(Phiên tả Pháp thoại ngày 04 & 08 tháng 01 năm 1998, Làng Mai, Pháp)
Hướng về Bụt và thánh chúng trên hội Hoa nghiêm.
Hội Hoa nghiêm là pháp hội trong đó Bụt thuyết kinh Hoa nghiêm. Hoa nghiêm, tiếng Phạn là Avataṃsaka, gọi cho đúng là Phật Hoa nghiêm, Buddhāvataṃsaka, nghĩa là sự trang điểm cho Bụt bằng tràng hoa. Tràng hoa này rất đặc biệt, không thể mua được ở ngoài chợ. Kinh Hoa nghiêm là một kinh lớn xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ I sau Thiên Chúa giáng sinh. Trước khi danh từ Buddhāvataṃsaka xuất hiện, kinh đã mang tên Gaṇḍavyūha. Gaṇḍa có nghĩa là hương thơm; vyūha là sự sắp đặt. Vì vậy có thể dịch là Hương nghiêm nhiều hơn là Hoa nghiêm. Kinh Hoa nghiêm được hình thành một cách chầm chậm và đã được dịch ra chữ Hán vào đầu thế kỷ thứ V. Có hai kinh xuất hiện sớm nhất trong văn học Hoa nghiêm là kinh Thập địa và kinh Nhập Pháp giới. Hai kinh này bây giờ trở thành hai phẩm trong những phẩm then chốt của kinh Hoa nghiêm.
Kinh Hoa nghiêm phát triển tư tưởng duyên sinh tới mức cao tột. Theo giáo lý duyên sinh của Bụt, tất cả mọi hiện tượng đều dựa vào nhiều điều kiện để biểu hiện. Ví dụ một bông hoa là do sự đóng góp của hạt giống, phân bón, ánh sáng mặt trời, đất đai, thời tiết, công sức của người trồng hoa,… Ta thấy nhiều nhân và duyên làm ra bông hoa đó. Trong kinh Hoa nghiêm, giáo lý đó được phát triển rất xa. Chúng ta thấy rằng tất cả vũ trụ đều kết hợp lại để tạo ra bông hoa. Vì vậy, trong bông hoa có đủ tất cả những yếu tố của vũ trụ. Từ đó giáo lý Hoa nghiêm đi tới kết luận: Cái một được làm bằng cái tất cả và cái tất cả có mặt trong cái một (Nhất tức nhất thiết, nhất thiết tức nhất).
Nhân vật nổi bật trong kinh Hoa nghiêm là Bồ tát Phổ Hiền (Samantabhadra), cũng như trong kinh Bát nhã thì nhân vật nổi bật là Bồ tát Văn Thù Sư Lợi.
Ba yếu tố lớn của kinh Hoa nghiêm là:
– Tuệ nhãn 慧眼 (con mắt trí tuệ, jñānacakṣus)
– Hạnh 行 (hành, carya)
– Nguyện 願 (lời thề, lời cam kết, praṇidhāna)
Đức Bồ tát Phổ Hiền tượng trưng cho ba yếu tố trên. Do vậy, kinh Hoa nghiêm không chỉ là tuệ giác, kinh còn là lời thề, là đại nguyện, là lời hứa lớn. Kinh Hoa nghiêm còn là hành động, action. Khi dùng tuệ giác của kinh Hoa nghiêm để nhìn vào thế giới đầy khổ đau, tối tăm, kỳ thị, chia rẽ,… ta bắt đầu thấy một thế giới khác: thế giới trong đó có sự thông thương, có rất nhiều ánh sáng, tình thương, không còn kỳ thị và chia rẽ; và lạ thay hai thế giới đó không tách rời nhau. Ta không còn gọi đây là thế giới nữa mà gọi là pháp giới. Thế giới (Lokadhātu) và pháp giới (Dharmadhātu) là hai danh từ thường được sử dụng trong văn học đạo Bụt. Có thể nói thế giới là cõi mà trong đó cái này nằm ngoài cái kia. Ví dụ ánh sáng, đám mây thì nằm ngoài bông hồng. Do đó, ta phân biệt ánh sáng, bông hồng và đám mây. Trong khi đó, với tuệ nhãn, khi nhìn ta sẽ thấy bông hồng nằm trong đám mây và đám mây nằm trong bông hồng. Lúc ấy ta bắt đầu đi vào pháp giới, gọi là nhập pháp giới. Trong thế giới thì sư em nằm ngoài sư chị, sư chị khác sư em nhưng nếu biết sử dụng tuệ nhãn thì ta thấy sư em nằm trong sư chị và sư chị nằm trong sư em, không thể lấy sư chị ra ngoài sư em được. Do đó, thế giới và pháp giới là một. Vấn đề của chúng ta là có biết sử dụng con mắt tuệ để nhìn sự vật hay không. Nhìn bằng con mắt tuệ thì ta đi được vào pháp giới, còn nếu không biết dùng con mắt tuệ để nhìn thì ta sẽ chỉ quanh quẩn trong thế giới. Ở trong thế giới mà ta biết dùng con mắt tuệ để rũ bỏ dần sự nhận thức phân biệt thì tự nhiên pháp giới sẽ hiển lộ.
Kinh Hoa nghiêm dùng nhiều hình ảnh rất đẹp, rất diệu kỳ. Trong phẩm Nhập Pháp giới, có một nhân vật tên là Thiện Tài Đồng Tử, đó là một người trai trẻ, đệ tử của thầy Văn Thù Sư Lợi. Được phép của thầy, Thiện Tài Đồng Tử đi tham học với nhiều bậc thầy khác và đã học được từ 53 vị, trong đó có cả những đứa con nít, những người ngoại đạo, và Thiện Tài Đồng Tử đều có thể học được từ tất cả những bậc thầy đó. Có một lần, Thiện Tài Đồng Tử tìm gặp bà Ma Ha Ma Gia, vì người ta nói rằng nếu gặp được bà Ma Ha Ma Gia thì Thiện Tài Đồng Tử sẽ học được rất nhiều. Ma Ha Ma Gia tức là mẹ của đức Thế Tôn. Thiện Tài tìm mãi mà không gặp được bà, chàng không biết bà ở đâu. Sau đó nghe người ta nói rằng muốn gặp bà Ma Ha Ma Gia, không cần phải đi đâu xa, chỉ cần thực tập quán chiếu cho sâu sắc, phải ngồi thiền, thực tập thiền lạy. Thiện Tài Đồng Tử mới ngồi xuống, thực tập quán niệm hơi thở và quán chiếu. Trong lúc quán chiếu, tự nhiên Thiện Tài thấy một đóa sen từ dưới đất trồi lên rồi nở ra một ngàn cánh rất đẹp. Thiện Tài thấy mình được ngồi trên một trong ngàn cánh đó. Từ cánh sen mình đang ngồi, Thiện Tài lại thấy nở ra một đóa sen ngàn cánh khác. Thiện Tài Đồng Tử bắt đầu nhận thấy được một điều bằng con mắt tuệ: Cái một trong cái tất cả và cái tất cả trong cái một – trước hết là thấy một đóa sen ngàn cánh, rồi thấy mỗi cánh sen, chính nó cũng là một bông sen đầy đủ với một ngàn cánh. Khi ngẩng nhìn lên, Thiện Tài thấy bà Ma Ha Ma Gia đang ngồi trên một cánh sen khác và cánh sen đó lại biến ra một bông sen khác, cũng một ngàn cánh. Trong niềm vui sướng được ngồi trên một tòa sen và được gặp bà Ma Ha Ma Gia, Thiện Tài nghe bà nói:
– Này con, con có biết khi ta có mang Siddhārtha thì chuyện gì xảy ra không? Khi biết mình đã có mang Siddhārtha thì trong người ta tự nhiên cảm thấy khỏe, nhẹ và hạnh phúc vô cùng. Bởi vì khi có một đức Bụt chui vào bụng mình thì còn gì sung sướng hơn nữa!
Thiện Tài Đồng Tử mới nói:
– Dạ con biết! Khi biết đã có một đức Bụt trong lòng thì mình sung sướng lắm.
Bà Ma Ha Ma Gia lại nói tiếp:
– Lúc Siddhārtha vừa mới chui vào bụng ta thì vô số các vị Bồ tát trong mười phương thế giới tới với ta và vị nào cũng ngỏ ý muốn chui vào để xem thử Siddhārtha ở trong bụng ta có được thoải mái hay không. Ta chưa kịp nói gì thì tất cả đều tự ý chui vào bụng ta. Ta đâu có ngờ bụng ta lại lớn như vậy, vô lượng vô số các vị Bồ tát chui vào trong bụng ta mà bụng ta vẫn còn đủ chỗ như thường. Lúc đó ta có cảm tưởng rất rõ là nếu có hàng trăm triệu các vị Bồ tát khác tới và muốn chui vào bụng ta thì bụng ta vẫn có dư chỗ cho họ chui vào.
Bà Ma Ha Ma Gia đã nói như vậy đó. Câu nói đó có nghĩa là cái vô cùng nhỏ chứa đựng cái vô cùng lớn.
Thiền sư Khánh Hỷ đời Lý có nói rằng:
Càn khôn tận thị mao đầu thượng
Nhật nguyệt bao hàm giới tử trung.
(Cả trời đất có thể được vo lại và đặt lên trên đầu một sợi tóc. Mặt trời và mặt trăng có thể được dung chứa trong một hạt cải).
Câu nói của thiền sư Khánh Hỷ cũng nằm trong ý nghĩa đó – cái vô cùng lớn có thể tìm được trong cái vô cùng nhỏ.
Do đó, những ý niệm của chúng ta về nhỏ – lớn là một ý niệm rất chúng sanh, rất dại khờ. Một bông hoa nhỏ xíu kia có thể chứa đựng cả mặt trời, đám mây, sông, núi,… nghĩa là tất cả vũ trụ đầy đủ trong đó. Đó là giáo lý một là tất cả, tất cả là một.
Câu chuyện của bà Ma Ha Ma Gia nói với Thiện Tài Đồng Tử rất hay. Bà lại nói tiếp như thế này:
– Này con, con có biết ta là ai không? Ta là mẹ của tất cả chư Bụt trong quá khứ. Bụt nào cũng từ trong bụng ta chui ra hết. Ta là mẹ của tất cả chư Bụt trong hiện tại và ta sẽ là mẹ của tất cả chư Bụt trong tương lai.
