Pháp thoại ngày 25 tháng 02 năm 1998.
Khoá tu an cư kiết Đông 1997-1998: “Công Phu Nở Đoá Sen Ngàn Cánh” tại Làng Mai.
Bài 27 >>
Adds the featured image on the top left.
Pháp thoại ngày 25 tháng 02 năm 1998.
Khoá tu an cư kiết Đông 1997-1998: “Công Phu Nở Đoá Sen Ngàn Cánh” tại Làng Mai.
Bài 27 >>
Pháp thoại ngày 04 tháng 06 năm 2008
Thiền đường Cánh Đại Bàng-Tu viện Bát Nhã, BảoLộc, Lâm Đồng, Việt Nam.
Pháp thoại ngày 01 tháng 06 năm 2008
Thiền đường Cánh Đại Bàng-Tu viện Bát Nhã, BảoLộc, Lâm Đồng, Việt Nam.
2008-06-01-kinh quán niệm hơi thở – Tùy niệm – phật thân from vimeo.com/thuvienlangmai
Bài tiếp theo >>
Pháp thoại ngày 31 tháng 05 năm 2008
Thiền đường Cánh Đại Bàng-Tu viện Bát Nhã, BảoLộc, Lâm Đồng, Việt Nam.
2008-05-31: Kinh quán niệm hơi thở from vimeo.com/thuvienlangmai
Bài tiếp theo >>
Tôi thường học hỏi được rất nhiều từ những học trò của tôi. Với tôi, học trò cũng là thầy. Sư cô Chân Không là một trong những người ưu tú nhất trong số những học trò như vậy. Để tôi kể cho quí vị nghe một trong những bài học quan trọng mà tôi đã học được từ sư cô. Đó là vào năm 1966. Cuộc chiến tại Việt Nam đang càng ngày càng khốc liệt. Tôi mải miết nghĩ cách để vận động nhiều vị tôn đức trong Giáo Hội chịu cùng đứng ra kêu gọi chấm dứt chiến tranh, và nhiều khi không thể nuốt trôi miếng cơm nào mỗi khi nghe tin một trận chiến khốc liệt vừa xảy ra. Bữa đó, tại chùa Pháp Vân ở Phú Thọ Hòa, sư cô Chân Không, đang chuẩn bị một dĩa rau thơm cho món phở, sư cô quay qua hỏi tôi: “Bạch Thầy, Thầy có thể cho con biết những loại rau thơm này ở miền Bắc gọi là gì không?” Nhìn sư cô đang cẩn trọng đặt những nhánh rau vào chiếc dĩa lớn với tất cả sự chú tâm, tôi bỗng bừng tỉnh. Sư cô có khả năng duy trì sự chú tâm vào những cọng rau thơm. Và tôi nhận ra rằng tôi cũng nên học để tâm tới những nhánh rau, chứ không phải chỉ nghĩ về chiến tranh mà thôi. Thầy trò chúng tôi trao đổi với nhau mười phút về những loại rau thơm ở miền Nam, Trung và Bắc. Tâm trí tôi thoát khỏi những suy nghĩ về cuộc chiến trong khoảng thời gian đó đủ giúp tôi lấy lại được sự cân bằng mà tôi đang rất cần. Năm 1968, khi sống ở miền Nam nước Pháp, tôi đã phát hiện ra những loại rau thơm của vùng Provence với tất cả sự chú tâm và thích thú.
Nhiều năm sau, một người bạn Hoa Kỳ hỏi tôi: “Thưa Thầy, Thầy trồng rau xà lách làm gì cho mất thời gian. Thầy dành thời gian đó để làm thơ có hơn không? Ai mà không trồng được rau xà lách, nhưng ít ai có thể sáng tác những bài thơ sâu sắc như thơ của Thầy.” Tôi mỉm cười đáp: “Bạn ơi, nếu tôi không trồng những cây xà lách thật chánh niệm như vậy thì tôi không làm ra những bài thơ như vậy được.” Tôi đã không tiết lộ rằng câu trả lời của tôi có xuất xứ từ bài học với sư cô Chân Không mười hai năm trước. Cho đến hôm nay, tôi vẫn tiếp tục học từ sư cô. Một vị thầy luôn nên có khả năng làm học trò và một đệ tử cũng luôn phải cùng lúc làm thầy. Nhớ được điều này, cả thầy và trò sẽ cùng lợi lạc.
Điều khiến tôi khâm phục nhất ở sư cô là khả năng sống an lạc và hạnh phúc. Niềm tin vững chắc của sư cô đối với giáo pháp ngày càng được củng cố khi sự tu tập không ngừng mang lại cho sư cô hoa trái của chuyển hóa, chữa trị và niềm vui. Sự vững chãi, an lạc và hạnh phúc của sư cô là nguồn động viên nhiệm màu cho rất nhiều các bạn ở Làng Mai cũng như trong đại gia đình tăng thân. Nguồn vui của sư cô là làm việc giúp người và giúp chuyển hóa xã hội. Nằm sâu bên trong những công tác của sư cô là một tình thương lớn và sự quan tâm sâu sắc. Chân Không cũng có nghĩa là tình thương đích thực. Câu chuyện cuộc đời sư cô vượt xa những gì ngôn từ có thể diễn tả, đó là cả một bài Pháp sống.
Thật tiếc là cuốn sách này còn quá ngắn, không chuyển tải hết sự sâu sắc và sống động những gì sư cô đã đi qua. Sư cô còn rất nhiều chuyệnđể kể cho chúng ta, có thể dài gấp 10 lần cuốn sách này. Nhưng sư cô là một nhà hoạt động xã hội hơn là một nhà văn, và hiện tại chúng ta phải bằng lòng với tác phẩm này thôi. Nếu có cơ hội tiếp xúc với sư cô, quí vị đừng quên xin sư cô chia sẻ cho nghe những kinh nghiệm của sư cô. Quí vị sẽ học hỏi được rất nhiều. Sư cô đích thực là một vị bồ tát.
Thích Nhất Hạnh
Làng Mai, Pháp Quốc
Tháng Năm, 1993
Tháng 12 năm 1976, khi đang dự Đại Hội Tôn Giáo Thế Giới về Hòa Bình (World Conference on Religion and Peace – WCRP) ở Singapore với 300 nhà lãnh đạo tôn giáo, Thầy được một số phụ nữ Việt Nam đến xin gặp và báo tin hiện đang có hàng ngàn và có thể hàng chục ngàn người Việt bị nhốt ở những trại tị nạn ở Thái Lan và Mã Lai, không hy vọng gì được chấp nhận đi định cư ở bất cứ nước nào. Ở Singapore thì có rất ít người tị nạn vì chính sách của chính phủ này là đẩy tất cả thuyền nhân ra biển trở lại, không cho tị nạn dù là ở tạm, dù là thuyền hư, kể cả nếu thuyền nhân có chết họ cũng không cần biết. Nếu một thuyền đánh cá nào lỡ vớt một thuyền nhân thì người chủ tàu phải đóng thế chân 10.000 dollars Singapore hay 4.000 mỹ kim cho mỗi thuyền nhân mà họ vớt, và chỉ được hoàn lại tiền khi nào người thuyền nhân đó bị đẩy ra biển lại. Các chị mời Thầy chịu khó đi thăm 9 thuyền nhân vừa được tàu đánh cá Singapore vớt và sắp bị đẩy ra biển. Các chị người Việt lấy chồng Mỹ định cư tại Singapore thường tìm cách cứu người tị nạn bằng cách cho mỗi người đánh cá 100 đô khi họ báo tin vớt được một thuyền. Họ lặng lẽ báo tin cho các chị, chờ đến giữa khuya các chị đem những thuyền nhân vừa được vớt, âm thầm giúp họ lọt vào bên trong khuôn viên Sứ Quán Pháp, dĩ nhiên là có một nhân viên trong sứ quán lặng lẽ đồng lõa. Ngày hôm sau Đại Sứ nước này có bổn phận báo cho chính quyền Singapore rằng họ đang có năm người hay bảy người đang xin tị nạn ở lãnh thổ Pháp và như thế Pháp chịu trách nhiệm cho việc định cư của những người này vào nước Pháp. Cảnh sát Singapore sẽ đến bắt và nhốt những người này cho tới khi họ có giấy tờ đi Pháp. Tuy bị bỏ tù trong khi chờ đợi nhưng như thế là số mạng họ an toàn. Trong khi đó còn rất đông thuyền nhân, không được ai giúp lọt được vào Sứ Quán nào nên cũng bị Cảnh Sát Singapore bắt giữ nhưng không biết số mạng họ ra sao. Có thể bị thủ tiêu hay thảy ra biển.
Cứu người bằng bài thơ đánh thức lòng từ bi của mọi người
Các chị đã chở Thầy tới thăm chín người thuyền nhân vừa được vớt mà không biết số phận sẽ ra sao vì chưa đem được tới Sứ Quán nào. Thầy quá cảm động, tối hôm đó đã viết một bài thơ ngắn tả về số phận của 9 người này và đi gặp ngay giáo sư Yoshiaki Iisaka, người chịu trách nhiệm chương trình hội nghị ngày thứ ba của Đại Hội. Thầy Nhất Hạnh báo cho ông biết tin về thảm trạng của thuyền nhân và xin giáo sư thêm vào chương trình ngày thứ ba của hội nghị Hội Đồng Tôn Giáo Thế Giới Á Châu một mục mới là chương trình Cứu Thuyền Nhân (Rescue Boat People) do thiền sư Nhất Hạnh Phó Chủ Tịch Hội Đồng Tôn Giáo Thế Giới đưa ra. Giáo sư đồng ý, nên bài thơ mới có tựa đề là: Anh sẽ không ngủ được đêm nay Yoshiaki Iisaka. Bài thơ đã thức tỉnh cả hội nghị 300 người lãnh đạo tôn giáo và các ký giả có mặt hôm ấy khiến cho Thông Tấn Pháp (Agence France Presse) và thông tấn UPI (United Press International) đã gửi điện thư đăng trọn vẹn bài thơ của Thầy.
Bạn sẽ thức suốt đêm nay, bạn tôi ơi. Điều này tôi biết rõ, vì giờ này bao nhiêu thuyền nhân không làm sao đi ngủ được giữa nước trời mênh mông
Tôi nghe tiếng kêu thương của họ qua tiếng gió hú từng cơn, quanh tôi tất cả đều dày đặc một màu đen
Mới hôm qua đây, họ đành phải đặt xác chết con thơ và người thương vào lòng biển cả
Nước mắt của họ thêm một lần, làm đầy thêm đại dương đau thương
Thuyền các em tôi đang trôi lạc về đâu trong giây phút này đây?
Bạn không ngủ được đêm nay
Bởi vì có biết bao nhiêu thuyền nhân trong giờ phút này đây, đang lạc loài trên biển rộng, cô đơn đang tự hỏi không biết rằng loài người còn có mặt hay không? Bởi vì niềm cô đơn của họ quả thật mênh mông
Bóng tối và đại dương thành một
và đại dương, một sa mạc mênh mông
Bạn sẽ thức suốt đêm nay Yoshiaki Iisaka, vì loài người trong toàn cầu đang nương vào khả năng thức tỉnh của bạn.
Nhờ thế, ngày hôm sau những tờ nhật báo lớn của Tân Gia Ba và của nhiều nước cũng đăng nguyên bài thơ trên. Tuy nhiên báo nào cũng nghĩ tác giả là giáo sư Yoshiaki Iisaka! Vì bài thơ được đề “Anh sẽ không ngủ được đêm nay Yoshiaki Iisaka”.
To Yoshiaki Isaka
You stay up late tonight my brother– this I know
because these boat people on the high sea,
never dare to go to sleep
I hear the cry of the wind
around me
total darkness
Yesterday they threw the dead bodies
of their babies and children in the water.
Their tears once again fill up the ocean of suffering.
In what direction are their boats drifting at this moment?
You stay up very late tonight, brother
because these boat people on the high seas
are not certain at all that Mankind exists
because their loniness
is just immense
The darkness has become one with the ocean
and the ocean, an immense desert
You stay up all night, brother,
and the whole universe
clings to your being awake.
Sáng hôm đó, trong Đại Hội, sau khi nghe thầy Nhất Hạnh trình bày thảm kịch của chín thuyền nhân ngồi trên một chiếc thuyền bé, máy đã hỏng, sắp chết chìm mà vẫn không có quyền cập bến bất cứ nước nào, chưa biết phải trôi dạt về đâu và kết thúc bằng bài thơ xé lòng, cả hội trường như rúng động trước những tin tức rất khó tin về cách hành xử không có tình người của các nước Singapore, Mã Lai, Thái Lan, Hồng Kông đối với thuyền nhân. Hiện tại đang có một chiếc tàu Nhật tên Yokohama chở hàng hóa đi lại từ Yokohama đến Singapore. Lần hành trình này, trên đường đến Singapore giao hàng, chiếc Yokohama lỡ vớt 92 thuyền nhân nên vừa tới bến Singapore, chủ thuyền phải đóng 920.000 dollars thế chân mới được cập bến để giao hàng. Giao hàng xong, chính quyền Singapore đếm còn đủ 92 thuyền nhân thì họ mới chịu trả tiền lại cho chủ tàu. Cuối cùng Đại Hội đã đề nghị mời thiền sư Nhất Hạnh đại diện cho toàn đại hội đứng ra tổ chức một chương trình cứu vớt thuyền nhân đang chơi vơi trên biển. Nhóm WCRP chi nhánh Nhật long trọng tuyên bố sẽ ủng hộ Chương trình 60.000 mỹ kim. Thầy nói “Tôi chỉ có thể nhận thực hiện chương trình này với tư cách Giám Đốc Điều Hành, xin nhờ giáo sư Yoshiaki Iisaka làm Giám Đốc Quản Trị, ông Willie Tay San và Mahaver Singh làm thủ quỹ. Xin Đại Hội đồng ý cử cho tôi một phó giám đốc điều hành Chương Trình là giáo sư Cao Ngọc Phượng vốn là một phụ tá giỏi ở Trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội ngày xưa.” Đại Hội chấp thuận và đề nghị Chương Trình đánh điện, gửi vé máy bay sang Pháp ngay để tôi có thể bay qua Singapore bốn ngày sau. Thầy cũng trình bày là theo Thầy vừa được báo cáo thì hiện tại có hơn bốn mươi ngàn người tị nạn ở Mã Lai, hơn sáu mươi ngàn ở Thái Lan, hai mươi ngàn ở Hồng Kông, hơn hai mươi ngàn thuyền nhân ở Phi Luật Tân và Indonesia mà Hoa Kỳ chỉ còn nhận 1.000 thuyền nhân mỗi năm. Nghĩa là có tất cả khoảng 150.000 thuyền nhân trong sáu nước, mà mỗi nước mỗi tháng chỉ có thể nhận 12 visa trong số mấy chục ngàn thuyền nhân đang cho tạm trú. Trong khi đó số thuyền nhân cập bến các nước tiếp tục tăng mỗi ngày. Có lẽ vì lý do ấy mà các nước Phi, Mã, Thái, Sing, Indo và Hương Cảng từ chối nhận thêm thuyền nhân, không phải họ xấu nhưng vì sức mỗi nước có giới hạn.
Ngày hôm sau, WCRP tổ chức một cuộc họp mặt mời ông Giám đốc Cao Ủy Liên Hiệp Quốc về Người Tị Nạn (UNHCR), Đại Sứ sáu nước láng giềng trên, Bộ Nội Vụ Singapore và nhiều đại sứ các nước như Hoa Kỳ, Úc, Pháp, Đức, Hà Lan, Thụy Sỹ và các nước Bắc Âu. Mục đích là yêu cầu các vị đại sứ các nước vui lòng trình lên chính quyền nước họ về thảm trạng này và xin mỗi nước ra tay tế độ. Ông đại sứ Hoa Kỳ cho biết vì năm 1975 Hoa Kỳ đã cho vào Mỹ hơn 150.000 người tị nạn rồi nên không thể cho thêm, Hoa Kỳ còn phải lo chỗ ăn ở cho 150.000 người đó nên chỉ có thể cho tối đa 1.000 người mỗi năm kể từ 1976.
Thầy hỏi ý các đại diện tôn giáo có mặt hôm đó là nếu các nước vẫn chưa có chính sách gì rõ rệt thì có lẽ Chương trình sẽ phải mướn hay mua một chiếc tàu, chở vài trăm thuyền nhân đi thẳng sang tận đảo Guam, lãnh thổ Hoa Kỳ gần Việt Nam nhất, đồng thời cũng mướn một tàu khác vớt thuyền nhân và chở đi Perth ở Úc Châu để kêu gọi sự chú tâm của hai chính quyền này và mời báo chí tới viết bài tường thuật để gây áp lực cho chính sách giúp thuyền nhân được mở ra. Ông Samtap Kumar, Giám Đốc UNHCR (Cao Ủy về Người Tị Nạn của Liên Hiệp Quốc), thay vì mừng có thêm đồng minh là chương trình Cứu Thuyền Nhân của Hội Đồng Tôn Giáo Thế Giới, đã mỉm cười không tin tưởng nói: “Quý vị có biết tiền mướn một chiếc tàu chở khách khoảng hơn vài trăm người là mười ngàn mỹ kim mỗi ngày, đó là chưa kể tiền lương cả ê kíp lái tàu và tiền dầu không?” Phái đoàn Nhật bèn nói: “Chúng tôi bảo đảm sẽ lạc quyên đủ và gửi ngay 60.000 mỹ kim, đủ tiền thuê vài ngày một chiếc tàu như thế, rồi Hội Đồng Tôn Giáo các nước khác lại tiếp trợ tài chính thêm vài ngày và vài ngày nữa… đủ để đánh động lương tâm thế giới?” Ông Samtap Kumar mỉm cười khinh khi, nghĩ là các ông thầy tu này không làm được đâu. Vấn đề thuyền nhân khó vô cùng, không phải chỉ có 80.000 hay 100.000 mỹ kim là đủ. Có lẽ UNHCR cũng đã năn nỉ các nước cho visas nhưng không được nên nghĩ là WCRP càng không thể làm gì hơn.
Lúc này là tháng 11 năm 1976, vậy mà nước Úc và các nước Âu Châu, chưa nước nào có chính sách tiếp nhận thuyền nhân hết. Thầy chúng tôi nói: Trên chiều hướng đó, nhân danh Chương trình Cứu Thuyền Nhân của Hội Đồng Các Tôn Giáo Thế Giới, chúng tôi hôm nay xin long trọng thỉnh cầu chính quyền Hoa Kỳ tăng quota (chỉ tiêu) nhận thêm thuyền nhân gấp, và cũng kêu gọi chính quyền Úc nên mở rộng từ tâm chấp nhận ngay thuyền nhân vì nước này dân ít đất rộng. Thầy nói “tôi biết rất đông công dân Hoa Kỳ đã từng giang tay ra nâng đỡ bao nhiêu người đi tìm tự do, thì không có lý do gì chính phủ Hoa Kỳ không nhận thêm thuyền nhân Việt Nam. Tôi cũng biết nhiều tấm lòng nhân hậu trong nhiều nước Âu Châu, Á Châu, Úc Châu nếu biết có những người đã trốn gông cùm một nước độc tài, đã vượt đại dương mênh mông, đã lãnh chịu đủ gian truân về đói khát, giông tố, hải tặc để đi tìm tự do thì thế nào họ cũng yêu cầu chính phủ nước họ mở ra một chính sách nhận thuyền nhân vào nước họ. Trong khi chờ đợi thì chúng ta, người có tôn giáo, đại diện cho lương tâm nhân loại nên thức tỉnh mọi người dậy bằng cách mướn một chiếc tàu lớn, vớt và chở chừng 200 thuyền nhân, không chờ visas, cứ đi thẳng luôn sang đảo Guam thuộc lãnh thổ Hoa Kỳ và một chiếc khác đi Úc Châu để quần chúng Hoa Kỳ và quần chúng Úc có dịp thúc đẩy chính quyền họ tăng quota nhận người vào hai nước này. Mọi người im lặng, không chắc WCRP làm được gì nhưng để chờ xem.
Thầy trò chúng tôi vào việc
Vừa bay tới Singapore ngày 3 tháng 12 năm 1976, tôi điện thoại ngay cho các Hội Đoàn đã từng giúp Việt Nam như Hội Comittee for Helping Children in Vietnam của Kirsten Roep, Comité pour les enfants du Vietnam của Pierre Marchand, Third Way in Vietnam… Các em nghe tiếng gọi của tôi liền gửi ngay không do dự, hội này bảy chục ngàn, hội kia năm chục ngàn mỹ kim cho Willie Tay Kim San thủ quỹ chương trình. Tôi cũng mời tại địa phương Singapore cô Nancy Chng, bác sĩ Choy Leng, Bob Allan, chị Diễm Trang và chồng là anh Luke Fogarty, anh Vương Hồ (người Campuchia) giúp. Tôi điện thoại mời Mobi Warren sang Singapore và Kirsten Roep nữa. Tôi có mang theo một ít tiền. Chúng tôi nhờ anh Luke Fogarty giúp tìm ngay vài chiếc tàu nhỏ để đi vớt thuyền nhân. Anh Luke là chồng chị Diễm Trang, một trong những phụ nữ lưu trú tại Singapore đã cầu cứu Thầy giúp thuyền nhân khi Thầy mới đến. Anh Luke là chủ một công ty chuyên mua tàu chở dầu cũ sửa lại và bán. Anh báo tin Chương trình có thể mướn tạm chiếc Roland từng chở hàng hóa ngày xưa và chiếc tàu chở dầu Leapdal. Cả hai đều là tàu chưa từng chở hành khách nên chẳng có giường và nhiều toilets như tàu chở khách. Luke cũng đề nghị mướn thêm chiếc Saigon 200, tàu nhỏ, chạy nhanh có thể tìm vớt thuyền nhân để đem tới cho một trong hai chiếc lớn là tàu Roland hay Leapdal. Thầy đồng ý và nói cứ dùng tạm để cứu gấp thuyền nhân, rồi khi tìm ra tàu tốt sẽ chuyển qua. Trước nhất đã có một số thuyền nhân mà Singapore vừa đẩy ra. Tàu Roland vớt ngay 9 người ấy và vì thế phải cắm neo ngoài khơi vì Singapore không cho nhập bến khi trên tàu có thuyền nhân. Tàu Leapdal vừa mướn được thì Mobi cũng vừa bay tới. Chúng tôi cho Mobi lên đường hướng về phía Thái Lan với thuyền trưởng là Vương Hồ người Campuchia.
Ngay ngày hôm sau, Thầy và Luke Fogarty mướn ngay một phi cơ nhỏ bay ngang dọc trên biển Nam Hải hay dọc theo bờ biển Thái Lan, Mã Lai, Indonesia. Đi suốt một ngày mà không thấy chiếc ghe nào vì bị phụ thuộc vào thời tiết. Nếu trời quang đãng sáng sủa không có sương mù, Thầy và Luke ngồi trên phi cơ mới có thể thấy rõ bên dưới có thuyền nào đang bơ vơ ở hướng nào thì mới ra lệnh cho chiếc Saigon 200 đi về hướng đó mà vớt.
Song song với việc Thầy bay với Luke Fogarty tìm thuyền nhân, tôi rủ chị Battick Mai và chị Trang Fogarty đi dọc theo bờ biển Mã Lai tìm thuyền nhân. Nghe nói có 21 thuyền nhân lên được đảo Pulau Tioman ngoài khơi Mersing, một thành phố nhỏ bên bờ biển Mã Lai, chúng tôi ra thăm và được biết họ đã đến đây hơn 1 tháng mà không có thức ăn, phải hái rau rừng ăn đỡ đói, không hề có nhân viên của Cao Ủy LHQ về Người Tị Nạn đến phỏng vấn chi cả. Thấy họ chờ đợi mỏi mòn như thế, chúng tôi quyết định cho tàu Saigon 200 đến rước họ đưa lên chiếc tàu Roland đang đậu ngoài khơi. Nghe tin ấy ông Samtap Kumar rất giận, điện thoại hỏi vì sao Thầy cướp thuyền nhân của UNHCR? Thầy hỏi “làm sao anh lại nhận đó là thuyền nhân của UNHCR? Cả tháng qua, anh không cho họ một phần ăn nào, không thăm viếng họ. Họ không biết loài người còn có mặt trên đời này hay không. Chúng tôi đem thức ăn cho họ, lo cho họ thuốc men, ghi tên họ và tìm cách lo chỗ định cư cho họ.” Ông Samtap Kumar nói: “Nhưng chúng tôi có tên của họ trong sổ những người tị nạn”. Thầy hỏi: “Thế nếu ai cho UNHCR tên tất các vì sao trên trời, các anh cũng nghĩ những vì sao ấy là của các anh hay sao?” Đó là cách UNHCR làm việc lúc ấy, nghĩa là vô sổ tên các thuyền nhân nhưng không thăm viếng, không cung cấp thức ăn từ quỹ của UNHCR, không xin được visa nào cho họ. Thế thì việc làm của chúng tôi đáng lẽ phải được hội này mang ơn vì đã bổ túc cho việc làm của họ, nhưng ngược lại, vì thấy chúng tôi làm được việc, Samtap Kumar ganh tị và tìm cách đánh phá chương trình.
Chỉ trong vòng năm tuần lễ mà chiếc Roland đã vớt được 281 thuyền nhân và chiếc Leapdal vớt được 285 người. Chúng tôi mướn thêm được chiếc black mark, một thuyền máy nhỏ xíu dùng để chở thực phẩm, thuốc men và đưa bác sĩ Choy Leng ra khám bệnh cho thuốc cho đồng bào mỗi ngày. Dưới đây là hình chiếc Leapdal đang có 285 thuyền nhân và chiếc Roland có 281. Ngày 30 tháng 1 năm 1977, một bé gái ra đời trên chiếc Roland, tôi đi theo chiếc black mark ra tận tàu Roland để thăm bé và mang theo bài thơ của Thầy tặng bé.
Chúng ta hãy trả lời
Một bông sen nở trên đại dương,
Bé sinh ra, giữa muôn trùng sóng nước
Khuya đêm ba mươi tháng Giêng
Hai trăm tám mươi mốt người trên thuyền lặng im
Nghe sóng đêm cầu nguyện
Tám người thủy thủ im lặng cho thuyền hướng về phương Nam
Nước uống đã cạn rồi
Tàu chạy về gần cù lao Tiên An Môn
Cầu cứu
Biển đêm, sóng vỗ mạn thuyền, trăng lặn lâu rồi
Ánh sao soi đường cho bé vào đời,
Dưới kia nhấp nhô đầu sóng bạc
Một bà mẹ nằm trên boong tàu, chuẩn bị cho bé vào đời
Cả thuyền không có một phòng riêng;
Người bác sĩ cũng là giới lênh đênh bèo nước
Tiếng khóc chào đời của bé bị át đi trong tiếng gió
Người mẹ mỉm nụ cười yếu ớt, bác sĩ đứng lên loan báo tin mừng
Hai trăm tám mươi mốt người vỗ tay
Vị thuyền trưởng hô to:
Chúng ta đi về phương Nam
Dân số chúng ta trở thành 282
Xin mọi người cảm ơn trời Phật
Chiếc máy điện thoại nối liền
Chuyển niềm vui lên lục địa
Khuya nay trên đất liền có người hay tin bé đã chào đời
Bé Rolanda Nguyễn Thị
Bé từ đâu tới nhỉ?
Và bé đang đi về đâu?
Tại sao lại chọn nơi ra đời giữa đại dương trên chiếc thuyền lưu lạc?
Bé không hỏi
Nhưng chúng ta hãy trả lời
Ai nỡ để bông sen nở nửa đêm
Chìm sâu lòng đại dương
Bạn ơi hãy trả lời cho chúng tôi
Chúng ta phải đem bé đi về hướng nào?
Tôi cần bàn tay bạn.
Hãng Jean’s Lewis kêu gọi được 2.000 cái quần Jean’s cho thuyền nhân. Họ nhắn chúng tôi cho người tới mà đem cho thuyền nhân. Tôi chợt nhớ tới em Antoine, một em con lai Pháp được Pháp bảo lãnh ở trại tị nạn ở Troyes gần Phương Vân Am. Tuy là con lai, Antoine lại rất Việt Nam, lớn lên ở Việt Nam nên giờ đây sang Pháp em nhớ nước Việt lắm. Mỗi lần gặp tôi ở Phương Vân Am em hay nói huyên thuyên, than vãn Cộng Sản, than thở tình trạng đất nước nhưng ăn nói không đầu không đuôi. Nhiều lần, không ai mời, em vẫn đứng lên một mình tự hát các bài ca của Ngọc Cẩm Nguyễn Hữu Thiết, đứng múa và làm hoạt cảnh các bài nhạc quê hương… Hình như tinh thần em không được ổn định. Tôi nghĩ thay vì mướn người Singapore xếp quần Jean’s cho mình, tôi sẽ trả vé máy bay cho Antoine qua Singapore, nhờ Antoine sắp xếp lại 2.000 quần Jean’s Lewis để phân phối cho thuyền nhân hay nhờ em cùng với anh Mừng đi mua thức ăn cho đồng bào trên biển, theo chiếc black mark của chúng tôi chở thức ăn ra chiếc Leapdal hay Roland đang neo tàu ngoài khơi, hay nhờ em lo những chuyện nhẹ nhàng khác. Tôi nghĩ cho Antoine sang, em sẽ thấy em hữu ích cho đồng bào thì sẽ giúp ổn định lại tinh thần của em.
Sáng thứ hai, tôi, Antoine, chị Mai Battick và Nancy lại mướn taxi đi dọc theo bờ biển Mã Lai lần nữa. Vừa tới bờ biển Mã Lai đầu tiên, không xa thị trấn Mersing là mấy, chúng tôi mừng rỡ thấy một nhóm đồng bào thuyền nhân. Cảnh sát đuổi chúng tôi ra nhưng chị Mai đã khéo léo dúi vào tay Cảnh Sát Mã Lai một ít tiền. Chúng tôi được phép tới gần và nghe họ vừa khóc vừa kể rằng họ được cập bến này cách đây ba hôm, thuyền họ rớt mất bánh lái; đồng thời cũng có một chiếc thuyền khác có 61 người như thuyền họ, đã cập bến trước đó lâu hơn vì nghe nói thuyền đụng đá ngầm thủng nhiều chỗ. Cảnh Sát Mã Lai cho người tới sửa chữa chiếc tàu ấy và đẩy 61 trở ra biển. Chiếc này chỉ mới rớt bánh lái nên Cảnh Sát cho ráp bánh lái lại và đuổi ra biển ngay tức thời. Vừa ra khơi, chiếc thuyền kia do chỉ được sửa tạm quá sơ sài, gặp một con sóng không lớn lắm chụp xuống liền chìm hẳn, 61 người trên thuyền chết trước mắt họ. Tiếng kêu cứu xé lòng nhưng thuyền họ 62 người cũng quá đầy, có thể chìm bất cứ lúc nào nên không vớt được ai. Quá hoảng hốt họ đành quay trở lại đây lúc hai giờ sáng và đốt ngay thuyền của họ để không bị xô ra biển nữa! Người già trẻ và trẻ em nằm thoi thóp, phơi nắng, những người đàn ông ngồi nhìn ra khoảng không, khóc không ra tiếng. Họ cầu cứu chúng tôi. Chúng tôi điện thoại nhiều lần cho chiếc Saigon 200 đến đón họ nhưng điện hoài không bắt được sóng. Chúng tôi hứa sẽ cố gắng nhưng biết sự việc không dễ. Không khéo ông Samtap Kumar lại nói chúng tôi dành thuyền nhân của UNHCR, nhưng cũng không biết UNHCR có được chính quyền Mã Lai cho phép nhận 62 người này không. Chúng tôi hứa là sẽ can thiệp cho họ. Trước hết là gọi cho Giám Đốc UNHCR Samtap Kumar, nếu không được thì sẽ gọi chiếc Saigon 200.
Chiều hôm đó về lại Văn Phòng Chương Trình, tôi điện cho Samtap Kumar hoài mà không ai bắt máy. Chị em báo cáo cho Thầy tin 61 người mới bị đắm trên biển và nhóm 62 người mới đốt xong thuyền, hiện đang ở bờ biển Mersing mà không biết ngày mai của họ ra sao. Mặt bốn chị em chúng tôi như mới đi đám tang tập thể về. Tâm người nào cũng chìm đắm trong đau thương. Đáng lẽ tất cả nên đi ngồi thiền rồi đi ngủ là hay nhất. Nhưng tôi chợt nhớ là từ hôm qua, anh Willie Tay thủ quỹ Chương trình cứ càu nhàu mấy người đi mua thức ăn cho thuyền nhân mà không bao giờ đem biên nhận về cho anh cả. Tôi quay sang chị Mai Battick đề nghị là với số tiền 300 mỹ kim Willie Tay đưa cho chị hôm qua, xin chị làm ơn ra chợ xin cái ông đã bán cho mình năm cần xé hột vịt và năm cần xé bắp cải biên cho chị, bằng tiếng tàu viết tay cũng được, một tờ giấy ghi có bán từng ấy thức ăn, giá từng ấy tiền, kẻo ông Willie Tay than khó làm việc thủ quỹ. Tôi hết sức ngạc nhiên thấy chị Mai Battick bỗng nổi giận. Ban đầu tôi ngạc nhiên sao chị Mai lại nổi cơn thịnh nộ một cách bất ngờ như thế, nhưng nhìn sâu tôi thấy là tại mình vụng về, nhắc làm chi chuyện biên nhận tiền bạc trong khi tâm tư ai cũng đang trĩu nặng. Chị nói: “Hồi cô chưa sang đây, tôi bỏ ra một hai trăm đô cứu nhóm thuyền nhân này, hai ba trăm đô cứu nhóm thuyền nhân khác, có đòi biên nhận đâu? Còn cả tuần nay tôi mua bao nhiêu là cải bắp, hột vịt, su hào, cà rốt, rau muống, hết cần xé này đến cần xé khác, chở đi ngờ ngờ ai cũng thấy, cần gì biên nhận. Cô không thấy sao mà lại đòi tôi cho biên nhận? Sao cô hồ đồ thế? Thằng nào đòi Battick Mai biên nhận, cô biểu nó tới đòi con nầy nè? – Chị vỗ ngực bình bịch – Còn số tiền 200.000 đô cô lạc quyên đó, có ai đòi biên nhận của cô không?” Tôi muốn trả lời đó là tiền mướn chiếc Saigon 200, chiếc Roland, chiếc Leapdal, có biên nhận hẳn hoi cho anh thủ quỹ Willie Tay, nhưng tôi biết có giải thích bây giờ chị cũng không hiểu vì tâm chị đã quá trĩu nặng khi nghe tin 61 người vừa chết chìm trên biển rồi. Chị Mai là người rất chơn chất như những bà mẹ Việt Nam: mua cả chục cần xé thức ăn ai cũng thấy, cần gì biên nhận? Tôi biết ngày mai, sau khi chị ngủ được một giấc, khi biết tôi liên lạc được với chiếc Saigon 200 đi đón 62 bạn kia ở Mersing, chị sẽ vui lại và nghe lời tôi ngay. Nhưng bây giờ thì tôi không nên cãi lại, chỉ nên vào phòng nằm nghỉ thôi. Bởi vì Thầy tôi vẫn dạy: Khi một bên đang giận thì cách hay nhất là bên kia im lặng thở và đừng đổ thêm dầu vào lửa.
Khi vào phòng, lòng tôi bình an và rất thương chị Mai vì tôi biết chị cũng bức xúc như tôi, nhưng tôi thì có pháp môn trở về hơi thở, quay về hải đảo tự thân, còn chị chỉ mới gặp Thầy trong hoàn cảnh bức xúc của thuyền nhân, chưa được Thầy dạy đạo lần nào.
Sáng hôm sau, Luke báo tin tìm ra chiếc Koojara có thể chở 1.000 thuyền nhân với giá 200.000 mỹ kim. Tôi nghĩ có thể dễ dàng lạc quyên thêm 100.000 mỹ kim nữa và cho thuyền xuống đón 282 người ở chiếc Roland cùng 285 người trên chiếc Leapdal rồi đi sang Perth (Úc) gấp. Nhưng ngày hôm sau nữa, Luke lại báo tin vì tàu nằm trong ụ lâu năm quá chưa ra khơi, cần phải đưa lên dry dock (tức là cho vào xưởng tàu, đưa lên cao khô để xét từng phần bên dưới xem chỗ nào rỉ nước, chỗ nào cần siết bù lon v.v.. thì mới được phép ra khơi) và phải chờ sớm nhất là hai tháng!!
Trong buổi họp đầu tiên với WCRP, Thầy dặn dò WCRP chúng ta phải thực hiện chương trình rất im lặng, vì mục đích của chúng ta là cứu thuyền nhân đang bơ vơ lạc trên biển và đánh thức lương tâm nhân loại giúp đỡ thuyền nhân đang ứ đọng gần 150.000 người ở các nước Đông Nam Á, chứ không khuyến khích người Việt liều lĩnh bỏ nước ra đi. Nếu báo chí đăng tin đang có hai chiếc tàu vớt người trên biển thì e rằng đồng bào ở Việt Nam sẽ ùn ùn bỏ nước ra đi. Ai cũng đồng ý, nhưng Phái Đoàn Nhật Bản vừa tặng 60.000 nên đã hưng phấn, quên hẳn lời Thầy căn dặn lúc đầu, tiết lộ với báo chí nhiều quá. Thầy trò chúng tôi phải đổi văn phòng để họ không biết chỗ mà điện thoại liên hồi ngày cũng như đêm. Dầu thầy trò làm việc im lặng nhưng lại quên căn dặn ông thủ quỹ Chương Trình, chúng tôi vẫn phải yêu cầu ông chi tiền mướn tàu Saigon 200, rồi mướn chiếc Roland rồi chiếc Leapdal, rồi thức ăn cho thuyền nhân. Ông này thì sẵn sàng cung cấp hết chi tiết! Thế là đài BBC và đài VOA tiếng Việt báo tin: Có một chiếc tàu đang cứu người trên biển và sẽ đưa thuyền nhân tới Úc hay tới Hoa Kỳ mà không chờ visas. Từ các trại tị nạn, thuyền nhân đã chờ đợi mỏi mòn từ tháng 5 năm 1975 đến tháng 1 năm 1977, vừa nghe tin ấy họ mừng rỡ đánh liều mướn thuyền trở ra biển để được lên tàu của chúng tôi. Có nhóm trốn ban đêm, có nhóm phải lo lót các ông trại trưởng trại tị nạn để được rời trại đi ra biển bằng thuyền cũ đã được sửa chữa. Điều đó càng làm cho UNHCR điên tiết lên. Đã nhiều lần chúng tôi ngọt ngào giải thích với ông Samtap Kumar là việc chúng tôi làm sẽ gián tiếp giúp ông có thêm thị thực cho người tị nạn, ông nên xem Chương Trình này như ông “ác” để cho ông “thiện” là UNHCR có nhiều thị thực. Ông Ác và ông Thiện là hai cánh tay của bồ tát Quan Âm. Samtap Kumar vẫn không chịu nghe, vẫn điên tiết, vẫn hối thúc Homer Jack đẩy cái “ông thầy tu điên này” (this crazy monk) đi và chấm dứt Chương Trình.
