Không sợ hãi

Hầu hết chúng ta ai cũng đã trải qua những giây phút hạnh phúc lẫn khó khăn trong cuộc sống. Tuy nhiên có nhiều người ngay lúc đang vui sướng nhất mà lòng vẫn trĩu nặng lo sợ, sợ ngày vui sẽ qua mau, sợ không như mong cầu, sợ phải xa cách người thương và một nỗi sợ lớn nhất, sợ thân xác mình sẽ tàn hoại. Cho nên ngay lúc biết bao điều kiện của hạnh phúc có đó niềm vui vẫn không trọn vẹn.

Chúng ta cứ nghĩ rằng để được hạnh phúc thì phải tránh né hay quên đi lo sợ. Chúng ta không mấy thoải mái khi phải nghĩ đến những gì đã làm cho ta lo sợ, rồi chúng ta chối bỏ: “Thôi! Thôi! Tôi không muốn nghĩ tới chuyện đó!” Chúng ta nhắm mắt làm ngơ nhưng lo sợ vẫn còn đó trong ta.

Cách duy nhất để bớt đi lo sợ và thật sự hạnh phúc là nhận diện lo sợ và quán chiếu gốc rễ của lo sợ. Thay vì tránh né, ta sử dụng khả năng tỉnh giác và quán sát tinh tường.

Chúng ta lo sợ những gì ngoài tầm kiểm soát của ta. Chúng ta sợ bệnh, sợ già, sợ mất đi những gì mà ta trân quý. Chúng ta cố ôm giữ địa vị, tài vật và người thương. Nhưng ôm giữ không giúp bớt lo sợ. Trước sau gì sẽ có một ngày chúng ta phải buông bỏ tất cả. Chúng ta không thể mang địa vị, tài vật, người ta thương theo chúng ta mãi.

Chúng ta có thể nghĩ rằng nếu làm ngơ lo sợ thì lo sợ sẽ tan biến. Nhưng nếu cứ làm ngơ, cứ chôn chặt lo sợ vào lòng thì lo sợ vẫn ở đó và luôn làm ta căng thẳng. Chúng ta cảm thấy bất lực. Nhưng chúng ta có khả năng quán chiếu, nhìn sâu vào lo sợ và từ đó, lo sợ không còn khống chế được ta. Chúng ta có khả năng chuyển hóa lo sợ. Thực tập sống tỉnh thức từng giây phút hiện tại, ta gọi đó là CHÁNH NIỆM, sẽ giúp ta can đảm đối diện lo sợ và không còn bị lo sợ bức bách. Chánh niệm có nghĩa là nhìn sâu, là ý thức “tự tính tương tức” (true nature of interbeing) của vạn vật và ý thức rằng không có gì sẽ mất đi.

Một năm trong thập niên 60, tôi đến sân bay Buôn Ma Thuột chờ một máy bay tiếp tế quân sự để đi nhờ ra Đà Nẵng. Tôi đang ngồi chờ một mình trong sân bay vắng người thì có một sĩ quan Mỹ đến ngồi gần. Ông ta cũng chờ đi cùng một chuyến bay với tôi. Nhìn người sĩ quan Mỹ, tôi nhận ra đó là một sĩ quan trẻ. Bỗng nhiên tôi thấy thương hại anh ta: “Tại sao anh ta phải đến Việt Nam để giết người và để bị giết?” Tôi hỏi anh ta: “Chắc anh sợ Việt Cộng lắm phải không?” Câu hỏi ấy phát xuất từ lòng thương của tôi. Không may là tôi đã không khéo léo khi hỏi câu hỏi đó. Câu hỏi của tôi đã khơi dậy nỗi sợ hãi nơi người sĩ quan trẻ. Nghe tôi hỏi, anh ta lập tức đặt tay lên khẩu súng bên hông và hỏi lớn: “Anh có phải là Việt Cộng không?”

Trước khi đến Việt Nam, viên sĩ quan này đã được cho biết rằng: “Tất cả những người Việt Nam, người nào cũng có thể là Việt Cộng”. Bất cứ quân nhân Mỹ nào cũng sợ điều đó. Đàn bà, con nít, thậm chí thầy tu đều có thể là Việt Cộng. Quân nhân Mỹ được nhồi sọ như vậy và họ thấy kẻ thù khắp nơi. Tôi đã thể hiện sự cảm thương với người lính, nhưng ngay khi nghe nói đến hai chữ Việt Cộng, anh đã hoảng hốt và đặt tay vào súng. Lúc đó, tôi đã cố gắng bình tĩnh, theo dõi hơi thở chậm rãi và trả lời: “Không! Tôi ra Đà Nẵng để xem xét tình hình bão lụt ngoài ấy để coi có thể giúp ích được gì.” Lời nói của tôi bộc lộ thiện cảm của tôi. Rồi tôi tâm sự với anh ta rằng chiến tranh đã tạo ra biết bao nạn nhân không chỉ cho Việt Nam mà cho cả Mỹ. Viên sĩ quan đã dần lấy lại bình tĩnh và chúng tôi đã có thể chuyện trò với nhau. Nếu tôi phản ứng vì sợ hãi, hoảng hốt thì viên sĩ quan đã rút súng bắn tôi cũng vì sợ hãi, hoảng hốt. Vì vậy không nên nghĩ rằng nguy hiểm chỉ đến từ bên ngoài. Nguy hiểm có thể đến từ bên trong. Nếu chúng ta không tỉnh thức và biết nhìn sâu vào gốc rễ của lo sợ thì chúng ta có thể tạo ra nguy hiểm cho chính chúng ta. 

Tất cả chúng ta ai cũng từng lo sợ, nhưng nếu chúng ta biết nhìn sâu vào lo sợ thì ta có thể giải tỏa lo sợ và tìm lại nguồn vui. Lo sợ khiến chúng ta chú tâm về quá khứ hoặc lo lắng cho tương lai. Nếu chấp nhận lo sợ thì ta khám phá ra rằng ngay lúc này, hôm nay đây ta còn sống, cơ thể ta đang hoạt động diệu kỳ, mắt ta đang thấy được trời xanh, tai ta còn nghe được tiếng nói của người ta thương.

Bước thứ nhất của sự quán chiếu lo sợ là nhận diện mà không phán xét. Hãy nhận diện với tâm bình thản rằng lo sợ đang có đó trong ta, như thế cũng đủ để vơi bớt lo sợ rất nhiều. Tiếp theo, khi lo sợ đã lắng dịu, chúng ta ôm ấp niềm lo nỗi sợ một cách êm dịu và nhìn sâu vào nguồn gốc của lo sợ. Hiểu được nguồn gốc của lo sợ, ta buông bỏ được lo sợ. Hãy tìm hiểu xem lo sợ là do nguyên nhân hiện tại hay là do nguyên nhân từ xa xưa, từ khi ta còn nhỏ, mà ta đã ôm chặt trong lòng cho tới bây giờ? Khi chúng ta sử dụng chánh niệm để đối diện lo sợ thì chúng ta sẽ ý thức rằng chúng ta đang sống, rằng chúng ta còn có những gì ta trân quý và yêu thích. Nếu không phí thì giờ đè nén, bận tâm vì lo sợ, ta sẽ có thì giờ vui hưởng nắng ấm, trời trong, gió lành. Nếu quán chiếu sâu sắc và tỏ tường lo sợ thì ta sẽ khám phá ra rằng ta có thể sống một cuộc đời đáng sống.

Nỗi lo sợ lớn nhất là sợ rằng khi chết ta không còn là gì nữa. Để thực sự giải thoát khỏi nỗi sợ đó, ta phải nhìn sâu dưới cái nhìn bản môn (ultimate dimension) để thấy được bản chất không sinh không diệt của ta. Phải từ bỏ định kiến rằng ta chỉ có một thân xác này và nó sẽ tàn hoại khi ta chết. Hiểu rằng ta không chỉ là một thân xác, rằng ta không đến từ hư không và sẽ tan biến vào hư không. Hiểu như thế ta sẽ giải thoát khỏi lo sợ.

Đức Bụt là một con người như tất cả chúng ta. Ngài cũng đã từng lo sợ nhưng ngài thường xuyên thực tập chánh niệm và quán chiếu sâu sắc cho nên ngài đã bình thản khi đối diện lo sợ. Kinh chép rằng một hôm Bụt đang đi thì Angulimala, một tên giết người khét tiếng đuổi theo ngài và hô lớn bảo ngài dừng lại nhưng Bụt vẫn tiếp tục chậm rãi bình thản bước. Angulimala đuổi kịp Bụt và lớn tiếng hỏi tại sao ngài không chịu dừng lại. Đức Bụt trả lời: “Angulimala, ta đã dừng lại từ lâu, chỉ có ngươi là không dừng lại”. Và Bụt giải thích tiếp: “Ta đã dừng những hành động gây đau khổ. Tất cả các loài chúng sinh đều ham sống, sợ chết. Chúng ta phải nuôi dưỡng lòng thương và bảo vệ sự sống của mọi loài.” Angulimala tỉnh ngộ và xin Bụt giảng tiếp. Cuối cùng, Angulimala thề sẽ không bao giờ giết chóc, bạo ngược và xin Bụt xuất gia. 

Tại sao Đức Thế Tôn có thể bình tĩnh trước một tên giết người? Đây là một câu chuyện hiếm có nhưng tất cả chúng ta hằng ngày đều đã đối diện với hết lo sợ này đến lo sợ khác. Thực tập chánh niệm mỗi ngày có thể giúp ích rất nhiều. Với hơi thở, với tỉnh thức, chúng ta có thể đối xử với bất cứ điều gì xảy đến cho ta. Không sợ hãi không chỉ là thói quen tốt mà còn là một niềm vui thâm diệu. Mỗi khi tâm ta không có sợ hãi, ta được tự do. Nếu đang trên máy bay mà phi công báo cho biết máy bay bị hư và có thể rơi xuống, tôi trở về với hơi thở chánh niệm. Tôi hy vọng bạn cũng thực tập hơi thở chánh niệm như tôi lúc đó. Đừng đợi tới lúc gặp nguy hiểm mới bắt đầu thực tập chuyển hóa lo sợ và sống chánh niệm. Không ai có thể cho ta sự không sợ hãi. Ngay khi có đức Bụt ngồi đó bên cạnh, ngài cũng không thể cho bạn sự không sợ hãi. Nếu bạn tập được thói quen chánh niệm thì khi gặp khó khăn, bạn sẽ biết là bạn phải làm gì.

Phật đản 2023

Ai bảo rằng Ưu Bát Đa La triệu năm mới nở một lần?

Nắng đã lên. Chim chóc đã bắt đầu ca hát. Nắng đang xuyên qua những chiếc lá non. Nắng và lá đẹp lạ lùng. Sáng nay, chúng ta có thể nở ra như một bông hoa. Bông hoa đó chính là đức Bụt sơ sinh. Và đức Bụt sơ sinh đang chờ ta trước ngõ. Ta đã ra tới sân, ta nhìn thấy nó, nó đã nở cho ta, tại sao ta không nở cho nó? Ta có thể mở trái tim ra, nhìn vào bông hoa, ta thở và thầm nói: Bông hoa ơi, cám ơn bông hoa có mặt ở đó, tôi rất hạnh phúc. Ngay lúc đó ta nở ra như một bông hoa và mang bông hoa đó hiến tặng cho những người mà ta thương yêu. Vì mỗi người đều có tính Bụt ở trong lòng. 

Vào ngày 11.05.2023, bốn chúng thuộc Đạo tràng Mai Thôn đã vân tập tại chùa Pháp Vân, xóm Thượng, Làng Mai, Pháp để cùng nhau thực hiện nghi thức tắm Bụt. Buổi lễ diễn ra thật trang nghiêm và ấm cúng. 

Dưới đây là một số hình ảnh, xin mời mọi người cùng nhau tận hưởng những giây phút bình an này.  

 

Gương mặt con trước khi mẹ sinh ra

Thầy Trời Ruộng Pháp, người Bồ Đào Nha, xuất gia năm 2019 trong gia đình Cây Bạch Quả. Dưới đây là bài viết của thầy được dịch từ tiếng Anh.

Ngày 30 tháng 7 năm 2022 là ngày mà bà ngoại con đã chọn để rũ bỏ tấm thân bụi trần.

Khoảng sáu tháng trước ngày ấy, con được tăng thân cho phép về lại Bồ Đào Nha để có mặt yểm trợ cho bà và gia đình. Bà của con bị đột quỵ đã một vài năm. Và dù đã phục hồi lại một phần nào, bà khó có thể tự chăm sóc mình như trước, nhất là khi bà bị mất trí nhớ. Căn bệnh này khiến cho bà không thể nào sống một mình mà không có người săn sóc.

Năm trước con đã có cơ hội về thăm bà vài tuần. Đó cũng là lần đầu tiên con về nhà với hình tướng của một người xuất sĩ. Bệnh mất trí của bà trở nặng và bà cũng không còn nhận được ra con. “Bà biết con là người nhà, nhưng bà chẳng biết tên con và cũng không biết con là ai”, bà nói. Ngày qua ngày, bà thường gọi con là “Chú tiểu” hoặc là “Cha xứ” mà không bao giờ nhắc đến con như cháu trai của bà. Dù cho nhiều lúc con cảm thấy buồn khi chứng kiến sự sa sút về sức khỏe thân tâm của bà. Bản năng cho con biết rằng tình thương chính là ngôn ngữ hiệu quả nhất mà con có thể truyền tải tới bà. Có thể bà cũng thấy quen thuộc với nguồn năng lượng thương yêu này vì chính bà là người trao truyền nó cho con và cho bất kỳ ai mà bà có cơ hội tiếp xúc. Một tình thương và lòng rộng lượng không ngằn mé.

Chỉ trong 5 tháng, tình hình sức khỏe của bà ngày càng xấu đi. Bà nằm liệt giường, gầy mòn và đau đớn. Khả năng nhận thức cũng thuyên giảm nhanh chóng. Ngay khi đặt chân về đến nhà, con đã cảm nhận ngay năng lượng trầm cảm và u buồn của cả nhà. Bầu không khí nặng nề và ảm đạm, đầy đau khổ và lo lắng. Đây cũng là lần đầu tiên mà mẹ con tắt hẳn nụ cười và thay vào đó là những dòng lệ khi thấy con trở về.

Nhờ được học về giáo lý duyên khởi “mọi thứ đều do nhân duyên mà phát sinh, không có gì có thể tự nó sinh ra và mất đi” đã giúp cho con dừng lại và quán chiếu sâu sắc hơn.

Con thở với ý thức là những gì con đang được chứng kiến có gốc rễ sâu dày và phức tạp hơn là những gì biểu hiện trước mắt con.

Biết rằng chỉ có thật sự tiếp xúc với giây phút hiện tại mới có thể giúp mình học hỏi và lớn lên, con xem khổ đau chính là cái mà con cần học và bà là người thầy dạy con về bài học này. Dù như thế nào, con hứa với lòng là sẽ duy trì ý thức về Năm điều tâm niệm:

  • Tôi thế nào cũng phải già nua, tôi không thể nào tránh thoát được sự già nua.
  • Tôi thế nào cũng phải bệnh, tôi không thể nào tránh thoát được cái bệnh.
  • Tôi thế nào cũng phải chết, tôi không thể nào tránh thoát được cái chết.
  • Tất cả những người tôi thương yêu và tất cả những gì tôi trân quý hôm nay, một mai này tôi đều phải xa lìa và buông bỏ; tôi không thể nào tránh thoát được giờ phút xa lìa và buông bỏ ấy.
  • Tôi là kẻ thừa tự những nghiệp quả do thân, miệng và ý của tôi tạo nên, và những nghiệp quả ấy là cái duy nhất tôi có thể mang theo với tôi sau này.

Sau tất cả, tuổi già, bệnh tật và cái chết sẽ trực tiếp mở ra trước mắt con. Làm sao mà con không giữ ý thức về nó cho được?

Ngày tháng dần trôi, con có mặt và chăm sóc cho bà một cách trọn vẹn. Mặc dù, hàng tuần đều có những nhân viên xã hội tới phụ giúp nhưng chúng con vẫn luôn túc trực và yểm trợ bà về mọi mặt.

Con nhận ra rằng con có liên hệ mật thiết và rất dễ bị tác động bởi môi trường mà con đang sống, những khổ đau của bà, của mẹ, của gia đình cũng như của xã hội. Những luồng tin tức không ngừng nghỉ trên báo đài, sự hối hả của dòng đời, và những cuộc trò chuyện vô nghĩa. Con mất dần khả năng kết nối với ước nguyện sâu sắc trong lòng mình, ước nguyện chữa lành những tổn thương do sang chấn tâm lý trong chính con cũng như trong cộng đồng.

May mắn thay, con luôn có cơ hội quay về với sự thực tập. Con thấy mình thật có phước khi được làm đệ tử của Thầy. Lời dạy của Thầy rất cụ thể và được truyền tải một cách giản dị. Con hiểu rằng sự đơn giản này đến từ sự thực chứng sâu sắc trong suốt cuộc đời thực tập của Thầy. Càng thực tập lâu bao nhiêu thì những lời Thầy dạy càng trở nên đơn giản và sâu sắc bấy nhiêu.

Con thấy biết ơn những thực tập căn bản hằng ngày. Nhờ sự thực tập mà con luôn tiếp xúc được với suối nguồn trị liệu. Con không phải làm gì hơn ngoài việc áp dụng sự thực tập vào đời sống, vào những công việc con làm hằng ngày. Ý thức về hơi thở, biết rằng mình đang bước đi là đủ. Chỉ đơn giản để ý về những gì xảy ra cho thân thể, cho cảm thọ, cảm xúc và tri giác, con có mặt, kết nối với bà và mẹ sâu sắc hơn. Ngay cả khi trong những giây phút rất thử thách, con thấy mình có nhiều chất liệu vững chãi và sáng suốt. Con thấy được rõ ràng hướng đi cũng như năng lượng vô úy trong mình.

Bệnh tật và chết chóc là những thứ không đẹp chút nào. Xã hội luôn cố gắng làm nó sạch sẽ và đẹp đẽ. Những xác chết được làm đẹp và chải chuốt sao cho giống với lúc họ còn sống. Chúng được khử trùng. Nhưng giờ đây trước mặt con, cơ thể bà chỉ còn lại da bọc xương, khô héo, chằng chịt những vết tích của một đời nghèo khó, cơ cực. Người ta sẽ làm đẹp cho bà như thế nào vào ngày bà quyết định ra đi?

Từ vùng đất Angola đến với đất nước Bồ Đào Nha, những kí ức của cuộc đời được bà lưu giữ trong xương thịt nhiều hơn là trí năng, cái mà giờ đây đang bị ảnh hưởng bởi chứng mất trí nhớ. Dù trong đau đớn và hoang mang, bà vẫn biểu hiện được tình thương vô bờ bến và sự rộng lượng. Đôi lúc, khi phải xoay người bà lại, bà có thể hét lên vì đau đớn và thậm chí tức giận với chúng con nhưng khoảnh khắc sau đó đã dành cho chúng con những cái ôm hôn đầy yêu thương. Con thấy mình cũng có tất cả những hạt giống đó: hạt giống của giận dữ, hoang mang, của tình thương sâu và tính bao dung, vị tha. Và con cũng biết rằng, bà sẽ trút hơi thở cuối cùng vào bất kì lúc nào.

Vào ngày 30 tháng 7 năm 2022, bà đã qua đời ở tuổi 92. Trước ngày được đưa đi cấp cứu trong tình trạng nhiễm trùng phổi nặng, bà đã ngừng ăn uống và hơi thở đã trở nên khó nhọc. Những dấu hiệu đó cho con biết trước rằng bà sẽ không trở về lại nhà trong hình hài này nữa.