Nói như vậy để Thiện Tài biết rằng chàng ta cũng như Ma Ha Ma Gia, chàng cũng có mang một đức Thế Tôn ở trong lòng dù Thiện Tài là con trai. Nếu quán chiếu thì Thiện Tài sẽ thấy rằng mình là mẹ của tất cả chư Bụt trong quá khứ, mẹ của tất cả chư Bụt trong hiện tại và mẹ tất cả chư Bụt trong tương lai. Phải chăm sóc chư Bụt trong ba đời ở chính trong tự thân mình. Đừng có mặc cảm là tự thân mình dơ bẩn, không xứng đáng. Phải vượt thoát ý niệm về dơ – sạch, tội – phúc, đó mới là cái thấy của pháp giới, của trí tuệ. Cái thấy đó làm cho pháp giới hiển lộ và thế giới ẩn đi. Thế giới là cõi mà trong đó có kỳ thị, chia rẽ, khổ đau, cái này nằm ngoài cái kia. Pháp giới là cõi mà trong đó cái này nằm trong cái kia và mình không còn mặc cảm. Đó là nội dung của phẩm Nhập Pháp giới.
Kinh Mười nguyện Phổ Hiền được rút ra từ phẩm thứ 36 của kinh Hoa nghiêm. Phẩm này tên là Phổ Hiền hạnh nguyện phẩm, nói về hành động và nguyện ước của đức Bồ tát Phổ Hiền. Trong khi học kinh này ta sẽ thấy được phần nào hạnh và nguyện đó, biểu lộ tuệ nhãn của đức Bồ tát.
Con xin đem ba nghiệp thanh tịnh
Kính lạy tất cả hằng sa Bụt
Trong các thế giới khắp mười phương
Quá khứ, vị lai và hiện tại.
Đây là hạnh và nguyện đầu, tức là Lễ kính chư Phật. Đây là sự thực tập của Bồ tát Phổ Hiền, là lạy chư Bụt. Thế nhưng, phải lạy như thế nào? Trước hết là đem ba nghiệp thanh tịnh ra để làm cho mình hoàn toàn có mặt, tức là thân, lời nói, ý tưởng hợp nhất lại trong trạng thái thanh tịnh (thanh tịnh nghĩa là không loạn tưởng). Đưa ba nghiệp đó hợp nhất lại để hướng thượng, gọi là tam nghiệp thanh tịnh. Trong bài kệ thỉnh chuông, chúng ta cũng làm như vậy:
Ba nghiệp lắng thanh tịnh
Gởi lòng theo tiếng chuông.
Muốn cho tiếng chuông làm rung động được pháp giới, lay chuyển được lòng người thì trước hết, người thỉnh chuông phải đem ba nghiệp hợp nhất lại trong trạng thái thanh tịnh hóa (Purification of the body, of the speech and of the mind), có mặt thực sự trong giờ phút thỉnh chuông và ba nghiệp đều lắng lại.
Con xin đem ba nghiệp thanh tịnh
Kính lạy tất cả hằng sa Bụt
Trong các thế giới khắp mười phương
Quá khứ, vị lai và hiện tại.
Hằng sa có nghĩa là cát sông Hằng. Bụt có rất nhiều như số cát ở sông Hằng. Con xin đem ba nghiệp thanh tịnh của con mà kính lạy tất cả chư Bụt nhiều như số cát trong sông Hằng. Bụt cũng có mặt mọi nơi và mọi lúc, nghĩa là không giới hạn không gian và thời gian. Chúng ta thường tụng: Thập phương tam thế Phật.
Bụt có mặt khắp mười phương (thập phương, 十方) và trong ba đời (tam thế, 三世). Ba đời là quá khứ, hiện tại và vị lai. Mười phương là Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Bắc, Đông Nam, Tây Bắc, Tây Nam, Trên và Dưới. Hễ nơi nào có chánh niệm, có vững chãi, có thảnh thơi, có an lạc, là nơi đó có Bụt. Bụt là một phần của con người chúng ta. Phần đó gọi là phần hướng thượng. Khi chắp tay lễ Bụt thì phải quán tưởng để thấy được tất cả chư Bụt nhiều như số cát ở sông Hằng, trong không gian và thời gian. Thấy được như vậy thì mới lạy xuống, tức là phải dùng con mắt tuệ để lạy. Chúng ta không lạy bằng con mắt thịt và bằng cái thân thịt của mình. Chắp tay lại, làm cho ba nghiệp lắng trong, hợp nhất, có mặt hoàn toàn rồi dùng sự có mặt hoàn toàn đó của thân, khẩu, ý mà quán chiếu, thấy được rằng một lạy này là lạy tất cả các Bụt trong ba đời và trong mười phương.
Nguyên văn:
Sở hữu thập phương thế giới trung
Tam thế nhất thiết nhân sư tử
Ngã dĩ thanh tịnh thân ngữ ý
Nhất thiết biến lễ tận vô dư.
Ở đây nguyên văn chữ Bụt là nhân sư tử, nghĩa là con sư tử trong loài người, tức là Bụt. Tại vì tiếng thuyết pháp của Bụt là một tiếng gầm sư tử lớn. Con sư tử oai vệ là chúa của tất cả mọi loài trong sơn lâm. Cho nên Bụt trong loài người cũng giống như sư tử ở chốn sơn lâm. Sở hữu thập phương thế giới trung. Tam thế nhất thiết nhân sư tử nghĩa là trong mười phương thế giới và trong ba đời, con xin lấy thân, ngữ, ý thanh tịnh mà lạy khắp tất cả Bụt (tức là tất cả sư tử trong loài người), không chừa sót một vị Bụt nào. Nhất thiết biến lễ là lạy cùng khắp, lạy tất cả. Tận vô dư là không còn sót một vị Bụt nào cả. Không những lạy Bụt trong quá khứ, Bụt trong hiện tại mà lạy cả Bụt trong tương lai. Vì vậy khi lạy xuống, ta lạy luôn cả ta, bởi vì chính ta cũng là một vị Bụt tương lai. Ta phải thấy được điều đó thì cái lạy này mới thành công, không phải khi nghe tiếng chuông thì nhào xuống như một đống thịt, mà phải lạy bằng con mắt tuệ.
Thần lực của hạnh nguyện Phổ Hiền
Giúp con có mặt khắp mọi nơi
Nơi đâu có Bụt là có con
Bụt là vô lượng con vô lượng.
Đây là tuệ nhãn, nếu không có tuệ nhãn thì ta chỉ lạy bằng nhục thân chứ không lạy bằng trí tuệ được. Bồ tát Phổ Hiền (Samantabhadra) có hạnh và nguyện rất lớn và sức mạnh thần diệu đó giúp con có mặt khắp mọi nơi. Con đứng ở đây, trong giờ phút hiện tại này, nhưng thực sự là con đang có mặt khắp mười phương và ba đời. Con có mặt ở hiện tại nhưng con cũng đang có mặt trong quá khứ và tương lai. Đây là một cái thấy bằng tuệ nhãn. Trong sự u mê hằng ngày, chúng ta nghĩ rằng ta chỉ có mặt trong giờ phút này và tại nơi này mà thôi. Tuy nhiên, theo tuệ giác của kinh Hoa nghiêm thì đâu phải ta chỉ có mặt ở đây và lúc này, mà có mặt khắp nơi trên thế giới; ta có mặt nơi Bụt, nơi tổ tiên trong quá khứ và cả nơi con cháu trong tương lai. Vì vậy ý tưởng ta chỉ có mặt ở đây và lúc này là một sai lầm rất lớn. Nhờ có uy lực của Bồ tát Phổ Hiền nên trong giờ phút nhiếp tâm thanh tịnh như vậy, ta thấy ta có mặt khắp nơi, không những trong hiện tại mà còn trong quá khứ và tương lai. Hễ nơi nào có Bụt đang ngồi thì nơi đó có ta đang đứng chắp tay. Khi chắp tay thì ta phải thấy được vô lượng Bụt trong ba đời và mười phương. Ta thấy ta cũng là vô lượng và trước mỗi Bụt đều có ta. Phải thấy được như vậy thì mới lạy.
Khi cúi xuống bờ ao, ta sẽ thấy một đám bọt, nhìn vào đó ta thấy trong mỗi bọt nước có gương mặt ta đang phản chiếu. Có bao nhiêu bọt nước thì có bấy nhiêu gương mặt ta trong đó. Cũng vậy, chư Bụt trong ba đời có mặt khắp hết như những bọt nước, nhìn vào bọt nước nào cũng thấy có ta ở trong. Khi đó, ta đạt tới cái thấy gọi là Năng lễ sở lễ tánh không tịch (能禮所禮性空寂). Năng lễ là người lạy, tức là chúng sanh. Sở lễ là người được lạy, tức là Bụt. Tánh không tịch nghĩa là bản chất của người lạy và người được lạy không phải là những thực thể riêng rẽ có thể tách rời ra được. Cả hai nương nhau mà hiện hữu.