Tôi điện thoại lạc quyên thêm được 100.000 dollars nữa từ Ủy Ban Hà Lan giúp trẻ em Việt Nam ngày trước, định để mua một chiếc tàu chở khách theo lối tàu Koojara, chiếc nào xài ngay được, không phải chờ duyệt xét. Lần gửi 100.000 này, tôi gửi qua Luke Fogarty chứ không qua WCRP Willie Tay Kim San nữa vì tôi có linh cảm là chương trình này táo bạo quá, Cao Ủy Liên Hiệp Quốc và các tòa đại sứ Hoa Kỳ và Úc đang liên kết nhau chống Chương Trình Máu Chảy Ruột Mềm của thầy trò chúng tôi khá ráo riết. Họ liên lạc với mục sư Homer Jack là Chủ Tịch Toàn Thế Giới WCRP tìm cách đẩy Thầy ra khỏi chương trình và hứa với mục sư Homer Jack sẽ cho WCRP vào NGO (Non-Governmental Organisation – Tổ chức Phi Chính Phủ ở Liên Hiệp Quốc) nếu Thầy nghe lời UNHCR dẹp Chương Trình Máu Chảy Ruột Mềm này. Homer Jack nói lại với Thầy như thế. Họ hứa với mục sư Homer Jack sẽ cấp 600 visas cho gần 600 thuyền nhân mà chúng tôi vừa vớt được. Họ khuyên Homer nên chấm dứt chức vụ Giám Đốc Chương Trình Máu Chảy Ruột Mềm của Thầy nếu Thầy không đồng ý từ bỏ ý định táo bạo là chở thuyền nhân đi Úc không có visas. Thầy nói với Homer: “Bác tin UNHCR nhưng tôi thì không tin họ sẽ xin được 600 thị thực. Hiện tại, họ đang chăm sóc gần 150.000 thuyền nhân mà chỉ xin được có 1.000 visas mỗi năm đi Hoa Kỳ, còn Úc vẫn chưa cho, Âu Châu chưa cho. Làm sao mà họ xin được 600 visas cho 600 thuyền nhân mình vớt?” Mục sư Homer Jack tuy rất thích được vào NGO, thích được làm người quan trọng ngang với các ông Đại Sứ Úc, Hoa Kỳ (UNHCR đã tưới tẩm đúng cái “ngã” của ông), nhưng thật tình không dám theo lời UNHCR vì Thầy vừa là Phó Chủ Tịch của Hội Đồng WCRP toàn cầu, vừa được đại hội WCRP Á Châu bầu lên làm Giám Đốc Chương Trình chứ không phải cá nhân ông bầu Thầy lên. Homer chỉ còn một cách chót là báo tin cho Công An Singapore biết: với tư cách chủ tịch WCRP, ông sẽ không xin gia hạn cho Thầy ở thêm Singapore nữa. Tối hôm đó có năm thuyền nhân cập bến Singapore. Các chị Trang, Mai, Rose Marie bàn hoài mà chưa tìm ra Sứ Quán nước nào có tay trong chịu lén mở cửa rào như các Sứ Quán Pháp và Hoa Kỳ. Chị Trang đến báo tin và xin Thầy cho 5 anh em thuyền nhân mới tới ở tạm văn phòng Chương Trình. Thầy tuyệt đối không cho. Chị Trang và tôi ngồi khóc. Dù có niềm tin lớn nơi Thầy, tôi vẫn nghĩ là Thầy quá khắt khe. Không ngờ, tuệ giác của Thầy lớn thật. Đúng hai giờ khuya đêm ấy, năm người Cảnh Sát Singapore bắt chúng tôi mở cửa và vào lục soát rất kỹ, thêm bốn người nhảy lên nóc nhà để phòng hờ thuyền nhân trốn trên đó. Dù không có chứng cớ nào chứng tỏ chúng tôi phạm pháp, họ vẫn giữ travel document tị nạn của Thầy và trả lại passport Hà Lan của Kirsten, passport Pháp của tôi, của Antoine, passport Singapore của Nancy và passport Mỹ của Bob. Họ báo tin Thầy phải rời Singapore chậm nhất trong 48 giờ và họ sẽ hoàn lại travel document (giấy thông hành) cho Thầy tại phi trường!
Muốn được an lạc, thì nên an lạc ngay
Trời ơi, thế thì chết mất rồi! Thầy là chủ tịch Chương Trình mà bị đuổi ra khỏi Singapore trong khi Chương Trình đang cưu mang 567 thuyền nhân lênh đênh trên biển. Chiếc Koojara thì không thể có giấy phép seaworthy (có quyền xuống biển sau khi đã dry dock) trước hai tháng nữa. Thầy trò chúng tôi như ngồi trên đống lửa. Trên bàn thờ ở văn phòng chúng tôi, Thầy có viết bốn chữ: Dục An Đắc An (muốn an lạc thì được an lạc). Thầy muốn viết để tự nhắc và nhắc chúng tôi tập giữ tâm cho an trong từng phút từng giây, dù tình trạng chương trình cứu thuyền nhân chúng tôi đang thực hiện lúc nào cũng như dầu sôi lửa bỏng. Khi Công An Singapore đi rồi, thầy trò chẳng bàn cãi chi cả. Thầy, Kirsten, Bob, Nancy, Antoine và tôi bắt đầu ngồi yên thật lâu. Sau đó Thầy đứng dậy đi thiền hành, chúng tôi cũng đứng dậy đi theo. Từng bước và từng bước thật chậm và thật sâu. Rồi lại ngồi thiền thật lâu và lại đi thiền hành từng bước, từng bước…
Đi mãi, đi mãi đến 6h00 sáng, Thầy tìm được một lối ra. Thầy gọi tôi chuẩn bị đi thật sớm cùng Thầy đến gặp ông Đại Sứ Pháp Jacques Gasseau. Ông này thật nhân hậu. Chúng tôi đã từng nghe chị Rose Marie nói về ông khi chị thuật cho Thầy nghe chị đã lặng lẽ giữa đêm đưa vào khuôn viên Sứ Quán Pháp ba nhóm thuyền nhân, ông biết là có người bên trong Sứ Quán đồng lõa mà vẫn làm ngơ.
Hôm ấy là sáng thứ bảy. Bên Sứ Quán Pháp không làm việc nhưng Sở Lưu Trú Singapore còn làm việc sáng thứ bảy. Mới bảy giờ rưỡi sáng thầy trò chúng tôi đã gõ cửa nhà ông Jacques Gasseau. Ông niềm nở tiếp Thầy và sẵn sàng thảo một bức thư rất mạnh cho chính quyền Singapore. Ông nói “ông thầy tu này là một người trí thức tiếng tăm trong xã hội Pháp, không hề phạm một lỗi lầm nào của Singapore, xin cho chúng tôi biết tại sao ông ấy bị đuổi ra. Nếu ông ấy không có tội mà quý vị đối xử tệ với một con người như thầy Nhất Hạnh tức là quý vị khinh thường nước Pháp và những nước trên thế giới đã ký Công Ước 1951, vì quí vị đã không tôn trọng quyền làm người của người tị nạn mà thiền sư Nhất Hạnh là một.” Sau đó, thầy trò chúng tôi đến ngay sở Lưu Trú Singapore. Đọc thư Đại Sứ Pháp xong, nhân viên sở lưu trú cho biết họ cần đưa lên cấp trên. Chờ từ 8h30 sáng đến 11h30 mà chưa có tin. Tôi tới hỏi. Họ nói có cuộc họp mặt các vị bộ trưởng Singapore để giải quyết về vấn đề của Thiền Sư Nhất Hạnh. Một mặt, chính quyền Singapore không thích thuyền nhân. Sự hiện diện của Thầy tại đây như một cái gai với chính sách dẹp thuyền nhân của nhà nước này. Họ lại bị áp lực từ Cao Ủy Liên Hiệp Quốc về Người Tị Nạn, áp lực từ Sứ Quán Úc Châu, Sứ Quán Hoa Kỳ đã xem ông thầy tu này là một người điên quá táo bạo khi có dự định đưa thuyền nhân mà Chương Trình vớt được đi trực tiếp sang Úc và Hoa Kỳ mà không cần visa. Và cái lý do mạnh nhất là Homer Jack nhân danh WCRP đã nói nhỏ với họ rằng ông không bảo trợ cho Thầy nữa. Nhưng mặt khác, bức thư của Đại sứ Pháp quá mạnh, tuyên bố như chính quyền Singapore đang qua mặt Pháp và thế giới nếu đuổi một người không có lỗi gì hết đang được chính phủ Pháp che chở. Họ cũng sợ Pháp có thể họp báo tố cáo việc này và kêu gọi các nước đã ký kết Công Ước 1951 về Vị Thế Người Tị Nạn lên tiếng. Thầy Nhất Hạnh đang cầm travel document thay cho hộ chiếu của những người tị nạn nằm trong Công Ước 1951 này. Họ điện thoại cho Đại Sứ Pháp biết là Homer Jack không chịu bảo trợ cho thầy Nhất Hạnh nữa, nhưng Đại Sứ Pháp quả quyết là Pháp chịu trách nhiệm về Thầy. Cuối cùng họ đành cho phép Thầy ở thêm hai tuần vì có sự can thiệp của Đại Sứ Pháp, có nghĩa là thay vì bị đuổi ra khỏi Singapore trong vòng 48 giờ, Thầy được ở thêm hai tuần nữa, đủ để quán chiếu và quyết định lo cho thuyền nhân như thế nào cho gọn và nhanh. Thầy quyết định không mua chiếc tàu lớn Koojara nữa và đành phải cho hai chiếc Roland và Leapdal đi thẳng sang Úc. Tôi đi mua thêm vải, dây để căng màn, bô vệ sinh để làm nhiều nhà vệ sinh dã chiến cho hai chiếc tàu, mua thêm thuốc men và khăn vệ sinh cho phụ nữ. Chị Mai, anh Mừng, Antoine thì đi mua thêm nhiều thức ăn và nhiều bi đông to nước uống cho hai tàu Leapdal và Roland. Thầy dự định ngày Thầy phải rời Singapore thì tôi cũng chuẩn bị cho hai chiếc tàu đầy thuyền nhân của mình lên đường. Tôi sẽ bay trước tàu đến từng bến mà tàu sẽ đến như Jakarta, Bali, Papoo để tiếp tế thêm thức ăn cho thuyền nhân và dầu cho tàu từng chặng. Thầy sẽ có mặt ở Perth trước để quấy động dư luận báo chí Úc. Ngày hôm sau, sáu thầy trò đi thăm hai chiếc Roland và Leapdal, tặng tiền lì xì Tết cho thuyền nhân và hẹn gặp tại Úc. Khi rời chiếc Roland, chị Kirsten và tôi không cầm được nước mắt. Thầy phát cho mỗi người một bài thơ mới của Thầy nhưng không ký tên Thầy và căn dặn họ phát cho báo chí khi đến đất mới:
Lênh đênh ngoài sóng gió
Thuyền nhỏ giữa đại dương
Quyết tâm tìm đất sống
Đói lạnh bao ngày đường.
Chúng tôi là bọt biển
Trôi giạt giữa mênh mông
Chúng tôi là hạt bụi
Trong không gian vô cùng
Tiếng chúng tôi lạc mất trong gió rít từng không
Trên thuyền không nước uống
Trên thuyền hết thức ăn
Con chúng tôi kiệt sức khóc rã và lịm dần
Chúng tôi khao khát Đất
Nhưng chẳng được tới gần
Mặc sức mà kêu cứu
Tàu bè vẫn dửng dưng.
Bao nhiêu thuyền đã lật
Vì sóng gió bất thần
Bao nhiêu là mạng sống
Đã chìm lòng đại dương.
Chúa Ki Tô có nghe, lời nguyện cầu rướm máu?
Phật Quan Âm có nghe, lời kêu cứu không ngừng?
Loài người ơi có nghe, tiếng gọi từ hố thẳm?
Đất liền ơi có biết, tâm sự này hay không?
Xin loài người có mặt
Xin đất liền giang tay
Cho chúng tôi tìm thấy
Hy Vọng trên đất này!
Bản tiếng Anh để trao cho báo chí là:
Lost in the tempest
out on the open seas
our small boat drift
we seek for land
suring endless nights
We are the foam
floating on the vast ocean
we are the dust
wandering in endless space
our cries are lost
in the howling wind
Without food, without water
our children lie exhausted
until they cry no more
We thirst for land
but are turned back from every shore
our distress signals rise and rise again
but the passing ships do not stop
How many boat have perished
how many families lie beneath the waves
Lord Jesus, do you hear the prayer of our flesh?
Lord Buddha, do you listen to our cries?
fellow humans, do you hear our voice
from the abyss of death?
solid shore
we long for you!
We pray for Mankind to be present today!
We pray for Land to stretch its arm to us
today, from this very Land!
Thầy dặn đồng bào giữ bài thơ cho tới khi đến Úc Châu hãy trao cho báo chí. Nhưng khi Homer Jack nắm giữ Chương Trình và chỉ xin được có 32 visas, 535 người còn lại tiếp tục lênh đênh trên biển thì họ đã trao bài thơ này cho nhiều người. Cuối cùng trong Văn Khố Thuyền Nhân Việt Nam có in bài thơ nhưng không ai biết Thầy là tác giả.
Thầy cũng viết ngay bài thơ Bắc một cây cầu tặng đại sứ Jacques Gasseau tại Singapore:
Có cây ngô đồng cho chim Phượng đậu,
Có người đứng đó cho tình thương sâu
Luật lệ nhiều khi như màn lưới sắt,
Giam người trong kiếp trầm luân thương đau
Nhưng lòng nhân ái như bàn tay Bụt
Phá tan địa ngục đập nát ưu sầu
Thành phố sáng nay nắng lên bát ngát
Có chim bồ câu bay liệng trời cao
Tôi nhớ tới người tấm lòng cương trực
Nụ cười mát dịu như nước nhiệm mầu
Trẻ thơ nhớ người như hoa nhớ nắng
Như nước nhớ nguồn, như trăng nhớ sao
Tâm đã quyết rồi hiềm gì bạo lực
Thân đi vào đời cưỡi trên ba đào
Bắc một cây cầu từ hang địa ngục
Lên tới cõi trời mở hội ngàn sao.
Khi Thầy rời Singapore, tôi được mục sư Homer Jack báo tin kể từ nay tôi không được quyền viếng thăm hai chiếc tàu Roland và Leapdal nữa. Tôi ngạc nhiên chống chế:
Ông nói:
Tôi bực tức:
Ông ngắt lời:
Không kìm được cơn giận tôi đã dại dột thốt ra:
Đó là lỗi lầm lớn nhất đã đưa tới hậu quả mà tôi không lường được. Mục sư Homer Jack đã báo tin và ngay tối hôm đó, Cảnh Sát Singapore đến tận văn phòng của Chương Trình, tịch thu hộ chiếu của tôi và báo tin tôi phải rời Singapore ngay ngày hôm sau, trong vòng 24 giờ thôi! Đất trời như sụp đổ quanh tôi, tôi ôm mặt khóc như trẻ con. Tôi nghĩ thà tôi ra tàu Roland hay Leapdal sống và chết với thuyền nhân còn hơn là lên máy bay bỏ lại 567 người đang bơ vơ trên biển giữa hải phận quốc tế mà tôi đang chịu trách nhiệm.
Ngồi yên và nhìn sâu tôi mới thấy rõ cái tai hại của cơn giận làm tôi mất khôn. Vì tôi báo tin sẽ tiếp tục chương trình nên Homer Jack mới báo tin cho Cảnh Sát Singapore đuổi tôi đi. Nếu tôi cứ im lặng như là vâng lời, nhưng lặng lẽ chuẩn bị cho chuyến hành trình như Thầy đã căn dặn, thuật cho thuyền nhân biết: “Dự tính đi thẳng Úc đã bị phá, rằng Thầy đã bị bắt buộc rời Singapore rồi, tôi cũng sắp bị đuổi, người nào liều lĩnh chịu đi thì cứ đi theo tôi, tôi sẽ bay theo trước từng hải cảng để cung cấp thêm thực phẩm, nước và dầu cho 2 tàu. Sang tới Úc đã có Thầy chờ sẵn với báo chí. Ông Homer Jack hiện đang lo cho chương trình sẽ bắt các bạn chờ thị thực đi chính thức, bạn nào tin thì cứ ở. Chính vì 150.000 thuyền nhân trong trại tị nạn trên sáu nước đã chờ đợi hơn một năm rồi mà Liên Hiệp Quốc chẳng xin được thị thực nào nên Thầy mới có chương trình táo bạo này để đánh thức lương tâm nhân loại. Nếu chỉ vài mươi người ở lại thì ở tạm trên chiếc Saigon 200. Còn nếu số người muốn ở lại nhiều thì để bớt lại một tàu lớn như Leapdal hay Roland.”
Nhưng tôi đã dại dột nói ra ý định của mình với Homer Jack. Tôi bị buộc phải rời nước này trong 24 giờ! Không thể nào làm gì được, tôi điện thoại cho Thầy ở Perth. Thầy biết không thể nào làm gì kịp nên ra lệnh cho tôi bay ngay đi Úc. Tôi chỉ kịp báo tin cho bác sĩ Choy Leng, Nancy, Antoine, Luke và Trang Fogarty, cho Antoine ít tiền và giao cho em một số sách của Thầy nhận được từ nhóm đệ tử của tiến sĩ Amdedkar ở Ấn Độ làm cách mạng cho 500.000 ngàn dân cùng đinh quy y Phật để thoát vòng giai cấp. Antoine nghe tôi bị buộc rời Singapore càng mất hồn hơn, về tới Pháp em bỏ mất hết hành lý trong đó có nhiều tài liệu quý bên Ấn Độ của Thầy mà tôi nhờ em mang về! (Thầy đi Ấn Độ giảng đạo do lời mời của nhóm người cùng đinh (intouchables) của tiến sĩ Ambedkar trước khi đi Singapore dự hội nghị WCRP)
Tôi bay tới Melbourne ngày hôm sau. Thầy quen được các vị Linh Mục Dòng Jesuits, bạn của Cha Berrigan nên thầy trò có chỗ tá túc khi ở đây. Các Cha tổ chức họp báo dùm tôi. May mắn là hai tờ báo lớn đều để hình tôi và bài viết về thuyền nhân trên nguyên một trang của nhật báo lớn đó nên có thể tiếng nói của tôi có tiếng vang đến chính quyền Úc. Mấy tuần sau Úc lên tiếng chịu mở cửa nhận thuyền nhân.
Mục sư Homer Jack đuổi được thầy trò chúng tôi rồi thì chuyến gian truân của ông bắt đầu. Liên Hiệp Quốc vẫn không xin được thị thực nào cho 567 thuyền nhân ông đang chăm sóc, trừ 32 visas nhân đạo của Áo cho người già cả và khuyết tật, 535 thuyền nhân còn lại vẫn tiếp tục lênh đênh ngoài biển cho tới hơn ba tháng sau mới được vào bờ Mã Lai và Thái Lan! Vào trại tị nạn chứ chẳng bay đi đâu cả như UNHCR đã hứa với Homer. Nhiều nhân vật quan trọng trong WCRP đã trách ông Homer Jack không che chở cho Thầy, để cho Chương Trình đổ vỡ như thế. Nếu để Thầy thực hiện chương trình đi Úc thì 567 người này đã đến nơi bình an. Để tự vệ, ông Jack đã bóp méo ra nhiều chuyện không thật như: “Mỗi thuyền nhân muốn lên tàu cứu trợ của chúng tôi phải trả cho người phụ tá của thầy Nhất Hạnh 800 dollars(!)” Thật ra khi chiếc Leapdal do Vương Hồ và Mobi Warren tới Thái Lan, nghe đài BBC và VOA nói đến 2 chiếc tàu vớt người của chương trình nên thuyền nhân đang nằm chờ mỏi mòn ở trại hơn một năm nay bèn ùn ùn xin đi ra biển để được vớt lên tàu. Cảnh Sát Thái bắt họ chi một ít tiền hối lộ mới cho rời trại ra đi. Mobi đang ở trên biển, thấy tàu tị nạn bấp bênh mong manh thì cứ vớt, nhưng khi lên thuyền họ mới tiết lộ là có một số từ trại tị nạn ra, và phải hối lộ tiền mới được rời trại. Mobi đã báo cáo rõ ràng lại với Thầy, tôi và Homer Jack là Cảnh Sát trại tị nạn ở Thái Lan lấy tiền lót của thuyền nhân mới cho rời trại, ai nghe cũng thương cho thuyền nhân và không thấy gì sai nếu họ ở trại hơn một năm mà không được đi đâu thì nay cho họ đi theo cũng tốt thôi. Homer Jack cũng biết điều đó. Nhưng khi bị thành viên WCRP trách là không che chở cho Thầy, không giúp hai chiếc tàu đi Úc thì ông ta phải bảo vệ mình bằng cách nói mập mờ phụ tá của Thầy ăn hối lộ! Phụ tá của thầy Nhất Hạnh là ai? Ít người biết đến Mobi Warren, em còn nhỏ quá, nên ai cũng nghĩ là tôi bán vé lên tàu!
Trong đời làm đệ tử của Thầy tôi đã bị oan nhiều lần. Như hồi cứu trợ nạn lụt ở Quảng Nam, bên Tổng Vụ Xã Hội GHPGVNTN ở Sài Gòn bảo Ban Cứu Lụt bên Đại Học Vạn Hạnh phải bỏ tiền vào quỹ Tổng Vụ Xã Hội, nhưng lúc đó, đầy bồ đề tâm, chúng tôi muốn làm cho rốt ráo nên không bỏ tiền vào quỹ chung và tự đi cứu trợ lấy. Tổng Vụ Xã Hội ra thông cáo nói Ban Cứu Trợ Đại Học Vạn Hạnh giữ tiền riêng không chịu bỏ tiền vào quỹ của Tổng Vụ Xã Hội, nếu tiền bạc lem nhem thì Tổng Vụ không chịu trách nhiệm. Chúng tôi, Ban Cứu Trợ Vạn Hạnh, đã làm xong thư giải thích, minh oan và mời mọi người đến xem sổ sách và công tác, nhưng thầy Nhất Hạnh nhất định không chịu. Thầy nói sự thật thế nào rồi cũng được phơi bày, oan ức không cần đính chính. Lần này cũng thế, các bạn ở Hoa Kỳ gửi cho chúng tôi bài báo của Washington Post và hỏi thăm. Thầy cũng dạy tôi im lặng. Sự thật thế nào rồi cũng được phơi bày.
Đúng như Thầy dự đoán, mặc dù Homer Jack đã thành công khi nói xấu thầy Nhất Hạnh ở nhật báo Washington Post, nhưng New York Times là tờ nhật báo lớn hơn, nổi tiếng tin tức liêm trực và đúng đắn, đã không vừa lòng với cách tuyên bố một chiều như vậy. Ký giả Henry Kamm tự ý mướn tàu nhỏ ra tận hải phận quốc tế phỏng vấn trực tiếp thuyền nhân. Ngày 16 tháng 6 năm 1977, Henry Kamm của New York Times viết: Hàng trăm thuyền nhân đã cười buồn hỏi tôi: “làm sao mà chúng tôi có nổi 800 dollars để “mua giấy” lên tàu? Chúng tôi đói khát, bị cướp bóc đâu còn gì để ăn để uống, may mà được vớt lúc đang lâm nguy. Nhưng trên tàu này quả thật có một số nhỏ thuyền nhân trước đó đã từng ở trại tị nạn, chờ đợi lâu quá nên khi nghe tin có tàu vớt họ phải tìm cách rời trại để lên tàu.” Những thuyền nhân từ trại tị nạn Thái nói tiếp: “Trước khi rời trại, vài gia đình còn một ít tiền phải gắng dúi năm ba chục đồng để cảnh sát cho phép rời trại. Còn như gia đình tôi đây, cơm không đủ ăn, thiếu thốn trăm bề, đã ở quá lâu trong trại tị nạn, nên không còn đồng nào để đút lót cảnh sát. Cuối cùng thì họ cũng tống khứ chúng tôi ra khỏi trại cho nhanh.”
Ông Homer Jack chắc cũng như đứng trên lửa sau khi chỉ nhận được 32 thị thực nhân đạo và biết rằng mình vẫn chịu trách nhiệm với 535 thuyền nhân lênh đênh trên biển. UNHCR không xin được thị thực nào nên ông phải lấy tiền chúng tôi lạc quyên cho chương trình để bay đi Paris, New York, Washington DC họp báo. Nhưng vì thiếu liêm trực, không nói thật nên sau bài báo của New York Times thì không báo nào khác chịu đăng tin của ông nữa. Nhưng hai bài báo Washington Post nói xấu và New York Times đính chính đã khiến chính quyền Hoa Kỳ chú ý và quyết định tăng quota nhận từ 1.000 người lên 8.000 người mỗi năm, rồi chỉ vài tháng sau lại tăng thành 15.000 người và sau đó 100.000 người. Thầy vui mừng cho tôi xem tin số quota nhận thuyền nhân vào Hoa Kỳ đã tăng lên 100.000 và nói: Thầy trò mình nhận rác oan ức để biến thành hoa sen là đạt được quota đón 100.000 thuyền nhân mỗi năm vào Hoa Kỳ. Con thấy không. Đâu có lỗ!
Một thế giới khác
Sau khi họp báo ở Úc tháng 3 năm 1977, thầy trò bay về Paris. Lên xe taxi về nhà anh Cao Thái để lấy chiếc xe hơi hai ngựa của tôi lái về Phương Vân Am, tôi đi như người mộng du. Thiên hạ thờ ơ quá, đi đứng, ăn uống nói cười bình thường như thuộc một thế giới xa lạ nào. Họ có biết rằng trong giờ phút này đây, có người cũng là con người như họ, cũng học hành làm việc tháo vát, tài ba và đảm đang như họ, nhưng đang chết chìm trên biển không? Có hàng chục ngàn người cũng giỏi dang như họ, tới bờ rồi nhưng vì thiếu một tờ giấy nhỏ, một thị thực, nên bị xua đuổi như chưa từng là một con người.
Phương Vân Am mùa xuân thật đẹp. Rừng sồi xanh rờn. Tôi đi thiền hành trong rừng dưới những tán lá xanh non. Nắng xuyên qua tán lá xanh non khiến không gian trong veo màu bích ngọc. Tôi tập an trú bám vào hơi thở. Khứu giác tiếp xúc mùi thơm lá non, mắt tiếp xúc với màu ngọc bích của không gian, với từng nụ hoa bé xíu dưới bước chân, tâm bám hoàn toàn vào phút giây hiện tại, mỉm cười với từng chiếc lá xanh, tai lắng nghe từng tiếng động nhỏ trong rừng cây trong phút giây hiện tại đó. Tâm tôi tạm thời được tách rời với nỗi bất công, bất hạnh của đồng bào và nỗi bất lực của thầy trò chúng tôi. Một chút an lạc tạm thời đó cũng giúp tôi bớt điên loạn được gần một tháng.
Duyên may gặp được vài cựu thuyền trưởng từng là thuyền nhân, vốn lái tàu rất giỏi và cũng là cựu sĩ quan quân đội Việt Nam Cộng Hòa khiến tôi có sáng kiến làm một chương trình mới. Tuy Mùa Xuân Phương Vân Am đẹp, tuy tôi bớt khóc, nhưng hình ảnh bao nhiêu người lênh đênh trên biển vẫn còn trĩu nặng nên tôi xin phép Thầy được đi Thái Lan mua một chiếc thuyền đánh cá, giả dạng làm người đi lưới cá nhưng thực chất là đi lưới thuyền nhân. Chiếc tàu chúng tôi mua bằng gỗ, có tên là Shantisuk, 5 thước bề ngang và 32 thước chiều dài, có đầy đủ dụng cụ đánh cá. Được anh Sáu Cao Thái ủng hộ nên chúng tôi mua thêm một ca nô nhẹ bằng cao su chạy máy Yamaha vượt sóng rất nhanh, định sẽ tìm cách chạy nhanh tới vớt thuyền nhân khi ống nhòm tìm ra được tàu tỵ nạn.
Từ khi có chiếc Shantisuk, tôi, anh Sáu Cao Thái, anh Luke, Jean Pierre, Paul, Trung, anh Wisit, cô Loỏng – một sinh viên Thái từ Bangkok theo Wisit về thăm tôi và tình nguyện giúp chương trình “lưới thuyền nhân” của chúng tôi, ở trên thuyền nhiều hơn trên bờ. Chúng tôi chỉ ghé bờ để đổ dầu lái tàu, mua nước và thức ăn khô. Chúng tôi mua nhiều la bàn (compasses) và nhiều bình nước uống cùng thức ăn khô như mì gói để tặng thuyền nhân. Hầu như cả tháng tôi chỉ ăn mì gói. Khi nào nấu được nước sôi và bỏ vào vài cọng rau muống là thấy như “tiên trên đời”. Thỉnh thoảng khi cần ghé thuyền đổ dầu và mua thức ăn, ghé được bến nào chúng tôi cũng mua bún tươi, xì đầu ăn với rau sống thật là tuyệt. Bánh ngọt của Thái có khi giống bánh ngọt miền nam Việt Nam nên khi ghé bến tôi cũng hạnh phúc được ăn những loại bánh như bánh bò, bánh da lợn…
Tôi đang đứng bên trong cửa sổ nhìn qua ống nhòm tìm thuyền nhân, anh Cao Thái chuẩn bị đưa ca nô tới đón một ghe đang kêu cứu.
Công tác của chúng tôi là hễ gặp được thuyền thì tặng họ ngay một chiếc la bàn, nhiều bịch nước mưa và nhiều gói mì ăn liền, định hướng dùm họ và cho họ biết ở vị trí và thời điểm đó, nếu đi hướng 80 độ (ví dụ), thì sẽ tới trại tị nạn Trad trong hai giờ, nếu vì lẽ gì mà thuyền trôi xa thì lấy hướng 125 độ sẽ có gió đưa về Songkhla, mà phải đi ít nhất 6 giờ mới tới. Nhiều ngày chúng tôi chỉ ăn mì gói khô. Bắc nước sôi nấu mì khi tàu nhồi sóng sánh rất vất vả mất thì giờ. Anh Luke hay chịu khó luộc bún khô ăn với xì dầu. Có khi một con cá bay, nhảy tuốt lên boong thuyền, tôi thương định thả xuống nhưng các anh lái tàu không chịu, các anh đem chiên quách, tôi không vui nhưng vẫn phải chiều. Nhưng có những việc tôi không chiều được và các anh phải nghe lời tôi, như việc tôi nhất quyết không đồng ý cho các anh mua súng để bắn hải tặc. Tôi nói “Các anh nói các anh biết võ thì nếu cần, cứ dùng võ thuật, sao đòi bắn người ta? Các anh có biết là một mạng người quý lắm không? Dù là mạng người hải tặc. Một người hải tặc bị giết sẽ gây căm thù cho những người hải tặc khác, họ có thể đá thuyền nhân xuống biển vì bạn họ bị đánh, bị giết. Mọi sự việc đều tương tức rất thâm sâu, tâm bình thường của mình không thấy hết được đâu. Chuyến này rất hiểm nguy, mình phải giữ tâm cho thật từ bi thì mới tiếp xúc được với năng lượng của bồ tát Quan Âm, các anh ạ. Chỉ có tâm từ bi mới che chở cho mình được thôi.”
Thì giờ trên biển của tôi, các em Wisit, Loỏng, Paul, anh Cao Thái lúc còn ánh sáng là thay phiên nhau ôm ống nhòm tìm thuyền nhân. Khi trời bắt đầu hết ánh sáng, tôi hay ngồi yên tụng chú Chuẩn Đề và chú Vãng Sanh. Trước hết tôi cầu cho những người chết trên ghe, sau đó tôi chú nguyện cho những thuyền nhân đã chết trên biển. Tôi tụng chú Tiêu Tai Cát Tường cho những người còn bơ vơ trên biển và khấn nguyện những người đã chết chỉ đường cho thuyền bơ vơ được sớm gặp chúng tôi. Khi trở về, nghe tôi trì chú có tuần tự lớp lang như thế Thầy hay chế nhạo: Cái cô này tụng kinh trì chú mà cũng “ngoại giao chánh trị” dữ ha?
Cách trị bệnh say sóng
Dần dần tôi tìm ra cách không bị say sóng. Khi có cơn giông bão, tôi lập tức ngồi dậy ngồi thiền ngay. Hai tay tôi nắm chiếc đà ngang trên nóc thuyền. Mông tôi chỉ chạm nhẹ trên sàn thuyền. Sóng có nghiêng bên này ngả bên kia, lắc lư thì tôi cứ chủ động nhảy lên cao, hụp mình xuống cùng với sóng chứ không “bị” sóng nhồi, vì thế tôi khỏe như mới đi nhảy sóng chơi một hồi. Thấy em Loỏng ói ra mật xanh mà thương, tôi bày cách nhảy sóng như tôi nhưng em không làm theo, cứ nghĩ rằng nằm thì khỏe hơn.
Anh Sáu Cao Thái của tôi cứ chế nhạo tôi và về nhà thuật với mọi người: cái cô này (tức là tôi) lạ lắm, tức cười lắm, máy thuyền hư, tôi và các anh Luke, Jean Pierre, Paul… xanh mặt lo sửa máy muốn hết hơi, vậy mà cô ấy chỉ ngồi thiền(!) tỉnh bơ vậy đó. Tôi cười cười nhủ thầm: Cái cô này thì dốt đặc về máy móc, có chạy lăng xăng cũng chỉ làm phiền thiên hạ. “Nghề” của “cô này” là ngồi yên chú nguyện năng lượng thật lành của bồ tát Quan Âm đến chỉ cách cho anh Jean Pierre, anh Paul, anh Luke khéo tay hơn một chút để chữa máy cho đúng. Vậy là đóng góp nhiều lắm đó. Mà thật thế. Sau khi sửa máy xong chúng tôi chạy về Songkhla, vừa vào đến bến cắm neo các anh hô hoảng lên: Ủa? Sao cái bánh lái rơi đâu mất rồi? Lặn xuống biển chỗ gần bến Songhla khá cạn, nhưng tìm hoài không ra. Tôi cười tủm tỉm: Bánh lái chắc rớt ngoài hải phận quốc tế rồi, thuyền đi vào tận đây là do bồ tát Quan Âm lái chứ ai?
Thoát nạn hải tặc
Một hôm thuyền chúng tôi ghé lại Trad để sửa máy và thay một số phụ tùng bị hư. Thuyền phải ở lại một tuần, anh Luke phải lên tận Bangkok rước thợ xuống Trad chữa giúp những hư hỏng nặng trong máy. Tôi có dịp lên bờ mua bún tươi, rau sống, đường, ớt, xì dầu, chanh… ôi là ngon! Nhớ mấy tuần trước chỉ ăn mì khô uống nước lạnh trên biển mà bây giờ có bún tươi ăn sau nhiều ngày nhảy sóng, thật tuyệt. Em Loỏng rất xinh nên được các anh Cảnh Sát Trad chú ý và tìm cách làm quen. Chiều hôm sau, em sinh viên Thái Lan này bỗng hoảng hốt về báo tin: “Cô ơi, anh cảnh sát trưởng báo cho em là anh ta được tin một toán cướp địa phương đã chực sẵn rồi, chỉ đợi thuyền chúng ta ra khơi họ sẽ nhào vô cướp của mấy người đàn ông và hãm hiếp hai phụ nữ (là tôi và Loỏng) trên tàu.” Hình như tin đó không sai lắm vì tối qua, khi các thuyền đánh cá ra khơi, chúng tôi vừa chuẩn bị xong tàu cũng định ra khơi, đang tiến về eo biển thì chợt thấy một thuyền đánh cá có vẻ không bình thường lắm xuất hiện phía tay phải eo biển, xăm xăm như chắn ngang lối chúng tôi. Anh Luke nhanh mắt vội bẻ lái quay trở về. Tàu chúng tôi sắp quay về thì thấy xuất hiện chiếc thuyền thứ hai từ phía trái, cũng như muốn chặn đầu thuyền chúng tôi càng khiến anh Luke thả hết ga quay ngay về bờ. Anh Luke rất tự tin và hay khoe là anh giỏi võ lắm. Anh cũng có tài bắn súng vèo ngang lỗ tai thiên hạ, đủ để họ khiếp vía mà không thèm giết. Anh cứ thuyết phục tôi cho tiền mua súng nhưng tôi kiên quyết không.
Tối đó về lại bến, anh Luke lại có dịp thuyết phục tôi cho phép anh mua súng, nhưng tôi nghĩ mình có thể làm hay hơn. Sau khi nghe em Loỏng báo cáo những gì cảnh sát nói, cả Loỏng cả Wisit đều hoảng hốt và đề nghị tôi nên lên Bangkok mướn cảnh sát chuyên môn kéo thuyền hư giữa biển để mình có thể rời eo biển Trad này một cách an toàn mà không bị cướp. Tôi bàn với riêng anh Luke: mình sẽ mời ông thợ sửa máy từ Bangkok xuống Trad lại, nhờ ông duyệt máy thêm một lần nữa. Khi ông sửa xong mình cho tiền ông đi về, đưa ông lên tận xe đò và dặn ông đừng cho ai biết thuyền chúng tôi đã sửa xong. Nhờ ông vui lòng loan tin ngoài bến xe đò là thuyền chúng tôi hư nặng lắm, cần sửa nhiều nên ông phải trở lên Bangkok mua thêm phụ tùng mới. Hai em Loỏng và Wisit đều theo ông mà về Bangkok luôn. Tôi ngờ rằng giữa cảnh sát và cướp biển có liên hệ với nhau nên hôm đó tôi đem bánh kẹo Sô Cô La và mua thêm một số quà nữa, đến gặp và tặng quà cho ông quận trưởng và ông cảnh sát trưởng, trình hộ chiếu Pháp của chúng tôi. Tôi thưa với họ chúng tôi là công dân Pháp, đại sứ Pháp ở Bangkok căn dặn chúng tôi đi tới đâu là phải đến thăm quận trưởng và cảnh sát trưởng để nhờ bảo vệ an ninh. Hai ông đều hỏi chúng tôi định ở bao lâu, tôi nói vì thuyền chúng tôi hư, chờ ông thợ máy lên Bangkok mua thêm phụ tùng rồi trở về đây, sửa xong chắc cũng mất hai tuần. Hai ông vui vẻ điện thoại khắp nơi, ra lệnh cho cảnh sát ven biển bảo vệ an ninh cho chúng tôi từ hôm nay cho đến hai tuần nữa, tới khi tàu chúng tôi sửa xong. Sáng hôm sau nữa, tôi ra chợ mua bún, rau sống, tàu hũ, rau cải như thường ngày và báo tin chắc còn ở đây lâu. Từ trên thuyền, anh Luke và anh Sáu hú giục tôi lên để đi dạo một vòng thử máy chơi. Tôi lên thuyền và chúng tôi ra đi giữa ban ngày. Thuyền giả bộ chạy vô chạy ra hai vòng, đến vòng thứ ba thấy vắng hoe không có thuyền nào ở eo biển, chúng tôi đi tuốt ra hải phận quốc tế và tiếp tục cuộc hành trình. Thế là thoát nạn hải tặc vì họ tưởng chúng còn hai tuần nữa mới đi!
Chuyến đó chúng tôi gặp một chiếc ghe tị nạn, chúng tôi không đưa la bàn cho họ nữa mà dặn họ chạy theo chúng tôi về thẳng trại tị nạn Songkhla. Thuyền đi hai ngày mới tới, thật bình an. Tôi điện thoại cho Thầy báo tin thoát nạn cướp, Thầy sợ quá buộc tôi phải đóng cửa chương trình trở về ngay, vì Thầy cũng vừa nghe chính phủ Chirac ở Pháp mới tài trợ một chương trình vớt thuyền nhân bằng một chiếc tàu lớn của Pháp đặt tên Ile de Lumière do bác sĩ Bernard Kouchner hướng dẫn. Tôi biết ông Đại Sứ Pháp Jacques Gasseau chắc chắn có đóng góp trong sự thúc đẩy này nhờ những báo cáo rất nhiệt tình của ông.