Con cảm thấy rất may mắn khi được có cơ hội ở bên cạnh bà vào giờ phút cuối. “Bà ơi”, con gọi khi nhìn thân hình bé nhỏ, teo tóp của bà trên giường bệnh ở hành lang phòng cấp cứu. Trong tư thế nằm của bào thai, bà quay sang nhìn con với đôi mắt trong veo màu nâu sẫm, gần như đen. Giây phút đó bà hoàn toàn có mặt. Lần này, con thấy rằng bà thật sự nhận ra con. Con cảm nhận được sự kết nối sâu sắc qua ánh mắt chăm chú mà bà nhìn con. Cái nhìn của bà tự nhiên, thẳng thắn và tỉnh táo. Hai bà cháu duy trì sự truyền thông không lời này trong chốc lát. Giây phút ngắn ngủi đó bà đã có mặt trọn vẹn cho con.

Sau đó, bà hơi ngước mắt lên, mí mắt nhắm lại từ từ và rồi xoay mặt qua hướng khác, cố gắng thở một cách khó nhọc. Con dịu dàng ôm lấy bà. Nước mắt con lăn xuống mặt bà. Con thì thầm vào tai bà: “Không sao đâu bà, bà không cần cố gắng tranh đấu để sống nữa. Con thương bà lắm! Tất cả chúng con đều thương bà. Bà có thể buông sự đấu tranh đó xuống ngay bây giờ. Bà đã sống một cuộc đời rất dài và để lại một gia đình rất đẹp. Chúng con là sự tiếp nối của bà. Bà sẽ tiếp tục sống trong chúng con. Bà đã chiến đấu quá nhiều trong suốt cả cuộc đời mình. Không cần tranh đấu nữa. Bây giờ bà có thể nghỉ ngơi rồi”. Khi rời bệnh viện vào tối hôm đó, con biết rằng con sẽ không nhìn thấy sự sống hiển hiện trong hình hài của bà nữa.

Bà ơi, bà đang ở chốn nao?
Sao người ẩn mình sau gương mặt con?
Bà có nghe chú chim hồng tước
Đang véo von trên cành Pitanga.

Tang lễ diễn ra đơn giản và nhanh chóng. Gia đình con không muốn bất kì một nghi thức tôn giáo nào được thực hiện. Không có cha xứ hay biểu tượng tôn giáo nào trong tang lễ.

Từ lâu, gia đình con đã mất niềm tin vào Nhà thờ Công giáo. Con là người duy nhất đem khía cạnh tâm linh biểu hiện trong giây phút linh thiêng ấy của tang lễ. Con đắp y đứng yên lặng ở đó với nước mắt lưng tròng, nhẹ nhàng chú tâm vào hơi thở. Nhìn sâu vào thân thể cứng đơ, lạnh ngắt và không còn sức sống của bà, con thấy rằng bà không phải chỉ là hình hài đó.

Vào giờ phút cuối cùng của sự tiễn biệt, mẹ con đặt tay lên vầng trán lạnh giá của bà, trong khi những thành viên khác vây quanh quan tài thành một vòng tròn. Khoảnh khắc đó con ước rằng mọi người có thể thấy được điều con thấy: Bà vẫn tiếp tục có mặt trong mỗi tế bào cơ thể của con cháu. Sự tồn tại của bà không bị giới hạn bởi hình hài đang nằm kia. Nếu chúng con lấy yếu tố “bà” ra khỏi mình, chúng con sẽ tan biến ngay lập tức.

Trước sự ngạc nhiên của con, mọi người trong gia đình đề nghị con hiến tặng một điều gì đó cho bà, ngay trước thời điểm thi thể bà chuẩn bị được hỏa táng. Con mời mọi người có mặt trong giây phút mất mát cùng với nhau, chỉ đơn giản là theo dõi hơi thở và tiếp xúc với sự quý giá của cuộc sống. Con vừa thỉnh chuông vừa tụng kinh bằng tiếng Bồ Đào Nha. Gia đình con cảm thấy xúc động và biết ơn. Con cũng vậy. Và chiếc quan tài được châm lửa, dần biến mất khỏi tầm mắt. Chỉ còn lại tro tàn.

Chỉ khi con bừng tỉnh
Dù trong một sát na
Xúc chạm với sự sống
Sợ hãi liền tan biến
Mọi sầu khổ rụng rơi.

Mong ước sâu sắc nhất của con là những gì con đã trực tiếp kinh nghiệm trước sự ra đi của bà có thể giúp con thấm nhuần về vô thường và tương tức, để con hiến tặng được món quà vô úy cho người khác. Con đã bỏ lỡ cơ hội này khi cha con mất. Lúc đó, ở tuổi 18, con không thể có mặt cho nỗi đau khổ của con cũng như của những người xung quanh. Con không thể có mặt cho cha. Giờ đây con có cơ hội để chữa lành quá khứ trong giây phút hiện tại. Con có cơ hội chia sẻ về sự cao quý của khổ đau (khổ đế). Bởi vì nếu con biết sử dụng chất bùn của khổ đau thì biết bao loài hoa trong khu vườn tâm sẽ có khả năng nở rộ. Cuộc sống sẽ trở nên nhiều màu sắc, phong phú và quý giá hơn.

Sự sống vẫn tiếp diễn và con vẫn bắt gặp mình đang tìm kiếm dáng hình quen thuộc của bà. Con cố gắng tập cho mình nhìn thấy bà trong chiếc lá sồi đỏ, đang lén nhìn con và mỉm cười. Chiếc lá hỏi con rằng: “Cháu yêu, cháu có đang để ý không? Cháu có thấy được sự có mặt của bà nơi đây? Còn ở đằng kia nữa? Cháu không thấy bà đang nháy mắt với cháu qua tấm gương mà cháu soi mỗi sáng khi thức dậy sao? Cháu có cảm nhận được bà đang hiện diện trong lòng bàn chân mỗi khi cháu có mặt cho những bước chân của mình không? Chỉ cần để tâm hơn chút xíu nữa, cháu sẽ thấy rằng bà là đôi chân cháu và cũng là đất mà cháu đang giẫm lên”.

Con có thể thấy Người trong mắt con,
Và với mắt Người,
Con thấy con.

Thực tập

Chuông chánh niệm

Nhiều khi sử dụng máy vi tính, chúng ta mải say mê công việc, và quên trở về tiếp xúc với chính mình. Hoặc khi nói chuyện, chúng ta không chú tâm mà chỉ mải mê tán hươu tán vượn, chỉ trích này nọ, than vãn đủ điều, nói lời thiếu chánh niệm.

Chúng ta có thể cài đặt vào máy vi tính một ứng dụng để cứ 10–15 phút phát lên một tiếng chuông giúp ta có cơ hội tạm dừng và trở về với chính mình. Ba hơi thở khi đó là đủ để giải tỏa căng thẳng, và tiếp tục làm việc với nụ cười trên môi.

Uống trà trong chánh niệm

Uống trà là một cơ hội tuyệt vời để có thì giờ trở về truyền thông với chính mình. Khi tôi uống trà, tôi chỉ uống trà. Tôi không phải suy nghĩ gì. Tôi ngưng mọi suy nghĩ khi uống trà. Khi ngưng suy nghĩ tôi có thể để tâm vào chén trà. Chỉ có trà và chỉ có tôi. Tôi không cần một máy điện thoại để nói chuyện với trà. Quả vậy, vì tôi không phải sử dụng điện thoại cho nên tôi có thể tiếp xúc với trà. Chỉ cần thở vào một hơi thở và tôi ý thức hơi thở của tôi có đó, cơ thể tôi có đó và ý thức tách trà có đó.

Dành thì giờ để uống một tách trà là một điều tuyệt vời. Trong nhà thiền đạo Bụt chúng ta không sử dụng mệnh lệnh nghiêm khắc, chớp nhoáng nhưng câu “Uống trà đi!” là một mệnh lệnh của thiền gia, đưa ta trở về nhà. Đừng suy nghĩ gì nữa cả. Ngồi yên đó, thân và tâm hợp nhất. Về với bây giờ và ở đây. Bạn đang có thật. Bạn không phải là một bóng ma. Bạn có đó. Bạn biết rõ việc đang xảy ra. Việc đang xảy ra là bạn đang có một tách trà trong lòng bàn tay.

Lắng nghe em bé trong ta

Chúng ta ai cũng có một em bé bị thương tích cần được chăm sóc và thương yêu. Nhưng ta xa lánh em bé bị thương tích trong ta bởi vì ta không muốn đau khổ. Vậy thì đã lắng nghe những người khác với tâm thương yêu, ta còn phải lắng nghe em bé bị thương tích trong ta. Em bé cần sự chú ý của ta. Hãy tìm dịp mà trở về với em, ôm ấp em bé thương tích. Hãy nói với em những lời yêu thương: “Em thương, ta đã bỏ em một mình. Ta đã xa rời em lâu lắm. Ta xin lỗi. Bây giờ ta trở về để săn sóc, để trở về với em. Ta biết rằng em đã đau khổ biết chừng nào, nhưng mà ta đã bỏ quên em. Nhưng bây giờ, ta đã học cách chăm sóc em. Ta đã về đây với em!”. Nếu được thì bạn hãy khóc với em bé bị thương tích trong bạn. “Thở vào, tôi trở về với em bé bị thương tích trong tôi. Thở ra, tôi chăm sóc em bé bị thương tích trong tôi.” Khi đi dạo, bạn hãy nắm lấy tay em bé cùng đi. Hãy nói chuyện với em bé trong bạn nhiều lần trong ngày để có thể chữa trị em. Em bé trong bạn đã mang thương tích quá lâu, bạn phải bắt đầu thực tập chăm sóc em ngay bây giờ. Mỗi ngày hãy trở về với em bé trong bạn, lắng nghe em năm hay mười phút. Và nhờ đó mà em bé sẽ được chữa lành.

Em bé thương tích trong ta không phải chỉ là ta. Em bé ấy có thể mang trong mình nhiều thế hệ tổ tiên. Cha mẹ, ông bà ta đã từng đau khổ nhưng không biết chăm sóc em bé thương tích trong mình và đã trao truyền em bé thương tích ấy cho ta. Cho nên khi ta ôm ấp em bé thương tích trong ta là ta cũng ôm ấp tất cả các em bé thương tích của những thế hệ đã qua. Sự thực tập không chỉ đem lợi lạc đến cho ta mà còn giải phóng cho biết bao thế hệ tổ tiên và con cháu. Sự thực tập ấy sẽ chấm dứt vòng luân hồi.

Viết một bức thư tình

Nếu bạn gặp khó khăn với một ai trong đời thì bạn có thể ngồi yên một mình trong chốc lát và viết cho người ấy một bức thư với tất cả chân tình. Bạn có thể viết bức thư cho một người mà bạn gặp hằng ngày hay một người mà đã lâu lắm bạn không gặp, hay cả cho một người đã quá vãng. Không bao giờ là quá trễ để tạo lại bình an và chữa trị cho một mối quan hệ tình cảm. Ngay cả khi bạn không thể gặp lại người ấy, bạn cũng có thể tạo hòa giải bên trong mình và chữa trị mối thâm tình.

Hãy dành vài giờ để viết một bức thư với lời yêu thương. Trong khi viết thư, bạn sẽ cố gắng nhìn sâu vào tình trạng của mối quan hệ tình cảm của bạn. Vì sao bạn đã gặp khó khăn? Vì sao bạn không còn hạnh phúc?

Và đây là một bức thư tình để làm ví dụ:

“Người thương ơi!

Anh biết rằng em đã đau khổ nhiều năm qua nhưng anh không biết cách để giúp em. Trái lại, anh đã làm cho tình trạng thêm tồi tệ. Anh không cố ý làm cho em đau khổ. Có thể là vì anh thiếu khéo léo. Có thể là anh đã muốn áp đặt ý muốn của anh. Trong quá khứ, anh đã nghĩ rằng em làm cho anh khổ. Bây giờ thì anh biết anh là người có trách nhiệm gây nên khổ đau cho chính anh. Anh xin hứa sẽ không nói hay làm gì có thể làm cho em đau khổ. Em hãy nói cho anh nghe tất cả tâm tư của em. Anh cần em giúp đỡ. Anh không thể một mình mà có thể làm được những gì anh đã hứa với em.”

Bạn không thiệt thòi gì cả khi viết bức thư ấy. Bạn có thể quyết định là không gửi bức thư ấy đi. Nhưng bạn sẽ khám phá ra rằng khi viết thư xong, bạn sẽ không còn như bạn khi chưa viết thư. Bình an, hiểu biết, và thương yêu đã thay đổi bạn.

Hiệp ước sống chung an lạc và thiệp mời hòa giải

Hiệp ước sống chung an lạc và thiệp mời hòa giải là hai phương pháp giúp giải trừ hờn giận, xích mích. Hiệp ước sống chung an lạc cũng còn ngăn ngừa chúng ta nói ra những lời lẽ xúc phạm hay những hành động thiếu tế nhị. Khi ký vào một bản hiệp ước sống chung an lạc, ta tạo an lạc không chỉ cho người khác mà cho cả chính ta.

Bạn có thể sử dụng hiệp ước sống chung an lạc khi cảm thấy bị xúc phạm vì một lời nói hay một hành động của một ai. Bạn có thể in ra một tờ của bản hiệp ước và cất sẵn để khi cần dùng đến. Bạn có thể dùng bản hiệp ước ấy thay vì sử dụng Câu thần chú thứ tư (xem trang 90).

Nếu một ai có hành động làm cho ta đau khổ thì ta có thể nói với người ấy, “Anh đã làm cho tôi đau khổ. Tôi sẽ quán chiếu sâu sắc việc ấy và tôi cũng mong anh sẽ quán chiếu sâu sắc việc ấy. Hãy hẹn nhau gặp gỡ một ngày nào đó trong tuần tới để cùng nhau nhìn lại sự việc”. Một người tìm hiểu gốc rễ của khổ đau là tốt. Hai người tìm hiểu gốc rễ của khổ đau thì tốt hơn. Tốt nhất là hai người cùng nhau tìm hiểu khổ đau.

Chúng ta nên đợi vài ngày trước khi sử dụng hiệp ước hay thiệp mời. Bạn đang buồn giận, nếu bắt tay vào việc bàn cãi ngay bây giờ có thể là nguy hiểm vì bạn có thể nói những lời làm cho tình trạng trở nên tệ hơn. Bạn hẹn một tối nào đó. Từ đây đến đó, bạn có thì giờ để quán chiếu niềm đau nỗi khổ của mình. Trong khi ấy người kia cũng có thì giờ quán chiếu như bạn. Trước ngày hẹn có thể bạn hay người kia đã tìm ra nguyên nhân của vấn đề và có thể nói cho nhau biết và xin lỗi. Và tối hẹn đó bạn và người kia chỉ cần ngồi thưởng thức một chén trà với nhau.

Nếu đến tối hẹn gặp nhau mà đau khổ của bạnhay người kia vẫn chưa được giải tỏa thì một người sẽ nói ra hết nỗi khổ của mình và người kia chỉ ngồi chăm chú lắng nghe. Khi nói thì nên sử dụng ái ngữ để nói ra sự thật, những sự việc thực sự đã xảy ra. Hãy nói sao cho người kia có thể chấp nhận. Khi nghe phải lắng nghe sao cho người kia giải tỏa được khổ đau. Nếu bạn sắp xếp gặp nhau vào tối thứ sáu thì bạn và người kia sẽ có cả hai ngày cuối tuần để cùng vui sau khi hòa giải.

Hiệp ước sống chung an lạc

Để sống chung với nhau hạnh phúc lâu dài, để tiếp tục xây dựng tình thương và sự hiểu biết, chúng con, những người ký tên dưới đây, xin nguyện cam kết và thực tập đúng theo những điều khoản sau đây:

Người đang chịu đau khổ vì sự giận hờn:

  • Không nói hoặc làm bất cứ điều gì có thể tạo thêm đổ vỡ và làm cho cái giận của hai bên lớn thêm.
  • Không đè nén cái giận xuống, không đàn áp sự giận hờn của mình.
  • Nắm lấy hơi thở, thực tập hơi thở chánh niệm, quay về nương tựa hải đảo tự thân.
  • Cho người kia biết một cách bình tĩnh là mình đang giận và đang khổ, trong thời hạn tối đa là 24 tiếng đồng hồ.
  • Bình tĩnh xin hẹn gặp người kia vào tối thứ sáu để cùng nhìn lại vấn đề cho rõ.
  • Nếu chưa được bình tĩnh để có thể nói thẳng thì có thể điền vào mẫu giấy báo tin (gọi là giấy hẹn, mẫu đính kèm theo đây) và đưa cho người kia.
  • Đừng tự ái nói “Tôi đâu có giận – có sao đâu – tôi có khổ gì đâu – có gì đâu mà giận – không có gì đáng cho tôi giận”.
  • Trong khi đi, đứng, nằm, ngồi, lái xe hoặc làm việc, thực tập hơi thở chánh niệm và quán chiếu sâu sắc để thấy:
  • Đôi lúc tôi cũng thiếu chánh niệm, thiếu khéo léo.
  • Tôi đã làm cho người kia buồn khổ nhiều lần vì tập khí của tôi.
  • Hạt giống của sự giận hờn trong tôi là nguyên nhân chính làm tôi đau khổ.
  • Người kia chỉ là người tưới tẩm hạt giống giận hờn trong tôi.
  • Người kia cũng đang khổ cho nên mới làm như vậy.
  • Chừng nào người kia còn khổ, chừng ấy tôi vẫn chưa có được an toàn và hạnh phúc.
  • Nếu thấy được sự vụng về và thiếu chánh niệm của mình, hãy tìm cách xin lỗi người kia ngay, đừng đợi đến chiều thứ sáu.
  • Nếu tối thứ sáu mà còn chưa đủ bình tĩnh thì xin dời hẹn đến thứ sáu tuần sau.

Người có trách nhiệm về việc làm người kia giận

  • Thấy người kia giận, đừng chế nhạo. Phải tôn trọng cảm thọ của người ấy và để cho người ấy đủ thì giờ lấy lại sự an tịnh.
    • Đừng ép người kia phải giãi bày liền về cái giận của người ấy.
    • Nói với người kia là mình đã nghe hoặc đã biết rằng người kia giận, bằng lời nói hoặc bằng cách viết trên một mảnh giấy, và hứa với người kia rằng mình sẽ có mặt vào chiều thứ sáu.
    • Trong khi đi, đứng, nằm, ngồi, lái xe hoặc làm việc, thực tập hơi thở chánh niệm và quán chiếu sâu sắc để thấy:
  • Trong tôi cũng có những hạt giống của sự không dễ thương, của sự bực bội và hờn giận.
  • Tập khí trong tôi đã có nhiều phen gây ra đau khổ cho người kia.
  • Tôi tưởng làm cho người kia khổ thì tôi sẽ bớt khổ, và tôi đã lầm.
  • Làm cho người kia khổ, tôi cũng làm cho tôi khổ theo.
    • Nếu thấy được sự vụng về và thiếu chánh niệm của mình, hãy tìm cách xin lỗi ngay, đừng chờ tới ngày thứ sáu. Xin lỗi mà đừng tìm cách biện bạch.

Chúng con xin nguyện tuân theo và tinh chuyên thực tập theo những điều khoản của hiệp ước này.

Hiệp ước làm tại                                             

Ngày       tháng   năm    

Các đương sự:

Thiệp hòa giải

Ngày tháng ………………………..

Thân gửi: …………………………..

Sáng/ Chiều/ Ngày hôm nay, anh/ chị đã nói/ làm một lời/ việc làm cho tôi vô cùng tức giận. Tôi muốn anh/ chị biết cho tôi điều đó.

Anh/ Chị đã nói/ làm ……………………………………………

…………………………………………………………………………………

Chiều thứ sáu này, chúng ta nên gặp nhau để xét lại một cách bình tĩnh những gì anh/ chị đã nói/ làm.

Một người hiện đang đau khổ:

( tên) ……………………………………………………………………

Làm mới

Một phép thực tập rất có ích để giải tỏa khó khăn, buồn phiền giữa hai phía là Làm Mới. Làm Mới là cơ hội để nhìn sâu và thành thực – về những gì mình đã nghĩ, đã nói và đã làm – để bắt đầu một giai đoạn mới với chính mình hay với người khác mà ta đã gặp khó khăn.

