việt cũng như người phương Tây tìm về để học cách chuyển hóa khổ đau và tìm thấy nếp sống hạnh phúc. Đến năm 1990, vào khóa tu mùa Hè, thiền sinh về Làng đã lên đến gần 1000 người. Ngoài xóm Hạ và xóm Thượng, để đủ chỗ cho thiền sinh về tu học, Làng còn phải có thêm xóm Đoài, xóm Trung, xóm Mới,… Vẫn không đủ chỗ, thiền sinh phải cắm lều hay ở những nhà trọ quanh vùng. Người phương Tây về Làng mỗi năm mỗi đông hơn và người Việt trở thành thiểu số. Từ năm 2008, Thầy không còn giảng pháp thoại bằng tiếng Việt trong khóa tu mùa Hè nữa. Thầy giảng tiếng Anh hoặc tiếng Pháp trong khi ban kỹ thuật phải sắp xếp hệ thống dịch cùng một lúc ra tiếng Đức, Hà Lan, Ý, Tây Ban Nha, Hoa, Nhật, Thái…

Trong hai thập niên tiếp theo, Làng Mai đã phát triển thành một trung tâm tu học Phật giáo lớn nhất ở phương Tây, thiền sinh từ khắp nơi trên thế giới trở về đây với hơn 4000 người vào mỗi mùa hè và hơn 10.000 người đến tu học mỗi năm.

3. Cách hành trì mới

Thiền sinh phương Tây bắt đầu đứng ra tổ chức những khóa tu và thỉnh Thầy đến dạy tại mỗi nước. Hòa Lan là đất nước đầu tiên có những khóa tu chánh niệm do Thầy hướng dẫn, như khóa tu tại trung tâm Kosmos (Amsterdam) hay ở Theresiahove, do một nữ tu Công Giáo Judith Bossert tổ chức. Sau khi được học với Thầy, vị nữ tu thực tập thiền mỗi ngày và đã được thọ giới Tiếp Hiện tại Làng.

Mùa xuân năm 1983, Hội Thân hữu Hòa bình Phật giáo (Buddhist Peace Fellowship) và trung tâm Thiền của Baker Roshi ở San Francisco (San Francisco Zen Center) tổ chức khóa tu đầu tiên do Thầy hướng dẫn cho Phật tử phương Tây tại trung tâm Tassajara Zen Mountain. Trong các thập niên 80 và 90, với bối cảnh thiền tập đang phát triển nhanh chóng ở phương Tây, họ mời Thầy trở lại mỗi năm để hướng dẫn những khóa tu tại các trung tâm thiền Phật giáo mọc lên ở hai bờ Đông và Tây Hoa Kỳ như Hội thiền Minh sát (Insight Meditation Society), Học viện Omega (Omega Center), New York Open Center, trung tâm Ojai Foundation vùng Santa Barbara và trung tâm thiền San Francisco, hay ở trung tâm Thiền Providence (Providence Zen Center), Rhodes Island, và ở Boulder, Colorado. Thầy giảng dạy tại các trung tâm thuộc truyền thống Đại Hàn, Tây Tạng, hay Nhật Bản. Đây là lần đầu tiên các thiền sinh tại những nơi này được tiếp xúc với thiền Việt Nam.

Mô thức của khóa tu chánh niệm mà Thầy hướng dẫn hoàn toàn căn cứ trên những gì Thầy đã học hỏi và hành trì. Điểm nhấn trong các pháp môn của Làng Mai là tính thiết thực. Mục tiêu của sự thực tập không phải là để trốn chạy khổ đau và tìm cầu bất cứ điều gì ở tương lai, ngay cả tìm cầu sự giác ngộ và Niết bàn. Mục tiêu của sự thực tập cũng không phải là để được vãng sinh về cõi Tịnh độ sau khi chết, hay để tích phước, mà trở về hiện tại để tiếp xúc với hạnh phúc, sự bình an, và Tịnh độ đang có sẵn. Nhờ vậy mà thân tâm được nuôi dưỡng, trị liệu và những khổ đau được chuyển hóa. Kinh Người biết sống một mình là nền tảng cho sự thực tập chánh niệm. Sống một mình có nghĩa là sống an trú trong hiện tại, sống tự do không bị kẹt vào quá khứ, tương lai, hay một theo đuổi trong hiện tại. Chỉ khi nào an trú được trong hiện tại thì ta mới tiếp xúc được với những mầu nhiệm của sự sống để được nuôi dưỡng và trị liệu. Thầy nhấn mạnh đến sự thực tập bước chân chánh niệm. Thiền đi đã trở nên sự thực tập căn bản ở Làng và trong các khóa tu.

Thầy là một trong những vị thầy Phật giáo đầu tiên ở phương Tây nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc kết hợp thiền tập và chánh niệm với các hoạt động thường nhật xảy ra bên ngoài thiền đường. Với tuệ giác bất nhị, cốt tủy của đạo Bụt, sự thực tập không tách rời xã hội mà nguồn tuệ giác ấy có thể áp dụng trong gia đình, sở làm và bất cứ ở đâu trong đời sống hằng ngày. Đây là tinh thần của kinh An ban thủ ý và kinh Tứ niệm xứ, hai kinh nền tảng cho mọi phương pháp thực tập. Sau bao nhiêu năm thử nghiệm, Thầy thấy mười sáu bài tập thở này rất thực tế và hữu hiệu, vì vậy trong khóa tu nào Thầy cũng hướng dẫn thiền sinh thực tập ít nhất là tám bài tập đầu. Phải rèn luyện mới thực tập thở một cách hiệu nghiệm được, và càng thực tập Thầy càng hiểu sâu công dụng vô biên của kinh này. Khi cái hiểu của Thầy về kinh An ban thủ ý càng ngày càng sâu, sự thực tập và giảng dạy của Thầy cũng càng ngày càng thiết thực và có hiệu quả. Thầy luôn tin rằng sự hành trì sẽ còn giúp cái hiểu của Thầy đi sâu hơn nữa về kinh An ban thủ ý, cũng như về các giáo lý như Tam bảo, Tứ đế, Bát chánh đạo và Mười hai nhân duyên.  

Đối với Thầy, tu là phải vui. “Thở vào, tâm tĩnh lặng, thở ra miệng mỉm cười” là sự thực tập căn bản. Các thiền sinh rất hạnh phúc khi được phép mỉm cười trong khi thực tập thiền mà không phải gồng mình, ép xác và căng thẳng như cách họ thực tập trước đó. Điều đánh động thiền sinh nhiều nhất là sự thực tập bất bạo động với thân thể, với những cảm thọ và những cảm nghĩ của chính mình. Nếu thực tập chánh niệm nghiêm chỉnh mà không có sự buông thư, không có hỷ, lạc và ý thức mầu nhiệm về sự sống, thì đó có thể chỉ là hình thức mà không có nội dung. Vì lý do trên, Làng Mai càng ngày càng giản lược về hình thức nghi lễ, tuy rằng nghi lễ có khi rất đẹp. Qua sự giản lược về hình thức, mọi người cảm thấy tự nhiên hơn trong khi thực tập. Đó là theo nguyên tắc “không có con đường nào đi tới hạnh phúc, hạnh phúc chính là con đường; không có sự thực tập nào đưa tới giác ngộ, giác ngộ chính là sự thực tập.”

Thầy luôn dành phần đầu của Pháp thoại cho các cháu thiếu nhi. Đây là một sự đặc trưng của Thầy. Tiếng chuông chánh niệm cũng là một đặc thù của khóa tu do Thầy hướng dẫn. Khai thác những nét đẹp trong văn hóa Việt Nam, Thầy đã giới thiệu cho các đệ tử khắp năm châu cách thiết lập một bàn thờ tổ tiên, giúp họ thực tập  kết nối, hòa giải và biết nương tựa tổ tiên tâm linh và tổ tiên huyết thống trong chính tự thân.

Trước khi chia sẻ Pháp thoại hay trong các buổi vấn đáp, Thầy luôn chia sẻ cho các cháu thiếu nhi và ưu tiên cho các cháu được đặt câu hỏi trước. Giờ thiền hành, Thầy luôn nắm tay các cháu cùng đi với đại chúng. Các khóa tu dành riêng cho thiếu nhi đã được tổ chức ở Hoa Kỳ và ở Pháp. Tất cả các pháp môn tu học dành cho người lớn thực tập đều được trình bày lại một cách đơn giản và dễ hiểu nhất cho các cháu như ngồi thiền, thiền đi, thiền buông thư, thiền lạy, thiền ăn, cho đến Làm mới. Các buổi làm mới giữa các em và ba mẹ lúc nào cũng đầy những giọt nước mắt hạnh phúc và trị liệu khi các cháu có cơ hội nói ra những điều thâm sâu trong lòng. Mỗi khóa tu mùa Hè ở Làng đều có các xuất sĩ cùng với các bạn cư sĩ đảm trách chương trình thiếu nhi và chương trình thanh thiếu niên theo lứa tuổi và ngôn ngữ tại mỗi xóm. Được chơi và thực tập trong một môi trường lành mạnh, an toàn, các thiếu nhi và người trẻ cảm thấy thoải mái và hạnh phúc. Nhiều em trở về Làng mỗi năm, nay đã lớn và tiếp tục sinh hoạt với những nhóm trẻ lớn tuổi hơn (young adults) hay tham gia vào tăng thân Wake-up. Có những em đã thọ giới Tiếp Hiện, đã xây dựng và hướng dẫn các tăng thân địa phương. Làng Mai là ngôi nhà tâm linh của các cháu.

Thầy đã phát triển và hướng dẫn các phương pháp thực tập chánh niệm cụ thể, giản dị, như hơi thở chánh niệm, thiền hành, rửa bát, đánh răng, nấu ăn, làm việc, dừng lại và thở khi nghe chuông, mỉm cười… Có thể nói, Thầy là một trong những thiền sư đầu tiên trong thời hiện đại gỡ bỏ sự huyền bí đã được phủ màu lâu năm trong thế giới của Thiền. Từ đó, con đường thiền tập trở về với tự thân, tiếp xúc với giây phút hiện tại bằng chánh niệm trở nên gần gũi và giúp hành giả chuyển hóa được rất nhiều bế tắc và đạt được những tuệ giác rất sâu sắc.

Thầy là người tiên phong trong phương pháp thực tập ngồi thiền kết hợp những câu hướng dẫn và các từ khóa với hơi thở, giúp cho thiền sinh chế tác hỷ lạc, đem lại sự trị liệu và phát sinh tuệ giác. Thầy còn hướng dẫn một pháp môn mới là thiền buông thư, dựa trên việc sử dụng ánh sáng chánh niệm để soi chiếu và làm lắng dịu toàn thân từ đầu đến chân. Thầy khai triển pháp môn Thiền lạy (Sám pháp địa xúc), sự thực tập quán chiếu trong tư thế phủ phục để buông bỏ cái ngã, nhằm tiếp xúc với tổ tiên huyết thống và tổ tiên tâm linh trong chính con người mình và chạm tới tuệ giác vô ngã. Đây là một trong rất nhiều phương pháp áp dụng giáo lý tương tức một cách cụ thể.

