Tu viện Mộc Lan ở miền Trung Hoa Kỳ

Vào năm 2002 một số Phật tử ở Memphis và Mississippi có cơ duyên tham dự Peace walk (đi cho hoà bình) tại Memphis do Thầy và tăng đoàn Làng Mai hướng dẫn. Sau khi về lại nhà, cộng đồng Việt Nam tại North Mississippi và vùng phụ cận nhận thấy ở miền Trung Mỹ cần có một trung tâm thực tập Chánh Niệm phù hợp cho giới trẻ. Một số thân hữu đóng góp mua được 120 mẫu đất và cúng dường cho Thầy.

Lúc đầu Làng Mai thấy không đủ quý thầy, quý sư cô để nhận, nhưng các phật tử tha thiết quá nên mình nhận trên giấy tờ, Thầy nói họ phải tự lo giáo thọ. Thầy biểu họ tu tập, cho họ thọ giới Tiếp Hiện để sau này được truyền đăng và làm chủ tu viện. Thầy nói mỗi lần nhận một trung tâm thì mình phải gởi quý thầy, quý sư cô tới, ít là mười thầy và mười sư cô, để có thể tu học và nâng đỡ nhau. Mình không có đủ người nhưng mình cứ nhận rồi giao cho các anh chị làm trụ trì, mình chỉ tới để giảng dạy. Tu viện Mộc Lan thành lập từ đó, năm 2003.

Nhưng sau vụ Bát Nhã, mấy thầy mấy sư cô bị đuổi ra khỏi tu viện không có chỗ tu tập nên mình vận động chính phủ Hoa Kỳ để xin một số visa cho các thầy các sư cô qua Mỹ. Mỗi năm mình cũng bảo lãnh được khoảng 20 người qua Mỹ. Nhờ vậy nên Mộc Lan mới trở thành trung tâm tu học có người xuất sĩ.

Sư cô Chân Không nhờ sư cô Hỷ Nghiêm, một sư cô rất đảm đang, qua làm cột trụ ở đó để chăm sóc các sư em. Từ từ có một thầy và hai sư cô, có cha mẹ ở gần đó là sư cô Học Nghiêm và sư cô Bội Nghiêm, thầy Pháp Triển cũng có ba mẹ ở gần và một số anh chị em từ các nơi về mà trung tâm Mộc Lan trở thành một trung tâm tu học có tăng đoàn xuất sĩ vững mạnh.

Mộc Lan là một khu đất rừng hiền lành. Lúc đầu mình chưa có nhà cho quý thầy, nên quý thầy ở tạm căn nhà cũ bằng gỗ, quý sư cô ở tạm trong dãy nhà dành cho cư sĩ, rồi sau này từng bước xây một ni xá để có chỗ ở đàng hoàng. Xây xong ni xá, thiền đường rồi tiếp tục xây tăng xá cho quý thầy. Luật lệ ở Mộc Lan còn đơn giản nên trong việc xây cất quý thầy, quý sư cô và các anh chị chủ trì đều tự túc làm được rất nhiều. Xóm quý thầy tên là Xóm Trúc, xóm quý sư cô là Xóm Mai. Một cái thất của Thầy cũng được xây toàn bằng gỗ thông rất thơm, được Thầy đặt tên là thất Chịu Chơi. Thầy dạy: “Chịu Chơi có nghĩa là khi có khó khăn ta không chùn bước rút lui.”

Sau này mình khám phá ra trung tâm Mộc Lan cách nhà thờ mà ngài Martin Luther King, Jr. tới giảng lần cuối cùng khoảng 1,5 miles. Giảng xong ngài lên xe đi Memphis giảng tiếp thì bị bắn chết. Memphis là một thành phố lớn cách đó hơn một giờ lái xe. Thầy cũng đã từng gặp ngài Martin Luther King, Jr. và được ngài ấy đề nghị để nhận giải Nobel về hoà bình năm 1967. Biết được điều này nên tăng thân ở tu viện Mộc Lan quyết định xây một tượng đài của hai người bạn đứng cạnh nhau là mục sư Martin Luther King, Jr. và thầy Thích Nhất Hạnh trong khuôn viên tu viện. Trong vùng có một số người da trắng kỳ thị người da đen đã 50, 60 năm nay. Trong quá khứ họ trùm mũ trắng có chữ KKK (Klu Klux Klan) và khá cực đoan. Có đọc văn hoá Mỹ thì mình mới biết điều đó, còn các anh chị Việt Nam đầy lòng tốt, thấy đất bán rẻ vừa túi tiền thì mua thôi. Tuy nhiên vì Mộc Lan hầu hết là người Việt Nam và không có đe doạ nhiều đến quyền lợi người bản xứ cũng như đức tin của họ nên mình được chấp nhận. Trong một khoá tu tổ chức lần đầu ở Mộc Lan khi Thầy qua Mỹ, có một ông Mỹ trắng chia sẻ trong pháp đàm rằng ông nội của ông từng ở trong đảng KKK.

Quý thầy, quý sư cô ở Mộc Lan cũng giỏi, mời được anh thợ Việt Nam làm tháp chuông bên Pháp về xây một tháp chuông ở Mộc Lan không thua tháp chuông của Làng, Thầy đặt tên là tháp An Trú. Mấy thầy, mấy sư cô làm việc chung với mấy người thợ. Thiền đường Hải Triều Lên ở Mộc Lan lớn và khá giống như thiền đường Đại Đồng của Bích Nham. Ngoài ra Mộc Lan có tượng Quan Âm nằm giữa hồ sen trắng, có cầu tre đi ra rất nên thơ và thanh tịnh.

Khí hậu ở Mississippi ấm, không lạnh như New York, cũng không quá nóng vào mùa hè nhưng hay có những cơn gió lốc. Ở đó người ta trồng đậu phộng, bắp và thu hoạch bằng máy nên còn bỏ sót lại rất nhiều. Mình đi mót đậu phộng, mót bắp có khi được cả xe tải (truck) đem về luộc ăn rất ngon.

Phật tử Việt Nam vùng Mississippi không đông. Nhưng khi có khoá tu tiếng Việt thì Phật tử khắp nơi về tham dự. Quý thầy, quý sư cô ở Mộc Lan tu tập vững chãi và hàng năm có tổ chức khoá tu cho Gia đình Phật tử Việt Nam ở Hoa Kỳ cho khoảng 250, 350 người.

Khoá tu tiếng Việt ở Lộc Uyển hay ở Bích Nham cũng có rất nhiều người Việt Nam tới tham dự. Phần đông những người ở Florida, Noth Carolina thì về Bích Nham. Lộc Uyển thì có những người ở Cali tới. Phần đông những người ở Cali giúp mình nhiều lắm, có những bác sĩ hay nha sĩ trị bệnh hay sửa răng cho mình miễn phí. Mỗi lần Thầy về thì có bác sĩ Tiếng thử máu, khám kiểm tra toàn bộ không tính tiền.

Tu viện Lộc Uyển ở miền Tây Hoa Kỳ

Mua Lộc Uyển

Tu ở tu viện Thanh Sơn rất yên ả nhưng không xin được giấy phép tiếp đón thiền sinh các thành phố đến tu trọn ngày chủ nhật hay khoá tu ba ngày, hoặc năm ngày. Cuối cùng các thầy nói tại sao mình không mua một trung tâm gần New York. Nếu xa một chút cách New York chừng 1, 2 giờ lái xe thì chắc cũng rẻ. Luôn tiện mua chỗ nào mà tiếp khách thập phương được. Sau này các thầy tìm ra trung tâm Bích Nham. Nhưng trong lúc chưa tìm được thì có một số Phật tử ở Cali xin Thầy lập một trung tâm ở Cali.

Năm 1997, tu viện Hải Biên được tạm thời thiết lập ở vùng Oceanside, miền Nam California do ba người Phật tử trung kiên với Thầy bỏ tiền ra mua một ngôi nhà có nhiều phòng rộng rãi cho Thầy và 36 thành viên của tăng thân Làng Mai đi theo Thầy tạm trú trong thời gian Thầy đi hoằng pháp ở Cali. Thầy ở cư xá trong, các sư cô ở cư xá ngoài và các thầy ở cư xá Sùng Nghiêm. Tại đây công khoá tu tập hàng ngày như trong một tu viện được một số các Phật tử cư sĩ cùng tham dự rất nghiêm túc.

Người Việt định cư bên Mỹ ở Cali rất đông vì Cali khí hậu ôn hoà, nắng ấm và vì mới hội nhập vào một nền văn hoá mới cho nên đã có rất nhiều thảm kịch xảy ra trong gia đình. Có một thằng bé rất thích chia sẻ với các sư cô trẻ như sư cô Định Nghiêm, sư cô Tuệ Nghiêm… Cháu nói:

“Sư cô Tuệ Nghiêm ơi, con muốn chạy ra đường cho xe cán chết con cho rồi.”

Sư cô Tuệ Nghiêm chạy vô cầu cứu Chân Không. Chân Không hỏi cháu tại sao thì cháu nói:

“Ba mẹ con trước mặt Thầy thì ăn nói dễ thương lắm. Về nhà thì ổng đập bả, bả đập ổng. Con chán đời quá, con không còn tin tưởng nữa, con muốn chết.”

Hết người này tới người kia, bốn năm nhóm như vậy nên Thầy nói:

“Chắc mình phải lập một tu viện ở Cali quá Sư cô Chân Không. Thương mấy đứa con nít quá. Đó là các cháu đói tinh thần chứ không phải đói vật chất.”

Vì vậy Chân Không năn nỉ Thầy:

“Kỳ này mình qua bên đó, Thầy cho phép con đi thăm coi căn nhà nào có thể mua được.”

Năm đó khi Thầy qua Cali thì Chân Không đi cùng anh Chân Hộ Tăng (Pritam Singh) và một số Phật tử ở miền Nam Cali để coi khoảng chừng 15 căn nhà. Anh Pritam Singh nói mấy căn nhà đó là để cho Phật tử ở chứ để làm một trung tâm tu học thì nhỏ quá. Quan trọng là phải có nhiều không gian hơn cho người ta tới tĩnh tu.

Nhờ có anh Pritam Singh là developer nổi tiếng nên văn phòng địa ốc đã giới thiệu cho Pritam khu núi rừng 487 mẫu Anh (chừng hơn 200 mẫu ta) ở Escondido cách San Diego gần một giờ lái xe. Khu này núi đá, rừng sage rất thoáng, đúng là có thể mở một trung tâm tu học hùng vĩ sau này. Họ để bán đấu giá 1 triệu 800 ngàn dollars.

Ngày hôm sau anh Pritam mời Sư cô Chân Không và hai người nữa là sư cô Trung Chính vàc thầy Pháp Ấn tới coi.

Chỗ này đã từng được dùng làm trại tù, rồi trại cai nghiện, chỗ huấn luyện cho tình nguyện viên Peace Corp… rồi bỏ hoang nhiều năm nên chính quyền muốn bán. Ở trên có năm khoảnh đất được san bằng (plattforms) và nhiều dãy nhà cho tù nhân ở ngày xưa. Tầng giữa có một dãy nhà làm nhà ăn của nhà tù, và tầng dưới có vài căn nhà để cho trưởng trại tù và các nhân viên cùng gia đình ở. Mình tới thì thấy thích tại vì mình biết, tuy nó xấu như vậy, nhưng nếu sửa sang lại thì sẽ đẹp. Ở bên Pháp chuồng bò mà mình sửa lại cũng vẫn thấy đẹp. Mình chịu mua và họ ra giá là 1 triệu 2 trăm ngàn USD. Đó chỉ là con số để bắt đầu đấu giá thôi. Một số Phật tử và hội đoàn thấy khu núi rừng đó đẹp nên đề nghị là tất cả chia làm bảy nhóm, mỗi nhóm mua một phần thì rẻ hơn mà khỏi phải ra đấu giá. Chân Không không đồng ý tại vì nếu mình mua hết thì mới biến thành một trung tâm theo ý của mình, nếu chia làm bảy mà lỡ trong đó có nhóm nudist, họ xây hồ bơi rồi khoả thân đi tùm lum thì sẽ làm hư phong cảnh của mình. Mình không chịu, nói một là mình mua hết còn hai là họ mua hay là ra đấu giá. Mấy hội đoàn kia bàn với nhau sẽ trả 7 triệu để mình không mua được. Chân Không định tìm chỗ khác thì nửa giờ sau đó có một cặp vợ chồng thí chủ điện thoại cho Chân Không nói:

“Sư cô đừng từ chối, cứ ra đấu giá đi. Sư cô có một triệu hai thì tụi con sẽ đóng thêm 2 triệu nữa.”

Mình mừng quá nên nhất định đi đấu giá. Chân Không nhờ anh Pritam Singh đại diện cho mình. Anh đã giúp mua Tu viện Thanh Sơn cho mình nhưng vẫn có mặc cảm vì Tu viện Thanh Sơn không được nhận đông người tới tu tập. Anh thấy mỗi lần Thầy từ Pháp bay qua Tu viện Thanh Sơn khá xa, mà rất ít người có được cơ hội đến với trung tâm để tham dự khoá tu cho nên anh mới đi theo qua Cali phụ tìm trung tâm với mình. Đấu giá xong anh nói:

“Thua cuộc rồi Sư cô ơi, trả tới 3 triệu 9 thì em ngưng. Người ta mua được sau khi trả giá 4 triệu.”

Chân Không nói:

“Sao anh không chịu? Mình có người hứa cho mà?”

Anh ta nói:

“Em có cảm tưởng là mình không nên, em ngưng thôi.”

Anh linh cảm rất đúng. Một ông đại diện cho nhiều hội đoàn trả tới 4 triệu và mua được nhưng anh Pritam cảm thấy ông ta có cái gì không thật. Ông ta nháy mắt với anh, đưa danh thiếp và nói muốn gì thì liên lạc với ông. Ngày hôm sau anh điện thoại cho ông. Ông mời anh tới nhà của ông ở gần đó và nói sẽ bán lại cho mình giá 4 triệu với điều kiện là mình đồng ý cho ông 15 mẫu đất xung quanh nhà ông và làm một con đường xe chạy xung quanh núi. Chỗ của mình nằm ở phía bắc mà ở phía nam không có đường thoát. Nếu có hoả hoạn thì sẽ không có đường cho xe ra. Vì vậy mình phải làm một con đường thoát lửa ở phía Bắc. Anh Pritam tính là phải có 3 triệu USD để làm đường nên nói:

“Thôi Sư cô quên đi! Bất động sản ở đây họ bán tùm lum. Em sẽ đi coi và chỉ cho Sư cô.”

Chân Không thấy hơi kẹt. Chỗ đó thầy Pháp Ấn và sư cô Trung Chính đều thích, rất nhiều thầy và sư cô khác cũng thích nên mình nhất định mua. Chân Không điện thoại cho chị Hải, vợ anh Thọ. Để an ủi mình, chị chỉ cho mình mua một căn nhà ở miền Nam Cali gần chỗ chị. Tới nơi Chân Không xin địa chỉ của ông đại diện cho hãng môi giới mua bán tất cả bất động sản trong vùng. Ông cho Chân Không số điện thoại của ông chủ đứng tên là ông Art. Chân Không có hỏi tại sao họ đánh mình tới cùng, không cho mình mua đất thì họ nói họ sợ mình mua làm tu viện mà chữ tu viện họ dịch ra tiếng Anh là cloister. Thật ra chữ cloister là tu viện kín, còn tu viện của mình phải dịch là monastery. Ông đấu thầu thắng cuộc cũng sợ mình mua đất làm cloister. Chân Không phải giải thích rõ cái điểm là mình không làm cloister mà mình làm monastery rất dễ thương. Chân Không xin số điện thoại và gọi cho ông chủ đất. Ông không có ở nhà, chỉ để máy thu âm. Chân Không nói:

“Tôi nghe ông mua được khu đất đó cho sáu, bảy hội đoàn. Tôi muốn xin với ông là tôi muốn mua lại, tại vì chúng tôi muốn làm một monastery chứ không phải là một cloister. Những người tu ở đó, có thể tiếp khách, ai vào thăm cũng được. Có người tu đi thăm nhà tù hay giúp nhiều người khác nhất là các cháu thanh thiếu niên, thiếu nhi mà không truyền thông được với mẹ cha chuyện này chuyện nọ. Chúng tôi không đóng cửa như cloister mà quý vị đã nghĩ, quý vị muốn đi ngang thăm thì cứ đi. Nếu nhà ông ở gần mà ông đi ngang qua vào giờ ăn trưa thì chúng tôi mời ông vào ăn trưa với chúng tôi. Nếu ông đi ngang qua lúc chúng tôi đang làm vườn thì chúng tôi mời ông vào cùng làm vườn trong chánh niệm tức làm vườn mà không nói chuyện để theo dõi hơi thở và thư giãn. Nếu ông tới trong lúc chúng tôi đang thiền trà thì chúng tôi

mời ông uống trà. Thành ra ông nên giúp cho chúng tôi mua khu đất này. Ông để cho chúng tôi với giá vừa đúng nhé.”

Chân Không vừa nói xong thì nửa giờ sau ông gọi lại liền cho Chân Không ở Pháp:

“Cô ơi, nghe giọng nói của cô thì tôi rùng mình. Tôi nghĩ mình quen nhau từ mấy kiếp rồi, vì vậy bằng mọi giá tôi phải đồng ý để cô mua được chỗ này. Bây giờ cô gửi đại diện của cô tới đi (ông biết Chân Không đang ở Pháp). Tôi sẽ đưa ra điều kiện thật dễ dàng.”

Sư cô nói anh Pritam điện thoại cho ông thì ông nói, mình không cần phải làm con đường đi quanh núi, ông sẽ bán cho mình giá 4 triệu. Ông mua 3 triệu 9 và bán 4 triệu. Ông chỉ lời 100 ngàn đô thôi và xin 15 mẫu đất quanh nhà ông. Mình chịu liền và hôm sau mình ký giấy. Khi đó vị thí chủ hứa cho tiền nói, cô thì chịu cho nhưng chồng cô nói:

“Thầy thì tôi phục rồi nhưng không biết mấy thầy trẻ có dễ thương như Thầy hay không? Nếu họ không dễ thương thì tôi còn 1 triệu để cho trung tâm khác. Bây giờ cho hết 2 triệu, nếu họ không dễ thương thì trễ rồi. Họ thực tập một năm cho tôi chứng kiến rồi tôi sẽ cho triệu thứ hai.”

Nhưng không sao vì mình được phép trả tiền mua đất trong vòng hai ba năm. Mình trả trước số tiền mình có. Lập tu viện xong thì Thầy cử sư cô Trung Chính qua làm trụ trì bên ni và thầy Giác Thanh làm trụ trì bên tăng. Biết sư cô Thoại Nghiêm rất giỏi tổ chức sắp xếp cho một trung tâm mới, Thầy cử ngay sư cô Thoại Nghiêm làm thủ quỹ và phụ tá cho sư cô Trung Chính. Hai sư cô rời Làng Mai Pháp giữa năm 2000 khi vừa ký giấy mua xong Lộc Uyển. Sau đó một tháng thì thầy Pháp Dung cũng được Thầy dạy qua Lộc Uyển để giúp về mặt kiến trúc và xây cất.

Ở Lộc Uyển có nhiều chuyện rất kỳ bí. Dưới chân núi có một người bạn ở cùng tỉnh Kiên Giang với thầy Giác Thanh nhưng thầy không biết, đó là vợ chồng cô Cúc, mẹ cô đã mất bốn, năm năm rồi. Trước khi mất bà cụ nói:

“Con ơi, con lên núi chơi đi. Sao má thấy có nhiều thầy tu đi qua lại trên núi đó. Họ mặc áo dài nâu đi trên núi nói tiếng Việt không hà.”

Cô nghĩ mẹ cô sảng rồi nên tưởng tượng thôi, vì đi lên núi coi thì không thấy ai hết. Đến bốn năm sau khi thầy Giác Thanh tới và Thầy mình về thì đúng như lời bà cụ nói. Thầy Giác Thanh nhận ra chồng của cô Cúc là bạn học của thầy ngày xưa thời còn học trung học ở Kiên Giang. Anh nói: “Hồi xưa trong trường có một thằng nhỏ giống thầy tu mà cứ đòi đi tu hoài. Té ra nó là thầy Giác Thanh.”

Cũng giống như tên Lộc Uyển, tiếng Anh là Deer Park, vốn là tên có sẵn từ trước. Một tờ báo của San Diego nói về vùng đất này năm 1969 cũng đã gọi là Deer Park. Đây lại là một sự trùng hợp khó tin vì nhiều người tưởng mình đặt tên tu viện Lộc Uyển theo địa danh của Phật tích.