Làm Mới cũng là cơ hội trau dồi ái ngữ và lắng nghe với tâm yêu thương bằng cách ghi nhận những gì tốt đẹp nơi người khác và tỏ lòng khâm phục. Ghi nhận những gì tích cực, tốt đẹp nơi ai khác cũng là cơ hội khám phá những gì tích cực, tốt đẹp nơi mình. Ngoài những yếu tố tích cực chúng ta cũng có những yếu tố tiêu cực, những yếu kém, ví dụ nói lời ác độc khi giận dữ hay có nhiều nhận thức sai lầm. Cũng như khi chăm sóc một khu vườn, chúng ta “tưới hoa”, những đóa hoa của từ bi, yêu thương, đồng thời cũng làm sạch những đám cỏ của hờn giận, ganh tị, hiểu lầm.

Chúng ta có thể thực tập làm mới mỗi ngày bằng cách bày tỏ khen ngợi những người thân thương và lập tức xin lỗi mỗi khi ta nói ra điều gì xúc phạm người khác. Chúng ta cũng có thể cho người khác biết, bằng những lời lẽ dịu dàng, khi ta bị người khác gây đau khổ.

Một buổi Làm Mới chính thức hơn có thể được tổ chức hằng tuần trong gia đình hay nơi sở làm. Làm Mới chính thức gồm có ba phần: tưới hoa, bày tỏ sự hối tiếc và nói lên những lý do gây nên buồn giận, khó khăn. Phép thực tập Làm Mới này có thể ngăn ngừa các cảm thọ buồn giận dồn chứa tuần này sang tuần khác và tạo nên môi trường an lành trong sở làm hay trong gia đình.

Tưới hoa là giai đoạn đầu của phép Làm Mới. Làm Mới tức là bày tỏ lòng cảm mộ đối với người trong sở làm hay trong gia đình. Mỗi người sẽ chờ cho tới lúc tâm tư sẵn sàng sẽ thay phiên bày tỏ tâm tình. Những người khác sẽ lắng nghe mà không phản ứng. Người nói có thể cầm trên tay một cành hoa hay bình hoa trước mặt tượng trưng cho phong thái tươi mát. Trong giai đoạn “tưới hoa”, người nói sẽ nhắc đến những đức tính tốt đẹp, hoàn thiện của những người hiện diện. Đây không phải là nói nịnh. Cần phải nói sự thật. Ai cũng có ưu điểm mà mọi người đều thừa nhận. Không ai có thể ngắt lời người đang nói. Ai cũng có đủ thì giờ để thổ lộ những điều mình muốn nói ra và tất cả đều thực tập lắng nghe sâu. Sau khi nói xong, người ấy sẽ kính cẩn trả lại bình hoa vào giữa.

Không nên coi thường giai đoạn đầu “tưới hoa” này. Khi mà ta đã thành thật ca tụng những ưu điểm của một ai thì ta khó mà giữ mãi buồn giận đối với người ấy. Tâm ta sẽ dịu lại, tầm mắt ta sẽ rộng rãi hơn, bao dung hơn.

Trong giai đoạn thứ hai của phép thực tập Làm Mới, ta sẽ nói ra những gì mà người kia đã làm ta buồn giận. Ái ngữ rất quan trọng trong giai đoạn này. Ta muốn cho không khí trong gia đình hay trong sở làm được an lành trở lại. Ta sẽ thẳng thắn trình bày nhưng ta không muốn gây đổ vỡ. Nói cho một số đông đang lắng nghe ta chăm chú thì lời nói của ta sẽ tươi mát hơn, xây dựng hơn. Ta sẽ không bao giờ trách móc hay tranh cãi.

Trong giai đoạn cuối của phép Làm Mới, điều quan trọng nhất là lắng nghe với tâm thương yêu. Chúng ta nghe một người khác đang nói về khổ đau và khó khăn của họ. Ta mong cho người ấy bớt được niềm đau nỗi khổ mà không có ý phán xét, tranh cãi. Chúng ta lắng nghe hết lòng. Ngay cả khi ta nghe một điều gì không đúng sự thật, chúng ta vẫn tiếp tục chăm chú lắng nghe để cho người kia nói hết khổ đau của mình để có thể giải tỏa căng thẳng, bức xúc trong lòng. Nếu chúng ta trả lời hay cải chính thì phép thực tập sẽ thất bại. Nếu muốn cho người ấy biết điều gì người ấy nói là không đúng sự thật thì nên đợi vài ngày rồi hãy nói và chỉ nói riêng với người ấy một cách bình tĩnh. Và có thể trong lần Làm Mới tiếp theo, người ấy có thể cải chính điều mình đã nói không đúng sự thật. Và ta chỉ cần lắng nghe. Để chấm dứt buổi thực tập Làm Mới, tất cả có thể cùng ngồi với nhau vài phút trong im lặng.

Chỉ cần ngồi lại với nhau để “tưới hoa” cũng đủ mang lại hạnh phúc và gia tăng cảm thông trong gia đình hay sở làm. Không cần theo cho đủ cả ba giai đoạn. Đặc biệt là khi mới bắt đầu thực tập Làm Mới, nên để dành nhiều thì giờ cho giai đoạn “tưới hoa”. Lâu lâu sau đó ta có thể thêm vào giai đoạn hai và giai đoạn ba, khi mọi người đều đã thêm tin tưởng. Và khi đó đừng bỏ qua giai đoạn thứ nhất. Bày tỏ lòng biết ơn là cách hay nhất để xây dựng mối quan hệ thân thương và bền vững.

Miếng bánh trong tủ lạnh

Ta có thể sử dụng một miếng bánh để làm đẹp mối liên hệ. Bạn không cần phải làm ra miếng bánh, không cần phải có sẵn một miếng bánh. Đây là một miếng bánh đặc biệt không bột, không đường. Một miếng bánh ăn hoài không hết. Ta gọi đó là “miếng bánh trong tủ lạnh”.

Thực tập này được sử dụng trước hết là cho các em bé gặp khi cha mẹ cãi nhau, nhưng người lớn cũng có thể dùng được. Khi mà không khí trở nên nặng nề, khó chịu và có một người hình như bị mất bình tĩnh thì bạn có thể sử dụng thực tập chiếc bánh này để tái lập bình an.

Trước hết, bạn hãy thở vào, thở ra ba hơi để lấy can đảm. Sau đó, quay lại với người hình như sắp nổi giận và làm như mình đang quên một vật gì. Khi người kia hỏi bạn đã quên gì thì bạn hãy nói: “Tôi nhớ ra là mình có một miếng bánh trong tủ lạnh”.

Nói câu “Có miếng bánh trong tủ lạnh” là hàm ý “Xin đừng làm cho nhau buồn phiền nữa”. Nghe câu nói, người kia có thể hiểu ý. Có thể là người kia sẽ nhìn bạn và trả lời, “Đúng rồi, để tôi đi lấy bánh”. Đây là một cách để thoát ra khỏi một tình huống nguy hiểm một cách tự nhiên. Người đang giận sẽ có cơ hội rút ra khỏi sự tranh chấp mà không gây thêm căng thẳng.

Người ấy sẽ đi tới tủ lạnh để lấy ra miếng bánh và pha trà trong khi theo dõi hơi thở. Nếu trong tủ lạnh thật sự không có bánh thì một trái cây hay món gì khác cũng được. Trong khi dọn bánh, pha trà, người ấy sẽ có dịp thở và mỉm cười, sẽ có cơ hội thư giãn thân tâm. Trong khi người ấy dọn bánh, pha trà thì bạn sẽ ngồi yên theo dõi hơi thở chánh niệm. Dần dần không khí sẽ lắng dịu. Sau khi dọn bánh và trà ra, tất cả mọi người sẽ cùng nhau chia sẻ bánh và trà trong một bầu không khí đầy hiểu biết, cảm thông. Nếu người kia ngần ngại, bạn có thể nhẹ nhàng mời ép, “Hãy đến cùng thưởng thức miếng bánh với tôi”.

Thiền ôm

Trong khi truyền thông, đôi khi không cần phải sử dụng lời nói. Khi ôm nhau, chúng ta gần lại với nhau, tim trong tim. Ôm trong chánh niệm và chú tâm có thể đem lại hòa giải, chữa trị, thông cảm và rất nhiều hạnh phúc.

Bạn có thể thực tập thiền ôm với bạn bè, với con cái, cha mẹ hay vợ chồng. Có thể thực tập ngay cả với một thân cây. Trước hết phải chắp tay vái nhẹ để ghi nhận sự có mặt của người mình sắp ôm. Nhắm mắt lại, thở vào một hơi thở sâu và quán tưởng bạn và người ấy ba trăm năm về sau. Thở ba hơi thở có ý thức để thực sự có mặt và nói thầm: “Thở vào, tôi biết sự sống vô cùng quý báu trong giây phút này. Thở ra, tôi trân quý giây phút này của sự sống”.

Mỉm cười với người trước mặt bạn, ngầm ngỏ ý bạn muốn ôm người ấy. Đây là một thực tập đầy nghi lễ, khi thân và tâm bạn hợp nhất, bạn sẽ hoàn toàn có mặt, đầy sự sống. Đây thực sự là một nghi lễ.

Khi tôi uống một tách trà, tôi để hết một trăm phần trăm vào việc uống trà. Hãy nên thực tập như thế khi bạn làm bất cứ gì việc trong ngày. Thiền ôm là một thực tập rất sâu sắc.

Muốn thực tập cho đúng thì phải hoàn toàn có mặt. Rồi bạn dang hai tay bắt đầu ôm và cùng với người kia thở ba hơi thở vào ra. Với hơi thở thứ nhất, bạn ý thức bạn đang thực sự có mặt và bạn rất hạnh phúc. Với hơi thở thứ hai, bạn ý thức người mà bạn đang ôm cũng đang thực sự có mặt và cũng rất hạnh phúc. Với hơi thở thứ ba, bạn ý thức cùng với người kia có mặt bên nhau và cảm thấy vô cùng biết ơn. Sau đó, bạn và người kia cùng buông tay chắp tay xá nhau. Bạn cũng có thể thực tập theo cách sau đây: Với hơi thở thứ nhất, bạn ý thức bạn với người kia cùng có mặt và còn sống bên nhau. Với hơi thở thứ hai, hãy tưởng tượng bạn và người kia trong một trăm năm nữa và với hơi thở thứ ba, hãy ý thức bạn và người kia vẫn đang còn sống với nhau. Thực tập sâu sắc có thể giúp hòa giải khó khăn. Trong khi ôm một người trong im lặng, bạn đã gửi đi một thông điệp rõ ràng, “Người thương ơi. Người vô cùng đáng quý cho tôi. Tôi xin lỗi vì đã không có chánh niệm, không đủ tế nhị và đã có lỗi. Hãy cho tôi cơ hội để làm mới”. Với thông điệp đó, sự sống sẽ tỏa rạng hiện tiền. Các kiến trúc sư nên thiết kế để cho các trạm hàng không, các trạm xe, tàu có chỗ đủ để cho hành khách thực tập thiền ôm. Thực tập càng sâu sắc, hạnh phúc càng tỏa sáng.

Truyền thông là tiếp nối

Mỗi cá nhân, mỗi sinh vật luôn luôn sử dụng truyền thông. Chúng ta thường cho rằng truyền thông là những gì chúng ta viết hay chúng ta nói. Tuy nhiên dáng dấp của chúng ta, sắc diện của chúng ta, giọng nói, cử chỉ của chúng ta và ngay cả ý nghĩ của chúng ta, tất cả đều là những phương tiện truyền thông. Cũng như một cây cam cống hiến hoa, lá và trái cam tươi tốt, mỗi cá nhân trong cộng đồng cống hiến lời hay, cử chỉ đẹp. Một sự truyền thông không thể nào không có ảnh hưởng. Mỗi khi truyền thông là ta đóng góp hoặc yêu thương hòa hợp hoặc khổ đau đổ vỡ.

Truyền thông là đóng góp vào thế giới bên ngoài. Truyền thông cũng là những gì còn tồn tại trong thế giới bên ngoài sau đó. Cho nên truyền thông của ta là nghiệp lực của chính ta. Thuật ngữ karma, tiếng Sankrit, có nghĩa là “hành động”. Hành động ở đây không những ám chỉ hành động của cơ thể mà còn ám chỉ cả ngôn ngữ, ý nghĩ và dự tính khi hành động.

Hàng ngày ta đóng góp năng lượng của suy nghĩ, nói năng, hành động (Thân – Khẩu – Ý). Mỗi phút mỗi giây ta đều truyền thông với ta hay với người khác. Những gì ta suy nghĩ, nói năng, hành động là biểu hiện của ta. Ta chính là hành động của ta. Khi hành động, ta không chỉ hành động bằng cơ thể mà cả bằng ngôn ngữ và ý tưởng. Nghiệp (Karma) là tác động của cả ba: Thân, Khẩu và Ý.

Ý nghĩ tự nó là hành động. Mặc dù ta không thể “thấy” sự biểu hiện của ý nghĩ, ý nghĩ đã có đó như một năng lượng. Ý nghĩ có thể thôi thúc chúng ta tạo nên đổ vỡ hay đem lại yêu thương. Bất cứ ý nghĩ nào cũng đưa đến kết quả, hoặc tức thời hoặc mai sau. Khi chúng ta có một ý nghĩ thù hận, buồn giận hay tuyệt vọng, ý nghĩ ấy là một chất độc tàn hoại thân tâm ta, là nguồn gốc của mọi xung đột, tác hại. Nếu chúng ta có một hành vi bạo động, đó là vì chúng ta đã có ý nghĩ hận thù, giận ghét và có ý muốn trừng phạt. Cho nên chính ý nghĩ tự nó đã là hành động. Không cần phải nói gì hay làm gì mới gọi là hành động. Suy nghĩ một điều gì chính là hành động.

Khi ta phát khởi một ý nghĩ đầy hiểu biết, yêu thương, bao dung thì ý nghĩ ấy tức khắc có ảnh hưởng chữa trị đối với thân tâm ta và những người chung quanh ta. Nếu chúng ta khởi lên một ý nghĩ đầy phán xét, giận dữ thì ý nghĩ ấy tức khắc sẽ đầu độc thân tâm ta và những người chung quanh ta. Suy nghĩ là hành động hàng đầu bởi vì suy nghĩ là nền tảng tác dụng lên trên thế giới. Những lời ta nói cũng có ảnh hưởng vô cùng to lớn. Nếu chúng ta có thể nói và viết với thương yêu và hiểu biết thì thân tâm ta sẽ vô cùng nhẹ nhàng thanh thản. Ta không nói những lời yêu thương, hiểu biết chỉ để cho người nghe ta nói cảm thấy thoải mái, vừa lòng. Lời nói yêu thương của ta cũng có tác dụng chữa trị cho chính ta. Khi mà ta có thể nói được một lời nói dễ thương, tha thứ, thương yêu, ta sẽ cảm thấy an vui thanh thoát hơn.

Khi ta viết ra những lời yêu thương, tha thứ, ta sẽ cảm thấy an vui mặc dù người kia chưa đọc những gì ta viết. Ngay khi chưa gửi thư hay email hay đánh tin nhắn ta đã cảm thấy vui vẻ trong lòng. Và người kia khi đọc những dòng thư của ta cũng sẽ cảm nhận tình thương yêu của ta. Trái lại, nếu ta nói lên những lời giận dữ, bạo động, nếu ta nói với dụng ý trừng phạt thì ta và người nghe, cả hai đều cùng chịu đau khổ. Hãy tưởng tượng một em bé đang chứng kiến cha mẹ cãi nhau. Mặc dù lời lẽ của hai người không nhắm vào đứa bé, em bé vẫn chịu ảnh hưởng của những lời lẽ sân hận đó. Lời nói là một hành động thuộc hình thức thứ hai, có thể chữa trị và khai phóng hay tàn hại, gây đau khổ.

Hình thức hành động thứ ba là hành động của thân. Đây gọi là truyền thông bằng “ngôn ngữ của cơ thể” (body language) ví dụ như nắm chặt bàn tay lại khi giận hay dang hai tay ra khi đón mừng hoặc là những quyết định tham dự vào một sự cố hay hoạt động trong ngày, hay cách tiếp đãi một người nào. Nếu chúng ta có một hành động cứu vớt, che chở, an ủi, hỗ trợ hay chăm sóc, chúng ta sẽ tạo nên ảnh hưởng tích cực tức thì.

Truyền thông mang dấu ấn của ta

Tất cả những gì ta nói hay ta làm đều mang dấu ấn của riêng ta. Ta không thể nói: “Đấy không phải là ý nghĩ của tôi”. Ta chịu trách nhiệm về những gì ta truyền thông. Cho nên nếu ngày hôm qua ta nói ra một điều gì không hay, không phải thì hôm nay ta phải tìm cách sửa đổi. Triết gia người Pháp Jean Paul Sartre có nói: “Con người là tổng thể các hành động của mình”. Giá trị của cuộc đời ta tùy thuộc vào giá trị của những gì chúng ta suy nghĩ, nói năng, và hành động. Chúng ta muốn cống hiến những lời lẽ, những ý nghĩ, những hành động tốt đẹp nhất bởi vì chúng là những tiếp nối của chính chúng ta. Khi chúng ta suy nghĩ, khi chúng ta nói năng hay hành động, chúng ta sáng tạo và chúng ta có mặt đó với những sáng tạo của chúng ta. Đó là thành quả của cuộc sống chúng ta. Những truyền thông của chúng ta sẽ không mất đi khi thân thể ta tàn hoại, không còn trên cõi đời này. Ảnh hưởng của những gì ta nghĩ, ta nói, hay ta làm, sẽ tiếp tục tỏa rộng ra khắp vũ trụ. Dù cho thân xác ta còn đây hay đã tan rã, những hành động của ta vẫn tiếp tục.

Khi chúng ta phát khởi một ý nghĩ, ý nghĩ ấy mang dấu ấn của chúng ta, và chúng ta chịu trách nhiệm. Nếu ý nghĩ của chúng ta thấm nhuần thương yêu, tha thứ, không kỳ thị thì cuộc sống của chúng ta sẽ tiếp nối đẹp đẽ, tốt lành bởi vì chúng ta gắn liền với những ý nghĩ, lời nói, hành động ấy. Ta là tác giả của các hành động của ta. Những lời lẽ hay hành động của ta dù là lời lẽ hành động của thương yêu hay của tàn bạo thì cũng mang dấu ấn của chính ta.

Chúng ta là những đám mây đem đến cơn mưa. Đám mây, dưới dạng những hạt mưa, tiếp tục nuôi dưỡng đồng lúa, cây cỏ, sông ngòi, mặc dù đám mây không còn lơ lửng trên bầu trời. Cũng thế, tất cả những ý nghĩ, lời nói, và việc làm của ta sẽ mãi tiếp tục mặc dù thân xác ta đã tan rã. Đám mây vẫn còn đó nơi đồng ruộng, trong dòng sông. Khi thân xác này không còn nữa, những lời ta nói, những ý nghĩ, hành động của ta vẫn còn mang ảnh hưởng. Thân – Khẩu – Ý là tiếp nối đích thực của ta.

Ta có thể tiếp tục sống đẹp mãi mãi trong tương lai. Hãy tưởng tượng một tài khoản ngân hàng đâu đó mà ta có thể gửi vào mỗi một lời nói, ý nghĩ và hành động. Tài khoản ngân hàng đó chắc chắn là có đó nhưng bản chất không bị hạn chế tại một địa phương (“its nature is nonlocal”). Không có gì mất đi cả.