Cũng giống như trường hợp bông hoa và ánh sáng không phải là những thực thể độc lập, chúng có trong nhau. Nhìn vào bông hoa cho thật sâu thì thấy ánh sáng. Nhìn vào ánh sáng thì thấy có bông hoa. Sự liên hệ giữa mẹ và con cũng vậy: nhìn vào mẹ sẽ thấy con và nhìn vào con sẽ thấy mẹ. Không thể lấy mẹ ra khỏi con và không thể lấy con ra khỏi mẹ. Thấy được như vậy thì bao nhiêu giận hờn giữa hai mẹ con đều tiêu tan hết. Như vậy, năng lễ và sở lễ lồng vào nhau, nương vào nhau mà có; lấy năng lễ ra thì không còn sở lễ, lấy sở lễ ra thì không còn năng lễ. Lấy bọt nước ra thì không có mặt của ta, lấy mặt ta ra thì không thấy bọt nước. Không tịch là vậy, không tiếng Anh là empty, nghĩa là không thể tự một mình mà tồn tại, tịch nghĩa là vắng lặng, tức là không thể nói năng gì được về cái đó. Trong khi đứng chắp tay, làm cho ba nghiệp thanh tịnh và hợp nhất thì ta phải quán chiếu để thấy rằng trong mười phương, ba đời, các đức Bụt có mặt đầy dẫy trong hư không. Trước đức Bụt nào cũng có ta đang đứng chắp tay và khi ta lạy xuống thì tất cả hóa thân của ta trong mười phương đều đồng loạt lạy xuống, không có chỗ nào là không lạy. Lạy như vậy mới là cái lạy của đức Bồ tát Phổ Hiền – cái lạy căn cứ trên cái thấy của Hoa nghiêm. Hồi thầy 16 tuổi, vô chùa và được học điều này thì thấy khó hiểu quá. Chắp tay, xướng năng lễ sở lễ tánh không tịch, cảm ứng đạo giao nan tư nghì thì làm sao mà một chú bé 16 tuổi hiểu được, nhất là khi các thầy không giảng. Người lạy và người được lạy, bản chất không thể tách rời nhau ra được. Vì vậy, sự cảm ứng, giao tiếp giữa con và Ngài là không thể nào nghĩ bàn.
Ngã thử đạo tràng như đế châu
Thập phương chư Phật ảnh hiện trung.
Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền
Đầu diện tiếp túc quy mạng lễ.
Đạo tràng nơi con đang đứng giống như màng lưới của vua trời Đế Thích (Indra), vì cung điện của vua được làm bằng những hạt ngọc và mỗi hạt ngọc trong mạng lưới đó phản chiếu tất cả những hạt ngọc khác, tức là cái tất cả nằm trong cái một. Do đó, đạo tràng con đang đứng để thực tập lạy cũng như đế châu vậy. Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền nghĩa là thân con đang hiện trước mặt mỗi đức Phật và khi con lạy xuống đây thì có vô số con đang lễ vô số Bụt. Đầu diện tiếp túc quy mạng lễ nghĩa là đầu, mặt, tứ chi của con đang mọp xuống và trước mỗi đức Bụt đều có con.
Nơi đâu có Bụt là có con
Bụt là vô lượng, con vô lượng.
Vô lượng tức là không đếm được. Nếu đếm Bụt không được thì đếm con cũng không được. Bụt có bao nhiêu thì con có bấy nhiêu, Bụt ở đâu thì con ở đó và chỗ nào có người được lạy thì chỗ đó có người đang lạy. Phải thấy được như vậy thì ta mới đi được vào pháp giới, còn nếu không thì ta vẫn quanh quẩn đi vòng mãi trong thế giới mà thôi.
Câu nguyên văn:
Phổ Hiền hạnh nguyện uy thần lực
Phổ hiện nhất thiết Như Lai tiền
Nhất thân phục hiện sát trần thân
Nhất nhất biến lễ sát trần Phật.
Hạnh nguyện của đức Bồ tát Phổ Hiền có thần lực rất lớn, giúp con có mặt khắp nơi trước tất cả các đức Như Lai. Một thân biểu hiện ra vô số thân. Chữ sát trần ở đây nghĩa là số hạt bụi trong cõi nước; sát nghĩa là cõi nước, trần nghĩa là bụi. Nếu ta đem số hạt bụi trong nước Pháp ra đếm thì rất nhiều, số lượng các hạt bụi đó gọi là sát trần. Thân ta, ta đừng tưởng đó chỉ là một cái thân nhỏ bé. Nó có thể biến hiện ra nhiều như bụi của một cõi nước. Sát trần thân, nghĩa là thân thể của con cũng nhiều như số hạt bụi trong một cõi nước. Một thân mà hiện thành sát trần thân. Sát trần thân lễ sát trần Phật, nghĩa là thân của con vô số vô biên và Bụt cũng vô số vô biên. Có bao nhiêu Bụt là có bấy nhiêu con. Sát trần thân là con, sát trần Phật là Bụt. Nếu Bụt nhiều như cát bụi của một cõi nước thì con cũng nhiều như cát bụi của một cõi nước. Vì vậy, chúng ta không được mặc cảm.
Trong hạt bụi có vô số Bụt
Mỗi vị an trú chúng hội mình
Đức tin của con vẫn tràn đầy
Trong mọi hạt bụi của pháp giới.
Trong hạt bụi là trong cái vô cùng nhỏ, nhưng thời nay người ta không dùng từ hạt bụi mà dùng từ điện tử (elementary particle). Trong một hạt bụi mà ta tưởng là nhỏ bé như vậy, kỳ thực lại chứa đựng tất cả các cõi Bụt. Cái vô cùng nhỏ chứa đựng cái vô cùng lớn.
Ư nhất trần trung trần số Phật
Các xử Bồ tát chúng hội trung
Vô tận pháp giới trần diệc nhiên
Thâm tín chư Phật giai sung mãn.
Ư nhất trần trung trần số Phật nghĩa là trong một hạt bụi có chứa vô số Phật, nhiều như số lượng hạt bụi trong một cõi nước. Các xử Bồ tát chúng hội trung là người nào cũng đang được bao quanh bởi một chúng hội có Bồ tát, có Thanh văn, có Duyên giác, có tứ chúng xuất gia và tại gia. Nhìn vào một hạt bụi ta phải thấy trong đó có vô số vô lượng chư Bụt và Bụt nào cũng đang được bao quanh bởi tứ chúng của mình. Trong mỗi lỗ chân lông của ta, ta phải thấy được có ngàn vạn cõi Bụt trong đó. Mỗi vị Bụt đều có các cõi nước của mình, có các vị Bồ tát và tứ chúng, trong mỗi lỗ chân lông. Đó là nội dung được nhắc tới trong kinh Hoa nghiêm.
Đức tin của con vẫn tràn đầy
Trong mọi hạt bụi của pháp giới.
Con có một đức tin sâu sắc rằng chư Bụt có mặt đầy đủ trong tất cả mọi hạt bụi của pháp giới. Trong mỗi hạt bụi có vô số Bụt mà trong tất cả hạt bụi khác cũng có vô số Bụt. Vô tận pháp giới trần diệc nhiên, tức là những hạt bụi trong pháp giới nhiều vô tận. Thâm tín chư Phật giai sung mãn tức là con tin sâu sắc rằng các đức Bụt có mặt đầy đủ trong mỗi hạt bụi như vậy. Chúng ta có thể hiểu rằng đức tin của ta có mặt ở đây và có mặt khắp nơi. Đây là cái thấy tương tức và tương nhập của kinh Hoa nghiêm. Tương nhập là cái này đi vào cái kia. Tương tức nghĩa là cái này là cái kia. Một khi đã có cái thấy tương tức và tương nhập như vậy thì ý niệm lớn – nhỏ, trong – ngoài, một – nhiều hoàn toàn tan biến, lúc ấy pháp giới (dharmadhātu) hiện tiền. Chính lúc đó, cái lạy của ta mới đạt được sự giác ngộ.
Trong mỗi hạt bụi các đức Bụt nhiều như số lượng các hạt bụi. Mỗi vị Bụt đang an trú trong chúng hội của mỗi Ngài. Không chỉ là một hạt bụi như vậy mà tất cả các hạt bụi khác trong vô tận pháp giới cũng đều như vậy. Niềm tin sâu sắc về sự có mặt của chư Bụt trong từng hạt bụi như vậy tràn đầy trong con.
Ba bài kệ vừa rồi nói về phương pháp lạy Bụt, kính lễ Bụt. Đoạn kế nói về xưng tán Bụt:
Con đang sử dụng biển âm thanh
Phát ra ngôn từ rất vi diệu
Tán dương biển công đức của Bụt
Cho đến vô số kiếp về sau.
Đoạn này là khen ngợi Bụt, danh từ chuyên môn là tán lễ. Chúng ta có nhiều bài kệ để khen ngợi Bụt, chẳng hạn bài:
Phật bảo sáng vô cùng
Đã từng vô lượng kiếp thành công
Đoan nghiêm thiền tọa giữa non sông
Sáng rực đỉnh Linh phong
Trên trán phóng hào quang rực rỡ
Chiếu soi sáu nẻo hôn mông
Long Hoa hội lớn nguyện tương phùng
Tiếp nối pháp chánh tông
Xin quy y thường trú Phật đà gia.
Đó là một trong những bài tán khen ngợi Bụt, ngoài ra chúng ta có rất nhiều bài khác như:
Bụt là vầng trăng mát
Đi ngang trời thái không
Hồ tâm chúng sanh lặng
Trăng hiện bóng trong ngần.
Hoặc là bài:
Thế tôn dung mạo như vầng nguyệt
Lại như mặt nhật phóng quang minh
Hào quang trí tuệ chiếu muôn phương
Hỷ xả từ bi đều thấm nhuận.
Đây là hạnh nguyện thứ hai của đức Bồ tát Phổ Hiền, là ca ngợi Bụt: Xưng tán Như Lai.
Bụt có cần chúng ta ca ngợi hay không? Bụt có cần chúng ta lạy hay không? Bụt đâu có cái ngã mà muốn người ta lạy và ca ngợi. Lẽ tất nhiên Bụt không cần những điều đó, không cần người ta ngợi khen và tâng bốc. Nhưng sự thực tập của chúng ta là lạy Bụt và ca ngợi Bụt vì trong lúc lạy Bụt và ca ngợi Bụt, chúng ta tạo ra một xu thế hướng thượng trong con người ta, khơi dậy niềm an lạc, hạnh phúc và sự thảnh thơi có sẵn trong ta. Trong lúc ca ngợi Bụt, trước hết chúng ta phải sử dụng âm thanh. Âm thanh của chúng ta sử dụng phải nhiều như biển cả mới đủ để ca ngợi Bụt. Trong kinh Hoa nghiêm, mọi thứ đều có số lượng lớn: ánh sáng tràn đầy, hoa tràn đầy, lời nguyện tràn đầy,… Do đó, kinh Hoa nghiêm thường dùng chữ hải (ocean – đại dương). Lời nguyện của ta cũng gọi là nguyện hải, tức là biển nguyện. Tín, nguyện, hạnh, tràng hoa hay là hạnh phúc, thứ nào cũng rất nhiều. Do đó, khi xưng tán Bụt, ta phải sử dụng biển âm thanh mới đủ để tán dương biển công đức của Ngài: Con đang sử dụng biển âm thanh. Đôi khi hạnh phúc của ta quá lớn nên phải dùng đến hình ảnh biển cả mới có thể diễn tả được.