Từ những khóa tu đầu ở Mỹ như khóa tu tại trung tâm thiền tập Tassajara ở California, lần đầu tiên Thầy đã sử dụng từ “interbeing”, chưa có trong tự điển, để giải thích cho thiền sinh phương Tây về tính tương tức của vạn pháp. Sử dụng từ gốc “to be” làm nên một từ mới là inter-being để dịch sahabhūtā (từ tương tức bằng tiếng Phạn). “Tương tức nghĩa là ta không thể nào tự mình có mặt hay làm cho một cái khác có mặt, ta phải cùng nhau có mặt”, Thầy giải thích. Sự quán chiếu về tương tức có thể giúp thiền giả cởi bỏ cách tư duy lưỡng nguyên và kỳ thị. Chỉ với một danh từ đơn giản interbeing – tương tức, Thầy đã chuyển tải được tuệ giác nằm phía sau cam kết “không phe phái” của mình trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Bài thơ Hãy gọi đúng tên tôi được Thầy viết trong thời kỳ khủng hoảng thuyền nhân Việt Nam chính là sự chứng ngộ thâm sâu về tuệ giác tương tức của Thầy: tất cả mọi thứ đều là sự biểu hiện của mạng lưới nhân duyên trùng điệp, và ta cũng là một trong muôn vàn những nhân duyên ấy. Như Thầy đã nói: “Tất cả mọi cái đều chứa đựng trong nó tất cả những cái khác”. Ngay trong những khóa tu đầu tiên, Thầy đã dạy rằng không thể có hạnh phúc nếu không có khổ đau, nếu không có bùn thì không thể có sen., Thầy dạy rằng bất cứ ai cũng có thể sử dụng tuệ giác về tương tức để tiếp xúc với tự tánh của thực tại, vượt thoát khỏi mọi ý niệm, trong đó có ý niệm “hiện hữu (có)” và “không hiện hữu (không)”. Tuệ giác và phương pháp hành trì rất cụ thể về tương tức (Interbeing) là cốt tủy trong những lời dạy của Thầy, trở thành một trong những đóng góp nổi bật của Thầy ở phương Tây, đã giúp bao nhiêu người hiểu đạo Bụt, biết thực tập nhìn sâu để hiểu nỗi khổ niềm đau của họ, để trị liệu và chuyển hóa, đạt đến an lạc.

Thầy luôn nhấn mạnh đến sức mạnh của thiền tập cộng đồng trong việc trị liệu và chuyển hóa, cũng như tầm quan trọng của việc xây dựng các cộng đồng thực tập chánh niệm tại địa phương (hay còn gọi là tăng thân). Thầy mong muốn mọi người có một nơi để cùng tu tập, nuôi dưỡng niềm vui, sự gắn kết nhằm đối trị với sự cô đơn, biệt lập và chủ nghĩa cá nhân đang xâm chiếm thế giới hiện đại. Những đoàn thể này được gọi là những cộng đồng sống chánh niệm. Ngày nay, những thành phố lớn như New York hay London đều có trên mười tăng thân. Những đệ tử cư sĩ của Thầy đã xây dựng được một mạng lưới gồm hơn 1500 tăng thân thực tập chánh niệm tại hơn 40 quốc gia trên thế giới.

Trong hai thập niên gần đây, sự giảng dạy và thực tập của Làng Mai đặt trọng tâm vào công phu chế tác hỷ lạc, xử lý niềm đau và hòa giải được với người thân. Khóa tu nào cũng có dạy và thực tập về những chủ đề ấy. Dù cách thức giảng dạy có khác nhưng nội dung và chủ đích vẫn là một.

5. Nhà xuất bản Lá Bối Hoa Kỳ và Parallax

Để có những tư liệu cần thiết cho các thiền sinh tu học tại Làng hay trong các khóa tu Thầy hướng dẫn ở các nước, máy in của Lá Bối mà Thầy dời từ Sceaux về Phương Khê lại phải hoạt động liên tục để cho ra đời những tác phẩm như Sổ tay của người về Làng. Đây là một cuốn chỉ nam ngắn gọn hướng dẫn tổng quát mà trước khi về Làng mọi người cần đọc để có thể hòa nhập vào khóa tu một cách nhanh chóng và có được nhiều an lạc trong thời gian ở Làng. 

Ngoài ra, Thầy còn viết thêm nhiều tác phẩm khác để bổ túc như Thiền hành yếu chỉ, Nghi thức tụng niệm, Tương lai văn hóa Việt Nam, Tương lai thiền tập Việt Nam, Con đường chuyển hóa – những lời diễn giải từ kinh Tứ Niệm Xứ (Bốn lĩnh vực quán niệm). Đây là kinh gối đầu giường của các thầy Nam tông ngày nay và của tất cả các thầy vào thời nguyên thuỷ. Ai cũng thuộc lòng kinh này để thực tập chăm sóc và quán chiếu hình hài, cảm thọ, tri giác và đối tượng tri giác của mình. Ngoài ra, Thầy cũng hoàn tất tác phẩm Việt Nam Phật giáo sử luận III. Trong khi khảo cứu và trước tác Việt Nam Phật giáo sử luận, Thầy có cơ hội nhìn lại quá khứ và nhờ đó mà thấy được con đường tương lai của thiền học Việt Nam, của đạo Bụt không những ở Việt Nam. Giáo sư Nguyễn Huệ Chi, trưởng khoa Sử học Phật giáo đại học Văn khoa Hà Nội, đọc được hai tập mà không biết tác giả là ai. Ông đã tìm cách liên lạc với Nguyễn Lang qua NXB Lá Bối ở Paris, để xin phép cho NXB Văn Hóa in bộ sách tại Hà Nội. Năm 2000, NXB Hà Nội tái bản cả ba tập với lời nói đầu:

“Công trình Việt Nam Phật giáo sử luận của Nguyễn Lang qua những lần in trước đây đã tỏ rõ được sự hấp dẫn khoa học của nó. Tác giả đã cung cấp cho giới nghiên cứu văn hóa, văn học và những ai quan tâm đến lịch sử Phật giáo Việt Nam những tư liệu nghiêm túc và cái nhìn bao quát về lịch sử Phật giáo Việt Nam từ khởi thủy đến hiện đại.”

Giáo sư Nguyễn Huệ Chi có viết lời giới thiệu, trong đó có những đoạn:

 “Nếu nói rằng Nguyễn Lang đã tìm ra được một kết cấu hợp lý cho bức tranh sống thực của lịch sử Phật giáo Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỷ XIX thì cũng không có gì quá đáng, vì lẽ, dù đó đây có nhiều điểm còn phải bổ sung, thay đổi, cái kết cấu mà ông tạo dựng nên trong sách cũng đã trở thành một cái gì khách quan và ổn định, nó góp phần làm sống lại không khí cũng như diện mạo cụ thể của sinh hoạt Phật giáo qua các thời đại, đến mức ngay những bộ sách cùng đề tài triển khai sau ông, muốn tự đề xuất một hướng tìm tòi mới, khoa học hơn, xác đáng hơn, chung quy vẫn phải dựa vào kết cấu đó, đôi khi còn biến hóa vay mượn nó một cách lộ liễu.”

[…] “Đặc biệt hơn nữa là [Nguyễn Lang] đã biết cách làm tư liệu “sống dậy”. Một mặt, chúng được ông khảo sát thật tâm huyết và tỉ mỉ, như một nhà văn bản học thực thụ, nhằm đưa ra những bằng cứ có giá trị “thiết chứng”, thuyết phục được người xem. Mặt khác, ông biết nhìn ra trong tư liệu những tiếng nói riêng, những “ẩn ngôn” bất ngờ có khả năng thông báo những điều lý thú, mà người khác nhìn vào chưa chắc đã thấy gì. Vì thế, tuy đã hơn một lần đọc các tài liệu này, ta vẫn bị ngòi bút ông lôi cuốn không thể nào cưỡng lại được, và say mê theo dõi các phát hiện của ông.

“Bộ sách của Nguyễn Lang còn có một ưu điểm đáng quý: coi trọng vai trò của tài liệu trong luận chứng, có thái độ tỉnh táo trước hiện tượng thật giả khó phân của nhiều nguồn tư liệu, nhưng không bao giờ đi đến một thái độ cực đoan, hoài nghi chủ nghĩa, trong khi lục vào kho tài liệu nghèo nàn, thậm chí hỗn loạn của cha ông.”

Sau này gặp được Thầy, giáo sư Huệ Chi xin in hình Thầy trên bìa sau tập sách mặc dù tên tác giả vẫn giữ là Nguyễn Lang.

Năm 1985, có các đệ tử cư sĩ chăm lo NXB Lá Bối tại Hoa Kỳ để Thầy không phải mất nhiều thì giờ vào việc in ấn. Từ đây, Thầy có thêm thì giờ để giảng dạy và viết sách. Thầy đã viết lại cuộc đời của Bụt qua tác phẩm Đường xưa mây trắng. Dựa trên tinh hoa của Tam tạng kinh điển, Thầy đã lấy đi chất thần thánh mà các đệ tử của Bụt đã tô điểm Ngài do sự tín mộ và tôn thờ qua nhiều thế kỷ. Trong Đường xưa mây trắng, Bụt là một con người rất gần gũi với những khó khăn và những buồn đau. Nhưng bằng tình thương và trí tuệ, Ngài đã vượt qua được mọi khó khăn mà không cần dùng đến thần thông biến hóa. Qua tác phẩm này, Thầy cũng có chủ ý tập cho độc giả quen thuộc trở lại với danh từ Bụt. Người Việt đã dùng chữ Bụt cho đến thế kỷ thứ XIV. Có nhiều bạn trẻ sau khi đọc tác phẩm này đã phát tâm xuất gia làm đệ tử của Thầy. Tác phẩm đã được dịch ra hơn 20 thứ tiếng, trong đó có tiếng Ấn Độ (Hindi), được tái bản nhiều lần ở các nước. Paul Williams, một nhà văn, nhà phê bình văn học người Mỹ đã trân trọng đặt Đường xưa mây trắng ở vị trí thứ 12 trong số 40 quyển sách hay nhất của thế kỷ 20 trên toàn thế giới[306].

Năm 1987, nhà xuất bản Parallax Press ra đời ở Berkeley, Mỹ để phát hành sách Thầy bằng tiếng Anh. Tác phẩm đầu tiên là Being Peace đã nhanh chóng trở thành quyển sách bán chạy nhất trên thị trường mãi cho đến bây giờ.

6. Đệ tử

Sau nhiều năm hướng dẫn các khóa tu ở châu Âu và châu Mỹ, Thầy nhận thấy thiền sinh tới tu học rất hết lòng, rất tinh chuyên và gặt hái được nhiều sự chuyển hóa và trị liệu. Thế nhưng khi rời khóa tu trở về nước, họ không duy trì được sự thực tập và niềm an lạc lâu dài mà rất dễ bị thối chuyển bởi những tập khí cũ cũng như môi trường sống. Thầy nhận ra họ thiếu một tăng thân địa phương để cùng nhau tiếp tục thực tập và thiếu một sự liên hệ thầy trò bền vững. Hai yếu tố trên rất cần thiết để duy trì miên mật sự thực tập và kéo dài nếp sống hạnh phúc.

Từ những thập niên 50 khi còn là một giáo thọ trẻ, Thầy đã từng dặn lòng rằng không nên có đệ tử riêng. Để tránh phiền toái, Thầy chỉ cần dạy đệ tử của các thầy khác là đủ rồi. Nhưng từ khi Thầy tìm ra sự thật trên, Thầy bắt đầu truyền quy giới cho thiền sinh trong các khóa tu và nhận đệ tử cư sĩ từ năm 1983 lúc Thầy tròn 57 tuổi. Có những khóa tu ở châu Âu và châu Mỹ quy tụ được trên dưới một ngàn thiền sinh, và vào ngày cuối của khóa tu, có tới 700 người tiếp nhận Năm giới. Cho đến năm 2014, Thầy đã truyền Năm giới tân tu cho cả hàng trăm ngàn người, kể cả những người theo đạo Ki tô, đạo Tin lành, đạo Do thái, đạo Hồi, v.v.  

Thầy trình bày lại Năm giới không như những điều luật cấm đoán mà là sự thực tập chánh niệm. Thầy là vị thầy đầu tiên của Phật giáo đương đại khám phá ra rằng trong Tam học, trong đó giới (śīla) chính là niệm (smṛti) từ trong kinh tạng, và do đó giới định tuệ cũng là niệm định tuệ. Nếu ta hành trì giới nghĩa là ta đang hành trì chánh niệm; và giới giúp ta thực tập chánh niệm. Năm giới quý báu đã được tân tu nhiều lần. Năm giới tân tu được gọi là năm phép thực tập chánh niệm, là thực tập căn bản cho tất cả mọi thành viên trong tăng thân. Năm giới tân tu như thế đi đôi tuyệt hảo với các kinh An ban thủ ý, Tứ niệm xứ và kinh Người biết sống một mình. Do đó, Năm giới tân tu cũng đi đôi tuyệt hảo với sự thực tập hiện pháp lạc trú, có công năng buông bỏ căng thẳng, chế tác hỷ lạc, xử lý niềm đau và trị liệu những chứng bệnh thời đại.  