Thay đổi quá khứ

Giả sử trong quá khứ, bạn đã nói một câu không dễ thương với bà nội. Bà nội nay không còn nữa và bây giờ bạn không thể xin lỗi bà nội. Nhiều người trong chúng ta mang trong lòng mặc cảm tội lỗi vì đã nói hay làm một điều gì mà bây giờ ta nghĩ rằng ta không thể sửa đổi. Nhưng ta có thể xóa bỏ những hành động thiếu khôn ngoan của quá khứ. Quá khứ không phải là đã hoàn toàn qua đi. Nếu biết rằng sự truyền thông vẫn mãi tiếp tục thì quá khứ vẫn còn đó, trong hiện tại, dưới một hình trạng khác. Dù sao đi nữa thì đau khổ vẫn còn đó, day dứt.

Điều mà bạn có thể làm bây giờ là ngồi xuống, theo dõi hơi thở sâu, vào ra, và nhận ra rằng bà nội của bạn có mặt trong mỗi tế bào của cơ thể. “Nội ơi! Con biết rằng nội đang có mặt nơi từng tế bào trong cơ thể con. Con là tiếp nối của nội. Con rất hối hận vì đã làm cho nội buồn mà con cũng đau khổ. Nội ơi! Nội nghe con. Kể từ nay con sẽ không nói những lời như thế. Xin nội giúp con thực tập.” Khi bạn nói với bà nội mình như thế, bạn có thể thấy bà nội đang mỉm cười với bạn và bạn sẽ không còn đau khổ vì chuyện của quá khứ.

Truyền thông không phải là bất động. Nếu ngày hôm qua bạn đã có một ý nghĩ đầy sân hận, thù ghét thì hôm nay bạn có thể phát khởi một ý nghĩ ngược lại, một ý nghĩ đầy thương yêu, tha thứ. Ngay khi bạn khởi lên một ý nghĩ mới thì ý nghĩ ấy sẽ tức khắc đuổi kịp và hóa giải ý nghĩ của ngày hôm qua. Sử dụng truyền thông lành mạnh, đúng chánh pháp trong hiện tại sẽ giúp ta chữa lành quá khứ, vui với hiện tại và chuẩn bị tốt đẹp cho tương lai.

Truyền thông tại sở làm

Muốn cho truyền thông tại sở làm được thành công thì phải bắt đầu ngay trước khi đến sở, trước khi bắt tay vào việc. Trên đường đi đến sở, hoặc lái xe, hoặc đi xe buýt hay đi bộ, ta thường lo nghĩ tới những việc cần phải làm hay những việc dở dang.

Trái lại, nếu ta tỉnh thức theo dõi hơi thở, ý thức hiện hữu chung quanh, ta có thể tạo nên nhiều niềm vui trên đường đến sở làm. Khi đi đến thiền đường để bắt đầu một ngày giảng dạy, tôi không để mất thì giờ lo lắng về những thắc mắc, câu hỏi của các thiền sinh cũng như những câu trả lời của tôi. Thay vào đó, tôi đi từ cốc tôi ở đến thiền đường, thưởng thức từng bước chân, hơi thở trong mỗi giây phút. Nhờ đó mà khi đến thiền đường, tôi cảm thấy thư thái nhẹ nhàng, sẵn sàng cho bài pháp thoại hay giải đáp thắc mắc của các thiền sinh với tất cả khả năng của mình.

Nếu bạn thực tập chánh niệm ở nhà trước khi đi làm, hoặc trên đường tới sở thì bạn sẽ cảm thấy thoải mái hơn khi tới sở và sự truyền thông có thể thành công dễ dàng.

Những suy tư về công việc, về những vấn đề liên quan tới việc làm sẽ ảnh hưởng tới sự truyền thông trong sở làm. Chúng ta có thể nghĩ rằng mục đích của công việc chỉ là để phục vụ cho một ai đó hay chế tạo nên một vật dụng gì đó. Nhưng khi làm việc chúng ta sử dụng cả ý nghĩ, lời nói và hành động. Truyền thông là sản phẩm của công việc ta làm, nó không khác gì sản phẩm do ta chế tạo. Nếu truyền thông tốt đẹp thì không những ta sẽ vui thích hơn khi làm mà còn tạo được môi trường hòa điệu, thuận lợi có ảnh hưởng đến công việc. Ta làm việc với tâm thương yêu hơn và giúp ích được cho nhiều người hơn.

Nêu gương khi lãnh đạo

Mấy năm trước đây, khi tôi tới Ấn Độ, tôi có gặp ông K. R. Narayanan khi ông còn là Chủ tịch Quốc hội Ấn Độ. Chúng tôi bàn việc sử dụng thực tập lắng nghe và ái ngữ tại các cuộc bàn thảo trong Quốc hội. Tôi nói rằng mọi môi trường làm việc, kể cả môi trường chính trị, đều có thể trở thành một môi trường xây dựng trên hiểu biết và yêu thương. Xây dựng được một môi trường lành mạnh và nuôi dưỡng cho một tập thể làm việc là tạo nên một môi trường khuôn mẫu xây dựng cho thế giới.

Sử dụng chánh niệm và ái ngữ trong môi trường làm việc là cống hiến tinh hoa của chúng ta. Phối hợp với tuệ giác và kinh nghiệm, chúng ta có thể đi đến những quyết định sáng suốt nhất. Nếu không có khả năng lắng nghe đồng nghiệp bằng tấm lòng rộng mở mà chỉ chấp nhận và hỗ trợ những ý kiến quen thuộc mà ta đồng ý thì ta sẽ gây hại cho môi trường làm việc. Dù ở vào địa vị nào trong khi làm việc, ta cũng có thể nêu gương bằng cách học hạnh lắng nghe tất cả mọi người bằng chú ý và ưu tư một cách bình đẳng.

Nhiều môi trường làm việc thường tạo ra lắm bức xúc. Chúng ta phải tổ chức thế nào để có cơ hội thực tập hơi thở chánh niệm. Hơi thở chánh niệm là bước khởi đầu của truyền thông trong chánh niệm bởi vì hơi thở chánh niệm giúp cho thân và tâm thư giãn. Phải thư giãn để được thoải mái và có những quyết định sáng suốt. Khi chúng ta tạo được một môi trường thư giãn, thoải mái nơi sở làm là chúng ta đã bắt đầu truyền thông có hiệu lực.

Ông Narayanan và tôi đã thảo luận về phương thức đưa thực tập chánh niệm vào trong Quốc hội Ấn để giảm thiểu bức xúc. Nếu Quốc hội Ấn đã làm được như vậy thì ta cũng có thể làm được trong sở làm của ta. Bạn có thể tổ chức để các đồng nghiệp cùng thực tập hơi thở chánh niệm trước các buổi họp để cho sự truyền thông trong khi họp có hiệu quả hơn và ít bức xúc hơn hay không? Cho dù bạn không thể tổ chức để đồng nghiệp cùng thực tập nhưng chỉ với hơi thở của chính bạn cũng đủ để cải thiện sự truyền thông khi làm việc. Đôi khi sự truyền thông trong sở làm có thể là rất mực khó khăn, nhưng chỉ một hơi thở chánh niệm cũng đã làm cho tình hình khả quan hơn rồi.

Chào hỏi đồng nghiệp

Khi đến sở làm, việc đầu tiên của bạn là làm gì? Bạn có mỉm cười với các đồng nghiệp không? Bạn có chào hỏi đồng nghiệp không? Những giây phút đầu khi đến sở làm rất quan trọng cho không khí làm việc suốt cả ngày. Có thể là bạn đang lo lắng nhiều chuyện, có thể là bạn đang bận tâm vì một sự tranh cãi, một tình huống khó xử nào đó trước khi bạn đến sở làm. Nhưng nếu bạn bắt đầu ngày làm việc bằng vài phút để thở hơi thở chánh niệm, trở về với giây phút hiện tại thì tâm trí bạn sẽ sáng suốt hơn và bạn có thể chào hỏi đồng nghiệp một cách thân mật và với nụ cười cởi mở. Đây là một phần nhiệm vụ của bạn, không cứ là bạn hành nghề gì.

Trả lời điện thoại

Trong sở làm, ta không chỉ trò chuyện với đồng nghiệp mà còn sử dụng email, điện thoại, hội thảo trên màn hình (video conference). Nhiều người đã làm việc với các đồng nghiệp không có mặt trong sở làm, có khi ở tiểu bang khác hay xứ khác. Mặc dù vậy, ta cũng có thể biến các cuộc nói chuyện trên điện thoại hay email thành một cơ hội để thực tập truyền thông với tâm yêu thương. Mỗi khi điện thoại reo, chúng ta coi đó như là một tiếng chuông chánh niệm và ngưng lại việc đang làm. Thay vì hấp tấp trả lời ngay bạn theo dõi ba hơi thở vào, ra để thực sự có mặt khi trả lời điện thoại. Ghi nhận cảm xúc bức xúc hay bực mình hay gì khác khi bị ngưng công việc để trả lời điện thoại. Bạn có thể nhấc điện thoại lên trong khi thở để cho các đồng nghiệp biết rằng bạn sắp sửa trả lời. Tuy nhiên, bạn không vội vã. Làm như thế là để các đồng nghiệp không cảm thấy là bị tiếng điện thoại quấy rầy.

Bạn cũng có thể áp dụng phương pháp ấy khi đọc email. Chúng ta thường có thói quen đọc hết email này sang email khác mà không thở hơi thở chánh niệm và tỉnh thức để đọc email. Có thể rằng nếu chúng ta thở vào ra trong chánh niệm và dừng lại trong tỉnh thức như thế trước khi mở và đọc email có mất chút ít thì giờ và làm cho công việc của ta chậm lại đôi chút nhưng sự truyền thông, qua nội dung email sẽ có hiệu quả hơn, sáng suốt hơn và có nhiều hiểu biết hơn.

Trước khi gửi đi email hay gọi điện thoại cho ai, bạn có thể đọc thầm câu kệ sau đây:

Tiếng đi ngoài ngàn dặm

Xây dựng lòng yêu thương

Mỗi lời là châu ngọc

Mỗi lời là gấm thêu.

Hội thảo trong chánh niệm

Trong các buổi họp bàn, sự truyền thông có thể gây nên căng thẳng, gây bức xúc và xung đột. Nhiều khi chúng ta rời phòng họp này để tới phòng họp khác mà trong lòng đầy lo âu và phân tâm.

Tốt nhất là trước khi họp, hãy cùng ngồi với nhau vài phút trong tĩnh lặng. Nếu mọi người đều đồng ý thì chúng ta có thể sử dụng chuông trong khi họp. Tiếng chuông sẽ nhắc mọi người trở về với hơi thở và tìm lại bình tĩnh. Nếu không ai muốn ngồi với nhau trong tĩnh lặng vài phút trước khi họp thì bạn vẫn có thể một mình tới phòng họp sớm hơn vài phút để thư giãn thân tâm và thở hơi thở chánh niệm. Có thể những người khác sẽ theo gương và đến cùng ngồi. Bạn không cần nói gì hay chứng tỏ cho người khác biết chủ ý của mình. Chỉ ngồi yên, thở như thế và cảm nhận ích lợi của phép thực tập.

Để góp phần vào việc tạo dựng không khí của buổi họp cũng nên có vài lời nhắc nhở các thành viên trong buổi họp là nên tôn trọng ý kiến và lời phát biểu của người khác khi họp. Nếu ta chỉ muốn áp đặt ý muốn của mình lên người khác thì ta sẽ tạo căng thẳng và đau khổ trong sở làm. Vậy thì trong các buổi họp, ta nên mở rộng lòng và lắng nghe trải nghiệm cũng như tuệ giác của những người khác.

Nếu bạn có một ý kiến tuyệt vời và muốn chia sẻ ngay thì cũng không nên gạt bỏ ý kiến của người khác. Hãy mời mọi người trình bày ý kiến của mình. Hãy tin tưởng rằng ý kiến tốt đẹp nhất sẽ phát xuất từ tuệ giác của tập thể.

Khi họp nên sử dụng lắng nghe và ái ngữ. Theo dõi hơi thở khi nghe. Mỗi người thay nhau nói và không nên ngắt lời người khác. Tránh tranh cãi. Phát biểu trải nghiệm của mình cho toàn thể nghe. Nếu có một câu hỏi hay một ưu tư thì trình bày ra với toàn thể. Có thể đây là một điều khó vì phương thức họp bàn mới mẻ này khác với lề lối họp bàn của quá khứ. Ta không cần thay đổi phương thức một cách đột ngột. Nếu tất cả mọi người đều cùng lắng nghe nhau mà không ngắt lời người khác thì rất tốt. Nhưng nếu chỉ có một mình bạn theo phương thức ấy và quyết tâm nói năng, lắng nghe với tâm yêu thương thì cũng đủ để tạo hậu quả tích cực.

Thiết lập cộng đồng trong sở làm

Nếu bạn nêu gương thực tập truyền thông trong thương yêu thì sẽ có nhiều đồng nghiệp theo bạn cùng thực tập, cùng với bạn thiền hành, thiền tọa và thở chánh niệm. Nếu chung quanh mọi người đều thực tập chánh niệm thì ai cũng sẽ được năng lượng chánh niệm tập thể hỗ trợ và lắng nghe, ái ngữ sẽ trở nên càng dễ dàng.

Càng thực tập chánh niệm, bạn càng tìm ra những phương cách để cải tiến môi trường trong sở làm. Mỗi khi ta sử dụng ái ngữ và lắng nghe sâu thì mọi hành động của ta sẽ là tiếng chuông chánh niệm cho tất cả mọi người. Khi ta đi từng bước chậm rãi thảnh thơi là ta đang khuyến khích những người khác cũng đi như ta mặc dù họ không biết rằng ta đang thực tập chánh niệm. Khi ta mỉm cười thì nụ cười của ta sẽ hỗ trợ ta và nhắc nhở mọi người chung quanh. Khi ta thực tập thì sự hiện diện của ta sẽ có ảnh hưởng tích cực cho ta và cho những người chung quanh.

Tảng đá dưới sông

Tất cả chúng ta đôi khi có thể gặp khó khăn trong sở làm. Ai cũng có niềm đau, buồn bực, sợ hãi. Nhiều khi trong sở làm chúng ta không có thì giờ và không gian để nhận diện và ôm ấp những cảm xúc mạnh khiến cho bức xúc trỗi dậy bất ngờ và gây khó khăn cho việc truyền thông.

Nhưng không ai trong chúng ta phải chịu đau khổ, buồn tủi một mình. Khi liệng một viên đá xuống sông, dù cho viên đá nhỏ bao nhiêu đi nữa, viên đá cũng sẽ chìm. Nhưng nếu ta có một chiếc thuyền thì ta có thể chở cả tấn đá. Đau khổ của chúng ta cũng vậy. Chiếc thuyền chánh niệm có thể chuyên chở đau khổ, buồn tủi, sợ hãi để ta có thì giờ, không gian ghi nhận và ôm ấp khổ đau mà không bị chìm vào biển cả của giận hờn, lo âu, buồn tủi. Ta sẽ được nhẹ nhàng hơn.

Ta có thể thực tập chánh niệm một mình. Nhưng nếu ta đưa thực tập chánh niệm vào sở làm và được các đồng nghiệp cùng thực tập, hỗ trợ thì sự thực tập của ta sẽ dễ dàng và vui thích hơn. Đừng mong rằng sẽ có sự thay đổi nhanh chóng. Nếu ta thực tập tinh tấn, thiết lập truyền thông với tâm thương yêu thì ta đã đi đúng hướng và như thế cũng là đủ rồi.

Truyền thông khi gặp khó khăn

Nhiều người trong chúng ta đau khổ vì gặp khó khăn khi truyền thông với những người chung quanh. Lấy ví dụ ở sở làm, mặc dù nhiều khi cố gắng đủ điều, chúng ta cũng không thể thiết lập mối quan hệ tốt với đồng nghiệp. Điều này cũng đúng cho một gia đình. Chúng ta có cảm tưởng là cha, mẹ, anh, chị, em ta mỗi người ở một thế giới riêng, khó mà có thể truyền thông.

Tuy nhiên, có nhiều cách để tạo hòa thuận và tạo cơ hội cho truyền thông đầy thương yêu.

Truyền thông khi đang giận

Một lý do khiến cho chúng ta gặp khó khăn khi truyền thông với người khác là truyền thông khi đang giận. Chúng ta đau khổ và không muốn đau khổ một mình. Chúng ta nghĩ rằng ta giận là vì người kia. Ta muốn người ấy biết là ta đang giận. Cơn giận có tính cách cấp bách. Ta muốn cho người kia biết ngay là ta có vấn đề với người ấy.

Nhưng khi giận thì ta không còn sáng suốt. Hành động khi đang giận sẽ đưa đến rất nhiều đau khổ và làm cho tình trạng thêm rắc rối. Điều đó không có nghĩa là ta phải đè nén cơn giận. Không nên cho rằng mọi chuyện đều êm xuôi trong khi sự thật không như mình tưởng. Chúng ta có thể cảm nhận và ứng xử cảm xúc giận một cách lành mạnh và đầy yêu thương. Khi đang giận ta phải chăm sóc cơn giận thật nhẹ nhàng vì cơn giận chính là ta lúc đó. Không nên ứng xử bằng bạo động. Bạo động khi đang giận là bạo động chính chúng ta.

Hơi thở chánh niệm giúp ta ghi nhận cơn giận và xử lý cơn giận một cách êm nhẹ. Năng lượng chánh niệm sẽ ôm ấp cơn giận, một năng lượng hung dữ mà ta phải ôm ấp trong một thời gian khá lâu. Khi nấu khoai, chúng ta phải đun bếp ít nhất là 15, 20 phút. Thực tập ôm ấp cơn giận cũng như thế. Cơn giận cần thời gian để “chín”.

Sau khi ngồi thở với ý thức chánh niệm và làm cho cơn giận lắng dịu, ta sẽ có cơ hội nhìn sâu vào cơn giận và tìm hiểu nguyên nhân của cơn giận. Gốc rễ của cơn giận là ở đâu? Cơn giận có thể là do nhận thức sai lầm hay là thói quen phản ứng trước những sự việc không xứng ý. Thông thường để chữa trị cơn giận, chúng ta được khuyên là nên bộc lộ cơn giận, “đem ra khỏi con người” của chúng ta, bằng cách đến một nơi vắng để la hét hay đấm đá vào một vật vô tri, ví dụ như một cái gối.

Tôi không cho rằng phương pháp ấy sẽ đem lại hiệu quả để chữa trị gốc rễ của cơn giận. Lấy ví dụ một lò đốt củi. Nếu lò hư bốc khói, ta mở cửa để cho khói bay ra nhưng lò vẫn còn hư và sẽ tiếp tục bốc khói. Phải sửa chữa cái lò trước đã. La hét hay đấm gối chỉ là lặp lại, là thao dượt và nuôi dưỡng cơn giận, làm cho cơn giận lớn mạnh thêm mà không thể “lấy nó ra khỏi con người” của bạn.

Bạn phải thực lòng tiếp cận với cơn giận để có thể chữa trị cơn giận. Khi đấm vào gối, bạn không thể thực sự tiếp cận với cơn giận để giúp cho bạn hiểu rõ cơn giận của bạn. Bạn cũng không thực sự tiếp cận với cái gối, bởi vì nếu bạn thực sự tiếp cận với cái gối thì bạn sẽ biết rằng đó chỉ là một cái gối!

Đè nén cơn giận có thể là nguy hiểm. Nếu không chăm sóc thì cơn giận sẽ bùng nổ. Cơn giận, cũng như một cảm xúc mạnh, luôn có xu hướng bộc lộ ra ngoài. Vậy thì phải xử lý cơn giận như thế nào? Cách hay nhất là trở về với mình và chăm sóc cơn giận. Chúng ta có thể nhớ lại câu thần chú thứ nhất để có mặt với chính mình và chăm sóc cơn giận của chúng ta. Chúng ta trở về với chính mình, thân và tâm hợp nhất. Trở về với hơi thở chánh niệm, bước đi chánh niệm. Có mặt có nghĩa là có chánh niệm, để rồi sử dụng chánh niệm để ghi nhận, để ôm ấp và nhìn sâu vào cảm xúc mạnh của mình.