Đất Lộc Uyển được xếp vào dạng bảo tồn cho các động vật hoang dã nên trừ những con đường mòn đã có sẵn, khi mình đi bộ hay leo núi mở thêm nhiều con đường khác cũng bị cấm vì ảnh hưởng đến môi trường sinh hoạt của các loại động vật này. Lộc Uyển mặc dù cũng nằm trên núi nhưng bao quanh là các ngọn núi khác cao hơn nên gần thành phố Escondido (chỉ đi 15 phút là tới) nhưng rất khuất và rất yên. Đường vào từ chân núi cho đến khi tới căn nhà đầu tiên khá xa, trên một cây số, đầy vẻ hoang sơ dù đường được trải nhựa đàng hoàng, người mới tới lần đầu hay lo ngại là bị lạc đường nên mình phải để bảng tên tu viện ngay dưới chân núi. Nhờ vào vị trí giấu kín đó mà Thầy đặt tên vùng này là Đại Ẩn Sơn.

Lúc đó không có tiền xây thiền đường, Thầy mình là văn sĩ nên biểu sắp đá thành một cái bệ đá rồi đặt tên là thiền đường Rừng Sồi, tại vì chỗ đó có hằng trăm cây sồi lớn che bên trên. Thầy ngồi thuyết pháp ở giữa rừng sồi. Có nhiều đêm mình thắp đèn ngồi niệm “Nam mô Bồ tát Quan Thế Âm” ở giữa rừng. Mấy thầy, mấy sư cô cảm động quá, có cảm giác như tăng đoàn xuất hiện giữa rừng sâu thời Phật còn tại thế.

Thầy chia ranh giới từ cổng vào – chừng 2km đường lên dốc đến căn nhà đầu tiên bên trái gọi là Gate House, nhà đó gồm bốn phòng ngủ, mình gọi là nhà khách cho cư sĩ, xuống dốc bên trái là Rừng Sồi. Còn bên mặt là dãy nhà của nhân viên cai tù ngày xưa, mình sơn sửa nhà lại cho các sư cô ở gọi là xóm Trong Sáng. Xóm này có khu nhà chính với một phòng khách, một nhà bếp và bốn phòng ngủ, hai phòng ngủ dài có thể để từ bốn đến tám giường, còn hai phòng nhỏ chỉ để được mỗi phòng hai giường thôi, có ba phòng vệ sinh và ba phòng tắm nằm bên trái phòng khách, ngay sau bếp. Ngoài sân sau có một sàn gỗ và một nhà kho mình sửa lại thành một thiền đường cho xóm quý sư cô. Thầy đặt tên Sao Trên Biển cho thiền đường Xóm Trong Sáng. Dưới thiền đường là một thư viện nhỏ và một phòng dành cho khách ni, có đường tráng nhựa cho xe hơi chạy quanh khu nhà chính.

Bên kia đường song song với thiền đường có khu vệ sinh công cộng và một hồ bơi nằm trên cao. Trong khu đồi trước mặt có một dãy nhà cây có ba phòng: mình làm văn phòng tiếp tân, phòng làm việc, và văn phòng ghi danh cho khoá tu. Và bốn cái thất cây vuông nhỏ phía sau, mỗi thất chỉ có một phòng với cầu tiêu nhà tắm. Mỗi thất có thể làm chỗ ngủ cho ba người, để tiếp đón quý sư bà hay sư cô lớn cùng với một hay hai thị giả. Bên ngoài mỗi thất đều có một hành lang gỗ mình có thể để bàn ghế trước cửa để tiếp khách.

Trong khuôn viên của xóm Trong Sáng trên một ngọn đồi cao bên mặt có bốn cây tùng cao vút rất đẹp. Ngôi nhà cây sơn trắng hiền hiền này dành cho Thầy, ngôi nhà đó có lò sưởi củi, có bếp nhỏ, có nhà tắm cầu tiêu, có phòng khách lớn để những ngày chánh niệm ở Tu viện Lộc Uyển Thầy tiếp khách. Có khi 70 người ngồi chen chúc quanh Thầy. Chỉ những “con ông cháu cha” như gia đình nhà văn Doãn Quốc Sĩ, nhạc sĩ Anh Việt, vợ là Tố Oanh, vợ chồng các anh chị Tiếng Nguyễn và Lê Kim Chi, Phạm Văn Điến và Trương Thị Nhiên, Lê Văn Hoà và Mỹ Hạnh, anh chị Nguyễn Hữu Xương, anh chị Nguyễn Hữu Hùng và Quỳnh Tiên, anh chị Art và Thuỷ Tiên, anh chị Thọ và Hải Đất Lành, bác Tôn Thất An Cựu, Chú Quân chị Hoàng, chú Quyền chị Xuân Lan, anh chị Đồng Sĩ Nam, Phương Thảo và ba mẹ các sư cô, quý thầy xuất gia với Thầy… Tất cả là “con ông cháu cha” được Thầy mời vào ăn trưa với Thầy. Sau phòng tiếp khách là hai phòng ngủ nhỏ, một cho thị giả và một cho Thầy. Trước nhà, vách sơn trắng dưới mái hiên đong đưa những chùm hoa giấy màu tím, trắng hồng. Trước mặt hiên là vườn cây ăn quả có hai cây ổi xá lị, hai cây bưởi, một cây hoa ngọc lan bông nhỏ thơm màu vàng và màu trắng. Cả khu nhà và vườn nằm như dựa lưng vào bốn cây tùng thẳng, đẹp như bốn ngọn bút. Đó là cốc Tùng Bút của Thầy.

Từ ngôi cốc của Thầy có đường xe chạy, rẽ bên phải, trước khi đến nhà bếp lớn thì đi ngang qua một mặt bằng, sau này mình xây thiền đường Thái Bình Dương có trồng vài cây phượng tím, một bụi tre vàng và thiền đường này có đất rộng để thiền sinh tập khí công sau khi ngồi thiền buổi sáng. Phía sau xây thêm được một cái tháp chuông để thỉnh chuông đại hồng. Mặt bằng kế tiếp có nhà bếp trước đây nấu ăn cho 300 tù nhân, với phòng ăn lớn, nhìn ra rừng núi bao la, Thầy đặt ranh giới từ bếp trở lên mặt bằng cao là xóm của quý thầy gọi là xóm Vững Chãi.

Xóm Vững Chãi gồm có tất cả mười dãy nhà được chia làm hai khu vực. Hồi mới mua cả mười dãy nhà nóc hư rớt bẹp sát đất, xác coyotes (chó sói rừng) chết hôi rình. Cửa kính bị vỡ văng khắp nơi và đây đó rất nhiều vỏ đạn còn để lại – trước kia chỗ này được dùng cho người ta tập bắn súng, vì vậy những con sóc, con thỏ, chim chóc đều sợ mà bỏ đi. Vậy mà nhờ cộng đồng Phật tử Việt Nam đến phụ dọn dẹp hết lòng: vào mỗi cuối tuần tăng thân đều về Lộc Uyển để giúp quý thầy, quý sư cô sửa chữa những dãy nhà hư hao, tinh thần làm việc vui như “hội”, các cháu cũng biết phụ giúp sơn tường cho nên chỉ năm sáu tháng sau đã hoàn thành xóm Vững Chãi, có thiền đường, nhà khách, văn phòng, quán sách bán sách Thầy, CD, VCD… Dãy thứ nhất nhìn ra núi cao rộng, Thầy đặt tên thiền đường Trăng Đầu Non của quý thầy, dãy thứ hai làm quán sách và văn phòng ghi danh, dãy thứ ba là văn phòng tu viện của quý thầy. Hai dãy còn lại là chỗ ở của quý thầy nằm phía sau. Bên kia thiền đường Trăng Đầu Non có năm dãy nhà khác, bốn dãy làm phòng ngủ của thiền sinh nam và gia đình tới tu học và một dãy là phòng giặt và khu vệ sinh công cộng. Thiền sinh nữ đi một mình thì ở xóm quý sư cô, xóm Trong Sáng.

Tuốt trên cao đất tu viện còn một mặt phẳng chót Thầy thường hay đi thiền hành trên đó và đặt tên là núi Yên Tử. Mình tính làm tháp chuông nhưng chưa được giấy phép mà cũng chưa có thợ. Thế rồi một vị thầy từ Quảng Nam sang thăm và cúng dường một tôn tượng Bụt Thích Ca bằng đá trắng từ Ngũ Hành Sơn ở Đà Nẵng đặt trên núi Yên Tử.

Mình xài tiền rất ít mà có được trung tâm Lộc Uyển rất oai.

Sư cô Thoại Nghiêm là một người kỹ lưỡng và sâu sắc. Cô ngồi quán sát chỗ này chỗ kia. Cô có viết truyện Sư tử núi. Sư tử núi là tên của mountain lion, một loại báo sống trong khu rừng thiên nhiên gần đó. Cô thuật chuyện rất hay, rất cảm động nên thiên hạ theo dõi sự mở mang của Lộc Uyển qua câu chuyện Sư tử núi của sư cô Thoại Nghiêm.

Sau khi thầy Giác Thanh tịch thì xóm Vững Chãi đang có thầy Pháp Dụng, thầy Pháp Dung. Thầy Pháp Dụng là anh lớn và thầy Pháp Dung là em út. Vậy mà đang hoằng pháp ở Trung Quốc, Thầy gởi fax về dặn dò: “Thầy Giác Thanh tịch, tôi xin cử thầy Pháp Dung (không có dấu nặng) làm trụ trì.” Chân Không nghe báo cáo lại là lúc má thầy Pháp Dung nghe tin thì bà la lên:

“Nam mô A Di Đà Phật! Trời ơi con tôi mới thọ giới tỳ kheo mà bị làm trụ trì!”

Nhưng từ đó thì thầy Pháp Dung làm trụ trì rất giỏi. Thầy thấy sư cô Thoại Nghiêm giỏi nên cử sư cô tới trung tâm khác, nhưng sư cô trụ trì Trung Chính thì còn ở lại vì sự có mặt của sư cô ở Lộc Uyển rất cần thiết cho đồng bào người Việt ở đó.

Sau đó mình cất được thiền đường Thái Bình Dương rất đẹp do thầy Pháp Dung vẽ.

Những cơ sở ở Lộc Uyển

Tu viện Lộc Uyển có nhiều mặt phẳng lớn. Mặt phẳng thứ nhất từ dưới lên cao là nhà của cai tù hồi xưa, được gọi là nhà chính, một nhà kho (barn) để máy cắt cỏ, và vật dụng làm vườn của chủ cũ được sửa lại thành nhà ăn và bếp cho xóm Trong Sáng, trước cửa nhà ăn có thể đậu được vài chiếc xe. Đi tiếp lên là cốc của Thầy và rẽ phía bên kia là nhà của các sư cô. Từ xóm Trong Sáng đi lên xóm Vững Chãi, bên tay trái là một mặt phẳng nữa rất thoáng để làm parking lot từ đó đi lên dốc cao là thiền đường Thái Bình Dương nằm bên tay trái cùng phía với nhà ăn lớn, nhà ăn đủ chỗ cho 300-400 người và bếp của quý thầy, dùng để nấu ăn cho các thiền sinh về tu tập trong ngày quán niệm và trong những khoá tu. Leo thêm một cầu thang xi măng chừng 57 cấp là mặt phẳng nữa có năm dãy nhà bị hư hoại rất nhiều, mình đã sửa chữa lại (thay mái nhà, thay kính cửa sổ, thay vách tường có để vật liệu cách nhiệt, sơn chung quanh) để mình có thể dùng được. Dãy đầu làm thiền đường nhỏ cho xóm quý thầy mình thay gạch nền nhà, bỏ thêm hệ thống máy lạnh và sưởi. Hai dãy nhà làm tăng xá của quý thầy mình sửa lại một phòng có cửa kính nhìn ra núi, đồng thời có gió mát từ biển thổi vào để làm phòng cho thầy Giác Thanh, bây giờ là phòng của Hoà thượng Phước Tịnh và có một thư viện cho quý thầy trong tăng xá.

Thiền đường ở Lộc Uyển tên là thiền đường Thái Bình Dương tại vì nó nằm bên bờ Thái Bình Dương miền Tây nước Mỹ. Thiền đường Thái Bình Dương ở Lộc Uyển là do Thầy đề nghị thầy Pháp Dung vẽ theo mẫu phân nửa hình trụ của thiền đường ở Tu viện Thanh Sơn. Thiền đường Thái Bình Dương được xây năm 2003 để cho khoá An Cư Kiết Đông năm 2004, Thầy, quý Tôn Túc Tăng, Ni và tất cả đệ tử xuất gia của Thầy gần 300 vị xuất sĩ về an cư ở Lộc Uyển ba tháng. Trên cao là xóm của quý thầy gọi là xóm Vững Chãi (Solidity Hamlet). Phía dưới là xóm của quý sư cô gọi là xóm Trong Sáng (Clarity Hamlet). Một thầy ở Việt Nam gởi tặng một tượng Phật rất lớn sau này mình thỉnh lên đỉnh núi Yên Tử. Trong thiền đường Thái Bình Dương thì chỉ có thư pháp của Thầy với hai chữ Vô Sự thật lớn. Vô Sự, tức tới đây là sống cho thảnh thơi.

Thiền đường trên những tảng đá xanh nghìn tuổi

Mỗi ngày thứ tư trong tuần, thay vì ngồi thiền trong thiền đường Thái Bình Dương thì mình đi bộ lên núi, ngồi thiền trên những tảng đá thật to và ngắm mặt trời lên rất đẹp. Mỗi tảng đá có thể cả trăm người ngồi mà vẫn vững chãi. Vì thế Lộc Uyển còn có một thiền đường không có nóc mà sàn thiền đường là những tảng đá xanh hơn nghìn tuối. Trong phim Walk with me có quay rất nhiều cảnh ở Lộc Uyển ở trên cái thiền đường không có nóc mà sàn thiền đường là những tảng đá xanh hơn nghìn tuổi đó.

Từ xóm các sư cô, phía tay trái hơi xuống dốc một chút có một khu rừng sồi, lên cao hơn về phía tay mặt của xóm Trong Sáng, có bốn cây tùng bút rất đẹp (Cypress tree). Ở đó có một ngôi nhà bằng cây, mình sửa lại thành nhà cho Thầy và đặt tên là cốc Tùng Bút. Từ cốc Tùng Bút leo lên một ngọn đồi cao hơn, mình tính xin phép để xây ni xá cho các sư cô, nhưng quận hạt San Diego cho biết chỗ đồi đó chưa từng được khai khẩn, nếu mình muốn xây nhà trên đồi thì mất rất nhiều thời gian và chi phí cho giấy tờ vì mình phải mướn những nhà chuyên môn đến kiểm tra xem chỗ đồi đó có thể xây nhà được không, và mình phải mang ra điều trần công khai (public hearing) với hàng xóm chung quanh tu viện, dù chỉ có một người hàng xóm không chấp thuận thì quận cũng không thể cấp giấy phép cho mình được. Những nơi nào đã có cơ sở sẵn thì quận mới có thể cấp giấy phép. Được Thầy cho phép mình đã phải phá cốc Tùng Bút đi để lấy đất xây ni xá cho các sư cô. Khu đất này xây lên được bốn dãy nhà, một dãy dành cho Thầy, phòng khách có cửa sổ lớn nhìn ra dãy núi hùng vĩ, phòng ngủ, ở phía sau có một phòng ngủ cho thị giả và một phòng nhỏ làm bếp, và ba dãy nhà dành cho các sư cô. Trước khi ni xá được xây, quý sư cô đã chia ra ở nhiều nơi từ nhà chính, các thất và khu vực hồ bơi (hồ bơi có từ chủ cũ, sau này mình dùng để làm hồ sen), trên khu hồ bơi có một dãy phòng, ngày xưa họ dùng để thay áo quần (changing room) sau khi tắm lên, quý sư cô sửa lại thành phòng ngủ, mùa đông thì mình như cây cà rem trong tủ đông lạnh, còn mùa hè thì mình như ổ bánh mì nướng trong lò. Cho đến năm 2014 mới bắt đầu xây ni xá. Để đóng góp vào việc bảo vệ sinh thái, ni xá được xây với vật liệu là rơm (strawbales wall ) vách tường dầy hơn 50cm, rơm được dùng thay thế cho vật liệu cách nhiệt cho nên mùa hè không cần phải mở máy lạnh, cũng như mùa đông không phải mở sưởi trung ương, vì vậy tiết kiệm được rất nhiều tiền điện, và có một lợi điểm rất lớn khác của vách tường rơm là, nếu trường hợp có hoả hoạn mà mình chưa kịp chạy ra khỏi tu viện thì có thể tạm thời trú ẩn trong nhà rơm này được nửa ngày để chờ nhân viên cứu hoả đến cứu, vì nhà rơm không cháy nhanh bằng nhà gỗ. Đó là phát biểu của nhân viên cứu hoả đến kiểm tra trước khi mình hoàn tất ni xá.

Ở Lộc Uyển có văn phòng của hội PVCEB, trước đây là UBC. Thầy là Chủ tịch (President) của hội Unified Buddhist Church Congregation (UBC) ở Hoa Kỳ. Sau này có mấy nhóm chính trị cũng sử dụng tên UBC nên mình đổi lại là Plum Village Community of Engaged Buddhism (PVCEB). Hội PVCEB gồm có mấy người do Thầy chỉ định để phụ tá Thầy: thầy Pháp Ấn chăm sóc ở EIAB, sư cô Chân Không chăm sóc ở Làng Mai bên Pháp, sư cô Hương Nghiêm chăm sóc ở Mỹ, sư cô Thoại Nghiêm chăm sóc ở Việt Nam lúc mình còn Bát Nhã, thầy Pháp Khâm chăm sóc ở Hồng Kông, sư cô Chân Đức, sư cô Định Nghiêm, thầy Pháp Dung… Tu viện Lộc Uyển cũng là nơi đặt văn phòng của Thích Nhất Hạnh Foundation từ năm 2011.

Từ xóm Vững Chãi đi lên dốc cao là núi Yên Tử. Thầy gọi tên là núi Yên Tử để nhớ Việt Nam chứ đây chỉ là một con dốc cao, là mặt phẳng cao nhất của tu viện chứ còn rất thấp so với các ngọn núi bao quanh. Con đường đất được ủi phẳng để đi lên rất nắng, may mà ngay từ ngày đầu tiên tới thăm Lộc Uyển Thầy đã dạy sư cô Thoại Nghiêm trồng cả trăm cây tiêu cảnh hột hồng lá xanh quanh năm như liễu rũ hai bên đường nên có chút bóng mát. Thầy hay dẫn đại chúng đi thiền hành lên trên này, ngắm núi rừng bên dưới và không gian bao la chung quanh. Trên núi có tôn tượng Bụt Thích Ca bằng đá trắng rất lớn, đi xuống vài nấc thang dưới dốc của núi Yên Tử có tháp của thầy Giác Thanh, thầy Giác Thanh làm trụ trì Lộc Uyển chưa tới một năm thì tịch. Đứng trên núi vào ngày trời trong xanh mình có thể nhìn được thành phố Escondido.

Ở Lộc Uyển, muốn đi lên ngồi trên những tảng đá phẳng trên núi thì mình phải đi xuống cổng trở lại chỗ Gate House. Vừa ra khỏi xóm các sư cô khoảng 300 thước bên tay trái có một cái cổng mình có thể khoá lại nếu muốn. Bên tay mặt có một con đường đi lên núi. Trên núi thì 2/3 là đất của mình còn 1/3 là đất của người khác nhưng mình có thể xài chung. Dọc đường là những tảng đá dài đã hơn trăm tuổi hay ngàn tuổi. Mình thường lên đó ngồi thiền buổi sáng – khoá tu nào ở Lộc Uyển cũng có một lần trong thời khoá thiền sinh được lên núi ngồi thiền để ngắm mặt trời mọc hay mặt trời lặn tuỳ theo thời tiết, thiền sinh được nuôi dưỡng rất nhiều. Đi dài xuống có thêm một cổng lớn mình có thể khoá lại để mấy người say không vô được. Ngoài cổng có bảng đề chữ Deer Park Monastery. Cổng lớn phải có mật mã mới có thể mở được. Trong ngày chủ nhật, vì là ngày quán niệm có thiền sinh tới tham dự thì mình không đóng cổng. Lộc Uyển có vài chỗ đậu xe nhỏ và một bãi đậu xe lớn có thể đậu được 60-70 chiếc xe mà cũng không đủ. Thầy muốn con đường từ bãi đậu xe lớn đi lên thiền đường Thái Bình Dương không được lái xe lên, để mọi người có cơ hội đi thiền hành, tận hưởng không khí trong lành của núi rừng, có mặt cho chính mình và người mình thương, Thầy có viết một thư pháp trên gỗ: You Have Arrived – Enjoy Your Steps được treo ở bãi đậu xe, cho nên tất cả các xe đều phải đậu ở bãi đậu xe, và mình có xe điện (golf cart) chở các bác lớn tuổi không lên dốc cao được lên thiền đường để sinh hoạt.