Sau 15 năm, Thầy bắt đầu truyền giới Tiếp hiện trở lại tại Phương Khê, hay trong các khóa tu ở Mỹ, ở Làng, vừa cho người Việt vừa cho người phương Tây. Đây là những vị đã tu học với Thầy lâu năm và đã chứng tỏ được những hoa trái mà họ gặt hái được trên con đường tâm linh. Những cư sĩ hành trì giới Tiếp hiện đều có vai trò thành lập và hướng dẫn các nhóm tu học tại địa phương nơi họ sinh sống. Những vị ấy về Làng mỗi năm để phát triển sự thực tập, hay giúp các khóa tu. Họ cũng đứng ra tổ chức các khóa tu ở các nước và thỉnh Thầy đến hướng dẫn. Tại Phương Vân Am, các khóa tu vẫn được duy trì đều đặn mỗi ba tuần dù cho Thầy không có mặt khi Thầy đã dọn về miền Nam nước Pháp. Vào những dịp Giáng sinh và Tết dương lịch, khóa tu thường kéo dài mười ngày và tất cả phòng ốc đều chật kín. Cho đến năm 2014, Thầy đã truyền giới Tiếp hiện cho hơn 2000 cư sĩ.

7. Thành lập giáo đoàn xuất sĩ: một giai đoạn mới của công trình làm mới đạo Bụt ở phương Tây 

Sau bao nhiêu năm bôn ba hoạt động cho hòa bình và giảng dạy, Thầy bắt đầu nhận đệ tử xuất gia khi tròn 62 tuổi. Tại đỉnh Linh Thứu, Ấn Độ, vào ngày 17 tháng 11 năm 1988, Thầy đã làm lễ xuất gia cho chị Cao Ngọc Phượng, chị Annabel Laity và chị Thanh Minh. Chị Phượng là một trong sáu cây tùng được thọ giới Tiếp hiện đầu tiên vào năm 1966, là một phụ tá đắc lực và bền bỉ của Thầy cho đến ngày hôm nay. Chân Không là pháp tự Thầy đã ban cho chị từ năm 1966. Chị Annabel trước đó đã tu học trong một ni viện Tây Tạng nằm trên dãy Himalaya ở Ấn Độ. Sau đó, chị về Làng tu học và trở thành dân thường trú người phương Tây đầu tiên của Làng. Pháp tự của chị là Chân Đức. Chị Thanh Minh là một trong những thuyền nhân được Thầy làm giấy tờ bảo lãnh qua định cư ở Pháp, nay đã trở thành sư cô Chân Vị.

Thầy thường dạy rằng, sau khi thành đạo, ngồi dưới gốc cây bồ đề, bằng năng lượng tỉnh giác, đức Thế Tôn bắt đầu nghĩ đến sự nghiệp của mình. Sự nghiệp đó là xây dựng tăng thân. Nếu không có tăng thân thì một mình đức Thế Tôn cũng không làm được gì nhiều. Nhờ có tăng thân mà Bụt hoàn tất được sự nghiệp hóa độ của Ngài. Tăng thân của Bụt có khả năng đem giáo pháp đi vào cuộc đời. Thầy cũng muốn tiếp nối công trình xây dựng tăng thân của Bụt.

Từ khi chúng xuất gia được thành lập tại Làng, các thầy, các sư cô từ các nơi khác bắt đầu đến xin ở lại tu học, trong đó  có những vị đã tham dự các khóa tu xuất sĩ ở California, Mỹ mà Thầy thường xuyên hướng dẫn từ năm 1983. Sau đó có thêm nhiều đợt xuất gia khác nên chúng xuất gia ở Làng mỗi ngày một  đông, đa số gồm những người Việt lớn lên ở phương Tây, rồi đến người Mỹ, Pháp, Đức, Úc, Anh…

8. Trao truyền và tiếp nhận

Từ đó, mỗi năm đều có khóa An cư ba tháng để Thầy dạy sâu về kinh, luật, luận, chủ yếu nhằm đào tạo cho chúng xuất sĩ nhưng chúng cư sĩ cũng được theo học. Thay vì An cư kiết hạ như các nước châu Á, Làng Mai có truyền thống An cư kiết đông. Trong năm, Thầy đi hướng dẫn khóa tu ở khắp các nước nhưng khi mùa lạnh đến, Thầy luôn trở về Làng, tu tập miên mật bên các đệ tử trong suốt ba tháng mà không đi đâu. Các vị cư sĩ rất hạnh phúc được an cư theo chúng xuất gia. Thầy dạy chi tiết từ Phật pháp căn bản, từng bài sám, từng bài kinh trong các buổi công phu sáng tối, từ lịch sử thiền tập trong đạo Bụt, các kinh Nam truyền, kinh Bắc truyền cho đến Duy biểu và những bộ luận khó hơn như Nhiếp Đại thừa luận, Dị bộ tông luân luận, Trung quán luận, v.v. Thầy đã cô đọng những nguyên tắc nền tảng cho tất cả giáo lý và pháp môn thực tập của Thầy trong 40 định đề của truyền thống Làng Mai. Sau khoá tu An cư kiết đông, 

Thầy tân tu giới sa di và các chương uy nghi. Thầy tổ chức tăng đoàn như một gia đình, trong đó có Thầy, các sư anh, sư chị, sư em. Sau này, Thầy dạy các sư cô sư chú trẻ gọi các thầy lớn xuất gia lâu năm là sư cha, các sư cô lớn là sư mẹ. Các thầy, các sư cô tu học chung và làm việc chung trong tình huynh đệ, được bảo hộ bởi sự thực tập giới luật và uy nghi, trong đó phương pháp đệ nhị thân luôn là sự thực tập quan trọng. Thầy tiếp nối truyền thống có từ thời đức Thế Tôn về sự thực tập y chỉ. Một vị thầy lớn hay sư cô lớn, gọi là y chỉ sư, có trách nhiệm chăm sóc, dạy dỗ, hướng dẫn trực tiếp một số các vị xuất sĩ mới tu, gọi là y chỉ đệ hay y chỉ muội. Các thầy, các sư cô đã tu học nhiều năm và có kinh nghiệm dạy dỗ cho các sư em đều có ý thức rằng các sư chú và sư cô trẻ mới xuất gia đều là em và con của mình, và mình phải chịu trách nhiệm chung về tương tai của các em. Chữ đệ có nghĩa là em, chữ tử có nghĩa là con. Người đệ tử vừa là một người em, vừa là một người con. Vào ngày đầu năm, các thầy, các sư cô thực tập lạy nhau, quán niệm để thấy được dáng dấp của Bồ tát Phổ Hiền nơi quý thầy, dáng dấp của Bồ tát Quán Thế Âm nơi quý sư cô, xem người kia là cha, là anh, là em trai, con trai, là mẹ, là chị gái, em gái, con gái của mình để thương kính và giữ gìn cho nhau. Điều này rất mới mẻ đối với xuất sĩ từ các truyền thống khác đến Làng Mai tu học. Những khóa tu và những ngày tu được tổ chức mỗi năm dành cho chúng xuất gia. Thầy đã khai triển những phương pháp thực tập để xây dựng tăng thân xuất gia được trình bày trong cuốn sách Sống chung an lạc: Phương cách xây dựng tăng thân. Tinh thần dân chủ được phối hợp với tinh thần thâm niên. Quyền hạn tối cao ở Làng Mai không nằm ở vị trụ trì hay một cá nhân nào mà nằm ở Hội đồng những người thọ Giới lớn, hội đồng khất sĩ hoặc khất sĩ nữ. Trước các buổi họp, hội đồng này thường lắng nghe thêm những nguyện vọng từ chúng sa di và sa di nữ để có thể đi đến những quyết định mang tính đại chúng. Mọi quyết định dựa trên sự đồng thuận của hội đồng này và được hợp thức hóa bởi truyền thống Tác pháp yết ma. Ban chăm sóc được thành lập trong mỗi tu viện để thi hành những quyết định của hội đồng những người thọ Giới lớn và điều hành công việc của đại chúng. Vị trụ trì đóng vai trò như người cha hay người mẹ trong gia đình, chăm sóc hạnh phúc và khám phá tài năng của từng thành viên trong đại chúng. Chính Thầy cũng đã thừa hưởng mô thức tổ chức tăng chúng như vậy. Thầy có thì giờ để tu tập, giảng dạy, dịch thuật, sáng tác và đi hướng dẫn khóa tu ở các nước.  

Khi còn là một giáo thọ trẻ với tâm không phân biệt, Thầy đã thương yêu và dạy dỗ các đệ tử của những vị thầy khác như những người em, người con của mình. Giờ đây, Thầy cũng hết lòng trao truyền và thương yêu với tâm không phân biệt các thầy, các sư cô dù có hay không xuất gia trực tiếp với Thầy. Thầy đã tấn phong trụ trì một số các thầy, các sư cô đến Làng y chỉ với Thầy từ các trung tâm khác. Sau này, các vị trụ trì ở Làng đều là các thầy, các sư cô trẻ, nhưng có khả năng đến được với tất cả mọi người và có khả năng mang lại hạnh phúc cho toàn chúng. Tất cả đều đi như một dòng sông để có một tương lai, để thực hiện được chí nguyện lớn. Với kinh nghiệm xây dựng tăng thân từ những thập niên 50, Thầy không muốn đào tạo ra những tài năng cá nhân. Thầy muốn những người xuất gia có khả năng làm việc chung như một tăng thân. Khả năng xây dựng tăng thân và sống hạnh phúc trong tăng thân được xem là những tài năng lớn nhất. Chừng nào các đệ tử của Thầy còn đi như một dòng sông thì chừng ấy tăng thân Làng Mai vẫn còn có tương lai.  Đi như một dòng sông đã trở thành một pháp ấn của Làng Mai.

Để các đệ tử được thọ Giới lớn, Thầy bắt đầu tổ chức các Đại giới đàn tại Làng và cung thỉnh chư Tôn đức Tăng Ni trong nước cũng như hải ngoại vào Hội đồng truyền giới. Nghi thức truyền giới hoàn toàn bằng tiếng Việt được Thầy biên soạn lại căn cứ trên tạng Luật. 

Khi tăng thân mỗi ngày mỗi lớn, Thầy tân tu Giới bản tỳ kheo và tỳ kheo ni (Pratimokṣa) để cho sự hành trì được cụ thể, thích hợp thời cơ và hữu hiệu hơn. Ngày 31 tháng 03 năm 2003, Thầy công bố Giới bản Khất sĩ tân tu lần đầu tại Viện Đại học Tăng già Trung ương (Choong Ang Sangha University) ở Seoul, Hàn Quốc. Quyển cẩm nang cho sa di, sa di ni là sách Bước tới thảnh thơi (1996) đã được tân tu trước đó từ cuốn Sa di luật nghi yếu lược của thầy Châu Hoằng viết vào cuối thế kỷ thứ mười sáu. Tròn bốn trăm năm sau, ấn bản tân tu được dịch trở lại qua tiếng Hoa 步入解脱 (Bộ nhập giải thoát) vào năm 2003 cho người xuất gia trẻ tại Trung Quốc. Quyển giáo khoa Trái tim của Bụt (1997) của Thầy ngày nay được sử dụng ở một số các viện Phật học trên thế giới.

Sau khóa An cư, Thầy lại lên đường đi các nước để hướng dẫn khóa tu. Thầy luôn dẫn theo một nhóm đông các thầy, các sư cô, tạo điều kiện cho các đệ tử xuất gia được học hỏi thêm cách tổ chức và hướng dẫn thiền sinh tu học. Điều này cũng nằm trong chương trình Thầy đào tạo kỹ sư Phật học. Theo Thầy, nếu một kỹ sư ngoài đời biết sử dụng, biết sửa và thiết kế máy móc sau khi ra trường thì một người xuất gia sau bốn năm tu học phải biết cách đối trị, chuyển hóa nỗi khổ niềm đau của chính mình và giúp những người khác làm được điều đó. Người xuất gia phải là một kỹ sư Phật học.