Thường thường khi cơn giận nổi lên, ta có xu hướng muốn đối mặt với người ta nghĩ đã làm ta giận. Chúng ta muốn “hơn thua” với người làm ta giận hơn là làm một việc cấp thiết hơn: chăm sóc cơn giận. Chúng ta hành động như một người bị cháy nhà mà chỉ chạy theo đuổi bắt người đốt nhà chứ không lo chữa cháy.

Có nhiều cách để truyền thông cho một người về những gì mà người ấy đã gây nên cho bạn. Bạn có thể gửi đi một bức thư ngắn hay một email. Nhưng trước hết bạn phải thực tập hơi thở chánh niệm và chăm sóc cơn giận.

Đây là cơ hội đúng lúc nhất để thực tập câu thần chú thứ tư: “Tôi đang đau khổ. Xin giúp tôi”. Bạn có thể gọi điện thoại cho người kia khi bạn đã bớt giận, và chỉ khi mà bạn có thể nói với người kia một cách bình tĩnh là bạn đang đau khổ và bạn cần được giúp đỡ. Bạn muốn cho người kia biết rằng bạn đã hết lòng chăm sóc cơn giận của bạn. Bạn muốn người kia cũng thực tập như bạn. Yêu cầu được giúp đỡ rất khó khi đang giận, nhưng làm như thế là bạn muốn cho người khác biết rằng bạn đang đau khổ chứ không phải bạn muốn tỏ ra là mình đang giận. Những người ấy sẽ biết rằng đau khổ đã làm bạn giận và khi đó có thể bắt đầu truyền thông và chữa trị.

Giúp người bớt khổ

Khi ta và người ta thương bị chia rẽ thì cả hai ta đều đau khổ. Nếu ta không thực lòng lo lắng cho người kia thì ta đã không đau khổ như thế. Càng thân thương gần gũi với người làm ta giận thì ta càng đau khổ. Nếu tình trạng chia rẽ kéo dài quá lâu thì đến một lúc không thể nào hàn gắn được nữa.

Nhưng mà chừng nào còn chia rẽ thì ta luôn luôn muốn làm ngơ, muốn che lấp bởi vì ta không muốn chạm vào niềm đau nỗi khổ trong ta. Chúng ta tự nhủ rằng không có gì là đau khổ, nhưng thật ra đau khổ vẫn có đó, một khối lớn nội kết trong ta.

Đau khổ trong ta cần được hiểu thấu. Nhờ có thực tập, chúng ta chế tác năng lượng chánh niệm đủ mạnh để trở về ôm ấp đau khổ của ta mà không sợ hãi. Chánh niệm giúp ta ghi nhận đau khổ. Chánh niệm giúp ta ôm ấp đau khổ và đó là bước đầu tiên.

Khi một ai đã làm ta giận quá mức thì ta không muốn nhìn mặt người ấy, không muốn đến gần người ấy bởi vì ta không muốn đau khổ. Nhờ chánh niệm ta có thể hiểu rõ đau khổ của ta và đau khổ của người kia. Ta cũng có thể hiểu được rằng người kia đau khổ là vì đã không biết cách xử lý đau khổ. Đau khổ của người ấy lan tỏa và ta trở thành nạn nhân. Có thể người ấy không muốn gây đau khổ cho ta nhưng người ấy không biết cách nào khác hơn. Người ấy không biết tìm hiểu và xử lý đau khổ của mình nên đã gây đau khổ cho những người chung quanh, mặc dù không cố ý. Bởi vì người ấy đau khổ nên ta đau khổ. Người ấy không đáng bị trừng phạt, người ấy cần được giúp đỡ.

Ta có thể giúp bằng cách ghi nhận đau khổ nơi người ấy. Nếu có khó khăn trong việc truyền thông thì phải ghi nhận là có khó khăn. Chúng ta luôn có ý muốn cho rằng mọi việc đều êm xuôi vì chúng ta không muốn cảm thấy bị choáng ngợp. Nhưng nếu không thừa nhận là có khó khăn thì chúng ta không tìm hiểu và khởi tâm từ bi. Chúng ta sẽ có cảm tưởng mình bị loại bỏ và không có khả năng giúp.

Phải sử dụng truyền thông với tâm từ bi, lắng nghe sâu và ái ngữ để phục hồi liên hệ, truyền thông với người kia. Sau vài hơi thở chánh niệm, ta sẽ nói với người kia như sau.

“Tôi biết anh (chị) lúc này không mấy vui vẻ (hạnh phúc).”

“Trong quá khứ tôi đã không hiểu tâm ý của anh cho nên tôi đã phản ứng, đã làm anh đau khổ và tôi cũng đau khổ và đã không giải quyết được gì. Phản ứng của tôi đã làm cho tình trạng tồi tệ.”

“Tôi không có ý muốn làm cho anh đau khổ và làm cho tôi đau khổ. Chỉ vì tôi đã không hiểu niềm đau nỗi khổ của anh lẫn của tôi.”

“Bây giờ tôi đã hiểu cảm xúc của tôi khi gặp khó khăn và tôi cũng đã hiểu anh hơn. Điều đó giúp tôi xử lý hữu hiệu hơn.”

“Nếu anh thương tưởng tới tôi thì xin giúp tôi.”

“Xin anh mở rộng lòng. Tôi muốn lắng nghe. Tôi muốn hiểu rõ. Hãy nói cho tôi nghe niềm đau nỗi khổ của anh. Nếu anh không giúp tôi hiểu anh thì ai giúp tôi bây giờ?”

Trên đây chỉ là vài ví dụ. Điều quan trọng là nói ra những tâm sự của chính mình. Nếu tâm tràn đầy yêu thương thì những lời nói ra là những lời yêu thương. Khi lòng đầy giận dữ thì không thể nào nói ra những lời yêu thương. Nhưng khi đã có hiểu biết, đã có yêu thương thì ta có thể nói ra những lời yêu thương mà không cần một chút cố gắng. Một bác sĩ mà không biết rõ bệnh tình của bệnh nhân thì không thể nào điều trị được bệnh. Một chuyên gia phân tích tâm lý mà không hiểu rõ đau khổ của bệnh nhân thì không giúp được gì. Ái ngữ có thể mở cửa cho cơ hội lắng nghe sâu và giúp phục hồi truyền thông.

Cần phải có can đảm để công nhận rằng truyền thông của ta đang gặp khó khăn. Ta có thể nghĩ rằng cứ đợi thì người kia sẽ tìm đến với ta trước. Nhưng điều ấy có thể sẽ không xảy ra. Không thể chần chừ. Hãy bắt tay vào việc phục hồi truyền thông với tấm lòng rộng mở và đối thoại với tâm yêu thương. Ta có thể đặt ra cho ta một thời hạn chót. Khi những thiền sinh đến tu học tại Làng Mai, tôi cho họ thời hạn chót là đêm cuối của khóa tu để họ bắt đầu hòa giải. Nếu ta là một hành giả đích thực thì những người khác sẽ nhận biết ngay và cảm nhận ảnh hưởng từ ta. Có thể là họ không cảm nhận ngay tức thì nhưng lời ta nói, ánh mắt của ta sẽ có ảnh hưởng.

Đau khổ vì tự ái

Cổ tích Việt Nam có một câu chuyện nổi tiếng về một đôi vợ chồng đã đau khổ cùng cực vì không biết cách truyền thông trong chánh niệm. Chuyện kể một người chồng phải đi trận chiến, để lại người vợ đang mang thai. Ba năm sau, người chồng trở về. Người vợ bồng con ra đón chồng. Đây là lần đầu tiên anh chồng thấy con mình. Vợ chồng gặp nhau mừng mừng tủi tủi, phước đức được cùng nhau đoàn tụ sau chiến tranh.

Tại Việt Nam có một truyền thống là khi có một sự cố quan trọng trong gia đình thì chúng ta đến thắp nhang khấn vái trước bàn thờ tổ tiên. Người vợ ra chợ sắm sửa lễ vật để dâng cúng. Người chồng ở nhà, chơi với con và dạy cho con kêu anh ta là “cha”. Nhưng đứa bé không chịu. Nó nói, “Ông không phải là cha tôi. Cha tôi là một người khác. Cha tôi đến đây mỗi tối. Khi ông ấy đến thì mẹ nói chuyện với ông ấy rất lâu. Khi mẹ tôi ngồi, ông ấy cũng ngồi. Khi mẹ nằm thì ông ấy cũng nằm. Ông đâu phải là cha tôi”. Nghe em bé nói như thế, người chồng lặng người vì uất hận.

Theo thói thường, sau buổi lễ gia tiên thì cỗ bàn được dọn xuống và cả nhà quây quần cùng ăn uống vui vẻ. Nhưng người chồng sau khi cúng gia tiên xong, bỏ nhà ra quán uống rượu say mèm vì đau khổ. Và mỗi tối anh ta đều ra quán uống rượu như thế. Anh ta không nói với vợ một câu nào, không để ý đến vợ và không bao giờ ăn cơm nhà. Người vợ vì đau khổ cùng cực cho nên sau bốn ngày chịu đựng đã ra sông trầm mình tự tử.

Đêm hôm sau đám tang, người chồng thắp đèn lên thì đứa con chỉ vào bóng người cha trên vách và la lên, “Đó là cha tôi”. Sự thật đã xảy ra là người vợ, vì nhớ chồng mà đã nói chuyện với bóng mình trên vách như đang nói chuyện với chồng cho vơi bớt thương nhớ. Một hôm, đứa bé hỏi mẹ: “Bạn con trong làng đứa nào cũng có cha, vậy cha con đâu?”. Người mẹ muốn cho con an lòng bèn chỉ bóng mình lên vách mà nói: “Cha con đấy”. Lẽ tất nhiên là khi người vợ ngồi xuống thì cái bóng cũng ngồi xuống. Người chồng bây giờ mới biết là mình hiểu lầm nhưng đã quá trễ.

Nếu người chồng nói với vợ rằng: “Em ơi, mấy ngày hôm nay anh rất đau khổ. Em hãy nói cho anh biết người đàn ông kia là ai mà đã tới đây mỗi đêm để em cùng nói chuyện và khóc lóc?”. Đây là một việc rất đơn giản. Nếu anh ta hỏi như thế thì người vợ đã có cơ hội để giải thích, thảm kịch không xảy ra và hai vợ chồng đã có thể cùng sống hạnh phúc. Đó là một cách giải quyết trực tiếp nhất. Nhưng người chồng đã không làm như thế vì quá đau khổ và vì tự ái mà không đến với người vợ xin giúp.

Người vợ cũng rất đau khổ vì thái độ của người chồng nhưng đã không yêu cầu chồng mình giúp. Nếu người vợ hỏi chồng vì sao mà anh ta cư xử như thế thì người chồng đã có cơ hội nói cho người vợ biết câu nói của đứa con. Nhưng người vợ đã không hỏi, cũng vì tự ái.

Một nhận thức sai lầm có thể là nguyên nhân của rất nhiều đau khổ. Tất cả chúng ta ai cũng đã có lúc hiểu lầm. Chúng ta sống với nhận thức sai lầm mỗi ngày. Vì vậy ta nên thiền tập và thực tập nhìn sâu vào nhận thức của ta. Với bất cứ nhận thức nào, chúng ta đều phải tự hỏi: “Có chắc nhận thức của ta là đúng hay không?”. Muốn cho an toàn thì phải hỏi.

Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta luôn có nhận thức sai lầm. Có thể là người kia không có ý làm cho ta đau khổ. Truyền thông trong chánh niệm giúp giảm bớt khổ đau trong khi quan hệ với người khác.

Hòa giải trong gia đình

Sự truyền thông trong gia đình đôi khi cực kỳ khó khăn bởi vì những người chung sống thường có những đau khổ giống nhau và phản ứng trước hoàn cảnh giống nhau. Đau khổ trong gia đình thường là do cha mẹ hay tổ tiên truyền lại cho con cháu. Nếu không hiểu rõ và hòa giải đau khổ của chính mình thì ta sẽ trao truyền đau khổ xuống cho con cháu ta. Cho nên thực tập thiết lập truyền thông tốt đẹp không phải chỉ cho ta và người ta thương mà còn cả cho con cháu ta.

Hiểu được đau khổ của chính ta là hiểu được đau khổ của tổ tiên cha mẹ. Vì không thể xử lý và hóa giải đau khổ của mình, tổ tiên cha mẹ đã truyền những đau khổ của họ xuống cho con cháu. Chúng ta là những người thừa kế đau khổ của tổ tiên cha mẹ.

Khi còn trẻ, nhiều người đã quyết định là sẽ hành xử khác với cha mẹ. Chúng ta tự nghĩ là sẽ không bao giờ làm cho con cái đau khổ. Nhưng khi lớn lên, chúng ta lại hành xử y hệt như cha mẹ. Nhiều người đau khổ vì không biết cách xử lý năng lượng tiếp nhận từ ông bà cha mẹ. Chúng ta đã tiếp nhận không biết bao nhiêu hạt giống tích cực cũng như tiêu cực từ ông bà cha mẹ. Vì không biết cách chuyển hóa, ông bà cha mẹ đã trao truyền tập khí cho con cháu. Sự trao truyền ấy có khi tiếp nối qua nhiều thế hệ.

Phải ý thức rằng ta là sự tiếp nối của cha mẹ và tổ tiên. Phải thực tập chế tác chánh niệm để có thể ý thức và ôm ấp tập khí bằng năng lượng chánh niệm. Nhờ đó mà năng lượng của tập khí sẽ yếu dần.

Nếu tiếp tục thực tập như thế thì ta sẽ chấm dứt vòng luân hồi. Và như thế không những chính ta được lợi mà con cháu chúng ta cũng được lợi. Chúng ta cũng có thể giúp cho con cháu học cách xử lý năng lượng tập khí và nuôi dưỡng những yếu tố tích cực trong chúng.

Đau khổ do cha mẹ gây nên lúc ta còn nhỏ có lẽ là những đau khổ sâu kín nhất. Chúng ta có thể thù ghét cha mẹ và nghĩ rằng không thể nào hàn gắn với cha mẹ khi cha mẹ còn sống hay đã qua đời. Tuy nhiên, với thực tập hơi thở chánh niệm, bước chân chánh niệm và thực tập nhìn sâu, chúng ta có thể chuyển hóa và phục hồi truyền thông ngay cả trong những tình huống khó khăn nhất trong gia đình. Nếu người kia cũng tu tập thì sự hòa giải sẽ dễ dàng hơn, tuy nhiên vẫn có thể hòa giải dù người kia không biết tu tập.

Mối liên hệ với cha mẹ hay anh chị em có thể rất mực khó khăn. Có lẽ là vì thương tích lúc nhỏ, vì không được ai lắng nghe cho nên bây giờ họ tiếp tục vòng luẩn quẩn và không còn muốn lắng nghe ai nữa. Không nên đòi hỏi những người trong gia đình phải thay đổi. Một khi anh có thể phát triển năng lượng hiểu biết và thương yêu trong anh thì hòa giải trong gia đình có thể bắt đầu.

Tôi vẫn còn nhớ trong khóa tu tại Oldenburg, miền Bắc Đức quốc. Vào ngày thứ tư của khóa tu, tôi đã ra thời hạn chót cho mọi thiền sinh là trước 12 giờ khuya ngày hôm đó, nếu có ai đang gặp khó khăn trong mối quan hệ với một người nào thì phải tìm cách hòa giải ngay. Ngày hôm sau, một thiền sinh đã đến và nói với tôi: “Tôi giận cha tôi đã nhiều năm nay. Tôi không muốn nhìn mặt ông ta nữa. Ngay tối hôm qua, khi gọi điện thoại về cho cha tôi, tôi không nghĩ rằng tôi sẽ có đủ bình tĩnh để nói chuyện với ông ấy!”. Thế mà khi vị thiền sinh ấy nghe tiếng nói của người cha, anh ta đã sử dụng lời ái ngữ một cách tự nhiên, không cố gắng. Anh ta nói: “Con biết là ba đã đau khổ trong nhiều năm qua. Con xin lỗi. Con biết là con đã hành động, đã nói lên những điều không hay không phải. Con không cố ý làm cho ba đau khổ”. Người cha khi nghe tiếng nói đầy thương yêu của con trai mình, đã nói cho anh biết những đau khổ và khó khăn của mình. Đây là lần đầu tiên cha anh bộc lộ tâm tư của mình với con như thế.

Luôn luôn có thể hòa giải. Anh có thể tìm ra giải pháp cho những khó khăn trong khi liên hệ. Anh không cần để cho những khó khăn gây đau khổ tháng này sang tháng khác, năm này sang năm khác.

Bước thứ nhất là thực tập hơi thở, bước chân chánh niệm, thực tập chánh niệm với mỗi hoạt động trong ngày để có đủ vững chãi mà trở về với mình, để lắng nghe niềm đau nỗi khổ và nhìn sâu vào tính chất niềm đau nỗi khổ của chính mình. Nếu không biết lắng nghe niềm đau nỗi khổ của chính mình thì không có hy vọng gì để có thể cải thiện phẩm chất của mối liên hệ. Nhờ chánh niệm mà thương yêu biểu hiện và ta có thể chấp nhận ta. Và rồi ta sẽ có thể nhìn vào những người khác. Mặc dù có thể người kia không có mặt tại đó, ta vẫn có thể nhắm mắt lại và nhìn rõ những khổ đau mà người kia đã chịu đựng qua bao năm tháng. Nếu anh đã có thể nhận biết người kia đang đau khổ thì anh có thể tìm ra lý do vì sao người ấy đau khổ. Anh không còn giận người ấy nữa. Tâm anh sẽ tràn đầy yêu thương và anh sẽ bình tĩnh hơn mà phát tâm muốn nói một điều gì hay làm một việc gì để giúp người kia bớt đau khổ. Và anh sẽ có cơ hội hòa giải.

Truyền thông trong quan hệ lâu dài

Trong trường hợp của những mối quan hệ lâu dài, ví dụ như trong một gia đình, chúng ta thường có ý nghĩ rằng khó mà có sự thay đổi. Chúng ta nghĩ rằng đáng lẽ người kia phải thay đổi nhưng không thay đổi và chúng ta bỏ cuộc. Nhưng chúng ta cần chấm dứt mọi phán xét và trở về truyền thông với chính mình. Nếu chờ cha mẹ hay người bạn đường thay đổi thì biết tới bao giờ? Cách hay nhất là ta phải tự mình thay đổi trước đã. Không nên đòi hỏi, ép buộc người khác phải thay đổi. Mặc dù cần phải mất rất nhiều thời gian, ta sẽ cảm thấy thỏa mãn hơn khi nhận thấy mình đã làm chủ được mình, và đã hành xử một cách tốt đẹp nhất.

Đôi khi vì một ai đã làm ta bực mình mà ta muốn mở lời trách móc. Nếu ta hấp tấp trách mắng thì người kia cũng sẽ bực mình và cả hai, ta và người ấy, đều bực mình, đều trở nên khó chịu. Trời xanh, hoa thắm đều như tan biến. Chỉ còn hai khối giận sáp mặt. Đây là một trường hợp “leo thang xung đột, leo thang khổ đau”. Trong trường hợp này, ta phải tìm cách thoát ra khỏi tình huống đau khổ, trở về với mình, tìm lại bình an cho đến khi cảm thấy có đủ khả năng để giải quyết khó khăn trong thương yêu.

Chỉ khi đã cảm thấy bình tĩnh ta mới mời người kia nói chuyện. Ta có thể xin lỗi là đã không hiểu rõ người ấy nhiều hơn. Ta chỉ nói những lời ấy khi đã sẵn sàng. Rồi ta lắng nghe sâu sắc người ấy mặc dù người ấy than vãn, trách móc hay nói lời cay đắng. Ta có thể khám phá ra rằng người ấy đã có nhiều nhận thức sai lầm về ta và về sự việc đã xảy ra nhưng ta đừng ngắt lời họ. Hãy để cho họ nói. Hãy để cho người ấy nói ra hết tâm tư của mình và có cảm tưởng là ta đã nghe và đã hiểu. Ta tiếp tục theo dõi hơi thở trong khi người ấy nói. Ta sẽ tìm cách giải tỏa hiểu lầm, bằng phương tiện thiện xảo, thương yêu, và từ từ thông cảm sẽ được hồi phục.