Sống chung an lạc

Xung quanh vùng này chỉ có núi đá và rừng cây sage là một loại cây thuốc ở Tây phương. Dân da đỏ hay làm nhang sage. Ở đó cũng có nhiều rắn, nhưng mình ở đã chín, mười năm mà chưa bị rắn cắn. Ngày chủ nhật thì có Phật tử tới nên thầy Pháp Dung đi vòng vòng nói: “Quý vị đi chơi đi nha. Quý vị đi lơ mơ người ta xách cây đập quý vị chết tôi không chịu trách nhiệm đâu nha.” Khi xây sửa nhà trên đó mình gặp rất nhiều rắn, nhất là rắn rung chuông. Nhưng thấy rắn thì mình lấy cây đẩy nó thì nó đi mất. Nó trốn trong rừng không đụng tới mình. Mình và nó sống chung an lạc với nhau. Mỗi khi có US tour của Thầy mình phải mướn thêm trailer mới đủ chỗ cho thiền sinh về tham dự khoá tu, mình làm sạch một vùng rồi để thêm 5-15 trailers. Trailer giống như những phòng nhỏ trong đó có bốn hay sáu giường tầng, thiền sinh dùng nhà vệ sinh công cộng bên ngoài. Khi dọn dẹp mình thấy có rất nhiều rắn, nhưng mình biểu nó đi thì nó đi hết.

Xóm Trong Sáng có mấy ngôi nhà gỗ. Năm, bảy sư cô ở trong ngôi nhà gỗ lớn nhất. Ban đầu trong nhà gỗ lớn có các sư cô Trung Chính, Thoại Nghiêm, Hộ Nghiêm, Đắc Nghiêm, Hiền Hải, Thanh Nghiêm và những sư cô trẻ như cô Kính Nghiêm, Túc Nghiêm ở đó. Một bữa nọ sư cô Trung Chính may áo, sư cô thò tay vô rổ lấy cây thước thì đụng phải con rắn nhưng nó chỉ bò ra rồi đi mất. Chỗ cửa hông ra vào có một ổ rắn, sư cô Hộ Nghiêm bảo đi chỗ khác ở đừng làm các sư cô sợ nó cũng dọn đi mất. Ở lâu riết rồi mấy thầy giỏi nghề bắt rắn, ai cũng có thể bắt được rắn. Mùa hè nóng bức rắn thường bò vào nhà bếp. Mấy thầy mua những ống bằng plastic rất cứng, bịt một đầu, để gần chỗ rửa chén. Nếu có một con rắn thì mình lấy chổi đùa cho nó chui vô ống rồi đậy nắp lại. Bắt được vài con thì cho lên xe lái đi vô núi xa rồi mở nắp thả nó ra.

Mặt phẳng trên cùng là chỗ mình định xây tháp chuông. Thầy gọi đó là núi Yên Tử vì con đường lên khá dốc. Hôm đó Thầy lên trên đó treo võng nằm, thị giả của Thầy là sư cô Thường Nghiêm người Mỹ thì ngồi trên phiến đá gần đó. Chân Không và thị giả Chân Không cũng đi theo. Cô Thường Nghiêm khoe vừa đặt một bài hát và xin hát cho Thầy nghe. Cô vừa mở miệng định hát thì thấy có một con rắn đang nằm dài dưới võng của Thầy cách võng chừng 40 phân. Thầy nói:

“Kệ nó con, để nó nằm chơi đi. Con hát thì cứ hát.”

Khi sư cô Thường Nghiêm hát thì cái đuôi con rắn ngoắc qua ngoắc lại như nhịp theo điệu hát vậy. Sau đó mình nghe tiếng chuông thỉnh báo giờ ăn cơm chiều. Nghe tiếng chuông con rắn ngóc đầu lên nguẩy đuôi trườn đi vô trong núi. Con rắn đi rồi mấy sư cô mừng quá, đứng dậy đi về. Chân Không nói, con rắn tới cám ơn Thầy, từ ngày mình về Lộc Uyển thì bà con của nó không bị giết nữa. Mình xây dựng ở đây đã bốn, năm năm rồi mà không có con rắn nào bị giết hết. Đó là nhờ ơn đức của Thầy nên hôm nay con rắn nằm dưới võng Thầy ngóc đầu lên chào Thầy rồi đi.

Garry Shandling

Nói tới Lộc Uyển là phải nhắc tới anh Garry Shandling. Anh Shandling không có vợ con và là một danh hài của Mỹ. Nhờ anh mà Lộc Uyển được cho giấy phép hoạt động chính thức.

Hồi đó Thầy đi giảng nhiều lần ở Cali cho nhiều người ở các thành phố lớn như Berkeley, Oakland… Ở Oakland người ta rất phục Thầy. Ông thị trưởng Jerry Brown, sau này trở thành thống đốc California cũng rất thích Thầy. Khi Thầy tới thành phố Oakland thì ông tặng Thầy một giải thưởng và nói: “Hôm nay thành phố rất hạnh phúc. Niềm tin ở sự bất bạo động đã lan tràn khắp thành phố. Sau khi thiền sư tới và làm một ngày chánh niệm ở đây thì con số người bạo động đã giảm đi rất nhiều.” Thầy Pháp Dung đi theo Thầy, thầy Pháp Dung là dân Cali nên khi thầy nói chuyện thì ông thị trưởng rất thích. Bà vợ ông ta còn thích thầy Pháp Dung hơn là thích Thầy nữa.

Hôm đó có anh diễn viên hài quốc tế tên Garry Shandling. Anh ngồi chơi với Thầy, mỗi lần anh mở miệng nói một câu thì mấy sư cô trẻ như Kính Nghiêm, Nho Nghiêm ôm bụng cười ngặt nghẽo còn Chân Không thì không hiểu gì hết tại vì tiếng Anh của Chân Không rất giới hạn, chỉ dùng để thuyết pháp hay đi kêu gọi hoà bình thôi. Mới tới lần đầu ông đã ký séc (check) cho Lộc Uyển 50.000USD. Ông được Thầy dẫn lên núi chơi, đi xem núi đá này núi đá kia. Thầy trò mình rất thích những tảng đá to ngàn tuổi, rộng thênh thang, bảy tám chục thầy trò ngồi trên tảng đá cũng còn đủ chỗ. Lúc đó mình không được giấy phép tiếp đông người tới tu tập dù mình nộp đơn đã hai năm rồi. Mình xin giấy phép cho 300 người ở thì nhà nước cũng không cho. Thầy đề nghị viết thơ cho ông Jerry Brown thì anh Pritam nói không nên tại vì bên Mỹ người ta làm việc độc lập với nhau. Sau này ông Arnold Schwarzenegger lên làm thống đốc, ông cũng rất thích Thầy. Ông có mời Thầy tới giảng ở trường Đại học.

Khi Garry tới thăm Thầy, biết Garry Shandling rất ăn khách nên thầy Pháp Dung và Pritam rủ Garry Shandling cùng đi để nhờ anh ta thuyết phục chính quyền cho phép trung tâm Lộc Uyển được tiếp khách rộng rãi, được mở khoá tu cho 500-600 người. Không có đủ chỗ thì mình có thể mướn những trailer tức nhà có bánh xe kéo.

Vừa tới Văn phòng xin phép xây cất hay sinh hoạt công cộng thì anh Shandling đã nói:

“Nè quý vị có biết là quý vị may mắn lắm không? Có một ông thầy tu tới định cư dưới vùng kiểm soát của quý vị chỗ sườn núi đá Escondido đó. Ông ở DEER PARK, chỗ mà quý vị bỏ hoang đó. Nhờ đọc cuốn sách này của ông mà tôi hết giận cô bạn gái của tôi. Trong giới điện ảnh thì đáng lẽ tôi gây lộn sáng, gây lộn trưa, gây lộn chiều. Tôi đi sang phải cũng để sẵn một câu bút pháp với một nét dặn dò “Breathe and smile!”, nhờ thế tôi cười được.”

Anh ta nói làm sao mà cả văn phòng ôm bụng cười ngả nghiêng – thầy Pháp Dung cũng ôm bụng cười theo. Rồi anh ta đưa cuốn sách khác ra nói:

“Nhờ cuốn này mà tôi giải quyết được chuyện phản phúc của một cộng tác phụ tá tôi…”

Suốt buổi anh ta ngồi quảng cáo sách của Thầy một cách hài hước. Anh ta nói tới đâu thì người ta cười tới đó.

“Quý vị đừng tưởng là tôi làm quảng cáo cho ông này nghe. Ổng đổi đời tôi thiệt đó.”

Những người trong ban xây cất ôm bụng cười một hồi thì anh Pritam nói:

“Quý vị có thể cấp giấy phép cho chúng tôi hoạt động đàng hoàng ở Lộc Uyển được không? Chúng tôi nộp đơn đã hai năm mà chưa có trả lời.”

Họ lỡ mê anh chàng danh hài nên ký giấy cho phép không do dự. Vừa ra xe anh Pritam gọi điện cho Chân Không:

“Sư cô biết không, mình mới thắng một trận rất lớn. Giấy phép cho mình hoạt động với số người y như cũ. Họ không biết chỗ này tiếp nhận 300 người tù, rồi khi làm ăn thất bại thì đổi qua tiếp nhận 300 người nghiện ngập. Như vậy là họ cho phép mình xây một hotel restaurant 300 chỗ ở đó.”

Anh Gary rất thương Thầy và Chân Không. Chân Không tặng cho anh băng của sư cô hát những bài thiền ca, dân ca và anh rất thích. Anh thương Chân Không như một người chị.

Năm đầu tiên sau khi bị đột quỵ thì Thầy qua Mỹ. Chân Không theo Thầy qua Mỹ ở nhờ nhà của anh Marc Benioff ở San Francisco. Garry Shandling lấy máy bay tới thăm và kể là anh bệnh suýt chết mấy lần, anh sẽ ký check cho “Walk with me”, phim của anh thầy Pháp Linh sản xuất nói về xuất sĩ Làng Mai. Sư cô Chân Không nói anh ký check cho anh thầy Pháp Linh thì phải để riêng. Nếu muốn cho tiền Lộc Uyển hay phụ chăm sóc Thầy thì anh ký check riêng. Anh nói anh sẽ ký check riêng, ngoài ra anh sẽ làm di chúc sau này khi anh chết thì một phần lớn gia tài của anh sẽ thuộc về tăng thân của Thầy Nhất Hạnh. Chiều hôm đó anh chào đi về và nói tuần sau anh lại tới.

Sau đó, một hôm Chân Không đi làm răng về thì được tin anh mới qua đời vì bị đột quỵ. Lúc đó Chân Không đang ở Pháp nên không tới dự đám tang của anh được. Lần cuối mà Chân Không đứng chụp hình với anh cách đó có một tuần. Chân Không nhớ hình ảnh anh đứng trước cửa sổ, Chân Không hỏi:

“Hồi đó tới giờ anh có thương cô nào không? Sao anh không cưới?”

Anh trả lời:

“Có, em thích người này nhưng không xong, rồi em thích người kia cũng không xong.”

Anh chưa viết kịp di chúc như đã hứa trước khi chết.

Lúc trước anh đã từng bay qua Washington DC để giới thiệu Thầy với các dân biểu quốc hội. Mấy ông dân biểu bận làm chính trị nên thường viện cớ là không có thì giờ. Anh tới thuyết phục các dân biểu thấy sự quan trọng của Thầy mà đi tham dự khoá tu. Anh Shandling rất được hâm mộ, một hợp đồng anh ký tham gia một chương trình truyền hình là mấy triệu đô la. Nghe có Shandling tới Library của Congress nói chuyện và giới thiệu thiền sư Thích Nhất Hạnh thì dân chúng tới rất đông. Anh nói:

“Tôi là người Do Thái đó (ý là người tính tiền rất kỹ). Tôi tới đây không được trả tiền vé máy bay mà còn phải tự móc túi mình ra mua vé (thiên hạ cười ầm). Tôi không bỏ thì giờ bay tới Washington DC để giới thiệu ông thiền sư này nếu ông không phải là người vô cùng đẹp đẽ, sâu sắc, đã giúp tôi gỡ được những nút thắt khổ đau trong cuộc đời của tôi.”

Nghe anh ta nói chuyện thiên hạ cười rần rần. Chân Không dở tiếng Anh nên không hiểu gì hết. Ngày anh tịch, Chân Không xin một thầy đại diện cho Làng Mai là thầy Pháp Hải đang ở Lộc Uyển tới dự đám tang của anh và xin một mớ tro của anh đem về rải ở Lộc Uyển. Hiện giờ anh đang bàng bạc ở tu viện Lộc Uyển cùng các thầy và các sư cô.

Tu viện ở miền Đông Hoa Kỳ

Thầy là người Á Châu thì đáng lý Thầy phải lập trung tâm tu học ở Á Châu. Nhưng khi đi kêu gọi hoà bình ở Tây phương thì Thầy không được về lại Việt Nam và lập cơ sở ở Tây phương. Lúc đầu Thầy cũng không muốn lập trung tâm. Thầy rút về Phương Vân am để tịnh tu cho chính mình và vài người bạn trân quý. Mở khoá tu ở Phương Vân am thì quá chật nên Thầy về miền nam nước Pháp mua được đất làm Làng Hồng sau đổi tên là Làng Mai. Nhiều thiền sinh năn nỉ Thầy qua Mỹ, qua Úc… và lập trung tâm tu học ở đó.

Có một anh thiền sinh người Mỹ tên là Pritam Singh mà mọi người thường gọi anh là Cấp Cô Độc. Tên anh như là tên Ấn Độ nhưng thật ra anh là người Mỹ da trắng. Gia đình anh theo đạo Chúa. Trong chiến tranh Việt Nam anh chống chiến tranh nên bị các cha rầy. Anh chán đạo Chúa nên bỏ đạo đi qua Ấn Độ, theo đạo Sikh tiến bộ của Ấn Độ giáo và lấy họ Singh như những người của đạo Sikh. Anh buôn bán bất động sản rất thành công ở Hoa Kỳ. Anh muốn cúng dường một biệt thự trong tài sản của anh cho Thầy để mở một trung tâm ở bên Mỹ nhưng Thầy không chịu. Trong chuyến hoằng pháp của Thầy năm 1997 ở Hoa Kỳ có ba người trẻ muốn xuất gia nhưng chưa có quốc tịch Hoa Kỳ nên chưa đi qua Làng Hồng ở Pháp được. Thương thế hệ tương lai, Thầy chịu mở một trung tâm ở Mỹ cho ba vị này có chỗ tu tập. Vì vậy mà tu viện Rừng Phong, thiền viện Thanh Sơn ra đời với sự giúp đỡ của anh Pritam. Cũng vì lòng từ bi đó mà song song với trung tâm anh Pritam đề nghị tặng ở miền Đông, Thầy cũng muốn mở một trung tâm miền Tây Hoa Kỳ, vùng California cho đa số tuổi trẻ gốc Việt vùng Cali.

Tu viện Rừng Phong

Tu viện Rừng Phong ở Woodstock, tiểu bang Vermont là nhà nghỉ của anh Chân Hộ Tăng Pritam Singh. Anh là người Mỹ đầu tiên rất tha thiết với pháp môn của Thầy và nhất định là Thầy phải có trung tâm tu học ở Hoa Kỳ chứ chỗ Làng Mai tu học của Thầy xa xôi khó đi quá thiên hạ không tới tu được. Chuyến hoằng pháp ở Bắc Mỹ vào mùa thu năm 1997, lần đầu tiên Thầy đem theo nhiều thầy, sư cô trẻ ở Làng Mai. Trong chuyến đi này có ba người trẻ thấy tăng đoàn đi theo Thầy trẻ trung, đầy năng lượng tươi vui mà lại an lạc quá nên phát tâm đi tu mà chưa có quốc tịch Mỹ để qua Pháp xuất gia. Thương thế hệ trẻ có bồ đề tâm lớn, Thầy đã nhận cho các em xuất gia sau khoá tu tại đảo Key West, Florida. Vào thời điểm này có một giáo thọ cư sĩ là anh Chân Thiện Căn đang sắp xếp để qua Làng Mai thực tập xuất gia, Thầy gọi anh đến Key West để cùng xuất gia với ba bạn trẻ và anh trở thành anh cả trong gia đình xuất gia mà Thầy đặt tên là Cây Phượng. Vì có các vị xuất gia mới này, nên Thầy đã nhờ anh Pritam tìm chỗ cho các vị này tu. Pritam nghe Thầy nhờ nên mừng lắm, anh ta phát tâm cúng dường liền hai căn nhà của anh ở Vertmont xung quanh có hồ và rừng cây phong. Nhà cho các sư cô có hai tầng, tầng trên gồm hai phòng ngủ, tầng dưới gồm một phòng ngủ, hai phòng sinh hoạt chung, nhà bếp và nhà ăn đủ cho sáu sư cô. Thầy đặt tên là Xóm Tùng. Cách đó khoảng 15 phút đi bộ là nhà cho các thầy. Nhà các thầy cũng có hai tầng gồm hai phòng ngủ trên lầu với một nhà bếp nhỏ và một phòng sinh hoạt lớn. Tầng dưới có một bếp lớn chung với phòng ăn và có một dãy bàn dài đủ chỗ cho 20 người. Nhà này ở trên đồi, nhìn xuống rừng phong rất đẹp. Thầy đặt tên là xóm Thạch Lang. Kế bên là căn nhà nấu đường Maple Sirup được anh Pritam ra lệnh cấp tốc sửa thành một cái thiền đường đủ chỗ ngồi cho khoảng 80 người, trong đó có một phòng ngủ và một phòng tắm. Thiền đường này được đặt tên là Sugar House. Gần đó có một cái hồ nhỏ bên trong có xây một nhà trà theo phong cách Nhật. Đi xa khoảng năm phút nữa thì có một thung lũng có những trụ đá cao lớn dựng theo vòng tròn phong cách Anh quốc xưa. Và sau đó là một hồ thiên nhiên nhỏ thôi mà gia đình anh Pritam hay bơi vào mùa hè. Có nhiều con đường thiền hành nằm trên núi rất đẹp. Sư cô Chân Đức được Thầy cử qua Vermont để hướng dẫn sự tu học của đại chúng. Tu viện Rừng Phong chính thức được thành lập vào cuối chuyến đi hoằng pháp ở Hoa Kỳ mùa thu năm 1997, mang tên là chùa Phong Lâm, gồm có ba vị nam xuất gia và bảy sư cô.

Tu viện Thanh Sơn

Năm tháng sau anh Pritam tìm ra một ngôi nhà khá rộng rãi ở cách tu viện Rừng Phong khoảng nửa tiếng, anh đề nghị mua tặng thầy làm tu viện cho đàng hoàng hơn ngôi nhà nhỏ xíu chật chội kia. Khu nhà và núi rừng này giá 900.000 đô. Các sư em và cả anh Pritam cũng nói: “Đúng là tu viện của Thầy phải có chỗ thiền hành, núi rừng bao la như chỗ mới này.” Nó nằm ở Hartland Four Corners, Vermont. Chỗ này nằm ở trung tâm Vermont, phải lái xe 6 giờ mới tới New York City, 5 giờ tới Boston, 5 giờ đi Philadelphia, 6 giờ lái xe đi Montreal hay 7 giờ đi Toronto, Canada. Anh muốn cúng dường toàn bộ tiền mua ngôi nhà nhưng Thầy không chịu, Thầy nói:

“Nếu Thầy để anh mua trung tâm này thì người ta sẽ nói trung tâm này là của anh Pritam Singh chứ không phải là một trung tâm của Phật giáo. Một trung tâm Phật giáo phải do nhiều bàn tay đóng góp nên anh chỉ có thể đóng góp tới 600.000USD thôi, phần còn lại do những vị khác đóng góp.”

Vì vậy ngoài số tiền của anh Pritam, mẹ của anh Richard Brady (một thiền sinh) cúng dường 100.000USD và các Phật tử các nơi quy tụ về đóng góp. Và thêm vào tiền thu được từ hai cuốn sách của thầy là Living Bouddha Living Christ và Anger đủ cho mình mua tu viện Thanh Sơn.