Khi về tới Pháp, tôi trình nhật ký thưa rõ cho Thầy những tin tức thuyền nhân trên biển. Toàn là những chuyệt nát lòng nên Thầy có sáng kiến viết những sự thật này dưới hình thức truyện ngắn “Hồng” – chuyện một cô bé trên thuyền tị nạn bị chết chìm và biến thành con cá Hồng. Đó toàn là chuyện thật do tôi báo cáo sau khi nghe thuyền nhân kể lại. Chuyến “lưới cá” cuối cùng này tôi liên lạc được với một số người đáng tin cậy (như thầy Từ Mẫn, chú Thanh Tuệ, anh Hoàng Văn Giàu) ở các trại như Trad, Songkhla, Ratchasima để khi về tôi sẽ gửi thư và tiền giúp đỡ cho các thuyền nhân nạn nhân hải tặc. Mỗi tuần tôi nhận hàng trăm bức thư cầu cứu, kể những chuyến gian truân trên biển của những gia đình nạn nhân hải tặc.
Lúc này có quá nhiều thuyền nhân bị hãm hiếp trên biển và người Việt nào cũng thù hằn hải tặc Thái Lan. Sau nhiều ngày quán chiếu, Thầy viết được ra bài thơ Hãy Gọi Đúng Tên Tôi, và Thầy nói nhờ quán chiếu và viết ra được bài thơ này, Thầy mới thấy trong lòng vơi nhẹ. Thầy nói rằng Thầy phải viết để các con phổ biến bài thơ này ngay để con người bớt căm thù nhau. Bài này chúng tôi được nghe Thầy dạy lần đầu trong một buổi thiền trà sáng.
Đừng bảo ngày mai tôi đã ra đi
Bởi vì chính hôm nay tôi vẫn còn đang tới
Hãy ngắm tôi thoát hình trong từng phút từng giây
Làm đọt lá trên cành xuân
Làm con chim non cánh mềm
Chiêm chiếp vui mừng trong tổ mới
Làm con sâu xanh trên cuống hoa hồng
Làm gân viên ngọc trắng tượng hình trong lòng đá
Tôi còn tới để khóc để cười, để ước mong để lo sợ
Sự xuất nhập của tôi là hơi thở
Nhịp sinh diệt của tôi cũng là tiếng đập một lần
Của hàng triệu trái tim
Tôi là con phù du thoát hình trên mặt nước
Và là con chim sơn ca mùa xuân về trên sông đón bắt phù du
Tôi là con ếch bơi trong hồ thu
Và cũng là con rắn nước trườn đi tìm cách nuôi thân bằng thân ếch nhái
Tôi là em bé nghèo Uganda
Bao nhiêu xương sườn đều lộ ra
Hai bàn chân bằng hai ống sậy
Tôi cũng là người chế tạo đạn bom
Để cung cấp kịp thời cho các dân tộc Á Phi
Tôi là em bé mười hai, bị làm nhục, nhảy xuống biển sâu
Tôi cũng là người hải tặc sinh ra với một trái tim chưa biết nhìn biết cảm
Tôi là người đảng viên cao cấp, cầm quyền sinh sát trong tay
Và cũng là kẻ bị coi là có nợ máu với nhân dân
Đang chết dần mòn trong trại tập trung cải tạo
Nỗi vui của tôi thanh thoát như trời xuân,
Ấm áp cỏ hoa muôn lối
Niềm đau của tôi đọng thành nước mắt, ngập về bốn đại dương sâu
Hãy nhớ gọi đúng tên tôi
Cho tôi được nghe một lần tất cả những tiếng tôi khóc, tôi cười
Cho tôi thấy được nỗi đau và niềm vui là một
Hãy nhớ gọi đúng tên tôi
Cho tôi giật mình tỉnh thức
Và để cho cánh cửa lòng tôi để ngỏ
Cánh cửa xót thương.
Sau khi đọc bài thơ này cho chúng tôi nghe, Thầy dạy “Nếu 20 năm trước thầy là một đứa bé ra đời mà không biết cha là ai, mẹ nó là một cô bé 15 tuổi chưa biết nuôi thân mà phải nuôi con nên cứ để cho nó đói. Khi đói bé xin ăn, không có nhiều người cho bé ăn nên nó phải ăn cắp. Người ta đánh đập nó vì nó ăn cắp. Cho đến năm 18 hay 20 tuổi nó chỉ được dạy bằng roi vọt, nó không biết thương là gì. Ở ngoài biển không có cảnh sát, không ai bắt, nó phải thử thời vận, cướp một ít vàng, một số dollars vì đó là dịp may duy nhất đời nó. Từ nhỏ đến tuổi ấy có ai dạy nó thế nào là tình thương đâu? Còn thầy là người quá may mắn, tuy sinh ra giữa thời chiến nhưng thầy có cha mẹ, có thầy tổ, có bạn, có điều kiện tốt để thành người như hôm nay. Thầy không có gì hãnh diện là mình hơn chú hải tặc 20 tuổi đó hết. Nếu các con quý thầy thì các con nên cám ơn những điều kiện giúp thầy nên vị thầy tử tế của các con. Nếu chú thanh niên hải tặc kia tàn ác, thì những người sống quanh chú ấy cũng có trách nhiệm, dù ít hay nhiều, về sự trưởng thành xấu xa của chú, và ngay cả chúng ta cũng có ít nhiều trách nhiệm.”
Chính bài thơ này cũng đem đến cho chúng tôi nhiều người tri kỷ. Nhiều vị mục sư hay linh mục đến ghi tên tham dự một khóa tu với Thầy và báo cáo rằng lý do họ đến với Thầy là nhờ đọc được bài thơ này. Nhạc sĩ Rashani và nhạc sỹ Joseph Eymet đã phổ nhạc bài thơ này bằng tiếng Anh, hai bản nhạc khác nhau. Nhạc sĩ Anh Việt phổ nhạc bài thơ này bằng tiếng Việt.
Trở về Phương Vân Am
Chú Thanh Hương cần trình luận án nên phải về Paris, nhưng Phương Vân Am lại thêm bé Thủy, con anh Triết và bé Minh Tâm con của Trần Thị Hằng và Trần Quang Hải. Anh Triết ba bé Thủy và Hằng mẹ cháu Minh Tâm cần về Paris làm việc kiếm tiền nuôi con. Thế là tôi có thêm hai cháu để chăm sóc khi ba Triết của bé Thủy vắng mặt và mẹ của Minh Tâm đi Paris tìm việc. Bé Minh Tâm hay bị nhức chân, thấp khớp ở dưới mắt cá chân, tôi hay đem lá choux hơ nóng và đắp cho bé – chuyện này tôi quên lâu rồi nhưng chính bé nhắc hoài nên tôi mới nhớ! Bé Thủy nằm chiêm bao thấy má ở Việt Nam và khi thức dậy không thấy má nữa nên khóc nhớ mẹ, tôi ôm bé vào lòng cho bé đỡ nhớ. Tôi đưa cháu vào học trường mẫu giáo dưới xóm Fontvannes. Bé Thủy khiến cô giáo rất ngạc nhiên và cảm phục vì sau vài giờ học, khi các bạn ra sân chơi, bé xách chổi đi quét lớp và khi các bạn ra về, cháu xếp lại ghế bàn ngay ngắn rất cẩn thận. Buổi chiều, Sư Ông (là thầy chúng tôi, thầy ba mẹ các cháu) ngồi chơi và dạy các cháu nhiều điều mà chắc các cháu nhớ đời. Khi Sư Ông cho các cháu xem phim trên truyền hình, đến chỗ nào gay cấn, sợ hãi, Sư Ông dặn “Đừng sợ nghe các con, đây là họ chỉ đóng phim thôi, họ không chết thật đâu!” Minh Tâm nhớ rất giỏi, mỗi lần không có Sư Ông ở nhà, má tôi ngồi xem phim với cháu và bé Thủy, Minh Tâm nói: “Bà Ngoại đừng sợ nghe, họ đóng phim thôi đó bà ngoại, họ làm bộ chết đó!” khiến má tôi mới ở Việt Nam qua, nể quá hỏi “cháu này con nhà ai mà khôn ghê?”
Bé Minh Tâm hay đứng nhón chân, giang tay ra quay vòng tròn theo lối các vũ khúc ballets của Pháp, nhưng bé Thủy lại xòe hai tay ra múa dịu dàng theo lối rất Việt. Một hôm nhìn vào gương tôi chợt nói: ui chao, mới chưa đầy hai năm qua mà mình già nhanh quá. Bé Thủy dạy tôi: Cô Chín đừng lo, cứ mua cái cây son đỏ đỏ thoa lên là trẻ đẹp lại liền!! Tôi quá sức tức cười ôm cháu hôn và hỏi: Ai dạy con thế? – Con thấy má Thanh của con làm vậy! Có bữa cháu ôm tôi và nói: Cô Chín cưng con nhiều nhiều thật nhiều nghe cô Chín? – Đâu được, nếu Minh Tâm mà biết cô Chín thương con nhiều nhiều thật nhiều, Minh Tâm sẽ buồn lắm. Bé Thủy đáp: Thì cô Chín đừng cho ai biết hết, chỉ mình cô Chín và con biết thôi! Sư Ông bèn dạy: “Cô Chín sẽ thương con nhiều thật nhiều trong tình thương đối với bé Thủy, cô Chín cũng thương Minh Tâm nhiều thật nhiều trong tình thương đối với Minh Tâm. Giống như cô thương hoa tu líp nhất theo lối thương hoa tu líp mà cũng thương hoa hồng nhất theo lối thương hoa hồng. Hoa nào cô Chín cũng RẤT thương, giống như cháu nào cô cũng thương nhiều thật nhiều, không ai bằng ai, không ai hơn mà cũng không ai thua.” Tôi thầm cám ơn Thầy đã dạy cháu tình thương bất nhị, đơn sơ mà trẻ con nào cũng có thể hiểu được. Bốn chục năm sau, thầy chúng tôi có hơn 700 đệ tử xuất sĩ, trai và gái, mỗi vị mỗi khác, giống như hơn 700 loài hoa khác nhau, và Thầy chúng tôi làm được điều đó: Hoa nào Sư Ông cũng rất thương, thật nhiều, không như nhau, không thương ai hơn mà cũng không thương ai thua…
Lần đi Thái Lan chót của tôi quá lâu, nên ngày về, cả chín người trong Phương Vân Am đều lên tận Paris đón tôi. Khi xe đi ngang rừng Fontainebleau, rừng thu ôi là đẹp. Xe vừa đậu, mọi người đang dần dần đi thiền hành vào rừng, lá rừng thu vàng đỏ, tím, nâu rơi rơi, tôi hết sức ngạc nhiên nhìn bé Thủy sáu tuổi, giang tay ra chỉ những chiếc lá thu đang rơi và nói: “Thu hôm nay tôi đi trong rừng thu vàng óng ả này, ngắm từng chiếc lá vàng rơi…” và bé đọc dịu dàng ngọt ngào đoạn văn ngắn tả mùa thu của nhà văn Đinh Hùng “Đường này hiu hắt, tôi đem lòng về đây để gặp mùa thu thương nhớ cũ, chân ai đi xa vắng ngoài kia, hay đó chỉ là gió thoảng mong manh?” Tôi cảm động suýt rơi nước mắt: “Trời! Sao mà con giỏi thế. Con học hồi ở Việt Nam với má Thanh của con hả?” Bỗng tôi ngước nhìn lên thấy Thầy đang cười tủm tỉm, đi chầm chậm phía sau và tôi chợt biết ai là người dạy cháu. Cũng như hồi bé Minh Tâm mới hai tuổi rưỡi, ba mẹ đưa tới văn phòng Phái Đoàn chơi, Thầy đã bế cháu và dạy cháu nói câu tiếng Việt đầu tiên: Mùa thu lá đỏ đẹp. Mẹ cháu kể lại rằng khi cháu Minh Tâm đi thăm ông nội là giáo sư Trần Văn Khê, trước đó cháu chưa nói được câu nào mà lần này gặp ông nội, mẹ cháu dạy con nói gì cho nội nghe đi con, thì cháu nói: Mùa thu lá đỏ đẹp khiến ông nội cháu vô cùng thán phục: Ô cháu tôi nghệ sĩ quá!
Tháng 10 năm 1978, ba Triết của bé Thủy xin được thị thực đi Hoa Kỳ với con gái, tôi ôm cháu và khóc nhưng cũng mừng cho cháu sắp có một mái nhà ấm êm. Các cháu sống tạm với tôi như vậy chứ tôi phải lo việc “nước” hoài, không thể nào lo cho các cháu bằng tình mẹ.
Mỗi tuần tôi nhận hơn 300 bức thư cầu cứu của thuyền nhân, nạn nhân hải tặc. Tôi trả lời thư, báo tin đã đọc rất kỹ bức thư diễn tả nỗi khổ niềm đau của họ, đã cùng khóc với họ và xin gửi cho họ một chút lòng (5 mỹ kim hay 10 hay 15 hay 20, 30 mỹ kim tùy hoàn cảnh và số người trong gia đình). Sở dĩ tôi có tiền lập dự án lưới người trên biển bằng ghe đánh cá và tiếp tục gửi cho thuyền nhân là nhờ còn số tiền 100.000 mỹ kim tôi xin của Ủy Ban Hòa Lan cho thuyền nhân gửi qua Luke Fogarty ở Singapore thay vì qua Willie Tay. Khi chuyện không thành, Luke đã gửi số tiền đó đi Thái Lan để tôi tiếp tục lo cho thuyền nhân. Thư và tiền tôi nhờ ngân hàng ở Bangkok gửi qua người đại diện của tôi trong trại nên thuyền nhân viết thư cho tôi không thể nói không thật. Lúc này nhà đã có máy photocopy nên tôi viết một bức thư tay thật dễ thương chừng 2/3 trang và copy thành nhiều bản, đại ý là chia buồn, chia sẻ cho họ biết Phái Đoàn Phật Giáo mà thầy chúng tôi đại diện là ai, kể cho họ nghe chúng tôi đã đọc rất kỹ từng dòng chữ của họ, đã cùng xót xa khóc với họ vì những rủi ro bất hạnh của họ trên biển. Rồi với mỗi thuyền nhân tôi thêm một câu riêng cho đặc biệt khiến người nhận có cảm tưởng đây là bức thư chỉ viết riêng cho mình. Viết ba trăm bức thư mỗi tuần an ủi từng người, gửi một chút lòng là việc khá bận rộn. Nhưng điều đó cũng giúp lại tôi bớt tuyệt vọng, tôi vẫn thấy mình còn ích lợi cho một số người.
Một sáng nọ trong buổi trà sáng với Thầy, Thầy báo tin đêm qua Thầy mơ thấy mình ngủ trong ngôi nhà từ đường của gia đình Thầy, và khi thức dậy Thầy nghe khỏe nhẹ vô cùng, như vừa trút được một gánh nặng. Ngồi thiền để quán chiếu thêm về giấc mơ, Thầy chợt nhận ra rằng xưa nay mình vẫn đau xót thấy làm việc kêu gọi cho hòa bình hết lòng, giúp thuyền nhân hết lòng, làm việc 18 giờ trong một ngày không rời một phút giây thất niệm, ăn cơm gạo gãy cho chim ăn ở Pháp, nhịn đói mỗi tuần một ngày, đi cứu thuyền nhân thì ăn uống còn thanh bạch hơn, cơm trắng xì dầu rau muống luộc, cơm trắng xì dầu rau muống xào, cơm trắng xì dầu rau lang luộc, cơm trắng xì dầu rau lang xào, mới nhận lời dự một bữa tiệc tại nhà hàng chay do mẹ cô Nancy Chng đãi mà cũng mặc cảm tội lỗi, khi về nhà đêm đó bị tịch thu hộ chiếu nghĩ rằng mình tu chưa tinh chuyên – chắc tại đi ăn tiệm với gia đình cô Nancy Chng trong khi người ta chơi vơi ngoài biển cả – nên chuyện cứu vớt thuyền nhân không thành. Sau giấc mộng tối qua Thầy quán chiếu thấy rằng nghiệp cả toàn dân mình nặng quá – trong quá khứ đã thôn tính cả dân tộc Chàm, chiếm một phần lớn đất Campuchia – vậy thì mình là ai mà dám kê vai lên gánh cái cộng nghiệp của toàn dân năm sáu chục triệu người đó. Nghiệp lành mình còn quá mỏng, chưa gánh vác nổi cho nghiệp nặng của cả dân tộc nên mình chìm theo thôi, mỗi người một cách, chìm nhưng không chết để biến rác thành hoa… Việc mình làm là cộng nghiệp tốt nhưng cộng nghiệp này chưa đủ lớn để cứu bao nhiêu thảm trạng của đất nước. Thôi thì cứ giữ tâm thanh bạch trung kiên với lý tưởng từ bi. Mọi việc cứ để chư tổ tiên huyết thống, tổ tiên đất đai và tổ tiên tâm linh của toàn dân đưa tới kết quả thôi. Kết quả nếu mình nhận nhiều bùn thì cũng mở rộng lòng ra đón nhận, không mặc cảm tội lỗi, mà kết quả có nhiều hoa thì cũng nhẹ nhàng vui đón, không kiêu sa hãnh diện. Vì kết quả đó không phải thành quả của riêng mình. Đó chỉ là phước đức của cộng nghiệp của toàn dân. Quan trọng nhất là giữ bước chân cho chánh niệm, hộ trì gìn giữ cho toàn thân tâm có an bình, có tỉnh thức và một hơi thở nào, một khởi niệm nào, một lời nói nào, một hành động nào cũng phải là hành động của từ bi.
Tôi như một cây cao bị cắt tận gốc
Chúng tôi không còn dịp lập thêm các trung tâm tái thiết và phát triển như đã làm, dù trước đó vẫn mơ tưởng rằng khi chiến tranh chấm dứt, các công tác sẽ gia tăng rất nhanh, rằng không còn bom đạn, anh em chúng tôi mặc sức mà xây dựng và các bạn Tây Phương nhất là Thụy Điển sẽ giúp đỡ rất nhiều, đó là chưa kể Hà Lan, Tân Tây Lan cũng đồng ý giúp như Thụy Điển qua các giáo hội địa phương, bạn của Phật Giáo.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, tiền của Ủy Ban Tái Thiết và Phát Triển Xã Hội của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất do Hòa Thượng Thiện Hòa đứng tên gửi ở ngân hàng để thực hiện trọn vẹn nhiều chương trình xây dựng xã hội và phát triển bị ngưng chặn sử dụng, rồi bị nhà nước tịch thu hết. Trước đó 5 ngày chúng tôi gửi từ Pháp số tiền 175.428 mỹ kim về cho Hòa Thượng Thiện Hòa Trưởng Ban Tái Thiết và Phát Triển của GHPGVNTN, là số tiền gửi cho 9.746 cháu cô nhi của 42 tỉnh Nam Việt Nam, các cô nhi này là những cháu còn may mắn được sống với bà ngoại hay bà nội hay với người cô dì nghèo mà không sống trong cô nhi viện. Mỗi cháu mỗi tháng chỉ được 6 dollars. Bảy tám quý trước tháng 4 năm 1975, khi nhận được tiền mỗi quý, Hòa Thượng Thiện Hòa cho người chuyển đến tỉnh Giáo Hội rồi tới sư cô Trưởng Ký Nhi Viện địa phương, quý cô phát luôn cho từng cháu có người bên này bảo trợ (mỗi ba tháng một lần).
Tháng 6 năm 1975 bà Dương Quỳnh Hoa, Bộ Trưởng Bộ Xã Hội Chính Phủ Lâm Thời Miền Nam Việt Nam tuyên bố đóng cửa tất cả các chương trình cứu trợ phát triển xã hội đang làm việc phụng sự trước tháng 5 năm 1975. Dĩ nhiên Ủy Ban Tái Thiết và Phát Triển Xã Hội của GHPGVNTN, trường TNPSXH, các ban Từ Thiện của các chùa cũng nằm trong số những chương trình đó. Bà Quỳnh Hoa nói: “Chuyện lo cho những người khổ là chuyện của nhà nước, của Bộ Xã Hội Chính Phủ Lâm Thời. Quý vị không cần phải lo.”
Cái gì cũng quá mới với một chính phủ mới nên họ phải lo xa là sẽ không kiểm soát được. “Thà đóng cửa hết các chương trình xã hội rồi mở ra từ từ cho dễ kiểm soát”. Với mắt thương nhìn cuộc đời, chúng tôi tập nghĩ như thế để không bức xúc. Nhưng Công An bắt giam thầy Giám Đốc Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội hơn hai tháng rồi mà vẫn chưa thả. Anh Lê Nguyên Thiều thì mỗi sáng xách hồ sơ TNPSXH lên Công An trình bày, 7 giờ tối trở về nhà. Cứ như vậy suốt cả tháng.
Đổi trắng thay đen
Một hôm có giấy báo là ngày 7 tháng 7 năm 1975 tới, Công An Thành Phố sẽ lên soát Văn Phòng và toàn Trung Tâm TNPSXH ở Phú Thọ Hòa. Anh Thiều mời anh Mười Anh, Trưởng Ban Tôn Giáo Thành Phố Hồ Chí Minh lên làm chứng nhân dùm chúng tôi vì anh Thiều ngại họ quăng tài liệu xấu vào rồi vu oan chúng tôi làm chính trị để có cớ đóng cửa chương trình. Anh Mười Anh có đem máy ảnh chụp hình trong thời gian khám xét. Nhưng lạ quá! Công An gì mà lục soát, quăng thô tháo giấy tờ hình ảnh cứu trợ của chúng tôi rồi vơ vét như ăn cắp tất cả những thứ gì quý giá, từ máy chụp ảnh, đồng hồ tường, đồng hồ bàn đến máy đánh chữ, cả những cây bút máy, giấy trắng văn phòng phẩm thứ tốt chưa xài đến thuốc men loại còn tốt, cái gì bán được là họ vơ vét hết. Các anh em văn phòng TNPSXH xin làm biên bản những gì họ lấy, nhưng họ không làm. Anh Mười Anh ngồi im lặng chụp hình. Chúng tôi an tâm nghĩ anh sẽ báo cáo trung thực, vì bề gì chúng tôi cũng biết rõ anh Mười Anh vốn đã từng ăn nhờ ở đậu nơi các chùa Sài Gòn trong thời gian chiến tranh, biểu tình, trốn chính phủ. Nhưng sau đó khi có dịp được đọc báo cáo đăng trên báo Công An về cuộc khám xét ngày 7 tháng 7 năm 1975 đó, các anh em TNPSXH mới vô cùng sốc. Theo báo Công An ra tháng 8 năm 1975, anh Mười Anh nói rằng anh chụp được những tấm ảnh trong đó chính các tác viên xã hội của Trường TNPSXH đã nhào vào thô tháo ăn cướp những vật dụng của Trường họ!!!
Vài mươi năm sau, càng quán sát, nhìn sâu nhiều chuyện éo le xảy ra trên đời này, tôi học nhiều bài học về các tập khí xấu đổi trắng thay đen của những người làm chính trị theo nghĩa xấu, bên nhà nước Cộng Sản Việt Nam cũng có mà bên tập thể Việt Kiều chống cộng cũng có. Vì thế tôi nghĩ: có thể anh Mười Anh không báo cáo sai, anh báo cáo trung thực nhưng vì “tập khí xấu đổi trắng thay đen” của những người thiếu liêm khiết, nếu đã chủ trương đóng cửa Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội thì họ để tất cả các chi tiết có thật như ăn cướp đồng hồ tường, văn phòng phẩm, ăn cướp thuốc men, nhưng thay vì nói Công An ăn cướp thì đổi trắng thay đen nói anh em tác viên TNPSXH ăn cướp. Điều này cũng xảy ra trong bài báo Công An viết về sự kiện Bát Nhã năm 2009, đổi trắng thay đen, chụp mũ “Sư Bà Chân Không” mà vì không chính niệm nên để nhầm hình Hòa Thượng Thanh Chỉnh (!). Để chụp mũ những người tranh đấu cho nhân quyền, họ cũng đổi trắng thay đen nhiều thứ. Bây giờ đây, nhìn cho sâu thì người xấu và người tốt có mặt cùng khắp, bên Cộng Sản cũng như bên Chống Cộng. Bên Cộng Sản có những người hay dùng thủ đoạn xấu nhưng cũng có những người rất liêm sỉ, rất tốt, xứng đáng là những viên trân châu của văn hóa Việt Nam như nhóm các nhà văn Cộng Sản trong Nhân Văn Giai Phẩm, những người Cộng Sản như Phùng Quán, Đào Duy Anh, Hoàng Cầm, Lê Đạt… Bên Chống Cộng có nhiều người rất liêm trực và thanh bạch như Doãn Quốc Sỹ, Lê Thương và nhiều nhà văn trốn từ Miền Bắc như Duyên Anh, Hoàng Hải Thủy…, nhưng cũng có những người sẵn sàng trắng trợn bóp méo sự thật như trường hợp năm 1977, một tờ báo Việt Kiều ở Paris nổi tiếng chống Cộng cũng trắng trợn bóp méo sự thật về chương trình cứu trợ thuyền nhân trên biển Máu Chảy Ruột Mềm của Thầy chúng tôi. Chuyện là anh Antoine (người giúp chúng tôi việc xếp và phân phối 2.000 cái quần Jeans mà hãng sản xuất quần Jeans Levis ở Singapore gửi cho thuyền nhân) báo cáo với tờ báo ấy trung thực những gì xảy ra khi tôi đi cứu trợ – Antoine nói có thu thanh, nếu cần đưa ra toà thì sẽ thấy anh không nói như tờ báo kia bóp méo như vậy – nhưng vì có ác tâm không thua gì tờ báo Công An kia nên tờ báo chống cộng này ghi đúng hết chi tiết những gì Antoine kể, chỉ sửa đoạn “tôi xin chị Battick Mai cho tôi biên nhận những thức ăn chị mua cho thuyền nhân để tôi trình thủ quỹ người Singapore là anh Willie Tay của Chương Trình Máu Chảy Ruột Mềm” thành “Battick Mai đòi tôi trình biên nhận những số tiền xài cả 200.000 dollars, và vì tôi không có một biên nhận nào nên chị ấy chửi tôi thậm tệ” (điều này hoàn toàn do tờ báo chống cộng ác tâm thêm vào, chị Battick Mai có nhắn tin chị sẽ ra tòa làm chứng nếu tôi muốn). Thật ra buổi chiều hôm đó, chị Battick Mai đang quá đau lòng, tôi và Antoine cũng thế, vì cả nhóm chúng tôi mới đi suốt cả ngày sang Mersing Mã Lai, chứng kiến 62 thuyền nhân bị Cảnh Sát Mã Lai đuổi ra biển và thấy mình quá bất lực. Sáu mươi hai người này cũng báo cáo là chính mắt họ thấy 61 thuyền nhân trên một chiếc thuyền khác bị đuổi ra biển chết chìm trước mắt họ. Về tới văn phòng chiều hôm đó mặt ai cũng như mới đi đám ma tập thể về. Khi nghe tôi nhắc xin biên nhận để trao cho ông thủ quỹ Willie Tay, chị Battick Mai bỗng nổi giận la lên: “Xưa nay tôi đi cứu trợ thuyền nhân bỏ ra hai ba trăm dollars đâu có biên nhận. Nay cô mới nhờ tôi mua có năm cần xé cải su và năm cần xé trứng vịt mà bày đặt đòi biên nhận”. Tờ báo chống cộng ghi ngược lại, nói chị Battick Mai đòi xem biên nhận tôi xài gì với tiền tôi lạc quyên được cho thuyền nhân hay là tôi đã ăn tiêu bậy bạ ở đâu rồi nên không có tờ biên nhận nào! Tôi là phó chủ tịch kêu gọi đóng góp cho thuyền nhân, thiên hạ hưởng ứng thì Hội WCRP (World Conference on Religions and Peace) bỏ tiền vào quỹ của Chương Trình Máu Chảy Ruột Mềm của WCRP do thủ quỹ Willie Tay giữ. Phó Giám Đốc đâu có thì giờ giữ tiền, làm sổ như người thủ quỹ. Tôi ký giấy cho chị Battick Mai tới gặp thủ quỹ lãnh ba trăm đô thì tôi nhắc chị phải đưa cho Willie Tay biên nhận xài bao nhiêu tiền cho trứng vịt, bao nhiêu cho cải su để thủ quỹ dễ làm việc. Chị Mai là người rất tốt nhưng rất bình dân theo cách các bà mẹ Việt Nam, khiêng năm cần xé cải su và năm cần xé hột vịt ai cũng thấy, cần gì biên nhận! Tôi biết chị đang buồn chuyện 61 người chết và 62 người sắp bị đuổi ra biển bên Mersing, nên giận quàng qua chuyện kia rồi lên tiếng la lối tôi. Cũng không sao. Tôi đã học cái hạnh của đất từ Thầy chúng tôi, thái độ của người biết tu thì tốt nhất là không cãi lại, để chị chửi cho nhẹ người, bớt buồn trước đã, sau đó từ từ tôi giải thích, chị sẽ hiểu và thương tôi ngay và sẽ làm theo. Vì vậy nên tôi rút vào phòng, để cho chị chửi tôi dữ dội cho nhẹ. Chi tiết Antoine cung cấp thì đúng nhưng tờ báo chống cộng chỉ cần đổi ngược vài chi tiết theo lối báo Công An Việt Nam nói về TNPSXH thì thiên hạ đọc là tin ngay.
Mười ngàn cảm tình viên, trợ tác viên, tác viên và thân hữu của TNPSXH của Ủy Ban Tái Thiết và Phát Triển chờ đợi để tái thiết và xây dựng đất nước, sau khi đọc bài về Ủy Ban Tái Thiết của Giáo Hội và về Trường TNPSXH trên Báo Công An theo lối đổi trắng thay đen những chi tiết như thế thì biết ngay. Biết là TNPSXH, những người trẻ tuổi mang bồ tát hạnh lớn trong lòng, dễ thương như vậy mà còn bị bôi trắng thành đen ngay trên mặt báo như vậy, bởi chủ trương của một chánh phủ như thế, thì các bạn biết không còn cách gì hơn là đi lánh nạn. Đã gần ba tháng qua thầy Giám Đốc TNPSXH, cũng là Tổng Thư Ký Ủy Ban Tái Thiết và Phát Triển của GHPGVNTN, thầy Từ Mẫn vẫn còn ở tù. Các anh Lê Nguyên Thiều, sư chú Phạm Đăng Phú, sư chú Phạm Phước, sư chú Châu Văn Thọ… phải trốn luôn, không trình diện mỗi ngày trước Công An nữa.
Sau đó, thầy Từ Mẫn, Giám Đốc trường TNPSXH được thả ra là nhờ Hòa Thượng Đôn Hậu phải đích thân đến làm giấy bảo lãnh. Anh Thiều thì đành phải vượt biên, nhờ lòng tốt của bà mẹ vợ cho mượn vàng. Anh và vợ con trốn được trong một chiếc thuyền và vượt biển đến một hòn đảo ở Phi Luật Tân, liên lạc được với chúng tôi. Chị Thiều mới có mang cháu thứ ba. Trong trại tị nạn Palawan anh đọc được quyển sách Trái Tim Mặt Trời của Thầy nên sảng khoái quá anh nhất định đặt tên cháu là Lê Nhật Tâm [Trái Tim (tâm) Mặt Trời (nhật)]. Còn ba sư chú kể trên đành ra đời. Riêng gia đình tôi, em Thanh tôi báo cáo lại rằng Công An cứ tới hỏi gia đình có biết tôi làm việc cho ông sư Thích Nhất Hạnh mà chắc chắn ông này là tình báo mật của chính phủ Hoa Kỳ không? Họ hỏi tôi có liên lạc về, có hỏi han nhờ cậy chi không? Gia đình tôi không phải là gia đình duy nhất bị phỏng vấn. Các bạn làm việc trong ban Văn Phòng cũng bị quản lý chặt chẽ. Những ngày đầu tháng 5 năm 1975, tôi điện thoại về, dặn gia đình đừng đi đâu hết, để tôi và Thầy sẽ trở về nước nay mai. Mọi người nghe vậy đều cấm tuyệt tôi không nên trở về Việt Nam vì tên tôi đã nằm chung với tên “đại phản động tình báo Hoa Kỳ CIA là Thầy”. Nghe những tin như vậy tôi tuyệt vọng vô cùng.
Từ năm 13 tuổi tôi đã gắng đem niềm vui cho trẻ em đánh giày, bán báo và bán dạo bằng những bữa đãi ăn các em, tìm học bổng cho các em đến trường, dành hết tiền tôi dạy kèm trẻ để cấp học bổng cho các em bán báo, đánh giày đó. Gặp Bụt, gặp Thầy tôi như diều gặp gió, có cơ hội giúp bao nhiêu đồng bào nạn nhân chiến cuộc dù trong không khí đau thương tràn ngập của chiến tranh. Trong hoàn cảnh bi đát nào, tôi vẫn làm được chút gì đó ích lợi cho sự sống, tìm được người bảo trợ cho một em cô nhi, cho ba em, cho 22 em, rồi hàng chục ngàn cô nhi. Từ là một người trẻ, một mình tự tìm cách giúp đời, nay tôi có cả ngàn bạn trẻ trong phong trào Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội cùng theo đuổi một lý tưởng phụng sự, cùng sống cuộc sống thanh bần mà hạnh phúc. Các bạn tôi dù sống cận kề cái chết cũng vẫn giữ vững niềm tin và tình thương, “dù con người có móc mật moi gan em, đày ải em vào hang sâu tủi nhục thì em vẫn phải nhớ lời tôi căn dặn, kẻ thù chúng ta không phải con người” (Thầy chúng tôi dạy vậy). Rồi đất nước ngưng tiếng bom đạn. Hàng ngàn, hàng chục ngàn các bạn tôi ở Tây Phương, những bồ tát Tây Phương lâu nay đã lặng lẽ giúp bao nhiêu cô nhi Việt Nam mà các cháu không hề biết đến họ, đang sẵn sàng huy động hàng trăm ngàn người trong xứ họ để giúp đỡ các công tác tái thiết và phát triển ở Việt Nam. Nhưng các bạn tôi ở Việt Nam thay vì đi xây dựng hăng say cho đất nước, thì người đang bị tù, người lưu lạc trốn chui trốn lủi như tội phạm trên chính đất nước mình.
Tim tôi như bị bóp nát bởi những cách hành xử thô tháo ấy, tôi muốn hét lên nhưng chỉ nghẹn ngào thành những giọt nước mắt.
Tôi như cái cây cao to, bị cắt ngang không còn gì để sống, không còn cảm thấy một niềm vui tối thiểu nào để tiếp tục sống. Mỗi lần nghĩ đến Việt Nam tôi tràn ngập tuyệt vọng, chỉ muốn ngủ luôn một giấc dài để không thức dậy nữa.
Thở đi con!
Thầy cứ nhắc “Thở đi con, chỉ thở và bám vào phút giây hiện tại thôi. Thầy đi thiền hành này, đứa nào đi với thầy?”
Đang đi thiền hành Thầy lại đánh thức thêm “các con có thấy cây hai bên đường xanh quá không? Nhìn xem, cây thông này mình đặt tên là cây thông Thanh Từ nè, xanh, cao, to và mạnh mẽ như sự tu tập của thầy Thanh Từ đó, tụi con đồng ý không?”
Thấy tôi đứng thẫn thờ như người mất hồn, Thầy nhờ: “Đi ra đây làm vườn với thầy. Trồng dùm thầy mấy cây xà lách này lại, cấy cách nhau năm tấc cho mỗi cây có chỗ thở nhé.” Thầy chỉ chúng tôi cách trồng cà rốt, trồng ngò, trồng cải, những vồng cải xanh to mơn mởn.
Chao ôi, ngò chi mà cọng lớn vậy? To như ngò tây persil mà dòn thơm đúng mùi ngò Việt Nam. Thầy bảo chúng tôi bẻ và ngửi xem để kéo chúng tôi về phút giây hiện tại với những mầu nhiệm của nó. Mobi, Krisana, chú Thanh Hương, Pierre, Neige, Hằng và bé Minh Tâm ai cũng vui. Chỉ có tôi là không muốn sống nữa.
Thầy nhắc “Ngò nè, tần ô tía tô, kinh giới, thơm quá, mai mình làm xuân quyện ăn nhé…”
Hôm sau lại thấy tôi nằm dàu dàu như người muốn chết, Thầy nói như reo vui: “Nắng đẹp quá, đứa nào đi lên thăm cây thông Thanh Từ với thầy?” và Thầy bắt Krisana phải kéo tay tôi đi thiền hành với đại chúng cho bằng được.
Mười hai tu sĩ tự thiêu ở Phụng Hiệp, Cần Thơ ngày 2 tháng 11 năm 1975
Vào đầu năm 1976, có một vị nữ cư sĩ Phật tử đến khóc với Thầy chúng tôi rằng khi vừa được thị thực đi Pháp đoàn tụ với con của bà có quốc tịch Pháp, bà đến chào các tôn đức thì được thầy Quảng Độ gửi cho bà một xấp thư của thầy Huệ Hiền. Thầy Huệ Hiền gửi cho Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất thư thỉnh nguyện nhà nước tôn trọng tự do tôn giáo hơn, trước khi thầy tự thiêu với 11 bạn đồng tu và đệ tử. Vì sợ bị bắt lại thì không gặp được con trai ở Pháp nên bà không dám đem theo. Bà hy vọng đến giải thích cho thầy Thích Nhất Hạnh, thầy có thể làm được gì giúp đỡ. Thầy tin bà ấy nhưng đành chịu vì không có thông tin rõ ràng. Thích Huệ Hiền và 11 người tự thiêu? Ở đâu? Tôi viết thư hỏi em Mười tôi, dĩ nhiên là tôi nói tiếng lóng nhưng Mười hiểu được. Vài tuần sau tôi nhận được một cuốn sách bìa cứng «Sự Nghiệp Vĩ Đại của Chủ Tịch Hồ Chí Minh». Đang tuyệt vọng vì chế độ độc tài ở Việt Nam nên tôi quăng cuốn sách vào sọt rác tức thì. Ai ngờ đó là công trình của anh Thiều ngồi đóng bìa cứng cuốn sách ấy mà bên trong có thư, hình ảnh và thư thỉnh nguyện của 12 người tự thiêu.