Nếu ai đó nói ra một điều không đúng sự thật thì ta đừng ngắt lời người ấy: “Không, không, tôi đâu có ý ấy!”. Hãy để cho người ấy nói ra khó khăn của mình. Nếu ta ngắt lời thì người ấy sẽ không còn ý muốn nói và sẽ không nói hết ra những gì cần nói. Ta có dư thì giờ. Có thể ta cần bỏ ra nhiều ngày quán chiếu sâu sắc để có thể nói một cách khéo léo cho người kia biết nhận thức sai lầm của mình, khi người ấy sẵn sàng nghe ta. Ta và người ấy có thể giận nhau nhiều năm tháng chỉ vì một lý do nào đó và ta đã bị kẹt trong tình huống đó và không thể thay đổi hoàn cảnh. Nếu bạn có thể hiểu người ấy một cách sâu sắc thì bạn có thể hòa giải. Thương yêu, ái ngữ, và lắng nghe sâu là những phương tiện hữu hiệu nhất để tái lập truyền thông. Nếu ta biết tìm hiểu và biết tự chuyển hóa thì ta có thể giúp người ta thương.

Đôi khi, ta ở trong một môi trường không mấy lành mạnh và ta không có không gian để truyền thông với chính mình. Đôi khi ta phải thay đổi môi trường chung quanh ta. Đôi khi ta nghĩ rằng cắt đứt quan hệ hay ly dị là giải pháp duy nhất. Điều ấy có thể xảy ra trong một tình huống đầy bạo động và áp bức. Cho nên ta cần có một môi trường mà ta cảm thấy được bình an, không bị đe dọa. Nhưng trong một quan hệ mà cả hai người đều thương yêu nhau, không muốn gây hại cho nhau mà không biết làm sao để truyền thông thì có thể có những giải pháp khác. Có nhiều người cho rằng ly dị là một giải pháp. Nhưng sau khi đã cùng nhau ký vào tờ ly dị, họ tiếp tục đau khổ. Nếu hai người còn có con cái, tiền bạc, tài sản thì cả hai còn phải vương vấn nhiều năm. Ta không thể tách rời người kia ra khỏi ta. Ta không thể tách rời ta ra khỏi người kia. Đau khổ vẫn triền miên. Vậy thì vấn đề không phải là ta và người thương của ta có nên tiếp tục chung sống với nhau hay không. Vấn đề là hai bên có thể tìm hiểu nhau, có thể sử dụng ái ngữ, lắng nghe, mặc dù cơ sự xảy ra như thế nào đi nữa.

Thông cảm trong những hoàn cảnh khó khăn

Truyền thông với tâm thương yêu là một phương pháp vô cùng hữu hiệu để thiết lập thông cảm và mở lối thay đổi. Truyền thông với tâm thương yêu có thể giúp ích khi mà mọi người đều nghĩ là không thể nào có quan hệ và truyền thông, khi cả hai bên đều đầy giận dữ và sợ hãi.

Tôi đã chứng kiến điều này khi hai phái đoàn thiền sinh Do Thái và Palestine đến tham dự một khóa tu tại Làng Mai. Những ngày đầu của khóa tu thật khó khăn. Khởi đầu cả hai nhóm đều đầy lo sợ, hờn giận, và nghi kỵ. Họ không muốn nhìn mặt nhau. Họ nghi ngờ nhau quá đỗi. Họ không cảm thấy thoải mái khi nhìn nhau bởi vì họ đã quá đau khổ và nghĩ rằng những người phía bên kia đã gây nên đau khổ cho họ. Trong tuần lễ đầu, chúng tôi chỉ chú trọng vào việc thực tập truyền thông với chính mình. Cả hai nhóm đều thực tập hơi thở chánh niệm, chấm dứt suy nghĩ liên miên và lắng nghe thân tâm.

Phải chờ đến tuần lễ thứ hai, chúng tôi mới khuyến khích hai nhóm truyền thông với tâm thương yêu, thực tập lắng nghe và sử dụng ái ngữ. Mỗi người của mỗi nhóm được yêu cầu sử dụng lời nói sao cho phía bên kia, người lớn cũng như trẻ em, hiểu rõ những khổ đau mà họ đã trải nghiệm. Họ sẽ nói cho nhau nghe hết tất cả những khổ cực mà họ đã chịu đựng trong quá khứ. Nhưng họ phải sử dụng lời lẽ tươi mát, êm đẹp và sẽ không trách móc hay lên án.

Chúng tôi khuyên những người ngồi nghe sẽ nghe với tâm thương yêu. Nếu nghe một điều gì sai lạc, họ sẽ cố gắng không cắt đứt hay cải chính bởi vì họ sẽ có cơ hội và nhiều thì giờ để cho nhóm kia sửa đổi nhận thức sai lầm. Khi một bên đã lắng nghe bên kia thì họ bỗng khám phá ra rằng phía bên kia cũng đã đau khổ như họ mặc dù hoàn cảnh có khác nhau. Đây có lẽ là lần đầu nhiều người của nhóm này nhận ra rằng những người trong nhóm bên kia cũng là những con người như họ, cũng đã đau khổ như họ.

Một khi đã thấu hiểu niềm đau nỗi khổ của người khác thì chúng ta phát lòng thương và không còn sợ hãi, ghét bỏ người ấy được nữa. Ta có thể nhìn người ấy bằng con mắt khác. Và khi người ấy thấy được ánh mắt thương yêu, bao dung của ta thì lập tức sẽ bớt đau khổ.

Những buổi họp mặt của hai nhóm đã được tổ chức thế nào để mỗi nhóm có đủ thì giờ lắng nghe và giãi bày khổ đau của mình. Trong những buổi họp mặt ấy, một vài thầy cô, các vị xuất sĩ của Làng, không phải là người Do Thái hay Palestine, đã đến và cùng ngồi yên, cùng thở để hỗ trợ. Chúng tôi thực tập hơi thở chánh niệm và cống hiến năng lượng tập thể, giúp cho hai bên lắng nghe với sự hiện diện của các thầy cô rất quan trọng. Họ đã tạo nên năng lượng tập thể để hỗ trợ cho sự truyền thông và đối thoại trong chánh niệm giữa hai nhóm.

Tôi nghĩ rằng chúng ta cũng có thể thực tập như thế cho chúng ta hay cho bất cứ hai nhóm nào đang bị chia rẽ. Đôi khi những người Ấn sợ những người Hồi và người Hồi cũng sợ người Ấn. Hoặc là người theo Hồi giáo sợ những người theo Kitô giáo và ngược lại. Họ luôn luôn nghĩ rằng phe bên kia đe dọa an ninh và nếp sống truyền thống của họ.

Điều đầu tiên là quán chiếu sâu sắc để thấy rằng không phải chỉ có chúng ta đang đau khổ mà những người của phía bên kia cũng đang đau khổ như ta. Mới đầu chúng ta nghĩ rằng chỉ có chúng ta là những người bị đau khổ, bị sợ hãi. Nhưng nếu chúng ta có dịp gần gũi và quan sát thì chúng ta sẽ thấy những người kia cũng đang sợ hãi, sợ hãi như chúng ta và đau khổ như chúng ta. Khi thấy được như thế thì chúng ta sẽ bớt đau khổ ngay. Khi chúng ta có thể phát tâm yêu thương thì tâm yêu thương ấy sẽ chữa trị chúng ta, chữa trị người kia và chữa trị cả thế giới.

Đàm phán hòa bình

Tôi cho rằng những người trong chính quyền có trách nhiệm tổ chức các cuộc hòa đàm sẽ thành công hơn nếu họ tổ chức đàm phán như chúng tôi, nghĩa là tổ chức những cuộc họp mặt chú trọng lắng nghe và ái ngữ. Khi hai bên họp lại để đàm phán, họ không nên bắt đầu ngay vào việc đàm phán. Mỗi phía đều đang chìm đắm trong nghi ngờ, hờn giận và sợ hãi. Nếu còn nhiều cảm xúc nặng nề như thế thì khó mà đàm phán. Khởi đầu của cuộc đàm phán là để dành riêng cho việc thực tập hơi thở, bước chân chánh niệm, thực tập thiền tọa, thư giãn. Khi đó, cả hai bên mới sẵn sàng lắng nghe nhau và có ý muốn cũng như khả năng tìm hiểu nhau như là nền tảng cho một cuộc đàm phán có hy vọng thành công.

Nếu không khí trong khi đàm phán trở nên quá căng thẳng thì vị chủ tọa nên khuyên mọi người tạm ngưng và theo dõi hơi thở để lấy lại bình tĩnh. Ngay khi có một người đang trình bày ý kiến của mình, những người khác cũng nên dừng lại và cùng theo dõi hơi thở.

Khi tôi đến nói chuyện với một nhóm dân biểu tại Quốc hội Hoa Kỳ, tôi đã đề nghị một phương pháp tương tự. Chúng tôi đã tổ chức một buổi thiền tập và cùng nhau thực tập chánh niệm. Đó là nhiều năm về trước, nhưng cho đến bây giờ, một vài dân biểu tại Quốc hội vẫn còn thực tập đi trong chánh niệm. Đưa truyền thông với tâm yêu thương và sử dụng ái ngữ vào sinh hoạt chính trị là một việc có thể làm được và rất có ích.

Không có nơi nào, không có lúc nào mà không thể áp dụng truyền thông với tâm thương yêu và sử dụng ái ngữ. Không cần phải chờ tới một cơ hội đặc biệt nào cả. Có thể áp dụng cho mọi trường hợp và đem lại lợi ích. Nếu hành xử như thế hôm nay thì chúng ta có thể hàn gắn những đổ vỡ của quá khứ nhờ cảm thông, tuệ giác và chữa trị cho chúng ta, cho gia đình cũng như cộng đồng của chúng ta.

Truyền thông với chính mình

Cô đơn là khổ đau của thời đại. Ngay khi ở trong một đám đông chúng ta vẫn cảm thấy cô đơn. Cùng nhau chúng ta cô đơn. Trong ta như có một sự trống vắng khiến ta không mấy thoải mái. Rồi ta tìm liên kết với người khác để che lấp trống vắng trong ta, nghĩ rằng nếu liên kết được với người khác thì ta không còn cảm giác cô đơn.

Công nghệ kỹ thuật cung cấp cho chúng ta nhiều phương tiện để liên kết. Nhưng ngay khi đang liên kết với người khác, ta vẫn cảm thấy cô đơn. Chúng ta theo dõi email, gửi tin nhắn, và cập nhật thông tin nhiều lần trong ngày. Chúng ta muốn chia sẻ, muốn nhận tin. Chúng ta có thể bỏ ra cả ngày để liên kết nhưng ta đâu có thể giảm bớt cô đơn.

Chúng ta đều đói thương yêu nhưng không biết chế tác thương yêu để được nuôi dưỡng. Khi cảm thấy trống trải, ta dùng kỹ thuật để che lấp sự trống trải. Nhưng chúng ta thất bại. Chúng ta có nào là “mạng xã hội”, nào là email, nào là hội thảo trên màn hình (video conferencing). Chúng ta đánh tin nhắn (texting), mạn đàm bằng máy vi tính (posting). Chúng ta có điện thoại cầm tay. Chúng ta có đủ thứ. Nhưng rõ ràng là truyền thông của chúng ta không khá thêm chút nào. Nhiều người có điện thoại cầm tay vì muốn liên kết với người khác. Nhưng không nên tin tưởng quá nhiều vào chiếc điện thoại ấy. Tôi không có điện thoại nhưng tôi không xa cách với thế giới bên ngoài. Trái lại tôi có nhiều thì giờ cho tôi và cho người khác. Chúng ta nghĩ rằng điện thoại cầm tay giúp ta liên kết. Nhưng nếu lời nói không phải là lời nói chân thật thì sử dụng điện thoại hay gửi tin nhắn (texting) không có nghĩa là ta đang truyền thông.

Chúng ta tin tưởng quá nhiều vào kỹ thuật truyền thông. Nhưng đằng sau các dụng cụ ấy ta có trí óc. Trí óc là dụng cụ truyền thông căn bản. Nếu trí óc ta tê liệt thì không một dụng cụ nào có thể thay thế giúp ta truyền thông với chính ta hay với người khác.

Truyền thông vào bên trong

Nhiều người trong chúng ta dành rất nhiều thì giờ để họp bàn, để gửi email nhưng ít khi có thì giờ để nhìn lại chính mình. Kết quả là ta không biết những gì đang xảy ra trong ta. Có thể là trong ta đang rối beng và như vậy thì làm sao ta có thể truyền thông với người khác?

Ta nghĩ rằng nhờ công cụ kỹ thuật mà ta có thể truyền thông. Nhưng đó là ảo tưởng. Trong cuộc sống hằng ngày ta đã bị tách rời khỏi ta. Chúng ta đi mà không biết là mình đang đi, không biết mình đang ở đâu, không ý thức là mình đang sống. Suốt cả ngày chúng ta đánh mất mình.

Dừng lại để trở về truyền thông với mình là một hành động cách mạng. Hãy ngồi xuống để chấm dứt tình trạng lạc lõng, xa cách với chính mình. Chỉ cần ngừng lại, ngồi xuống và thiết lập mối liên hệ với chính mình. Ta gọi đây là chánh niệm tỉnh thức. Chánh niệm là ý thức giây phút hiện tại. Không cần phải có iPhone hay máy vi tính. Chỉ cần ngồi xuống và theo dõi hơi thở. Chỉ trong vài giây là ta có thể thiết lập liên hệ lại với ta. Ta biết những gì đang xảy ra trong ta, trong thân thể ta, trong cảm thọ ta cũng như trong ý tưởng ta.

Vai trò của máy vi tính

Khi cảm thấy truyền thông khó khăn hay ngại người kia nghe không biết rõ thì cách tốt nhất là biên thư hay gửi email. Nếu ta viết một bức thư đầy hiểu biết và thương yêu thì ngay khi đang viết ta đã nuôi dưỡng ta. Lời lẽ trong thư sẽ nuôi dưỡng người nhận thư nhưng trước hết sẽ nuôi dưỡng ta. Thư hay email chưa gửi đi nhưng khi đang viết, lời lẽ trong thư sẽ nuôi dưỡng ta vì nó chứa đầy hiểu biết, thương yêu.

Nhất là khi mới bắt đầu tu tập, viết thư là một phương pháp khá dễ để thực tập truyền thông trong chánh niệm. Viết thư như thế có lợi cho sức khỏe. Áp dụng chánh niệm bằng việc viết thư, đánh tin nhắn, gửi email với lòng hiểu biết thương yêu thì những điều đó sẽ giúp xóa bỏ sợ hãi, hờn giận nơi người nhận.

Vậy cho nên khi sử dụng điện thoại hay máy vi tính thì phải nhớ rằng mục đích của điện thoại hay máy vi tính là để truyền thông với tâm thương yêu. Thường thường chúng ta hay hấp tấp gửi đi tin nhắn hay email. Viết xong là ta bấm ngay nút “gửi” (“send”) và thư đi trong nháy mắt. Nhưng không cần phải hấp tấp. Chúng ta dư thì giờ để thở vào, thở ra một hơi trước khi bấm nút “gửi” hay nhấc điện thoại. Làm như vậy ta có nhiều cơ hội để gửi đi nhiều truyền thông thương yêu hơn cho đời.

Về nhà

Bắt đầu thực tập chánh niệm là lên đường về nhà. Nhà là nơi ta không còn cô đơn, là nơi ấm cúng, dễ chịu, là nơi an toàn, thỏa thích. Chúng ta đã bỏ nhà đi xa khá lâu, nhà ta không ai chăm sóc.

Nhưng thật ra con đường về nhà đâu có xa. Nó ở ngay trong ta. Chỉ cần ngồi xuống, ta với ta, và chấp nhận tình trạng trước mắt. Có thể là nhà ta thật đang ngổn ngang, nhưng ta đành chấp nhận thôi vì ta đã bỏ nhà mà đi quá lâu. Và bây giờ ta đã về đến nhà. Với hơi thở vào ra, hơi thở chánh niệm, ta bắt đầu sắp xếp dọn dẹp lại căn nhà của ta.

Truyền thông với hơi thở

Đường về nhà bắt đầu với hơi thở. Nếu ta biết cách thở thì ta có thể học cách đi, cách ngồi, cách ăn, cách làm việc trong chánh niệm để nhờ đó mà ta bắt đầu biết rõ mình. Khi thở vào ta trở về với ta. Khi thở ra ta thư giãn. Khi ta đã có thể truyền thông với chính ta thì ta cũng có thể truyền thông với bên ngoài một cách sáng tỏ. “Lối ra tùy thuộc đường vào nội tâm”.[1]

Hơi thở chánh niệm là một phương tiện truyền thông như đường dây điện thoại. Hơi thở chánh niệm nối kết tâm và thân, giúp ta ý thức cảm thọ trong ta. Chúng ta thở không ngưng nhưng ít khi chúng ta để ý đến hơi thở trừ khi ta bị nghẹt thở.

Với hơi thở chánh niệm, khi thở vào ta biết là ta đang thở vào. Ta chú ý vào hơi thở vào. Khi thở ra ta biết là ta đang thở ra. Ta chú ý vào hơi thở ra.

Để tự nhắc nhở ta có thể nói thầm:

“Thở vào tôi biết là tôi thở vào, Thở ra tôi biết là tôi thở ra.” 

“Hơi thở đang đi vào thân tôi, Hơi thở đang đi ra khỏi thân tôi.”

Hãy theo dõi suốt chiều dài của hơi thở vào, hơi thở ra. Lấy ví dụ hơi thở của anh dài bốn giây thì trong khi thở vào anh sẽ chú tâm hoàn toàn vào hơi thở, không gián đoạn. Trong khi thở ra anh cũng chú tâm vào hơi thở ra. Anh an trú nơi hơi thở vào, hơi thở ra. Anh không là gì khác. Anh là hơi thở vào của anh. Anh là hơi thở ra của anh.

Thở vào, thở ra như thế là thực tập để được tự do. Mỗi khi chú tâm vào hơi thở, ta buông bỏ tất cả, buông bỏ lo lắng tương lai, buông bỏ tiếc nuối quá khứ, ý thức được những cảm thọ của ta trong giây phút hiện tại. Cứ như thế suốt hai mươi bốn giờ một ngày ta theo hơi thở vào, ra. Luôn có mặt chăm sóc tự thân. Chỉ cần vài giây để thở là ta tự giải thoát.

Nhìn một người ta có thể nhận ra là người ấy đang thở trong chánh niệm. Người ấy bộc lộ phong thái tự do. Nếu tâm ta đầy sợ hãi, lo âu, tiếc nuối thì ta không có tự do, dầu cho ta ở địa vị nào trong xã hội, dầu cho ta giàu có đến đâu đi chăng nữa. Tự do thực sự chỉ có được khi ta không còn đau khổ và trở về với tự thân, khi ta “trở về nhà”. Tự do quý hóa không gì bằng. Tự do là nền tảng của hạnh phúc và có sẵn đó cho ta với từng hơi thở.

Không suy nghĩ và không nói năng

Hạnh phúc có được khi ta truyền thông với ta. Muốn vậy ta phải cất đi chiếc điện thoại. Khi đang trong buổi họp hay tham dự lễ ta hãy tắt điện thoại. Vì sao? Vì ta muốn truyền thông và tiếp nhận truyền thông.

Truyền thông với chính mình cũng vậy. Không thể nào truyền thông với mình bằng chiếc điện thoại. Chúng ta quen suy nghĩ, quen nói năng không ngừng nghỉ. Nếu muốn truyền thông với chính mình thì phải thực tập ngưng suy nghĩ, ngưng nói năng.

Không suy nghĩ là một thực tập rất quan trọng. Lẽ tất nhiên suy nghĩ hay nói năng có thể đem lại kết quả. Nhưng phần đông chúng ta bị mắc kẹt vì tâm trí bận về quá khứ, tương lai, vọng tưởng điên đảo, thị phi thắc mắc.