Từ khi có tăng thân xuất gia, số lượng thiền sinh trong mỗi khóa tu từ từ tăng lên. Có những khóa tu ở Omega Institute New York, số thiền sinh tăng lên tới 1200 người mỗi khóa. Nhiều khóa tu đã được tổ chức tại các trường đại học, sử dụng học xá sinh viên làm cư xá và sân vận động trường (gymnesium) làm thiền đường mới có đủ chỗ. Những khóa tu lớn như thế cần sự có mặt của trên một trăm người phụ tá giảng dạy và hướng dẫn, trong đó hai phần ba là xuất sĩ và một phần ba là cư sĩ. Sự có mặt của hàng chục, hàng trăm người xuất gia cùng với những vị cư sĩ tu học lâu năm đã thọ giới Tiếp hiện tạo nên một năng lượng chánh niệm tập thể rất hùng hậu. Đối với Thầy, điều quý hóa nhất trong một khóa tu không phải những bài pháp thoại xuất sắc hay tổ chức giỏi, mà là năng lượng chánh niệm tập thể. Chính năng lượng này tạo nên phép lạ cho những chuyển hóa  nơi các thiền sinh trong các khóa tu lớn.

Khi nhu yếu tham dự các khóa tu do Thầy hướng dẫn ngày càng tăng và cũng để có nơi tu học cho các đệ tử xuất gia, vào cuối những năm 1997, Thầy mở thêm một số trung tâm tu học tại Hoa kỳ: tu viện Thanh Sơn tại Vermont năm 1998, tu viện Lộc Uyển tại California năm 2000. Thầy cũng đã truyền đăng phú pháp cho vài chục đệ tử cư sĩ – những người đã có nhiều kinh nghiệm tu học – trở thành Giáo thọ, tiếp tục công trình hoằng pháp của Thầy trên thế giới. Trong số đó, có rất nhiều vị đã thành lập các cộng đồng sống chánh niệm tại châu Âu, châu Mỹ cũng như châu Úc, và trở thành những vị thầy dạy chánh niệm được nhiều người biết đến.

Từ năm 2011, Thầy mở một cánh cửa mới để đạo Bụt cắm rễ vào xã hội phương Tây: những người trẻ có thể tham gia chương trình xuất gia năm năm. Nhiều người trẻ phương Tây về Làng rất thích sự thực tập và có ước muốn xuất gia nhưng nghĩ đến tu cả đời thì họ thấy sợ, sợ không biết có tu nổi không. Chương trình này cho phép những người trẻ phương Tây được thực tập như một người xuất gia thực thụ trong vòng năm năm. Sau năm năm, họ có thể tu thêm hay trở lại cuộc sống trước đây mà vẫn tiếp tục trên con đường tu tập và phụng sự với tư cách một thành viên Tiếp hiện cư sĩ. Nếu thực tập khá, họ thực tập thêm vài năm và sẽ được truyền đăng để trở thành giáo thọ cư sĩ và tiếp tục hướng dẫn chúng cư sĩ ngoài xã hội.

Trong gần một nửa thế kỷ, Thầy đã xây dựng được một thế hệ hành giả mới, xuất sĩ cũng như cư sĩ. Hình ảnh vị xuất sĩ trẻ đứng lớp dạy các sư chú tại Phật học đường Ấn Quang ngày xưa lại được tiếp nối với rất nhiều tuệ giác thực chứng. Sống bên cạnh và trực tiếp trao truyền kinh nghiệm thực tập cho đệ tử xuất gia là một niềm hạnh phúc rất lớn của Thầy. Thầy đã biến giấc mơ của mình thành sự thật: thành lập một tăng thân xuất gia dễ thương, sống với tình huynh đệ. Thầy trò tu tập bên nhau, thương yêu nhau. Cùng nhau cho người thêm niềm vui và giúp người bớt khổ. Thầy đã sáng tác một câu linh chú mới: “Đây là giây phút hạnh phúc”. Mỗi giây phút đều là giây phút trao truyền và tiếp nhận. Có tăng thân để nương tựa và tiếp nối là một hạnh phúc lớn của Thầy. Thầy biết Thầy không còn nhiều thì giờ. Thầy muốn sử dụng năng lượng và thời gian quý báu của mình để chơi với đệ tử. Chơi có nghĩa là trao truyền trực tiếp tất cả con người của mình một cách tự nhiên. Thầy  luôn dừng lại công việc của mình để có mặt đúng giờ thiền hành và giờ cơm cùng đại chúng mỗi khi chuông thời khoá thỉnh lên. Thân giáo của Thầy chính là sự trao truyền cụ thể mà mỗi người đệ tử đều tiếp nhận được. Thầy quan tâm và tìm hiểu mỗi người đệ tử để có mặt, nâng đỡ, sách tấn và chỉ rõ những sự thực tập cụ thể, giúp cho vị đó tiến bộ trong đời sống tâm linh. Năng lượng chánh niệm của Thầy khiến cho người đệ tử thấy được rằng sự có mặt của mình là quan trọng nhất trong giây phút ấy đối với Thầy. Đó là dấu ấn cụ thể của hiểu và thương mà người đệ tử tiếp nhận được, từ đó Thầy đánh thức được người thầy trong mỗi đệ tử, giúp vị đó có thể có đủ khả năng tiếp tục tự bước đi trên đôi chân của chính mình. 

Dù rất thích, nhưng Thầy đã dừng lại một số công việc trước tác để sử dụng năng lượng và thời gian của mình cho sự trao truyền trực tiếp. Thầy có đủ tư liệu để hoàn thành cuốn Việt Nam Phật giáo sử luận IV, hay viết một tác phẩm chi tiết về cuộc đời và tư tưởng của Trúc Lâm đại sĩ Trần Nhân Tông, cũng như nhiều tác phẩm khác. Thầy tin tưởng rằng các đệ tử của Thầy đủ khả năng để thay Thầy hoàn tất những tác phẩm đó. 

Có một phóng viên báo chí hỏi Thầy: “Thưa Thầy, Thầy có còn muốn thực hiện điều gì nữa không?” Thầy đã hỏi lại anh nhà báo: “Anh còn muốn tôi thực hiện gì nữa?” Thầy nói mỗi ngày Thầy đều được thừa hưởng rất nhiều phước báo của tổ tiên tâm linh và huyết thống. Tất cả các điều kiện để tu học và giúp đời đều có đó. Ngày nào cũng được tu tập, cũng được giúp đời, cũng được sống trong khung cảnh lành mạnh của tăng thân. Bảo hộ bởi năng lượng chánh niệm và tình huynh đệ trong tăng thân, Thầy không cần tìm cầu chi nữa, mà chỉ còn tiếp tục con đường với tất cả niềm tin yêu.

9.    Nghiên cứu và thực hành Duy biểu

Mùa An cư kiết đông 2013-2014, Thầy dạy về Duy biểu. Đây là môn học mà Thầy đã bắt đầu học hỏi và nghiên khi mới vào chùa. Lần đầu tiên đọc được những bài viết về Duy thức của anh Phạm Hữu Bính đăng trong báo Viên Âm vào khoảng năm 1945, Thầy (lúc ấy còn là sư chú Phùng Xuân) cảm thấy rất thích. Đến khi được vào học ở Phật học đường Báo Quốc, Thầy được học Duy thức tam tự kinh do các thầy và các cư sĩ trong phong trào chấn hưng Phật học ở Trung Quốc biên soạn. Năm sau, Thầy lại được học thêm Duy thức phương tiện đàmDuy thức đích khoa học phương pháp. Sau khi rời Huế, trong mùa an cư đầu tiên ở chùa Hưng Đạo, Sài Gòn, Thầy lại đọc thêm một số sách về Duy thức viết bằng văn bạch thoại mượn được từ thầy Trí Hữu hoặc mua ở Chợ Lớn, trong đó có cuốn Duy thức nghiên cứu của Lữ Trưng. Trong suốt năm, sáu năm ở Phật học đường Ấn Quang, Thầy tiếp tục nghiên cứu và giảng dạy Duy thức. Thời gian làm chủ bút tờ Phật giáo Việt Nam của Tổng Hội, Thầy viết nhiều bài dưới bút hiệu khác nhau để xiển dương các giáo lý Duy thức và thiền, để vượt thoát các luận chứng duy vật và duy thần trong thời kỳ ấy. Năm 1957, Thầy gom các bài viết về Duy biểu thành tập sách Duy thức học thông luận để xuất bản ở Đà Lạt dưới bút hiệu Thạc Đức.

Ở Princeton, Thầy có nghĩ đến ba đề tài để viết luận án: Hiện thực luận của Thái Hư, Luận lý học của Trần Na và Nhận thức luận trong Duy thức. Giáo sư Cerbu chọn đề tài cuối cho Thầy và Thầy đã viết xong luận án trong vòng 21 ngày. Ở Viện Cao đẳng Phật học Sài Gòn, cùng với thầy Thiện Hoa và thầy Thiên Ân, Thầy giảng dạy chứng chỉ Pháp tướng Duy thức. Năm 1969 ở Sceaux, Thầy viết Vấn đề nhận thức trong Duy thức học và nhà xuất bản Lá Bối ở Sài Gòn đã ấn hành. Cuốn này được tái bản nhiều lần ở trong nước cũng như ở nước ngoài sau đó. Khi bắt đầu hướng dẫn các khóa tu ở Phương Vân Am, Thầy cũng dành riêng một khóa tu để giảng dạy về Duy thức học.

Sau khi chúng đệ tử xuất gia của Thầy được thành lập, trong khóa An cư kiết đông đầu tiên (1988-1989), Thầy dạy về Duy thức Tam thập tụng. Khóa An cư kiết đông 1992-1993, Thầy công bố và giảng dạy 50 bài tụng Duy biểu. Kể từ năm đó, Thầy gọi Duy thức là Duy biểu. Tất cả tinh hoa của Duy biểu học được Thầy cô đọng lại thành 50 bài tụng bằng tiếng Việt, căn cứ trên các tác phẩm Duy thức căn bản như Nhiếp Đại thừa luận, Duy thức Tam thập tụng, Duy thức Nhị thập tụng, Bát thức Quy củ tụng, v.v.

Hai mươi năm sau, Thầy dành khóa An cư kiết đông 2013-2014 cuối cùng để trao truyền lại hết tất cả những cái thấy và cái hiểu có được của Thầy trong khi thực tập Duy biểu trong đời sống hằng ngày. Thầy tìm cách đưa Duy biểu học từ quyền thừa lên Đại thừa thực sự, bằng giáo lý Pháp Hoa và Hoa Nghiêm. Căn cứ trên giáo lý bất nhị, cái thấy của Thầy có khác với cái thấy của thầy Vô Trước và thầy Thế Thân về alaya thức, về thức thứ bảy, về Bụt, về Niết bàn v.v.

Nhận thấy môn Duy biểu rất thích hợp với trí óc phân tích của người Tây phương và có thể đóng góp nhiều cho khoa tâm lý học và tâm lý trị liệu, Thầy khuyến khích các đệ tử đi sâu thêm vào môn học này để thực hành và đóng góp thêm cho thế kỷ 21.