Hình ảnh những người tự thiêu
Thư thỉnh nguyện
Di bút thầy Huệ Hiền
Mãi tháng 8 năm 1976 khi anh chị Năm của tôi được xuất cảnh chính thức đi Pháp (vì ngày xưa khi đi học và tốt nghiệp ở Pháp, chị Năm tôi vẫn giữ quốc tịch Pháp), em Mười tôi có ý định táo bạo là gửi tài liệu 12 người tự thiêu ở Phụng Hiệp theo hàng hóa của anh Năm mà không dám cho anh chị Năm biết vì sợ anh chị lo sợ. Cô Mười đề nghị đem gửi dùm anh chị Năm các kiện hàng gửi kèm theo chuyến đi. Cô Mười lái xe chở các kiện hàng chứa chén bát cổ của gia đình anh chị Năm đến hải quan, công an hải quan duyệt xét từng cái bình trà cổ, từng lọ sứ xưa, mở giấy ra xem cẩn thận, xong họ đậy lại, em tôi được phép dùng băng nhựa màu nâu bịt kín thùng lại, Công An kiểm tra đóng dấu, chứng nhận đã duyệt xét xong, em tôi được phép chở sang bên cân hàng. Ra xe, không còn Công An quanh mình, em Mười lấy con dao bén xẻ một đoạn chừng 10 phân ngay trên chỗ có băng nhựa mà Mười dán khi nãy, nhét các bức thư của thầy Huệ Hiền, hình ảnh thầy Quảng Độ cho, rồi lại lấy cùng một loại băng nâu dán chồng lên chỗ vừa xẻ xong nên không bị phát hiện. Anh chị Năm bay tới Pháp rồi, Mười mới dám đánh điện tín báo tin có “quà” cho tôi trong kiện hàng đồ cổ. Tôi đem trình Thầy tài liệu, Thầy ngồi thiền quán thật lâu. Rồi Thầy dạy tôi điện thoại cho Đại Sứ Quán Việt Nam, báo tin thầy Thích Nhất Hạnh muốn mời ông Đại Sứ đến văn phòng chúng tôi uống trà để Thầy cần trình một việc trọng đại liên hệ đến quốc dân vì chúng tôi mới nhận được tài liệu có 12 tu sĩ tự thiêu ở Việt Nam. Ý của Thầy là sẽ yêu cầu ông Đại Sứ trình với cấp lãnh đạo nhà nước nên có chính sách cởi mở với tôn giáo hơn. Lúc này các tu sĩ trẻ đều bị bắt đi lao động và bỏ áo tu, các chùa không có quyền tập họp tụng kinh, cư sĩ không được đến chùa đông đảo và không được ở qua đêm thọ bát quan trai nếu không có giấy phép. Thầy nghĩ rằng nếu nhà nước chịu ra một nghị quyết thỏa đáng, công nhận những nhu cầu đơn giản của Phật tử như thầy Huệ Hiền thỉnh nguyện – chỉ yêu cầu các cấp chính quyền địa phương nên tôn trọng những tự do căn bản của nhà chùa – thì Thầy sẽ không công bố những tài liệu của thầy Huệ Hiền vì nhà nước đã thực thi rồi. Nhưng văn phòng Sứ Quán nói: ”Không bao giờ có chuyện tự thiêu đòi nhân quyền. Chúng tôi có văn phòng đại diện Chính Phủ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam tại đây, ai muốn đến thì cứ đến chứ chúng tôi không đi đâu hết“. Tôi lễ phép thưa Thầy chúng tôi là thầy tu nên xưa nay rất ngại đến cửa quan, nhưng vì chuyện này trọng đại quá nên mạo muội mời ông Đại Sứ hay vị đại diện đại sứ đến cũng được. Văn phòng Đại Sứ vẫn giữ lập trường không đến. Trước khi chấm dứt cú điện thoại, tôi có nói một câu: “Bác Hồ nói nhà nước là đầy tớ của nhân dân, có bổn phận phục vụ nhân dân, nay nhân dân thỉnh mời được uống trà với đại diện chính phủ mà nhà nước (tôi không dám dùng chữ «đầy tớ») không chịu đến!“ Thế là Thầy đành phải làm Urgent Press Release (Thông Báo Khẩn gửi báo chí), có đầy đủ hình ảnh, tên đạo, tên đời của 12 vị tu sĩ tự thiêu tại Phụng Hiệp Cần Thơ ngày 2 tháng 11 năm 1975, có thư thỉnh nguyện của thầy Huệ Hiền trước khi tự thiêu, có cả băng casette nhạc và lời thầy Huệ Hiền hát nữa. Ngày hôm sau, ngày 9 tháng 9 năm 1976, ba hãng thông tấn và bốn tờ nhật báo lớn ở Pháp là Le Monde, Le Figaro, The International Herald Tribune và La Croix đều đăng bản tin lớn nhiều cột về tin này.
Thông tấn nào cũng điện thoại hỏi tôi vì sao tới giờ này – mười tháng sau – mới công bố. Tôi trả lời vì chế độ kiểm duyệt quá khắt khe nên chúng tôi chỉ biết tin này bằng lời truyền miệng thôi, tới nay mới có bằng chứng rõ ràng. Hơn nữa chúng tôi thấy Việt Nam mới có hòa bình, chưa được vào Liên Hiệp Quốc nên chúng tôi mong nhà nước sửa sai hơn. Vì không muốn đập phá và nói xấu nên mới yêu cầu ông Đại Sứ đến để đề nghị những gì cần hoàn thiện hơn, có dân chủ hơn, có tự do tôn giáo hơn nhưng ông Đại Sứ từ chối! Các bài báo đều báo cáo những lời tôi nói, cũng ghi lại cả việc phóng viên điện thoại hỏi Sứ Quán xem tôi có nói thật về việc mời ông Đại Sứ mà ông không đến không, và ghi là Sứ Quán không trả lời về việc này.
Đúng như Thầy chúng tôi thấy, đáng lý tháng đó Việt Nam được vào Liên Hiệp Quốc nhưng LHQ chưa sẵn sàng chấp nhận Việt Nam làm thành viên, mãi sáu bảy tháng sau Việt Nam mới được vào LHQ. Có thể đó là lý do trong Viện Bảo Tàng Tội Ác Chiến Tranh ở Tp. HCM có hình thầy Nhất Hạnh và hình tôi khiến cho các bạn Tây Phương sốc quá. Nhiều ký giả ngoại quốc đã đến hỏi nhà nước tại sao thầy Nhất Hạnh có hình trong “tội ác chiến tranh? Thầy kêu gọi hòa bình mà? Thầy đã được Mục Sư Msrtin Luther King đề nghị giải Nobel Hòa Bình mà?“ Sau vài năm, hình Thầy không còn trong bảo tàng viện đó nữa, nhưng còn hình tôi. Nghe những tin tức như thế và cách hành xử như thế của nhà nước, tôi càng tuyệt vọng. Lúc đó là cuối năm 1975.
Mãi đến năm 2005 (30 năm sau), nhà nước mời Thầy về Việt Nam, có 100 đệ tử xuất sĩ của Thầy và 100 thiền sinh cư sĩ Tây Phương đi theo. Khi viếng thăm Viện Bảo Tàng Tội Ác Chiến Tranh mọi người hết sức ngạc nhiên thấy hình tôi vẫn nằm trong đó! Khi trở về Pháp năm ấy, thấy nhà nước vẫn còn tử tế, thấy ông Đại Sứ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam có đến Làng Mai tham dự ba ngày tu học, Thầy chúng tôi đã thỉnh cầu ông lấy ra bức hình ấy của tôi trong Bảo Tàng Viện Tội Ác Chiến Tranh. Sau đó họ lấy ra thật, mặc dù thư trả lời của ban giám đốc Bảo Tàng Viện từ trong nước gửi cho ông Đại Sứ nói là không hề có chuyện đó. Nhưng các bạn tôi có chụp hình. (Xin đính kèm đây!)
Bên trên là dòng chữ Thích Tâm Châu, hàng dưới tên Cao Ngọc Phượng. Hình này nằm ở Bảo Tàng Viện Tội Ác Chiến Tranh tại TP Hồ Chí Minh.
Rồi lại có tin hàng trăm ngàn binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa từ cấp úy trở lên được mời đi học tập nhưng sau đó bị chở đi mù mịt tung tích, các gia đình cũng không biết chồng con mình bị đưa đi đâu. Bao nhiêu văn nghệ sĩ ưu tú Miền Nam cũng bị bắt đi học tập cải tạo mà gia đình không biết tìm nơi đâu.
Nhiều quá, nhiều quá với trái tim nhỏ bé của tôi. Tôi tập đặt mình trong trái tim người lãnh đạo đất nước hiện tại để hiểu vì sao? Càng nghĩ tôi càng rối lên.
Thầy chúng tôi dạy «Con phải cứu con trước đã, phải có bình an, phải có vững chãi, rồi mới biết phải làm gì?» Vâng lời Thầy tôi chỉ biết bám lấy hơi thở.
300 tấn gạo gửi cho trẻ em mồ côi trong Chương Trình Cô Nhi Việt Nam
Cứ bám vào hơi thở và phút giây hiện tại, từ từ tôi bớt buồn và có sáng kiến gửi gạo về Việt Nam qua Hội Lưỡi Liềm Đỏ Thái Lan. Anh Sulak Sivaraksa có nhiều bạn tả khuynh rất thân với chính quyền Hà Nội, hứa chuyển giao tận tay các Hòa Thượng 3.000 bao gạo 100 ký. Ngày qua ngày chờ đợi, 300 tấn gạo không bao giờ tới cả. Chỉ có một điện thư của Sulak nói gạo đã tới Sài Gòn, Bộ Xã Hội hứa sẽ chuyển giao cho nhà chùa nhưng Hòa Thượng Thiện Hòa vẫn không nhận được gì. Trong khi đó tin tức từ quê nhà nghe thật khó tin: hàng trăm ngàn sĩ quan, văn nhân nghệ sĩ, những người thuộc quân đội Việt Nam Cộng Hòa đều bị đi học tập cải tạo hết. Từ sĩ quan trở lên đều bị đi “học tập ở những trại cải tạo nằm thật xa trong núi”. Hạ sĩ quan thì ở thời gian ngắn hơn? Ngắn hơn là bao nhiêu? Họ vẫn bị ở tù nhưng từ thiếu úy trở lên là bị đưa đi đâu không ai biết cả, gia đình không liên lạc được.
Gửi những số tiền nhỏ qua ngân hàng về cho các Ni Sư chăm sóc các cháu
Có những nguồn tin rất bức xúc: có những người Việt Nam nghe tin gia đình bị ức hiếp quá, ức quá, định ôm bình xăng vào đốt phá tòa đại sứ Việt Nam và đã bị nhà cầm quyền Pháp bắt. Nhưng tôi thì có sáng kiến khác. Trong khi nghe ngóng tin, tôi được biết là Việt Nam vì thái độ muốn cai quản hết về kinh tế xã hội chính trị nên thiếu ngoại tệ trầm trọng. Nhà nước kêu gọi kiều bào gửi tiền về ủng hộ gia đình trong nước qua ngân hàng để nhà nước có ngoại tệ. Tôi cũng gửi 100 dollars cho ni sư Huỳnh Liên ở Sài Gòn, 100 dollars cho ni sư Như Huyền ở Quảng Ngãi, 100 dollars cho sư bà Thể thanh ở Cam Ranh, 100 dollars cho sư bà Viên Minh ở Nha Trang… Không ngờ những số tiền nhỏ như vậy đã không tới tay chư tôn đức mà còn đem phiền phức cho quý ni sư. Họ bị Công An theo dõi, như Sư bà Thể Thanh dùng chữ: các anh trồng cây si trước chùa, mặt đỏ ké khó chịu quá. Thôi em ơi, đừng gửi gì nữa cả nhé.
Tôi làm liều vào hang cọp
Tháng 11 năm 1975 tôi điện thoại xin gặp ông Lãnh Sự Sứ Quán Việt Nam tại Paris vì tôi cần gửi một số tiền về nhà cho cô nhi Việt Nam, điều này sẽ đem một số ngoại tệ lớn cho đất nước. Ông Lãnh Sự hỏi lý do, tôi trình qua điện thoại là tôi muốn gửi 150 ngàn mỹ kim về Việt Nam cho cô nhi qua Lãnh Sự Quán. Họ xin số điện thoại và bảo chờ họ điện về nước xin phép. Một tháng sau, họ báo tin được phép rồi và sẵn sàng tiếp tôi. Tôi đi một mình với hai thùng hồ sơ, nhất là hai hộp phiếu, mỗi hộp có 700 phiếu (hồi này chưa có máy tính nên không vào hồ sơ đơn giản như ngày nay!), mỗi phiếu ghi tên tuổi, địa chỉ của một cô nhi, sống với bà nội bà ngoại hay bà thím, tiền gửi qua ni sư nào trong nước. Bên dưới là địa chỉ, số điện thoại của người bảo trợ, ở nước nào. Mặt kia của tấm phiếu ghi ân nhân đã đóng tiền tháng nào tới tháng nào… Tôi giải thích cô nhi trong Chương Trình bảo trợ cô nhi này của Phái Đoàn Phật Giáo không phải là cô nhi ở Cô Nhi Viện. Cô Nhi Viện đã có nhà nước lo. Từng cháu trong phiếu này được một ân nhân bảo trợ, ví dụ em Nguyễn Văn Tơi có ông Van Den Berg ở Hà Lan bảo trợ, hay em Lê Thị Tố có bà Marie Anne Cortine ở Marseille Pháp bảo trợ, hình cháu được bà treo trong nhà, con của bà còn bé mà cũng bỏ ống từng 50 centimes, từng đồng franc, để mỗi tháng bà gửi cho chúng tôi 25 Francs (tương đương 6 dollars). Tiền chúng tôi gửi về qua Giáo Hội Trung Ương, Ủy Ban Tái Thiết và Phát Triển Xã Hội, từng quý ba tháng. Giáo Hội gửi tiền về cho Ni Sư Cát Tường ở Thừa Thiên hay Ni Sư Như Huyền ở Quảng Ngãi, hay Ni Sư Thể Thanh ở Cam Ranh… Các vị này biết tường tận cháu nào ở địa chỉ nào, đang ở với bà nội hay dì, hay cô. Ni sư trưởng Ký Nhi Viện sẽ trao tận tay từng cháu tiền của ân nhân. Đó là điều kiện duy nhất chúng tôi hứa với ân nhân. Sáu dollars, hay 25 Francs, Phái Đoàn Phật Giáo bên này không lấy 5% hay 10% chi phí như các ban từ thiện xã hội Tây phương hay làm. Các cháu lãnh đủ 18 dollars mỗi quý theo tỷ giá của tháng đó. Cháu hay bà nội sẽ viết thư cám ơn ân nhân. Ân nhân thương cháu Lê Văn Huy thì sẽ thương luôn đất nước Việt Nam, sẽ giúp thêm chương trình xây trạm xá, bệnh viện hay trường học tùy theo khả năng họ. Mỗi tháng chúng tôi có hơn 9.000 ân nhân gửi tiền như vầy sẽ đem về cho Việt Nam mỗi ba tháng ít nhất 150.000 mỹ kim ngoại tệ. Cần ngoại tệ, có được ngoại tệ mà mình không bị lệ thuộc một cơ quan giàu có nào. Nếu người nào chống nhà nước không muốn bảo trợ nữa thì chỉ mất 6 dollars thôi, rồi có người khác sẽ cho. Xin quý vị lấy thử vài lá phiếu trong hai hộp này và điện thoại hay gửi thư hỏi thăm, điều tra xem đúng bà này, ông này là người lương thiện chỉ cho 25 Francs hay 8 guilders, 6 dollars hay 2 pounds rưỡi không. Con số 9.000 em cô nhi này là ở Miền Nam. Nếu quý vị muốn chúng tôi bảo trợ con em những liệt sĩ của Mặt Trận Giải Phóng hay của Miền Bắc, chúng tôi sẽ điều nghiên và sẵn sàng tiếp tục làm cho chương trình rộng lớn thêm với sự hợp tác của nhà nước. Chương trình sẽ trải dài từ Nam ra Bắc. Đây không phải là chuyện bố thí. Chúng tôi làm việc này để thức tỉnh các cháu bên này rằng Âu Châu xa hoa quá, bên kia có những bạn cũng xứng đáng không thua mình mà bỗng nhiên bom bỏ trên ngôi nhà xinh xắn của các bạn trẻ đó, họ đang an vui bỗng dưng mất cha, mất mẹ, rồi côi cút bơ vơ. Giúp người trẻ Tây Phương tiếp xúc với những hoàn cảnh đau thương để họ tỉnh dậy, sống cho có đạo đức hơn. Ân nhân cho các cháu cô nhi Việt Nam tiền, nhưng chúng tôi thì cho con cháu họ bên này ý thức trách nhiệm, có thêm đạo đức. Các ông ngồi nghe say mê thích thú và không ngần ngại, viết ngay cho tôi một biên nhận trên giấy rất đẹp, có tiêu đề của Đại Sứ Quán Việt Nam. Thư các ông hứa trao tận tay số tiền 150.000 mỹ kim (bằng check) mà tôi ghi chuyển đến Hòa Thượng Thích Trí Thủ, lúc này là Viện Trưởng Viện Hóa Đạo GHPGVNTN, để gửi cho 9.760 cô nhi mà Hòa Thượng có danh sách.
Biên nhận của sứ quán Việt nam
Lúc này tư nhân chưa có máy photocopy nhưng các tiệm sách lớn đã có. Tôi đi mướn in 300 tờ biên nhận của Sứ Quán và gửi cho Hòa Thượng Trí Thủ cùng 300 ký nhi viện đang chăm sóc hơn 9.000 cô nhi của chương trình, báo tin chương trình đã được chấp nhận và Sứ Quán sẽ gửi tiền về cho Hòa Thượng.
Cầm tờ biên nhận của Sứ Quán trong tay, Hòa Thượng Trí Thủ chống gậy xin gặp Đại Diện Bộ Trưởng Ngoại Giao ở TP Hồ Chí Minh nhưng không được gì. Anh Thiều báo là Hòa Thượng gắng đi Hà Nội, rồi trở lại Sài Gòn nhưng cuối cùng không có đồng nào hết. Nhà nước nói đã trao tiền cho những người lo cho các cô nhi viện. Trao cho người nào? Ông Bộ Trưởng không biết.
Cuối cùng, sáu tháng sau, Hòa Thượng phải đánh cho chúng tôi một điện thư như sau: Không nhận được tiền của các cháu gửi qua Sứ Quán. Cũng không nhận được 300 tấn gạo gửi qua Hội Lưỡi Liềm Đỏ Thái.
Chúng tôi photocopy hai tờ: Biên nhận của Sứ Quán hứa trao 150 ngàn mỹ kim và tờ điện thư từ Bưu Điện TP Hồ Chí Minh của Hòa Thượng Thích Trí Thủ báo tin không nhận được gì cả. Và thế là qua các Ủy Ban ở Pháp, Thụy Sỹ, Ý, Đức, Anh, Nhật Bản, Tân Tây Lan, Úc, Hoa Kỳ, Thụy Điển, Na Uy… ân nhân của chín ngàn cô nhi Việt Nam chấm dứt chương trình cứu giúp Việt Nam.
Dự án tái sinh ở Thái Lan để tiếp tục hạnh nguyện cũ
Từ Phương Vân Am tôi phải đi Hà Lan để giúp chia tiền gửi tặng 100.000 Guilders cho Bangladesh, 200.000 guilders cho đức Hồng Y Helda Camara, ngài đang có nhiều chương trình xã hội ở Brazil – tôi có ý sẽ đi Brazil xem công tác của ngài sau đó. Tôi đề nghị Pierre và Neige lập văn phòng Comité Pour les Enfants du Vietnam ở Compiègne để giúp cho Bangladesh. Tôi có sáng kiến sẽ đi Bangladesh và Thái Lan để được ‘’tái sinh’’, bắt đầu làm công tác giúp trẻ em đói ở Bangladesh, giúp trẻ em đường phố ở Thái Lan. Tôi xin phép Thầy đi Thái Lan hai tuần để điều nghiên. Qua Thái Lan, vì không biết tiếng Thái nên tôi phải nhờ các bạn Thái như Krisana, Tuk, PaiSản, Wisit… nhưng họ làm việc phất phơ quá. Khi ở Việt Nam, nhờ ai việc gì mà các em làm thiếu trách nhiệm thì tôi không bao giờ trách (vì tất cả đều làm trong tinh thần tự nguyện, em đó chưa tự nguyện thì không nên trách!) tôi tự làm lấy thôi. Nhưng ở Thái Lan thì không như vậy được vì tôi không biết nói và hiểu tiếng Thái. Tôi tự nghĩ có thể văn hóa Thái Lan là như thế, tôi mới đến đây vài tuần, không nên lên án và phê bình chi về cách làm việc của các bạn người bản xứ. Tôi nghĩ đến 37 năm kinh nghiệm của tôi trên đất nước tên là Việt Nam đó, tôi được nuôi lớn trong văn hóa dân gian của dân tộc đó, mở miệng ra là tôi nói thứ tiếng Việt ngọt ngào như chim hót líu lo. Văn hóa Việt đã ăn sâu trong từng thớ thịt tôi. Tôi là chuyên viên lo cho trẻ em thiếu may mắn, trẻ em đường phố, trẻ em đói kém từ năm tôi 13 tuổi. Bây giờ đây 37 tuổi, tôi phải biết cách giúp người Việt, dù hoàn cảnh nào, dù khó khăn nào tôi cũng sẽ tìm ra cách giúp đồng bào tôi. Tôi chợt có niềm tin lớn như vậy và quyết định không đi Bangladesh, không đi Brazil làm gì nữa. Phải trở về tìm thêm cách giúp Việt Nam thôi, vì tôi đã được lớn trong văn hóa Việt, đã là chuyên viên có khả năng trong văn hóa này. Nhưng giúp bằng cách nào? Tôi lại nghẹt thở, nghẹn ngào.
Quay về nương tựa từng hơi thở từng hành động nhỏ nhặt trong ngày
Có một hôm thấy tôi đau buồn hoài, không nguôi, Thầy nói rất mạnh: “Con phải tự cứu lấy mình thôi, thầy có vững chãi mấy thì cũng không thể bơi dùm con. Phải bám lấy hơi thở và giữ tâm định lại trong giây phút hiện tại, nhìn sâu để thấy cái giá trị, cái mầu nhiệm của giây phút ấy trong từng công việc hằng ngày như rửa chén, lau nhà, làm vườn…, không được rời phút giây hiện tại. Con nghe không?”
Để giúp tôi, Thầy đã nhờ anh Cao Thái trả hết tiền nhà, đóng cửa Văn Phòng ở 69 Bd Desgranges 92330 Sceaux, Paris. Thầy mời cả tăng thân, nhờ anh Cao Thái, Pierre, Neige, chú Thanh Hương, chú Thiện Thắng, anh Bính… chở hết hồ sơ về Phương Vân Am, để thầy trò không nhận điện thoại, để tôi không thấy hồ sơ cô nhi mỗi ngày, không nhận tin tức Việt Nam rồi đau buồn và tuyệt vọng. Thầy nhờ các bạn đóng thùng tất cả hồ sơ cô nhi, tài liệu cứu trợ, hồ sơ liên lạc với Giáo Hội PGVNTN, với các tỉnh Giáo Hội của tôi, bỏ lên gác Phương Vân Am khóa cửa lại. Thầy trò chỉ sinh hoạt trong năm phòng còn lại: một phòng trên gác làm chỗ ngủ cho Pierre, anh Cao Thái và 4 phòng bên dưới gồm cả phòng lớn mới xây làm thiền đường. Với sự thực tập vững chãi trong môi trường mới, Thầy vượt qua những đau buồn khá dễ dàng mà còn phải vớt từng đứa như tôi, như chú Thanh Hương, như anh Bính… Nhưng em Bùi Thị Hương thì quyết định thử đi các cộng đồng tu học khác như Communauté de l’Arche để học hỏi và sau này gặp được người bạn đời là một giáo sư Triết người Pháp rất tri kỷ. Vì thế sau này khi tham vấn cho những thiền sinh đang sống trong một hoàn cảnh vô cùng tuyệt vọng, tôi hay khuyên họ bỏ nhà cũ, tới sống ở một môi trường mới. Sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) tiếp xúc với sáu trần (hình ảnh, âm thanh, mùi, vị,…) mới, môi trường mới, hạt giống mới gieo vào, làm lành từ từ những vết thương cũ.
Về đây, những vết thương của chúng tôi mau lành là nhờ không gian thênh thang của Am Phương Vân. Trước mặt am, bên kia đường, sau một cánh đồng lúa khác là khu rừng sồi ửng vàng đỏ khi thu về và phủ tuyết trắng rất diễm lệ khi đông đến. Đến chỗ mới này, Thầy cứ nhắc chúng tôi trở về với hơi thở chánh niệm. Điều đó giúp đỡ tôi rất nhiều. Bởi vì hễ tôi rời hơi thở và tâm tôi đi xa hơn phút giây hiện tại là tâm lại trở về Việt Nam, lảng vảng câu hỏi “các cháu cô nhi bây giờ ra sao? Tụi nó sẽ nghĩ là tôi bỏ đói tụi nó rồi. Chắc các cháu nghĩ là cô không thương, không còn gửi tiền của người đỡ đầu cho nữa. Các cháu sẽ thắc mắc là ba má nuôi đã hứa sẽ giúp con hoài cho tới khi con lớn mà? v.v..”, và thế là tôi lại tuyệt vọng.
Chút tiểu sử về Phương Vân Am
Nguyên nhân có am này là do Hội MIR mời tôi đi dự hội thảo ở một nông trại vùng Massif miền Trung nước Pháp hồi tháng 7 năm 1971 và tôi có dịp nhìn lại những dây bí rợ leo lên những vách tường đá với những bông bí vàng mời gọi, có dịp nhìn lại hàng cà chua, giàn đậu que, giàn dưa leo lủng lẳng trái, thật cảm động. Hỏi thăm thì anh chủ trại nói anh mua ngôi nhà đổ nát như vầy có 5.000 Francs thôi và các bạn trong nhóm bất bạo động của anh tái thiết lại từ từ. Tôi nhớ cảnh thầy trò Phái Đoàn Phật Giáo ở Paris phải nuôi rau húng trong từng chậu bằng đất nung, để ở ngoài cửa sổ, tội nghiệp cho thầy trò nhà mình quá. Tiền dạy học của Thầy ở Sorbonne dư sức mua một ngôi nhà 5.000 Francs như vầy hay hai ba chục ngàn cũng được. Về tới Paris tôi thưa với Thầy ước mơ như thế. Thầy rất tâm đắc ý này. Thế là Thầy nhất định cuối tuần đó tìm tới những dịch vụ bất động sản (Agence Immobilière) để nhờ họ tìm dùm một ngôi nhà bỏ hoang như vậy cách Paris khoảng 60 đến 100 cây số. Nông dân Pháp bán nhà ở quê để lên thành thị làm thợ và những nghề lao động khác rất đông. Họ muốn kiếm nhiều lợi nhuận hơn là sống cuộc đời nông dân nhỏ ở nhà quê, sống chết chỉ tùy thuộc vào thiên nhiên. Vì thế nước Pháp mất một nông dân mỗi 15 phút. Người của dịch vụ bất động sản đưa thầy trò chúng tôi đi cả buổi chiều mà Thầy không vừa ý ngôi nhà nào. Nhưng cuối cùng tìm được một ngôi nhà bỏ hoang ở giữa con đường liên tỉnh nối thành phố Troyes và Sens. Ngôi nhà nằm đơn độc trên đồi cao nhìn ra xa xa là rừng Sồi đã ngả màu vàng đỏ sang thu rất đẹp. Sau lưng ngôi nhà là ruộng lúa, bên phải cách đó 500 mét là đồng cỏ mà một nông trại dùng cho bò ăn. Sau lưng là đường lên đồi cao có rừng thông. Không có ai là hàng xóm cả. Nhà bỏ hoang đã lâu vì ông chồng bà chủ nhà chết nên chưa sửa chữa chi, bà cần tiền nên bán rẻ. Bà mua 25.000F mà chỉ bán 15.000F. Nhà khoảng 5.000F cũng có nhưng phải ở xa hơn, cách Paris khoảng 300 cây số mới có giá đó. Thầy trò bàn nhau nếu quá xa thì làm sao mỗi tuần Thầy về nghỉ ngơi mà vẫn dạy học được ở Sorbonne và làm việc cho Phái Đoàn PGVN. Thôi mua đắt hơn một chút cho rồi – 15 000 Francs. Tháng sau thì mua xong, Thầy đặt tên nơi này là Phương Vân Am. Cả Phái Đoàn Phật Giáo kéo nhau về thăm “cơ ngơi” mới. Ôi hoa đồng cỏ nội đẹp vô cùng, nhưng đêm về, lần đầu tiên thầy trò chúng tôi biết một ngôi nhà trên đất Pháp mà vách tường không xây kín mít như các chung cư ở Paris thì lạnh như thế nào. Đêm tháng 10 thôi mà lạnh quá sức tưởng tượng. Ngày hôm đó đi xem nhà mới gồm có Thầy, anh Sáu, tôi, Mobi, Hương, Neige, Krisana, Thoa, Lợi, Pierre và chú Thanh Hương. Lò sưởi giữa nhà, củi chất đầy, đốt thành lửa đỏ rất đẹp nhưng đứng cách đó một thước đã lạnh run. Chúng tôi nhảy tưng tưng cho đỡ lạnh mà vẫn run cầm cập! Anh Sáu đi chợ mua cho Thầy một lò sưởi điện, lửa đỏ rực mà chỉ ấm khi đưa tay kề sát. Cuối cùng cả đoàn đành phải quay về Paris ngủ sau khi liên lạc được với ông thợ hồ địa phương – ông Dolat – nhờ ông tráng xi măng ráp cửa mới, bít hết các khe hở trên vách tường thì mới dám ngủ lại đêm để Thầy không bị cảm. “Cốc” của Thầy là cái chuồng bò kế bên, vách đá giống như nhà chính. Vì là chuồng bò nên hai bên không thông nhau. Nhờ thế mà rất tiện làm “cốc” cho Thầy để không ai làm phiền Thầy khi Thầy cần viết lách hay dịch kinh. Phòng chính có lò sưởi, thông với một phòng kế bên dành cho bên nữ ngủ gồm có Krisana, Neige, Hằng, bé Minh Tâm (con của Hằng và Trần Quang Hải, cháu nội giáo sư Trần Văn Khê) và tôi. Bên nam thì ngủ chung ở phòng chính có kê bục gỗ dài theo tường và sàn gỗ lót thảm moquette ấm. Khi có đông người thì lên bớt trên gác với Pierre. Chúng tôi xây thêm nhà bếp và cầu tiêu theo kiểu mới với rất nhiều cửa kính cho có ánh sáng. Anh Cao Thái, chú Thiện Thắng hay Thanh Hương khi về thì sử dụng phòng trên gác với Pierre và Charles, bạn của Pierre. Thầy trò nhà này chỉ mướn thợ phần tối thiểu, còn lại việc nào làm được đều tự làm thợ hồ, thợ mộc, thợ điện hết. Tôi không ngờ Thầy cũng rất giỏi về nghề bắt điện, bắt đèn, sửa máy móc. Đúng là mấy cái di thể tài ba về máy móc của anh Thích – một người anh ruột của Thầy đã từng tự sáng chế làm máy chụp hình từ ngày xưa – nay biểu hiện thật rõ trong Thầy. Thầy tự sửa máy in, máy sưởi, sửa điện, bắt điện, nghề nào Thầy cũng làm được.
Tôi đang cuốc đất trồng rau ở Phương Vân Am.
Cuối năm 1975, sau khi thất bại ê chề với cách gửi tiền và gửi gạo về Việt Nam, Thầy quyết định đóng cửa Văn Phòng Phái Đoàn ở Paris và kéo về ở luôn Phương Vân Am. Thầy cho cất thêm một thiền đường làm toàn cửa kính to vì thiền đường cũ bên trong tuy có lò sưởi đẹp thật nhưng quá nhỏ. Sáng sáng sau giờ ngồi thiền thầy trò hay ngồi uống trà chung và Thầy luôn chia sẻ cho chúng tôi những tuệ giác của Thầy sau những buổi thiền quán như những pháp thoại nhỏ thật thâm sâu và cảm động. Những bài thơ như Tươi Son Bền Sắt Thầy tặng tôi dịp sinh nhật 39 tuổi của tôi vào năm 1977 để dạy tôi tập sống như trong bài thơ:
Trăng sao vẫn đẹp đêm rằm
Bãi dương vẫn mướt sóng tùng vẫn xao
Lòng quê dù có khát khao
Hoa mai vẫn cứ đồi cao gọi mời
Tháng Tư lá lục hoa cười
Cho trăng thêm tuổi, cho đồi thêm xuân
Vườn xanh cây mướp trổ bông
Trẻ thơ đùa giỡn trước sân nắng đào
(là bé Minh Tâm cháu nội giáo sư Trần văn Khê và bé Thủy, bé Long con của các thuyền nhân gửi chúng tôi để họ đi tìm việc ở Paris)
Chợ Văn bán sách lầu cao
(Thầy trò in và bán sách Lá Bối Hải Ngoại mà không xuống phố, chỉ bán khi có ai gửi tiền về Am Phương Vân đặt và mình gửi sách cho họ)
Muối dưa đắp đổi hôm nào cũng vui
Xót quê lòng có ngậm ngùi
Tin quê dồn dập tới lui chẳng ngừng
Chùa kia vắng tiếng chuông ngân
Trẻ kia cha mẹ gửi thân tù đày
Văn nhân nghệ sĩ bó tay
Con thơ nheo nhóc chẳng ai ngó ngàng
Sóng xô nghiêng Vịnh Thái Lan
Bao nhiêu tuổi ngọc chìm làn nước sâu
(Tin ở Việt Nam, chùa chiền bị tịch thu, thầy tu bị bắt đi lao động, hầu hết văn nghệ sĩ bị vào tù, bao nhiêu người vượt biên chết trên biển!)
Tâm hương lòng vẫn nguyện cầu
Nỗi đau dường ấy làm sao đỡ đần?
Trước sau xin chớ ngại ngần
Những bàn tay ấy tình thâm vẫn tròn
Giữ cho bền sắt tươi son
Giữ cho tâm lặng giữa cơn ba đào
Còn đây nắng gọi đồi cao
Còn đây những gốc anh đào trước sân
Còn đây trăng đẹp đêm Rằm
Còn đây dương mướt sóng tùng năm xưa
Phương Vân Am có chín người ở, nhưng người nào cũng chỉ có một chiếc túi ngủ thôi. Chỉ có Thầy là có một chiếc giường vì bên cốc đá của Thầy sàn nhà hơi thấp, sợ Thầy bị hơi đất ẩm bốc lên sẽ bệnh. Khi má tôi sang Pháp bà cũng ngủ túi ngủ như tất cả mọi người, trong phòng phía bên trong với tôi.
Giờ chấp tác của chúng tôi cũng đầy việc. Thầy thì in và tự đóng từng cuốn kinh Nhật Tụng gửi cho các trại tị nạn. Thầy cũng góp nhặt những bài dạy học Pháp văn, Anh văn, tự đặt bố cục, dàn trang rồi in ra để gửi cho đồng bào ở các trại tị nạn.
Cuối cùng, để cho người Tây Phương dễ nhớ, Thầy dạy chúng tôi gọi nơi này là Les Patates Douces hay Sweet Potatoes (Khoai Lang) để nhớ tới người dân nghèo Việt Nam, chỉ có khoai lang là món rẻ tiền nhất ăn thay cơm khi đói. Còn người Việt thì vẫn gọi nơi này là Am Phương Vân.
Nhà xuất bản Lá Bối Hải Ngoại
Cuộc sống ở Phương Vân Am rất an lành, thiền tập yên lặng và thâm sâu. Những ngày đầu, thầy trò chúng tôi đang chữa trị những vết thương lòng nên không dám nghe nhạc, dù là nhạc Trịnh Công Sơn hay nhạc Phạm Duy, sợ chạm vào những kỷ niệm của thời chiến tranh. Nhưng từ từ chúng tôi nghe được những bài dân ca Miền Bắc, Miền Nam, Miền Trung mà Phạm Duy sưu tầm. Nhờ thế mà sau này khi có Làng Mai, do đã rất rành những điệu dân ca ba miền, tôi viết lời tu học cho Lý Đan Đệm, Lý Bến Tre của Miền Nam, những bài như Lý Ngồi Thiền: Trời vừa hửng sáng, chuông chùa ngân, chuông chùa ngân. Bước đi nhẹ nhàng thanh thản, bước vô, bước vô thiền đường, điệp khúc: Ôi thảnh thơi nhẹ nhàng, nhẹ nhàng, nhẹ nhàng an vui, An vui thảnh thơi ngồi yên. Thiền đường buổi sáng, trăng còn treo, trăng còn treo, nở ngay nụ cười tươi mát, bước chân dẫm lên thực địa, điệp khúc.
Thời gian này Thầy chúng tôi viết những truyện ngắn như Một Bó Hoa Đồng, Tùng, Bưởi, Lan, Thiều. Hội FOR Hoa Kỳ có nhã ý gửi tặng chúng tôi một máy Varityper, tuy là đánh máy nhưng mẫu chữ hiện ra giống chữ in máy sắp chữ in typo, chỉ không có dấu Việt Nam thôi. Thế là tôi bắt đầu tập sử dụng máy này đánh máy cho Thầy truyện ngắn Một Bó Hoa Đồng, sách Việt Nam Phật Giáo Sử Luận tập 3. Quyển Việt Nam PGSL tập 1 và 2 đã in ở Việt Nam nên quyển 3 tôi phải tiếp tục đánh máy để ra mắt độc giả đang chờ đợi. Thầy vốn sẵn có nét chữ rất thanh và đẹp nên Thầy dùng cây bút họa sĩ nét nhỏ loại số 1 để bỏ từng dấu sắc dấu huyền, hỏi, ngã và nặng. Vì máy in của Thầy ở Am Phương Vân là máy in hạng bét, loại máy các văn phòng lớn chỉ dùng để in đỡ vài trăm bản nên có thể dùng bản bằng giấy thay vì bản bằng kẽm như các nhà in lớn. Tôi cũng đánh máy quyển Phép Lạ của Sự Tỉnh Thức, Trái Tim Mặt Trời và thế là nhà xuất bản Lá Bối hải ngoại bắt đầu xuất bản những cuốn sách đầu tiên sau đây: 1/ Kinh Nhật Tụng cho trại tị nạn; 2/Tự Học tiếng Anh và Pháp cho các thuyền nhân ở trại tị nạn; 3/ Giọt Nước Cánh Chim (tuyển tập truyện ngắn trong đó có những truyện ngắn của Thầy như Một Bó Hoa Đồng, Giọt Nước Cánh Chim và vài truyện ngắn của các nhà văn Việt Nam); 4/ Phép Lạ của Sự Tỉnh Thức.
Năm 1974 là năm có những cuộc chiến ác liệt nhất. Thấy các anh em tác viên xã hội phải đương đầu nhiều quá với những bức xúc trong công tác, Thầy viết Phép Lạ của Sự Tỉnh Thức, dưới hình thức một bức thư cho anh Lê Nguyên Thiều, nội dung là những thực tập chánh niệm để dạy cho Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội cách giữ tâm cho bình an. Sách được in ở Việt Nam cuối năm 1974 dưới tựa đề Ý thức em, mặt trời tỏ rạng. Nhưng vì từ 1975 ở Hoa Kỳ có cuốn The Miracle of Mindfulness là bản tiếng Anh nên Thầy để tựa mới là Phép Lạ của Sự Tỉnh Thức cho vui. Thầy viết cuốn Phép Lạ của Sự Tỉnh Thức và cuốn Trái Tim Mặt Trời tại Phương Vân Am. Đây là hai cuốn sách đầu tiên được tôi đánh bằng máy Varityper, còn Thầy thì bỏ dấu chữ Việt, lên trang và tự in bằng máy ở nhà in nhà. Thầy vừa là thợ in, thợ bỏ dấu chữ Việt, lên trang, làm bản kẽm bằng giấy, nướng, in, xén, xếp thành sách, trình bày bìa, in bìa, vào sách và xén thành cuốn sách rất đẹp.