Như vậy vào năm 1998 Làng Mai có thêm Trung tâm tu học Thanh Sơn cách Rừng Phong 25 phút lái xe, quý sư cô dọn qua Thanh Sơn. Tu viện Thanh Sơn tức là Green Mountain Dharma Center được đặt tên theo địa danh, tại vì tiểu bang đó tên Vermont, ver là màu xanh và mont là núi (có gốc từ tiếng Pháp).

Thầy cử các sư cô Quy Nghiêm và Linh Nghiêm qua Tu viện Thanh Sơn phụ với sư cô Chân Đức. Năm này có đợt xuất gia mới, sư em Thục Nghiêm người Mỹ cũng được qua Thanh Sơn lo giấy tờ hành chánh cho Trung Tâm. Như một sư cô đứng tuổi có trách nhiệm, sư em Thục Nghiêm có đóng góp lớn và được Thầy và Chân Không trân quý lắm.

Anh Pritam cho xây ngay một thiền đường bằng gỗ láng làm chỗ ngồi thiền cho quý sư cô. Anh còn mua thêm 125 acres đất rừng xung quanh tu viện để có đủ diện tích hy vọng ban xây cất nhà nước cho phép xây thiền đường lớn, nhà ăn, phòng ngủ, khu vệ sinh công cộng v..v. nhưng ba lần nộp đơn xin đều bị từ chối vì Vermont là tiểu bang cơ ngơi của các tỷ phú như Rockfeller. Khi mình xin giấy phép mở khoá tu hay ngày chánh niệm cuối tuần có đông người đến tu tại Tu viện Thanh Sơn thì mãi mà không được tại vì vùng Vermont toàn là dân nhà giàu nên không muốn cho đông đảo người đến tu. Họ không cho xây cất những cơ ngơi sinh hoạt công cộng.

Thanh Sơn là một ngôi nhà hai tầng khá lớn nên đủ chỗ ở cho các sư cô và có thêm phòng cho Thầy cũng như thị giả. Nhà nằm trên cánh đồng đầy hoa dại rất mượt mà. Có một cái lán rất rộng có mái che để tập cưỡi ngựa cho con cái các gia đình giàu có được mình cải tạo lại thành thiền đường Phật Mã. Vùng miền Đông Hoa Kỳ quanh năm tuyết phủ nên bên trong thiền đường lót rơm bện cứng cho thiền sinh dự Khoá tu Phật tử Việt Nam tha hồ có chỗ ngủ. Một góc là nam thiền sinh cũng 180 người, góc kia là nữ thiền sinh được gần 300 người. Mình không có giấy phép sinh hoạt công cộng nhưng khoá tu cho người Việt khá đông người tham dự, thiền sinh mướn sáu xe bus 50 chỗ đi từ Boston, Philadelphia, Montreal, Toronto và ngay cả từ North Carolina nữa. Họ hạnh phúc vô cùng. Nhiều bạn trẻ trí thức từ Toronto thích về đây tu học hơn là đi làng Cây Phong. Có cả gia đình con cháu cụ Lê Đình Thám là anh Lê Đình Duyên, vợ và các con về tu nữa. Cả gia đình về thọ giới với Thầy. Có nhiều người trí thức ở Toronto đi tham dự và lập ngay tăng thân Toronto, tăng thân Ottawa.

Thơ phổ nhạc của sư cô Chân Quy Nghiêm về tu viện Núi Xanh (Thanh Sơn):

Dáng Núi Xanh, dáng núi bình yên

Nước biếc non xanh trời đất thật hiền

Đi rất nhẹ giữa trời xanh biếc

Lòng vẫn trong thế giới bình yên.

Khi mua xong Green Mountain Dharma Center thì bên tu viện Rừng Phong, anh Pritam vẫn xây dựng Phật đường cho quý thầy khá đẹp. Anh xây theo kiểu nóc bầu để không đọng tuyết mà ba năm sau Thiền đường Thái Bình Dương ở tu viện Lộc Uyển mô phỏng lại với nóc đỏ.

Mình ở Rừng Phong và Thanh Sơn mười năm nhưng địa phương không yểm trợ cho mình phát triển rộng, thêm nữa Thanh Sơn nằm trong khu nhà giàu. Mình thấy cần phải mua một trung tâm ở chỗ có nhiều người khổ nên mình đã đi tìm chỗ mới, đó là tu viện Bích Nham bây giờ. Trung tâm Bích Nham ở tiểu bang New York, cách New York city từ 1 đến 1,5 giờ lái xe.

Tu viện Bích Nham

Thầy Pháp Duyệt lên internet tìm một số cơ sở ở trong vùng New York để làm một trung tâm mà người nghèo Mỹ và Việt Nam có thể tới được. Trung tâm ở Vermont thì người Mỹ da đen không tới được và quá xa cho người Việt Nam. Ngoài ra chỗ đó không được đón tiếp quá một trăm người tới tu học. Mình tìm được một chỗ gần New York và nhờ anh Pritam coi giùm.

Đây là một khu nghỉ dưỡng với nhiều nhà nằm rải rác trong rừng có được dòng suối lớn bao quanh. Rừng cây xanh mướt, xanh trong như bích ngọc vào xuân và vàng rực óng ả như cõi tiên vào mùa thu lá đỏ kéo dài hai ba tháng, ngồi thiền giữa rừng thu sẽ rất tuyệt vời. Mùa thu là mùa lá rụng, người Mỹ ở các tiểu bang không có mùa thu thường bay tới đây để ngắm lá rơi tại vì chỗ này đặc biệt có cây phong lá đỏ mùa thu đổi màu rất đẹp. Khu này có chừng năm ngôi nhà nhỏ, có hai nhà một tầng và một căn nhà hai tầng. Có một cư xá thật lớn bằng gỗ nhưng ọp ẹp lắm rồi cần khoảng 1 triệu USD mới sửa hết được. Cư xá này nếu sửa lại đàng hoàng sẽ có thể chứa 100 người. Căn nhà hai tầng có tầng trên làm văn phòng, thư viện và phòng sinh hoạt chung. Tầng dưới là khu nhà ăn và bếp, đủ chỗ ăn cho khoảng 80 người. Chỗ ngủ của các sư cô là các ngôi nhà cất rải rác trong rừng, khách cũng có thể ở lại nghỉ dưỡng qua đêm nhiều ngày hay hàng tuần. Trước mặt phòng ăn công cộng là ngôi nhà nhỏ làm thiền đường cho các sư cô. Đây là chỗ ở của các sư cô, gọi là xóm Hạc Trắng. Một con đường nhỏ từ đầu đường đi vào xóm Hạc Trắng chạy dọc đến bìa rừng không có tên nên mình xin chính quyền và đặt bảng tên đường là Mindfulness Road (đường Chánh Niệm). Một con suối chảy quanh đất mình và một bờ hồ nước trong xanh trên con đường đi vào rừng rất đẹp, nằm gần căn nhà đã cũ kỹ tên là Hồ Nguyệt (Moon Lake). Thiền đường, nhà ăn, mấy căn nhà rải rác, nhà nào cũng có tên rất thơ mộng. Tuy nhiên vì chỗ này ngày xưa chỉ hoạt động vào mùa ấm và mùa thu nên không đủ tiện nghi cho mùa đông tuyết lạnh lẽo. Các sư cô dự định xây một ni xá đủ tiện nghi tối thiểu để ở chung nhưng đã nhiều năm rồi mà dự án vẫn chưa đi đến đâu.

Bên kia con đường xuyên quận tên Pleasant Valley Rd. là nhà của ông chủ, mình mua luôn làm nhà ở cho các thầy. Nhà rộng, cũng được mười căn phòng, có nhà ăn, nhà bếp rộng rãi. Đất còn rộng nên mình xây một thiền đường khá lớn, có sức chứa tới 500 người do thầy Pháp Dung dùng sở trường kiến trúc vẽ giùm. Thiền đường có cửa kính lớn nhìn ra núi rừng rất đẹp, được đặt tên là Đại Đồng, dùng cho hai xóm trong ngày Quán Niệm hay cho những buổi thuyết giảng công cộng của Thầy cho cả vùng đến nghe. Kế bên thiền đường là thất Thạch Lang dành cho Thầy và thị giả mỗi khi đến Bích Nham. Đó là xóm của mấy thầy gọi là xóm Tùng Xanh.

Đi xe ra xa cách đó 3 cây số là rừng núi vách đá cheo leo nên mình đặt tên cơ sở này là Thiền viện Bích Nham, lấy tên theo cuốn thiền tập Bích Nham lục. Sư cô Chân Không đề nghị đặt tên Bích Nham thì Thầy đồng ý ngay. Bài hát Colchiques dans les Prés là một bài dân ca Pháp, Chân Không đặt lời Anh là nhờ có Bích Nham và rừng thu của tu viện.

Chương 3: Làng Mai Bắc Mỹ

Sau này có nhiều người Mỹ rất thích Làng, họ bay qua Paris rồi bay từ Paris xuống Bordeaux và lấy taxi tới Làng. Tiền taxi thì quá cao, còn đi xe lửa hay xe bus thì quá rắc rối. Họ nói nếu Thầy có một trung tâm bên Hoa Kỳ thì sẽ có rất nhiều người Mỹ tới tu tập. Thầy không chịu, nói có ba trung tâm đã mệt lắm rồi, nếu có thêm một trung tâm bên Mỹ nữa thì chắc chịu hết nổi. Nhưng mỗi hai năm thì Thầy đi Mỹ giảng dạy một lần. Ban tổ chức bên Mỹ tổ chức cho Thầy đi giảng ở năm hay bảy tiểu bang, mỗi tiểu bang chừng năm ngày. Có những buổi thuyết pháp công cộng ở những thành phố lớn như New York, Washington D.C, Chicago, Los Angeles, Seatle, Portland cho 1500 đến 4000 người. Thỉnh thoảng mình cũng qua Canada. Cuối chuyến đi Thầy hay qua dạy ở Canada cho nên nhóm Phật tử ở đó lập làng Cây Phong. Vậy mà nhân duyên đưa đẩy nên rồi mình cũng có ba trung tâm tu tập bên Mỹ: Bích Nham, Lộc Uyển và Mộc Lan.

Những thành quả của Làng Mai

Thành quả thật ra chẳng có gì hết. Nếu có thì hằng hà sa số nhiều lắm mà không thì cả thế gian này cũng không.

Từ những chuồng bò, chuồng thỏ, chuồng heo, nhà chứa rơm, nhà đựng rượu Làng đã biến ra thành thiền đường Nến Hồng, Tham Vấn đường… Từ một anh Thịnh đánh đập vợ con, anh bỏ thuốc, bỏ rượu, lo làm ăn chí thú hết lòng. Từ những người con trai khinh khi cha mẹ vì cha mẹ đều say sưa nghiện ngập, uống rượu, đánh đập nhau, anh Pritam, chị Joanna ấy đã trở nên người cứu rỗi của gia đình ba mẹ, anh em của anh ấy. Bác Tư đó, người nghệ sĩ tài ba đó, chuẩn bị súng để bắn vợ con và tự tử, nhờ ba tháng ở luôn Làng Mai và thực tập thiền lạy mà bác trở thành người cha tâm linh của các con và mấy năm sau, khi ra đi, chết thật nhẹ nhàng, đi vào cõi tịnh như dạo chơi mà không phải niệm A Di Đà Phật khiến cho các tu sĩ Phật giáo trọn vùng Úc châu ấy bái phục vô cùng. Kể làm sao cho xiết những cánh tay Bồ tát sống dậy từ Làng Mai, đi vào đời chuyển hoá vô số những người thương. Từ anh Hoàng Phúc chỉ còn vài ngày sống trước khi đi vào cõi chết, đã “chết thật” nhẹ nhàng và tái sinh sáu giờ sau, sống dậy nấu cơm chờ vợ con trở về cõi sống. Chân Không viết những dòng này chỉ mong mỗi người biết dừng lại trước những bức xúc, những cơn cảm xúc lớn, nào là sợ hãi, hoảng hốt… để rồi nhìn sâu hơn trong mỗi hành động, mỗi tư duy với lòng từ bi của Bồ tát Quan Âm, với cái thấy trong suốt đầy ánh sáng hiểu biết của Bồ tát Văn Thù Đại Trí trong mỗi chúng ta, để Hiểu và Thương thêm những người mình chưa hiểu và chưa thương.

Thường thì trong gia đình hễ có một người đi tu thì các người từ từ nối nhau xin đi tu luôn vì thấy em mình, chị mình hạnh phúc quá. Một người anh ruột thấy em mình đi về Làng Mai rồi viết thư về xin đi tu luôn. Lúc đầu anh không hiểu tại sao nhưng khi thấy em mình bước xuống phi cơ cùng với Thầy và tăng đoàn, cái cô em gái nhút nhát rụt rè, sợ hãi đó đang đi khoan thai đẹp đẽ quá làm anh ta khó mà tin cô này là em gái mình. Sau đó thì anh ấy xin theo Thầy xuất gia luôn.

Làng Mai, nhờ tuệ giác quyết tâm làm mới đạo Phật bằng con đường chánh niệm, một cánh cửa trong bát chánh đạo, đã giúp cho nhiều tầng lớp người, bằng con đường vô tướng, tiếp xúc được với phần thâm sâu nhất của tự thân mỗi người, tiếp xúc với tánh sáng suốt Từ Bi, tánh Bụt, tánh Vô Uý của Bồ tát Quán Thế Âm, tánh Hiểu và Thương sâu của Bồ tát Văn Thù, tiếp xúc với Thượng Đế, với Allah trong họ, với lý tưởng Đại Đồng trong người ấy.

Điều kiện tu và sống ở Làng Mai

Cư sĩ thường trú

Cư sĩ cũng có thể vào Làng Mai tu và viết đơn xin được vào thường trú, nhưng họ phải ghi tên xin thực tập hai tuần xem có thích đời sống chánh niệm, đi đứng nằm ngồi, làm việc ăn uống trong chánh niệm hay không, có sống hoà hợp được với mọi người không? Họ phải đóng một số tiền tối thiểu mà Làng cần cho mỗi tu sĩ, có nghĩa là họ được bớt 40%. Trên 40 tuổi thì Làng không nhận. Nhưng Chân Không thấy có những người tuy trên 40 nhưng vẫn mạnh khỏe, có nhiều kinh nghiệm ở ngoài đời, có từ bi tâm lớn muốn phụng sự thì khi được chấp nhận vào phụng sự họ lại giỏi hơn những cô tập sự trẻ nên Chân Không xin chúng nhận luôn những người tới 49 tuổi.

Tập sự xuất gia

Muốn tu và sống ở Làng Mai thì mình phải có điều kiện gì? Trước tiên là sức khoẻ: mình phải khoẻ mới tu được nên phải đi khám bác sĩ tổng quát, thử máu xem có bị bệnh truyền nhiễm hay siêu vi gan B, C không. Sau đó mình nói phải vô ở một tháng để coi mình có muốn đi tu thiệt không. Hai tuần lễ đầu phải trả tiền đầy đủ. Nếu mình tu khá thì tuần lễ thứ ba, thứ tư mình khỏi trả. Có những người dở quá thì phải một tháng mình mới cho ở chính thức. Không bắt buộc phải đi tu mới được ở Làng Mai, nhưng người nào đi tu thì có ưu tiên hơn. Nếu vị ấy được chúng quý trọng và dưới 50 tuổi thì Làng có thể cho tập sự xuất gia và xuất gia luôn nếu tha thiết muốn ở lại xuất gia. Như Chân Không đã kể trên, nếu có những người bị quá tuổi nhưng vẫn mạnh khỏe, có nhiều kinh nghiệm ở ngoài đời, phát tâm bồ đề thì khi vô phụng sự họ lại giỏi hơn những cô trẻ hai mươi ba mươi mới tập sự nên Chân Không nhận luôn những người tới 45 – 48 tuổi được đi xuất gia. Ngay thời Phật còn tại thế tăng đoàn khất sĩ cũng không nhận người xuất gia nữ hay nam khi tuổi họ sắp lão niên. Lý do là vì lão niên hay sinh nhiều bệnh, mình chưa làm gì phụng sự cho chúng thì chúng phải phụng sự lại mình vì tuổi già không bệnh này thì cũng có bệnh khác. Vì vậy nếu đi tu khi còn trẻ thì mình làm được nhiều việc chung của chùa và khi đến tuổi già có nhiều bệnh, các sư em lo thang thuốc, giặt giũ cho mình, mình không mặc cảm là mới đi tu chưa làm được gì cho chúng mà chúng đã phải phục vụ cho mình. Phải đảm bảo đúng điều kiện được đi tu như là phải dưới 50 tuổi, dưới 40 tuổi thì có ưu tiên nhiều hơn. Nhưng khi về Việt Nam thì vì có đông người xin quá nên mình nói phải dưới 35 tuổi. Những ai vì bận học hành nghiên cứu đến khi hoàn thành các bằng cấp đã quá tuổi 35 mà có ý nguyện đi tu thì cũng được nhận vào tu. Có người hỏi trong Làng có bao nhiêu tu sĩ thường trực? Nhờ vụ Bát Nhã bị đuổi nên Chân Không xin chính phủ Pháp cấp visa dài hạn cho các thầy các sư cô, tức visa một năm nhưng được tái cấp hoài. Các thầy các sư cô cũng có thể ở 10 hay 15 năm nhưng mình không muốn xin tại vì mình nghĩ chỉ ở khoảng bốn năm hay nhiều nhất là hai lần bốn năm để quen với cách tu rồi mình sẽ cử đi chỗ khác như là Thái Lan để lo trung tâm Thái Lan hay cử về Hồng Kông để lo trung tâm Hồng Kông hay cử về Úc chứ mình không giữ lâu.

Số tu sĩ ở các xóm không cố định, ví dụ như hiện giờ Xóm Mới là 66 người, ở Xóm Hạ là 77 người nhưng có người phải về nhà chăm cha mẹ già hoặc về Việt Nam chữa bệnh thì chỉ còn có 72, Xóm Thượng của quý thầy (gồm luôn Sơn Hạ) thì tới 80 người nhưng có người tu xong năm năm rời chúng, lại có mười mấy người mới xuất gia, rồi cộng với tu sĩ khách thì ở Làng mình có khoảng 200-230 người. Tu sĩ khách thì không trả tiền, chỉ phải làm theo thanh quy, nếu làm không đúng thì sẽ được mời đi.

Mấy người tập sự xuất gia thì từ sáu tháng tới một năm. Trong trường hợp đã từng sinh hoạt tăng thân nhiều năm và từng là cánh tay mặt hay tay trái của một trung tâm và đã qua Làng Mai Pháp tu tập thì chỉ cần ba đến sáu tháng tập sự tại vì đã tu tập lâu rồi ở các trung tâm khác. Ở Làng Mai làm công việc là phụ, việc chính là thực tập chánh niệm. Sau khi thọ giới thì mình làm sa di ni, làm sa di ni một thời gian hai năm thì mình thọ giới thức xoa ma na. Thức xoa là tiền tỳ kheo ni. Như vậy là phải tối thiểu ba năm thì mới thọ giới tỳ kheo ni. Còn bên nam không có giới thức xoa, từ hai tới ba năm mới thọ giới tỳ kheo. Từ tỳ kheo mà lên giáo thọ là từ bốn tới năm năm. Thọ giới lớn bốn năm thì được làm tập sự giáo thọ, người giỏi thì khỏi tập sự giáo thọ nhưng số đó rất ít, phần đông thì phải tập sự giáo thọ một năm. Làm giáo thọ thì được giảng chung với mấy thầy lớn, rồi thầy lớn mới buông tay để mình giảng khoá tu một mình.

Không được đi tu với tài sản vật chất

Theo truyền thống như khi Bụt còn tại thế, các vương tôn công tử đi tu đều đi tu tay không. Một người thợ hớt tóc tên Ưu Ba Ly ở thành Xá Vệ thấy năm công tử dòng quý phái ghé tiệm anh, nhờ cạo râu và tóc của họ. Họ trút hết vòng vàng tặng anh thợ và nói: “Anh hãy xài giùm, chúng tôi đi tu nên không cần nữa.” Sau đó anh thợ hớt tóc cũng quyết định đi tu luôn và bỏ lại châu báu bên đường.