XI. Cứu giúp đồng bào trong và ngoài nước – 1975

1. Trăng sao vẫn đẹp những đêm Rằm

Ngày 30.04.1975, miền Nam sụp đổ. Thầy và các bạn hữu cùng các cộng tác viên trong cộng đồng Phật giáo Việt Nam bị cắt đứt liên lạc một cách đột ngột. Các bạn Thuỵ Điển, Hà Lan, Tân Tây Lan, v.v. đang muốn gửi những số tiền lớn cho các công tác cứu trợ nạn nhân chiến cuộc, yểm trợ cô nhi chiến tranh. Nhưng tất cả các chương trình cứu trợ đều bị đóng cửa, kể cả trường TNPSXH và các ban từ thiện của các chùa. Chính phủ mới tịch thu tất cả tài khoản trong ngân hàng của Uỷ ban Tái thiết và Phát triển Xã hội của GHPGVNTN. Tất cả các cơ sở của giáo hội, tất cả những hoạt động văn hóa xã hội đều bị ngưng lại. Hình Thầy và chị Phượng bị treo trong bảo tàng viện Tội ác Mỹ ngụy với tội danh là “đại phản động tình báo Hoa Kỳ CIA”.

Đến cuối năm 1975, Thầy và chị Phượng vẫn tìm cách gửi 300 tấn gạo và 150.000 đô-la về cho các cô nhi nhưng không cô nhi nào nhận được. Tất cả đều biến mất. Bên nhà lâm vào tình trạng tuyệt vọng, bên này Thầy và các cộng sự cũng tuyệt vọng. Thầy trò có hai tay mà không làm được gì để giúp đồng bào ở bên nhà. Nhiều học trò đồng sự của Thầy cảm thấy hụt hẫng và sụp đổ. Thầy thấy việc cần thiết nhất lúc này là có một nơi để tĩnh cư, để trị liệu, để khôi phục niềm tin và nhiệt huyết phụng sự trong trái tim mỗi người. Thầy đóng cửa văn phòng ở Sceaux. Một số tình nguyện viên làm việc cho Phái đoàn xin về nước, số còn lại theo Thầy rút hẳn về Phương Vân Am để tĩnh tu và trị liệu.

Một cộng đồng gồm chín người được thành lập nhanh chóng ở Phương Vân Am. Nếp sống ở đây cũng đơn giản và bình dị như ở Sceaux. Ai cũng ngủ dưới đất trong chiếc túi ngủ, kể cả Má chị Phượng đã lớn tuổi. Thầy hay bị trúng gió nên có một chiếc giường thấp trong cái thất vách đá.

Khung cảnh thiên nhiên ở Phương Vân Am rất an lành. Để sống sót qua giai đoạn tuyệt vọng này, Thầy đã biết nhìn lên, nhìn lên để tiếp xúc với trăng sao. Thầy đã cầu cứu tới trăng sao:

Quê hương tôi là đây

Chỉ có dòng sông, chỉ có hàng cau, bụi tre, vườn chuối.

Mặt trái đất dù mang đầy cát bụi

Nhưng trăng sao vẫn đẹp những đêm Rằm.

(Chỗ đứng, Thơ từng ôm và mặt trời từng hạt)

Những câu thơ này không phải để ca tụng trăng sao đẹp, ca tụng thiên nhiên mà là để tự nhắc Thầy rằng ngoài bình diện của khổ đau, của tuyệt vọng còn có sự nhiệm mầu của trăng sao.

Trong giai đoạn khó khăn này, Thầy cũng sáng tác bài hát Ý thức em mặt trời tỏ rạng, trong đó có đoạn:

Thức dậy hôm nay em thấy trời xanh

Chắp tay em cám ơn đời mầu nhiệm

Cho em hai mươi bốn giờ tinh khôi

Cho em bầu trời bao la

Bài này chỉ có những hình ảnh đẹp và thanh bình như đồng hoa hướng dương, rừng cây vương nắng, hương quế tần ô, hàng dừa ven sông, v.v. Thầy biết nếu mình không nuôi dưỡng mình bằng những gì tươi mát và mầu nhiệm của cuộc sống thì mình có thể đánh mất thăng bằng và không thể tiếp tục công việc của mình được. Sự thực tập hơi thở chánh niệm, thiền hành và hiện pháp lạc trú của Thầy trong thời điểm này miên mật hơn bao giờ hết. Thầy chỉ cho các học trò trở về với hiện tại và nhận diện ra những mầu nhiệm của sự sống vẫn hiện hữu nơi mỗi bông hoa, nơi mỗi chiếc lá, nơi mỗi cái nhìn từ bi. Dân chúng quanh vùng không biết thiền hành là gì, họ ngạc nhiên khi thấy một đoàn người cùng leo lên đồi chầm chậm bên nhau và đi vào rừng chơi mà không ai nói với ai một lời nào. Mỗi ngày trong khung cảnh thênh thang ở Phương Vân Am, Thầy trò được Đất mẹ ôm ấp và xoa dịu những thương tích trong lòng.

Thầy về đây cuốc đất, trồng rau, ngồi thiền và thiền hành. Thầy dành nhiều thời gian làm vườn và những công việc ở ngoài trời. Thầy rất thích làm việc chân tay, vừa làm vừa quán niệm. Thầy trở về quyết tâm tu tập để chữa lành vết thương trong mình và để tìm ra một con đường mới.

2. “Từng nắp hộp kín đáo nuôi tình thương”

Không lâu sau đó, Thầy và các cộng sự tìm ra phương cách để tiếp tục chương trình cứu trợ. Trong thời điểm đất nước còn bị phong tỏa, thuốc men rất thiếu thốn, nhất là thuốc tây. Tuy không thể gửi tiền về nhưng Thầy và các vị cộng sự tiếp tục gây quỹ để gởi những gói thuốc tây đến các vị Tôn túc, những gia đình có người đi học tập cải tạo hay những gia đình nghèo đông con, với danh nghĩa là thân nhân. Hồi ấy, chưa có nhiều Việt kiều ở Mỹ và ở châu Âu để gửi tiền về tiếp tế trong nước, nhưng Thầy và các vị cộng sự đã đặt ra không biết bao nhiêu tên họ của thân nhân ở nước ngoài, ví dụ ở bên kia có Đào Duy Từ thì bên này có cháu là Đào Thị Mây, bên kia là Lê Thương thì bên này có người nhà là Lê Thị Phương Hương. Bưu điện mỗi ngày nhận hàng trăm gói quà về Hà Nội, Huế cho tới Sài Gòn.

Thời đó, bưu điện chỉ cho phép gởi những gói quà cân nặng tối đa một kí-lô, nên Thầy và các vị cộng sự phải chọn những loại thuốc có thể bán được bên ấy nhiều tiền nhất. Công việc mỗi ngày của Thầy trò là gói quà, lấy dây để cột và viết những hàng chữ hướng dẫn trên nắp hộp một cách thật khéo để không bị hiểu lầm là bức thư có tính cách chính trị: “Thuốc này rất quý, thuốc này phải bán với giá này mới không bị lỗ, còn cái hộp thuốc này có thể giữ lại để trị bệnh cho gia đình và phải uống như thế này…” Trong nhiều năm tháng, người nhận quà được hướng dẫn rất kỹ cách sử dụng để có thể vừa trị bệnh cho gia đình, vừa mua được gạo và thức ăn để cầm cự sống sót trong ba hay bốn tháng trước khi nhận gói quà kế tiếp[265]. Tuy vậy, họ hoàn toàn không biết ai thực sự là người đã gửi chúng. Nhờ gói quà,  nhiều gia đình có được phương tiện đi thăm nuôi cha, anh, em hoặc con cái đang ở trong tù hay trong các trại học tập cải tạo. 

Một hôm, Thầy nghe tin rất nhiều sách báo bị xem là văn hóa đồi trụy và bị đem đi đốt, kể cả sách Thầy viết và những tác phẩm của các văn nghệ sĩ nổi tiếng trong nước. Tại Bruxelles, Bỉ, Thầy đi mua hết tất cả sách quý của Việt Nam, thu gom về một nơi để nếu trong nước đốt hết thì ngoài này, Thầy còn giữ được một phần. Hầu hết các văn nghệ sĩ lúc bấy giờ hoàn toàn bị tê liệt vì tuyệt vọng, mất hết cảm hứng để sáng tác. Thầy và các vị cộng sự quyết định yểm trợ đặc biệt giới học giả và văn nghệ sĩ, những tinh hoa của gia tài văn hóa Việt Nam, những người có thể nói lên được tiếng nói của trái tim, của dân tộc. Mục đích của Thầy và các vị cộng sự là giúp một phần làm sống dậy nguồn cảm hứng của các thi sĩ, họa sĩ và nghệ sĩ để họ có thể tiếp tục sáng tác. Những đóa hoa kỳ diệu của đất nước cần phải tiếp tục tỏa hương, không thể để cho những tài năng đó tàn lụi. Thầy gửi những gói quà cứu trợ kèm theo những lá thư ký tên giả cho mỗi học giả và văn nghệ sĩ một năm ba hoặc bốn lần, và phải làm một cách rất kín đáo để bên kia không bị liên lụy vì chính quyền cho rằng có liên hệ với nước ngoài[267]. Những gói quà đó có thể giúp các văn nghệ sĩ vượt qua khó khăn để tiếp tục đi tới. Đối với các văn nghệ sĩ, những hộp thuốc tây rất quý đã đành, có thể giúp cả gia đình họ sống sót trong giai đoạn đó. Tuy nhiên điều nuôi dưỡng họ trên hết là lá thư gửi kèm theo, một lá thư từ một độc giả ngưỡng mộ họ, muốn gửi ít quà để chứng tỏ lòng biết ơn mà thôi. Chính Thầy là người cố vấn để các bạn trẻ viết những lá thư biết trân quý, biết thán phục trong khi phân tích những tác phẩm của họ. Khi đã thân quen rồi, Thầy và các bạn còn chia sẻ thêm về nếp sống tu tập bên này nhằm nâng đỡ họ thêm về mặt tâm linh. Thầy và các vị cộng sự yểm trợ các văn nghệ sĩ không phải bằng vật chất mà bằng cả trái tim của mỗi người. Các nhà văn, các nhà nghệ sĩ đã rất ngạc nhiên khi thấy ở nước ngoài, có những người trẻ hiểu được họ một cách sâu sắc. Như một phép lạ, có những vị đã buông bút vậy mà khi nhận được những lá thư như vậy, họ đã bắt đầu sáng tác trở lại một cách tươi mới, tin tưởng.

Lúc này rất nhiều những người trẻ xuất gia cũng như tại gia cùng tham dự vào công việc gói quà để cứu trợ cho những người ở bên nhà. Các cựu tác viên của trường TNPSXH cũng âm thầm đi phát quà nơi các vùng kinh tế mới. Đến những năm 80, mỗi tháng, khoảng 40 tăng thân nhỏ gửi quà trong đủ loại hộp, từ các địa chỉ khác nhau trên thế giới, viết bởi đủ các tuồng chữ cho vài ngàn gia đình ở Việt Nam.

Tháng 09 năm 1976, Thầy nhận được một xấp đầy đủ tài liệu về 12 thầy và sư cô tự thiêu ở Phụng Hiệp, Cần Thơ cách đó mười tháng, với lá thư thỉnh nguyện chính phủ tôn trọng tự do tôn giáo. Thầy liên lạc và tìm cách có một cuộc đối thoại với ông Đại sứ quán Việt Nam nhưng đã bị từ chối. Thầy đành phải gửi đến báo chí một thông báo khẩn (Urgent press release). Ngay ngày hôm sau, ngày 09 tháng 09 năm 1976, ba hãng thông tấn và bốn tờ nhật báo lớn của Pháp là Le Monde, Le Figaro, France SoirLa Croix đăng tin này trên trang lớn. Các tờ báo nổi tiếng như New York Times, The International Herald Tribune cũng đăng tin này. Những tin tức này đã làm cho sự gia nhập của Việt Nam vào Liên Hiệp Quốc bị chậm trễ. Nhiều ký giả ngoại quốc thấy hình Thầy trong viện bảo tàng Tội ác Mỹ ngụy rất ngạc nhiên và đã hỏi chính phủ vì sao lại có sự việc như vậy trong khi Martin Luther King Jr., nhà tranh đấu nhân quyền nổi tiếng trên thế giới, đã đề cử Thầy cho giải Nobel hòa bình. Vài năm sau, hình Thầy được lấy đi, nhưng hình chị Phượng (sư cô Chân Không) vẫn ở đó cho đến sau khi Thầy và sư cô được trở về nước năm 2005.