Phong cảnh thiên nhiên chung quanh Am Phương Vân đẹp vô cùng. Có lẽ nhờ thầy trò chúng tôi sống chánh niệm nên mới thấy như thế. Một hôm đi thăm ông Xã trưởng ở Fontvannes, chúng tôi nói “phong cảnh ở đây đẹp quá chừng!” Bà Xã rất ngạc nhiên: “Ở đây mà cô thấy đẹp à?” Tôi im lặng mỉm cười, e có nói chắc bà cũng không hiểu. Nhưng quả thật nếu không có chánh niệm để ngắm cái đẹp của thiên nhiên, nếu sống cạn cợt vô tâm như vợ ông xã trưởng Fontvannes thì có lẽ những vết thương lòng của thầy trò chúng tôi về đất nước sẽ lâu lành hơn nhiều. Dưới cái nhìn chánh niệm, tuần lễ nào cũng có một loại hoa dại mới. Tuần này thì cánh đồng cỏ quanh nhà vàng rực bông pissenlit, tuần sau là bông cúc trắng nhỏ, tuần tới là hoa nút vàng (Bouton d’or hay Butter cup) tiếp đến là hoa chicorée như những hoa cúc nhỏ mà xanh màu trời nhuộm biếc cả cánh đồng, rồi tới hoa bleuets xanh tím sẫm, kế đến là cả cánh đồng hoa coquelicots cánh mỏng mong manh đỏ rực, rồi đến hoa đậu màu tím đỏ thật đẹp. Mùa thu thì rất nhiều những cây sồi già lá đổi màu vàng ươm rồi đỏ ửng duyên dáng đến nồng nàn đứng kề bên những cây thông bụ bẫm mạnh mẽ xanh mướt rải rác giữa rừng sồi. Mùa đông về, ngay khi chưa có tuyết thì sáng nào sương muối cũng phủ mịn màng trên lá hoa cỏ làm thành những lớp ren trắng mong manh thật đẹp. Khi tuyết xuống, mặc áo ấm đi dạo trong rừng mới thật là cảnh tiên. Từ cành cây này sang cành cây kia thường có những sợi tơ nhện mà ta không thấy rõ, đợi khi tuyết rơi mịn màng phơi phới, những sợi tơ nhện kia trở thành những tấm màn ren mỏng, mịn màng mong manh như tơ trời, mắc từ cành này sang cành khác như những chiếc voan trắng của các bà tiên… đẹp ơi là đẹp. Đất của Phương Vân Am chỉ có ba ngàn thước vuông nhưng chúng tôi không làm hàng rào nên đồng cỏ, đồng lúa, rừng cây nào cũng “của” chung cả và chúng tôi ý thức mình là một phần trong tổng thể thiên nhiên nuôi dưỡng và trị liệu cho thầy trò chúng tôi. Thiên nhiên mông mênh, núi, đồi, rừng đều là “của” chung, thầy trò tha hồ đi thiền hành. Có những bữa nhận được nhiều tin Việt Nam bức xúc quá, tôi buồn và tuyệt vọng, phải đi cả nửa giờ mới định được tâm trong bước chân, rồi đi bộ tiếp luôn hai ba giờ tôi mới nghe nhẹ người đi.
Tôi tìm ra được cách mới giúp người khổ tại Việt Nam
Vài tuần sau khi từ Thái Lan về, tôi thực tập buông xả, vô nguyện, cứ tập sống thật tinh chuyên trong phút giây hiện tại, trồng rau xà lách, rau húng, ngò, tần ô, tía tô, kinh giới, rau răm, tập thưởng thức từng mùi vị đặc biệt khác nhau của từng loại rau thơm… Tôi phụ Thầy đánh máy mấy tác phẩm mới của Thầy, nấu ăn giặt giũ, lúc nào cũng giữ tâm 100% với phút giây hiện tại. Tôi thực tập hoàn toàn vô nguyện. Hễ tôi vừa khởi một niệm khác hơn công tác trong phút giây hiện tại là tâm lại kéo tôi về Việt Nam với những tin tức rất bức xúc và khó tin. Tại sao lại có thể như thế được? Tại sao thiên hạ có thể hành hạ đồng bào mình đến như thế. Tại sao người Việt Nam mà có thể hành xử với những nhân tài của đất nước là văn nghệ sĩ một cách tồi tệ thế? Tôi không hiểu được.
Một hôm trong giờ ngồi thiền, tôi chợt nhớ ra một câu trong bức thư em tôi gửi cho tôi từ Việt Nam “Thuốc chị gửi về cho má, em chỉ để dành thuốc hạ huyết áp, những thứ còn lại em đem bán được khá tiền, đỡ cho gia đình lắm. Chín (là tôi!) có biết không, tiền má gửi ngân hàng đã bị tịch thu hết rồi, tiền của em, của anh chị Năm, chị Bảy, anh chị Tám gửi ngân hàng đều mất hết. Gia đình mình – theo Tây học – không có thói quen giữ tiền tiết kiệm bằng vàng như anh chị bà con mình ở quê. Nay thì họ giàu nhất và mình thì nghèo nhất vì hiện giờ dân trí thức như mình là tay không, tiền tiết kiệm gửi các ngân hàng đều hoàn toàn bị tịch thu. Các chị bà con ở quê, ai có giữ tiết kiệm bằng vàng cứ thong thả xài từng chỉ vàng. Gia đình mình có ngày không còn gì ăn, không còn một xu nào. Em phải đem ra chợ trời bán bớt, khi thì cái radio, khi thì mấy chục con búp bê của Chị, khi thì tám chín cái đồng hồ Seiko ngày xưa mình mua chưa xài, khi thì cái máy nghe đĩa hát cũ của anh Sáu, khi thì trọn bộ chén dĩa vaisselle Chín mua định cho TNPSXH trước khi đi. Vì thế nên thuốc của Chín gửi về em bán đi cũng khá tiền, đủ mua gạo ăn cả tháng. Một hộp Campolon, Chín biết em bán được bao nhiêu không? Đủ mua 30 ký gạo! Rồi Aspirine PH8 – 15 ký gạo, Becozyme hộp chích – 25 ký gạo, Bécozyme viên – 10 ký gạo…”
Khi đọc thư đó tôi vẫn dửng dưng, chỉ nhớ là lần sau sẽ gửi nhiều thứ thuốc khác xem có bán được ít tiền mua gạo cho cả nhà không. Nhưng trong giờ ngồi thiền sáng nay, chợt nhớ tới lời em tôi về việc đổi thuốc Campolon thành 30 kg gạo, Multivitamines 15 kg…, tôi có sáng kiến ngay. Tại sao tôi không gửi thuốc cho các tác viên xã hội ở gần nhà các cháu, chỉ cho họ cách đổi thuốc ra tiền và gạo rồi đem tới cho cháu này hay cháu kia. Sướng quá. Thế là tôi chuẩn bị thực hiện ngay việc gửi thuốc cho các gia đình cực khổ ở Việt Nam để họ đổi thuốc thành tiền. Nhưng Thầy có dạy, khi có chút tuệ giác nào đó thì khoan thực hiện ngay. Để đó, tập nhìn sâu hơn chút nữa. Hôm sau tôi lại nhớ khi gửi tiền về cho sư bà Thể Thanh, sư bà nói mấy anh “trồng cây si mặt đỏ gay dễ sợ lắm”- nói tránh các anh Công An cứ tới hỏi loanh quanh. Thế thì nếu họ biết mình gửi thuốc về cho từng sư bà, sư cô, từng tác viên, họ sẽ làm khó dễ sư bà và các bạn. Tôi nhìn sâu thêm và có sáng kiến là mình sẽ “chết” luôn trong hình tướng và tên tuổi mình từ đây. Nghĩa là trên tất cả những gói quà nhỏ mình gửi về, họ tên của người gửi sẽ tùy thuận để cùng họ với người nhận, để người nhận có thể khai là bà con xa gần chi đó. Ví dụ người nhận là Mai Thị An thì người gửi là Mai Thị Hoa, người nhận là Nguyễn Đức Nhơn ba của Nguyễn Đức Sơn thì mình để tên người gửi là Nguyễn Thị Ngọc Phương. Người nhận là Thái Kim Phượng (vợ anh Trụ Vũ) thì người gửi là Thái Thị Chơn. Vui quá, quà gửi đi, thư trở về đầy chân tình mà người nhận không biết tôi là ai. Tôi cũng đâu phải là tôi đâu? Trái tim thương yêu đó là của cả giòng họ, của đất nước phù sa mầu mỡ và rộng rãi. Quà đó là của các ân nhân gửi cho các cháu. Tiền bị chặn ở ngân hàng thì tôi tìm cách gửi về cho các cháu, tiền tôi còn giữ dù một xu cũng không phải của tôi. Tôi xài rất kỹ, một con tem phí phạm cũng không dám xài.
Ngày xưa làm việc giúp 20.000 cô nhi chiến tranh, tôi chỉ biết tên, họ, hoàn cảnh các em cô nhi và con số cô nhi. Tôi chỉ gửi tiền cho quý Sư Bà, Ni Sư phân phát cho các cháu chứ không có thì giờ viết thư cho từng cháu như bây giờ. Trên hộp quà lần nào tôi cũng dạy các cháu ý thức rằng cháu còn có mẹ là điều vô cùng mầu nhiệm, rằng được đi trên mảnh đất phủ đầy lá tre của quê hương là một hạnh phúc mà hiện giờ tôi không có. Tôi dạy các cháu hôn mặt đất bằng hai chân tôi trong hai chân cháu. Rồi càng nhìn sâu cách làm việc gửi quà về giúp Việt Nam tôi càng có sáng kiến. Tặng vật chất không hay bằng tặng tinh thần nên tôi luôn luôn viết thêm bức thư gửi kèm theo thuốc, nhắc các cháu nhớ những đức hạnh của Sư Bà này, trân quý sự hiện diện của Ni Sư kia giữa gia cảnh khó khăn của các cháu như hiện thân của một vị bồ tát. Tôi gửi thuốc và viết lời cám ơn từng
bạn mà xưa nay tôi nghe nói lúc nào cũng thương người khổ, bảo bọc cho các cháu côi cút nên tôi gửi những thuốc này. Trong một hộp quà đúng một ký lô có 2 hộp thuốc Campolon, 2 hộp Multivitamines, 2 hộp Eucalyptine trị ho, 2 hộp Aspirine PH8, hai hộp Optalidon trị cảm cúm nhức đầu, 2 hộp Fansidar trị sốt rét, 2 hộp Bépanhène, 2 hộp Durabolin, 2 hộp thuốc ho Terpine Gonnon. Tôi xin họ giữ mỗi loại một hộp cho gia đình họ, còn bán hộp kia đi để đổi thành gạo cho gia đình nào côi cút nghèo khổ nhất, nhờ họ tả cho tôi nghe rõ ràng gia cảnh, tên họ và địa chỉ gia đình cơ cực đó để tôi có thể gửi trực tiếp mà không phiền họ. Và như vết dầu loang, trong vòng chưa đầy vài tháng tôi đã có hơn 200 địa chỉ những gia đình thật cơ cực.
Tôi tập “tái sinh” trong 38 nhóm giúp trẻ em Việt Nam
Một hôm, thấy tôi “say sưa” gói quà cho các gia đình nghèo khổ ở Việt Nam, Thầy “đánh thức” tôi dậy: “Này Phượng, con phải tập là nếu tối nay con bị đứng tim chết thì con cũng nhẹ nhàng mỉm cười ra đi, không tiếc nuối gì cả, con nghe không?”
Tôi giựt mình. Không! tôi sẽ không ra đi bình an nếu tôi chết tối nay đâu. Ai sẽ tiếp tục gửi quà cho các cháu nghèo khổ ở Việt Nam đây? Ai sẽ gửi quà cho các vị bồ tát của tôi ở Việt Nam để phân phối đến các cháu cơ cực đây? Tim tôi đau nhói nhưng vẫn phải tập như Thầy dạy. Tôi cứ để cho câu hỏi của Thầy rơi vào tàng thức và tiếp tục nuôi dưỡng định tâm bằng cách an trú trong phút giây hiện tại trong từng hành động hằng ngày.
Thế rồi một hôm tôi hé tìm ra giải pháp là tôi phải tái sinh thôi. Tái sinh liền bây giờ trong các cháu về tu học. Tôi rất ý thức là công tác của tôi sẽ bị lộ nếu 200 bức thư đều gửi từ Phương Vân Am. Vì vậy tôi phải đi cầu cứu các cháu về thăm Phương Vân Am, nhờ các cháu chia việc với tôi, chia thành nhiều nhóm để có nhiều địa chỉ khác nhau. Tôi để thì giờ chia sẻ ưu tư với các cháu, chỉ cách cho các cháu làm việc, chỉ cho các cháu cách viết thư thật khiêm cung, coi người nhận quà như những ân nhân giúp mình đem quà cho các cháu đói kém, xem người cần giúp như cánh tay trái bị khó khăn mà mình là tay mặt đến giúp, không xem mình như người làm ơn. Con của chị Bảy tôi có Bùi Thanh Vũ, Bùi Ngọc Thúy tình nguyện, con chị Tám tôi có Nguyễn Thị Bích Nga tình nguyện, con em Mười tôi có Bùi Cao Thanh Trang, con gái lớn của bác Nguyễn Đình An (anh của Thầy) là cháu Nguyễn Anh Hương. Các cháu về tu học có Trương Diễm Thanh, Võ Giao Trinh, Võ Thị Tri Thủy (con gái nhà văn Võ Hồng) và Nguyễn Thị Bích Thủy, con anh Nguyễn Công Hoan. Phần đông các cháu mới vừa qua xứ lạ với tư cách thuyền nhân hay được người bảo lãnh nên những người hàng xóm tốt bụng thường tặng cháu một số tiền để mua sắm. Tôi thì cung cấp cho các cháu các loại thuốc kể trên vì tôi mua giá sỉ. Các cháu lấy tiền đó của ân nhân để mua tem gửi về một số địa chỉ các bạn nghèo của cháu hay những bạn nghèo tôi vừa xin được, cũng tặng thuốc, cũng tìm cách tưới hoa người nhận quà để họ không mặc cảm. Rồi khi có thư cám ơn của những gia đình cơ cực ở Việt Nam, các cháu dịch ra tiếng Pháp hay Anh để gửi lại cho những vị đã tặng tiền cho mình trước đấy. Người bạn Thụy Sỹ đó hay người bạn Pháp đó thấy mình nghèo mà lại giúp người nghèo hơn nên rất cảm phục và lại tìm thêm ân nhân mới cho các gia đình cơ cực ở Việt Nam mà mình có thư cám ơn và nói rõ gia cảnh. Phần đông đối tượng chúng tôi giúp lúc này thường là cha đi học tập, mẹ vừa nuôi cha ở tù (vì nghe nói trong trại học tập cải tạo, tù nhân ăn đói lắm, gia đình phải thăm nuôi thường xuyên, gửi thêm thức ăn và thuốc bổ) vừa nuôi năm con hay bảy con mà đứa lớn nhất mới 12 hay 13. Dần dần các cháu tự làm được và giỏi thêm ra. Ba cháu con của em Mười tôi là Thanh Trang, Thanh Tâm và bé Thơ mới 12, 10 và 8 tuổi mà sau giờ học ở trường các cháu tự nguyện đi quét lá mùa thu cho các lâu đài bên Thụy Sỹ để có thêm tiền gửi về cho các bạn nghèo ở Việt Nam. Cháu Nguyễn Anh Hương con bác An chẳng hạn, sau này lập Ủy Ban nuôi hàng ngàn em bé thiếu ăn… Từ từ chúng tôi có 22 rồi 27 rồi 30 và rồi 38 nhóm tăng thân nhỏ gửi quà cho các cháu thiếu ăn, mỗi nhóm giúp từ 30 đến 50 gia đình. Vì thế mỗi tháng vài ngàn gia đình ở Việt Nam được cô cháu chúng tôi gửi quà, đủ loại hộp, đủ các thứ tuồng chữ, địa chỉ khác nhau. Tôi dần dần tìm lại được nụ cười và biết rõ rằng nếu tối nay tôi có bị đứng tim chết thình lình thì tình thương của tôi vẫn tiếp tục trôi vào những trái tim và những bàn tay ngọt ngào của các cháu.
Trong khi tôi dò dẫm tìm cách vượt khó khăn để sống sót sau tai nạn lớn này thì Bùi Thị Hương, cũng làm việc với tôi tại Phái Đoàn Hòa Bình GHPGVNTN, vượt khỏi hoàn cảnh khổ đau này bằng cách khác. Bùi Thị Hương là tác viên xã hội lớp đầu tiên. Sau vụ mấy người lạ mặt mang mấy mươi quả lựu đạn quăng vào cư xá nữ TNPSXH ở Phú Thọ Hòa năm 1967, Hương bị thương tưởng chết vì hơn 600 mảnh lựu đạn ghim hẳn trong người. Hương được đưa đi Nhật điều trị ở Hiroshima, phải mang chân giả. Khi Hương chuẩn bị về Việt Nam để phụng sự thì tôi mời em sang Paris vài tháng giúp tôi lo chuyện các cháu cô nhi để khi về Việt Nam sẽ làm nhịp cầu giữa Phái Đoàn, các bạn hải ngoại và các cháu trong nước. Chiến tranh chấm dứt như thế cũng khiến Hương chới với. Hương đã tìm cách vượt khó khác với tôi. Khi cả tăng thân Paris dời về Phương Vân Am, Hương xin phép không ở Phương Vân Am lâu mà xin được đi thử thăm viếng những cộng đồng tu học khác như Communauté de l’Arche để học hỏi thêm về cách tu của người Pháp. Sau này Hương gặp được người bạn đời là một giáo sư Triết người Pháp rất dễ thương và trân quý Hương. Tôi biết Hương cũng rất đau đớn và tuyệt vọng như tôi nhưng Hương phản ứng cách khác. Có một hôm Hương trở về Phương Vân Am đề nghị tôi đọc những tuệ giác tuyệt vời trong bản dịch tiếng Anh mới của Upanishads. Tôi hơi ngạc nhiên nhưng không nói gì, chỉ phấn khởi khoe với Hương về các công tác mới tôi làm với mấy chục nhóm các bạn nhỏ từ Việt Nam sang. Tôi rủ Hương bắt đầu một nhóm nhỏ nhưng Hương phản ứng rất mạnh khiến tôi thật bất ngờ: “Thôi, đủ lắm rồi, em không đụng tới những việc xã hội đó nữa đâu”. Tôi đau như có nhát dao đâm vào tim, nhưng tôi biết trái tim của em cũng tan nát vì tình trạng tăm tối của Việt Nam lúc đó. Sau đó Hương lại ra đi. Lần cuối cùng tôi được tin Hương là năm 1988, khi Hương sắp về Việt Nam thăm gia đình. Hương tự đề nghị là sẵn sàng làm những gì tôi cần, đọc tới đây tôi mừng quá tưởng tìm lại được người em đồng chí mà tôi thương, nhưng bên dưới chót bức thư Hương ghi rõ: nhưng xin chị đừng nhờ em những gì có dính đến chính trị. Tim tôi lại đau nhói. Tôi làm cái gì? Gửi lén lút thuốc men về Việt Nam để đổi gạo nuôi các cháu đói là chính trị mất rồi bởi vì nếu Công An biết người chủ trương gửi thuốc là tôi, cô đầu đàn phụ tá cho ông sư Nhất Hạnh thì thuốc sẽ bị tịch thu và các cháu sẽ vào tù mất. Tôi đang làm chính trị đây, thôi đành vậy! Giã từ em Bùi Thị Hương thân yêu của tôi. Tôi không trách Hương mảy may nào, bởi vì tôi không bị 600 mảnh lựu đạn trong người, bị mất hết một chân, phải đi bằng chân giả như Hương. Sau khi Hòa Ước Paris ký xong tháng 3 năm 1973, Hương sang Pháp làm việc trong Phái Đoàn Phật Giáo để giúp tôi lo cho hàng ngàn cô nhi chiến tranh và cũng để chuẩn bị về Việt Nam phục vụ cùng với các bạn TNPSXH trong nước. Hòa Ước đã ký kết rồi! Nhưng chiến tranh mới thật sự chấm dứt vào tháng 4 năm 1975, hai năm sau “hòa ước” đó, một cách phũ phàng như thế, để rồi công sức của thầy trò, anh chị em trong Phái Đoàn trở thành mây khói. Hương có quyền lật trang sử mới của cuộc đời Hương. Và từ 1988 tôi không trả lời gì hết những bức thư Hương gửi cho tôi nói chuyện triết học. Mãi lâu sau, năm 2005, khi được theo Thầy trở về Việt Nam, tôi mới biết rằng nhạc sĩ Lê Thương vì quá hứng khởi, nghĩ tôi là em ca sĩ Cao Thái – cũng là bạn của Lê Thương – không có gì hiểm nguy nên nhạc sĩ không dấu với một số bạn bè về tình bạn giữa nhạc sỹ và tôi. Tin ấy đã lọt đến tai Công An nên anh Lê Thương bị mời lên Công An “làm việc” luôn mấy tháng. Hèn chi mà lúc sau này tôi ngạc nhiên và hơi buồn thấy anh lơ là chuyện viết thư cho tôi, tôi không dám hỏi thăm, chỉ tự nghĩ không biết mình có vụng về gì hay không. Nghe như thế tôi mới hiểu và thương Hương thêm. Bùi Thị Hương một mặt thì muốn giúp tôi, nhưng một mặt khác thì sợ nếu liên quan đến tôi là gặp hiểm nguy nên dặn trước: Xin đừng nhờ em việc gì có dính đến chính trị. Hiểu như thế nên tôi cũng vẫn thương Hương. Tôi nghĩ tôi chỉ có thể làm việc lại như xưa khi nào chính quyền Việt Nam không còn coi Thầy chúng tôi như là “người đáng sợ” nữa!
Bảo trợ các cháu mồ côi vì chiến tranh
Theo truyền thống Việt Nam, khi em mình hay anh chị mình chẳng may mất đi và để lại đàn con mồ côi thì mình phải đem cháu về nuôi, không do dự. Nếu mình là bà nội hay ngoại thì dĩ nhiên sẽ nuôi cháu mồ côi của mình. Người Việt Nam trước khi bị Pháp đô hộ không để tất cả trẻ mồ côi vào một khu nhà chung. Chưa có danh từ Trại Mồ Côi. Nếu một bà mẹ lo không xuể cho 12 đứa con thì một sư cô hay một ma sơ cũng không thể nào chăm sóc nổi 60 cháu, 80 cháu, 100 cháu. Lo cho quá đông trẻ em sẽ không có tình người, sẽ đối xử rất máy móc, rất tội. Nhưng nếu cô, dì, hay cậu mợ nuôi cháu mà cậu nghèo quá, mợ chưa là người giỏi thì có thể bắt đứa cháu mồ côi đi ở đợ, làm thuê, không cho đi học… Vì lẽ đó chúng tôi quyết định tìm người bảo trợ để các cháu mồ côi vì chiến tranh được tiếp tục ở với bà nội, bà ngoại hay cô dì chú bác mà không là gánh nặng cho gia đình cưu mang các em. Sau bức thư kêu gọi của GHPGVNTN đầu tháng Ba 1973 do Thầy cùng hai Hòa Thượng Thiện Minh và Huyền Quang thảo tại Bangkok, lúc nghe tin Hiệp Định Hòa Bình cho Việt Nam vừa ký kết xong tại Paris, trong đó Giáo Hội thỉnh mời chư tăng ni trên toàn quốc để thêm thì giờ lo tái thiết và phát triển đất nước sau chiến tranh và để tâm lo cho trẻ em nghèo khó, chúng tôi được báo tin chỉ một năm thôi, vào đầu năm 1974, GHPGVNTN đã có hơn 300 nhà giữ trẻ được thành lập trong 42 tỉnh Miền Nam mà Giáo Hội Trung Ương không hề cung cấp một đồng nào cho chuyện xây dựng và điều hành… Quý sư cô mở cửa Ký Nhi Viện từ sáu giờ sáng đến sáu giờ chiều để bà nội, bà ngoại hay cô dì gửi con cháu để đi làm rồi chiều mang cháu về. Người nào khá giả thì đóng góp một ít tiền gạo tiền rau cho các cháu, nhưng phần đông là các sư cô nuôi ăn, giặt giũ mà chúng tôi không bảo trợ gì cả. Bà con trong nước người giàu người nghèo mỗi người một tay, đủ từ bi để giúp sư cô tại địa phương mình xây dựng và chăm sóc thiếu nhi, không để các cháu lêu lổng ngoài đường sinh tệ nạn. Tuy thế, nếu các cháu có người bảo trợ, gửi tiền về cho bà nội phụ tiền gạo rau thì thức ăn cho các cháu sẽ khá hơn. Thế là Văn Phòng Phật Giáo tại Paris bắt đầu đề nghị các tỉnh Giáo Hội PGVNTN chọn và gửi hồ sơ các cháu mồ côi, từ sơ sinh tới 16 tuổi để chúng tôi tìm người đỡ đầu. Hồ sơ ghi tên tuổi, địa chỉ từng cháu, nói vài hàng vì sao bố chết, vì sao mẹ mất, học lớp mấy, trường nào, địa chỉ trường học. Bên này chúng tôi đề nghị mỗi người đỡ đầu cho mỗi cháu 25 Francs một tháng, tương đương với 5 mỹ kim hay 2 Anh Kim rưỡi. Chúng tôi dịch hồ sơ ra tiếng Pháp, Anh, Hà Lan, Đức và Ý và gửi đến các Ủy Ban chăm sóc trẻ em của từng nước để tìm người bảo trợ các cháu. Ở Pháp, để bớt việc cho Phái Đoàn, Pierre Marchand và Neige Achiary lập ngay Comité pour les Enfants du Vietnam; Anh quốc có Third Way in Vietnam; Hoa Kỳ có nhóm của Laura Hassler ở vùng New York East Coast và Richard Murray vùng Trung Mỹ với Chicago; Hà Lan có nhóm chị Kirsten Roep và Hans Lourens. Tiền từ các nước gửi về Phái Đoàn, chúng tôi gửi về Ủy Ban Tái Thiết và Phát Triển Xã Hội GHPGVNTN mà Hòa Thượng Thích Thiện Hòa là chủ tịch. Ban Thủ Quỹ của Hòa Thượng sẽ chuyển tiền về từng tỉnh Giáo Hội và huyện Giáo Hội để gửi vào từng ký nhi viện do quý ni sư như Ni Sư Thể Thanh hay Ni Sư Cát Tường, Sư Bà Viên Minh, sư cô Như Huyền… đảm trách. Mỗi quý sư cô trưởng Ký Nhi Viện gửi qua Phái Đoàn thư cám ơn của các cháu khi các cháu đến nhận tiền trợ cấp. Cháu nào nhỏ thì lăn tay đỏ chói và có mấy dòng chữ run run của bà nội. Sư cô Trưởng Ký Nhi Viện theo dõi xem khi về nhà các cháu có áo quần và được ăn uống đầy đủ không. Nếu cháu ở với chú, bác hay cô dì thì sư cô xem chừng chú hay bác ấy có lấy tiền của cháu đi cờ bạc, rượu chè không, cháu có bị gia đình bảo trợ như thím hay dượng đánh đập không.
Hoàn cảnh đất nước rất đau buồn vì chiến tranh, nhưng chương trình này đã cho thầy trò chúng tôi rất nhiều niềm vui.
Trước nhất là văn phòng Phái Đoàn Phật Giáo ngày càng đông người tham dự để dịch hồ sơ ra tiếng Pháp, tiếng Anh. Có khi các sinh viên tình nguyện dịch hồ sơ ở lại văn phòng làm việc trễ vì cần gửi gấp 80 hồ sơ đi Thụy Sỹ, 45 hồ sơ đi Amersfoort, 30 hồ sơ đi Lyon… Các cô thì cứ vào phòng bên trong của tôi, Mobi, Hương và Neige mà ngủ tạm và các cậu thì ở ngoài “thiền đường” tức phòng khách + phòng ăn + phòng ngồi thiền với chú Thanh Hương. Thầy cũng đòi được dịch trực tiếp một số hồ sơ các cháu mỗi ngày dù công việc của Thầy thật là nhiều. Lúc sau, khi có Thoa, Lợi qua Pháp và gia đình Thoa đòi mướn phòng cho hai em ở và anh Cao Thái cũng chia một phòng nơi chung cư đó thì số người tại văn phòng lại vui hơn. Như thế ai mệt có thể về tạm ngủ ở bên “nhà” anh Cao Thái.
Niềm vui thứ hai là khi dịch trực tiếp hồ sơ các cháu mất cha mẹ, tình thương của Thầy và của chúng tôi đối với các cháu càng sâu nhờ được Thầy dạy chúng tôi cách cùng quán chiếu như Thầy, ví dụ như khi đọc chỗ mẹ cháu chết vì mìn nổ trên xe khi đem rau cải đi bán, Thầy quán chiếu ra sao…. để thấy mình là cháu, cháu cũng là mình, mình với cháu là một, không có người cho không có người nhận, tương tức ra sao.
Niềm vui thứ ba là giúp những gia đình Tây Phương có duyên bảo trợ một cháu được sự tiếp xúc sâu sắc hơn với thực tại Việt Nam, kêu gọi chấm dứt chiến tranh không trên lý thuyết nữa. “Đây này, tôi nuôi cháu Lê Thị Trang này, cha cháu đi lính bị giết, mẹ cháu bị mìn nổ khi đi xe lam chở rau ra chợ bán này, cháu cần hòa bình để có thể đi học an ổn.” Gia đình Hà Lan này treo hình cháu lên tường để nhắc con cháu bên Tây Phương biết “mình may mắn lắm. Bên kia (Vietnam) có cháu bằng tuổi con mà đã mất cha mất mẹ rồi, nếu gia đình mình không chia sớt thì em không có cơm ăn v.v…”
Niềm vui thứ tư là Thầy có dịp dạy chúng tôi khi gửi thư kèm theo tiền về cho các cháu cô nhi qua tỉnh Giáo Hội, huyện Giáo Hội, qua quý thượng tọa hay quý ni sư, thì chúng tôi phải viết khiêm cung lễ phép ra sao. Tôi nhớ có lần thầy MT bên Niệm Phật Đường KA ghé qua, thấy chúng tôi đang biên thư cho từng Thượng Tọa Trưởng Ban Từ Thiện Phật Giáo mỗi tỉnh, thầy phát tâm viết giúp. Thường thì chúng tôi viết trước một bức thư chung và chỉ đổi tên Thượng Tọa hay Sư Bà hay Ni Sư, đổi số tiền sẽ gửi (tùy theo con số cô nhi mình tìm ra người bảo trợ). Chúng tôi đánh máy thư thầy MT viết dùm, nhưng khi đọc xong thầy Nhất Hạnh không chịu. Thầy sửa lại câu văn cho từ tốn hơn, khiêm cung hơn, xin chư tôn đức rủ lòng thương trao giúp cho chúng con số tiền là… đến tận tay các cháu… Thầy Nhất Hạnh nói mình càng gửi tiền nhiều thì càng phải khiêm cung hơn, nhất là với chư tôn đức đạo cao, đức lớn, lãnh đạo cả tỉnh Giáo Hội, xưa nay đâu có làm việc này. Viết cho Thượng Tọa Trưởng Ban Tỉnh Giáo Hội Quảng Ngãi hay Quảng Nam hay Bình Định mà viết như vậy không được. Chư tôn đức không phải nhân viên của mình. Cách thức của chúng tôi là gửi tiền thì qua Giáo Hội Trung Ương, nhưng mỗi lần đều có một bức thư gửi trực tiếp tới chư tôn đức mỗi tỉnh Giáo Hội, cám ơn lòng ưu ái của chư tôn đức đã từ bi đứng ra lãnh dùm từng ấy tiền cho từng ấy trẻ thơ, cám ơn ni sư hay sư bà đã chịu trách nhiệm phát tiền cho các cháu, xin chư tôn đức dạy các cháu sau khi vừa nhận được tiền thì viết thư cám ơn ngay tại chỗ, để chúng tôi có bằng chứng báo cho ân nhân mừng là tiền đã tới tận tay các cháu v.v..
Các cháu mồ côi ở Huế
Chị Kirsten Roep và ủy ban Hà Lan lo cho Việt Nam
Ủy Ban ở Hà Lan là Ủy Ban đắc lực và thành công nhất so với mười mấy tiểu ban các nước khác. Có được may mắn này – nghĩa là số người bảo trợ tăng rất nhanh – là nhờ những rủi ro trước đó (có “bùn” mới có “sen”). Số là từ 1969 đến 1971, bà Hebe Kohlbrugge, vị bồ tát đã cứu hàng chục ngàn người Do Thái thoát chết trong đệ nhị thế chiến, đã hết lòng giúp TNPSXH ở Việt Nam về tài chính. Nhưng năm 1971 bà bị Giáo Hội Tin Lành cho hưu trí, thế là chương trình Ban Xã Hội từ thiện của bà bị ngưng hẳn. Những người kế vị chỉ muốn giúp người Ky Tô thôi nên chúng tôi đã đột ngột bị chấm dứt những nguồn tài trợ từ Hà Lan để giúp nạn nhân chiến cuộc và phụ giúp chút đỉnh chi phí điều hành Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội. Lúc đó tôi khuyến khích các bạn Hà Lan cứ tự đứng lên làm một hội nhỏ thôi, không dựa vào Giáo Hội Tin Lành, Giáo Hội Thiên Chúa nào hết, tự mình thắp đuốc lên mà đi như chúng tôi, trường TNPSXH đang làm tại Việt Nam. Nếu tâm mình an và chỉ có một nguyện duy nhất là giúp người khổ thì khó khăn gì cũng vượt được. Các bạn thương tôi nhưng có vẻ khá lo lắng. Ngày xưa, cô Hebe Kohlbrugge không cần làm chi nhiều. Các nước Âu Châu thường có tập quán đi nhà thờ và sau khi làm lễ xong sẽ được mời bỏ tiền vào những chiếc rổ nhỏ của các linh mục hay mục sư chuyển đến từng hàng ghế. Có người cho vài đồng thôi nhưng có người cho nhiều. Mỗi khi Ban Xã Hội kêu gọi giúp Việt Nam theo chương trình của cô Trưởng Ban thì chỉ sau một vòng kêu gọi vài tuần, cô Hebe có ngay vài ba chục ngàn florins tiền Hà Lan. Còn bây giờ chúng ta chỉ có vài bà mẹ trẻ, vài sinh viên thiện nguyện và anh thư ký FOR để lập hội thì làm sao vươn lên nổi? Tôi khuyến khích: “Trường TNPSXH chúng tôi giữa chiến tranh sôi bỏng, không có sự trợ giúp của GHPGVNTN mà vẫn có cả trăm người đi công tác chỗ này, đi cứu trợ chỗ kia mà”. Chị Kirsten Roep người Đan Mạch (lấy chồng Hà Lan), cũng sinh năm Cọp như tôi và cũng gan dạ làm việc nào cũng đi tới cùng như tôi, sẵn sàng đứng lên lãnh trách nhiệm làm Thư Ký Hội. Chị tự thảo Nội Quy, tự đi khai báo và xin giấy phép. Chồng chị là giáo sư địa chất Thomas Roep, khi thấy tôi nói vanh vách tên đá quartz, granit, basalt, tên các fossile nhiều thời thì anh thích quá xem tôi như đồng chí về địa chất học. Cháu Jens mới mười tuổi cũng lắng nghe mẹ và cô trao đổi về chiến tranh, về trẻ em Việt Nam đáng thương ra sao, nên khi mẹ đi vắng, khách gọi điện thoại tới nhà, cháu trả lời rành mạch như người lớn! Hans Lourens là một thanh niên trẻ mới vào nghề làm thư ký cho Hội FOR Hà Lan, thay cho bác Peter Eterman vừa về hưu. Anh giúp chúng tôi liên lạc với tất cả hội viên FOR Hà Lan. Hans rất hiền, ít lời nhưng hăng say làm giúp những gì chúng tôi cần giúp. Ba chị em chúng tôi bắt đầu Ủy Ban cho Việt Nam này chỉ với 23 hồ sơ cô nhi. Tôi tình nguyện trở qua Hà Lan mỗi năm nhiều lần khi có dịp để gặp báo chí và nói chuyện về công tác của Phật Giáo. Nhờ có cô “Cọp Kirsten” biết viết nội quy là Hội này “chỉ bảo trợ những công tác xã hội của thầy Nhất Hạnh thôi, không giúp các hội đoàn nào khác” nên sau này, khi Hội lớn nhanh có nhiều tiền, đã tránh được biết bao rắc rối xảy ra.
Chuyến đi thăm Hà Lan thứ hai, nhờ tờ báo Trouw viết thêm một bài, chúng tôi đã bắt được liên lạc với những người tốt khác như anh Juul và chị Laura Pauwells ở Nijmegen.
Chị Kirsten là một phụ nữ vô cùng thông minh, can đảm và có lòng thương vô bờ bến. Chị tự học tiếng Việt để có thể dịch hồ sơ cô nhi giúp với chúng tôi. Mobi Warren thì ở chung nên học tiếng Việt không khó. Còn Kirsten thì ở quá xa, một bên chồng con, một bên công việc tổ chức, sổ sách tiền bạc, vậy mà chị cũng tự học được và hiểu khá nhiều các hồ sơ để khi nào chúng tôi buồn ngủ dịch sai thì chị điện thoại hỏi lại để sửa. Ủy Ban lớn nhanh như thổi, chỉ trong vòng hơn ba năm mà từ 23 người bảo trợ, các anh chị bên này tìm ra hơn 14 ngàn người Hà Lan bảo trợ cho các cô nhi Việt Nam vào tháng 3 năm 1975.
Bảy năm sau, khi Hội rất lớn, thấy Hội có nhiều tiền quá, có những người không thật lòng nhảy vào và gây khá nhiều rắc rối. Lần cuối cùng Phái Đoàn Phật Giáo gửi tiền về Việt Nam là 437.800 mỹ kim (của nhiều Ủy Ban khác nhau chứ không phải chỉ của Ủy Ban Hà Lan), gửi từ 23 tháng 4 năm 1975 mà đến tháng 9 năm 1975, ở Việt Nam quý Hòa Thượng vẫn chưa nhận được. Chúng tôi căn dặn các bạn nên chờ tình hình rõ ràng hơn, khoan gửi tiền về Việt Nam nữa, nhưng các bạn Hà Lan mới vào Ủy Ban tiếc dịp may, thiên hạ đang sẵn sàng gửi tiền vào tài khoản của mình mà dặn ngưng, dặn chờ đợi. Họ nghĩ nhanh và đơn giản: “Thôi dẹp thầy Nhất Hạnh quách, cứ làm thẳng với chính quyền Hà Nội cho dễ để tiếp tục nhận tiền của ân nhân, chứ nếu tiền không gửi đi thì không có quyền nhận tiếp.” Chúng tôi đã cho biết trước là tôi không chắc tiền sẽ tới tay các cháu, mà đó chính là điều kiện căn bản Ủy Ban hứa với ân nhân các cháu (vì lúc ấy thầy Giám Đốc Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội đang còn bị tù, anh Tổng Thư Ký Lê Nguyên Thiều còn đang trốn chui vì Công An kêu lên làm việc tra hỏi từ 6h sáng đến 8h tối ngày này qua ngày khác). Sở dĩ các vị chủ tịch và thủ quỹ Ủy Ban Hà Lan này muốn tiếp tục là để họ còn được tiếp tục làm Giám Đốc một chương trình thu vào hàng tháng 75.000 dollars. Chị Kirsten chỉ làm Tổng Thư Ký nhưng nhờ chị ghi kỹ lưỡng sâu sắc ngay từ đầu trong Nội Quy như kể trên nên khi chị đem nội quy ra xét thì họ không dùng tiền này để gửi cho chánh quyền Việt Nam được và bắt buộc chấm dứt chương trình. Tiền còn lại trong ngân sách, tăng thân quyết định trao hai trăm nghìn guilders cho trẻ em đói ở Brazil qua đức Hồng Y Helda Camara, người có nhiều chương trình giáo dục bên Brazil cho trẻ em nghèo khổ. Còn lại một trăm ngàn guiders, tăng thân gửi tặng cho quý thầy Phật giáo ở Bangladesh đang lo cho hơn 300 cô nhi. Bangladesh là xứ Hồi Giáo, chính quyền Hồi đối xử rất tệ với khoảng 200 ngàn dân thiểu số theo đạo Phật ở một vùng núi nên chúng tôi giúp họ thật đúng lúc.