Con đang sử dụng biển âm thanh
Phát ra ngôn từ rất vi diệu
Tán dương biển công đức của Bụt
Cho đến vô số kiếp về sau.
Công đức của Bụt cũng rất lớn cho nên gọi là biển công đức, những lời tán tụng của ta cũng rất nhiều nên phải dùng đến biển âm thanh. Không những vậy, con không chỉ tán dương công đức của Bụt trong giờ phút hiện tại mà con còn muốn tán dương cho đến vô số kiếp về sau. Bởi vì công đức của Bụt lớn lao vô cùng, làm sao con có thể tán dương đủ trong một giây phút cho nên con sẽ tiếp tục tán dương công đức Bụt cho đến vô số kiếp về sau và con sử dụng âm thanh của con nhiều như biển cả. Quý vị có thấy là trong mỗi dòng, mỗi chữ đều có khí vị của kinh Hoa nghiêm không, tức là một là tất cả, tất cả là một?
Các dĩ nhất thiết âm thanh hải
Phổ xuất vô tận diệu ngôn từ
Tận ư vị lai nhất thiết kiếp
Tán Phật thậm thâm công đức hải.
Các là mỗi người, nhất thiết âm thanh hải tức là đại dương của tất cả âm thanh. Phổ xuất vô tận diệu ngôn từ, tức là làm hiển lộ ra những ngôn từ, những lời nói rất mầu nhiệm, vi diệu, nhiều đến không thể đếm được. Tận ư vị lai nhất thiết kiếp. Tán Phật thậm thâm công đức hải là cho đến tất cả các kiếp về sau, đều tán dương biển công đức sâu thẳm của Bụt.
Bây giờ chúng ta bước sang sự thực tập thứ ba là cúng dường Bụt: Quảng tu cúng dường.
Phần này được đề cập ở các bài kệ số năm, số sáu và số bảy:
Lấy những tràng hoa vi diệu nhất
Hương thơm, âm nhạc và tàn lọng
Sử dụng mọi thứ trang nghiêm ấy
Con đem cúng dường các Như Lai.
Hai chữ cúng dường lấy từ chữ Hán là cung dưỡng (có nghĩa là cung cấp và nuôi dưỡng). Lấy những tràng hoa vi diệu nhất, tràng hoa là avataṃsaka – hoa nghiêm. Chúng ta lấy những tràng hoa vi diệu nhất để cúng dường. Cố nhiên là chúng ta có thể cúng dường đức Như Lai bằng âm nhạc nhưng không phải là thứ âm nhạc đứt ruột mà phải là âm nhạc có tính thanh thoát, nhiệm mầu, chuyên chở được tuệ giác của Hoa nghiêm. Còn nếu không, cúng dường một bài mà hát lên có vẻ rên rỉ, buồn thảm thì không những không có phước đức mà còn thêm tội nữa.
Dĩ chư tối thắng diệu hoa man
Kỷ nhạc đồ hương cập tán cái
Như thị tối thắng trang nghiêm cụ
Ngã dĩ cúng dường chư Như Lai.
Tối thắng tức là thứ đẹp nhất; diệu là kỳ diệu; hoa man tức là những tràng hoa. Sử dụng những tràng hoa vi diệu và đẹp nhất. Kỷ nhạc tức là âm nhạc; đồ hương là hương thơm, như trầm, hoa; tán cái là tàn lọng. Tất cả những thứ đó đều có thể đem cúng dường Như Lai. Như thị là những cái như vậy đó; trang nghiêm cụ tức là những dụng cụ đẹp đẽ, có phẩm chất cao nhất.
Các thức y phục và hoa hương
Đèn đuốc, trầm hương và tọa cụ
Mỗi thứ đều thành ra sung mãn
Con xin cúng dường các Như Lai.
Các thức y phục, hoa hương, đèn đuốc, tọa cụ, v.v. đều là những phẩm vật có thể sử dụng để cúng dường Như Lai. Khi ta thắp một cây nến là ta đã cúng dường đức Như Lai rồi, nhưng công đức nhiều hay ít là do cách chúng ta thắp cây nến như thế nào. Nếu ba nghiệp thanh tịnh và có cái thấy của Hoa nghiêm thì đốt một cây nến lên là có công đức vô lượng. Cho nên cách cúng dường và tuệ giác khi chúng ta cúng dường sẽ quyết định giá trị và công đức của hành động cúng dường chứ không phải cúng dường phẩm vật nhiều là có công đức nhiều.
Trong kinh có câu chuyện một bà già ăn mày chỉ cúng dường một đồng tiền dầu và rót dầu ấy vào trong một cây đèn. Cây đèn ấy, nghe nói rằng, sáng suốt đêm mà không cạn dầu. Cho đến khi thầy Mục Kiền Liên ra tắt mà không tắt được. Bụt mới nói rằng: Ánh sáng của cây đèn ấy rực rỡ lắm, không thể dùng thần thông lực mà dập tắt được. Người cúng dường số dầu ấy sau sẽ thành Bụt. Thành ra cúng dường một đồng tiền dầu thôi mà với tất cả tâm chí thành và tuệ giác thì sự cúng dường đó có công đức lớn gấp ngàn lần những người giàu không biết cúng dường, chỉ biết ỷ vào số tiền mình cúng, cho rằng mình làm được nhiều công đức hơn những người khác, không thấy được cái một trong tất cả và tất cả trong cái một.
Tối thắng y phục tối thắng hương
Mạt hương, thiêu hương, dữ đăng chúc
Nhất nhất giai như Diệu cao tụ
Ngã tất cúng dường chư Như Lai.
Tối thắng y phục tối thắng hương, ta cứ nhớ tối thắng là first class, y phục và hương thơm đều là những thứ có phẩm chất cao nhất. Mạt hương, thiêu hương là hai loại hương: hương bột và hương cây. Đăng chúc là đèn đuốc.
Nhất nhất giai như Diệu cao tụ, tức là mỗi thứ phẩm vật cúng dường chất lên nhiều như núi Tu Di (Diệu cao tụ) và con xin đem tất cả những thứ đó để cúng dường Như Lai. Trong bản tiếng Việt, chúng ta không dùng danh từ núi Tu Di mà nói là mỗi thứ đều thành ra sung mãn, nghĩa là đầy đủ, rất nhiều.
Con đem tâm hiểu biết rộng sâu
Tin tưởng chư Bụt trong ba đời
Con nương sức hạnh nguyện Phổ Hiền
Cúng dường khắp hết các Như Lai.
Chúng ta đem trí tuệ, cái thấy sâu rộng của ta ra để cúng dường. Cúng dường như vậy mới có công đức lớn. Chúng ta cúng dường Bụt bằng đức tin rất lớn của mình.
Ngã dĩ quảng đại thắng giải tâm
Thâm tín nhất thiết tam thế Phật.
Quảng là rộng, đại là lớn, thắng giải tâm là tâm hiểu biết. Thắng giải là một trong năm tâm sở biệt cảnh, tức là hiểu thấu được. Con đem tâm hiểu biết của con và sự tin tưởng sâu sắc vào các đức Bụt trong ba đời, làm phẩm vật cúng dường lên chư Bụt. Bởi vì không có phẩm vật nào quý hơn phẩm vật tâm hiểu biết và đức tin sâu. Nếu tâm hiểu biết của ta còn nghèo nàn, nếu đức tin của ta còn cạn cợt thì có nghĩa là ta chưa có được phẩm vật quý giá nhất, sâu sắc nhất để cúng dường. Chỉ khi nào tâm thắng giải của ta được rộng sâu (quảng đại), chỉ khi nào đức tin của ta sâu sắc thì khi đó ta mới có phẩm vật quý nhất để cúng dường. Ta phối hợp thắng giải tâm và niềm thâm tín của ta với thắng giải tâm và niềm tin của đức Phổ Hiền. Ta và đức Phổ Hiền là một thì công đức đó không thể nào có thể đo lường được.
Tất dĩ Phổ Hiền hạnh nguyện lực
Phổ biến cúng dường chư Như Lai.
Lấy sức mạnh của hạnh nguyện Phổ Hiền để cúng dường khắp hết các Như Lai.
Bây giờ, chúng ta đi đến sự thực tập thứ tư: Sám hối nghiệp chướng.
Từ xưa con đã tạo nghiệp xấu
Vì tham sân si từ vô thỉ
Do thân miệng ý mà phát sinh
Nay con đều sám hối tất cả.
Nghiệp (karma) tức là hành động bằng thân, miệng và ý. Những nghiệp đó xấu và con biết rằng con đã có những nghiệp xấu đó từ trong quá khứ. Vì tham sân si từ vô thỉ. Con đã làm, đã nói, đã nghĩ những điều đó bởi vì trong tâm con có chất độc của tham, sân, si và chất độc này đã có từ xa xưa. Vô thỉ có nghĩa là từ lúc không có bắt đầu, không thể biết được từ lúc nào. Do thân, miệng, ý mà phát sinh, vì thân thể, vì ý, vì miệng của con mà phát sinh ra tất cả. Nay con đều sám hối tất cả, con đã nhận ra được những lỗi lầm đó và quyết tâm không lặp lại, con muốn làm mới tất cả.
Nguyên văn:
Ngã tích sở tạo chư ác nghiệp
Giai do vô thỉ tham, sân, si
Tùng thân, ngữ, ý chi sở sinh
Nhất thiết ngã kim giai sám hối.
Tích là xưa, trong quá khứ, những nghiệp ác, nghiệp xấu, đều do tham, sân, si từ vô thỉ. Tùng thân ngữ ý chi sở sinh nghĩa là từ thân, miệng, ý mà sinh ra. Nhất thiết là tất cả, ngã kim là con bây giờ đây. Bây giờ đây con xin sám hối tất cả.
Hạnh nguyện thứ năm của đức Bồ tát Phổ Hiền là: Tùy hỷ công đức.