   3. Máu chảy ruột mềm

Cuối tháng 11 năm 1976, Thầy đang tham dự Hội nghị Tôn giáo và Hòa bình Thế giới (World Conference on Religion and Peace, WCRP) tại Singapore thì nhận được tin về số phận của những thuyền nhân Việt Nam mà lúc ấy, chưa ai biết đến trên thế giới. Đã có hơn hàng chục ngàn người trôi dạt ngoài biển khơi, nhắm mắt giao thân mạng mình cho bão tố và hải tặc.

Qua ngày thứ ba của hội nghị, Thầy trình bày một đề tài mới phát sinh về thảm kịch của thuyền nhân. Các tàu bè qua lại vịnh Thái Lan không dám vớt người tị nạn bởi vì không có bến nào chịu cho người tị nạn lên. Ghe đánh cá vớt người tị nạn thì bị phạt và bị tù. Tàu nào vớt người tị nạn sẽ không được phép cập bến dỡ hàng, lấy dầu, lấy nước. Nếu tàu ấy cần ghé Singapore gấp để dỡ hàng, chủ tàu sẽ phải đóng tiền thế chân là mười ngàn Mỹ kim mỗi đầu người tị nạn. Nếu thuyền người tị nạn tới được bờ thì thường bị đẩy trở ra biển. Những người đã vào được trại tị nạn là những người đã khôn ngoan đục chìm thuyền của họ trước khi nhà chức trách địa phương bắt được họ. Tuy vậy, các trại tị nạn hồi đó cực khổ hơn bao giờ hết. Chỗ cư trú có rất nhiều rắn rít, thực phẩm và thuốc men thiếu thốn, lính địa phương đánh đập và thường xuyên hãm hiếp phụ nữ tị nạn mà không ai dám làm gì. Cuối cùng, Thầy đọc một bài thơ mà Thầy mới sáng tác bằng tiếng Anh tối hôm trước. Bài thơ có tựa đề Anh sẽ không ngủ được đêm nay Yoshiaki Isaka. Bài thơ đã làm chấn động ba trăm nhà lãnh đạo tôn giáo và các ký giả có mặt hôm ấy, khiến cho Thông tấn Pháp (Agence France Presse) và Thông tấn UPI (United Press International) đã gửi điện thư đăng trọn vẹn bài thơ của Thầy. Ngày hôm sau, những tờ nhật báo lớn của Singapore và của nhiều nước khác cũng đăng nguyên bài thơ trên. Tại Hội Nghị Tôn giáo và Hòa bình Thế giới châu Á, Thầy đề nghị các nhà lãnh đạo tôn giáo có mặt trong đại hội yểm trợ Thầy trong công việc tổ chức một chiến dịch cứu người trên biển. Mọi người đồng ý mời Thầy làm giám đốc điều hành Chương trình cứu trợ người tị nạn trên biển với sự phụ tá của một giám đốc quản trị, một phó giám đốc, và hai thủ quỹ[268].

Ngày hôm sau, Hội đồng Tôn giáo và Hòa bình Thế giới châu Á tổ chức một cuộc họp mặt và mời ông Giám đốc Cao uỷ Liên Hiệp Quốc về Người tị nạn (UNHCR), Đại sứ sáu nước Singapore, Mã Lai, Thái Lan, Hồng Kông, Philippine, Indonesia, Bộ Nội vụ Singapore cùng nhiều đại sứ các nước như Hoa Kỳ, Úc, Pháp, Đức, Hà Lan, Thuỵ Sĩ và các nước Bắc Âu tham dự.

Lúc bấy giờ có khoảng 150.000 thuyền nhân ở sáu nước Singapore, Mã Lai, Thái Lan, Hồng Kông, Philippine, Indonesia, nhưng mỗi nước chỉ nhận được 12 visa mỗi tháng cho mấy chục ngàn thuyền nhân. Số thuyền nhân cập bến các nước tiếp tục tăng mỗi ngày nhưng Úc và các nước châu Âu, chưa nước nào có chính sách tiếp nhận thuyền nhân. Nhân danh Giám đốc điều hành Chương trình cứu trợ người tị nạn trên biển của Hội đồng Tôn giáo và Hòa bình Thế giới, Thầy long trọng thỉnh cầu chính quyền Hoa Kỳ và Úc nhanh chóng tăng chỉ tiêu nhận thêm thuyền nhân, nhưng lời thỉnh cầu chưa được chấp nhận.

Văn phòng được đặt tại Singapore. Các Hội đoàn đã từng giúp Việt Nam như Hội Committee for Helping Children in Vietnam của Kirsten Roep, Comité pour les enfants du Vietnam của Pierre Marchand, Third Way in Vietnam đã gửi tiền để Thầy thực hiện kế hoạch ngay lập tức. Một số các bạn từ Hoa Kỳ và các nước châu Âu như Mobi và Kirsten được mời qua để yểm trợ. Thầy cùng chị Phượng và những người cộng sự thuê bốn chiếc tàu: chiếc Roland, chiếc Leap Dal, chiếc Sài Gòn 200 là một chiếc tàu nhỏ cơ động có thể tìm vớt thuyền nhân rồi chuyển họ đến một trong hai chiếc tàu lớn Roland và Leapdal, và sau đó, chiếc Black mark, một thuyền máy nhỏ xíu dùng để chở thực phẩm, thuốc men và đưa bác sĩ Choy Leng ra khám bệnh và phát thuốc cho đồng bào mỗi ngày. Ngoài ra, Thầy còn mướn một chiếc máy bay nhỏ để tìm kiếm những người trôi dạt trên biển. Thầy ngồi trên phi cơ bay ngang dọc trên biển Đông hay dọc theo bờ biển Thái Lan, Mã Lai, Indonesia suốt cả ngày để tìm những chiếc thuyền đang bơ vơ ngoài biển rồi báo cho chiếc Saigon 200 đến vớt.

Sáng nào, Thầy và các vị cộng sự cũng thức dậy sớm để ngồi thiền, thiền hành. Thầy biết rằng cần phải hướng dẫn chương trình này với năng lượng của tâm linh. Chủ đích của Thầy là gây một tiếng vang lớn trên thế giới về thảm trạng của người tị nạn đường biển, do đó phương pháp của Thầy rất táo bạo: vớt các thuyền nhân tị nạn và âm thầm, không chờ giấy phép, cứ đi thẳng sang đảo Guam, địa phận Hoa Kỳ, và một chiếc khác đi thẳng đến Úc. Khi tàu sắp tới, Thầy và các vị cộng sự sẽ đánh điện cho báo chí ra đón, để đặt các nước Úc và Mỹ vào thế phải chấp nhận người tị nạn. Qua báo chí, quần chúng Hoa Kỳ và quần chúng Úc sẽ biết thảm trạng của thuyền nhân và sẽ làm áp lực để chính quyền họ tăng chỉ tiêu tiếp nhận người vào hai nước này. Chương trình này táo bạo lắm, phải được hành động một cách im lặng và bí mật khi chính sách của Singapore chưa cho phép bất cứ thuyền nhân nào cập bến. 

Tuy vậy, tin tức về chương trình mà Thầy đặt tên là Máu chảy ruột mềm vẫn bị lọt ra ngoài. Trong vòng năm tuần, Thầy và các cộng sự đã vớt được hơn 800 thuyền nhân ngoài biển khơi và trên chiếc Roland, một bé gái ra đời. Thầy đã viết tặng bé một bài thơ với tựa đề Chúng ta hãy trả lời (đăng trong tập Thơ từng ôm và mặt trời từng hạt). Đài BBC và đài VOA tiếng Việt báo tin rằng có một chiếc tàu đang cứu người trên biển và sẽ đưa thuyền nhân thẳng tới Úc hay tới Hoa Kỳ mà không chờ giấy phép. Điều này đã làm cho Giám đốc của Cao Ủy Liên Hiệp Quốc về Người Tị Nạn (UNHCR) và các tòa đại sứ Hoa Kỳ và Úc liên kết với nhau để chống lại chương trình của Thầy một cách ráo riết. Vào lúc hai giờ khuya, cảnh sát đến vây quanh văn phòng và vào lục soát bên trong. Họ tịch thu giấy thông hành của Thầy và ra lệnh cho Thầy phải rời khỏi lãnh thổ Singapore trong vòng 36 giờ đồng hồ. Trong lúc ấy, hai chiếc Saigon 200 và Blackmark không được phép rời bến để tiếp tế nước uống, thực phẩm và y dược cho hai chiếc tàu Leapdal và Roland đầy người tỵ nạn. Chiếc Roland chuẩn bị lên đường đi Úc thì đột nhiên bị hỏng máy. Biển động mạnh và chiếc Roland không được phép đi vào hải phận Mã Lai để tránh bão. Tuy ngồi trên đất liền, Thầy cũng có cảm giác là một với 800 thuyền nhân đang lênh đênh trên biển. Thầy đã ngồi thiền và thực tập thiền hành suốt đêm hôm đó. Thầy đã thực tập đề tài thiền quán dục an đắc an (欲 安 得 安). Nếu thực sự muốn an thì có an, an ngay trong cơn nguy khốn[272], và Thầy đã ngạc nhiên thấy mình trở nên an tĩnh một cách lạ lùng. Trong lúc ấy, Thầy không thấy có niềm lo sợ nào nữa. Đây không phải là tâm trạng liều, mà là sự an lạc, tĩnh tại. Thầy không bao giờ quên được những giây phút thiền tọa, những hơi thở và những bước chân quán niệm trong thời gian ba mươi sáu giờ ngắn ngủi đó. Thầy đã thiết lập lại sự bình an và sáng suốt để có một cái thấy sáng tỏ và tìm ra một giải pháp cho vấn đề: làm thế nào xóa được lệnh trục xuất, để ở lại Singapore lâu hơn, để có thời gian sắp xếp công việc, bảo đảm sự an toàn cho 800 thuyền nhân ở trên tàu[274]. Thầy đã chờ tới sáng để đến nhờ ông Jacques Gasseau, đại sứ Pháp, can thiệp với chính quyền Singapore cho Thầy được ở lại thêm mười ngày, đủ thì giờ để sắp xếp cho 800 thuyền nhân được an toàn và kết thúc chương trình.

Trước đó, ông Đại sứ Pháp đã từng âm thầm yểm trợ Thầy. Ông cho phép những thuyền nhân mà Thầy chở đến và leo rào vào tòa đại sứ vào ban đêm, được ở lại trong khuôn viên tòa đại sứ cho đến khi cảnh sát tới làm biên bản và bỏ tù. Nhờ vậy mà những thuyền nhân này sẽ không bị đẩy lại ra biển và chết ngoài khơi. Trước tấm lòng nhân hậu đó, Thầy đã viết bài thơ Bắc một chiếc cầu:

Có cây ngô đồng cho chim Phượng đậu

   Có người đứng đó cho tình thương sâu

   Luật lệ nhiều khi như màn lưới sắt

   Giam người trong kiếp trầm luân thương đau

   Nhưng lòng nhân ái như bàn tay Phật

   Phá tan địa ngục đập nát u sầu

Thành phố sáng nay nắng lên bát ngát

Có chim bồ câu bay liệng trời cao

Tôi nhớ tới người tấm lòng cương trực

Nụ cười mát dịu như nước nhiệm mầu

Trẻ thơ nhớ người như hoa nhớ nắng

Như nước nhớ nguồn, như trăng nhớ sao

Tâm đã quyết rồi hiềm gì bạo lực

Thân đi vào đời cưỡi trên ba đào

Bắc một cây cầu từ hang địa ngục

Lên tới cõi trời, mở hội ngàn sao.