Thụy Điển, Giáo hội Lutheran và Thủ Tướng Olof Palme
Năm 1972 khi chúng tôi đi Thụy Điển để dự Hội Nghị bảo vệ địa cầu do Đại Đồng Thế Giới tổ chức song song với Đại Hội Liên Hiệp Quốc bảo vệ thiên nhiên, Thầy chúng tôi và phái đoàn có dịp gặp các vị tôn đức trong Giáo Hội Tin Lành Lutheran toàn quốc Thụy Điển. Thầy nói về những mất mát các giá trị tâm linh đạo đức nếu chiến tranh kéo dài. Mục sư Karl Axel Elmquist là người rất dấn thân, không chấp nhận chiến tranh, ông đã từng tham dự trong Chiến Dịch Stop the Killing now của Tổ Chức Lương Tâm Quốc Tế ICCV. Ông mời Thầy chia sẻ với chư tôn đức lớn trong Giáo Hội việc Giáo Hội Thụy Điển có thể làm gì giúp dân Việt Nam. Thầy dạy tôi ra trình bày những chương trình phát triển cộng đồng của Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội và chương trình giúp nạn nhân chiến cuộc, cô nhi chiến tranh, cách tác viên TNPSXH ở lại với dân xây dựng lại trường học nhà cửa những nơi mới vừa bị oanh tạc như ở Trà Lộc Quảng Trị. Giáo Hội Lutheran thấy cái cách Phật tử Việt Nam hành xử với những người muốn ám hại mình gần với thánh kinh hơn là con của Ky Tô và chính quyền Thụy Điển đã không công bằng đối với dân Việt Nam. Chiến tranh tàn phá Việt Nam như thế mà chỉ giúp Miền Bắc và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Chính quyền Thụy Điển đã xem Việt Nam Cộng Hòa như bù nhìn nên không muốn cho Nam Việt Nam một đồng tài trợ nào hết. Tôi nói: “Khi trẻ em và người lớn bị đạn thì họ khổ đau như nhau và chúng tôi, những tình nguyện viên công tác giúp người thì không phân biệt đạn của bên này hay của bên kia. Chúng tôi băng bó, đem thuốc men, thức ăn cho nạn nhân chiến cuộc không kể bên này bên kia. Thật ra những người đi kháng chiến trong rừng sâu đâu có giữ quả phụ, cô nhi và chính con nhỏ của họ trong rừng sâu được. Chính người tác viên xã hội Phật Giáo lo hết cho những người khổ đó. Trong số trẻ em đi học ở những vùng Việt Nam Cộng Hòa cũng có những cháu nghèo không có cha, một số là con của những người theo Mặt Trận Giải Phóng đó, nhưng khi thấy các cháu thiếu ăn, đói, không có tiền cắp sách đến trường học thì chúng tôi thương và lo cho không phân biệt.” Từ từ ai cũng thấy nếu Thụy Điển thật tình muốn giúp người khổ ở Miền Nam thì phải qua Phật giáo mới thật là xác thực giúp người khổ.
Nhưng làm sao xoay ngược cả guồng máy chính quyền Đảng Xã Hội Thụy Điển? Họ gửi tôi đi gặp dân biểu thuộc Đảng thân nhà thờ. Sau đó họ lại xin hẹn cho tôi đi gặp vài dân biểu Đảng đối lập chính phủ. Cuối cùng tôi lại phải đi gặp các dân biểu Đảng cầm quyền. Mỗi khi có được cái hẹn với vài dân biểu quan trọng là họ mời tôi phải bay đi Thụy Điển để gặp cho bằng được ông hay bà ấy. Tôi ý thức rằng các vị này rất bận, chỉ cho tôi gặp tối đa năm phút và tôi chỉ có năm phút thôi để chuyển tới họ những gì cần chia sẻ. Cô gái Việt Nam áo dài tóc dài này là ai mà họ phải mất thì giờ với cô ấy? Tôi chẳng cần chuẩn bị chi cả. Tôi chỉ theo dõi hơi thở, không suy tư, để tâm cho thật an và để từ bi biểu hiện trong tâm. Thương cả mọi người, những nạn nhân chạy dưới bom đạn đã đành mà thương cả những người lính của cả hai bên. Rồi khi nhìn vào mắt vị dân biểu đó tôi chỉ nói vài câu đầu xem họ để tâm vào hướng nào và lắng nghe họ phát biểu trước, rồi nhìn sâu vào câu nói của họ tôi diễn giải thêm về hướng đó, lúc nào cũng giữ tâm thật bình an và từ bi. Năm phút mà lợi lạc cho các vị ấy vô cùng, họ hiểu và thương Việt Nam thật tình. Thế là tôi phải bay đi Thụy Điển mấy lần chỉ để thuyết phục các ông này mỗi ông vài phút. Tôi hơi tiếc tiền máy bay – 1.450 Francs vé khứ hồi trong khi tôi chỉ cần 25 Francs là giúp được một cháu mồ côi tiền ăn mỗi tháng, dù các bạn Thụy Điển trả tiền vé cũng vậy – nên tôi không vui lắm khi phải đi. Nhưng các bạn năn nỉ quá nên tôi cũng chiều. Không ngờ nhờ tôi thuyết phục được dân biểu của cả ba đảng, tại kỳ họp Quốc Hội Thụy Điển tháng sau đó, nhóm dân biểu Đảng đối lập đưa ra buộc chính phủ phải giúp chương trình an sinh xã hội tại Miền Nam Việt Nam qua Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Đảng thân nhà thờ ủng hộ ngay, dù là đảng nhỏ nhưng đảng này mà ngả bên nào là bên đó thắng vì đảng đối lập và đảng cầm quyền cán cân bằng nhau. Nhờ có mấy dân biểu trong Đảng cầm quyền đã gặp tôi nên Đảng này cũng đồng ý luôn. Thế là Quốc Hội Thụy Điển chấp nhận trên nguyên tắc sẽ giúp Miền Nam Việt Nam về an sinh xã hội qua GHPGVNTN. Nhưng khi đi vào thực tế thì họ buộc các nhà thờ Thụy Điển, bạn của chúng tôi, phải làm sao có sự ưng thuận của Thủ Tướng lúc đó là ông Olof Palme, vì Bộ Swedish International Development Aid (SIDA) chuyên lo chuyện tài trợ xã hội của chính phủ không dám tài trợ nếu Thủ Tướng không đồng ý. Vậy thì phải đi gặp Thủ Tướng. Nhưng cô gái Việt Nam nhỏ xíu này là ai mà Thủ Tướng một nước chịu tiếp? Các mục sư Thụy Điển hơi bi quan, chắc không dễ gì đi gặp Thủ Tướng đâu.
May quá, có anh Bo Wickmark. Anh Bo và vợ là một cặp vợ chồng trẻ rất thích tôi, thương tôi như chị ruột, lại thuộc Đảng Xã Hội đang cầm quyền. Chắc họ không dư dả lắm nên chẳng cho tôi đồng nào nhưng lúc nào cũng sẵn sàng đưa đón tôi mỗi khi tôi sang nước này. Đảng Xã Hội đặc cách Bo làm đại diện Đảng lo liên lạc với đại diện các tôn giáo, nhờ vậy mà Bo Wirkmark có thể xin một buổi gặp mặt với Thủ Tướng cho tôi.
“Chính trị gia” Bo Wirckmark bị bắt buộc nghe tôi hát dân ca Việt Nam.
Anh cao hơn tôi một thước, hay ít nhất cũng 90 phân, to người, tóc vàng và rất nhiệt tình. Mỗi lần nói chuyện với anh tôi phải ngước lên như nói chuyện với một cái cây! Anh say sưa lắng nghe tôi kể về tình hình Việt Nam, về công tác giúp người khổ chúng tôi làm, về cách chúng tôi chối từ bạo động, chối từ trách móc ngay cả với những người mới ám sát bạn bè mình. Anh là người giúp tổ chức cho tôi đi Thụy Điển lần đầu và nhiều lần sau này. Anh sống thanh bạch nên tuy theo Đảng Xã Hội nhưng anh quen nhiều Mục Sư Giáo Hội Lutheran. Tháng 4 năm 1971, nhân dịp lễ Phục Sinh có hội chợ khá lớn quy tụ cả ngàn người ở thành phố Uppsala, anh mời tôi đi Thụy Điển chỉ để diễn thuyết trong 4 nhà thờ lớn ở Uppsala trong ngày ấy thôi. Buổi sáng tôi lần lượt nói chuyện trong thánh đường hai nhà thờ đầu, thiên hạ tới rất đông, nhưng trưa hôm đó lúc 15h khi chúng tôi tới nhà thờ thứ ba, chỉ có chưa tới 200 người nghe. Có lẽ vì cũng cô gái Việt Nam đó, nói từng ấy chuyện, có gì hấp dẫn đâu và có người đã nghe rồi hai lần. Vì thế chiều đó, trong khi chờ ăn chiều để rồi tối tôi lại sẽ nói thêm lần nữa lúc 19h tại một nhà thờ khác, các thanh niên xách ghi ta ra khảy đàn và hát các bản nhạc dân ca. Tôi đứng nghe thấy vui vui và hỏi: Các bạn có muốn nghe dân ca Việt Nam không? – Nghe! Họ thích thú ngạc nhiên đáp. Thế là tôi tả về Hò Miền Nam. – Bạn biết không, tôi nói, khi nông dân gặt lúa trên những cánh đồng lúa vàng ở miền Nam Việt Nam, trông từ xa ruộng lúa rộng mênh mông như biển. Khi gió thổi qua mặt biển lúa chín vàng này thì ta chỉ thấy những ngọn sóng nho nhỏ nhấp nhô nhấp nhô, vui tươi… Vì thế nhạc dân ca bắt đầu bằng: Hò lơ hó lơ lắng tai nghe chúng tôi đây hò lờ. Nhịp nhạc ngắn vui như nhịp sóng lúa. Rồi tôi giải thích: Để đỡ mệt các bạn gái và trai chia ra làm hai nhóm, nhóm bên này vừa gặt vừa hát đặt câu hỏi và nhóm kia phải hát đối lại sao cho hay. Nếu không đối được thì nhục lắm. Nhưng nhờ thế mà dân ca dân gian giàu có vô cùng. Ví dụ như tất cả các cô hát: Hò lơ, hó lơ lắng tai nghe chúng em đây hò lờ. Rồi một cô hát cao một mình, đặt câu hỏi cho bên kia như: Tới đây không hát thì hò. Tất cả các cô cùng hát: A li hò lờ. Lại hát một mình: Chẳng phải con cò ngóng cổ mà nghe! Các cô cùng hát thật đông: Hò lơ hó lơ lắng tai nghe chúng em đây hò lờ.
Yên lặng khá lâu. Bên nam bỗng cất lên tiếng tất cả con trai: Hò lơ hó lơ lắng tai nghe các anh đây hò lờ! Một giọng Nam đầu đàn hát một mình: Câu hò tui để trong khạp da bò. Các anh hát chung: A li hò lờ. Hát solo: Tui quên đậy nắp… nên nó bò sạch trơn! Các anh vui mừng hát lớn: Hò lơ hó lơ lắng tai nghe các anh đây hò lờ. Và cứ thế đối đáp qua lại bằng lời hát kéo dài suốt thời gặt lúa nên quên mệt vì có niềm vui. Còn nếu như chèo ghe chở lúa trên sông, đi suốt đêm buồn ngủ, người ngồi ghe hay hát những điệu kéo dài như những con kinh của Miền Nam: Hò hò o ò ó o o ớ ơ hò, nhà be è… nước chảy ảy y y ý chia a á đôi.. ối ôi ôi ôi. Cũng hát đối đáp để ghe bên kia đáp cho vui mà quên cái mệt vì chèo ghe suốt đêm. Rồi tôi kết luận: Nhưng đã lâu lắm rồi, dân quê chúng tôi không còn hát nữa. Trông cho lúa chín mau mau, đi gặt suốt ngày, gặt suốt đêm, im thin thít gặt cho nhanh, lặng lẽ đào hầm chôn dấu cất gạo kẻo đạn bom tới đốt cháy tan nát hết. Rồi chồng chết, vợ chết, con chết, nhà cháy… còn lòng dạ nào để hát?
Nói xong tôi nhìn quanh, ồ thiên hạ tập họp hơn bốn trăm người… nhiều hơn cả 300 người mỗi nhà thờ lúc buổi sáng. Im lặng rất lâu trong sự bồi hồi vì hình như giọng nói tôi chấm dứt có nghẹn ngào và mắt tôi có ướt. Chiều đó thay vì nói về tình hình Việt Nam, tất cả ban tổ chức đề nghị tôi hát dân ca và chỉ nói ngắn gọn về Việt Nam thôi. Và tối đó có hơn một ngàn người tham dự. Kinh nghiệm này khiến Bo Wirmark hết khuyên tôi đừng hát trong nhà thờ nữa. Trước đó anh nói: Mục Sư chỉ nhường cho chị có 15 phút. Nếu chị mà hát là mất hết 4 phút rồi, không có giờ cho thiên hạ nghe về thực tại Việt Nam.
Bài tôi thường hát trong các nhà thờ mà được các linh mục và mục sư đều thích là Đêm Cầu Nguyện (thơ và nhạc của Thầy): Giờ phút linh thiêng, gió lặng chim ngừng… Trái đất rung động bảy lần khi bất diệt đi ngang dòng sinh diệt… Bàn tay chuyển pháp trong hương đêm tinh khiết… ấn cát tường nở trắng một bông hoa… Thế giới ba ngàn đồng thanh ca ngợi, đồng thanh ca ngợi, văn Bụt Thích Ca—Nam mô đức bổn sư Bụt Thích Ca Mâu Ni. Đêm nao, từ trời Đâu Suất nhìn về, chư thiên thấy địa cầu quê hương tôi sáng hơn vì sao sáng… và tinh tú muôn phương chầu về… cho đến khi vừng đông tỏa rạng. Cho đến khi Vườn Lâm Tỳ Ni biến thành chiếc nôi êm chào đón Bụt sơ sinh. Nam mô đức Bụt Thích Ca Mâu Ni. Nhưng đêm nay, từ địa cầu quê hương tôi… loài người mắt lệ rưng rưng hướng cả về mấy từng trời Đâu Suất… Tiếng kêu khóc của sinh linh ngã gục dưới bàn tay ma vương, dưới bàn tay bạo lực căm thù. Trong bóng đêm loài người quê hương tôi đã mòn mỏi mong chờ… giờ mầu nhiệm để vô biên hé mở… Cho bóng tối tan đi với niềm lo sợ, cho Hội Long Hoa về, Nam Mô Đức Bụt Di Lặc sẽ hạ sanh trong tương lai. Cho Hội Long Hoa về… để pháp âm tiếp nối bằng lời ca tiếng hát em thơ.
Làm sao mà gặp được Thủ Tướng?
Tôi nghĩ đến Bo Wirmarck vốn vẫn khoe với tôi là anh thuộc đảng Xã Hội, anh không theo đạo nhưng nhà thờ nào cũng thương anh vì anh là Ủy Ban liên hệ với các nhà thờ của đảng Xã Hội. Tôi điện thoại cho Bo. – Hả, chị cần gặp Olof Palme hả? Ôi dễ ợt, bạn em mà. Đúng thế, 15 phút sau Bo điện thoại lại: – Thủ Tướng đồng ý gặp chị ngày thứ ba tuần sau. Vậy chị phải bay sang đây ngày thứ hai nhé!
Khi gặp Thủ Tướng Olof Palme, tôi chẳng chuẩn bị chi cả, chỉ chuẩn bị ngồi yên, thở cho bình an cho khoẻ nhẹ và tươi mát. Tôi biết đảng này không ưa tôn giáo nên tôi mời ông tự đặt mình trong da thịt một người trẻ như tôi, lớn lên trong không khí chiến tranh giết chóc và muốn làm cái gì ích lợi cho bao nhiêu người không may mắn. Nhưng khi thấy các chính trị gia xung quanh tôi dữ quá, tôi phải nương tựa nơi hiền nhất là các ông thầy tu. Vậy thôi, tôi không dùng tôn giáo khi đi công tác giúp người khổ để rủ người ta vô đạo Phật. Tôi chỉ cần thực tập pháp môn tu tập của Bụt để giúp tôi có bình an thôi. Rồi tôi chia sẻ ngắn gọn cho ông biết tôi bắt đầu giúp trẻ em đường phố từ hồi còn nhỏ xíu ra sao, rồi tôi vào Làng Cầu Kinh, Thảo Điền giúp thiên hạ bỏ rượu đi trồng thêm hoa mầu phụ ra sao, tôi ngăn được các anh lính Mỹ vì sợ hãi, vì không biết tiếng Việt, vì hoảng hốt… thoát được rủi ro nhả đạn vào nông dân một làng không xa thành phố như Làng Thảo Điền ra sao, rồi khi tôi có mấy trăm người bạn trẻ cùng đi phụng sự ở thôn làng xa bị thiên hạ giữa đêm mang mặt nạ vào bắt cóc, ném lựu đạn hay dẫn ra bờ sông bắn chết ra sao, và chúng tôi vẫn một niềm tin lớn là kẻ thù chúng ta không phải là con người mà là cái thấy sai lầm (tưởng sai) của họ về chúng tôi, chúng tôi là người A mà người ám sát tưởng là B nên nhất định giết… còn người Mỹ và các nước Tây Phương muốn thương Việt Nam mà không hiểu nên làm khổ dân Việt Nam ra sao. Buổi hẹn chỉ được 15 phút nhưng tôi ngồi 30 phút và ông chăm chú nghe, ngạc nhiên và trầm ngâm, ông ra lệnh dời buổi hẹn kế trễ hơn. Cuối cùng tôi biết không nên lạm dụng lòng tốt của ông nên tự ngưng sau 45 phút. Ông rất cám ơn tôi đã mở mắt cho ông nhiều điều mới về tình hình Việt Nam. Dĩ nhiên là ông Olof Palme đồng ý cho bộ phận Bộ Ngoại Giao chuyên lo về giúp các nước phát triển (Swedish International Development Aid hay SIDA) giúp Phật Giáo ngay!
Ngày tôi đi gặp 8 chuyên viên của nhóm Swedish International Development Aid, ai cũng rất thích thú. Các chuyên viên này hỏi những câu rất khó về công tác cộng đồng nhưng đó là “nghề” của tôi nên tôi chia sẻ hết lòng, khiến họ nghe mà mắt cứ sáng lên. Họ nói họ giúp Việt Nam từ bao nhiêu năm mà nay mới nghe được những tình tiết tế nhị và cách làm việc giúp người khéo léo sát thực tế như thế. Tuy nhiên, khi mọi người đều hài lòng về các câu trả lời của tôi thì Bộ SIDA này vướng vào một khó khăn căn bản. Họ nói “cho tới nay luật chung là một chính phủ chỉ giúp một chính phủ, thà Phật Giáo có một chính phủ gọi là chính phủ lực lượng thứ ba thì chúng tôi giúp tiện hơn”. Nhưng tôi thưa: thầy chúng tôi nói rõ ràng là Sẽ không bao giờ có chính phủ của lực lượng thứ ba. Chúng tôi chỉ muốn có con đường thứ ba, con đường hòa giải mà anh em cùng là dân Việt chấp nhận nhau, mỗi bên nhường một chút để chấm dứt chiến tranh, không cho người ngoại quốc Mỹ, Úc, Đại Hàn… không hiểu văn hóa Việt, chen vào tàn phá ngày càng nhiều những gia sản tâm linh, văn hóa của dân tộc chúng tôi. Tôi cũng nói tôi ra đi kêu gọi giúp đỡ Việt Nam ngưng chiến và giúp nạn nhân chiến cuộc và sẵn sàng nhận tiền từ Chính Phủ Thụy Điển, nếu là tiền từ chính phủ Hoa Kỳ hay các nước có gửi vũ khí tới để kéo dài chiến tranh thì chúng tôi không nhận được. Tại vì chúng tôi thấy có cái gì quá vô lý khi quân đội của nước ấy bỏ bom tan nát nhà chúng tôi, rồi bộ Xã Hội của nước ấy cho gạo cho tiền để xây dựng lại. Chúng tôi không thể nhận đồng tiền ấy. Các bạn trong chính quyền Thụy Điển rất tâm đắc về điều chia sẻ này.
Cuối cùng họ tìm ra giải pháp: Chính Phủ Thụy Điển sẽ giúp đỡ thông qua nhà thờ Lutheran. Số tiền mà Ủy Ban Tái Thiết và Phát Triển Xã Hội của GHPGVNTN cần, họ sẽ cho 75% của dự án và nhà thờ phải lạc quyên quần chúng nhà thờ cho 25% còn lại. Đợt đầu họ ủng hộ xây ba trung tâm Tái Thiết và Phát Triển của GHPGVNTN ở ba nơi là Tánh Linh, Quảng Nam và Quảng Trị với số tiền 1.500.000Kr Thụy Điển (khoảng 300.000 dollars). Nhà thờ Lutheran gửi qua trương mục ngân hàng đứng tên Hòa Thượng Thích Thiện Hòa ở Sài Gòn. Thầy Tổng Thư Ký Thích Châu Toàn và anh em TNPSXH thì làm dự án. Hai Hòa Thượng lớn Thiện Minh và Huyền Quang cùng ê kíp của quý thầy thanh tra duyệt xét và TNPSXH lấy tiền ra từng đợt theo tiến trình của công tác.
Vì thấy có chính phủ Thụy Điển giúp nên nhóm chính khách không thuộc bên này hay bên kia và tự xưng thuộc Lực Lượng Thứ Ba rất muốn chen vào Ủy Ban để có chân đứng quốc tế. Các ông chẳng biết công tác nào cả nên không được công nhận và vì thế sinh tâm ganh ghét, nói xấu và chụp mũ “GHPGVNTN đã bị Mỹ mua rồi, tham nhũng lắm. Tiền chính quyền Thụy Điển gửi qua Việt Nam các ông dùng mua xe Mercedes đi chơi!!!…”
Tháng 11 năm 1974, một tờ báo không dễ thương viết một bài báo nói xấu rằng Ủy Ban Tái Thiết và Phát Triển của Giáo Hội Ấn Quang xài tiền bạc lem nhem. Ngay ngày hôm sau, một cựu dân biểu của Việt Nam Cộng Hòa đang ở Thụy Điển dịch bài báo ra tiếng Thụy Điển và trao ngay cho Swedish International Development Aid (SIDA). Anh Bo Wirckmark, đại diện cho đảng cầm quyền điện thoại cho Phái Đoàn – hơi hoảng hốt – báo tin về bài báo mà SIDA mới nhận được đã dịch sẵn ra tiếng Thụy Điển. Tôi xin anh cứ bình tĩnh, nên trở về với hơi thở và mỉm cười đi, không nên hoảng hốt. Tôi nói: “Tuy ở đây nhưng tôi liên lạc thường xuyên và biết các bạn ở Việt Nam làm việc giỏi lắm. Không tỳ vết đâu. Anh nên chuẩn bị một phái đoàn Thụy Điển gồm các vị mục sư của Giáo Hội Lutheran và vài vị trong SIDA đi thăm Việt Nam mà quán sát nhé, tôi tin là anh sẽ vui khi thấy công việc tái thiết mà SIDA giúp đang tiến hành tốt đẹp”. Ba hôm sau, Phái Đoàn Thụy Điển đến Việt Nam. Thầy Châu Toàn đưa đoàn đi xem công tác ở Tánh Linh, Quảng Phước, trung tâm Quảng Nam và Quảng Trị. Họ rất ngạc nhiên khi thấy dự án thực hiện nhanh như thế. Tiền chính phủ Thụy Điển gửi về mới sáu tháng mà ba trung tâm định cư đã thành hình: trung tâm Tánh Linh do chính anh em tác viên TNPSXH thực hiện, trung tâm Quảng Nam do TNPSXH hợp tác với Gia Đình Phật Tử với sự đỡ đầu của Thượng Tọa Long Trí, và trung tâm Quảng Trị do Thượng Tọa Chánh Trực. Sổ sách quá phân minh (thầy Huyền Quang thì kỹ lưỡng vô cùng về mặt này, TNPSXH còn kỹ hơn nữa, có ban kiểm soát do hai vị tôn đức Huyền Quang và Thiện Minh nên lại càng chặt chẽ). Ông Phan Quang Đán, bộ trưởng Xã Hội của chính phủ Nguyễn Văn Thiệu, xin phép đi xem khu định cư Tánh Linh của TNPSXH thuộc Ủy Ban để rồi so sánh và trách nhân viên Bộ Xã Hội của chính phủ sao thực hiện quá lâu. Dự án của chính phủ được thực hiện ở gần đó, bắt đầu hơn năm nay mà chưa có gì. Ở vùng Tánh Linh, Quảng Phước, Phước Tuy, anh em đã cùng dân di cư xây xong 300 ngôi nhà bằng tre và tranh, có vườn rau cải, có giàn đậu, giàn bí, bầu leo quanh hàng rào nhà, bầu đang có trái đong đưa. Giữa trung tâm có nhà giữ trẻ, trường học, trạm xá. Ông Phan Quang Đán cứ xuýt xoa khen Phật giáo làm nhanh và làm giỏi quá. Ông nói “Thanh niên thiếu nữ TNPSXH nhỏ xíu như kia, lương tiền không có gì ngoài cơm canh rau, làm ngày làm đêm hay sao mà nhanh và đẹp quá. Có bí mật nào xin mách cho chúng tôi, Bộ Xã Hội, với! (Ông Bộ Trưởng đâu có biết anh em chúng tôi được nuôi bằng bồ đề tâm, bằng những bài thơ của Thầy, chia sẻ lòng thương nước thương dân, ngọn lửa bồ đề tâm đó đâu có lương tiền nào mua được!) Phái Đoàn Thụy Điển thì mừng rỡ vô cùng. Họ cứ suýt soa “Từ trước tới nay, chính phủ chúng tôi chỉ giúp chính quyền Hà Nội và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, các bạn ấy lấy cớ là vì làm du kích nên tiền bạc không bao giờ báo cáo rõ ràng và công tác không bao giờ thấy rõ được như vầy, chỉ thấy mờ mờ qua hình họ chụp gửi tới thôi. Chưa bao giờ mà chúng tôi hài lòng thế.”
Đi thăm Quảng Nam, thầy Long Trí giải thích lý do dự án ở đây chậm hơn ở Quảng Phước là vì vùng này chưa được an ninh lắm. Phật tử căng dây chia đất thì nghe tin đoàn quân chính quy Miền Bắc đang di chuyển tới gần Trung Tâm Định Cư của Phật Giáo. Anh em TNPSXH lo quá, đến cầu cứu với Thượng Tọa Long Trí. Thầy và chư tôn đức vùng này đã lập trường học miễn phí dạy dỗ trẻ em ở đây, lập Gia Đình Phật Tử Quảng Nam hơn 30 năm qua. Các em này khi lớn lên, có em đi du kích, có em theo quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Thầy âm thầm đi thương thuyết để quân du kích xoay hướng, đi ra xa vùng Trung Tâm định cư, tránh oanh tạc cơ có thể bỏ bom tan nát Trung Tâm này. Các anh du kích đồng ý với điều kiện thầy phải thuyết phục đồn cảnh sát công an và đồn quân đội Việt Nam Cộng Hòa rút ra khỏi trung tâm. Thầy lại qua bên Quốc Gia để thương thuyết, và khi hai đồn của Quốc Gia rút ra khỏi trung tâm thì cuối cùng trung tâm mới yên mà vào việc. Vì thế mà trễ hơn Quảng Phước. Trung Tâm định xây ở Quảng Trị thì tuy là Hòa Ước đã ký ở Paris nhưng những trận đánh lớn quanh Quảng Trị còn dữ dội quá nên chúng tôi chỉ kịp bàn bạc trên nguyên tắc là sẽ làm vùng Hải Lăng này, cũng có thể sẽ đổi sang vùng khác như khẩn đất ở Cam Hiệp, Cam Ranh chẳng hạn và đưa ba trăm gia đình vào đây lập nghiệp với sự hỗ trợ của chương trình. Tôi cho các bạn Thụy Điển biết vì đây là Trung Tâm do các bạn tài trợ nên các bạn được nghe kỹ và tưởng chỉ có nơi này là đặc biệt thôi. Thật ra quý thầy trong GHPGVNTN khi nào có dịp là cứ âm thầm thương thuyết như thầy Long Trí đã thương thuyết vừa qua.
Thế là nhờ bài báo trên báo Đại Đoàn Kết nói xấu và chụp mũ Ủy Ban mà Phái Đoàn Thụy Điển sang thăm và khâm phục, quay rất nhiều phim, chụp khá nhiều hình và quyết định sẽ tặng thêm 10 triệu Krones tức là 2 triệu mỹ kim cho Ủy Ban trong đợt tới, xuất tiền vào tháng 5 năm 1975. Thế là “rác” (bị chụp mũ tiền bạc lem nhem) đã biến thành “hoa” (sự khâm phục của Phái Đoàn Thụy Điển sau khi tìm hiểu, xét sổ, khảo sát tại chỗ). Nhưng lúc đó là đã tháng 3 năm 1975. Ủy Ban chưa kịp gửi kế hoạch và dự án mới ở 2 địa điểm Quảng Ngãi và Thừa Thiên để sử dụng 10 triệu Krones đó thì Quảng Trị lửa đỏ, Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa bỏ Vùng Một Chiến Thuật tháo quân về Nam và chỉ trong vòng một tháng cả 42 tỉnh Miền Nam thuộc Việt Nam Cộng Hòa bị bắt buộc phải đầu hàng Miền Bắc. Ủy Ban Tái Thiết và Phát Triển Xã Hội của GHPGVNTN không nhận tiền chính phủ Thụy Điển được nữa vì quý thầy đã bị ngưng hết các hoạt động.
Chương trình giúp cô nhi chiến tranh rất đẹp. Tính tới tháng 4 năm 1975 chúng tôi đã tìm ra được 14.000 người bảo trợ từ Hà Lan, 2.000 từ Thụy Sĩ, 3.000 từ Pháp, 1.000 bên Anh, 1.300 người ở Hoa Kỳ và vài trăm người bảo trợ ở những nước mình không có người địa phương giỏi như Ý, Tây Ban Nha, Đức.
Phát 5.000 cái mền của Thụy Điển tặng
Nói chung, hơn 20.000 người bảo trợ chương trình này là 20.000 nhịp cầu nối 20.000 cô nhi Việt Nam với 20.000 trái tim người phương Tây.
Ngồi yên và nhìn sâu tôi thấy được Miền Nam như một ngôi nhà với 42 cột nhà hùng tráng. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu khi hay tin Quốc Hội Hoa Kỳ đòi cúp một phần viện trợ Miền Nam đã máy móc tính rằng nếu bớt viện trợ từng ấy tiền thì Miền Nam phải bỏ bớt vài tỉnh cho lọt vào tay Miền Bắc để Hoa Kỳ thấy rõ điều lợi hại. Nhưng ông Thiệu không thấy rằng cả khu nhà không thể nào đứng vững nếu lấy bớt chỉ ba cái cột trong 42 cột. Nó mất thăng bằng ngay và toàn ngôi nhà sụp đổ nhanh chóng.
Các sư cô ngồi yên nhìn ngôi nhà Việt Nam sụp đổ
Chương 13: Phái đoàn hoà bình tại Paris
Chương 14: Hành hương cho hoà bình
Chương 15: Trẻ em và nạn nhân súng đạn của bên nào thì cũng khổ như nhau
Chương 16: Làm lại từ đầu
Chương 17: Thuyền nhân
Danilo Dolci, Carlo Levi, Elisa Calzavara và Marchiano Graziella, những người bạn đầu tiên trong cuộc du thuyết cho hòa bình
Tháng 8 năm 1969, tôi bắt đầu công tác kêu gọi hòa bình ở Ý Đại Lợi. Đây là lần đầu tiên tôi rời nước Pháp đi kêu gọi hòa bình. Tôi được anh Danilo Dolci mời tham dự một cuộc hội thảo nhiều ngày rồi chấm dứt bằng một cuộc diễn hành lớn chống Mafia Ý tại Palerme, vùng cực nam nước Ý. Danilo Dolci là người cách mạng Ý đầu tiên dám bỏ thành thị giàu có mà anh đang làm việc với tư cách kiến trúc sư, đi về tận Sicilia sống hẳn với dân nghèo đói vùng này nhằm kêu gọi sự chú tâm của chính quyền Ý và của dân trí thức các thành phố lớn của nước Ý như Rome, Milan, Turin… Anh đã đào tạo hơn 20 tác viên xã hội lo việc phát triển cộng đồng giúp dân nghèo toàn Sicilia. Công tác phát triển xã hội rất thành công nhưng lại gặp khó khăn vì bị những phần tử giàu có kết vây cánh, phe phái cùng nhau chèn ép dân lao động….
Ở Ý nhiều người biết tiếng Pháp nên tham dự hội thảo này tôi cũng góp ý được rất nhiều cho các tác viên xã hội ở đây. Gần đến ngày có cuộc diễn hành quanh thành phố Palerme của Sicilia, nơi Danilo Dolci có cơ sở đào tạo tác viên xã hội, tôi bỗng thấy xuất hiện rất nhiều người trí thức đến từ nhiều nước để ủng hộ Danilo và họ tới hỏi chuyện tôi (có lẽ vì thấy lạ, tại sao ở vùng nghèo đói này của nước Ý mà lại có một cô gái trẻ tóc dài mặc áo dài trắng đang đi quét phòng họp – tôi tự nguyện cùng chia việc làm với ban tổ chức để chuẩn bị đón khách các nơi về). Thế là tôi quen được anh André Romus là ký giả đài truyền hình Vương quốc Bỉ và hai chị Eliza Calzavara và Marchiano Graziella, nhân viên đài truyền hình Ý Đại Lợi. Ba người tới hỏi thăm tôi đến từ đâu và nghe tôi tự giới thiệu. Họ rất bàng hoàng cảm động về nỗi khổ của người dân quê Việt Nam chạy dưới bom đạn mà tôi vừa kể. Họ cho biết đây là lần đầu họ có được cái nhìn khác về chiến tranh Việt Nam. Tôi cũng cho họ biết sẽ đi Rome sau cuộc diễn hành này vì Hội FOR của nước Ý sẵn sàng tổ chức để tôi nói chuyện tại Rome về tình hình Việt Nam. Sau đó, một nhân sĩ người Ý, tóc bạc, trông người thật nhân hậu tới hỏi thăm và khi nghe tôi sắp đi Rome ông cho tôi danh thiếp, căn dặn tôi khi nào đến Rome nói chuyện về Việt Nam thì nhớ mời ông tới. Tôi không ngờ ông là Carlo Levi, một văn sĩ cách mạng nổi tiếng toàn nước Ý và toàn cầu vì cuốn sách Le Christ s’est arrêté à Eboli (Chúa Ky Tô đã dừng lại tại Eboli). Eboli là tên một làng rất nghèo của Ý Đại Lợi và dân chúng lam lũ khổ đau không nghĩ Ky Tô sẽ có thể rời khỏi Eboli nếu ngài bước chân tới đây. Ông Carlo Levi cũng là một họa sĩ đại tài đã vẽ bức tranh cũng hết sức đánh động lương tâm nhân loại về cảnh nghèo đói của Ý sau thế chiến “The children of Guernica”. Năm 1969 này, ông là thượng nghị sĩ rất được giới trí thức trên toàn nước Ý kính trọng. Tới Rome hai ngày sau, tôi được chị Heidi tổ chức một buổi nói chuyện về Việt Nam, cuộc gặp gỡ duy nhất mà chị có thể tổ chức được cho tôi vì tôi đến Ý nhằm tháng Tám, tháng mà tất cả dân thành phố Rome, ai cũng đã đi nghỉ hè ngoài bờ biển.
Carlo Levi
Tới giờ tôi sắp nói chuyện mà không có ai tới hết, chị Heidi đang tuyệt vọng thì Thượng Nghị Sĩ Carlo Levi xuất hiện, thật bất ngờ! Nếu cần tổ chức cho tôi gặp nhân sĩ trí thức thì không bao giờ chị nghĩ rằng sẽ xin được một cái hẹn cho tôi với ông này vì ông quá nổi tiếng và những nhân vật như thế thì rất bận, không có thì giờ cho một người vô danh như tôi đâu. Ông thuộc hàng trí thức cấp tiến thiên tả, ban đầu từ bỏ nhà thờ, bỏ Chúa Ky Tô vào đảng Cộng Sản Ý rồi cũng bỏ đảng Cộng Sản luôn. Ông rất được mọi thành phần có tâm huyết hâm mộ. Chị Heidi cũng chẳng biết tôi là ai, chỉ biết là một đệ tử của Thầy từ Việt Nam tới. Người thứ hai là Eliza Calzavara, người thứ ba là Graziella Marchiano và người thứ tư là một anh chàng người Bỉ đang đi vào hội trường này, định tìm phòng họp cho cuộc gặp mặt của Hội Người Công Giáo cho Hòa Bình (Christlerlicher Friediensdent) thì thấy tờ quảng cáo của FOR và cũng thấy chiếc áo nữ sinh hiền hậu của tôi nên tò mò muốn ngồi xuống nghe thử vài phút. Anh cùng đi với chị Margrit Witwer, thư ký của hội này ở Thụy Sĩ. Ai dè mọi người ngồi luôn hàng giờ như bị thôi miên vì tôi đã không nói bằng lời mà chỉ nói bằng trái tim rung cảm của tôi. Tôi hình dung ra hình ảnh chú Bảy ngồi nhìn ra khoảng không, đôi mắt như lạc vào địa ngục nào để tìm người thân, chú mới mất vợ và ba đứa con trong trận oanh tạc ở Đồng Xoài. Tôi đọc hai câu thơ rất chân thành của Trụ Vũ:
Giấc mơ bé nhỏ vô cùng
Một gian nhà lá hai vồng khoai lang
Thế thôi mà lạy mười phương
Ba mươi năm lẻ chưa tròn giấc mơ
và dịch ra tiếng Pháp cho họ nghe.
Nhà chú Bảy vừa cất xong bằng mồ hôi, tình yêu và hy vọng của hai vợ chồng trẻ thì bom đạn tới, gian nhà cháy nát, hai người đồng ý di cư về một tỉnh khác bình an hơn. Rồi họ cất nhà mới, rồi sinh con, rồi nhà cháy, rồi di cư với ba con. Lần thứ tư này, tình hình tưởng như đã ổn định với gian nhà ngày càng rộng, vườn rau ngày càng nhiều vồng khoai sắn. Nhưng rồi chiến tranh lại lan tới, rồi di cư rồi dọn nhà… và trận chót ở Đồng Xoài, vừa mất nhà, mất vợ và mất con… Các bạn đặt nhiều câu hỏi, càng hỏi tôi càng có dịp chia sẻ và cuộc nói chuyện kéo dài hơn ba giờ!!!
Đài Truyền Hình Ý Đại Lợi
Hai chị Marchiano Graziella và Eliza Calzavara ở đài Truyền Hình Ý quyết định mời tôi đi thu hình ngay ngày hôm sau để đưa lên đài truyền hình Ý Đại Lợi trong chương trình Mỗi tuần, một khuôn mặt, một mảnh đời để tôi có thể nói chuyện được 30 phút cho người dân Ý Đại Lợi biết về nỗi khổ của dân tôi. Carlo Levi mời tôi tới nhà để ông xin vẽ truyền thần tôi. Dĩ nhiên là tôi từ chối. Sau này các bạn nghe thế trách tôi quá dại dột vì một bức tranh ký tên Carlo Levi sẽ bán được cả trăm ngàn dollars.