Tùy hỷ có nghĩa là vui theo. Thông thường khi chúng ta làm được điều gì hay, gặp may mắn hay thực hiện được một công việc gì đó thì chúng ta rất vui. Nhưng đó là cái vui cho bản thân ta. Bây giờ chúng ta phải tập là hễ ai thực hiện được cái gì, ai thành công được, ai có hạnh phúc được thì ta đều phải vui theo. Đó gọi là tùy hỷ. Đây là một hạnh rất lớn của đức Phổ Hiền mà chúng ta phải học.
Con xin tùy hỷ mọi công đức
Của các chúng sanh trong mười phương
Các bậc hữu học và vô học
Các bậc Như Lai và Bồ tát.
Anh làm được điều đó hay quá, tôi rất mừng. Anh nói được câu nói đó, tôi vui quá. Anh hòa giải được với anh, với chị, với mẹ, tôi mừng quá, tôi thấy hay quá. Anh được thầy thương, tôi mừng cho anh, chứ tôi không ganh tị. Anh được đại chúng kính nể, tôi rất mừng, chứ tôi không ganh. Cái đó gọi là tùy hỷ. Nhất thiết công đức giai tùy hỷ. Tất cả những điều người khác thực hiện được chúng ta phải biết vui theo như chính mình đã thực hiện được điều đó, bởi vì cái thấy của đức Phổ Hiền – cái thấy của Hoa nghiêm – tức là anh là tôi, tôi là anh. Cho nên cái gì anh làm được cho anh tức là anh làm được cho tôi. Cái gì tôi làm cho tôi, tôi cũng làm cho anh. Đó gọi là tương tức, tương nhập. Tùy hỷ là như vậy. Tùy hỷ dựa trên trí tuệ đó, nếu không có trí tuệ đó thì không thực hiện tùy hỷ được. Vì vậy, trí tuệ tương tức, tương nhập làm cho hạnh tùy hỷ công đức trở nên dễ dàng. Anh được Thầy truyền đăng, tôi mừng cho anh chứ tôi không ganh tị vì Thầy truyền đăng cho anh tức là truyền đăng cho tôi.
Con xin tùy hỷ mọi công đức
Của các chúng sanh trong mười phương.
Chúng sanh trong mười phương thì nhiều lắm. Hễ chúng sanh nào làm được điều gì, có được hạnh phúc, thành tựu hoặc may mắn nào đó, ta đều vui. Vui như vậy thì vui cả ngày vì mỗi ngày có biết bao nhiêu chúng sanh, có biết bao nhiêu người thành đạt, biết bao nhiêu người có niềm vui và niềm vui của họ là niềm vui của ta. Làm được như vậy thì lợi lạc vô cùng. Tùy hỷ công đức chính là như vậy. Nếu sanh tâm ganh tị thì ta không còn thời giờ để sống, bởi vì mỗi ngày có biết bao nhiêu chúng sanh thành đạt mà ta cứ ganh hết người này qua người kia. Cho nên, tùy hỷ công đức là một sự thực tập rất thông minh.
Các bậc hữu học và vô học
Các bậc Như Lai và Bồ tát.
Tất cả các chúng sanh làm được gì, có được hạnh phúc nào, con cũng xin vui mừng cho họ. Các bậc hữu học, các bậc vô học, cũng vậy. Chữ hữu học, vô học ở đây có nghĩa rất đặc biệt trong Phật giáo. Hữu học là những người đang còn phải học hỏi, là chúng ta, là những người mỗi ngày đều cần phải học hỏi. Vô học không có nghĩa là uneducated (không giáo dục). Vô học là những người không cần học hỏi nữa, đã chứng đạt rồi. Đó là các vị A la hán, các vị Bụt – giải thoát rồi, không cần phải học hỏi gì nữa cả. Các vị hữu học, vô học; các bậc Như Lai và Bồ tát, những vị đó làm được điều gì hay, có được hạnh phúc nào, con đều tùy hỷ theo cả, vì vậy con có niềm vui suốt ngày vì con lấy niềm vui của người làm niềm vui của con. How wonderful!
Nguyên văn:
Thập phương nhất thiết chư chúng sanh
Nhị thừa hữu học cập vô học
Nhất thiết Như Lai dữ Bồ tát
Sở hữu công đức giai tùy hỷ.
Tất cả chúng sanh trong mười phương. Các bậc hữu học và vô học trong nhị thừa, tức là Thanh văn thừa và Duyên giác thừa. Thanh văn thừa: con đường của những người làm đệ tử trực tiếp của Bụt, được nghe Bụt trực tiếp giảng dạy, tu hành và đắc quả. Thanh tức là âm thanh, pháp thoại; văn là nghe. Thanh văn là lắng nghe tiếng nói Pháp của Bụt mà tu học. Còn Duyên giác là tự một mình tìm ra, tự mình tu học mà đắc đạo. Đó là những người quán chiếu đạo lý nhân duyên rồi tự mình giác ngộ mà không cần phải nghe pháp thoại. Hai con đường trên gọi là nhị thừa. Ngoài hai con đường đó, còn có con đường thứ ba là Bồ tát thừa. Bồ tát là những người vừa tu học cho mình, vừa độ sanh.
Nhị thừa hữu học cập vô học tức là các bậc hữu học và vô học trong hai con đường đầu – đường Thanh văn và đường Duyên giác. Nhất thiết Như Lai dữ Bồ tát, đó là những người theo con đường thứ ba, tức là Bồ tát thừa – tất cả các đức Như Lai và tất cả Bồ tát. Tất cả những người đi trên ba đường đó, nếu họ tạo ra được chút công đức nào thì con đều vui mừng theo hết. Sở hữu công đức giai tùy hỷ, sở hữu công đức tức là tất cả những công đức mà mọi người có được, giai tùy hỷ là con xin tùy hỷ theo hết. Chỉ cần thực tập theo bốn câu này thì cũng đủ hạnh phúc rồi, không cần phải thực tập gì nhiều. Khi ta có thể vui theo tất cả những công đức, thành tựu của Bụt, của Bồ tát, Thanh văn, Duyên giác và của tất cả chúng sanh trong mười phương thì hạnh phúc của ta rất lớn.
Hạnh nguyện thứ sáu là: Thỉnh chuyển pháp luân.
Hồi xưa khi mới thành đạo dưới cội bồ đề, đức Thế Tôn hơi do dự, Ngài thấy rằng giáo pháp mà mình tìm ra sâu sắc và mầu nhiệm quá, không biết nếu đem dạy thì người đời có hiểu và thực tập được không. Chư thiên biết được điều đó nên xuống năn nỉ và xin Ngài hãy đem giáo pháp ra dạy kẻo tội nghiệp chúng sanh. Vì vậy, bất cứ nơi nào có người có yếu tố giác ngộ, có hiểu biết, có thương yêu, và nắm được giáo pháp thì ta phải tìm đến nơi đó để cầu thỉnh người đó chịu khó ra giảng dạy hướng dẫn tu học cho người đời, gọi là thỉnh chuyển pháp luân. Pháp luân là bánh xe pháp. Nguyện thứ sáu là mời những vị Bụt mới thành đạo đừng chần chừ nữa mà hãy chuyển bánh xe pháp. Hạnh nguyện này được đề cập ở bài kệ số 10:
Những ngọn đèn sáng soi thế gian
Hoặc mới thành tựu đạo giải thoát
Con xin tất cả đều thương tưởng
Chuyển bánh xe pháp để độ đời.
Câu đầu dịch từ chữ thế gian đăng. Hình ảnh đó nói về những bậc giác ngộ. Bởi vì thế gian rất đen tối, u ám, giống như một đêm sâu, không có đèn, không có trăng sao. Nếu có một ngọn đèn soi sáng thì con người có cơ hội không đi vào những nẻo đường xấu ác. Cho nên khi có một ngọn đèn trong thế gian, chúng ta phải trân quý vô cùng. Những ngọn đèn trong thế gian đó là những bậc giác ngộ.
Thập phương sở hữu thế gian đăng
Tối sơ thành tựu bồ đề giả
Ngã kim nhất thiết giai khuyến thỉnh
Chuyển ư vô thượng diệu pháp luân.
Thập phương sở hữu thế gian đăng, tức là trong mười phương, nơi nào có một ngọn đèn thế gian. Tối sơ thành tựu bồ đề giả, là những người mới vừa thành tựu đạo bồ đề, mới vừa đạt được giác ngộ hoàn toàn, như là Siddhārtha, ngồi dưới cội bồ đề, một buổi sáng, khi sao mai vừa mọc, Ngài đã thành đạo. Tối sơ là lúc ban đầu, ngay lúc mới thành Bụt. Lúc đó chúng ta phải tới, quỳ xuống năn nỉ, xin chư vị đi vào cuộc đời để chuyển bánh xe pháp, xin đừng nhập Niết bàn mà tội nghiệp cho chúng sanh. Ngã kim nhất thiết giai khuyến thỉnh/ Chuyển ư vô thượng diệu pháp luân. Khuyến thỉnh là mời mọc, cầu xin, thỉnh nguyện. Giờ đây con rất muốn khẩn cầu chư vị đi vào cuộc đời để xoay chuyển bánh xe pháp. Vô thượng (unsurpassable) nghĩa là không có gì quý giá hơn, không có gì cao hơn; diệu pháp luân tức là bánh xe pháp mầu nhiệm.
Hạnh nguyện thứ bảy là: Thỉnh Phật trụ thế
Các Bụt đang thị hiện Niết bàn
Con cũng chí thành cầu như thế
Xin hãy ở lại đời mãi mãi
Để làm lợi lạc cho chúng sanh.
Khi nghe có vị Bụt nào nói: “Tôi dạy lâu rồi, bây giờ tôi đã mệt, thôi để tôi nhập Niết bàn cho khỏe” thì ta phải tìm tới ngay nơi đó năn nỉ, cầu xin: “Bụt ơi, chúng con còn đang ngu dốt, đang khổ đau, đen tối lắm. Xin Bụt nán lại, ở lại thêm vài năm nữa.” Đó gọi là thỉnh Phật trụ thế, tức là năn nỉ Bụt, mời Bụt ở lại.
Nguyên văn:
Chư Phật nhược dục thị Niết bàn
Ngã tất chí thành nhi khuyến thỉnh
Duy nguyện cửu trụ sát trần kiếp
Lợi lạc nhất thiết chư chúng sanh.