Rời Singapore, Thầy bay đi Melbourne. Các vị linh mục dòng Jesuits bạn của cha Berrigan đón Thầy và tổ chức cho Thầy họp báo. Hai tờ nhật báo quan trọng của Úc in bài viết về thuyền nhân trên nguyên một trang giấy. Sau đó, tờ nhật báo Washington Post cũng đăng bài về Chương trình Máu chảy ruột mềm. Tờ New York Times còn gửi ký giả Henry Kamm trên chiếc thuyền nhỏ ra tận hải phận quốc tế để phỏng vấn trực tiếp thuyền nhân trên chiếc Roland. Mấy tuần sau, Úc bắt đầu chính sách mở cửa nhận thuyền nhân. Chính quyền Hoa Kỳ cũng tăng chỉ tiêu tiếp nhận thuyền nhân từ 1.000 người lên đến 8.000 người mỗi năm, rồi vài tháng sau lên đến 15.000 người và cuối cùng là 100.000 người.

Về lại Paris, với sự hỗ trợ của hội International Boat People, trụ sở đặt tại Hòa Lan, Thầy tổ chức một chương trình cứu trợ nhỏ. Thầy và các bạn chỉ dùng một chiếc thuyền đánh cá Thái để ra biển, không mang biểu ngữ cứu trợ nhưng trên thuyền có đủ thực phẩm, nước ngọt, hải bàn, dầu và hải đồ để hướng dẫn ghe đồng bào đến gần các trại tị nạn hầu tránh việc bị xua đuổi. Chiếc thuyền tên là Shantisuk. Thầy và các cộng sự chỉ hoạt động được tám tháng. Sau đó vì hải tặc phát sinh nhiều quá, thấy nguy hiểm cho nhân viên nên Thầy đành phải chấm dứt chương trình. Sau đó chính phủ Pháp bắt đầu tài trợ một chương trình vớt thuyền nhân bằng một chiếc tàu lớn đặt tên Ile de Lumière.

4. Nhà xuất bản Lá Bối hải ngoại

Nhìn lại những gì đã xảy ra trong thời gian qua, nếu không có những pháp môn thực tập cụ thể, điển hình là pháp môn thiền thở mà Thầy đã tìm thấy trong kinh An ban thủ ý và kinh Bốn lĩnh vực quán niệm thì Thầy không thể đối phó dễ dàng với những tai nạn và  những khó khăn lớn xảy ra liên tục như thế. Những ngày giờ khó khăn nhất của Thầy là khi nghe tin một nhóm người vào tấn công và giết hại các tác viên xã hội tại trường TNPSXH ở Phú Thọ Hòa năm 1966; khi năm anh em TNPSXH bị bắn chết bên bờ sông Sài Gòn vào một đêm trong khi đang đi công tác; khi nghe tin đệ tử Nhất Chi Mai tự thiêu; khi chính phủ miền Nam loan tin đã vô hiệu hóa hộ chiếu của Thầy; khi các thầy Thanh Văn và Châu Toàn; những người học trò mà Thầy thương yêu và tin cậy còn hơn em ruột, qua đời một cách bất ngờ; khi trường TNPSXH bị đóng cửa hay khi Thầy bị trục xuất khỏi Singapore trong lúc đang điều khiển chương trình Máu chảy ruột mềm với hàng trăm thuyền nhân không được phép ghé vào lãnh hải Singapore tránh bão, v.v. Nếu không có sự thực tập miên mật, làm sao Thầy có thể chịu đựng và vượt qua được?

Ở Phương Vân Am, Thầy bắt đầu soạn thảo để tự in sách gửi đi cho đồng bào thuyền nhân ở các trại tị nạn như quyển Kinh Nhật tụng, Kinh Quán niệm hơi thở, Kinh Người biết sống một mìnhKinh Bát đại nhân giác do Thầy dịch và chú giải. Hội Hòa giải Thân hữu thấy máy in của Thầy vừa cũ, vừa xấu nên đã gửi tặng Thầy cái máy đánh chữ Varityper cũ của họ, tuy cũ nhưng mẫu chữ đẹp giống chữ in với máy sắp chữ in typo. Thầy đã học nghề in ấn[276] và để in tiếng Việt, Thầy dùng bút nét thật nhỏ để bỏ từng dấu sắc, dấu huyền, hỏi, ngã, nặng cho từng chữ. Thầy góp nhặt những bài dạy học Pháp văn, Anh văn, tự đặt bố cục, dàn trang rồi tự in tay cuốn Đàm thoại Anh-Việt-Pháp để gửi đi các trại tị nạn. Thế là nhà xuất bản Lá Bối hải ngoại được thành lập ngay trong thất Vách đá của Thầy với chồng giấy in, cái máy in nhỏ hiệu Gestetner và máy nướng bản in. Nhà xuất bản Lá Bối lấy địa chỉ ở Sceaux rồi sau đó ở Bourg La Reine.

Với rất nhiều tình thương và sự thích thú, Thầy làm thợ in, khắc bản kẽm bằng giấy, nướng, in, xén, xếp thành sách, thiết kế bìa, in bìa, cắt, đóng và xén thành từng cuốn sách. Ngoài cái máy cắt tay, Thầy chỉ cần dùng những viên gạch réfractaire, một cái dũa, một cái bàn chải đánh răng và một cái bánh xe lăn mà có thể đóng sách đẹp và mau không thua gì những máy đóng sách ngoài thị trường. Theo Thầy, cái máy in cũng như một con trâu. Thầy có thể làm bạn với cái máy in và nhiều khi xóa bỏ được ranh giới giữa mình và máy in nữa, giống như cậu bé chăn trâu và con trâu trong mười bức tranh chăn trâu trong nhà thiền (Thập mục ngưu đồ). Thầy nói: nhiều khi cái máy in cũng khó trị như một con trâu chứng. Những lúc máy in bị hư, Thầy mày mò và tự sửa lấy. Thầy còn dán một chữ “breathe” (thở) phía dưới máy để nhắc Thầy thực tập theo dõi hơi thở chánh niệm những lúc phải cúi xuống thật thấp trong khi sửa máy. Sau này các bạn đến Phương Vân Am tu học như Vương Hồ, Quỳnh Hoa, Tuk, chú Hương, Triết, Vũ và Lễ… đều được Thầy dạy và người nào cũng biết đóng sách trong chánh niệm.

Thầy viết và xuất bản những chuyện thật đau lòng về thuyền nhân qua truyện ngắn Hồng, câu chuyện một cô bé trên thuyền tị nạn bị chết chìm và biến thành con cá hồng. Qua truyện Bưởi, Thầy nói lên tâm trạng của những người Việt xa xứ: mối tình với quê hương nơi chôn nhau cắt rốn và mối tình với vùng đất mới, một khung trời tự do với tất cả mọi tiện nghi nhưng vẫn còn xa lạ như trên cung trăng. Giống như Bưởi, nhiều người muốn “thân này ví xẻ thành hai được” để có thể vừa lo cho tương lai của con cái nơi xứ lạ quê người, vừa lo cho gia đình và bà con của mình ở quê nhà. Ba truyện ngắn Tùng, Bưởi, Hồng được xuất bản năm 1979 trong tác phẩm Bưởi. Một năm sau, Thầy xuất bản thêm ba truyện ngắn nữa là Tố, Thiều và Lan, những câu chuyện thương tâm về chiến tranh.

Tuy Thầy không còn đi vớt thuyền nhân, nhưng Thầy tiếp tục nhận được mỗi tuần cả trăm lá thư cầu cứu từ đồng bào tị nạn ở các trại Nam Dương. Những lá thư kể rõ tất cả những khổ cực, gian nguy, những tình cảnh đau thương, chết chóc, tủi nhục trên biển cả của những gia đình nạn nhân hải tặc. Những tin tức ấy dồn dập đến mỗi ngày, Thầy phải đi vào rừng thiền hành, có khi một ngày nhiều lần để có thể làm lắng dịu cảm xúc, để có đủ khả năng tiếp tục công việc cứu trợ.

Dưới đây là một đoạn thư Thầy viết an ủi đồng bào:

“Chúng tôi đã nhận được hàng ngàn lá thơ của đồng bào từ các trại tỵ nạn ở Nam Dương, Thái Lan và Mã Lai, và anh em chúng tôi đã nhiều lần khóc khi nghe đồng bào kể lại những gian nguy khổ nhục trên biển cả. Các Phật tử thân cận và những người bạn ngoại quốc đã từng đóng góp hàng tháng để gởi về giúp các trại cũng nhờ chúng tôi gởi lời thăm đồng bào và mong chia sẻ chút xíu những khổ đau mà đồng bào đã chịu đựng. Anh em chúng tôi trong ban Xã hội từ hai năm nay đã học nhịn cơm hai bữa mỗi tuần để nhớ tới đồng bào bên nhà và góp thêm phần vào quỹ tương trợ (chúng tôi đã xin một ít sách của nhà Lá Bối để gởi qua và cũng đã in được mấy ngàn cuốn Anh-Pháp-Việt đàm thoại để gửi qua cho đồng bào dùng, để quên bớt thời gian chờ đợi dài dặc trong trại.

Nếu thơ này đến có hơi trễ là tại cùng một lúc, chúng tôi nhận được nhiều thơ quá và chưa có đủ phương tiện để phúc đáp ngay, xin quý vị thông cảm.

Kính thư”

Vào một buổi thiền trà sáng ở Phương Vân Am sau giờ ngồi thiền, Thầy đọc bài thơ Hãy gọi đúng tên tôi, với hình ảnh em bé thuyền nhân 12 tuổi bị làm nhục trên biển, và người hải tặc không có một trái tim biết nhìn biết cảm. Thầy thấy mình là em bé 12 tuổi mà cũng là người hải tặc, là người trong trại cải tạo mà cũng là người đảng viên cao cấp, là người buôn bán vũ khí và cũng là em bé nghèo đói trơ xương. Thầy giải thích rằng Thầy đã may mắn lớn lên trong một hoàn cảnh để trở thành một con người như bây giờ. Nếu không may được sinh ra và bị bỏ rơi bởi một cô gái người Thái còn quá trẻ, nếu lớn lên trong một môi trường đầy dẫy bạo động, xấu xa, không ai thương và chăm sóc, đói khát tình thương thì có thể Thầy cũng đã trở thành một người hải tặc. Hiện giờ cùng khắp trên thế giới đang có những em bé lớn lên bị bỏ rơi, bị hiếp đáp và đang thèm khát tình thương. Nếu những người xung quanh thờ ơ và không làm gì để giúp thì chúng ta đang góp phần vào việc đẩy các em bé bất hạnh kia trở thành hải tặc thôi. Bài thơ này là một ví dụ của sự thực tập vừa ôm ấp niềm đau vừa quán chiếu về sự thật tương tức để đau buồn và oán hận có thể chuyển thành từ bi. Hôm ấy, có mặt cha Daniel Berrigan. Nghe Thầy nói xong, cha đứng dậy xin phép rồi ôm Thầy thật lâu. Nhiều vị mục sư và linh mục khác đến ghi tên tham dự khóa tu với Thầy sau đó là vì họ đã đọc được bài thơ này.

Sau này, Thầy đích thân đi thăm viếng đồng bào ở các trại tị nạn. Có khi Thầy lặn lội đến tận các trại nằm ở các cù lao ngoài biển xa xôi như Heiling Chau, Chimawan… Không những Thầy tìm cách an ủi, cứu trợ các thuyền nhân về phương diện vật chất mà cũng chỉ dạy đồng bào những phương pháp nuôi dưỡng và trị liệu trong đời sống hằng ngày ở trại.

Nhà xuất bản Lá Bối hải ngoại ở Phương Bối Am tiếp tục in một số tác phẩm của các tác giả khác trong tuyển tập truyện ngắn Một bó hoa đồng[279]; Hồng bay mấy lá, tuyển tập thơ tiền chiến; Tắm mát ngọn sông Đào, thơ văn nhạc sáng tác từ quốc nội[280]; Tuệ Trung Thượng Sĩ ngữ lục… Thầy còn tái bản những tác phẩm của Thầy mà nhà xuất bản Lá Bối đã xuất bản ở Việt Nam như Nẻo về của ý, Phép lạ của sự tỉnh thức, Việt Nam Phật giáo sử luận I (1977), Vấn đề nhận thức trong Duy thức học[282], những truyện cổ tích nước Văn Lang được Thầy viết lại với rất nhiều từ bi thành cuốn Văn Lang dị sử[283],… 

Tại Phương Vân Am, Thầy cũng đã viết xong Việt Nam Phật giáo sử luận II. Bỏ dấu từng chữ trên 286 trang in, đối với Thầy không mệt và tốn công chút nào mà lại còn vui nữa. Như một nhà họa sĩ, Thầy vừa theo dõi hơi thở, vừa vẽ tỉ mỉ từng nét, từng dấu trên mỗi chữ, mỗi dòng.