Vọng tưởng đến chớp nhoáng và ta bị kẹt vào vọng tưởng. Lời nói hay hành động của ta vì vọng tưởng mà trở nên nguy hiểm. Trong trường hợp này, tốt hơn là không nên nói gì hay làm gì cả. Vì vậy cho nên truyền thống thiền tập khuyên ta nên “cắt đứt con đường của lời nói và chữ nghĩa”. Phải cắt đứt lời nói và chữ nghĩa vì nếu tiếp tục sử dụng thì ta sẽ bị kẹt vào lời nói và chữ nghĩa của chính ta.

Thở hơi thở chánh niệm là thực tập ngưng suy nghĩ, ngưng nói năng. Không suy nghĩ, không nói năng thì không còn chướng ngại cho việc vui hưởng phút giây hiện tại. Ta có thể cảm thấy hạnh phúc khi ta thở hơi thở vào, ra, khi ngồi, khi đi, khi ăn sáng, khi tắm gội, khi chùi cầu, khi làm vườn. Khi ngưng nói năng, suy nghĩ và lắng nghe ta trong chánh niệm ta sẽ nhận ra rằng ta có thêm khả năng và cơ hội để được hạnh phúc.

Mặt khác, khi ngưng nói năng suy nghĩ và bắt đầu lắng nghe chính mình thì ta sẽ nhận ra những khổ đau của đời mình. Có thể thân ta đang bị đau nhức, căng thẳng. Có thể trong ta có những đau nhức, những lo sợ bị che lấp vì ta đang bận nói năng, suy nghĩ hay nhắn tin (texting).

Chánh niệm giúp ta lắng nghe niềm đau, nỗi khổ, lo sợ trong ta. Khi niềm đau, nỗi khổ trỗi dậy ta không nên trốn chạy; trái lại ta phải trở về để chăm sóc khổ đau trong ta. Ta không sợ bị tràn ngập bởi vì ta biết cách sử dụng hơi thở, bước đi để chế tác năng lượng chánh niệm để nhận diện và chăm sóc khổ đau. Nếu năng lượng chánh niệm trong ta khá mạnh nhờ thực tập bước đi, hơi thở thì ta sẽ không lo sợ khi đối diện với chính mình.

Tôi không cảm thấy chiếc điện thoại cầm tay là cần thiết bởi vì tôi đã mang theo trong tôi năng lượng chánh niệm như là thiên thần hộ mạng, luôn luôn có đó trong tôi, giúp tôi không còn lo sợ trước những niềm đau, nỗi khổ. Mang theo chánh niệm trong người quan trọng hơn mang theo chiếc điện thoại cầm tay. Anh có thể nghĩ rằng có chiếc điện thoại cầm tay trong người là an toàn. Nhưng sự thật là chánh niệm sẽ bảo hộ anh, giúp anh giảm bớt đau khổ, và hoàn thiện truyền thông hơn hẳn điện thoại cầm tay.

Hãy trở về

Giây phút tĩnh lặng khi ngừng suy nghĩ và nói năng tạo không gian để ta thực sự lắng nghe ta. Ta không phải xa lánh khổ đau. Ta không cần khỏa lấp những gì làm ta khó chịu. Trái lại ta phải có mặt cho ta, để hiểu, nhờ đó mà ta có thể chuyển hóa.

Hãy trở về nhà và lắng nghe. Nếu anh không truyền thông được với anh thì anh không thể truyền thông với ai khác. Hãy trở về, tiếp tục trở về, đem thương yêu mà truyền thông với chính mình. Đó là phép thực tập. Anh phải trở về và lắng nghe niềm hạnh phúc đang có lúc này. Anh phải trở về và lắng nghe khổ đau trong tâm và trong thân anh, và học cách ôm ấp, thoa dịu khổ đau.

Truyền thông với thân

Nếu luôn giữ tâm chánh niệm thì ta có thể tiếp tục thở trong chánh niệm trong khi hoạt động suốt ngày. Nhưng năng lượng chánh niệm sẽ mạnh hơn, có thêm năng lực chữa trị và giúp cho truyền thông được thành công hơn nếu ta tạm ngừng công việc và ngồi yên vài phút. Sau khi thủ tướng Nelson Mandela được phóng thích và đến thăm nước Pháp, một ký giả đã hỏi về điều mà ông muốn nhất. Thủ tướng Nelson Mandela trả lời: “Ngồi yên và chẳng làm gì cả”. Bởi vì kể từ ngày ra khỏi tù và chính thức tham gia chính trị, ông không có thì giờ rảnh để ngồi xuống trong thảnh thơi. Chúng ta nên dành thì giờ để ngồi yên, dầu chỉ vài phút, bởi vì ngồi yên là một niềm vui.

Lúc ta bứt rứt, loay hoay không biết phải làm gì là lúc mà ta nên ngồi xuống. Ngay cả khi ta cảm thấy bình an thì ngồi yên cũng là tốt, ngồi để nuôi dưỡng thói quen thực tập ngồi yên. Khi ngừng lại và ngồi xuống, ta theo dõi hơi thở vào ra trong niềm vui và mọi chuyện sẽ tốt đẹp hơn bởi vì giờ phút hiện tại đang có đó cho ta.

Phải thở thế nào để có được niềm vui. Khi ngồi xuống và thở trong chánh niệm thì thân và tâm sẽ truyền thông và gặp nhau. Đây là một phép lạ bởi vì thường thường thì tâm một nơi và thân một ngả. Tâm ta mãi lo toan tính cho dự án. Tâm ta mãi tiếc nuối quá khứ, lo lắng tương lai. Tâm ta xa cách thể xác.

Khi thở hơi thở chánh niệm thì thân và tâm hội ngộ. Không cần phải sử dụng kỹ thuật cao siêu, chỉ cần ngồi yên và thở trong chánh niệm là ta có thể đem tâm về với thân, thành phần chủ yếu của ngôi nhà của ta. Khi ngồi trước máy vi tính nhiều giờ ta có thể quên đi là ta đang có một thân người cho đến lúc rã rời mệt mỏi. Không nên đợi đến lúc đó mới dừng lại và trở về với thân mình.

Để tăng cường ý thức về sự liên kết giữa thân và tâm ta có thể đọc thầm câu kệ:

“Thở vào tôi ý thức thân tôi

Thở ra tôi thư giãn căng thẳng trong thân tôi.”

Thiền hành

Bước chân chánh niệm là một cách mầu nhiệm đem tâm về với thân. Bước chân chánh niệm còn cho ta cơ hội tiếp xúc với nguồn nuôi dưỡng và trị liệu bên ngoài ta: địa cầu. Bước một bước với ý thức trọn vẹn là ta đang tiếp xúc với mặt đất, với địa cầu thì không còn cách biệt giữa thân và tâm. Thân là hơi thở. Thân là bàn chân. Thân là buồng phổi. Và khi ta liên kết với bước chân, với hơi thở là ta đã về nhà.

Mỗi bước chân đem ta về nhà, về với bây giờ và ở đây, để ta có thể liên kết với ta, với thân, với cảm thọ của ta. Đây là một liên kết thật sự. Ta không cần có một thiết bị (device) nào để cho ta biết ta có bao nhiêu bạn (như Facebook), ta đã bước bao nhiêu bước, đốt bao nhiêu ca-lo-ri (calories).

Khi bước đi trong chánh niệm ta phối hợp mỗi bước chân với hơi thở, chú tâm vào bước chân đang in dấu trên mặt đất. Bước một bước ta ý thức ta đang bước đi một bước và chấm dứt hoàn toàn suy nghĩ. Khi suy nghĩ ta đánh mất ta. Ta không còn biết những gì đang xảy ra trong thân, trong cảm thọ, hay những gì đang xảy ra ngoài ta. Suy nghĩ khi đang đi không thực sự là đi.

Thay vào đó ta phải chú tâm vào hơi thở và bước chân. Ý thức rõ rệt bàn chân, cử động của bàn chân, và mặt đất mà ta đang dẫm lên. Khi chú tâm vào mỗi bước đi ta sẽ có tự do bởi vì đó là lúc tâm ta gắn liền với bước đi, không còn bị cuốn hút bởi chuyện quá khứ hay chuyện tương lai. Bước một bước ta được tự do một bước.

Trong khi bước ta có thể nói thầm “Đã về, đã tới”. Câu nói ấy không phải là một lời tuyên bố hay là để xác nhận ta đang thực tập. Câu nói ấy là thực chứng. Không cần chạy đi đâu hết, ta đã rong ruổi suốt đời. Bây giờ thì ta phải sống cho đàng hoàng.

Bây giờ và ở đây là ngôi nhà mà ta phải trở về, là nơi mà biết bao nhiêu mầu nhiệm của sự sống sẵn có, là nơi mà tấm thân mầu nhiệm của ta sẵn có. Ta không thể trở về với bây giờ và ở đây nếu ta không đầu tư toàn thân và tâm ta vào hiện tại. Nếu không về được một trăm phần trăm thì phải dừng lại, không bước thêm một bước nào nữa. Dừng lại và theo dõi hơi thở cho đến khi ta chắc một trăm phần trăm là ta đã về. Khi đó ta có thể mỉm cười đắc thắng. Nên đi như thế chỉ khi nào ta đi thiền hành một mình. Đi thiền hành với nhiều người mà dừng lại như thế e sẽ gây ứ đọng.

Anh không cần một ứng dụng (app) hay một người khác nhắc cho anh biết là anh đã về. Anh biết là anh đã về vì anh nhận ra rằng anh cảm thấy thoải mái. Khi đi từ bãi đậu xe tới văn phòng hãy đi như thế nào để mỗi bước chân đưa ta trở về. Thức tỉnh và liên kết với mình trong từng bước chân. Bất cứ là đi đâu chúng ta cũng có thể đi như một người tự do trên địa cầu này, thưởng thức từng bước chân đi.

Mỗi bước chân chánh niệm đem ta về tiếp xúc với thân ta và thân của địa cầu. Những bước chân ấy có thể cứu chúng ta ra khỏi tình trạng cô độc, cách biệt.

Đi trên mặt đất chữa trị tâm trạng lạc loài

Nhiều người trong chúng ta sống một cuộc sống tách rời khỏi địa cầu và khỏi tấm thân mình. Chúng ta sống riêng rẽ, cách biệt. Chúng ta, những con người, có khi rất mực cô đơn. Chúng ta không chỉ sống cách biệt với địa cầu, cách biệt người này với người kia mà còn cách biệt với cả chính mình. Cả ngày có khi ta quên đi là ta có một tấm thân. Nhưng khi ta bắt đầu thực tập hơi thở chánh niệm và lắng nghe thân mình là ta cũng bắt đầu nhìn sâu và thấy rằng chung quanh ta có địa cầu. Ta tiếp xúc với mặt đất và không còn cảm thấy cách biệt, lạc loài khỏi thân ta và khỏi địa cầu.

Chúng ta thường nghĩ rằng quả địa cầu là “môi trường” quanh ta. Nhưng nếu nhìn cho sâu ta sẽ thấy rằng địa cầu là một thực thể sống động, đầy mầu nhiệm. Nhiều khi, trong cô đơn, ta quên đi rằng ta có thể liên kết trực tiếp với đất mẹ.

Tiếp xúc khổ đau

Khi thở hơi thở chánh niệm và lắng nghe thân thể, ta bắt đầu ý thức cảm thọ khổ đau mà ta đã từng bỏ quên. Ta ôm giữ những cảm thọ ấy trong thân cũng như trong tâm ta. Khổ đau trong ta từng kêu gọi sự chú ý của ta nhưng ta đã phí biết bao thì giờ và sức lực, nhắm mắt làm lơ.

Khi thở hơi thở chánh niệm, những cảm thọ cô đơn, buồn bã, sợ hãi, lo âu trong ta sẽ có cơ hội trỗi dậy. Trong trường hợp ấy ta không cần phải hành động gì ngay mà chỉ cần tiếp tục hơi thở chánh niệm vào, ra. Ta không xua đuổi lo sợ, ta không xua đuổi hờn giận. Ta chỉ nhận diện và chấp nhận. Những cảm thọ ấy chẳng khác gì em bé đang níu chéo áo ta. Hãy bồng em bé lên một cách dịu dàng. Ghi nhận cảm thọ mà không phán xét, không xua đuổi, ôm ấp cảm thọ trong chánh niệm là hành động trở về nhà.

Khổ đau của tổ tiên

Trong khổ đau của ta có khổ đau của cha mẹ, tổ tiên ta. Cha mẹ, tổ tiên ta đã không có cơ may thực tập chánh niệm, vì thế mà không chuyển hóa được khổ đau của mình và đã trao truyền khổ đau đó cho ta. Nếu ta hiểu biết và chuyển hóa những khổ đau của cha mẹ, tổ tiên thì chúng ta chữa trị cho cha mẹ, tổ tiên và đồng thời cũng chữa trị cho chính ta.

Khổ đau của ta phản ảnh khổ đau của thế giới. Kỳ thị, bóc lột, nghèo đói, và sợ hãi gây nên khổ đau chung quanh ta. Khổ đau của ta cũng phản ảnh khổ đau của những người khác. Ta có ý muốn tìm cách làm vơi bớt khổ đau trên thế giới. Nhưng nếu không hiểu rõ thực chất của khổ đau thì ta không thể thực hiện ý nguyện ấy được. Nếu hiểu rõ khổ đau của chính ta thì ta có thể hiểu rõ dễ dàng khổ đau của những người khác và của thế giới. Chúng ta có thể có thiện chí muốn làm một việc hay đóng một vai trò để giúp cho thế giới bớt khổ đau. Tuy nhiên, nếu chúng ta không trở về với khổ đau của chính mình, ghi nhận đau khổ của chính mình thì chúng ta không thể giúp gì được.

Lắng nghe sâu

Khổ đau trong ta và chung quanh ta có thể làm ta choáng ngợp. Thường thường ta không muốn đối diện khổ đau vì ta không mấy thoải mái khi đối diện chúng. Thị trường đầy rẫy những phương tiện giúp ta trốn tránh khổ đau. Chúng ta tiêu thụ để lãng quên và che lấp khổ đau trong ta. Dù không đói, chúng ta vẫn ăn. Dù cho chương trình tivi không mấy hấp dẫn, chúng ta không có can đảm tắt máy bởi vì nếu chúng ta tắt tivi thì chúng ta phải trở về đối diện với khổ đau trong ta. Ta tiêu thụ không phải vì nhu cầu mà vì sợ phải đối diện khổ đau trong mình.

Nhưng có một cách giúp ta đối diện khổ đau mà không bị choáng ngợp. Chúng ta tránh né khổ đau bởi vì chúng ta không ý thức rằng khổ đau cũng có ích. Chúng ta cần tới khổ đau. Trở về để lắng nghe và thấu hiểu khổ đau, ta phát khởi từ bi và thương yêu. Nếu để thì giờ lắng nghe khổ đau thì có thể hiểu được khổ đau. Khổ đau sẽ triền miên nếu không được giải tỏa và chấp nhận. Nếu không thấu hiểu và chuyển hóa khổ đau thì ta mang hoài khổ đau, không chỉ khổ đau của riêng ta mà cả khổ đau của tổ tiên. Tiếp xúc với những khổ đau do tổ tiên trao truyền giúp ta thấu hiểu khổ đau của chính chúng ta. Hiểu thấu khổ đau đưa đến từ bi. Thương yêu sẽ phát hiện và lập tức ta bớt khổ. Nếu biết rõ tính chất và gốc rễ của khổ đau, con đường giải thoát khổ đau sẽ hiện rõ trước mắt. Biết rằng có con đường thoát, ta nhẹ nhõm và không còn sợ hãi.

Khổ đau đem lại hạnh phúc

Hiểu được khổ đau luôn luôn đưa tới từ bi. Nếu không hiểu được khổ đau thì không hiểu được hạnh phúc. Nếu biết cách chăm sóc khổ đau thì sẽ biết cách chăm sóc hạnh phúc. Cần có khổ đau để nuôi lớn hạnh phúc. Vì sự thật là khổ đau đi liền với hạnh phúc. Khi hiểu rõ khổ đau ta sẽ hiểu rõ thế nào là hạnh phúc. Nếu ta biết cách xử lý khổ đau thì ta sẽ biết cách xử lý hạnh phúc và chế tác hạnh phúc.

Sen phải cắm rễ xuống bùn mới mọc. Từ bi phát khởi từ hiểu biết khổ đau. Tất cả chúng ta phải học cách ôm ấp khổ đau, lắng nghe khổ đau và quán chiếu tính chất của nỗi khổ niềm đau trong mình. Nhờ đó ta chế tác được năng lượng thương yêu và từ bi. Một khi năng lượng thương yêu phát khởi trong ta thì tức khắc ta sẽ bớt đau khổ. Khi đã bớt đau khổ, thì ta có thể hiểu rõ đau khổ của người khác và của thế gian. Từ đó sự truyền thông của chúng ta với người khác là do ý muốn hiểu biết khổ đau của người khác chứ không phải do ý muốn chứng minh hành động của ta hay ý muốn tìm được một chút thỏa mãn trong lòng. Ý nguyện giúp đỡ là ý nguyện duy nhất.

Hiểu rõ khổ đau của mình giúp hiểu rõ người khác

Tôi có biết một bà ở Washington D.C. có ý định tự tử vì bà ta không biết làm thế nào để thoát khỏi khổ đau. Bà không còn hy vọng vì gặp khó khăn khi sống với chồng và ba người con. Có một người bạn muốn cho bà ta nghe một bài pháp thoại của tôi. Bà từ chối vì bà là người theo Công giáo và bà nghĩ rằng nghe một bài pháp thoại Phật giáo là trái với Đức tin.

Vào đêm dự định tự tử, bà ta gọi điện thoại cho cô bạn để giã từ. Cô bạn bèn nói, “Trước khi chị tự kết liễu đời mình, mời chị đến đây với tôi để chia tay. Kêu taxi và đến đây”. Khi bà ta tới, cô bạn yêu cầu bà ta, như làm ơn, ngồi nghe bài pháp thoại ghi âm “Trước khi quyết định tự tử”. Bà ta miễn cưỡng nhận lời để vừa lòng bạn mình.

Sau khi nghe xong bài pháp thoại, bà tò mò và quyết định ghi tên tham dự một khóa tu về chánh niệm. Sau khóa tu, bà bắt đầu lắng nghe khổ đau của mình. Trước kia, bà đã nghĩ rằng cách duy nhất để chấm dứt khổ đau là tự tử. Khó mà lắng nghe khổ đau của chính mình. Nhưng bà đã học được phép trở về với hơi thở, với khổ đau của mình. Bà khám phá ra rằng mình đã tạo ra rất nhiều nhận thức sai lầm và ôm ấp rất nhiều hờn giận. Bà nghĩ rằng chồng bà và cả nhà đã làm cho bà đau khổ. Nhưng bây giờ bà đã thấy rằng bà cũng có trách nhiệm về khổ đau của bà. Bà nghĩ rằng chồng bà không đau khổ, chồng bà chỉ làm cho bà đau khổ. Nhưng bây giờ hiểu biết của bà đã thay đổi và bà đã có thể nhận ra rằng chồng bà cũng đau khổ. Đây là một thành tựu đáng kể. Mỗi khi thấy được khổ đau của mình thì có thể thấy được khổ đau của người khác, có thể thấy trách nhiệm của mình, là mình đã gây nên đau khổ cho mình và cho người khác.