Ở Làng Mai cũng thế, ai đến tu cũng đi tay không. Có một sư em người Pháp ngày xưa khá giàu có, Chân Không đã căn dặn em đi tu thì đi tay không nhé. Cô em đó 48 tuổi đã cho hết gia tài cho con gái lớn của cô, chỉ giữ lại chiếc xe ô tô mới mua. Hồi đó Làng còn nghèo lắm, chỉ mua những ô tô cũ. Một hôm cô muốn đi ra thuyết pháp cho một làng người Pháp vì họ không biết chi về đạo Bụt. Cô định tự động lái xe đi dạy đạo một mình vì trong tăng thân xuất sĩ Xóm Hạ chỉ có mình cô nói tiếng Pháp. Một sư cô lớn cản lại nói:

“Em mới là sa di ni tu chưa được hai năm, chưa đủ khả năng đi dạy đâu. Khi em tu khá, tăng thân sẽ cử em đi dạy và cung cấp phương tiện, xe cộ đưa em đi.”

Em ngạc nhiên nói:

“Xe này của em mua và em cho Làng mà! Xe của em thì em cứ lái đi thôi!”

Sư cô lớn vẫn ngăn nói:

“Em chưa là tỳ kheo ni, cũng chưa là giáo thọ nên chưa được đi dạy.”

Em giận quá, viết thư cho Thầy nói xấu tăng thân khá nhiều từ những tri giác rất sai lầm về chúng. Em thưa với Thầy:

“Con đi bằng xe của con mua và con đem xe ô tô đó tới chứ đâu phải xe của chúng đâu?”

Sư cô lớn dạy em gọi gia đình huyết thống tới và xin trả ô tô về để quên bớt cái ngã “nhà giàu” của em một chút, đề nghị em nên kêu con gái tới đem ô tô của em trả lại cho gia đình. Điều đó nhắc em là em phải đi tu tay không, bình đẳng với mọi người. Nhưng tính bồng bột của em chưa dứt nên em vừa trả xe hơi cho con gái xong thì em cũng đi về nhà và bỏ tu luôn.

Những khó khăn của Làng Mai

Ở Tây phương thì ai sinh ra cũng có đạo Chúa, dù không đi nhà thờ người ta cũng coi mình là đạo Chúa. Nếu con của họ theo đạo Phật thì họ coi như là nó phản đạo, mất gốc vậy. Các bậc cha mẹ tiến bộ đồng ý cho con đi tu, nhưng con tu tới năm thứ ba thì họ nói tưởng con ham vui đi tu thôi! Tại vì con họ đã từng có nhiều dự án mà dự án nào cũng không kéo dài quá một năm, tại sao bây giờ nó tu ba năm rồi mà chưa bỏ? Mình mời bà mẹ của thầy hay của sư cô đó tới chơi. Theo luật ở Làng Mai, nếu là mẹ của một sư cô là mẹ của tất cả các sư cô. Sư cô A đi tu, mẹ của sư cô A tới thì tất cả sư cô đều cưng mẹ, lo cho mẹ từng chút. Bên các thầy cũng vậy, bác có một đứa con trai đi tu nhưng tới đây thì 45 thầy đều là con của bác. Anh chị em các thầy các sư cô cũng được tới ở miễn phí.

Nhưng có nhiều gia đình tới đông quá nên họ tự đóng góp để giúp thêm cho chùa. Thường thì trong gia đình Việt Nam hễ có một người đi tu thì mấy người anh em, chị em xúm nhau đi tu luôn. Có gia đình có tới năm, sáu người xuất gia với Thầy.

Cư sĩ vào Làng không được ăn mặn, đem thịt vô sẽ bị đuổi liền, không ăn trứng gà nuôi công nghiệp, không được mua cheese. Nói như vậy nhưng cheese từ những con dê được nuôi trên núi, không phải phá mấy chục mẫu rừng để làm trại chăn nuôi lớn thì vẫn được ăn. Nhưng Thầy khuyên đừng ăn để khỏi bàn cãi cái này nuôi trên núi, cái kia không nuôi trên núi. Nếu trong trường hợp anh chị em nào bị bệnh cần ăn thì mình xin phép chúng.

Trong cách làm việc và tu tập của xuất sĩ thì đi đâu mình cũng phải có second body, tức thân thứ hai (đệ nhị thân). Ban đầu mình thấy hơi lạ nhưng sau mình biết xuất xứ từ trong kinh của Phật nói một nữ tu đi đâu thì không được đi một mình. Đi một mình là phạm giới, tại vì một lần có một sư cô đi về thăm nhà một mình. Sư cô đi giữa rừng thì bị người xấu hãm hiếp. Từ đó các ni sư chế thêm luật phụ nữ không được đi một mình mà phải đi hai ba cô. Trong thế kỷ 21 Thầy Nhất Hạnh nói, mấy thầy cũng phải có thân thứ hai. Tuy mấy thầy không bị hãm hiếp trong rừng nhưng ngoài thành phố có những người tạm gọi là nữ Phật tử ban đêm có thể làm cho thầy mất giới. Ngay trong những khoá tu lớn có thời tham vấn riêng, vì đông quá mà họ đòi tham vấn riêng mà một hai người thì không đủ cho nên có những thầy ngồi tiếp một cô riêng nhưng phải ngồi chỗ thanh thiên bạch nhật để thiên hạ đi qua đi lại đều thấy. Thầy tiếp tham vấn với một cô thì được nhưng kéo ghế ngồi riêng với một cô trong rừng vắng thì không được. Làng mình rất kỹ về mấy vấn đề đó.

Trong Làng không làm phòng cho hai người ở. Thầy nói phải có ba người, lỡ hai người có vướng mắc (nữ với nữ hay nam với nam) thì có người thứ ba biết, báo cáo cho đại chúng. Trong phòng thì thường là ở ba hay năm người chứ không có hai hay bốn người.

Trong những khoá tu xuất sĩ thì có tu sĩ của các nước tới nhiều, thường là người tu của các nước Á Châu như Indo, Đại Hàn hay Đài Loan tới xin học hỏi. Sau này mặc dù Thầy đột quỵ và không còn ở Làng nữa, nhưng số người xin xuất gia ở Xóm Thượng ngày càng đông mà toàn là mấy em Tây phương, Trung Mỹ, Nam Mỹ. Họ tu rất đàng hoàng. Thầy cho chương trình tu năm năm. Thầy nói mình học chương trình kỹ sư năm năm thì tu cũng năm năm. Nếu mới năm đầu mà mình rớt thì cũng được. Tu được bốn năm thì cái học của mình mới nhuyễn và quyện vào đời của mình. Sau khi tu năm năm mà thấy hạnh phúc quá thì mình tiếp tục suốt đời, còn nếu không có hạnh phúc thì mình đi ra. Nhờ chương trình tu năm năm mà người Tây phương được khuyến khích. Thầy nói, anh bỏ năm năm để học kỹ sư hay thạc sĩ thì trong năm năm đó anh cũng như một người tu. Nếu có cô bồ này tới cô bồ khác thì làm sao anh ra trường nổi. Ở đây anh cũng phải tập như vậy.

Việc làm của các giáo thọ

Trong những khoá tu

Lúc đầu thì Thầy giảng bài pháp thoại chính. Mình còn có những buổi pháp đàm. Pháp đàm, thứ nhất là để lắng nghe thiền sinh có những khó khăn gì cần được giúp. Sư cô hay thầy trưởng nhóm pháp đàm ghi nhận và báo cáo cho giáo thọ để cho bài pháp thoại, tuy cũng vẫn là giảng về pháp Phật nhưng đi vô thực tế để soi sáng cho người nghe đang có vấn đề. Bài pháp thoại mỗi ngày mỗi thích hợp hơn và chỉ đường gỡ rối chung cho thiền sinh. Thiền sinh nói ra những điều mình suy nghĩ, những khổ đau trước khi tới tu tập và họ đã học được gì ở khoá tu để giải quyết những khó khăn của mình. Mỗi nhóm pháp đàm có nhiều nhất là 25 người cho nên số giáo thọ đi theo Thầy phải đủ để một người có thể chăm sóc cho 25 người. Vì vậy, nếu một khoá tu có 1000 người tham dự thì sẽ có 40-50 giáo thọ đi theo. Mình nghe Thầy giảng, mình lắng nghe khổ đau của người khác. Mỗi người có 3-5 phút để chia sẻ hoặc đặt câu hỏi luân phiên nhau. Ai không có gì để nói thì chắp tay xá rồi tới người kế tiếp. Buổi pháp đàm chấm dứt lúc 5 giờ thì khoảng 4 giờ 45 vị giáo thọ cho một bài pháp thoại ngắn để trả lời các câu hỏi dễ, còn những câu hỏi khó thì họ sẽ đem về trình lên Thầy để Thầy trả lời.

Sau này không có Thầy thì ban giáo thọ đề cử người để nói pháp thoại. Trước khi cho pháp thoại vị giáo thọ cũng phải căn cứ trên những câu hỏi tức những ưu tư của thiền sinh. Tuy mình đã có một dàn bài nhưng mình phải lồng vô bài pháp thoại câu trả lời cho những khó khăn của thiền sinh. Và cuối cùng mình có một buổi câu hỏi và trả lời. Có những câu hỏi mà thiền sinh không muốn chia sẻ ở giờ pháp đàm theo nhóm vì có khó khăn hay vì vấn đề quá cá nhân nên họ viết thư riêng bỏ vào chuông. Các thầy các sư cô lấy ra đưa cho người nói pháp thoại để vị đó trả lời những ưu tư của thiền sinh nhóm mình. Cảnh sát công an cũng có những sợ hãi của cảnh sát công an. Người Palestinian và người Do Thái cũng có những khổ đau của họ. Doanh nhân cũng có những khổ đau và khó khăn của doanh nhân.

Trong mùa An Cư

Ở Làng Mai mùa An Cư rất quan trọng. Thầy muốn giữ truyền thống như hồi Bụt còn tại thế, đi sát với cách Bụt dạy càng nhiều càng tốt. Hồi Bụt còn tại thế mặc dù vua quan ai cũng cần những buổi giảng để cúng dường và nghe thuyết pháp nhưng Bụt vẫn kêu các thầy các sư cô tới an cư trong một khu rừng. Bụt chọn mùa mưa để an cư tại vì mùa đó côn trùng bò ra đầy mà nếu có nhiều người đi thì sẽ giẫm chết côn trùng. Thành ra những mùa có nhiều côn trùng và mưa nhiều thì tăng đoàn ở lại một chỗ.

Bên mình cũng vậy, mình chọn tháng mùa đông lạnh không ai tới để an cư. Làng Mai ở Pháp tránh mùa hè tại vì mùa hè có khoá tu cho quần chúng và gia đình. Vì vậy khoá an cư 90 ngày cho người tu thì phải lựa mùa không có quần chúng tới. Ban đầu mình chọn ba tháng mùa đông từ tháng 11 tới tháng Giêng, nhưng khổ nỗi trong tháng 12 có lễ Giáng sinh và Tết Tây mà bên này là những nước có truyền thống Thiên Chúa giáo. Ngày Giáng sinh và Tết Tây là ngày quan trọng nên họ muốn tới tu tập. Vì vậy mình đổi lại thành An Cư xuất sĩ trong ba tháng mùa thu, có giới trường và không rời giới trường, không đi ra ngoài khi không có tăng sai. Thiền sinh mới tham dự khoá tu Mùa Hè xong trở về đi làm việc và mình có riêng được ba tháng an cư, nghỉ ngơi, đi bộ ngắm lá vàng, trồng rau lượm hạt dẻ, hái táo, lượm mận, làm mứt trong chánh niệm. Trong những tháng này Thầy chỉ dạy Kinh, Luật, Luận, giải quyết và dạy chúng những khó khăn nội bộ.

Qua mùa An Cư thì thiền sinh chuẩn bị tới để mừng Giáng sinh ở Làng Mai cho sự tu tập tâm linh được sâu sắc hơn. Đây cũng là văn hoá của các vị xuất sĩ gốc Thiên Chúa ở phương Tây. Mình cũng trang hoàng hang Chúa ra đời, có ba ngôi sao dẫn đường tới. Chúa chọn sinh ra trong một gia đình nghèo nhất, một gia đình tị nạn. Chúa Jésus cũng là một người tị nạn. Vua David đòi giết hết con nít sinh cuối năm tại vì ông được báo tin là sứ giả của Thượng Đế sẽ ra đời trong tháng này. Maria và Joself quyết định đi tị nạn vì sợ con bị giết. Cuối cùng Jésus được sinh ra trong một hang lừa. Văn nghệ mùa Giáng sinh thì các sư cô (Tây phương) đóng vai Mẹ Maria ôm một em bé trong hang lừa và trình bày rằng đó là một thông điệp của Thượng Đế cho biết còn rất nhiều những người tị nạn đang đau khổ. Trong hàng ngàn chú bé tị nạn mà các bạn cứu giúp biết đâu có một đấng cứu thế tương lai? Là một con chiên của Thượng Đế thì mình phải chăm sóc những người tị nạn tại vì mỗi người tị nạn có thể là một Ki Tô trong tương lai. Tết Tây mình đốt một đống lửa lớn, phát nguyện sang năm mới mình sẽ bỏ hết những tập khí cũ và làm những điều lành.

Nếu tổ chức những khoá tu đông người thì mình chọn những ngày hợp với văn hoá và sự kiện lịch sử. Ở Việt Nam thì có 30 tháng 4 hay ngày Quốc khánh 2 tháng 9. Trong dịp đó nhiều người được nghỉ năm, mười ngày nên mình chọn những ngày đó để tổ chức khoá tu cho người Việt. Ở Thái Lan mình chỉ giảng tiếng Thái trong những ngày lễ Thái. Người Việt Nam đi Thái rất gần không cần xin chiếu khán nên mình làm những khoá tu lớn chỉ nói toàn tiếng Việt ở Thái Lan, thường là vào tháng 6 và Tết Việt. Ở Việt Nam thì mình giúp một số chùa để làm khoá tu cho đồng bào.

Ngày trước trong suốt ba tháng An Cư thì Thầy giảng sâu về giáo lý cho các xuất sĩ. Cư sĩ cũng có thể tới an cư chung với xuất sĩ trong ba tháng. Đó là điểm đặc biệt của Làng Mai, rất tiến bộ và cởi mở.

Những khoá tu ở Làng Mai

Từ năm 1987 đã có anh Lê Văn Hoàng về tu tập. Anh là bác sĩ ở Cognac. Mỗi tuần anh về ba bốn ngày. Anh và chị Tịnh Thuỷ thương nhau nên Thầy cho làm đám cưới ở Làng. Sau này cả hai người cùng xuất gia và tu ở Làng luôn.

Hồi đó mình không có nhiều tiền nên hà tiện không dám mua máy video. Khi anh Hoàng về Làng thì anh có mang theo máy video, cái máy rất xưa. Anh quay những bài giảng của Thầy dưới các hệ Pal và NTSC, mình cũng thu thanh và cho vô cassette nhưng chất lượng không ổn định. Sau này mình đổi qua CD. Đến khi chúng xuất sĩ đông hơn và có nhiều người giỏi về kỹ thuật thì các băng giảng mới được chuyển qua CD và bây giờ thì dạng kỹ thuật số. Tuy nhiên mình đang tìm cách để khôi phục lại toàn bộ bài giảng của Thầy trước khi các băng giảng ngày xưa bị hư.

Mùa An Cư

Trong khoá tu Mùa Đông, Tu viện Làng Mai có giới trường, các vị xuất sĩ và cư sĩ dự An Cư không được đi khỏi Xóm Thượng, Xóm Hạ và Xóm Mới. Muốn đi ra Ste-Foy- La-Grande thì phải xin phép. Ngày quán niệm của xuất sĩ thì mình vô Sơn Cốc tức Phương Khê, nơi Thầy ở để tu tập.

Mỗi mùa đông thì Thầy giảng kinh. Năm đầu tiên Thầy giảng kinh Nam Truyền, cho mình đi qua từng kinh như Trường A Hàm, Trung A Hàm… Thầy ghi tóm lược từng kinh. Kinh nào quan trọng thì Thầy giảng dài ra. Ví dụ Thầy nói: “Kinh này là gốc của kinh A Di Đà. Đây là kinh Nam Truyền tức kinh đầu tiên Phật nói nhưng vì phương tiện quyền xảo nên người ta biến thành kinh A Di Đà. Kinh này thì sau biến thành kinh Hoa Nghiêm.” Hoa Nghiêm là tuệ giác rất cao của đạo Phật. Kinh Hoa Nghiêm không phải do Phật nói nhưng căn cứ trên những điểm dạy của Phật trong kinh Nam Tông. Các thầy Đại Thừa nghĩ rằng phải giảng như vậy mới đúng theo tinh thần phóng khoáng của Phật Thích Ca. Họ viết ra mà không dám nói thiệt, họ nói chắc Phật lên cung trời Đâu Suất để giảng cho mẹ là bà Maya. Có khi nói Phật đi xuống Long Cung để giảng cho vua Rồng. Thầy nói, bây giờ trong khảo cổ người ta biết những kinh đó không phải do Phật nói. Ngày xưa các thầy không dám nói thiệt là kinh Đại Thừa không phải do Phật nói tuy tư tưởng là của Phật. Các thầy đã cô đọng hoá giáo lý của Phật và viết lại rất hay như kinh Kim Cương hay kinh Hoa Nghiêm. Đó là viên ngọc quý của nhân loại do những thầy tiếp nối Phật rất thâm sâu viết lại. Hồi xưa các thầy không dám nói như vậy nhưng bây giờ thầy Nhất Hạnh thì dám nói thiệt. Ban đầu Phật dạy có Năm giới, rồi giới Tỳ kheo và Tỳ kheo ni. Hồi thời đó không có trò chơi điện tử… cho nên Phật không chế ra giới đó. Nhưng bây giờ để hộ trì thân và tâm của người tu thì Thầy viết ra thêm thôi. Thầy viết ra Mười bốn giới Tiếp Hiện cũng căn cứ trên giới Tỳ kheo và Tỳ kheo ni, giới Bồ tát và những phương pháp chánh niệm mà chư Tổ đã dạy. Thầy nói Thầy không có mặc cảm gì cả, con thua cha thì nhà không có phước. Thầy là con của Phật và chư vị Bồ tát thì Thầy phải làm thôi. Nếu nói Phật đi lên cung trời Đâu Suất giảng thì bây giờ không ai tin cho nên mình phải nói thiệt.

Trong ba tháng mùa đông thì Thầy chỉ giảng kinh thôi. Qua ba tháng mùa đông thì Thầy “đi vào đời”. Để khuyến khích những người trẻ ham đi tu thì Thầy dạy rất sâu vào Truyện Kiều. Người trẻ rất thích nên các thầy, các sư cô đánh máy ra các bài giảng thành cuốn sách Thả một bè lau. Thầy giảng hết những gì đi với thời sự “nhìn sâu, thấy kỹ, thương nhiều”. Thầy giảng rất sâu về cái hố ngăn cách giữa tuổi tác, vợ chồng vì những tri giác sai lầm. Những băng giảng của Thầy là vô giá mà mình chưa đánh máy hết. Chân Không tưởng tượng 100 năm sau khi Thầy tịch thì vẫn còn băng của Thầy để đánh máy ra, cô đọng lại và in thành sách rất hay.

Khoá tu Mùa Hè

Cách tu học ở Làng trong những năm đầu thì trong mùa hè, một ngày Thầy cho pháp thoại bằng tiếng Pháp, ngày thứ nhì Thầy nói tiếng Việt và ngày thứ ba thì Thầy nói tiếng Anh, ngày thứ tư Thầy nói tiếng Pháp. Nhưng số thiền sinh Pháp không tăng mà số thiền sinh nói và hiểu tiếng Anh tăng quá nhiều. Trong tuần có bảy ngày thì có một ngày làm biếng, hai ngày giảng bằng tiếng Anh, một ngày giảng tiếng Pháp, một ngày tham vấn tức câu hỏi và trả lời, một ngày thiền sinh cũ đi và một ngày thiền sinh mới tới.

Sau này Thầy nói để Thầy cho thêm Xóm Trung một buổi giảng bằng tiếng Việt, tại vì khi Thầy giảng tới đâu mà có những cặp mắt Việt Nam sáng lên hiểu và tâm đắc thì Thầy mới hứng khởi giảng tiếp. Còn ngồi giảng ở thiền đường lớn, nếu trước mặt Thầy chỉ toàn là người Tây phương thôi thì làm sao Thầy giảng tiếng Việt được. Nhìn Thầy giảng bằng tiếng Việt không được phải kêu mấy người Việt mặc áo dài đẹp lên ngồi phía trên thì cũng chỉ một hai hàng nên mình phải đưa tiếng Việt về Xóm Trung.

Đúng ra thiền thất là bảy ngày nhưng trừ hai ngày cuối tuần còn lại người ta chỉ cần bỏ ra năm ngày là đủ. Nếu bắt người ta bỏ nguyên một tuần thì chắc ít người tới tu học. Trong những năm bắt đầu đi giảng, từ năm 1981 tới năm 1987 thì những khoá tu kéo dài trong năm ngày.