Chữ thị ở đây có nghĩa là bày ra và danh từ đầy đủ là thị hiện. Danh từ thị hiện rất mầu nhiệm, có nghĩa là có vẻ làm như vậy nhưng kỳ thực không phải như vậy. Đối với chư Bụt, sinh tử không còn là vấn đề của các Ngài nữa. Các Ngài không còn là nạn nhân của sinh tử nữa bởi vì bản chất thực hữu của chư Bụt là không sinh cũng không diệt. Vì vậy nói rằng Bụt nhập diệt, Bụt nhập Niết bàn cũng chỉ là sự thị hiện, bày ra như vậy chứ không phải là Bụt chết thật, sinh thật. Sinh là thị hiện sinh, diệt là thị hiện diệt. Nhìn vào tướng sinh ta thấy tướng diệt, nhìn vào tướng diệt ta thấy tướng sinh. Cho nên thị hiện là hóa hiện ra như vậy chứ không phải là như vậy. Trong kinh Pháp hoa, có câu chuyện một ông thầy thuốc nọ đi xa nhà, khi trở về thấy những đứa con của mình ăn thức ăn độc hại và bị bệnh. Ông ta bèn làm thuốc cho các con uống. Có vài đứa chịu uống thì được lành bệnh nhưng có một số khác không chịu uống. Chúng nói với nhau rằng: “Ba mình còn đó, ba mình là thầy thuốc giỏi, tại sao lại phải uống liền bây giờ”, rồi chúng cứ tiếp tục ăn những thức ăn độc hại và tiếp tục chịu khổ. Thấy vậy, ông thầy thuốc phải giả bộ, bỏ đi xa và đánh tiếng về nhà là mình đã chết rồi. Nghe vậy, mấy đứa con mới giật mình và nói rằng: “Thôi chết rồi, ba mình chết rồi thì có ai chữa bệnh được cho mình nữa”. Lúc đó chúng mới chịu uống thuốc. Như vậy, cái chết của ông thầy thuốc chỉ là thị hiệnt. Ông giả chết để mấy đứa con chịu uống thuốc. Các đức Bụt cũng vậy, các Ngài có thể ở với ta cả đêm, cả ngày, năm này sang năm khác, nhưng ta thường ỷ lại: “Có Bụt đó, tại sao phải tu cho mệt, chừng nào khổ lắm mới tu”. Cho nên Bụt mới thị hiện Niết bàn để cho ta lo tu, chứ Bụt thì không có sinh, không có diệt. Đó là thị hiện – thị hiện đản sinh, thị hiện thành đạo, thị hiện Niết bàn. Nếu Bụt cứ ở lại mãi để lo dạy dỗ thì các đệ tử có thể ỷ lại, không chịu tu tập. Cho nên, trong một khóa tu ở Anh vào năm ngoái, lúc ấy vào ngày lễ Phục sinh, thầy nói với những người Cơ Đốc: “Chúa Kitô chỉ thị hiện chết mà thôi, thực sự Chúa không chết đâu, quý vị đừng buồn”. Những người Cơ Đốc nghe lạ tai quá, họ thắc mắc: “Tại sao lại nói Chúa Kitô giả đò?” Thầy phải cắt nghĩa hết hơi họ mới hiểu được giả đò là thế nào. Là Chúa thì làm sao có thể chết được, Chúa chỉ giả đò (thị hiện) chết thôi. Có lẽ mười ba người học trò của Ngài không giỏi lắm, không tu hành đàng hoàng, cho nên Ngài mới giả đò chết để họ tu hành đàng hoàng hơn. Chúng ta cũng vậy, nếu Bụt cứ ở mãi bên ta thì ta đâu có chịu tu, nên Bụt mới giả đò thị tịch. Mai mốt thầy cũng vậy, thầy phải giả đò tịch thì lúc đó các sư cô, sư chú mới chịu tu chứ nếu thầy ở bên cạnh hoài thì đâu có quý gì mấy!
Các Bụt đang thị hiện Niết bàn
Con cũng chí thành cầu như thế.
Chúng ta biết Bụt giả đò nên mới tới năn nỉ: “Bụt ơi, chúng con còn ngu dốt lắm, còn yếu lắm, xin Bụt ở lại thêm ba hay bốn năm nữa”. Rồi Bụt nói: “Các con biết không, chỉ còn một năm, hai năm, nếu các con không tu thì các con sẽ không còn cơ hội nữa.” Cho nên việc thỉnh chuyển Pháp luân, thỉnh Phật trụ thế là một pháp môn rất mầu nhiệm. Mời Bụt ở lại, thì dù Bụt có ở lại hay không, điều đó đã có lợi lạc. Mời Bụt ở lại để mọi người thấy rằng sự có mặt của Bụt rất cần thiết, nếu không tận hưởng sự có mặt này thì mai mốt ta sẽ bơ vơ. Cho nên thỉnh Phật trụ thế – mời Bụt ở lại là một hạnh nguyện rất khôn khéo của đức Bồ tát Phổ Hiền.
Xin hãy ở lại đời mãi mãi
Để làm lợi lạc cho chúng sanh.
Con đem hết tâm dạ chí thành mà kính mời, năn nỉ, thỉnh nguyện. Con chỉ mong rằng quý vị ở lâu (cửu trụ), rất nhiều kiếp (sát trần kiếp), nhiều như số bụi trong cõi nước, để làm lợi lạc cho tất cả chúng sanh.
Xin đại chúng đọc lại bản phiên âm chữ Hán và so sánh với bản dịch rồi nghiền ngẫm từng câu kinh cho kỹ lưỡng để từ nay về sau, mỗi khi đọc tới những câu này thì tuệ giác về tương tức tương nhập của kinh Hoa nghiêm được tưới tẩm trong ruộng tâm của ta. Như vậy tụng kinh mới đem lại lợi ích.
Bây giờ chúng ta học nguyện thứ tám, đó là ước ao được theo Bụt để học: Thường tùy Phật học
Thường tùy Phật học có nghĩa là luôn luôn theo sát bên Bụt để được học hỏi. Có cơ hội nào được gần gũi các vị Bụt thì ta đều phải tận dụng những cơ hội đó để học hỏi. Tùy tức là đi theo.
Trong kinh văn chúng ta đang có, hai ý thường tùy Phật học và hằng thuận chúng sanh không rõ lắm vì khi tác giả sách Thiền môn nhật tụng trích dẫn kinh này thì trích dẫn không đủ. Chúng ta sẽ đọc thêm vài câu không có trong bản dịch để thấy rõ được hai ý này.
Đây là kinh Hoa nghiêm do thầy Bát Nhã dịch. Kinh Hoa nghiêm có nhiều bản dịch khác nhau. Bản mà chúng ta đang học là Nhập bất tư nghì Pháp giới Phổ Hiền hạnh nguyện phẩm (nghĩa là: Phẩm Phổ Hiền hạnh nguyện – Đi vào Pháp giới không thể suy nghĩ và bàn luận) trong kinh Hoa nghiêm. Đó là kinh T. 293 trong Tạng kinh Đại Chánh.
Bài kệ trong văn bản của chúng ta là:
Con xin tán lễ cúng dường Bụt
Thỉnh Bụt ở lại độ chúng sanh
Căn lành tùy hỷ và sám hối
Xin đem hồi hướng cho đạo Bụt.
Nguyên bản của câu Con xin tán lễ cúng dường Bụt là Sở hữu lễ tán cúng dường Phật. Có nhiều bản chép khác nhau. Có bản chép chữ phước chứ không phải chữ Phật: Sở hữu lễ tán cúng dường phước, nghĩa là nếu có phúc đức nào do những công đức của sự kính lễ, tán thán và cúng dường thì con xin dùng công đức đó để thỉnh Bụt ở lại độ chúng sanh. Hình như chữ phước hay và đúng hơn. Có những bản chú giải đời nhà Minh thì nói đây là chữ Phật chứ không phải phước. Thỉnh Bụt ở lại độ chúng sanh, đó là thỉnh Phật trụ thế.
Sở hữu lễ tán cúng dường Phật
Thỉnh Phật trụ thế chuyển pháp luân
Tùy hỷ sám hối chư thiện căn
Hồi hướng chúng sanh cập Phật đạo.
Trong khi đó, thường tùy Phật học là luôn luôn đi theo Bụt để học, thì trong bản kinh này không có. Vì vậy nhân cơ hội này, chúng ta nên trích thêm vài đoạn trong kinh văn khác cho rõ ý thường tùy Phật học:
Ngã tùy nhất thiết Như Lai học
Tu tập Phổ Hiền viên mãn hạnh
Cúng dường quá khứ chư Như Lai
Cập dữ hiện tại thập phương Phật.
Ngã tùy nhất thiết Như Lai học có nghĩa là con xin theo tất cả các đức Như Lai để học hỏi thêm.
Tu tập Phổ Hiền viên mãn hạnh: là tu tập theo hạnh viên mãn của đức Bồ tát Phổ Hiền.
Cúng dường quá khứ chư Như Lai. Cập dữ hiện tại thập phương Phật: Con nguyện theo học và cúng dường tất cả các đức Như Lai trong quá khứ và hiện tại ở khắp mười phương. Lẽ tất nhiên khi chúng ta theo các đức Bụt là theo các Bụt trong hiện tại để học hỏi và chúng ta có thể cúng dường được. Tuy nhiên đoạn này hay ở chỗ là chúng ta cũng có thể cúng dường được luôn cả chư Bụt trong quá khứ. Giống như trường hợp chúng ta có một người thương đã qua đời rồi, chúng ta thương tiếc và ân hận không còn cơ hội để làm cho người đó hạnh phúc, không còn cơ hội cho chúng ta tỏ lộ sự thương yêu, chăm sóc. Tuy nhiên khi đã hiểu được giáo lý này rồi thì chúng ta sẽ thoát khỏi sự buồn khổ đó, rằng mình vẫn có thể làm cho người đó hạnh phúc được, mình vẫn có thể tỏ lộ sự thương yêu được, bởi vì quá khứ vẫn còn nằm trong hiện tại. Nếu chúng ta tiếp xúc với hiện tại cho sâu sắc thì cũng có thể tiếp xúc được với quá khứ và như vậy có thể biểu lộ được sự thương yêu và chăm sóc của chúng ta đối với người đã qua đời. Sự thật, không có gì đã qua và không có gì đã mất; không có gì đã qua, không có gì cần hồi phục là như vậy. Cho nên, cúng dường chư Bụt trong hiện tại là việc chúng ta làm được, mà cúng dường chư Bụt trong quá khứ chúng ta cũng làm được. Tức là một thời chứa đựng ba thời gian: hiện tại chứa đựng quá khứ và tương lai.