Vào cái đêm hôm bà về nhà, bà đã đến ngồi gần chồng và nói với ông: “Em biết anh đã đau khổ rất nhiều trong những năm qua. Em đã không giúp được anh. Vì vậy tình trạng càng trở nên tồi tệ. Em không cố ý làm cho anh đau khổ. Chỉ vì em không hiểu rõ anh. Em đã không thấy khổ đau trong anh. Anh hãy nói những khổ đau của anh cho em nghe đi. Hãy giúp em hiểu anh”. Bà ta đã có thể sử dụng ái ngữ để nói chuyện với chồng bà. Và ông ta đã khóc như một đứa bé vì trước đây bà chưa bao giờ nói với ông những lời thương yêu như vậy. Mối tình giữa hai người rất đẹp lúc ban đầu nhưng dần dần nó đã đầy những giận hờn tranh cãi và thiếu truyền thông chân thật. Đêm hôm đó là đêm bắt đầu cho sự hòa giải giữa hai người. Hai tuần lễ sau, hai vợ chồng và mấy người con đã đến kể cho tôi nghe câu chuyện này.

Thương yêu chính mình là nền tảng của từ bi

Ta thường nghĩ rằng ta biết rất rõ, hiểu rất rõ người ta thương, nhưng không hẳn là như thế. Nếu ta không biết rõ khổ đau của ta thì làm sao ta có thể hiểu rõ khổ đau của một người khác? Không nên tin chắc là ta đã hiểu hết những gì liên quan đến người kia. Ta phải tự hỏi, “Tôi đã hiểu rõ tôi chưa? Tôi đã hiểu rõ khổ đau và nguồn gốc khổ đau của tôi chưa?”

Một khi ta đã có ít nhiều hiểu biết và tuệ giác về khổ đau của chính ta thì ta mới có thể hiểu biết và truyền thông với người khác. Nếu anh không chấp nhận được anh – nếu anh ghét bỏ anh, oán giận anh – thì làm sao anh có thể thương yêu một người khác và truyền đạt thương yêu đến người ấy?

Hiểu mình là tối thiết để hiểu người khác. Thương mình là tối thiết để thương người khác. Khi đã hiểu rõ khổ đau của mình thì ta sẽ bớt khổ và có thể hiểu rõ hơn khổ đau của người khác. Khi đã biết một người đang đau khổ và thấy rõ nguồn gốc của đau khổ nơi người ấy thì ta khởi tâm từ bi. Ta không còn ý muốn trừng phạt hay trách móc. Ta có thể lắng nghe và nói lời ái ngữ với tâm hiểu và thương. Và người nghe ta sẽ cảm thấy thoải mái vì những lời đầy hiểu và thương của ta.

Trở về quán chiếu tự thân để hiểu rõ khổ đau và gốc rễ của khổ đau là bước khởi đầu. Chỉ khi ta đã hiểu rõ khổ đau và gốc rễ khổ đau của ta thì ta mới có thể truyền thông với người khác và giúp họ bớt khổ. Liên hệ giữa ta và những người khác tùy thuộc khả năng hiểu rõ khổ đau và ước vọng nơi ta và nơi những người ấy. Khi ta thực sự trở về nhà, với chính ta và lắng nghe mình là ta có thể vui sống từng giây phút còn lại của cuộc đời. Ta có thể vui sống từng giây phút. Ta có thể truyền thông một cách tốt đẹp nhờ hơi thở chánh niệm, ta bắt đầu hiểu rõ mình, hiểu rõ khổ đau của ta, và hiểu rõ hạnh phúc của ta. Ta biết cách xử lý khổ đau và từ đó biết cách chế tác hạnh phúc. Và nếu bạn thực sự hạnh phúc thì ai ai cũng được lợi lạc từ hạnh phúc của bạn. Thế giới này đang cần những người hạnh phúc.

[1] Nguyên văn: “The way out is in”.

Thức ăn thiết yếu

Không gì có thể sống sót nếu không có thức ăn. Ta thường nghĩ rằng ta được nuôi dưỡng nhờ những thức ăn được đưa vào cơ thể bằng miệng, nhưng những gì ta tiêu thụ bằng mắt, tai, mũi, lưỡi, và thân cũng là thức ăn. Chuyện trò giữa ta với người khác cũng là thức ăn. Khi ta nói một điều gì mà nuôi dưỡng ta hay khích lệ người khác là ta nuôi lớn thương yêu và từ bi. Khi ta nói hay làm điều gì mà tạo căng thẳng hay sân hận là ta đang nuôi lớn bạo lực và khổ đau.

Chúng ta có thể xem truyền thông như là những thức ăn hay những phẩm vật mà ta tiêu thụ. Tất cả những gì ta “ăn” vào đều có tác dụng hoặc chữa trị hoặc đầu độc. Ta có đang tiêu thụ hay cống hiến những thức ăn lành mạnh và giúp ta lớn mạnh hay không?

Chúng ta thường tiếp nhận truyền thông từ những người chung quanh hay từ những gì ta đọc. Có những truyền thông độc hại có thể đem đến sự bực mình, bất an, kỳ thị, mặc cảm.

Mạng Internet là một sản phẩm tiêu thụ, chỉ trong vòng năm phút ngắn ngủi ta tiếp nhận không biết bao nhiêu là thức ăn vừa chữa trị, nhưng cũng vừa độc hại. Điều này không có nghĩa là ta không nên sử dụng mạng Internet, tuy nhiên chúng ta phải ý thức về những gì ta đọc, những gì ta xem. Sử dụng mạng Internet trong vòng một hai giờ ta có thể bị cuốn hút và đánh mất mình. Cũng giống như ăn khoai tây chiên (french fries). Ta không nên ăn french fries suốt ngày cũng như không nên ngồi trước máy vi tính suốt ngày. Vài cọng khoai tây chiên hay vài giờ sử dụng máy vi tính là đủ.

Những gì ta đọc hay viết có thể có tác dụng chữa trị. Vì vậy ta phải ý thức về những gì ta tiêu thụ. Khi viết một bức thư hay gửi đi một email mà lời lẽ đầy hiểu biết và thương yêu là ta đang nuôi dưỡng ta. Chỉ cần vài hàng ngắn ngủi cũng đủ để nuôi dưỡng ta và người nhận thư hay email của ta.

Tiêu thụ trong chánh niệm

Làm thế nào để biết truyền thông nào là lành mạnh, truyền thông nào là độc hại? Năng lượng chánh niệm là yếu tố cần thiết cho truyền thông lành mạnh. Muốn có chánh niệm ta phải buông bỏ óc phán xét, ý thức sự có mặt của hơi thở, thân thể, hoàn toàn chú ý đến những gì trong ta và chung quanh ta. Nhờ chánh niệm mà ta ý thức được rằng ý nghĩ của ta là lành mạnh hay không lành mạnh, là có từ bi hay không có từ bi.

Chuyện trò là một loại thực phẩm. Vì cô đơn cho nên ta muốn chuyện trò. Nhưng khi chuyện trò với người khác, những lời người ấy nói có thể chứa đầy độc tố sân hận, giận dữ, và bất an. Khi ta nghe tức là ta đang tiêu thụ những độc tố đó, ta đưa độc tố vào tâm, vào thân. Vì vậy cho nên chánh niệm khi nói và khi nghe rất quan trọng.

Khó mà tránh được chuyện trò độc hại, nhất là tại sở làm. Cho nên phải cẩn thận, chung quanh ta đầy rẫy độc tố! Ta cần đủ tỉnh thức để không đau khổ vì bị độc tố xâm nhập. Phải sử dụng năng lượng, từ bi để tự bảo vệ, để khi nghe thay vì tiêu thụ độc tố ta tích cực phát tâm từ bi. Năng lượng từ bi sẽ bảo vệ ta và giúp người khác bớt đau khổ.

Những gì ta hay người chung quanh ta nói năng, suy nghĩ, hành động sẽ xâm nhập vào tâm thức ta. Đây là một hình thức tiêu thụ. Vì vậy khi đọc sách hay khi nghe ai nói ta phải cẩn thận, đừng để độc tố tàn hại sức khỏe, gây đau khổ cho ta, cho người khác hay cho cả một tập thể.

Để ví dụ, Bụt có đưa ra hình ảnh của một con bò bị bệnh da lở loét. Bò bị côn trùng bốn phía tấn công. Vì không còn da cho nên bò không thể tự bảo vệ. Cũng như thế, chánh niệm là lớp da bảo bọc con người. Không có chánh niệm, những độc tố bên ngoài sẽ xâm nhập thân và tâm.

Ngay cả khi lái xe ta cũng đang tiêu thụ. Những tấm biển quảng cáo đập vào mắt ta bắt ta tiêu thụ. Những âm thanh ta nghe, những lời ta nói,… tất cả đều có thể là sản phẩm của tiêu thụ độc hại. Ta phải tự vệ bằng cách tiêu thụ cho có chánh niệm. Chánh niệm khi truyền thông là một phần của việc tự vệ. Truyền thông như thế nào để thể hiện bình an, từ bi và thêm vui cho người.

Quan hệ không thể sống sót nếu không có thức ăn lành mạnh

Nhiều người đau khổ vì truyền thông khó khăn. Ta có cảm tưởng bị hiểu lầm, nhất là bởi người ta thương. Khi tạo dựng mối quan hệ chúng ta cung cấp “thức ăn” cho nhau. Vì vậy chúng ta phải chọn lựa thức ăn cho người kia, thức ăn có thể giúp cho quan hệ lớn mạnh. Tình yêu, thù ghét, khổ đau, tất cả đều cần thức ăn để tồn tại. Ta mãi đau khổ là vì ta tiếp tục cung cấp thức ăn cho khổ đau. Mỗi khi ta nói lời thiếu chánh niệm là ta cung cấp thức ăn cho khổ đau trong ta.

Nhờ chánh niệm, ta có thể nhìn sâu vào bản chất của khổ đau để thấy rõ thức ăn nào đã nuôi sống nó. Khi biết được nguồn gốc của thức ăn thì ta có thể cắt đứt nguồn cung cấp này và nhờ đó mà đau khổ được giải tỏa.

Nhiều khi một quan hệ tình cảm bắt đầu tốt đẹp nhưng dần dần rồi cũng tàn phai bởi vì ta không biết nuôi dưỡng. Truyền thông có thể giúp cho tình yêu sống lại. Mỗi ý nghĩ trong óc, trong tim ta – người Trung Quốc nói là “trong bụng” – đều nuôi dưỡng quan hệ của chúng ta. Nghi ngờ, phiền giận, sợ hãi, bực bội không nuôi dưỡng ta và người ta thương. Nếu quan hệ của ta gặp khó khăn thì vì ta đã nuôi tình yêu bằng trách móc, hờn giận mà không phải bằng yêu thương.

Tại một khóa tu ở Làng Mai Pháp quốc, trong bài pháp thoại nói về cách sử dụng truyền thông để nuôi dưỡng người thương, tôi có ví dụ mối quan hệ như một bông hoa cần được tưới tẩm để lớn mạnh. Tôi để ý thấy một bà ngồi ở hàng đầu khóc suốt bài pháp thoại.

Sau pháp thoại, tôi đến gặp chồng bà ấy và nói nhỏ: “Này anh, bông hoa của anh cần được tưới tẩm đấy”. Ông chồng cũng đang tham dự khóa tu và cũng biết sử dụng ái ngữ, nhưng đôi khi ông cần một ai đó, chẳng hạn như một người bạn, nhắc lại. Hôm đó, sau giờ cơm trưa ông chồng lái xe đưa bà vợ về nhà. Chỉ trong một giờ ngắn ngủi ông đã áp dụng nghệ thuật tưới hoa.

Khi về tới nhà bà vợ như thay đổi hoàn toàn, nét mặt trở nên vui tươi, hạnh phúc. Các con họ đều ngạc nhiên vì hồi sáng, trước khi đi ông bà có vẻ buồn bực, khó chịu. Cho nên chỉ trong một giờ ta có thể thay đổi người kia và thay đổi chính ta bằng cách sử dụng phép thực tập tưới tẩm những hạt giống tốt. Đây là áp dụng chánh niệm cụ thể; đây không phải là lý thuyết.

Truyền thông với tính chất nuôi dưỡng và chữa trị là thức ăn cho việc duy trì các mối quan hệ. Đôi khi chỉ vì một câu nói độc ác mà người kia đau khổ nhiều năm và ta đau khổ nhiều năm. Vì nóng giận hay vì sợ hãi mà ai đó có thể nói một lời cay độc hay tàn hại. Lời cay độc tàn hại đó sẽ ở lại trong tâm ta rất lâu và dần dần giết chết quan hệ giữa ta và người ấy.

Nhưng chúng ta có cách giải độc: thương yêu trong chánh niệm và truyền thông. Tình yêu, lòng kính trọng, tình bạn, tất cả đều cần có thức ăn nuôi dưỡng mới sống còn. Với chánh niệm trong ý nghĩ, lời nói và hành động, ta sẽ nuôi dưỡng quan hệ và giúp quan hệ lớn mạnh.

Mỗi người đều có tính Bụt trong lòng

(Trích từ sách Đạo Phật của tuổi trẻ)

Từ thế kỷ đầu cho đến thế kỷ thứ 14, tức là 1400 năm, chúng ta đã gọi Buddha là Bụt. Các nước Đông Nam Á chung quanh ta cũng gọi Buddha là Bụt. Gọi đúng là Butha, mà gọi tắt là Bụt. Chữ ‘tha’ phía sau không đọc rõ. Gotama đọc là Gotam. Nhật Bản vẫn còn gọi Buddha là Bụt. Đến thế kỷ thứ 14 khi bị phương Bắc đô hộ, chúng ta đã bắt đầu phát âm theo người Trung Hoa. Người Trung Hoa phát âm là Fó mà ta đọc là ‘Phật’, nhưng trước đó ta đã sử dụng danh từ ‘Bụt’. Như vậy từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 20 ta mới dùng tới danh từ ‘Phật’, chỉ mới 500 năm thôi. Trước đó trong suốt 1400 năm ta dùng danh từ Bụt và bây giờ thì ta trở về gốc, việc này không có gì mới mẻ hết. Tất cả các nước đều gọi Buddha là Bụt thì ta gọi Buddha là Bụt cũng hợp lý thôi. Chữ Buddha có nghĩa là tỉnh thức, không mê ngủ, không lãng quên. Chữ Buddha cũng có nghĩa là Biết. Vì vậy chữ Buddha không có nghĩa là tên của một người. Đó chỉ là một danh hiệu. Chúng ta biết rằng đức Bổn Sư của chúng ta tên là Shakya Muni, tức là ông thầy tu dòng họ Shakya. Hồi còn trẻ Bụt tên là Siddhatta Gotama. Gotama là tên dòng họ, dòng họ Gotama Shakya. Và vì Bụt là một người tỉnh thức, luôn luôn có chánh niệm, luôn luôn có hiểu biết, luôn luôn có thương yêu cho nên chúng ta gọi Gotama Shakya là Bụt. Đức Thế Tôn có nói rằng trước khi Ngài ra đời đã có những vị Bụt khác, những vị Bụt quá khứ, và sau khi Ngài nhập diệt trên thế gian sẽ có những vị Bụt tương lai như là Bụt Di Lặc. Vì vậy Bụt không phải là tên của một người mà là danh hiệu của một người tỉnh thức, có đầy đủ hiểu biết và thương yêu. Khi chúng ta nói chuyện với người Bắc Mỹ, chúng ta phải nói cho họ biết Bụt không phải là một vị thần linh, Bụt là một con người như chúng ta. Đức Thế Tôn là một con người như chúng ta, đã từng đau khổ lúc còn trẻ. Ngài đã tìm ra được con đường thoát khổ và đã trao truyền lại cho chúng ta. Vì vậy chúng ta phải nhớ là đừng biến Đức Thế Tôn thành một vị thần linh mà phải khám phá ra cho được đức tính con người, đức tính nhân bản của Ngài.

 

 

Đức Thế Tôn đã nói rằng mỗi người đều có tính Bụt trong lòng và nếu thực tập cho giỏi thì cũng có thể tỉnh thức, cũng có thể có hạnh phúc, cũng có thể có thương yêu được. Tính Bụt đó được gọi là Phật tính. Tiếng Anh là Buddhahood hay Buddha nature. Nếu chúng ta biết tu tập, tính Bụt đó sẽ biểu hiện ra và chúng ta sẽ có đầy hạnh phúc, đầy hiểu biết, đầy thương yêu và đầy tỉnh thức. Buddha là người tỉnh thức, người biết an trú trong phút giây hiện tại. Người biết cái gì đang xảy ra cho mình và cho hoàn cảnh xung quanh mình. Nếu ta có thực tập thì ta cũng có thể tỉnh thức được. Thực tập hơi thở chánh niệm, bước chân chánh niệm và ăn cơm trong chánh niệm, ta cũng sẽ có chất tỉnh thức như Bụt. Tuy nhiên lâu lâu ta mới tỉnh thức một lần rồi lại bị sa vào thất niệm, quên lãng; vì vậy ta không phải là Bụt toàn thời gian, mà chỉ là Bụt bán thời gian. Năng lượng giúp cho ta duy trì sự tỉnh thức được gọi là chánh niệm (Mindfulness). Chánh niệm là gì? Ta phải nói cho bạn ta biết chánh niệm là năng lượng giúp cho ta có mặt trong giây phút hiện tại. Ta phải nhớ như vậy. Vì trong đời sống hàng ngày, có thể thân ta ngồi đây nhưng tâm ta lại ở chỗ khác; hoặc chìm đắm trong thương tiếc quá khứ, hoặc băn khoăn, lo sợ về tương lai, hoặc bị cái giận, cái buồn, cái phiền, cái ganh ghét kéo đi. Thân không ở chung với tâm và vì vậy ta không thật sự có mặt cho cuộc đời. Có vẻ dường như ta đang có mặt đó nhưng kỳ thực ta đang rong ruổi nơi nào khác.

 

 

Khi uống nước mà ta biết là ta đang uống nước, ta hoàn toàn để tâm vào chuyện uống nước trong suốt thời gian uống thì lúc đó là uống nước có chánh niệm. Còn khi uống nước mà tâm ý ta để ở chỗ khác thì lúc đó gọi là uống nước không có chánh niệm, hoặc là uống thất niệm, có nghĩa là đánh mất chánh niệm. Khi thở, ta để hết tâm vào chuyện thở thì đó là thở có chánh niệm. Thở có chánh niệm, uống có chánh niệm, đi có chánh niệm thì trong khi làm như vậy ta chế tác được năng lượng chánh niệm. Và nếu đang giận hờn mà ta chế tác được năng lượng chánh niệm thì năng lượng đó sẽ ôm lấy năng lượng của sự giận hờn trong ta. Năng lượng đó là năng lượng của Bụt ở trong ta. Người nào cũng có thể uống nước trong chánh niệm, đi trong chánh niệm, thở trong chánh niệm. Người có thực tập thì duy trì chánh niệm được lâu hơn, nhưng người chưa thực tập thì mới đi được hai bước là đã quên, mới uống có chánh niệm được một giây là đã lo suy nghĩ: “Trời ơi, hồi nãy mình quên lấy đồ ở ngoài trời vô; bây giờ trời mưa thì làm sao?” Khi tâm ta bị tán loạn đi, chánh niệm không có mặt được lâu dài. Chánh niệm là gì? Đó là khả năng có thể an trú được trong giây phút hiện tại, có thể ở yên trong giây phút hiện tại, có thể biết được những gì đang xảy ra trong giây phút hiện tại. Chánh niệm là năng lượng giúp cho ta có mặt tại đây để biết những gì đang xảy ra trong giây phút hiện tại. Đó là định nghĩa đầu của chánh niệm. Người tu là người chế tác ra năng lượng chánh niệm hàng ngày. Khi đi, các thầy và các sư cô tập đi trong chánh niệm; khi thở họ tập thở trong chánh niệm; khi ngồi, khi nấu cơm, khi rửa bát cũng vậy, họ cũng theo dõi hơi thở để chế tác năng lượng chánh niệm chứ không phải họ chỉ ngồi trong thiền đường để tu mà thôi. Ở trong nhà bếp, ở ngoài vườn rau cũng vậy, họ vừa làm, vừa thở, vừa thực tập chánh niệm. Chánh niệm càng nhiều, càng mạnh thì càng dễ có khả năng đối phó với những giận hờn, thất vọng, sợ hãi của ta vì chánh niệm là năng lượng của Bụt ở trong lòng ta.