Tôi nói chuyện trên truyền hình Ý Đại Lợi
André Gillet, Tổng Thư Ký Mouvement Chrétien Pour la Paix (MPC) đã mời tôi thuyết trình trong Đại Hội của MPC sắp tới tại Fracasti, Ý Đại Lợi với đại diện của hai mươi ba nước tới từ châu Âu, châu Phi và châu Á. Margrit Witwer đã quyết định mời tôi đi Thụy Sỹ tháng 12 năm 1969 này, cô sẽ đứng ra tổ chức, trả tiền vé xe lửa cho tôi bằng tiền lương tháng 13 của cô. Ở Ý thiên hạ rất ưa hát nên tôi cũng chia sẻ về dân ca Việt Nam, nhưng quan trọng nhất trong chuyến này là tôi có được năm người tới nghe đã trở thành năm người bạn quý đầu tiên.
Vương Quốc Bỉ
Anh André Romus mời tôi đi Vương quốc Bỉ để nói chuyện trên hai chương trình của Đài Phát Thanh và Đài Truyền Hình Bỉ. Hai tuần sau tôi đi, nói chuyện trên đài Truyền Thanh và Truyền Hình nước này và được ở đậu tại nhà anh chị André Romus. Sau đó tôi tiếp hai ký giả tại nhà anh ấy để rồi có nguyên một bài viết dài đăng trên nhật báo Le Soir và La Cité.
Nhân chuyến tôi đi Bỉ này, anh André Gillet đã giới thiệu tôi nói chuyện cho đại hội Comité pour l’Amélioration de la Société Belge par des Moyens Nonviolents, tại đó tôi được nói chuyện trong một thính chúng hơn 1.000 người.
Hebe Kohlbrugge, Margrit Witwer và những bồ tát Ky Tô giáo
Tháng 11 năm này, cô Hebe Kohlbrugge ở Hà Lan đã mời tôi đi thăm Hà Lan lần đầu, mục đích là để tôi nói chuyện với mươi trường trung học và để cô lạc quyên cho trẻ em và nạn nhân chiến cuộc ở Việt Nam.
Hơn tất cả nhiều bạn ở Âu Châu, Hebe hiểu thâm sâu những điều tôi chia sẻ bởi vì hơn hai mươi lăm năm trước, khi Hebe mới hơn 23 tuổi cô đã tìm nhiều cách khéo léo dấu hàng ngàn người Do Thái sống ở Đức và Hà Lan thoát khỏi thảm họa bị quân đội Nazis của Hitler bắt để đưa tới những lò sát sinh bằng hơi ngạt. Cô đã cùng các vị linh mục hay mục sư dấu người Do Thái dưới hầm nhà thờ hay bất cứ nơi nào dấu được. Cô đạp xe chở bánh mì dấu dưới các lớp rau tươi tới từng nơi dấu các bạn Do Thái để phân phát thực phẩm cho họ. Khi được gặp Thầy và nghe Thầy nói chuyện, cô thấy Thầy như một tông đồ của Ky Tô và muốn cả Giáo Hội Tin Lành và chính phủ Hà Lan phải hết lòng ủng hộ con đường của Thầy. Giáo Hội Tin Lành Hà Lan xưa nay vẫn chủ trương gửi tài chính giúp Việt Nam qua các bạn Ky Tô giáo người Âu Châu đi Việt Nam làm việc với các bạn Công Giáo hay Tin Lành Việt Nam thôi. Cô Hebe Kohlbrugge không đồng ý và cho là Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội học trò của thầy Nhất Hạnh mới hành động trong tinh thần gần với tinh thần của thánh kinh hơn – cô nhắc hoài chuyện anh em Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội bị ám sát mà các bạn họ vẫn nói không giận người ám sát, chỉ đau khổ vì cái thấy sai lầm của họ về mình. Năm 1967, cô đề nghị ông Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao Hà Lan tiếp thầy Nhất Hạnh. Khi nghe tin Bộ Ngoại Giao từ chối gặp Thầy, cô đã đem tất cả huân chương mà chính phủ Hà Lan tặng cô sau Thế Chiến thứ II trả lại Bộ Ngoại Giao và nói nếu quý vị không tiếp ông thầy tu này thì tôi xin trả những huân chương này lại cho Chính Phủ. Thế là ông Bộ Trưởng đã tiếp Thầy, lắng nghe Thầy trình bày về chiến tranh Việt Nam và đã hứa sẽ làm những gì trong khả năng chính phủ Hà Lan để giúp thế giới biết rõ hơn về tình hình Việt Nam, về Phật Giáo Việt Nam và tiếng nói bất bạo động của Phật giáo về ngưng chiến và lịch trình rút quân của Hoa Kỳ. Ông nói cô Hebe Kolhbrugge đã không nói ngoa khi ép ông tiếp Phái Đoàn Phật Giáo Việt Nam.
Được gần những người như Hebe Kolhbrugge, Daniel Berrigan, Margrit Witwer, André Gillet, Jim Forest… những cái thấy sai lầm của tôi về người Công Giáo, Ky Tô Giáo hoàn toàn thay đổi. Trước đó chúng tôi rất chán nản khi nghe nói nhiều ma sơ hay linh mục Công Giáo Việt Nam nuôi ăn trưa một số cháu nghèo đói đã dạy các cháu đọc kinh cám ơn chúa trời và làm dấu thánh giá trước khi ăn. Ba mẹ các cháu rất khổ đau, họ đến chùa than thở với các sư cô rằng họ đã quá nghèo rồi, chiến tranh đã cướp mất tiền bạc và của cải của họ rồi, hiện tại họ chỉ còn niềm tin để sống. Vậy mà các cháu con của họ, vì không có tiền đi học mẫu giáo tư, phải theo học với các sơ, được ăn miễn phí nhưng về nhà đọc kinh cám ơn Chúa Cha trên trời và làm dấu thánh giá thì họ quá bất nhẫn. Họ cảm thấy như bị cướp mất những gì quý giá nhất trong cuộc đời họ là niềm tin vào Phật mà ông bà tổ tiên đã giữ gìn và trao truyền cho họ. Nhưng nay, sự hiện diện và hành động đẹp đẽ của những người bạn Tây Phương này khiến chúng tôi khám phá ra được rất nhiều vị bồ tát giữa những người sống theo Thánh Kinh và giúp chúng tôi vượt thắng được những danh từ “Phật tử” hay “con Chúa”.
Báo Chí Hà Lan
Nhờ những bạn uy tín trong nước này nên ở Hà Lan tôi được đến diễn thuyết tại các nơi như Hàn Lâm Viện Xã Hội ở Driebergen, Viện Đại Học Groningen, Đại Học Utrecht, Hội Đồng Thành Phố Zeist, Viện Thần Học Amersfoort và đại học Rotterdam.
Đài truyền hình Hà Lan có đến dự đại hội ra mắt của Phái Đoàn Hòa Bình của GHPGVNTN tại Fontainebleau, Pháp, phỏng vấn thầy Nhất Hạnh nửa chừng thì bị chính quyền Pháp cấm quay hình. Nhưng về Hà Lan họ vẫn làm ra một cuốn phim ngắn hai mươi phút về Phật Giáo Việt Nam, để thêm những hình ảnh của Hòa Thượng Quảng Đức, những hình ảnh Phật Giáo Việt Nam tranh đấu bất bạo động năm 1963, một đoạn phỏng vấn Thầy và một đoạn phỏng vấn tôi. Tờ nhật báo Trouw để nguyên một bài về Phật Giáo Việt Nam, chiếm trọn trang đầu khổ A3 của tờ nhật báo uy tín số một trên toàn quốc. Hai tờ tuần báo Open Deur Onderweg và De Nieuwe Linie viết nhiều bài dài về những công tác của Phật Giáo Việt Nam cho người nghèo đói nạn nhân đạn bom. Ngày 19 tháng 11 năm 1969, tôi được mời trình bày về Việt Nam cho cả Quốc Hội Hà Lan, tôi đã nói được cho họ biết nếp sống tâm linh của Phật tử Việt Nam, cho họ thấy chiều sâu tâm linh của người dân Việt. Vì thế mà tôi phải trở đi trở lại Hà Lan ít nhất là hai lần hay ba lần mỗi năm. Cũng có khi tôi đi về Hà Lan bốn năm lần.
Bà Cảnh Sát Trưởng Phòng cấp Thị Thực Préfecture của Paris
Hồi này tôi còn giữ hộ chiếu Việt Nam Cộng Hòa mà hộ chiếu này bắt buộc mỗi lần ra khỏi nước Pháp tôi phải xin visa khứ hồi rời Pháp và về lại Pháp, ghi rõ đi bao nhiêu ngày. Tôi đi Préfecture Paris xin visa khứ hồi Hà Lan-Pháp hay Thụy Điển-Pháp nhiều lần quá khiến bà chủ sự về thị thực gọi tôi vào, la tôi lạm dụng lòng tốt của nước Pháp mà đi ra đi vào hoài. Bà nói “Cô, có visa ở Pháp làm luận án tiến sĩ Phật Học tại Sorbonne sao mà đi “chơi” hoài vậy?” Tôi nhìn bà mà nước mắt lưng tròng và nói “Thưa bà tôi cũng muốn ngồi yên một chỗ cho khoẻ, khỏi đi chầu chực xin visa đi ra đi vào nước Pháp như vầy… Nhưng mở mắt ra khi ngủ dậy là tôi thấy hàng ngàn con mắt trẻ thơ mất cha mất mẹ ở Việt Nam đang trông chờ tôi tìm người giúp chúng hàng tháng. Mỗi lần đi, tôi tìm ra hàng chục người bảo trợ, có khi may mắn thì được hàng trăm người bảo trợ cho các em mất mẹ mất cha. Thế nên, cực nhọc gì mấy tôi cũng đành phải đi”. Bà nhìn tôi ngạc nhiên và xin lỗi, rồi móc túi đưa tôi một trăm quan. Lần nào tôi vào xin visa bà cũng cấp rất nhanh và không quên cúng dường tôi một trăm Francs cho trẻ em mồ côi Việt Nam. Thầy tôi hay cười nói “Cái cô này hay thật, “móc túi” luôn cả Cảnh Sát Công An Pháp!”
Margrit Witwer và Thụy Sỹ
Margrit Witwer hoạt động trong Phong Trào Công Giáo cho Hòa Bình. Cô tổ chức để tôi đi một vòng nhiều thành phố Thụy Sĩ như Bern, Zurich, Luzern, Basel, Genève, Fribourg để tiếng nói của người dân chạy dưới đạn bom được lắng nghe. Tôi cũng được nói chuyện trên đài phát thanh và truyền hình ở Genève (Radio Television of Switzerland). Tôi được diện kiến với Ngài Chủ Tịch Hội Đồng Các Nhà Thờ Tin Lành trên toàn thế giới (World Council of Churches) ở Genève. Nơi nào tôi đến, ai cũng đã biết đến Thầy và kính trọng nhân cách của Thầy nhưng ít có dịp được nghe cách các đệ tử của Thầy sống dưới bom đạn, dưới những đe dọa bị ám sát bởi một số người có cái thấy sai lầm về con đường hòa giải của Thầy. Và khi được nghe cách các con của Thầy đã hành xử ra sao để ôm ấp được cả những người mới ám sát trượt mình và muốn tiếp tục tìm cách hại mình thì các vị chân tu này rất cảm động.
Những ngày gần Noël thành phố nào của Âu Châu cũng mượt mà tơ lụa, tủ kính này tiếp nối tủ kính kia đầy dẫy những áo quần cực kỳ sang trọng, dày dép quần áo đủ kiểu, nữ trang đủ loại. Đèn nến và các thứ dụng cụ trong nhà ngoài ngõ cái gì cũng quá sang trọng thừa thãi. Tôi ứa nước mắt nghĩ tới các em tôi vừa chạy tránh kịp thời một cuộc ném bom ở Trà Lộc. Công trình xây dựng của chúng tôi sáu tháng, tám tháng với bao nhiêu tình thương bỗng tan tành ra một đống tro. Nhà của chú Trì, chú Lâm, O Lập… giờ chỉ là một đống ngổn ngang gạch ngói… Sao mà có sự bất công như thế kia? Tôi có đang nằm mơ không? Không, tôi không nằm mơ vì tôi cũng gặp những tấm lòng vàng ngọc như Hebe Kohlbrugge, như Margrit Witwer và nhiều Margrit khác như Laura Hassler, Mobi Warren, Pierre Marchand, Heidi Vacarro, Eliza Calzavara, Fritz Siegenthalen, André Gillet, Graziella Marchiano, rồi sau này là Kirsten Roep, Laura và Juul Pauwell. Họ có giàu gì đâu! Cũng sẵn sàng nằm túi ngủ trên sàn nhà lạnh như tôi, cũng lương hạng bét trong xã hội vì để thì giờ lo những công tác lợi đời, giúp người mà không hề tính toán. Lương tiền chỉ một ngàn mỗi tháng như Margrit mà dám dành hết một ngàn ấy cho công tác tình thương của chúng tôi. Đi đâu tôi cũng được che chở bởi một mạng lưới tình thương của các bạn đồng thanh tương ứng. Không ai dụ dỗ ai. Nếu trong mỗi người mà không có sẵn chất liệu ấy thì làm sao dụ được họ đứng trong sương tuyết gió đông rét mướt Âu Châu trong các buổi Vigil cho Việt Nam. Riêng tại hai nước Hà Lan và Anh Quốc, một nhóm những người bạn rất thương Việt Nam của tôi tại các thành phố như Utrecht, Driebergen (Hà Lan), London, Oxford (Anh) có sáng kiến mỗi tuần một lần, vào ngày có chợ trời, đông người qua lại, thiên hạ đem rau tươi, trái cây trong vườn nhà, những loại hoa mới ươm, cheese làm tại nhà, nước trái cây tự ép… ra chợ bán, thì các bạn cũng có một quầy gọi là VIGIL FOR VIETNAM – Ngày Chay cho Hòa Bình Việt Nam – để hình trẻ em Việt Nam bịt khăn tang vì ba mẹ chết, hình các cháu chạy dưới bom, hình bà mẹ ôm xác con và biểu ngữ PRAY FOR THE STOP OF KILLING IN VIETNAM. Các bạn mặc áo ấm đứng lặng yên trong chợ từ hừng sáng họp chợ cho đến trưa mới về. Ở Việt Nam ta không biết có ai làm được như thế mỗi tuần cho Israel, Palestine, Iraq, Afghanistan chưa? Và như thế mỗi tuần đều đặn từ mùa Đông, qua mùa Xuân, Hạ, Thu, dù mưa dù tuyết hay nắng… không thiếu phiên chợ nào. Không biểu tình, không đả đảo chê khen ai, nhưng họ đứng phát tài liệu của Phái Đoàn Phật Giáo Việt Nam, đại diện những người chạy dưới đạn bom.
Các bạn tổ chức cho tôi cũng không giàu có gì, Margrit là thư ký một Hội Từ Thiện nên lương tháng cũng chỉ vừa đủ sống. Nhưng cô cho tôi trọn tháng lương 13 của cô. Còn Anne Marie thì mượn được giảng đường của trường học. Có khi một vị linh mục Đức hay mục sư Hà Lan trong giờ thuyết pháp cho tín hữu đã mời tôi lên bắt đầu bằng bản hát Đêm Cầu Nguyện Bụt Thích Ca giáng sinh trong cõi đời đang bị ma vương và bạo lực căm thù tàn phá, rồi sau đó cho tôi nói về Việt Nam tùy thích. Buổi nói chuyện dĩ nhiên không nên quá dài. Tôi rất quen thuộc đủ mọi loại thuyết trình. Khi cần dài một giờ, cần ngắn 20 phút, cần thật ngắn 10 phút, năm phút, tôi đều biết cách nói những gì cần nói.
Disk hát cho hòa bình
Tôi nói chuyện ở trường học, thánh đường, giảng đường, phòng khánh tiết. Tôi gặp riêng từng nhân vật tăm tiếng của vùng đó, của thành phố đó. Tôi nói bằng trái tim và mỗi ngày tôi sẵn sàng làm việc với sáu, bảy, tám buổi nói chuyện truyền thanh, truyền hình, gặp gỡ riêng hay thuyết trình công cộng… Các bạn sợ tôi mệt nhưng tôi bảo làm sao mà tôi mệt được khi đồng bào tôi đang chạy dưới đạn bom, khi nhà họ đang cháy và có thể trong khi tôi đang nói chuyện đây thì họ đang đi tìm con lạc sau trận lửa đạn. Hành trang của tôi chỉ có hình chị Nhất Chi Mai của tôi, chỉ có hình các cháu bịt khăn tang trước xác chết của bố mẹ và anh chị chúng…
Đây là hình ảnh tôi đang đứng giữa chợ Luân Đôn trong một sáng mùa đông cùng với các bạn người Anh cho một buổi Vigil for Peace in Viet Nam.
Ngày Chay cho Hòa Bình Việt Nam ở Liên Hiệp Anh
Tóm được tôi đến làm nhân chứng, họ trân quý tôi và bớt những cái hẹn làm việc không quan trọng để giữ gìn sức khỏe cho tôi, nhưng tôi nhấn mạnh: “Tôi không mệt, xin các bạn tổ chức thật nhiều cuộc gặp gỡ cho tôi, so với những người phải chạy dưới bom đạn thì ai mệt? Làm sao báo tin cho oanh tạc cơ biết là tôi đang mệt được?” Tôi phải nói thay cho những người đó, các em các cháu tôi, đồng bào bất hạnh của tôi. Trong cuộc hành hương này tôi chỉ có những lời trăn trối của chị Mai (Nhất Chi Mai), hình ảnh của o Lập, chú Tân, chú Bảy bên mấy cháu vừa mất mẹ, vừa mất nhà đang ngồi co ro nheo nhóc làm hành trang. Tôi phải sống và chết với những hình ảnh ấy cho tới ngày môi bé thơ các cháu được vang ca khúc hát thanh bình.
Anh Quốc
Năm 1970 tôi đi Anh quốc. Mục Sư David Harding tổ chức cho tôi đi gặp ngài Tổng Giám Mục Coventry, Lord Philip Noel-Baker (giải Nobel Hòa Bình sau đệ nhị thế chiến) và nhiều dân biểu Quốc Hội Anh. Tôi cũng nói chuyện nhiều lần ở đài BBC tiếng Anh và tiếng Việt. Chủ bút tuần báo Peace News rất hứng khởi viết nhiều bài chiếm trọn cả tập mấy mươi trang báo về nhiều khía cạnh khác nhau của phong trào. Họ tìm ra được nhiều hình ảnh, trong đó có hình một tăng sĩ Việt Nam cầm hoa tặng cho binh sĩ ông Nguyễn Cao Kỳ và hình đoàn tu sĩ ngồi yên trước xe tăng đang tiến tới. Ông Devi Prasad, chủ tịch Hội War Resistance International (WRI) rất quý tôi và nhiều lần mời tôi đến nói chuyện mỗi khi có đại Đại Hội WRI thế giới hay cuộc họp riêng của ban lãnh đạo.
Sau dịp đi Anh lần đầu, tôi lập được nhóm thân hữu tự đặt tên “Third Way in Việt Nam” – Con đường thứ ba của Việt Nam. Xin đính chính ngay là Con đường thứ ba chứ không phải Lực Lượng Thứ Ba như nhiều chính trị gia tại Paris thời đó tự xưng để sẵn sàng chiếm chỗ chiếm ghế trên chính trường. Khi mà bên Việt Nam Cộng Hòa Miền Nam muốn giết đến tên Cộng Sản cuối cùng mới chịu ngưng chiến, khi mà bên Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Miền Bắc muốn giết đến tên lính ngụy cuối cùng, thì phải có con đường thứ ba để chấm dứt chiến tranh. Đó là con đường của Phật Giáo Việt Nam thời bấy giờ. Lúc ấy trên thế giới đâu đâu cũng chia ra hai phe. Một là anh theo phe Miền Bắc, hai là anh theo phe Miền Nam. Thầy chúng tôi nói: Chúng tôi không có lực lượng thứ ba. Chúng tôi chỉ có con đường thứ ba để ôm cả hai miền Nam Bắc anh em vào lòng mà thôi.
Đa số các bạn trong nhóm Third Way in Vietnam là giáo sư trung học và tiểu học. Các bạn cũng tìm người đỡ đầu cho các cháu mồ côi, xin mỗi người cho 2 bảng rưỡi mỗi tháng. Nhóm này cũng in lại ngay 1.000 số Le Lotus của Phái Đoàn Phật Giáo để gửi cho bạn hữu, nhất là những người đã từng tiếp Thầy hay tôi và những người có đóng 2 pounds rưỡi mỗi tháng để nuôi một cháu mồ côi.
Cũng trong chuyến đi này tôi khám phá được Anh quốc là một nước có truyền thống lâu đời giúp người nghèo khó. Nước Anh có rất nhiều tổ chức từ thiện. Họ không thuộc nhà thờ nào hết. Làng nào, vùng nào cũng hay có những nhóm từ thiện độc lập hoặc một chi nhánh của OXFAM. Thành phố nào cũng có một tiệm OXFAM Shop bán áo quần cũ để gây quỹ cho nhiều chương trình từ thiện của OXFAM. Quần áo cũ, nhưng vẫn còn tốt vì mới chỉ dùng vài lần rồi hết mốt, được các bạn đem đến tặng cho Oxfam shop, rồi một nhóm bạn thiện nguyện đến giặt giũ ủi xếp tươm tất và đem trình bày lại như áo mới, bán giá rẻ hơn áo mới nhưng vẫn khá tiền. Tổ chức này do một nhóm người không theo tôn giáo nào có lòng từ bi lớn thành lập năm 1942 để quyết cứu một số người đói bên Hy Lạp trong thế chiến thứ hai. Sau đó tổ chức lớn dần ở nhiều thành phố Anh và lan rộng ra 15 nước trên thế giới. OXFAM có giúp Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội hai chương trình kinh tế tự túc là một trại chăn nuôi và một số đất ở Long Thành định trồng đào lộn hột. Nhưng sau 1975, đất này tan tác và dân nghèo di tản từ các nơi về chiếm. Cũng tốt! Đất là để cho người cần trồng trọt để nuôi gia đình!
Huddersfield Relief Committee do Elisabeth Wilson thành lập đã rất thương quý chúng tôi. Không nhiều, nhưng đều đặn hàng tháng Elisabeth gửi cho chúng tôi tiền giúp năm mươi cháu cô nhi. Christian Aid, Save the Children, Help the Age là những tổ chức từ thiện khác nhau đều đã đưa bàn tay ưu ái đến nâng đỡ các cháu cô nhi Việt Nam và các bô lão cô đơn vì con cháu đều chết vì chiến tranh…
Khoảng cách văn hóa
Năm 1967 khi giáo sư George T. Kahin tới Việt Nam, tôi đã tổ chức cho ông đi gặp những người trí thức có lòng, rất muốn Mỹ ngưng chiến và đưa lịch trình rút quân đội Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam như Thầy chúng tôi đề nghị. Sau khi ở luôn năm ngày, thực hiện xong các cuộc phỏng vấn, ông chào tôi ra về và rụt rè hỏi tôi có chịu nhận dùm 6 cái áo sơ mi còn mới tinh, còn nằm trong bao chưa cắt giấy nilon bọc bên ngoài không? Tôi bỗng nghĩ đến dân Việt Nam cái gì cũng nhờ Mỹ viện trợ rồi, nay mình giúp ông ta mấy ngày mà bây giờ ông trả tiền cho mình đây và bật khóc tủi thân khiến ông phải năn nỉ xin lỗi quá chừng. Ra phi trường, ông nói sẽ đi sang Pháp gặp Thầy trước khi về Hoa Kỳ, ông hỏi tôi có gửi gì cho Thầy không? Hôm đó sắp đến Tết Việt Nam, chúng tôi thương Thầy vì sứ mạng mà phải xa quê, ăn Tết cô đơn giữa mùa Đông lạnh lẽo nên tôi nhờ ông đem dùm hai cái bánh chưng, một thẩu mứt gừng dẻo và một thẩu dưa món cho Thầy và dĩ nhiên là tôi có biên thư báo cáo tình hình. Nhưng nghe Thầy kể lại là khi ông ghé sang Paris, các anh chị trong Hội Phật Tử Việt Kiều đều có mặt hôm đó vì nghe ông George Kahin, một thành viên trong Ban Cố Vấn Chính Trị Tối Cao cho chánh phủ Hoa Kỳ, vừa là Viện Trưởng Viện Đại Học Cornell đến tận Pháp để thăm Thầy. Vậy mà vừa tới nơi ông đặt lên bàn nào là dưa món, nào là mứt gừng và hai cái bánh chưng to tướng mà tôi đã bắt ông mang sang cho Thầy. Chị Phương Anh bỗng bật khóc, ông Kahin lại một phen thất kinh. Sao lạ thế, tặng 6 cái áo sơ mi mới toanh cũng khóc mà vừa đem bánh chưng dưa món ra cũng khóc! Sau đó chị Phương Anh mới giải thích là chị thẹn vì một người quan trọng như ông Kahin, đi một sứ mạng quan trọng như ông mà “bị” mang nào bánh chưng, mứt gừng và dưa món. Mắc cỡ cho dân Việt Nam quá!
Những năm đầu học tiếng Anh, tuy rằng các bạn nói tôi “hiểu”(!) và tôi nói họ cũng “hiểu”(!) nhưng có những khoảng cách văn hóa mà tôi cũng muốn chia sẻ ra đây cho vui. Ở Đức, tiến sĩ Kloppenburg và các đệ tử của ông trong nhóm Hilft Vietnam tổ chức cho tôi chia sẻ tại một trường đại học ở Heidenburg. Trong giảng đường hơn 300 sinh viên, sau khi chia sẻ xong, tôi bỗng giật mình nghe tiếng những đấm tay đập bàn cộp cộp vang dậy tưởng chừng như mấy trăm người muốn tới đấm tôi vậy. Tôi hơi hoảng, đứng yên, theo dõi hơi thở xem họ sắp la lối gì mình đây. Té ra là họ quá cảm động và thay vì vỗ tay khen thưởng thì những sinh viên Đức này diễn tả bằng những tràng đấm bàn tán thưởng! Một bữa khác cũng ở Đức, sau một ngày đi gặp sáu nhóm sinh viên rồi giáo sư, rồi dân biểu, rồi hội nhà thờ Lutheran, nhà thờ Công Giáo, chiều đó tôi về nhà một người bạn của bác Kloppenburg. Bà chủ nhà người Đức ưu ái hỏi tôi có thèm được ăn cơm như ở Việt Nam không? Tôi nói cơm trắng là món căn bản mà người Việt nào cũng ưa ăn. Sau đó họ hỏi tôi có ăn thịt bò vò viên sốt cà không? Tôi nói không, không ăn thịt mà cũng không ăn cá. Thế là chiều hôm đó gia đình chuẩn bị rất công phu một nồi cơm trắng cho tôi. Và thế là hết! Không xì dầu, không rau luộc, cà chua xà lách gì hết, không tàu hũ là dĩ nhiên vì lúc đó Âu Châu không có tàu hũ, không cheese không trứng chi cả. Còn gia đình họ thì nào khoai tây nướng bơ, nào thịt bò vò viên, nào ravioli xà lách cheese… Tôi ngồi ăn cơm trắng, trong ruột hạt gạo vẫn còn sống. Tuy nuốt không trôi, tôi không dám chê, chỉ xin chủ nhà cho một cái chả trứng (tôi dùng chữ omelette mà chữ omelette đối với tôi là rau xào đổ trứng lên làm cái trứng tráng rau – lỗi tại tôi không giải thích chi tiết!) Ngồi tới khi họ ăn uống xong, nhà bếp mới đem ra một cái bánh bột mì cứng ngắc, chắc trong đó có trứng đánh trộn bột mì dày mo, không muối không đường, lạt nhách, mà họ cho là omelette! Tôi mỉm cười méo miệng không dám than thở chi và đành đi ngủ bụng đói meo, tự an ủi “Mình mới đói có một bữa thôi mà, có vậy mới càng thấm thía cái khổ của đồng bào chạy giặc”.
Ở tiểu bang Wales, tôi được mời thuyết trình về Việt Nam tại thính đường tòa thị sảnh Cardiff. Ông dân biểu của Wales sẽ giới thiệu tôi chiều ngày hôm trước buổi thuyết trình, nhờ thế sẽ có đông người tới nghe hơn. Trước khi lên đường đi Cardiff, sáng hôm ấy tại Luân Đôn tôi có buổi gặp mặt nói chuyện với một ký giả ở Radio BBC tiếng Anh, rồi mới ngồi xe lửa bốn giờ để tới Cardiff. Cô chủ nhà ở Cardiff (Wales) mời tôi đi uống trà “Please come and have tea with us”, tôi từ chối, xin phép không ra vì còn mệt. Tôi nghĩ thầm là ăn cơm chiều sẽ ra chơi với họ luôn. Tôi không ngờ là ở tiểu bang Wales, Tea có nghĩa là dinner (ăn chiều). Sáu giờ, rồi bảy giờ, rồi tám giờ… không ai mời gì cả. Tôi đói bụng nhưng mệt nên đi ngủ sớm. Sáng hôm sau tôi hỏi: “Hôm qua tôi mệt đi ngủ sớm bỏ dinner, xin lỗi nhé.” Bà chủ ngạc nhiên “Dạ thưa không, em có mời cô đó chứ. Nhưng cô từ chối nói mệt, muốn không ăn nên em không dám ép”. Lúc đó tôi mới nhớ khoảng 4h chiều, bà ấy có mời. Tôi hỏi: “Vậy ở đây dinner mấy giờ?” “Dạ thưa, chúng tôi có High Tea lúc 4 giờ.” Té ra High Tea là buổi ăn chiều! Ở Stockholm cũng vậy, mới ở phi cơ xuống và về nhà mục sư Karl Axel Elmquist, người tổ chức chuyến đi của tôi, ông bà mời ăn chiều mà cũng nói Tea (uống trà) lúc 3h trưa. Tôi lại quên tưởng tea là uống trà thật. Nhưng ra ngồi thì thấy thức ăn đủ thứ nào là khoai lang tây đút lò ăn với bơ, nào là cheese nướng bánh mì và súp “la ghim” (legumes) – nói theo người bình dân Đà Lạt. Tôi không ăn thêm vì mới ăn trên phi cơ, nghĩ rằng đây là ăn trưa, chờ tối ăn luôn cũng được. Ai dè đó là buổi ăn chiều của họ mà mới 3h trưa nên tôi tưởng là ăn trưa. Chiều, rồi tối đến, tôi chờ hoài cũng không ai mời chi. Tôi hơi đói bụng, nhỏ nhẹ hỏi xin chút gì lót dạ trước khi đi ngủ. Bà chủ bèn cho tôi chiếc bánh lạt mỏng và tách trà. Thế là nhịn đói buổi chiều.
Trong một buổi ăn trưa tại văn phòng Phái Đoàn, tôi làm một đĩa to chả trứng tráng có cà chua và epinard xanh xanh đỏ đỏ rất ngon và đẹp để ăn với cơm trắng và xì dầu. Tôi nghĩ bụng như vậy là đủ bữa trưa cho tôi, Jim Forest, Laura và chú Thanh Hương. Ai ngờ vừa ngồi vào bàn Jim lấy nĩa chẻ đĩa trứng to ra làm bốn và bỏ hết một phần tư đĩa chả trứng vào chén của mình. Tôi vội bỏ đũa, vào bếp tráng thêm một đĩa trứng thứ hai đem ra bàn và hớn hở cười nói: “Đây thêm nhé, kẻo Anh Jim đói bụng.” Jim ngượng, ngồi im không chia đĩa chả ra làm tư nữa. Tôi mới chợt nhớ ra là ở Tây Phương, vào bàn ăn, mỗi người lấy một phần của mình và cứ vậy ăn từ đầu đến cuối bữa, không đưa đũa ra gắp nhiều lần như người Việt. Văn phòng có 4 người thì đĩa chả chia làm bốn là đúng! Thế mà Jim vừa chia phần đã bị tôi chê đói bụng.
Tôi đi Hoa Kỳ kêu gọi chấm dứt chiến tranh
Tháng 3 đến tháng 5 năm 1970, tôi đi Hoa Kỳ theo lời mời của Fellowship of Reconciliation (FOR). Người đi theo để hướng dẫn thay đổi theo từng vùng, nơi quan trọng như New York City, Washington DC và Chicago thì có bác Alfred Hassler, các tiểu bang khác thì có anh Ronald Young và bác Allan Brick. Tôi nhớ được mời tới ăn chiều tại nhà một cư sĩ quyền thế ở New York City để tôi gặp rất nhiều văn hào trong đó có Arthur Miller. Alfred mời tôi chia sẻ. Tôi quên là đã nói gì nhưng sau đó có hát bài Đại Bác Ru Đêm của Trịnh Công Sơn để nói về niềm đau “từng vùng thịt xương, có mẹ có em…” và “Ghế đá công viên, dời ra đường phố, người già co ro…” để nói đến ghế đá của nhạc sĩ chính là những chiếc bàn thờ mà người Phật tử đem xuống đường để ngăn chặn bạo động thô tháo của đoàn xe tăng ông Nguyễn Cao Kỳ phản phúc gửi đến sau khi bắt hết những ứng cử viên Phật tử rồi bầu cử quốc hội như áp lực thế giới và quần chúng Việt Nam muốn. Ông Arthur Miller nói tiếng hát tôi giống như những sợi tơ mong manh giăng giăng như mây trời, nghe mà cứ sợ tơ sắp đứt, nhưng không đứt mà có khi lại lên cao hơn và càng lên cao càng rung nhẹ hơn! Thật diệu kỳ, đánh động tận xương tủy người nghe và khó mà không thấy mắt mình ướt. Tôi nhủ thầm “thanh quản này của má mà! Và con cất lên cao bằng trái tim của má con mình thương bé bơ vơ mùa loạn lạc nên những nghệ sĩ như Arthur Miller đã cảm nhận và diễn tả được. Lạy Phật cho những người nghe má con mình hát sẽ thương dân Việt Nam hơn và hết lòng lo chấm dứt đạn bom.” Tôi hát xong thì tuy không hứa hẹn gì với tôi nhưng tôi biết họ sẽ làm hết khả năng họ để can thiệp sao cho chấm dứt bom đạn trên đầu người dân vô tội như chú Bảy, o Tân…
Gần như mỗi ngày tôi phải đi một thành phố, có khi đi bằng xe hơi, có khi phải bay chuyến đêm và sáng dậy có khi lên truyền hình lúc 7 giờ sáng, khi thiên hạ xem buổi truyền hình trước khi đi làm.
Chỗ nào tôi cũng phải gặp một ký giả quan trọng của tiểu bang đó như Michigan, Madison, Illinois, Vermont, Massachusetts, Connecticut, Minneapolis, Ohio, New Orleans, North Carolina, Florida, Atlanta, Pennsylvania, Kansas, Colorado, Washington State, Portland, California… Có khi tôi phải lấy chuyến bay sớm để kịp họp báo lúc 8 giờ 30 khi vừa tới phi trường. Sau đó họ đưa tôi đến Đài Truyền Hình gọi là truyền hình “Call-In” và giới thiệu chúng tôi là ai rồi thính giả điện thoại vào tổng đài để đặt câu hỏi. Tiếng Anh ở mỗi tiểu bang mỗi khác! Nếu tôi không hiểu một câu nào cho đầy đủ, anh Ronald Young hay bác Allan Brick phải viết xuống câu hỏi thì tôi mới nhận ra họ hỏi gì. Sau đó tôi trả lời bằng cách phát âm của tôi và người đi theo sẽ lặp lại câu nói của tôi bằng thứ tiếng Mỹ thông thạo của họ nếu thấy cách phát âm của tôi dở quá! Thường thính giả hay khán giả rất thích nghe tiếng nói trực tiếp của tôi, nên khi có chút giờ rảnh rỗi tôi phải nhờ anh Ronald hay bác Allan dạy tôi phát âm lại cho đúng nhất cái câu mà ban nãy tôi nói thiên hạ chẳng hiểu. Khi trả lời, tôi chỉ trả lời bằng trái tim đau xót của tôi đối với đồng bào chạy dưới bom đạn mà cũng tràn đầy tình thương với người cầm súng cả hai bên Việt Nam và ngay cả với những binh sĩ Hoa Kỳ. Tôi chỉ trách chính sách không đi sát thực tại Việt Nam nên gây ra đau khổ làm khán thính giả thương lắm. Chiều đó thế nào họ cũng đến khá đông tại hội trường lớn để nghe tôi và thấy tôi bằng thịt bằng xương. Hôm đầu tiên ở một thính đường trường đại học Minnesota, sau khi buổi thuyết trình chấm dứt, thiên hạ đổ xô lên, có người tặng hoa, có người đưa bao thư nhưng có người nhét vào tay tôi tờ 5 dollars không bì thư, tôi bỗng tủi thân đứng khóc. Tôi tới đây đâu phải để lượm những tờ đô la này! Một thanh niên Việt Nam thấy mặt tôi buồn tủi và hiểu ngay, anh tới nói với tôi: “Cô đừng tủi. Mỹ là vậy đó. Muốn thể hiện tình cảm, họ đưa tiền ra để chứng tỏ là họ rất thương quý. Họ xài tiền kỹ lắm, nếu không trân quý thì họ không đưa tiền như vậy đâu!” Tôi thật ngẩn ngơ!
Thiền Sư Thích Nhất Hạnh đi Hoa Kỳ
Cái thấy của Thầy về thực tại Việt Nam
Từ khi thầy chúng tôi đến Hoa Kỳ, một làn gió lạ thổi mát cả không khí hiểu lầm về Việt Nam. Trước đó chính giới Hoa Kỳ nghĩ rằng người Phật tử thì thân Cộng Sản nên muốn giúp Việt Nam chống Cộng hữu hiệu thì chỉ có giải pháp duy nhất là giúp người Thiên Chúa Giáo, rằng nếu Việt Nam rơi vào tay Cộng Sản thì cả Á Châu sẽ rơi vào tay Cộng Sản như thế cờ domino. Cách trình bày thực tại Việt Nam của Thầy chúng tôi đã cho Hoa Kỳ và thế giới biết rằng Phật Giáo Việt Nam không thể tách rời với dân tộc Việt, dân tộc Việt Nam với mấy nghìn năm văn hiến đã có những thời kỳ Phật giáo cực thịnh. Một ông vua Phật tử Trần Nhân Tông đã đánh đuổi khỏi đất nước Việt đội quân Nguyên của Hốt Tất Liệt, con cháu của Thành Cát Tư Hãn, ra khỏi Việt Nam và giữ vững biên thùy. Ông vua Phật tử ấy thắng được thế giặc thật mạnh mẽ là nhờ có sự khiêm cung biết hỏi ý toàn dân trong Hội Nghị Diên Hồng khi thế giặc quá mạnh và đã giữ được lòng bao dung, giữ được bốn tâm vô lượng từ bi hỷ xả không ngằn mé trong khi đánh giặc chống Tàu. Quân đội Việt Nam suốt 20 thế kỷ qua không cần quân đội nước ngoài nào hết mà vẫn giữ được độc lập, tự do và thực thi tam giáo (đạo Phật, đạo Khổng và đạo Lão) đồng dung, đồng tu, đồng trị nước, dựng nước và giữ nước. Người binh sĩ Hoa Kỳ mà không biết văn hóa Việt Nam, càng ở đông, ở lâu tại Việt Nam chỉ càng gây tai hại bất lợi cho khối tự do. Nhưng việc quan trọng nhất là các bên lâm chiến phải thương thuyết gấp để ngưng chiến ngay tức khắc và tuyên bố lịch trình rút quân đội Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam. Điều này sẽ gây niềm tin cho toàn dân và nâng cao uy tín của khối đồng minh, khiến cho Việt Nam Cộng Hòa Miền Nam không mất chính nghĩa (không bị gọi là “Cõng rắn cắn gà nhà”).