Khoá tu chỉ một ngày

Tuy vậy, có những trung tâm phục Thầy quá mà không đủ điều kiện tổ chức dài ngày nên xin Thầy tổ chức khoá tu trong một ngày thôi. Trung tâm đầu tiên là Spirit Rock ở vùng Woodacre, miền Bắc Cali. Trung tâm này rất nổi tiếng vì rộng rãi và rất gần với thiên nhiên. Một bài đánh giá về mười trung tâm thực tập nổi tiếng nhất trên thế giới của đài CNN đã xếp hạng trung tâm này thứ nhất và Làng Mai thứ hai. Khi Thầy tới thì có 2.000 người ghi tên tham dự. Không có chỗ đi thiền hành nên phải chia làm ba nhóm đi thiền hành, Chân Không dẫn một nhóm, quý thầy dẫn một nhóm. Thầy dẫn một nhóm.

Đến giờ thuyết pháp cho 2.000 người, ngồi giảng trong một cái chòi, ở phía dưới người ta ngồi đầy cả ba bốn ngọn đồi và để loa cùng khắp.

Chân Không rất phục cách làm việc của người Tây phương. Thời khoá biểu bắt đầu ngồi thiền sáng sớm giữa đồi núi bao la từ 7:30 đến 8:30. Ghi tên đóng học phí từ 7:30 đến 9:00. Thầy đứng trên bục cao giảng cách đi thiền hành, xong chia làm ba nhóm thực tập đi thiền được hướng dẫn bởi Chân Không, thầy Pháp Ấn và Thầy.

10 giờ 30 sáng, Thầy giảng bài thuyết pháp quan trọng về chánh niệm, dạy sống không phí phạm 24 giờ tinh khôi, cách ăn cơm trưa trong chánh niệm. Tiếp theo Chân Không dạy thiền buông thư, người ta cũng ghi âm luôn thiền buông thư, rồi tới phần câu hỏi và trả lời. Tới 5 giờ chiều mình ngừng, người ta ra về lúc 5 giờ rưỡi thì đã có nguyên bộ băng thu từ sáng cho tới 5 giờ chiều. Chân Không rất phục kỹ thuật bên Hoa Kỳ.

Bên Làng thì Thầy nói mùa hè người ta mới rảnh, phần đông người Việt qua đây đi làm không đủ nuôi con, có thì giờ đâu mà bỏ đi chơi. Vì vậy Thầy đề nghị, mùa hè ở Âu Châu ai cũng đi nghỉ hè trong tháng 7, 8 nên Thầy dành bốn tuần từ giữa tháng 7 tới giữa tháng 8 cho khoá tu Mùa Hè.

Các khoá tu khác của Làng Mai

Sau này, ở mỗi xóm, ai đi tham dự khoá tu thì phải đóng tiền ăn, ở giống nhau. Những lúc Làng không có mở khoá tu chung thì thiền sinh tới tu tập ở xóm nào thì trả tiền cho xóm đó, ví dụ có 15 người tới tu ở Xóm Thượng thì tiền thuộc về Xóm Thượng. Vì vậy mỗi xóm tuỳ vào nhân lực và khả năng của mình mà tổ chức những khoá tu có tính cách chuyên đề riêng. Xóm Mới có Khoá tu nấu ăn trong chánh niệm. Xóm Thượng và Xóm Hạ hay có khoá tu Wake up (người trẻ tỉnh dậy đi), Phật tử hay không Phật tử cũng cần tỉnh dậy để che chở địa cầu. Trên Xóm Thượng thầy Pháp Lữ đề nghị mở Khoá tu sức khỏe. Thầy bắt nhịn đói rồi cho đi bộ từ Xóm Thượng xuống Xóm Hạ rồi từ Xóm Hạ tới Xóm Mới luôn, đi bộ 24 cây số rồi đi bộ trở về. Người ta nghe tới sức khỏe thì thích lắm, thầy không cần năn nỉ xóm nào nấu ăn giúp, chỉ cho họ ăn bánh mì nhẹ nhẹ rồi đi bộ. Vậy mà người ta ghi tên cũng đông.

Gần Xóm Thượng là Xóm Tây Hồ thì biến thành Happy Farm (Nông trại hạnh phúc) nên có Khoá tu trồng cây trong chánh niệm của Happy Farm.

Các khoá tu truyền thống của Làng là Khoá tu Mùa Hè (4 tuần) chủ yếu cho các gia đình cùng tu tập, Khoá tu Mùa Đông (3 tháng) cũng là khoá an cư kết đông đi sâu vào nội điển, khoá tu tháng 6 (3 tuần) mỗi hai năm có một lần. Khoá tu 3 tuần vào tháng 6 là khoá tu chuyên đề, khoá đầu tiên thành công nhất là Khoá tu doanh nhân. Sau này người Pháp tu tập ngày càng đông nên mình có thêm Khoá tu dành cho người nói tiếng Pháp Khoá tu cho người Ý để Thầy đỡ phải đi qua Ý dạy mà người Ý mướn xe buýt về tận Làng để tu học.

Ngay những ngày đầu tiên qua Mỹ mở khoá tu Thầy đã giảng cho những người bảo vệ môi trường (environmentalist) nổi tiếng thế giới và Khoá tu cho văn nghệ sĩ trong Ojai Foundation ở Cali. Đó là một trung tâm mà cô giám đốc Joan Halifax là nhà bảo vệ sinh môi hơi lập dị. Cô này có nhiều bạn thân giàu lắm như con gái ông Rockefeller nhưng cô cố ý xây những ngôi nhà ở rất đơn sơ và không có nhà vệ sinh, không có phòng tắm trong phòng ngủ như mọi nhà. Giữa khu đất rậm, cô cho làm một cái hố thật to, có cầu gỗ bắc ngang và đi vệ sinh trong những nhà gỗ đó như hồi xưa ở nhà quê. Muốn tắm thì có bảng vẽ mũi tên chỉ về phía góc rừng. Mình đi về phía đó thì nếu nghe tiếng nước xối là có người đang tắm. Mình phải hô to: “Có ai tắm phải không?” Nếu có thì họ nói “tôi đang tắm” và mình rẽ đi ngả khác. Có hôm đi nhẹ nhàng trong rừng mình thấy có một cô “tiên nữ” tắm không mặc quần áo! Trung tâm này bảo vệ sinh môi, rác hữu cơ từ thức ăn không hết, biến thành phân bón cây. Khoá tu có 37 người mà phần nhiều là con các ông lớn tỉ phú như là Rockefeller, con trai Tối cao Pháp viện Ấn Độ, con gái lớn nhà sản xuất Ketchup toàn cầu, nhiều văn nghệ sĩ con nhà trưởng giả cũng ưa ghi tên trong những khoá tu có đời sống đơn giản như vậy. Ojai Foundation Center nổi tiếng ecologist, naturalist số một ở trong những cảnh núi rừng rất lớn.

Trong Khoá tu văn nghệ sĩ đầu tiên, có một nghệ sĩ điêu khắc một bức tượng trên vách đá, những bức tranh thật lớn gần 1/3 của đồi núi. Thầy nói điều mà Đạo Bụt dấn thân áp dụng trong Khoá tu bảo vệ môi sinh là đem chánh niệm tức một trong tám con đường chân chánh (Bát chánh đạo) mà soi sáng cho sức khoẻ của trái đất giúp cho mình biết nên làm gì và không nên làm gì để bảo vệ Đất Mẹ. Từ những khoá tu đó mà ở Làng Mai mình bắt đầu có những khoá tu đặc biệt như khoá tu về cách trao truyền sự sống chánh niệm cho con cái. Từ đó phát sinh ra Khoá tu cho thiếu nhi, Khoá tu cho những người làm công tác xã hội, Khoá tu cho những nhà tâm lý trị liệu.

Rồi mình có khoá tu gọi là Helping Professionals dành cho những người làm việc ngày đêm như bác sĩ các ca đêm, y tá, giám đốc và nhân viên làm trong các trại tâm thần, các người tâm bệnh nặng. Nhiều lúc chán nản quá họ có thể tự tử hay nặng tay nặng lời với vợ, với chồng con hay với những người mà họ đang phục vụ. Và khoá tu cho doanh nhân cũng bắt đầu từ đó.

Khoá tu cho doanh nhân được tổ chức đầu tiên tại Làng Mai Xóm Mới bắt đầu là như thế này: Khi qua Thuỵ Sĩ thuyết pháp thì Thầy và tăng thân được ông Beat Curti mời về nghỉ tại nhà ông. Anh Thomas Luchtinger năn nỉ mình chịu khó ở nhà ông bà Curti để cho họ được học hỏi. Ông Curti bảo trợ một cuốn phim về Thiền sư Thích Nhất Hạnh mà Thomas quay trong chuyến đi Ấn Độ của Thầy một năm trước đó. Phim rất thành công và ông Curti cũng muốn tu tập. Ông làm chủ hàng trăm khách sạn. Nhà ông rất lớn có vườn rộng bên bờ hồ trong một thành phố nhỏ, trong vườn trồng cả trăm loại hoa rất đẹp, đắt và quý nhưng ông không biết hưởng. Thầy dạy ông đi thiền hành, dạy ông tập khám phá và tận hưởng cái đẹp của từng cánh hoa mong manh. Mình đâu cần nhiều tiền làm chi, chết cũng không đem gì theo hết?

Thầy nói, mình sẽ tổ chức khoá tu cho doanh nhân ở Làng Mai. Thầy nói: “Làng chúng tôi đơn sơ thanh bạch nhưng biết tu, biết nhìn và tận hưởng thì cũng đủ đẹp. Các phòng mới xây của Xóm Mới Lưng Đồi không bằng nhà người giúp việc của ông nhưng nếu 32 người bạn, nhân viên của ông sang tu học năm ngày cũng có hạnh phúc và có thể chuyển hoá cách nhìn cuộc đời. Nhưng mấy ông doanh nhân phải chịu khó về ở cực một chút nhé.” Một số lớn các doanh nhân nói rằng khoá tu đã giúp họ chuyển hoá đem lợi lạc cho gia đình họ và nhân viên họ suốt năm. Doanh nhân về tu học ở trong những phòng rất đơn giản. Thầy dạy trong năm ngày liên tiếp, được chép xuống và in thành sách The Art of Power.

Khoá tu về sinh môi ở Ojai Foundation quá nhỏ, mình có làm một khoá khác cho environmentalists ở một chỗ khác cho 600 sinh môi gia. Thầy cũng có khoá tu cho cô giáo thầy giáo hay khoá tu cho các tác viên xã hội được tổ chức ở những chỗ đàng hoàng hơn chứa được 500 tới 600 người.

Khoá tu các chính trị gia bắt đầu nhờ một ông dân biểu thượng viện đọc được quyển the Heart of Understanding (Thầy giảng về Tâm Kinh Bát Nhã). Cuốn sách này mỏng ông mới có thì giờ đọc, nhưng nghe ra sao sâu sắc quá. Sao mà sắc tức thị không rồi cuối cùng liên hệ cả cô gái bán hương vì nghèo đói lại liên hệ với anh, với tôi người giàu sang sạch sẽ… Những liên hệ tương tức, hợp lý…, ông thượng nghị sĩ đó đã đề nghị với nhóm Faiths and Politics nên mời ông thầy tu này giảng một buổi tại Library of Congress (Thư viện Quốc hội) vào năm 2003. Sáng kiến của Pritam, Smith Kennedy và Arnie Kotler là mời danh hài Gary Shandling, đại danh hài nổi tiếng Hoa Kỳ lên giới thiệu Thầy thì mới mong có Congressmen chịu đến nghe thầy giảng. Xứ này là xứ của Thượng Đế hay xứ của vô thần, e ông thầy tu Phật giáo không đủ hấp dẫn giới chính trị gia. Quả thật thế. Rất nhiều người không biết Thầy là ai nhưng họ rất “mê” đại danh hài Gary Shandling này nên tò mò tới nghe giảng. Và khi Gary nói: “Tôi gốc người Do Thái quý vị biết không, tôi xài tiền rất kỹ đó (ở dưới cười rần rần) nhưng với ông thầy tu Phật giáo này… tôi phải tự bỏ tiền ra mua vé máy bay, bay từ Cali qua Washington DC, làm… quảng cáo không công cho ổng?!” Cái mặt anh chàng này xem tếu tếu nên chỉ nói thế mà thiên hạ cũng ôm bụng cười. Anh tiếp: “Nếu không có những đề nghị tế nhị khéo léo của ông thầy tu này trong cuốn sách này, tôi đã mất những mối quan hệ quý giá vô cùng trong đời tôi, nhất là cô bạn gái yêu thương nhất của tôi.” Sau pháp thoại, ban tổ chức mời các dân biểu, thượng nghị sĩ, hạ nghị sĩ đều nên đến thử tu hai ngày thôi và khoá tu cũng được 22 dân biểu tham dự trọn ngày thứ bảy và cho đến trưa chủ nhật. Trưa chủ nhật thượng nghị sĩ Blair có đưa quý thầy, quý sư cô tháp tùng theo Thầy đi thăm toà Bạch Ốc và các phòng họp của Thượng và Hạ Viện.

Năm 2011, lại có một khoá tu thứ hai cho dân biểu cũng tại nhà nghỉ dưỡng gần Congress House. Lần này có thượng nghị sĩ Paul Leahy và đông đảo các thượng nghị sĩ, hạ nghị sĩ khác (xem Lá thư Làng Mai 2011/2012). Lần này nhiều thượng nghị sĩ tham dự hơn nên ngày 19/4 năm 2019 mới có 15 thượng nghị sĩ đi Việt Nam và xin đến chùa Từ Hiếu để đảnh lễ Thầy cho được. Họ rủ được vợ hay chồng đi theo chắc nhờ sau khoá tu năm nào họ có nhiều hạnh phúc với gia đình. Ông nào cũng ngồi sà xuống đất kế bên Thầy để báo cáo sự tu học của mình.

Đặc biệt nhất là Khoá tu cho thiếu nhi. Cho tới khi Thầy ra hải ngoại dạy Đạo Bụt dấn thân thì không có chương trình nào chăm sóc cho trẻ con. Khoá tu cho thiếu nhi được tổ chức lần đầu ở Santa Barbara Hoa Kỳ năm 1986, trong một tu viện Công giáo rất đẹp. Bố mẹ phải đi theo để ủng hộ con. Thầy dạy cho con nít tập nói “yes”, vì thường thì cha mẹ nói gì các cháu (Tây phương) cũng nói “no”. Bây giờ các cháu tập đi thiền hành và thực tập: hễ thở vào các cháu nói yes, thở ra cháu tập nói thank you. Nhìn vô cái gì mình cũng nói “yes”. Mình chưa nhìn sâu, chưa thấy rõ mà đã nói “no” (không) như vậy là ẩu và uổng lắm. Thầy dạy mình tập nói “yes” (dạ, vâng ạ) trước. Rồi mình thở, mình nhìn sâu rồi mình mới thấy rõ hơn các mặt tích cực của người đó, của sự việc đó. Nói “yes” chưa đủ, mình còn phải nói “thank you” nữa. Ví dụ sáng nay mẹ biểu ăn miếng bánh mì, thay vì nói “no” thì mình nói “yes” trước đi, rồi nhìn sâu một chút mình thấy được ăn bánh mì sướng lắm tại vì có nhiều đứa trẻ sáng nay đi học mà không có gì trong bụng hết. Mình có miếng bánh mì rất ngon nên mình nói “thank you”. Mình cám ơn mẹ cho miếng bánh phết kem nutella. Nutella đến từ chất cacao của các nước xa xôi mà trẻ em ở đó chưa chắc được ăn. Rồi trong kem Nutella phết bánh mì của mình có sữa con bò mẹ, có người vắt sữa ra gửi đến trộn với cacao béo thành chất nutella béo cho mình ăn sáng. Rồi nhìn sâu vào ánh mắt mẹ còn có nụ cười của mẹ nữa. Yêu biết bao nhiêu. Mình tận hưởng miếng bánh mì, thưởng thức được bánh mình, kem nutella có chất cacao và sữa bò và tình yêu của mẹ. Thầy dạy các cháu như vậy.

Nhưng ba thì bận quá, ngồi ăn ba hay quên nhìn mẹ và nhìn các con, ba cứ trả lời điện thoại miết. Mình vỗ nhẹ nhẹ vai ba, hỏi ba với một nụ cười thật vui: “Có ai ở trong này (là ở trong tâm ba) không?” Ba giật mình biết là ngồi kế bên con trai hay con gái mà tâm mình đi chơi ngoài công việc nên ba mỉm cười với mình: “Ba có mặt cho con đây, con hạnh phúc không? Ba không để tâm chạy theo công việc.” Ba hôn con thật chánh niệm, cám ơn con và mẹ đã chánh niệm thức tỉnh ba.

Thầy dạy con nít khi đi thiền hành nhớ nói: Yes, yes, thank you, thank you. Chân Không dạy thiền ăn, nhìn miếng bánh mì hay chén ngũ cốc mình nói “Hello cereals”, uống một ngụm sữa mình nói “Hello chào em sữa bò mẹ thơm ngon”, ăn một miếng cheese mình nói “Hello chào miếng cheese”, mình phải cám ơn tất cả, “hello cà rốt, hello khoai tây”. Vì bận chào các món ăn nên mình không nói chuyện.

Sau khi cùng ba mẹ ăn sáng xong mình thực tập làm thiền ôm, mình nhìn mẹ rất kỹ: “Mẹ ơi con biết mẹ có mặt đó cho con, con mừng lắm, con cám ơn mẹ.” Và mình ôm mẹ thật sâu.

Các cháu được dạy thực tập các câu thần chú, đọc với tất cả sự chú ý của mình thì mới có hiệu quả được.

Đây là câu thần chú thứ nhất, đem hết thân tâm có mặt cho người mình thương:

Mẹ ơi con có mặt cho mẹ nè.

Câu thần chú thứ hai, đem hết thân tâm nhận diện và cám ơn sự có mặt của người mình thương, nhận diện sự có mặt của mẹ trong cuộc đời mình, sự có mặt của cha trong đời mình:

Con biết ba còn đó, có mặt và thương lo cho con, con cảm ơn ba.

Trước khi đi học mình làm thiền ôm với mẹ, với ba. Khi ba đi làm việc về và mình đi học về mình nhìn ba cho kỹ: “Ông này là ba tui, ông bận rộn lắm nhưng giờ này đi học về có ba ở nhà sướng quá!” Hoặc ba đón mình ở trường, trước khi lên xe mình nhìn ba thật kỹ. Về nhà thì mình ôm mẹ, thở vào, “con có mẹ trong tay con”, thở ra “con hạnh phúc có mẹ để ôm”. Có cháu thực tập ôm ba mẹ lâu mà chẳng chịu buông ra. Khoá tu cho thiếu nhi rất đông và thành công vì các cháu thực tập giỏi lắm, giỏi hơn cả nhiều người lớn.

Mùa hè người ta tới Làng thường là vì con của mình, nghèo cách mấy họ cũng ráng tới. Không có tiền đóng tiền phòng thì họ đem theo lều, lựa chỗ không có đá cắm lều, ban ngày thì đi chơi ở ngoài, tối về ngủ. Ngủ trong rừng nghe chim hót buổi sáng thì vui hơn mà lại rẻ tại vì Làng không phải lo giường cho họ. Mỗi gia đình cắm lều chỉ đóng một tuần có 300€ mỗi người lớn. Trẻ em dưới sáu tuổi không phải đóng tiền. Chi phí cho điện, nước, ăn uống là 200€ còn 100€ là tiền chi phí để mình chăm sóc, trả tiền cơm cho mấy thầy mấy sư cô làm việc phụng sự không có lương.