Không những Thầy có những quyển sách cần thiết gửi tặng cho đồng bào ở các trại tị nạn mà còn có rất nhiều sách để các học trò Thầy gửi bán cho các người Việt tị nạn tại châu Âu hiện đang ngày một đông. Từ tháng 05 năm 1975, Thầy không còn dạy học ở Paris nữa, cũng không đi dạy mỗi năm tại các trường Amsterdam và Nijmegen như trước. Để tự túc kinh tế, thời gian đầu Thầy tổ chức làm mè xửng theo công thức xin được từ Sư bà Diệu Không. Thầy trò làm mỗi ngày để thử nghiệm và đã in nhãn hiệu với hình con gà đàng hoàng, nhưng sau đó dự án không thành. Nhờ Thầy in sách bán cùng với bản quyền khoảng mười bốn tác phẩm của Thầy xuất bản ở châu Âu và châu Mỹ, cộng đồng ở Phương Vân Am có đủ tiền mua gạo muối.

5. Tươi son bền sắt

Thầy tiếp tục viết sách nhưng Thầy cũng dành ra rất nhiều thời giờ cho lao động chân tay như làm vườn, trồng cây, in sách và đóng sách. Với Thầy, làm việc cũng là tu, cũng là thời gian tĩnh tâm, phác họa lại con đường trước mặt. Viễn tượng về lại Việt Nam còn xa xôi nên Thầy muốn mở rộng con đường hoằng pháp tại phương Tây. Ngoài chuyện cứu trợ đồng bào trong nước, nay có thêm công tác cứu trợ đồng bào ở các trại tị nạn. Thầy thường xuyên nhắc nhở các học trò thực tập chánh niệm trong khi làm việc. Một hôm, thấy chị Phượng đang say sưa gói những hộp thuốc tây, Thầy làm chị giật mình bằng một câu hỏi: “Này Phượng, nếu tối nay con bị đứng tim chết thì con cũng nhẹ nhàng mỉm cười ra đi, không tiếc nuối gì cả, phải không con?” Thầy nhắc nhở các học trò vừa làm việc hết mình vừa thực tập buông thả để không bị kẹt vào đó. Nhiều lúc đang mải mê làm việc, nghe Thầy hỏi “Mọi người đang làm gì đó?”, các bạn trẻ sực tỉnh giấc mơ “công việc”, vội trở về với hơi thở chánh niệm và mỉm cười buông thư. Các học trò ngoại quốc của Thầy đến làm thiện nguyện như Pierre, Neige, Philippe, Sudarat, Krisana, Martine…, ai cũng được nhắc nhở thường xuyên bằng tiếng Anh hay tiếng Pháp. Có lần nghe Thầy hỏi, Sudarat, người Thái đã đứng thẳng dậy cười và thưa Thầy bằng tiếng Thái: “thâm ngàn mi xa ma thí”, có nghĩa là cô vừa làm việc vừa thực tập chánh niệm. Tại văn phòng của Phái đoàn Hòa bình ở Paris, ở Sceaux, rồi tại đây, những người trẻ tình nguyện đến làm việc với Thầy ai cũng được Thầy hướng dẫn thực tập thiền tọa, thiền hành, pháp đàm và tụng giới.

Thầy nhắc các học trò của Thầy rằng điều quan trọng nhất là giữ cho tâm lặng giữa cơn ba đào. Muốn có thì giờ và phương tiện để lo cho những người cơ cực lận đận, mình phải sống thật đơn giản về phương diện vật chất mà thâm sâu về phương diện chánh niệm.

Tháng tư lá lục hoa cười

Cho trăng thêm tuổi, cho đồi thêm xuân

Vườn xanh cây mướp trổ bông

Trẻ thơ đùa giỡn trước sân nắng đào

Chợ văn bán sách lầu cao

Muối dưa đắp đổi hôm nào cũng vui

Xót quê lòng có ngậm ngùi

Tin quê dồn dập tới lui chẳng ngừng

Chùa xưa vắng tiếng chuông ngân

Trẻ kia cha mẹ gửi thân tù đày

Văn nhân nghệ sĩ bó tay

Con thơ nheo nhóc chẳng ai ngó ngàng

Sóng xô nghiêng vịnh Thái Lan

Bao nhiêu tuổi ngọc chìm làn nước sâu

Tấm thương, lòng vẫn nguyện cầu

Nỗi đau dường ấy, làm sao đỡ đần?

Trước sau xin chớ ngại ngần

Những bàn tay ấy tình thâm vẫn tròn

Giữ cho bền sắt tươi son

Giữ cho tâm lặng giữa cơn ba đào…

(Tươi son bền sắt, Thơ từng ôm và mặt trời từng hạt)

Cộng đồng Phương Vân Am mỗi ngày một đông hơn với những người tị nạn mới đến. Tất cả đều ăn chay, nằm đất trong các túi ngủ. Cuối tuần có các em tị nạn ở Troyes về để được ăn cơm chay nữa[285]. Sự có mặt của các thiếu nhi làm cho không khí tươi vui lên. Có bé Minh Tâm, cháu nội giáo sư Trần Văn Khê, bé Thủy con ba Triết, bé Long, bé Ton, con của các thuyền nhân mới đến Pháp định cư và còn đang đi tìm việc làm ở Paris hoặc lo giấy tờ đoàn tụ với gia đình bên Mỹ. Thầy dạy ca dao, dạy học và làm cả những bài hát cho các bé hát. Bé Minh Tâm được ba mẹ đưa tới văn phòng Phái đoàn Hòa bình chơi từ khi mới hai tuổi rưỡi, lúc bé bắt đầu tập nói. Thầy đã bế bé và dạy bé nói câu: “Mùa thu lá đỏ đẹp”. Sau này khi bé Minh Tâm đi thăm ông nội là giáo sư Trần Văn Khê, câu nói đầu tiên bé thưa ông nội là: “Mùa thu lá đỏ đẹp”. Ông nội bé vô cùng thán phục: “Ôi, cháu tôi nghệ sĩ quá!” Còn bé Thuỷ sáu tuổi, khi được vào rừng chơi, bé giang tay ra chỉ những chiếc lá thu vàng đang rơi và đọc một đoạn văn của nhà văn Đinh Hùng: “Thu hôm nay tôi đi trong rừng thu vàng óng ả này, ngắm từng chiếc lá vàng rơi. Đường này hiu hắt, tôi đem lòng về đây để gặp mùa thu thương nhớ cũ, chân ai đi xa vắng ngoài kia, hay đó chỉ là gió thoảng mong manh?”

Giờ chấp tác ở Phương Vân Am đầy ắp công việc nhưng không khí lại rất êm ả. Thầy trò hay ngồi chung quanh chiếc bàn gỗ vuông thấp uống trà mỗi sáng sau giờ ngồi thiền. Phật đường có chỗ ngồi thiền cho hơn 20 người. Vào giờ cơm chiều, mười mấy Thầy trò ngồi ăn chung, sau đó cùng nhau hát các bản dân ca của các dân tộc khác nhau. Laura, Philippe, Martine đều là những nghệ sĩ yêu thích ca nhạc, biết đàn guitar và viele – một loại nhạc khí cổ của Pháp. Mỗi ngày được chấm dứt bởi một buổi ngồi thiền. Mỗi thứ bảy là ngày quán niệm. Mọi người ngưng công việc, chỉ tắm giặt, dọn phòng, cắm hoa, làm vườn, làm tất cả những gì mình thích trong chánh niệm.

Qua những bài giảng và những quyển sách, càng ngày càng đông người Việt tị nạn đến tu tập cùng Thầy. Thầy bắt đầu tổ chức và hướng dẫn các khóa tu cuối tuần vào ngày thứ Bảy và Chủ nhật, mỗi tháng một lần, rồi đến những khóa tu mùa Hè, khóa tu về Duy biểu học, v.v. Rất nhanh chóng, Phương Vân Am trở nên quá nhỏ khi chỉ đủ chỗ ở cho 15 thầy trò vào mùa Đông và thêm 35 người đến dự khóa tu mùa Hè. Các thiền sinh đến đây tu học chỉ được ở một tuần rồi phải đi, để nhường chỗ cho những người khác đến.

Viễn tượng về nước rất xa vời, Thầy quyết tâm dời về miền Nam nước Pháp, nơi có nhiều nắng nhất và có nhiều nông trại bỏ hoang bán rẻ . Sau khi xem khoảng năm mươi cơ sở bất động sản, ngày 29 tháng 11 năm 1978, Thầy tìm ra một căn nhà lớn mười ba phòng. Thầy đặt tên nơi này là Phương Khê (Sơn Cốc) vì bên phải miếng đất có một dòng suối nhỏ. Thầy tiếp tục ở Phương Vân Am để hướng dẫn các khóa tu và dùng Phương Khê để tàng trữ tất cả hồ sơ của Phái đoàn Hòa bình tại Hội đàm Paris, của GHPGVNTN từ trung ương cho đến các tỉnh từ năm 1968 đến 1974 mà phần lớn đã bị thiêu hủy ở quê nhà. Thư từ báo cáo tin tức từ Việt Nam và những tài liệu họp báo cũng được lưu trữ đầy đủ nơi đây.

Ngày 13 tháng 06 năm 1982, Thầy ở New York tham dự một cuộc biểu tình cho hòa bình để chống vũ khí nguyên tử, cùng với một số đệ tử của cố Thiền sư người Nhật Shunryu Suzuki. Theo tờ New York Times, đây là một trong những cuộc biểu tình lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ[288]. Thầy dẫn đầu phái đoàn đi một cách chậm rãi, bình an. Tốc độ đi của đoàn quá chậm cho đám đông ở phía sau, nên nhiều người đã vượt qua và tỏ vẻ rất tức giận. “Có rất nhiều giận dữ trong phong trào hòa bình,” Thầy quan sát. Đối với Thầy, sự thực tập chánh niệm là điều vô cùng thiết yếu để chế tác hòa bình: “Cách ta sống đời sống hàng ngày sẽ góp phần làm nên hòa bình hay chiến tranh. Chánh niệm có thể cho ta biết là ta đang đi về hướng chiến tranh và chính năng lượng chánh niệm sẽ giúp ta quay lại để đi về hướng khác, hướng của hòa bình”[289]. Với chánh niệm, chúng ta có thể thay đổi cách tư duy. Hoạt động hòa bình không chỉ là việc tháo gỡ bom. Thậm chí khi ta vận chuyển toàn bộ bom lên mặt trăng, ta cũng vẫn không có an ninh, bởi vì gốc rễ của chiến tranh và của những trái bom vẫn còn đó, ở trong tâm thức cộng đồng của chúng ta. Chúng ta không thể xóa bỏ chiến tranh bằng các cuộc biểu tình đầy giận dữ. Chuyển hóa tâm thức cộng đồng là cách duy nhất có thể xóa bỏ chiến tranh tận gốc.

Và như thế Thầy đã chuyển trọng tâm từ các cuộc biểu tình và họp báo qua công việc có bề sâu hơn, đó là việc chuyển hóa tâm thức cộng đồng qua các khóa tu chánh niệm và qua nếp sống cộng đồng. Các khóa tu đã trở thành lĩnh vực hoạt động của Thầy bắt đầu từ đây.

Cuối chuyến đi này, nhiều nhóm người Hoa Kỳ muốn cúng dường đất để Thầy thiết lập trung tâm thực tập chánh niệm nhưng Thầy trở về Pháp, quyết chí thực hiện mơ ước mà Thầy đã ôm ấp từ nhiều năm.