Chúng ta đọc tiếp:
Vị lai nhất thiết thiên nhân sư
Nhất thiết ý nhạo giai viên mãn
Ngã nguyện phổ tùy tam thế học
Tốc đắc thành tựu đại bồ đề.
Vị lai nhất thiết thiên nhân sư tức là tất cả những bậc thầy của loài người và loài trời trong tương lai. Nhất thiết ý nhạo giai viên mãn, ý nhạo là những ước ao, nguyện vọng. Tất cả những nguyện vọng đó đều được thực hiện một cách viên mãn. Ngã nguyện phổ tùy tam thế học nghĩa là con nguyện đi theo khắp nơi cùng các vị ấy trong ba đời, quá khứ, hiện tại và vị lai. Tốc đắc thành tựu đại bồ đề là có thể thành tựu sự giác ngộ lớn một cách rất mau chóng.
Chúng ta có thể thêm tám câu này vào cho rõ ý thường tùy Phật học.
Hạnh nguyện thứ chín là: hằng thuận chúng sanh, nghĩa là luôn luôn chìu chuộng và thỏa mãn những nhu yếu của chúng sanh để có thể giúp đỡ các chúng sanh đi lên quả vị giác ngộ. Chúng ta hãy đọc vài câu trong nguyên văn:
Sở hữu nhất thiết chúng sanh ngữ
Tất dĩ chư âm nhi thuyết pháp
Khuyến tu thanh tịnh Ba la mật
Hằng bất vong thất Bồ đề tâm.
Sở hữu nhất thiết chúng sanh ngữ nghĩa là có bao nhiêu ngôn ngữ mà chúng sanh sử dụng thì con đều học hỏi để có thể sử dụng những ngôn ngữ đó thuyết pháp cho chúng sanh. Nếu chúng sanh nói tiếng Hà Lan, ta phải học tiếng Hà Lan, nếu chúng sanh nói tiếng Pháp, ta sẽ học tiếng Pháp. Có bao nhiêu ngôn ngữ của chúng sanh, ta đều phải học để thuyết pháp cho họ. Nếu chúng sanh nói tiếng chim, ta phải học tiếng chim. Nếu chúng sanh nói tiếng cá, ta phải học tiếng cá. Đó là hạnh nguyện của đức Phổ Hiền, để khuyến tu thanh tịnh Ba la mật. Hằng bất vong thất Bồ đề tâm: khuyến khích các chúng sanh tu tập theo hạnh Ba la mật thanh tịnh và để cho Bồ đề tâm của họ không bao giờ bị hao mòn. Đây là bốn câu khá hay.
Diệt trừ chướng cấu vô hữu dư
Nhất thiết diệu hành giai thành tựu
Ư chư ác nghiệp cập ma cánh
Thế gian đạo trung đắc giải thoát.
Diệt trừ chướng cấu vô hữu dư. Nhất thiết diệu hành giai thành tựu nghĩa là diệt trừ hết những chướng ngại, những cấu uế và ô nhiễm, không còn sót lại một thứ gì và thành tựu được tất cả các hạnh nguyện mầu nhiệm và vĩ đại. Ư chư ác nghiệp cập ma cánh. Thế gian đạo trung đắc giải thoát tức là đối với những ác nghiệp và những cảnh giới của ma thì các chúng sanh đó đều thoát khỏi. Và trong nẻo đường của nhân gian, các chúng sanh đó đều vượt thoát được.
Chúng ta học tiếp:
Như thị kinh ư sát trần kiếp
Thập phương lợi ích hằng vô tận
Ngã thường tùy thuận chư chúng sanh
Tận ư vị lai nhất thiết kiếp.
Như thị kinh ư sát trần kiếp. Thập phương lợi ích hằng vô tận: như vậy trải qua các kiếp nhiều như số bụi trong một cõi nước, con sẽ làm lợi ích liên tục cho tất cả chúng sanh. Ngã thường tùy thuận chư chúng sanh: con sẽ thường xuyên tùy thuận chúng sanh. Tận ư vị lai nhất thiết kiếp: cho đến muôn kiếp về sau này. Như vậy, chúng ta thấy ý hằng thuận chúng sanh trong nguyên bản rất rõ ràng. Nếu có dịp chúng ta sẽ dịch lại và bổ túc vào kinh này.
Chúng ta trở lại bài kệ số 12 trong sách Nhật tụng Thiền môn. Hai câu chót của bài kệ:
Căn lành tùy hỷ và sám hối
Xin đem hồi hướng cho đạo Bụt.
Tùy hỷ sám hối chư thiện căn
Hồi hướng chúng sanh cập Phật đạo.
Tùy hỷ sám hối chư thiện căn nghĩa là với những căn lành được lớn lên do công đức tùy hỷ và sám hối, con xin đem ra hồi hướng cho tất cả chúng sanh và cho đạo Bụt. Hai câu này nói về hạnh nguyện phổ giai hồi hướng. Hồi hướng có nghĩa là sử dụng những năng lượng và công đức đang có, gom góp lại để hướng về một mục tiêu rõ rệt nào đó. Tiếng Anh có thể dịch hồi hướng công đức là to transfer the merit. Ta đã làm được những điều lành gì, thực hiện được những công việc gì thì ta hồi hướng tất cả cho một mục đích nào đó. Ví dụ như cha mẹ đã làm ruộng, làm vườn, buôn bán, rồi xây nhà cửa, sắm trâu bò và rồi đều để lại tất cả cho con thì gọi là hồi hướng cho con. Tất cả những gì ta thực hiện được – những công đức, những gia sản – ta đem tặng cho một người nào đó, như vậy cũng gọi là hồi hướng.
Ở đây cũng vậy, tất cả những công phu tu tập, những công đức tạo ra do kính lễ chư Bụt, xưng tán Như Lai, cúng dường, sám hối, tùy hỷ,… chế tác cho ta rất nhiều thiện căn (những gốc rễ tốt đẹp trong con người ta). Trong Truyện Kiều, cụ Nguyễn Du cũng dùng từ thiện căn. Thiện căn ở tại lòng ta. Nếu chúng ta đã có thiện căn và chúng ta cứ tiếp tục vun tưới thì thiện căn đó sẽ làm ra hoa trái của hạnh phúc, của giác ngộ. Những thiện căn do công đức tùy hỷ, sám hối của ta làm ra, ta không giữ riêng cho bản thân mà đem hồi hướng cho tất cả chúng sanh và cho đạo Bụt. Bởi vì ta biết chúng sanh là ta, là sự tiếp nối của ta và đạo Bụt là ánh đuốc soi sáng cho chúng sanh. Cho nên đó là đối tượng thương yêu của ta và tất cả những gì ta làm ra đều hồi hướng theo hai hướng đó: thứ nhất là chúng sanh, thứ hai là đạo Bụt. Đạo Bụt cũng là vì chúng sanh, để giúp cho chúng sanh bớt khổ và thấy được đường đi.
Bài kệ số 13:
Con xin đem hết công đức này
Hồi hướng tất cả cho Tam bảo
Cả tánh và tướng trong pháp giới
Hai đế dung thông ấn tam muội.
Phật Pháp ở đây được diễn tả bằng Tam bảo, tức là Bụt, Pháp và Tăng. Và Tam bảo thì có tánh và có tướng. Tánh là đứng về phương diện bản chất, tướng là đứng về phương diện hình tướng. Về phương diện hình tướng, ta thấy có Bụt riêng, Pháp riêng và Tăng riêng, gọi là Tam bảo biệt tướng (The three Jewels in the separated forms). Đứng về phương diện bản chất (thể tánh) thì Bụt, Pháp và Tăng là một, gọi là Tam bảo đồng thể; trong Bụt có Pháp và Tăng, trong Pháp có Bụt và Tăng và trong Tăng có Bụt và Pháp. Tư tưởng này cũng có trong Cơ Đốc giáo, gọi là chúa ba ngôi: chúa cha, chúa con và chúa thánh thần. Tuy gọi là ba, nhưng kỳ thật là một, gọi là Tam thể nhất vị. Như vậy, Tam bảo được biểu lộ, được nhận thức hoặc về khía cạnh tướng, hoặc về khía cạnh tánh. Giống như khi quán sát trong pháp giới, chúng ta thấy sự có mặt của Tam bảo, hoặc là đồng thể Tam bảo, hoặc là biệt tướng Tam bảo.
Hai đế dung thông ấn tam muội: ấn tiếng Phạn là mudra, ấn tam muội là cái ấn đưa ta vào định. Khi chúng ta sống trong chánh niệm thì tự khắc chúng ta có định và trong khi đi, đứng, nằm, ngồi thì định đều có mặt, lúc đó con người ta là một dấu ấn; những gì ta làm, ta nói hay ta nghĩ đều để lại một dấu ấn. Đó là định lực, là ấn tam muội.
Hai đế là hai loại sự thật. Thứ nhất là sự thật tương đối, gọi là tục đế (thế tục đế) và thứ hai là sự thật tuyệt đối gọi là chân đế (đệ nhất nghĩa đế). Hai sự thật này nhìn trên hình thức thì khác nhau nhưng kỳ thực là sự thật này tiếp nối sự thật kia. Về hình thức thì dường như sự thật tục đế ngược lại với sự thật chân đế nhưng nhìn kỹ ta thấy tục đế từ từ đưa tới chân đế, nên gọi là hai đế dung thông. Ví dụ có khi Bụt nói rằng có sinh và có diệt, đó là một sự thật – hễ có sinh thì có diệt – nhưng có những lúc Bụt lại nói không sinh cũng không diệt. Đứng về phương diện hình thức thì hai sự thật đó chống nhau. Tuy nhiên, nhìn cho kỹ và thấy được tính dung thông của hai đế thì ta thấy hai chân lý đó không chống trái nhau. Cũng như khi ta nói đây là quả địa cầu và chúng ta leo lên máy bay để bay từ Paris tới New York. Đứng về phương diện tục đế, leo lên máy bay, bay từ A đến B thì càng bay ta càng đi xa A, và có cảm tưởng là nếu máy bay quay trở lui thì mới càng ngày càng gần A, nhưng nếu ta cứ tiếp tục bay thì sẽ trở lại A. Do đó, tuy gọi là bay xa A nhưng kỳ thực là đang bay trở lại A. Đó là một sự thật khác, có phải không? Đó là vì trái đất tròn nên càng bay thì ta càng tới gần A hơn.