Người ta cắm lều rất đông. Mình có chừng 200 giường trong nhà ở mỗi xóm, nhưng ngoài rừng thì có chỗ nhiều hơn. Làng cũng chịu khó mướn nhà khách (gites) cho thiền sinh ngủ. Ăn uống sinh hoạt thì mình lo hết. Mình mướn thêm nhà khách (gites) đúng tiêu chuẩn nhưng không nằm sát Làng nên phải lo xe đưa đón họ. Bây giờ những khoá tu gia đình lúc nào cũng đông tám chín trăm người. Năm 2018 Thầy nghỉ dạy rồi, mấy thầy mấy sư cô thay thế mà Làng cũng rất đông người đến tu học. Lúc Thầy còn khỏe mình mở cửa suốt bốn tuần lễ, mỗi tuần có 400-1000 người. Năm cuối cùng Thầy giảng trong tuần thứ tư có tới 1200 người. Nhưng khi Thầy ngưng dạy thì tuần thứ nhất đã có 1100 thiền sinh. Năm thứ ba sau khi Thầy đột quỵ thì tuần thứ nhất đã có 1300 người và tuần thứ tư có 1400-1500 người. Nhưng mình không có thêm nhà cửa, người ta cắm lều thôi, mình nấu ăn cho 1500 người cũng cực rồi. Nhà cửa ở Làng Mai thì còn lôi thôi, rất đơn sơ. Người Tây phương có tính sòng phẳng, tiền trao cháo múc, phí 300€ thì họ trả 300€ chứ không cúng dường như người Việt. Mấy chục năm rồi mình chưa có một cư xá nữ đàng hoàng cho mấy sư cô ở Xóm Mới và Xóm Hạ. Chỉ có xây được một cư xá nam cho mấy thầy mấy sư chú ở Xóm Thượng thôi.

Ở Hoa Kỳ, nhờ đại uý công an Chery Maples nên Thầy đã có khoá tu cho hơn 300 người cảnh sát quản giáo. Ngày đầu các anh cảnh sát phản ứng, họ nói: “Không có súng làm sao giữ an ninh cho được?” Thầy dạy, chính cái sợ khiến anh mất bình tĩnh. Cảnh giác thì cảnh giác nhưng mình không cần sợ hãi quýnh quýu lên. Mình phải theo dõi hơi thở để nắm vững tình hình trong tay, nhìn sâu và thấy rõ chuyện gì cần làm và không cần làm. Vấn đề là mình phải luyện hàng ngày, đừng để việc tới thì rối lên. Vậy mà cuối khoá tu cũng có vài chục người thọ năm giới.

Trong những khoá tu Palestinian – Do Thái, lúc đầu người Palestinian rất hận thù người Do Thái. Vừa vào khoá tu là mấy người Palestinians nói: “Đó đó, chắc chắn anh chàng này xin điện thoại để báo cáo cho tình báo đó. Con thấy nó vô văn phòng và xin điện thoại hoài hà.” Chân Không phải bắt đầu chia sẻ sự tu tập về tri giác sai lầm của mình. Chân Không kể hồi đó ở Việt Nam, lúc những người mang mặt nạ thảy lựu đạn giết mình, có hai bạn chết và 16 bạn bị thương. Mình làm đám ma và đọc diễn văn xin họ hiểu cho mục đích của mình chỉ là chống thất học, chống bệnh tật hiểm nghèo, thiếu vệ sinh để cho bệnh đừng lây lan truyền nhiễm, thiếu tổ chức. Mục đích của mình là để cho các gia đình nghèo đói bệnh tật hết bệnh, con cái của họ được đi học khá hơn. Lần thứ hai tám người bị bắt cóc thủ tiêu, rồi lần thứ ba năm người bị bắt và bị bắn nhưng nhờ một người sống sót báo cáo lại là trước khi giết họ có do dự, cảm thương và nói họ được lệnh phải làm như vậy. Chân Không nhớ lần đó đáng lý ra Chân Không cũng bị giết rồi. Nhìn bốn cái xác của các bạn bị ám sát nằm sóng soài bên bờ sông mà Chân Không muốn điên lên. Nhưng Chân Không tập thở và làm an cái tâm bức xúc, giận dữ, sợ hãi của mình, tập thở và nhìn sâu vào cái thấy sai lầm của những người giết mình và phát lòng thương. Rồi từ từ các bạn Palestininans mới chịu pháp đàm và nhìn kỹ người Do Thái. Khi một bà Do Thái thuật cái mặt con trai bà bị đập giập nát bằng đá của một nhóm Palestinians thì mọi người ai cũng quá xúc cảm. Chân Không thỉnh chuông cho mọi người thở và làm thiền hướng dẫn: “Tôi biết các em Palestinians đó tàn ác như vậy vì trong đầu các cậu ấy chỉ thấy chú bé Do Thái này là những người lia súng giết cha, giết chú, phá tan nhà cửa của các em… Do Thái cũng thế, thấy một thanh niên thơ ngây đáng con họ, họ cũng nghĩ đây là những chú lính Palestinians cầm súng bắn vào đầu con cái họ. Thấy ai họ cũng nghĩ là dân khủng bố.” Cuối cùng sau khi nghe nỗi khổ của nhau rồi họ mới chịu đưa tay ra cùng nắm tay đi thiền hành.

Mình cũng có Khoá tu cho thầy cô giáo. Làm gương đầu là thầy giáo Nguyễn Văn Kỷ Cương dạy toán ở Canada. Mỗi 15 phút thì thay vì thỉnh chuông cho mọi người thở như ở Làng Mai, anh Kỷ Cương đề nghị một cháu học sinh của lớp toán tình nguyện làm chuông bằng cách vỗ tay: Chách! Chách! Chách! Sau tiếng vỗ tay chánh niệm thì thầy ngưng dạy, trò cũng ngưng lắng nghe, dừng lại, theo dõi hơi thở, không suy nghĩ dù đó là bài toán thầy đang giảng. Nhờ dừng lại nhiều lần thầy Kỷ Cương thấy rõ khuyết điểm của mình là nói nhanh quá, không dừng lại để hỏi học trò có theo kịp không? Thế rồi khi thấy học sinh nào làm bài dốt quá, thay vì phê bình “trật lất, đồ ngốc” như thầy vẫn hay ghi lên tập các cháu thì bây giờ, sau khi đi tu học về, nhờ có thở dừng lại tự quán sát mình, giáo sư Kỷ Cương biên trên vở của bài làm: “Em không hiểu kịp bài, làm trật. Lỗi tại thầy, giảng chưa rõ.” Các lớp học nhờ mỗi 15 phút thầy trò dừng lại, quên bài giảng, thở ra thở vào, cho tâm bình an hơn, nên sau đó lắng nghe thầy giảng lại và hiểu sâu hơn. Các lớp của thầy Kỷ Cương tiến bộ vượt bực so với các lớp khác nên từ từ các lớp khác cũng bắt chước cách thực tập với tiếng vỗ tay của lớp thầy Kỷ Cương.

Có những thầy cô dự xong khoá tu cho thầy cô giáo thì đi về nhà thỉnh một cái chuông nhỏ, mặc dù dạy trường Công giáo cũng thỉnh thoảng thỉnh một tiếng chuông cho các em học sinh tập dừng lại thở: thở vào cho khỏe, thở ra cho nhẹ. Cứ 15, 20 phút thì thở như vậy. Lớp học hình như có tiến bộ hơn.

Các cô giáo thầy giáo biết dừng lại nhìn sâu hơn cách dạy của mình, có dịp nhìn học sinh rõ hơn. Có thể đó là dịp may cho các em nào gặp chuyện khó khăn trong gia đình thì thầy hay cô giáo có thể tìm cách giúp gián tiếp. Sau giờ học cô hay thầy có thể lắng nghe em và giúp đỡ bằng cách chỉ dạy cho em ấy hay đích thân thầy hay cô giáo tới nhà học sinh tặng “hoa” (tức là nói lời trân quý) với gia đình em: “Ông hay bà có con ngoan quá, thấy cháu giỏi thì tôi nghĩ chắc ông bà hay lắm…” Sau đó hai bên, thầy hay cô giáo và bố hay mẹ của em học sinh mới mở trái tim ra và tìm cách giúp cho em.

Khoá tu xuất sĩ bắt đầu từ năm 1980. Năm đó Thầy trở qua Hoa Kỳ vì thiền sư Roshi Baker mời Thầy đi diễu hành chống vũ khí nguyên tử mà Hoa Kỳ đang đầu tư rất nhiều, đoàn diễu hành gần 500 ngàn người. Lần đó Thầy đi Hoa kỳ tham dự cũng có mục đích để đi thăm gia đình bác An, anh ruột của Thầy, mới vượt biên qua và định cư ở tiểu bang New Jersey.

Nhân dịp đó Andrew Stuart thử mời Thầy đi dạy vài khoá tu cho người Mỹ và một khoá ở California. Khi bay từ New York City qua Cali, Thầy giảng ở Los Angeles một buổi cho người Việt tại chùa Việt Nam. Dịp này bác sĩ Nguyễn Văn Tiếng đi nghe về rồi trách vợ là Lê Kim Chi, đệ tử lâu năm của Thầy: “Em có thầy hay mà không giới thiệu cho anh và con.” Năm sau, khi Thầy sang Cali giảng trong khoá tu cho người Việt, bác sĩ Tiếng cùng gia đình và một nhân viên phòng mạch có tham dự khoá tu năm ngày với Thầy. Sau hai buổi giảng cho người Việt, Thượng toạ Tịnh Từ mời Thầy về Bắc Cali để gặp mặt những anh em tu sĩ do Thượng Toạ tụ họp. Lần đó có nhiều tôn đức xuất sĩ ở Hoa Kỳ tham dự lắm (như hoà thượng Thắng Hoan, Thượng toạ Minh Đức ở Stockton, Thượng toạ Thiện Trì ở Sacramento, Sư bà Đàm Lựu ở San Jose, Ni sư Diệu Từ ở Sacramento…) và Thầy căn dặn: “Mỗi năm xuất sĩ nên gặp nhau ít nhất là hai ngày cuối tuần chứ xứ lạ quê người chúng ta phải cùng họp mặt để bàn cách dạy dỗ con em ở hải ngoại cho có khế lý khế cơ, nếu không, chúng nó bỏ đạo của ông bà tổ tiên hết.” Thầy mới dạy tập dừng lại khi nghe tiếng chuông, theo dõi hơi thở. Thầy giảng về Kinh An Ban mà Đại Thừa ít chú trọng là kinh về 16 hơi thở. Nhân dịp này, Thầy dạy thiền ôm và nhiều bài thiền ca. Thiền ôm được sáng tác năm này vì Thầy ghé nhà anh Nguyễn Công Hoan, vợ anh kể là anh ấy đem bộ áo quần áo Blue Jeans mà thằng con trai mới dành dụm tiền đi làm công chạy bàn cho tiệm Mac Donald để đi chơi với bạn ra lấy dao bầm nhỏ và chửi: “Dân tộc mầy khổ đau, điêu đứng, bị đoạ đày, mầy ỷ đủ lớn, đi kiếm tiền mua áo đẹp đi chơi khuya…” Khi Thầy tới nhà thì cha con không nhìn nhau, Thầy mới sáng chế thiền ôm – đề nghị mỗi đứa tới ôm Thầy, rồi tới ôm bố, ôm mẹ. Họ không biết Thầy biết chuyện nên Thầy cứ dạy bố tập ôm từng đứa tức là ôm luôn chú con trai mà ông ấy vừa la xong. Thầy dạy ôm con trong chánh niệm (như ôm cả đất nước, cả dân tộc, như muốn nói cha xin lỗi, cha kỳ vọng nơi con) như muốn nói rằng mình thương cháu nhưng vụng về đã làm cháu khổ; Thầy hay nói “Nếu anh mất con trai thì kể như anh mất cả đất nước, cả dân tộc.” Hôm mới sang Canada Thầy cũng nghe chuyện con trai của một người Phật tử Việt Nam nhảy xuống sông tự tử, để lại thư: “Bố cứ so sánh con học không bằng con bác Hội đó. Con không thế nào làm được như con bác Hội, con xin chết thôi.” Thầy nói: “Xin quý vị nên nghe tôi, về nhà tối nay, có thể cháu đang đứng xoay mặt ra đêm đen, không mở cửa chào anh. Anh phải đến sau lưng và ôm cháu nhẹ nhàng thật thương, như nói: ‘Bố xin lỗi con!’ Rồi anh ôm con trai mình thật thương, thật sâu, như xin lỗi con. Anh mà đánh mất con trai kể như anh mất nước.” Bao nhiêu người Việt cám ơn nhờ có Thầy mà gia đình thương yêu nhau. Mấy hoà thượng học được hết những phép thực tập chánh niệm trong gia đình.

Sau đó Thượng toạ Tịnh Từ luôn luôn thỉnh Thầy mỗi lần đi Hoa Kỳ thì cho một khoá tu dành riêng cho xuất sĩ. Chính Thượng toạ có sáng kiến cho khoá tu xuất gia gieo duyên cho các người trẻ. Nhờ thế mới có thầy Pháp Đăng, sư cô Hương Nghiêm sau đó qua Làng Mai đi tu luôn… Nhưng khi có khá nhiều người xuất gia trẻ về làng tu học thì Thầy đề xuất Làng Mai mỗi năm đều có một khoá tu xuất sĩ trong An Cư kiết đông ở Làng, Thầy dạy rất sâu vào kinh điển. Thầy bắt đầu đưa mọi người đi qua hết các kinh Nam Tông. Có kinh Thầy tóm lược, có kinh Thầy diễn giải ra, rồi có kinh Thầy nhấn mạnh trong tương lai Đại Thừa triển khai kinh này thành kinh A Di Đà, kinh này triển khai thành kinh Hoa Nghiêm, kinh này sẽ là kinh Pháp Hoa để mình thấy tiến trình các kinh Nam Truyền được khai triển thành kinh Đại Thừa là để diễn giải sâu sắc những điều Bụt dạy chứ không phải là những sáng tác tưởng tượng. Cũng từ những khoá tu này mà chúng ta sẽ còn được hưởng dài dài những điều giáo dục sâu sắc của Thầy qua các khoá tu xuất sĩ mùa đông sẽ in ra thành sách. Thầy cũng giao cho một số quý thầy cô phụ làm giới bản tân tu với Thầy.

Đóng góp khi tham dự khoá tu

Trong những năm đầu mình để Phật tử tuỳ nghi đóng góp. Phật tử Việt Nam tới chùa thì đóng góp tuỳ khả năng. Người giàu thì về ở một tuần lễ và có thể cúng dường tới một ngàn đô la. Còn Phật tử nghèo về với tám, chín đứa con ở hai hay ba tuần thì đem theo một bao gạo 30kg. Vì vậy năm sau Chân Không đề nghị ghi thêm câu: “Đề nghị cúng dường.” Một cá nhân tới ở một tuần thì đề nghị cúng dường 500 francs, hai vợ chồng thì cúng dường 800 francs, nếu hai vợ chồng một đứa con ở chung một phòng thì bớt hơn. Khi mình đề nghị như vậy thì không ai than phiền gì, nhất là người Tây phương. Nếu không đề nghị cúng dường thì sẽ không ai đóng góp tuy họ không phải là nghèo. Họ nói: “Tôi ghét ba má tôi. Ông bà không cho tôi tới đạo Phật nên tôi không xin tiền ba má.” Mình nói:

“Nếu ra siêu thị mua bắp cải, su su mà nói với họ là tôi là nhà chùa nên xin cúng dường 30 bắp su lơ, 20 ký cà rốt, người ta đâu có chịu. Vậy ở đây chúng tôi cũng vậy, không có tiền của quý vị thì làm sao chúng tôi đi mua bắp cải, bông cải, su su, tàu hủ để ăn.”

Vì vậy nên người ta chịu đóng góp. Suốt mùa hè có tiền vô nên mình mới sắm thêm nệm, drap giường, mùng mền cho mọi người. Tiền vô từ các khoá tu, Chân Không giải thích:

“Quý vị đóng 600 francs một tuần thì 400 francs là tiền xe cộ đưa đón quý vị từ nhà ga, điện, nước, tiền ăn ba bữa một ngày… Còn 200 francs là để trả tiền ăn uống cho mấy cô, mấy chú làm việc cho quý vị. Thành ra xin quý vị hoan hỉ.”

Họ hiểu nên chấp nhận. Số tiền cứ tăng cho tới mười năm cuối thì không tăng nữa tại vì số người tới tu học ngày càng đông và tiền vô nhiều mặc dù mỗi người tới chỉ đem vô cho Làng 200 Francs. Mùa hè thì Làng mở cửa bốn tuần, mỗi tuần có 1000 người là mình khá rồi. Sau bốn tuần thì mình có tiền để sửa lại chỗ sinh hoạt cho sạch sẽ hơn, làm thiền đường đàng hoàng hơn cho đúng tiêu chuẩn công cộng mà nhà nước quy định để nhận khách.

Cách thức điều hành ở Làng Mai

Lúc đầu, khi nhóm của anh Thiều mới qua thì chưa ai có kinh nghiệm gì về tổ chức hay điều hành như một tập thể hết. Chân Không tìm chỗ học và chở con anh Thiều đi học. Chân Không dịch nguyên cuốn dạy lái xe từ tiếng Pháp ra tiếng Việt cho anh Thiều và chú Dũng. Chân Không làm việc rất vui và không khí rất hạnh phúc. Thầy viết một cuốn truyện ngắn có tựa là kể về đời sống gia đình anh Thiều ở Làng những năm đó. Là một nhà văn nên Thầy có cái nhìn rất thiền vị, rất văn chương, rất quê hương, rất là hay, đọc rất là cảm động! Mỗi lần viết được năm, bảy trang thì Tý về, mọi người quy tụ lại thì Thầy đọc cho nghe và ai cũng lên tinh thần.

Về mặt điều hành thì Thầy điều hành. Thầy ra lệnh hết, đập bỏ se chứa rượu này, xây hai dãy phòng cư xá Đồi Mận kia… Còn về mặt tiền bạc thì Chân Không ráng mà lo. Tiền người ta cúng dường, tiền đóng góp khoá tu Mùa Hè, tiền đi dạy bên Thuỵ Sĩ, dạy bên Đức, dạy ở Paris thì bỏ vô quỹ chung. Nhưng khi chúng xuất sĩ đông đảo, sắp đến khoá tu Mùa Hè, Xóm Thượng nói:

“Sư cô Chân Không, bắt đầu mùa hè mỗi tháng 30 ngày. Người ta ghi tên tuần đầu là 300 người, tuần thứ hai là 400 người, tuần thứ ba là 600 người, tuần thứ tư là 800 người. Sư cô đưa tiền cho thủ quỹ mua thêm chén đĩa, ly, nồi, chảo…”

Chân Không tổng cộng nhân chia rồi đưa cho quý thầy 3 hay 6 ngàn gì đó và đưa cho Xóm Hạ bao nhiêu tiền và Xóm Mới bao nhiêu tiền. Nhưng Chân Không chỉ xin thầy Pháp Huy ký tên đã nhận bao nhiêu để chuẩn bị xài cho Xóm Thượng, sư Cô Bảo Nghiêm nhận bao nhiêu xài cho Xóm Hạ, sư cô Hiếu Nghiêm nhận bao nhiêu cho Xóm Mới, chỉ có chữ ký tên các sư cô hay các thầy là đủ mà không cần biên nhận.

Chân Không chỉ lo tài chính lúc ban đầu. Sau này mỗi xóm có thủ quỹ lo tài chính riêng. Mỗi Xóm tự lo. Chỉ có khoá tu Mùa Hè là có đông người tới và tiền thu được từ khoá tu lớn mùa hè thì bỏ vào quỹ Trung ương. Trung ương sẽ chia cho mỗi Xóm bao nhiêu tuỳ theo những nhu yếu sửa chữa của Xóm đó. Nhưng từ từ mỗi Xóm đều có nhu yếu xây sửa riêng nên cần xài tiền riêng. Trong khi quỹ của Trung ương chỉ có tiền của khoá tu Mùa Hè mỗi năm nên không đủ để chi cho công việc sửa chữa riêng của từng Xóm. Nhưng trong tất cả những tháng khác ngoài khoá tu Mùa Hè thì mình cũng thực tập chánh niệm nên mình cứ cho thiền sinh tới. Gia đình nào không rảnh mùa hè thì thiền sinh có thể tới vào tháng nào cũng được. Trừ tiền thu được từ khoá tu lớn mùa hè thì thiền sinh ở Xóm nào thì Xóm đó giữ tiền rau đậu của thiền sinh ấy đóng góp. Lúc sau này các Xóm cũng tự tổ chức các khoá tu riêng ở Xóm mình.

Cho tới năm thứ chín, khi mình sắp xin vào CONGREGATION tức Giáo hội lớn. Phải có sự đồng ý của Hội đồng Bộ trưởng nước Pháp thì một hội nhỏ Eglise Bouddhique Unifiée theo luật 1901 của mình mới được vào Congregation. Vào được Congragation thì mình được miễn nhiều thứ thuế. Mình mướn cô thư ký kế toán mà cô cũng là giám đốc thuế vụ thì cô nói mình không làm như vậy được. Tiền xài dù ít dù nhiều cũng phải có biên nhận. Nhưng người ta đã xí xoá những năm cũ tại vì mình là một hội nhỏ. Do đó các xóm bắt đầu có ban kế toán riêng và Làng cũng bắt đầu có ban thủ quỹ trung ương để lo việc quản lý và khai thuế cho hợp lệ.