Ai mời Thầy đi Hoa Kỳ?
Thầy được giáo sư George Kahin, Khoa Trưởng Chính Trị Học Đại Học Cornell, nhân danh Hội Đồng các Viện Đại Học Hiệp Chủng Quốc, Ủy Ban Cố Vấn cho chính quyền Hoa Kỳ về chính sách Việt Nam mời sang tham khảo tại Đại Học Cornell, Ithaca, New York State. Giáo sư George Kahin sau đó nói rõ là Thầy phải qua Hoa Kỳ giúp ông vì ông nghĩ chính sách này sai mà không biết nói cách nào để thuyết phục Ủy Ban Cố Vấn Chính Quyền Hoa Kỳ thay đổi chính sách. Sau đó có lẽ nhờ tổ tiên Việt Nam âm thầm giúp hay sao mà khiến Thầy ngay trong những ngày đầu đã gặp một Hội đoàn khá lớn, có uy tín liêm trực vì Hội này đã tranh đấu cho hòa bình từ hồi thế chiến thứ nhất, là Hội Fellowhip of Reconciliation viết tắt là FOR. Ông hội trưởng là Alfred Hassler đã đứng ra tổ chức cho Thầy đi gặp những nhân vật lớn trong chính quyền và giới trí thức Hoa Kỳ để trình bày về tình hình Việt Nam. Thấy mọi người quá mờ mịt về văn hóa, dân tộc Việt nên Thầy phải viết ngay một tài liệu đem đi kèm là cuốn Hoa Sen Trong Biển Lửa và Thầy tự dịch ra tiếng Anh. Cuốn sách đã được nhà xuất bản Hill &Wang thuộc nhóm xuất bản sách lớn Doubleday in ra hơn 40.000 bản. Tiếng nói của Thầy như một nguồn ánh sáng mới khuấy động tâm can quần chúng và nhiều trí thức lớn ở Hoa Kỳ. Trước khi Thầy tới Hoa Kỳ, chẳng khi nào lương tâm Hoa Kỳ (chính quyền và quần chúng) có thể nghĩ họ đang làm sai, thay vì giúp dân Việt Nam họ đang hại Miền Nam Việt Nam mất chính nghĩa. Đa số dân chúng Hoa Kỳ rất nhân hậu, nghĩ rằng tổ tiên của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ đã đổ nhiều xương máu để tìm tự do cách đây 200 năm thì bổn phận con cháu của những tổ tiên này bây giờ là phải giúp Việt Nam tìm tự do. Điều này rất đẹp nhưng than ôi, họ thương mà chưa được học theo lời Bụt dạy: THƯƠNG thì phải HIỂU thì mới thương đúng và đem hạnh phúc cho người mình thương. Còn nếu không hiểu thì càng thương chỉ càng làm khổ người mình thương. Người Hoa Kỳ rất thương dân Việt Nam và muốn giúp dân Việt nhưng thương mà không hiểu nên mới giúp bằng cách gửi quân đội qua với những anh lính Mỹ ngây thơ non nớt, không hiểu gì về Văn Hóa Việt Nam hết. Như vậy thì càng giúp càng giết chính nghĩa của những người Miền Nam đang tranh đấu cho tự do mất rồi.
Tháng 5 đến tháng 11 năm 1966, thầy Nhất Hạnh đã gặp và trình bày về cái thấy của người Việt Nam trước Quốc Hội Hoa Kỳ, sau đó nói chuyện thêm với nhiều hạ nghị sĩ và thượng nghị sĩ Hoa Kỳ. Thầy đã trình bày với Bộ Trưởng Quốc Phòng Robert McNamara cái vụng về của chính sách Hoa Kỳ đối với Việt Nam. Thầy nói chuyện nhiều lần trên truyền hình ABC, NBC và trong nhiều buổi mít tinh lớn. Thầy cũng đọc thơ của Thầy về chiến tranh Việt Nam ở Tòa Thị Sảnh Thành Phố New York cùng chung với các thi sĩ Robert Frost và Arthur Miller. Thầy họp báo nhiều lần, trong nhiều thành phố từng tiểu bang Hoa Kỳ. Bác Alfred Hassler nói “Con số hội viên Hội Thân Hữu Hòa Giải (FOR) tăng hơn mười lần sau khi Thầy đi một vòng Mỹ Quốc tổ chức bởi hội FOR.”
Đi một vòng Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ xong, Thầy cùng bác Alfred Hassler tiếp tục đi một vòng các nước Âu Châu như Hà Lan, Anh Quốc, Đức, Na Uy, Thụy Điển, Đan Mạch, Thụy Sỹ, Pháp, Ý,… Rồi Thầy lại cùng với bác Raphael Goult đi Úc Châu, Tân Tây Lan, Thái Lan, và Nhật Bản.
Đầu năm 1968 Thầy trở lại Bắc Mỹ và trình bày trước Thượng Viện Quốc Hội Canada về cái sai lầm của chính sách giúp Việt Nam qua cách làm vụng về của Bộ Ngoại Giao và Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ.
Thầy gặp ông U Thant, Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc, để trình bày cái thấy của Phật Giáo Việt Nam về cuộc chiến tranh này
Tháng 5 năm 1971, Thầy nhận lời mời của những thượng nghị sĩ George McGovern, Claiborne Pell, và Birch Baye đến nói chuyện tại buổi gặp mặt đông đảo các nghị sĩ Thượng và Hạ Viện Quốc Hội Hoa Kỳ ở Hoa Thịnh Đốn và sau đó Thầy lại đi thêm một vòng nước Mỹ và nói chuyện với những vị lãnh đạo tôn giáo và chính trị tại đây.
Khoảng thời gian 1966-1968, Thầy nuôi dưỡng được những liên hệ bằng hữu thân quý với một số những người rất nổi tiếng trong công trình đóng góp cho dân quyền và nhân quyền như mục sư Martin Luther King Jr., Alfred Hassler, Raphael Goult, Richard Deats, các linh mục Thomas Merton, Daniel Berrigan, nữ tu Dorothy Day, ca sĩ Joan Baez, ký giả Jim Forest, v.v..
Nhưng vào khoảng 1970, khi tôi tới Hoa Kỳ, trừ những vị vừa kể tên trên, đa số những người Mỹ trong phong trào tranh đấu hòa bình tại đây có những thái độ khiến tôi rất ngạc nhiên. Tại sao các anh Mỹ cao lớn dềnh dàng thế kia như Stewart Mitchell ở AFSC, David Mc Reynolds, Hội Laity & Clergy Concerns mà lại dễ nản thế? Họ nản lòng vì chiến tranh kéo dài lâu quá mà chưa thấy chấm dứt. Họ mới tranh đấu có bốn năm năm mà đã nản lòng thì thử hỏi các bạn tôi ở Việt Nam, nếu không có chiều sâu nội tâm tâm linh, sẽ nản như thế nào sau ba mươi năm bom đạn? Chán nản rồi thì các bạn Hoa Kỳ này, trong các phong trào kêu gọi chấm dứt chiến tranh, lại nghĩ một cách đơn giản: “ta phải giúp làm sao để chính quyền Hà Nội đánh cho quân đội Hoa Kỳ thua trận càng sớm càng tốt. Như thế thì chiến tranh mới sớm chấm dứt. Chứ giữ thái độ hiền hiền, từ bi ôm ấp cả hai bên theo lối thầy Nhất Hạnh thì chắc còn lâu lắm chiến tranh mới có thể chấm dứt.” Tôi thật đau lòng khi nghe biết được họ suy nghĩ đơn giản, ngây thơ rồi hành động như vậy. Nghĩ đơn giản như thế nên trước nhất họ mời cho được các chính khách của chính phủ Miền Bắc tham dự các buổi họp hòa bình và có vẻ muốn lắng nghe bên chính quyền Miền Bắc hơn là tiếng nói của người dân chạy dưới bom. Riêng chúng tôi đã từng biết những gì những người Cộng Sản đã hành xử trong Tết Mậu Thân 1968 vừa qua ở Huế và nhiều nơi khác, nên nghe như thế lòng tôi thật nát tan. Đó là chưa kể tôi lớn lên ở miền Nam và miền Nam đã tiếp đón không biết bao nhiêu nhân vật yêu nước đã từng tham gia phong trào kháng chiến chống Pháp từ năm 1944, đã hy sinh tận xương tủy trong chiến khu với những người Cộng Sản đầu tiên nhưng đã bị đày đọa như thế nào bởi chính quyền miền Bắc. Rồi chính sách cải cách điền địa đấu tố khiến những người con đã theo Đảng phải đứng ra đấu tố cha mẹ như thế nào cho vừa lòng Đảng. Ai đã đọc được quyển Khu Rừng Lau của người yêu nước Doãn Quốc Sỹ mới thấy đắng cay thế nào khi thấy lòng yêu nước của những người không theo đảng đã bị ám hại tinh tế ra sao. Ôi nếu chiến tranh Việt Nam được chấm dứt bằng sự thắng trận của chính quyền Hà Nội thì cuộc thanh trừng sẽ tàn ác như thế nào? Tôi rùng mình và thật đau lòng phải nghe những người đấu tranh cho hòa bình mà kêu gọi cho một bên thắng trận quách đi cho mau. Tôi tự hỏi: Mình đi đâu đây?
Tôi đi Hoa Kỳ
Như đã nói, năm 1970 tôi đi Hoa Kỳ trình bày tiếng nói của người dân Việt chạy dưới đạn bom. Tôi gặp rất nhiều các bạn năng nổ hoạt động cho Việt Nam nhưng rất nông cạn, họ nói rất nhiều lý thuyết nhưng không tiếp xúc được với thực tại của Việt Nam. Tiếng Anh của tôi thì chưa đủ giỏi mà nghe họ phê bình lên án khá nông cạn nên tôi rất đau lòng. Quần chúng thì lúc nào cũng cảm động và thích thú khi nghe tôi chia sẻ nhưng các Hội Đoàn tranh đấu cho hòa bình mọc ra như nấm và nói năng rất lý thuyết: “Cứ để cho Hà Nội đánh cho Hoa Kỳ thua nặng thì Hoa Kỳ mới học được bài học, cô đừng mất thì giờ kêu gọi hòa bình chung chung, cứ theo Hà Nội quách đi, rồi ngưng chiến ta sẽ tính tiếp!”
Khi gặp Bộ Chính Trị Ngoại Giao Chính Phủ (State Department) Hoa Kỳ thì tôi nản hơn bao giờ hết. Sau bao nhiêu tâm huyết tôi muốn chia sẻ, họ chỉ lặp lại như cái máy “Chúng tôi phải làm hết sức giúp dân Việt Nam chống Cộng Sản, đó là cách hay nhất. Việt Nam Cộng Hòa phải có nhiều súng bom, phi cơ oanh tạc và quân đội.” Tôi nói: “Tôi đồng ý nhưng xin đừng gửi lính Hoa Kỳ qua Việt Nam”. Họ trả lời: “Nhưng chánh phủ Việt Nam yêu cầu.” Tôi nói: “Tôi không chắc. Anh rể tôi là Bùi Thanh Thủy, đại úy Quận Trưởng quận Cái Răng tỉnh Bạc Liêu, không muốn điều đó, anh chỉ than thiếu súng đạn tốt trong khi du kích có súng rất tốt của Trung Cộng. Nhưng chánh phủ Hoa Kỳ cứ gửi binh sĩ Hoa Kỳ qua Việt Nam cùng với súng đạn làm anh tôi mất chính nghĩa vì dân quê nghĩ rằng anh tôi bán nước cho Hoa Kỳ như những người Việt Nam bán nước cho thực dân Pháp. Anh tôi đã bị giết vì không có sự ủng hộ của toàn dân…”, nhưng Bộ Chính Trị Ngoại Giao Hoa Kỳ làm tôi có cảm tưởng như mình đang nói với những bức tường! Chính phủ và chính sách Hoa Kỳ này quả thực là không thông minh, không có thói quen lắng nghe. Họ chỉ căn cứ trên báo cáo của tình báo Hoa Kỳ CIA như sự thật tuyệt đối, sai bét với thực tại và hành xử quá máy móc. Bụt dạy cái thấy, cái nghe của chúng ta dù rõ mồn một cũng chỉ là những cái tưởng – cái tri giác còn phiến diện về thực tại, còn thiếu nhiều khía cạnh khác của thực tại mà chúng ta chưa nắm được hết. Ta cần khiêm cung hơn, lắng nghe hơn để hiểu tình trạng thì mới thiệt là thương dân Việt Nam. Hồi này khả năng diễn giải Phật Học ứng dụng của tôi còn quá yếu nên tôi không thuyết phục được State Departement (Bộ Chính Trị Ngoại Giao), chỉ tức ấm ức mà khóc thôi. Tôi không biết dạy họ: Muốn thương dân Việt Nam, giúp Việt Nam có tự do thì phải hiểu văn hóa lịch sử của người ta, các bạn nên tập khiêm cung hơn về cái thấy cái nghe của các bạn và phải luôn luôn kiểm chứng lại những tin tức nhận được từ trước. Có thể thầy Nhất Hạnh nói được với Ông Robert McNamara mà vì thế ông đã cố gắng làm gì đó nhưng không được nên đã từ chức.
Richard Murray hay Dick Murray
Ngược lại thì tôi cũng rất may mắn gặp được những tấm lòng vàng như tiến sĩ Richard Murray. Anh là người lãnh đạo nhóm thân hữu Quaker AFSC (American Friend Service Committee) ở Chicago, nhóm duy nhất trong nhiều nhóm Quaker AFSC ủng hộ con đường kêu gọi ngưng chiến tức khắc và quân đội Hoa Kỳ phải rút quân đúng lịch trình như đề nghị của Phật Giáo. Dick rất có khả năng lắng nghe, nhìn sâu, biết đau những gì người Việt đau và trân quý những gì tôi đề nghị.
Dick tổ chức nhiều buổi diễn thuyết công cộng ở nhiều nơi như phòng khánh tiết thành phố, trường Đại Học Chicago, nhiều nhà thờ lớn (Thiên Chúa, Memonite, Church of Christ), các hội đoàn… Ngày xưa khi còn là học sinh đi giúp đồng bào trong các khu ổ chuột nghèo đói, tôi khéo léo xin những người hàng xóm, các bạn bè, mỗi người chỉ cho tôi một đồng mỗi tháng thôi nhưng nhờ cho ít nên ai cũng ham cho. Vì thế tháng nào tôi cũng có được mấy trăm đồng giúp người nghèo. Bây giờ, hợp tác với Richard Murray tôi cũng chỉ xin mỗi người 5 dollars một tháng. Anh hiểu rất nhanh và rất thích thú đề nghị của tôi, in sẵn cả ngàn phiếu hứa giúp 5 dollars mỗi tháng. Sau khi nghe tôi nói chuyện, ai cũng cảm động, anh phát phiếu ra và rất nhiều người tự điền tên và địa chỉ vào phiếu để anh sẽ tiếp tục gửi cho họ những tin tức của Phật Giáo Việt Nam. Thế là về nhà anh ghi tên từng người tình nguyện cho mỗi cháu 5 dollars mỗi tháng, căn dặn họ gửi vào trương mục nào và mỗi tháng nhóm Quakers ở Chicago của tiến sỹ Murray sẽ chuyển tiền cho Phái Đoàn Phật Giáo Việt Nam. Nhóm này đã giúp tôi tìm ra hơn một ngàn người bảo trợ. Lá thư Le Lotus bằng tiếng Anh cũng được Dick Murry in ra hàng ngàn bản bằng tiền túi của anh vì tiền thiên hạ cho hằng tháng anh đã gửi hết cho Phái Đoàn rồi, mà mỗi lần tôi chỉ gửi đến Dick một bản. Nhờ thế các thí chủ 5 dollars mỗi tháng được biết tin tức Việt Nam, nhiều người dấn thân hơn, họ có thể cho thêm 20 đô chương trình này, 100 đô chương trình khác. Dick luôn luôn ủng hộ lập trường Phật Giáo 100%. Dick Murray, một người Quaker mà cũng như Phật tử, rất đau lòng mỗi khi các hội đoàn khác ăn gian nói dối, bóp méo sự thật rằng dân Việt Nam chỉ muốn sự thắng trận của chính quyền Hà Nội trên bọn tay sai bán nước Miền Nam.
Sinh Viên Đại Học Stanford
Chiều 31 tháng 3 năm 1970, tôi tới Đại Học Stanford, California Hoa Kỳ. Trường này nổi tiếng dạy giỏi và học phí rất cao nên phần đông sinh viên là con nhà giàu hoặc là sinh viên rất xuất sắc được nhận học bổng. Chương trình là tôi sẽ chia sẻ về tình hình Việt Nam cho sinh viên tại Cafetaria Ball Room. Các cô các cậu sinh viên đua nhau hát giỡn, khi thấy tôi vào cũng không ngó ngàng gì, tới giờ tôi giảng mà vẫn làm bộ như không muốn giao microphone cho tôi. Tôi vừa giận vừa tủi thân, nhưng tập thở và nhìn sâu hơn để hiểu, chấp nhận cái vô tư, vô minh của những người trẻ lớn lên trong môi trường hoàn toàn khác mình để thương được họ. Khi cầm máy phát âm lên tôi nói rất thật: “Các bạn xinh đẹp quá, dễ thương quá và tôi chắc các anh em của các bạn từ 18 tuổi trở lên cũng xinh đẹp tuấn tú như các bạn. Nhưng nếu họ mặc vào chiếc áo binh sĩ Hoa Kỳ, đeo đầy súng ống, băng đạn và lựu đạn thì họ trở nên rất đáng sợ đối với người nông dân Việt Nam. Sáng ngày đó của năm 1967, nếu tôi không có mặt ở cái làng hẻo lánh Thảo Điền không xa Sài Gòn là mấy và không kịp thời giải thích thì chắc những người con trai dễ thương như các bạn vì hoảng sợ đã trở thành những người tàn sát dân vô tội không thương tay như vụ Đại Úy Calley mà báo chí Hoa Kỳ đang phanh phui mấy hôm nay. Calley đã bắn hàng trăm phụ nữ, con nít và bô lão ở một làng của tỉnh Quảng Ngãi. Làng Thảo Điền là nơi mà tôi và chú Nhất Trí hay vào dạy trẻ em và làm công tác phát triển cộng đồng, không có quân đội quốc gia mà cũng không có du kích Cộng Sản. Sáng đó, vừa dừng xe mobylette trước cổng làng tôi quá ngạc nhiên thấy trong làng có đầy binh sĩ Hoa Kỳ mặc áo rằn ri thật dễ sợ. Tôi trở về hơi thở chánh niệm, buông thư cái gương mặt lo âu méo xẹo của tôi, rồi nhẹ nhàng mỉm cười với chính mình. Nhìn sâu vào mặt các anh lính Hoa Kỳ, tôi thấy mặt anh nào cũng trẻ măng, ngây thơ như các bạn bây giờ đây, nhưng đầy sợ hãi căng thẳng. Họ nhìn tôi, tôi nhìn họ gượng cười và nhẹ nhàng hỏi: “Các anh làm gì ở đây? Tôi là người làm công tác xã hội tại đây, định vào dạy các trẻ học”. Nghe tôi nói tiếng Anh họ giật mình đứng thẳng nhìn tôi lạ lùng rồi thư giãn ra một chút: “Chúng tôi tìm VC (Việt Cộng).” Tôi trả lời: “VC thì không có ở đây đâu. Ở đây chỉ có hoặc là nông dân hoặc người chài lưới rất nghèo khó. Mỗi ngày chúng tôi có người vào dạy học cho các cháu nhỏ vì ở đây không có trường học”. Anh binh sĩ Mỹ nói cái cây cầu dài cách đây không xa mới suýt bị giật mìn, vậy thì Việt Cộng chắc núp không xa đây. Tôi chợt nhớ ra và thật tình kể: “À, một bữa tối cách đây ba ngày, các anh du kích có về đây trói ông xã trưởng làng Thảo Điền lại và đòi đốt nhà ông vì ông hợp tác với chính quyền này. Dân làng quýnh quáng lạy các anh du kích và nói nếu các anh đốt nhà ông xã trưởng thì cũng có nghĩa là đốt hết cả trăm ngôi nhà lá của dân làng mất rồi vì tất cả đều bằng lá dựng san sát nhau! Họ suy nghĩ một hồi rồi quyết định tha không đốt nhà, nhưng bắt ông xã trưởng phải từ chức, nếu không lần sau họ sẽ giết. Thế là họ rút đi và không còn ai ở lại đây, ba ngày qua tôi tới cũng không gặp họ.” Người lính Mỹ không tin tôi mấy (sau này qua Hoa Kỳ, tôi mới biết là khi anh sinh viên Mỹ được huấn luyện làm binh sĩ đi Việt Nam thì anh phải nên nhớ VC không hẳn phải là đàn ông, họ có thể là những cô gái nhỏ, đẹp, có thể là một đứa trẻ và nhất là những ông thầy tu Phật giáo!) Anh vẫn đi lục lọi từng góc nhà, xem xét các bàn thờ xem có vỏ đạn hay dấu tích gì của du kích không. Sau đó anh đưa ông Sếp lớn của anh tới gặp tôi. Anh này cũng hỏi như thế và tôi cũng lặp lại sự thật. Họ ở thêm hai mươi phút rồi rút đi êm thắm. Thưa các bạn, xin đừng đi Việt Nam, đừng gửi anh mình, em mình, cha mình đi Việt Nam và khuyên bạn bè đừng đi Việt Nam. Họ sẽ đau khổ, sợ hãi và làm bậy như đại úy Calley giết người vô tội ở Quảng Ngãi.”
Các sinh viên tới sát tôi lắng nghe, vài người khóc, người thì chạy đi làm cho tôi một ly trà gói, người thì hỏi chúng em nên làm gì giúp các bạn Việt Nam…
Nước Costa Rica và các vị trưởng tử của đức Ky Tô vùng Nam Mỹ chỉ tin sức mạnh của bom đạn
Năm 1971, tôi tham dự Đại Hội Ky Tô Giáo về Bất Bạo Động ở Costa Rica, Trung Mỹ. Ở đây trời nóng như Việt Nam. Tôi xa nước ba năm rồi, nhớ cây xoài, cây ổi, cây chuối quá chừng. Ngồi dưới gốc xoài, lượm những trái xoài non chua chấm muối ớt thật hạnh phúc. Tôi muốn nhắn với các bạn ở Việt Nam là chiến tranh thì chiến tranh nhưng cũng có những nơi mà còn xoài, còn ổi, còn chuối, và ăn xoài chua chấm muối ớt vẫn ngon như thường. Tôi gặp khoảng 40 vị lãnh đạo các nhà thờ Ky Tô ở Nam Mỹ. Đối với họ thì sử dụng vũ khí vẫn là thượng sách. Có thể vì thế mà ban tổ chức muốn mời cho được cô gái nhỏ Việt Nam này, dù phải tốn thật nhiều tiền máy bay cho tôi bay thật xa, để tôi nói gì? Sau khi lắng nghe quý Cha (linh mục) và những mục sư diễn tả sự dữ dằn bạo động của những chính quyền độc tài của họ và họ kết luận rất lý thuyết là phải có vũ khí và đánh giặc thôi, tôi nhẹ nhàng trình bày những khổ đau của người nông dân nghèo khó ở quê tôi nhưng chắc cũng nghèo khó như các nước quý vị. Tôi nói: Một khi chiến tranh mà bắt đầu thì khó dừng lại lắm. Trên đất nước chúng tôi bao nhiêu người nông dân ước mơ:
“Một gian nhà lá hai vồng khoai lang
Thế thôi mà lạy mười phương
Ba mươi năm lẻ chưa tròn giấc mơ’’
Chiến tranh đã kéo dài quá lâu, kéo theo những chính quyền độc tài, chắc không thua gì chính quyền các nước của quý vị. Thực trạng như vậy làm cho người dân mất tất cả niềm tin vào con người và vì thế chúng tôi không đem lý thuyết cách mạng tới. Chúng tôi cùng xem xét tại chỗ, thấy con cái họ cần những gì cấp thiết thì mời họ cùng nhau đứng lên lo chung về giáo dục, y tế, vệ sinh công cộng, canh nông, v.v.. Không có trường học, chúng tôi đi hỏi chính quyền xã, quận, rồi tỉnh về việc xây ngôi trường. Thấy ngân sách quốc gia không đủ, chúng tôi không chê bai ông quận trưởng là vô trách nhiệm nhưng cũng không chờ đợi chánh quyền, chúng tôi cùng nông dân đứng dậy bàn việc nên làm sao để giúp nhau, người đóng góp ba bụi tre, người ba ngàn tàu lá dừa nước, người góp công sức lao động để xây cất ngôi trường tre lá cho con em họ, xây trạm y tế, xây nhà vệ sinh công cộng, khuyến khích xây nhà vệ sinh cá nhân, chọn các em có sức học khá trong làng cho đi tu nghiệp thêm để về dạy lại cho con em của họ… Chính quyền rồi cũng sẽ giúp thôi, chúng tôi không xem chính quyền là kẻ thù. Chúng tôi bàn với nông dân cách cùng nhau tiêm chủng cho súc vật, cùng nhau canh tân canh nông, trồng thêm những hoa mầu mới như cà rốt, bông cải, su su… để có thêm thu nhập, mở mang lại những nghề tiểu thủ công như chầm nón lá, dệt lụa… Tóm lại phải có tình thương, thấy trách nhiệm là trách nhiệm chung, cùng làm ngay những gì có thể làm được hôm nay dù là nhỏ nhặt nhất để giúp con cái của nhau. Tất cả đều là anh em một nhà không phân chia người thân kẻ thù. Kẻ thù của chúng tôi chỉ là cái thấy sai về nhau và tập cách không xem người kia là xấu và mình là tốt. Không nói lý thuyết, nhưng chúng tôi làm việc siêng như kiến, có vẻ chậm như kiến, cứ bò từ từ, xây một làng, rồi hai, rồi ba làng, rồi năm làng hoa tiêu… Những nơi bị đạn bom chúng tôi đưa dân đến nơi bình an hơn, làm những Trung tâm tái định cư ở các vùng đất mới, phì nhiêu hơn. Cần tiền, chúng tôi mời mọi người tới xem công tác rồi mỗi người phát tâm đóng góp, không làm ngân sách cầu cứu ngoại viện. Trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội chúng tôi có hơn 3.000 người bảo trợ tài chính hàng tháng mà mỗi người bảo trợ tự xem như là thành viên của chính phong trào. Có người cho 1.200 đồng, 600, 500, 300 mà cũng có người 30 đồng 20 hay chỉ 10 đồng mỗi tháng… Từng bàn tay, rồi từng bàn tay của toàn dân cùng trách nhiệm, cùng tự nguyện, cùng xây dựng. Chúng tôi học tổ chức làm việc trong tình thương – tự nguyện và trách nhiệm, cùng dân quê làm chung, xây dựng những gì thực tiễn cho con em để cùng lập những cộng đồng có tu, có học, giúp đỡ nhau. Chúng tôi gọi đó là “cách mạng” không bằng lời mà bằng hành động. Tôi chỉ được phép nói 20 phút, nhưng các vị tu sĩ ấy hơi giật mình. Bất bạo động không phải lý thuyết. Tình thương, lòng khát khao đem hạnh phúc đến cho mọi người không thể bằng chiến tranh vũ khí. There is no way to Peace, Peace and Love are the way – Không có con đường dẫn đến bình an, bình an và tình thương là con đường. Cuối cùng ai cũng ngộ ra rằng chỉ có tình thương, trách nhiệm và tự nguyện mới giúp ta tiến từng bước giúp người. Giáo sư Jean Goss-Mayr rất tương đắc những điều tôi nói. Sau khi tôi nói xong, Jean bèn lên trình bày rất hùng hồn: “mình là người lãnh đạo tinh thần quần chúng thì chỉ có con đường bất bạo động mới gần được với Ky Tô”. Tuy cùng một ý nhưng cách trình bày của anh thật khác cách của tôi, khiến cho quý cha khúc khích cười nhỏ, xầm xì: “Jean nói cái gì cũng trúng hết, cái gì cũng bất bạo động hết, chỉ có cách trình bày của anh là rất bạo động mà thôi!”Có lẽ vì Jean bực mình các linh mục chỉ tin vào sự giải quyết bằng cây súng và vũ khí nên đã phản ứng hơi mạnh!
Vừa xong Đại Hội ở Costa Rica, tôi được điện tín Thầy báo là Thầy đang ở Canada, sau khi trình bày với quốc hội Canada về tình hình Việt Nam thì Thầy bị chánh quyền Việt Nam Cộng Hòa vô hiệu hóa hộ chiếu. Thầy cần tôi bay về Pháp trước chuẩn bị đón Thầy vì nếu lỡ rủi ro mà Thầy bị bắt ở phi trường thì gọi Le Monde, Agence France Presse họp báo ngay. Thầy kể khi đi ngang phi trường Atlanta chờ đổi máy bay, họ không cho Thầy vô, bỏ Thầy vào phòng quarantine như những tên tội phạm. Nhìn lên tường, đâu cũng thấy đầy những bản “wanted” nghĩa là “đang truy nã thủ phạm này”.
Cuối cùng Thầy bay được về tới phi trường Paris bình an và phải xin giấy tị nạn tại Pháp.
Sau Costa Rica, tôi đi thêm các nước Âu Châu nữa. Lại đi Đan Mạch, Na Uy, làm bạn với giáo sư Ernest Arneness, đi gặp dân biểu quốc hội này, ông chánh đảng chính trị kia ở Thụy Điển, Tây Đức và Vương quốc Bỉ… Tôi đi như trong những giấc mơ. Gặp các ông bộ trưởng, các nhà thần học, các văn nhân nghệ sĩ tiếng tăm để làm gì? khi mà đồng bào tôi vẫn chạy dưới đạn bom.
International Committee of Conscience on Vietnam (ICCV) hay Ủy Ban Lương tâm Quốc Tế về Việt Nam và chiến dịch Ngưng Giết Ngay – Stop the Killing Now
Nhân một buổi thiền trà sáng, Thầy bàn phải làm cái gì nữa chứ không thể để chiến tranh kéo dài mãi. Thầy trò quyết định làm một cuộc vận động gọi là “Stop the Killing now!” và đề nghị hội đoàn chủ trương là International Committee of Conscience on Vietnam (ICCV), hội đoàn mà bác Alfred Hassler cùng với một số nhân sĩ trên các nước có chi nhánh FOR đã thành lập theo lời đề nghị của Thầy. Hội ICCV chuẩn bị chiến dịch này trong nhiều tháng và quyết định tung chiến dịch bằng một cuộc họp báo tại Paris ngày 11 tháng 10 năm 1971. Cùng ngày này, ICCV cho in nguyên một trang lớn trên nhật báo New York Times chữ ký của 9.000 nhân sĩ trong 22 nước, từ những danh nhân nghệ sĩ như Joan Baez, Graeme Allwright, Claude Nougaro, những vị lãnh đạo tinh thần của nhiều tôn giáo, chính khách của nhiều chính quyền… cùng ký tên kêu gọi “chấm dứt sự giết chóc ngay bây giờ”. Trong số nhân sĩ của 22 nước này có đến năm trăm (500) nghị sĩ quốc hội nhiều nước và trong đó có mười tám (18) nghị sĩ Việt Nam Cộng Hòa nữa!
Trong buổi họp báo tại Hotel Lutèce Paris, chúng tôi mời được một số nhân sĩ đến từ nhiều nước như Anh Quốc, Đức, Hà Lan, Pháp, Việt Nam, Ý, Áo, Thụy Sĩ, v.v.. để cùng đi thăm bốn phe lâm chiến đang ngồi hoài trong bàn hội nghị mà cuộc thương thuyết thì kéo mãi chưa xong. Các nhân sĩ trong chiến dịch Stop the Killing Now này xin hẹn để đi thăm từng đại diện trong bàn Đàm Phán Paris cho Việt Nam: 1/ Việt Nam Cộng Hòa, 2/ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, 3/ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và 4/ Phái Đoàn Hoa Kỳ. Cùng đi với phái đoàn nhân sĩ của ICCV thì phải có Phái Đoàn Phật Giáo Việt Nam là thầy Nhất Hạnh, tiến sĩ Nguyễn Văn Hướng, giáo sư Cao Ngọc Phượng…
Chúng tôi cùng vào chung với các nhân sĩ của ICCV như nhà thần học Hannes De Graaf, tiến sỹ Heinz Kloppenburg, tiến sỹ Maria Lucker, tiến sỹ Howard Shomer, nhà báo Jim Forest, giáo sư Jean Goss-Mayr, Kenneth Lee… để gặp Phái đoàn Miền Bắc, Phái Đoàn Việt Nam Cộng Hòa Miền Nam, Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và ngồi lắng nghe mỗi phái đoàn lâm chiến trình bày. Sau đó các nhân sĩ ICCV quay lại xin Thầy chia sẻ cái thấy của Phật Giáo về quan điểm của từng phe lâm chiến. Thầy nói rất ôn tồn, đánh giá cao thiện chí của mỗi phái đoàn, phân tích điểm nào gần thực tại Việt Nam, điểm nào xa thực tế văn hóa và lịch sử Việt Nam và khuyến khích mỗi đoàn nên trình bày lại cho chính phủ phía họ nên nhượng thêm một bước nữa để sớm đi đến thỏa hiệp. Những lời này, nếu không có các nhân sĩ ngoại quốc cùng ngồi đó lắng nghe thì chắc chắn sẽ không được đếm xỉa.
Cùng ngày, bác Alfred Hassler và chị Heidi Vaccaro ở Rome đã tổ chức được cho 300 thầy tu Công giáo đi diễn hành trên đường phố Rome, mỗi cha mang tên một thầy tu Phật giáo Việt Nam đang nhịn ăn cầu nguyện cho Hòa Bình ở khám Chí Hòa Sài Gòn. Báo chí nói khá nhiều về tin này trên nhiều nước. Và một tuần sau thì chính quyền Miền Bắc có những điểm đề nghị mới, rồi chính quyền Miền Nam cũng vậy. Các điểm đề nghị chấm dứt chiến tranh của bốn phe lâm chiến đến gần nhau hơn chứ không xa như trước. Vai trò Phái Đoàn Hòa Bình của Phật Giáo là khuyến khích bằng áp lực quốc tế để bốn bên cuối cùng phải đi tới giải pháp chấp nhận ký Hòa Ước vào tháng 3 năm 1973 tại Paris.
Tên cướp trên xa lộ và cô gái bị hãm hiếp
Năm 1972, World Council of Church WCC (Hội Đồng các nhà thờ Tin Lành trên toàn thế giới) trụ sở tại Genève có mời Hòa Thượng Huyền Quang, Tổng Thư Ký Viện Hóa Đạo GHPGVNTN và Thượng Tọa Thích Nhất Hạnh, đại diện Phái Đoàn Hòa Bình của GHPGVNTN. Tiến sĩ Nguyễn Văn Hướng, sư chú Thanh Hương và giáo sư Cao Ngọc Phượng được mời làm phụ tá hai vị này. Đây là một cuộc gặp mặt quan trọng của các nhân sĩ tôn giáo để tìm một lập trường chung cho Việt Nam. Tại Hội Nghị, mục sư Leopold Niilus, đại diện WCC đặc trách cho Việt Nam đã đề nghị Hội Đồng Các Nhà Thờ trên thế giới nên có lập trường rõ rệt hơn về Việt Nam, chỉ nên ủng hộ những người bị áp bức thôi: “Thưa quý vị, tình trạng của Việt Nam hiện nay là chỉ có tên tướng cướp đang hãm hiếp một cô gái trên xa lộ. Chúng ta phải rõ ràng, nhà thờ nên đứng về phe tên tướng cướp hay về phe cô bé bị hãm hiếp? Cô gái bị hãm hiếp là dân Việt Nam và tên cướp trên xa lộ là quân đội tàn bạo của Hoa Kỳ. Cô gái bị hãm hiếp là dân Việt Nam đang tranh đấu một cách tuyệt vọng với tên tướng cướp Hoa Kỳ, ta phải làm gì và làm ngay đi.” Có lẽ mục sư Niilus thuộc vào số những vị tu sĩ Nam Mỹ theo chủ trương “Thần Học Giải Phóng” (Theologians of Liberation) nên có lòng thương rất lớn với người bị áp bức. Thầy trò chúng tôi đều thấy thế và cũng rất đồng ý với mục sư, nhưng trong tôi vẫn thấy có cái gì rất trật nếu chỉ ủng hộ chính quyền Hà Nội và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam mà thôi. Cảm thấy thế nhưng tôi chưa nghĩ ra cách ăn nói ra sao thì Thầy chúng tôi đã được mời cầm micro. Thầy từ bi nhìn mọi người mỉm cười: “Cảm ơn mục sư lắm, chúng ta ai cũng phải đứng về phe cô gái bị hãm hiếp ngay, không do dự. Tuy nhiên cách tu tập của chúng tôi là tập nhìn sâu từng việc. Chúng tôi tập nhận diện ai là tướng cướp và ai là cô gái bị hãm hiếp. Với tôi, tên tướng cướp là cái ác tâm của những người đang ung dung ngồi ở Nhà Trắng Hoa Kỳ, ở Điện Cẩm Linh Nga, ở Bắc Kinh Trung Quốc và ngay ở Hà Nội Việt Nam, đã cung cấp những tin tức không đúng sự thật, bóp méo sự thật, đã cung cấp vũ khí và lý thuyết của chủ nghĩa thiên đàng của họ, và dấu nhẹm sự thật với quần chúng của họ. Tên tướng cướp là cái ác của những người ra lệnh ép buộc gửi ra chiến trường những đứa con trai thiên thần của quê hương, biến những thanh niên ngây thơ, trái tim còn nóng bỏng sự hy sinh tha thiết cho một cái gì đẹp và lành nhất cho cuộc đời thành những kẻ giết người thành thạo, tập bắn vào đầu anh em đồng loại của họ, những người cũng cùng có một trái tim yêu thương như họ. Đối với chúng tôi, cô gái bị hãm hiếp không phải chỉ là những bà mẹ, những người nông dân lam lũ chạy dưới đạn bom mà còn chính là những binh sĩ cả Miền Bắc lẫn Miền Nam trái tim còn thơm mùi yêu thương, không biết sự thật là mình đang bị đưa vào một guồng máy rất vô lý, nghiến nát tính người của mình, đang bị gửi ra chiến trường để giết những người lính Hoa Kỳ không vì quyền lợi thực dân như người Pháp đô hộ Việt Nam xưa mà chỉ vì muốn đem lại tự do cho dân Việt. Cô gái bị hãm hiếp ấy cũng là những người lính Mỹ hoàn toàn không biết sự thật gì về Việt Nam, ra đi đáp lời kêu gọi giải phóng cho dân Việt Nam khỏi nạn độc tài tàn ác.” Cả thính đường thật im lặng và cảm động.
Ông Chủ Tịch Hội Đồng Nhà Thờ đã đứng dậy cám ơn Phái Đoàn Phật Giáo Việt Nam và long trọng hứa sẽ ủng hộ hết lòng tiếng nói của Phái Đoàn PGVNTN