Trong tác phẩm Le petit prince – Hoàng tử bé của Saint Exupéry, ông ta có nói một câu rằng Đi thẳng trước mặt thì đâu có đi xa mấy được (Droit devant soi, on ne peut pas aller bien loin). Đó là một câu nói thuộc về chân đế, nếu nhìn theo phía tục đế thì không hiểu được. Nhưng nếu nhìn một cách sâu sắc vào tục đế thì ta sẽ thấy được chân đế, là Hai đế dung thông ấn tam muội. Khi ta có dấu ấn của tam muội thì ta có cái nhìn sâu sắc, và khi nhìn sâu sắc thì ta thấy có sự liên tục giữa chân đế và tục đế, hai sự thật đó không chống trái nhau.
Nguyên văn:
Nguyện tương dĩ thử thắng công đức
Hồi hướng vô thượng chơn Pháp giới
Tánh tướng Phật, Pháp cập Tăng già
Nhị đế dung thông tam muội ấn.
Bài kệ số 14 và 15:
Biển công đức vô lượng như thế
Con xin hồi hướng không giữ lại.
Mọi thứ trong kinh Hoa nghiêm đều được diễn tả bằng số lượng rất nhiều, cho nên công đức cũng nhiều và chúng ta phải gọi công đức là biển công đức. Công đức nhiều như thế và con không giữ lại, con xin hiến tặng, hồi hướng tất cả.
Nếu có chúng sanh nào dại dột
Bằng thân, bằng ý hoặc bằng lời
Bài báng phá hoại đạo giải thoát
Xin cho nghiệp chướng được tiêu trừ
Như thị vô lượng công đức hải
Ngã kim giai tất tận hồi hướng
Sở hữu chúng sanh thân, khẩu, ý
Kiến hoặc đàn báng ngã Pháp đẳng
Như thị nhất thiết chư nghiệp chướng
Tất giai tiêu diệt tận vô dư.
Kiến hoặc đàn báng ngã Pháp đẳng: có thể hiểu chữ kiến là cái nhìn sai lạc, gọi là tà kiến (wrong view); chữ hoặc này có thể hiểu là phiền não (affliction, kleśa) – những giận hờn, buồn phiền, kỳ thị, ganh ghét; đàn là nói xấu, chê trách, đàn áp; báng có nghĩa là lên án, chê bai, chỉ trích; ngã pháp tức là giáo pháp của ta, có thể hiểu là đạo Bụt (có người nói ngã pháp ở đây là ngã chấp và pháp chấp nhưng hiểu như vậy thì quá xa…). Đẳng có nghĩa là vân vân.
Như thị nhất thiết chư nghiệp chướng: những nghiệp chướng như thế.
Tất giai tiêu diệt tận vô dư: tất cả những điều đó đều tiêu diệt hết, không còn sót lại một chút gì; tận nghĩa là hết, vô dư là không còn sót lại.
Nếu có những chúng sanh vì tà kiến, vì phiền não mà sử dụng thân, khẩu, ý chê trách, đàn áp, nói xấu giáo pháp của Bụt thì xin cho những tội lỗi đó, hành động đó đều được tiêu trừ hết.
Mỗi giây, trí tuệ trùm pháp giới
Độ khắp mọi loài lên bất thối.
Niệm niệm trí châu ư pháp giới
Quảng độ chúng sanh giai bất thối.
Niệm là mỗi giây, mỗi khắc, mỗi tích tắc, mỗi sát na; niệm niệm là tích tắc này đến tích tắc kia, sát na này đến sát na kia. Niệm này không có nghĩa là nhớ nghĩ như trong từ chánh niệm. Trong mỗi khoảnh khắc như vậy, trí tuệ của con bao trùm được cả pháp giới. Đọc kỹ câu này ta sẽ thấy thời gian bao trùm lên không gian, vì niệm niệm là khoảnh khắc còn pháp giới là không gian vô tận. Trong kinh Hoa nghiêm, thời gian và không gian kết hợp thành một. Do đó một hạt bụi chứa đựng cả vũ trụ, tức là cái nhỏ bé nhất bao trùm cái to lớn nhất. Về phương diện không gian, một hạt bụi chứa đựng tất cả các hạt bụi; còn về phương diện thời gian thì một khoảnh khắc bao trùm tất cả mọi khoảnh khắc. Vì vậy, đọc kinh phải đọc cho cẩn thận mới được.
Nói đến thời gian và không gian. Đứng về không gian thì cái nhỏ nhất ôm lấy cái lớn nhất (một hạt bụi chứa toàn pháp giới). Chúng ta đã hiểu điều này, cái một chứa đựng cái tất cả. Một ví dụ khác là mặt trời, mặt trăng nhét vào một hạt cải; hay là cả trời, cả đất đặt lên đầu một sợi lông. Ngoài ra, chúng ta có thêm một ví dụ mới về sinh vật học, đó là một tế bào của cơ thể ta chứa đựng toàn bộ cơ thể, không những vậy mà nó còn chứa đựng tất cả trí tuệ và ước vọng của cả thế hệ tổ tiên ta. Tại vì những nhiễm sắc thể (gene) của ông bà cha mẹ hay của con cháu sau này đều có mặt trong mỗi tế bào cơ thể. Khoa học ngày nay có thể lấy một tế bào cơ thể ta rồi làm thành một bản sao (copy) thân thể của ta, giống hệt như vậy. Cho nên, đứng về phương diện không gian thì một hạt bụi chứa toàn pháp giới. Trong khi đó, đứng về phương diện thời gian thì một khoảnh khắc chứa được thiên thu. Như vậy, một khoảnh khắc chứa đựng được cả tam thế là quá khứ, hiện tại và vị lai. Đây là nói về thời gian riêng và không gian riêng. Tuy nhiên, trong kinh Hoa nghiêm thì thời gian và không gian tương tức, do đó một hạt bụi cố nhiên là chứa đựng pháp giới và chứa luôn cả thời gian. Thời gian chứa không gian và không gian chứa thời gian.
Hiện nay, theo thuyết tương đối của nhà bác học Einstein thì thời gian và không gian là hai mặt của một thực thể, không thể tách rời ra được. Do đó, nói rằng mỗi giây trí tuệ trùm pháp giới tức là mỗi khoảnh khắc không những chứa đựng thiên thu mà còn chứa đựng luôn cả pháp giới. Đọc câu kinh này ta phải rất chú ý mới thấy được. Như vậy, nếu một khoảnh khắc chứa đựng được toàn pháp giới thì mỗi hạt bụi cũng chứa đựng thời gian vô cùng vô tận. Giống như một tế bào cơ thể ta chứa đựng được cả thời gian, tức là tất cả thế hệ tổ tiên và thế hệ tương lai. Chỉ khi nào có một nhận thức như vậy thì chúng ta mới tiếp xúc được với pháp giới mầu nhiệm, cho nên câu Mỗi giây trí tuệ trùm pháp giới có nghĩa là như vậy.
Quảng độ chúng sanh giai bất thối. Quảng độ chúng sanh là độ hết tất cả mọi loài chúng sanh một cách rộng rãi. Giai bất thối là đều đạt tới trình độ không đi lui nữa.
Bài kệ chót:
Hư không, chúng sanh không cùng tận
Phiền não, nghiệp báo không cùng tận
Bốn thứ kể trên thật vô biên
Hồi hướng của con cũng như thế.
Có bốn thứ không thể đo lường được: hư không, chúng sanh, phiền não và nghiệp chướng. Ai đếm được có bao nhiêu loài chúng sanh? Chỉ nội vi trùng thôi, chúng ta cũng không làm sao biết được số lượng. Phiền não và nghiệp chướng cũng vậy. Phiền não của ta còn chưa đếm được, huống hồ là phiền não của người khác. Cho nên chúng ta thường nghe tụng: Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ. Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn.
Nếu đem so sánh với bốn thứ không đo lường được như thế thì hạnh nguyện hồi hướng của con cũng như vậy. Con luôn luôn truyền đi năng lượng, công đức của con cho tất cả mọi loài chúng sanh, không bao giờ dừng lại, không bao giờ tiếc nuối bất cứ cái gì. Bởi vì hạnh nguyện hồi hướng của con là vô lượng, giống như bốn thứ vô lượng kia.
Nguyên văn:
Nãi chí hư không thế giới tận
Chúng sanh cập nghiệp phiền não tận
Như thị tứ pháp quảng vô biên
Nguyện kim hồi hướng diệc như thị.
Chữ nãi chí có nghĩa là cho tới khi. Cho tới khi hư không tận diệt, chúng sanh, nghiệp báo và phiền não tận diệt thì nguyện của con cũng vẫn còn. Bốn pháp kia vô biên như vậy và hồi hướng của con cũng vô biên như vậy, bốn pháp đó không bao giờ hết, nên hồi hướng của con cũng không bao giờ hết.
Ba nguyện sau – nguyện thứ tám, chín, mười – bàng bạc trong những câu chót của đoạn kinh này nhưng không được rõ rệt lắm. Trong buổi pháp thoại kỳ tới, chúng ta sẽ trích thêm một số câu trong nguyên bản để làm cho đoạn kinh văn này đầy đủ hơn và nói được rõ ràng hơn mười nguyện của đức Bồ tát Phổ Hiền.
Đến đây chúng ta đã tạm học xong kinh Mười nguyện Phổ Hiền. Sau này khi in lại sách Nhật tụng Thiền môn năm 2000, có thể năm 2002, chúng ta sẽ thêm khoảng tám câu nữa cho bài văn này đầy đủ hơn.