Khi các xóm bắt đầu lớn thì mỗi xóm cử một vị trụ trì. Vị trụ trì đầu tiên của Làng Mai là sư cô Chân Đức, được tấn phong trụ trì ở tu viện Thanh Sơn năm 1998. Cũng trong năm đó có các lễ tấn phong trụ trì ở Làng: thầy Nguyện Hải làm trụ trì Xóm Thượng, sư cô Trung Chính làm trụ trì Xóm Mới và sư cô Diệu Nghiêm (người Hoà Lan, thường được gọi là sư cô Gina) làm trụ trì Xóm Hạ. Hai năm sau đó sư cô Trung Chính được gởi qua Lộc Uyển để lo cho tu viện Lộc Uyển nên sư cô Định Nghiêm thay thế làm trụ trì Xóm Mới, sau đó đổi qua sư cô Linh Nghiêm (người Thái) và khi sư cô Linh Nghiêm về Thái Lan thì Xóm Mới không cử trụ trì nữa. Xóm Thượng thì đổi trụ trì qua thầy Pháp Đôn rồi qua thầy Pháp Hữu. Xóm Hạ thì đến năm 2013 sư cô Diệu Nghiêm nhất định không muốn làm trụ trì nữa nên Thầy kêu ba sư cô làm với nhau gồm có sư cô Hội Nghiêm làm trụ trì với sự giúp đỡ của hai sư cô Thanh Ý và Thuỷ Nghiêm. Tu viện Lộc Uyển thì Thầy bổ nhiệm thầy Giác Thanh và sư cô Trung Chính. Làng Mai Thái Lan thì Thầy bổ nhiệm thầy Pháp Anh. Thiền đường Hơi Thở Nhẹ thì thầy bổ nhiệm sư cô Giác Nghiêm. Các trung tâm khác thì có nơi có trụ trì, có nơi không có vì Hội đồng Tỳ kheo và Tỳ kheo ni quyết định việc bổ nhiệm người lo trách nhiệm này. Ngay từ lúc đầu Thầy đã muốn sự điều hành là do tăng thân. Vị trụ trì giữ trách nhiệm chăm sóc mọi người cho có hạnh phúc chứ không phải là vị lớn nhất. Như ở Xóm Mới, tuy sư cô Định Nghiêm làm trụ trì nhưng trên sư cô cũng có các sư chị là sư cô Đoan Nghiêm và Bảo Nghiêm. Ở Xóm Hạ thì có sư cô Hoa Nghiêm và các sư cô khác cùng làm việc chung với sư cô Gina. Ở Xóm Thượng thì thầy Nguyện Hải cũng có thầy Pháp Đăng và nhiều thầy khác cùng đồng ý chung. Vì vậy cho nên mọi việc luôn luôn là do tăng thân quyết định, ví dụ như tăng thân quyết định tổ chức khoá tu Mùa Hè năm nay vào ngày nào, nên đóng cửa ngày nào, nên tổ chức cùng tăng thân lên núi chơi ngày nào để nghỉ ngơi thư giãn sau khoá tu Mùa Hè. Chỉ khi nào có chuyện rất quan trọng, thấy tăng thân còn non quá thì Thầy mới góp ý vô. Ngay từ đầu Thầy đã tập cho quý thầy, quý sư cô tự điều hành lấy. Khi nào có tin bất thường, rất khó khăn thì sư cô Định Nghiêm, sư cô Diệu Nghiêm hoặc thầy Nguyện Hải đi xe lên gặp riêng Thầy. Sư cô Chân Không cũng không được vào. Vị trụ trì xóm nói rõ những chuyện khó khăn, có sư em nào đó làm sai mà sư cô trụ trì hay thầy trụ trì cũng không giải quyết được thì Thầy mới góp ý. Vì vậy trong tăng thân xuất sĩ có Hội đồng Tỳ kheo (hay Tỳ kheo ni) đóng vai trò quyết định mọi chuyện, Hội đồng Giáo thọ đóng vai trò giảng dạy và cố vấn. Ngoài ra Xóm nào cũng có một Ban Chăm sóc gọi là CTC (care taking council) gồm người đại diện cho Ban Giáo thọ, cho Ban Tỳ kheo, sa di, thức xoa, và có khi có cả cư sĩ thường trú để điều hành những sinh hoạt thường nhật theo quyết định đưa ra từ Hội đồng Tỳ kheo (hay Tỳ kheo ni).

Tăng đoàn Làng Mai bắt đầu thành lập

Trung tâm Làng Mai đầu tiên được thành lập ở Pháp vào năm 1982. Mỗi năm mình có khoá tu Mùa Hè và khoá tu Mùa Đông. Lúc này ở Làng chưa có người xuất gia, nên Chân Không thưa với Thầy:

“Bây giờ mình hết kêu gọi hoà bình rồi. Thầy cho con xin cạo đầu được không?”

Ngay từ khi qua Pháp thì Chân Không đã xin cạo đầu, nhưng Thầy nói:

“Con có để ý không? Nhà ông hàng xóm này có nhiều phụ nữ bị nhà nước cạo đầu tại vì lúc trước các cô chơi với binh sĩ Đức.”

Ở bên Pháp, những cô gái ăn sương chơi với lính Đức không bị bỏ tù nhưng dân làng bắt cạo đầu. Phụ nữ Pháp mặc đầm mà đầu cạo là vì bị phạt do đã từng ăn chơi với người Đức. Bên đàn ông thì có nhóm skinhead hung hăng, khó chịu. Thầy nói:

“Chính thầy, thầy cũng không dám cạo đầu.”

Thầy để tóc ngắn và mặc áo thầy tu Việt Nam. Mấy ông thầy tu Thiên Chúa giáo để tóc ngắn, mặc áo dòng Thiên chúa giáo (catholic priest) còn Thầy cũng để tóc ngắn, mặc áo dòng Phật giáo (buddhist monk). Thầy không cho Chân Không cạo đầu. Thầy nói:

“Con có thấy người ta có cảm tình với con khi thấy con mặc áo dài, tóc dài, nói được tiếng Pháp hay tiếng Anh với họ.”

Thầy biểu Chân Không ráng học tiếng Anh và chỉ cho cách học. Thầy lấy một bài báo bằng tiếng Anh và biểu Chân Không dịch ra tiếng Việt. Thầy nói:

“Con che bên tiếng Anh, nhìn bên tiếng Việt rồi nói ra tiếng Anh. Nếu nói không được thì coi trở lại.”

Chân Không tập như vậy được hai ba bài thì có thể đi thuyết pháp bằng tiếng Anh. Thầy thấy Chân Không mặc áo dài, đi tới đâu thì người ta rất thích nên không cho Chân Không cạo đầu. Nhưng hết chiến tranh rồi thì Chân Không xin Thầy.

“Bây giờ con xin Thầy cho con đi tu. Từ năm 19 tuổi ao ước thâm sâu nhất của con là làm ni cô rồi mà Thầy không cho. Bây giờ không còn lý do gì nữa nên con xin cạo đầu.”

Thầy nói:

“Như vậy là con đã làm sa di ni, sống đời xuất gia phụng sụ từ năm 21 tuổi cho tới bây giờ, nhất là từ khi con thọ giới Tiếp Hiện năm 1966. Thầy coi con như người tu lâu. Từ năm 1966 tới năm 1988 thầy thấy con đã là sa di ni rồi. Thọ giới tỳ kheo ni thì con phải có tam sư thất chứng, tức là có bảy thầy tỳ kheo làm chứng và ba vị thầy là Hoà thượng, thầy Yết ma a xà lê và thầy Giáo thọ thì con mới được thọ giới tỳ kheo ni. Vậy con chờ sang năm thầy tổ chức một chuyến đi Ấn Độ rồi con hãy cạo đầu.”

Tới năm 1988 Chân Không mới được đi Ấn Độ để xuất gia. Cùng đi trong đoàn có chị Annabel và chị Thanh Minh. Chị Annabel cũng đã từng lên tu ở núi Hy Mã Lạp Sơn nhiều năm trước khi đến Làng. Thầy nói:

“Lên đó Thầy đảnh lễ Đức Bổn Sư Thích Ca để cạo đầu cho con. Thầy chỉ thay mặt Đức Bổn Sư cạo đầu cho con thôi. Thất chứng thì có thầy Xá Lợi Phất, thầy Ưu Ba Ly và các vị đại đệ tử của Phật làm chứng cho con để con trở thành người con gái lớn giỏi của Phật.”

Vì vậy Chân Không và chị Annabel được thọ giới tỳ kheo ni trên núi Thứu. Chị Annabel có tên là Chân Đức và chị Thanh Minh là Chân Vị. Chân Vị được thọ giới sa di ni. Ngoài các sư cô và các thầy từ chùa khác tới Làng như các thầy Hương Huệ, Quảng Chơn, các sư cô Như Phước, Thanh Lương, Huệ Hảo…, ba chị em là những xuất sĩ đầu tiên được Thầy nhận làm thầy thế độ và truyền giới ở Làng Mai. Hồi còn ở Việt Nam thì Thầy có làm lễ thế độ cho sư chú Nhất Trí nhưng sau đó sư chú bị mất tích. Sau đó thầy thế độ cho sư cô Chân Tu rồi tới sư cô Chân Đoan Nghiêm. Từ đây về sau các sư cô đều có chữ cuối là Nghiêm như sư cô Chân Bảo Nghiêm, Chân Hoa Nghiêm… Phía bên nam thì có các sư chú Chân Nguyện Hải, Chân Vô Ngại, rồi tới Chân Pháp Đăng. Cũng từ sư chú Pháp Đăng trở đi mà các sư chú bắt đầu có chữ lót là Pháp như Chân Pháp Ấn, Chân Pháp Ứng…

Năm 2010, Thầy nói trong kinh Pháp Cú, phẩm Sa môn, Bụt có dạy là người xuất sĩ dù còn rất trẻ, nếu thực tập hết lòng thì giống như mặt trời hay mặt trăng rất sáng trên không trung, không bị mây che mờ; vì vậy Thầy bắt đầu đặt tên cho các sư con trẻ mới xuất gia là Trời cho bên nam và Trăng cho bên nữ. Kể từ đây tên con của Thầy gồm bốn chữ, bên nam bắt đầu bằng chữ Trời như Chân Trời Độ Lượng, Chân Trời Cao Rộng… và bên nữ bắt đầu bằng chữ Trăng như Chân Trăng Phương Nam, Chân Trăng Thanh Lương… Tới nay, mười năm sau, số lượng xuất sĩ mang tên Trời và Trăng đã lên tới trên 500 người. Từ đợt xuất gia thứ chín trở đi, mỗi đợt xuất gia có một tên và được gọi là “gia đình” như gia đình Con Cá, Con Chim, Cây Sồi, Cây Cam… Những người xuất gia trong một gia đình có thêm sự liên kết để nâng đỡ và yểm trợ nhau. Hiện nay đã có đến gần 80 gia đình xuất gia ở Làng Mai. Những vị không được Thầy thế độ nhưng y chỉ với Thầy thì được gọi là thuộc gia đình Cây Trà Thơm.

Những cơ sở Làng Mai ở ngoại ô Paris

Thiền đường Hơi Thở Nhẹ

Hồi mình mới về mua trung tâm Làng Mai ở miền Tây Nam Pháp xa như vậy thì có mấy Phật tử ở Paris nói: tại sao mình không mua đại một căn nhà ở Paris cũng không mắc gì cho lắm. Pháp môn Làng Mai bây giờ lan khắp nước Pháp và mấy ông trong chính quyền Pháp cũng thích đọc sách của Thầy. Thầy nghĩ Paris là kinh đô nên mình phải có trung tâm ở Paris. Năm 1984 mình tìm được khu nhà 3000 thước vuông rất sang gọi là Parc privé de Villeflix ở vùng ngoại ô Paris. Cái đẹp và lợi lạc của khu nhà này là rất gần bờ sông Marnes chảy quanh Paris nhưng khu đi ngang công viên Villeflix thì lại vắng vẻ như con sông Hương. Đi thiền hành bên bờ sông giống như đi chơi trên bờ sông Hương khiến thầy trò chấm điểm ưu cho ngôi nhà số 7 Allee dé BellesVues, 93160 Noisy Le Gand này. Ngôi nhà thì tồi lắm. Vách tường đã nứt vài chỗ. Mình mua lại một ngôi nhà cũ như vậy của một bà goá phụ giá rẻ. Lúc đầu mình đặt tên là Hoa Xương Rồng, tại vì lúc đó Chân Không còn trẻ, háo thắng, nghĩ mình tu qua chiến tranh Việt Nam khó khăn quá sức như tu cho cây xương rồng nở được hoa mới đúng, những con đường khó khăn nhất mà mình vượt qua được nên mình cũng giống như hoa xương rồng. Thầy cử thầy Giác Thanh lên làm trụ trì và đổi tên thành thiền đường Hoa Quỳnh vào năm 1985. Thầy Giác Thanh về ở cũng không xong vì xin sửa chữa lại mình cũng mướn kiến trúc sư đàng hoàng, mình vẽ bản đồ nộp đơn xin xây thiền đường thì người ta từ chối ngay, nói chỗ này không phải chỗ để đón người công cộng mà chỉ những người sống trưởng giả như người Paris mới được ở trong này. Chân Không đổi tên người xin là Cao Ngọc Phượng để xây một ngôi nhà to thì họ cũng bác đơn. Thời gian 1990 – 2000 nhà sắp sập nên không sinh hoạt được nữa, tăng thân cư sĩ phải về nhà chị Minh Tri sinh hoạt tạm gọi là Jardin de l’instant.

Thấy không xong mình định bán nhà này. Nhưng Thầy nói rủ anh Pritam xây nhà ở Paris, lâu lâu anh qua chơi, còn thời gian anh không ở đó thì để cho mình sử dụng. Anh đồng ý nhưng khi dẫn vợ qua coi thì bà vợ chê xa, chỗ gì xa quá bà đòi mua nhà ở đại lộ Rivoli thôi! Cuối cùng mình cũng giữ lại để làm trung tâm tu học vì Thầy tiếc khu đất gần bờ sông Marne yên tĩnh nên bán Phương Vân am lúc đó được giá khá cao để xây thiền đường.

Nhưng rút kinh nghiệm mấy lần trước, mình đã bị từ chối ba lần không được chính quyền cho phép xây thiền đường nên lần này Chân Không phải tránh mặt hoàn toàn, chỉ để cháu Bùi Thanh Phương hỏi thăm những công ty xây dựng các biệt thự sang trọng vùng này. Trong bảy mẫu nhà công ty đưa ra với bảy giá khác nhau, Sư cô dặn cháu Phương lựa ngôi nhà to nhất, rộng nhất có hai tầng và giao họ xin phép xây cất với hội đồng xây dựng toàn khu Công Viên Villeflix luôn. Cũng chính công ty này lo luôn việc xây ngôi nhà 12 mét bề ngang, 10 mét bề sâu với tầng trệt, tầng lầu một và tầng hầm (basement) sâu xuống đất một chút. Trong nhà cũng y như họ vẽ tượng trưng lúc ban đầu, có phòng khách, nhà bếp và nhiều phòng ngủ… Nhưng khi ký contract thì mình xin nhà thầu chỉ lo trước phần nóc, hai tầng cầu thang…

Mình thoái thác là xây bên trong chưa đủ tiền (và chưa đủ tiền thật nên Thầy cho bán Phương Vân am). Mình xây khá tốt nhưng không khai là xây thiền đường mà cũng không để tên cô Cao Ngọc Phượng. Căn nhà thật sang nhưng chỉ xây có cái vỏ thôi. Nếu là nhà tư nhân thì bên trong mình xây cất gì cũng cũng không bao giờ Ban An ninh Công cộng đến xem có xây cất đúng như bản vẽ bên trong hay không. Họ chỉ chú trọng bên ngoài y chang như những nhà giàu khác. Có nhà rồi Chân Không mướn một cháu khác con chị Bảy là Bùi Thanh Lâm chuyên môn xây bên trong các nhà nên cháu lo xây 14 nhà vệ sinh, 9 nhà tắm còn bên ngoài thì phải đúng theo tiêu chuẩn của nhà nước. Nhà mình cất lùi vào phía sau nên phía trước có một khoảnh vườn lớn. Quý sư cô, quý thầy trồng được nhiều bụi tre. Vườn thiền đường nhờ thế có vườn tre và dòng suối chảy ngang rất đẹp. Thay vì làm ba tầng thì mình làm một tầng trên và để một phòng rất to làm thiền đường. Mình xây một phòng nhỏ bên trái để Thầy ở phía trên và một phòng nhỏ khác bên phải để cho bốn, năm thầy ngủ chung. Tầng dưới mình cũng làm một phòng to để khi ở trên thiền đường chật quá thì mình xuống dưới biến phòng khách thành thiền đường thứ hai luôn để ngồi thiền. Rồi có một phòng nhỏ cho sư cô trụ trì ở, một phòng lớn kế bên cho bốn, năm sư cô ở. Đối diện với phòng sư cô trụ trì là nhà bếp. Mình biết một chỗ đông người thì cần nhiều nhà vệ sinh, nhà tắm nên mình làm năm nhà vệ sinh, bốn nhà tắm bên trên.

Năm 2008, sau khi xây lại mình để tên là thiền đường Hơi Thở Nhẹ (Maison de L’ inspir).

Lúc đầu Thầy cho một nhóm mấy thầy ở trên lầu, một nhóm mấy sư cô ở dưới. Nhưng ở gần như vậy rất ngột ngạt cho nên sau đó Thầy kéo mấy thầy về Xóm Thượng. Sư cô giỏi nhất trong mấy sư cô Tây phương là sư cô Giác Nghiêm được Thầy dạy làm trụ trì thiền đường Hơi Thở Nhẹ. Bên nam thì ban đầu mình tính để thầy Pháp Độ và thầy Pháp Liệu ở thiền đường Hơi Thở Nhẹ. Nhưng thầy Pháp Độ không vui lắm, cuối cùng thầy cũng không thích ở Hơi Thở Nhẹ nên về Làng luôn. Sau này thiền đường Hơi Thở Nhẹ chỉ có sư cô Giác Nghiêm và bảy, tám sư em trong đó có ba sư em làm việc sát cánh với sư cô Giác Nghiêm là các sư cô Tráng Nghiêm, Cảnh Nghiêm và Sáng Nghiêm.

Vừa dọn lên 7 Allee dé Belles Vues, 93160 Noisy le Grand là Sư cô Chân Không dặn sư cô Giác Nghiêm đi thăm ngay ông Maire, cảnh sát trưởng và các ông bà hàng xóm, tặng chả giò, giải thích mình là nữ tu sĩ Làng Mai, Dieulivol…, đây chỉ là chỗ nghỉ ngơi của các sư cô thôi. Ngày Noel ngày Tết Tây, Tết ta mình cũng tặng quà và giải thích tại sao đông như thế nhưng không làm phiền họ.

Mỗi ngày lễ lớn như Rằm tháng Tư, Tết Việt, Tết Tây mình làm chả giò đem tặng cho hàng xóm, cảnh sát, xã trưởng và giải thích, đây là tu viện của tám sư cô nên mỗi khi có ngày lễ thì dân chúng tới mừng lễ cũng như ngày lễ Giáng Sinh của họ và xin họ hoan hỷ cho. Vì vậy mỗi khi có khoá tu thì cả trăm thiền sinh tới cũng không sao. Ngày hội chợ Tết thì mình nói Tết Việt Nam nên mình làm bánh quê hương bán cho vui chứ không mua bán gì.

Khi có khoá tu mình cũng xin phép trước cả tháng nên dù đông người hàng xóm cũng cho qua. Nhưng mình không kéo dài chuyện nói tránh này nhiều lần được. Gần đây công viên Villeflix mới làm thêm một cổng rào khoá công viên lại, chỉ có người có nhà ở trong công viên mới có mật mã mở khoá. Mình không thể cho số mật mã cho tất cả mọi người tới Hơi Thở Nhẹ cho nên cuối cùng thì mình phải tìm chỗ mới.

Trung tâm Suối Trị Liệu

Hơi Thở Nhẹ nhỏ không chứa được quá trăm người, và mỗi khi các thầy lên hướng dẫn khoá tu thì không có chỗ ở. Vì vậy bây giờ các thầy mới thấy rất cần một trung tâm ở Paris. Năm 2018, thầy Pháp Liệu và mấy thầy khác tìm ra một miếng đất ở đông nam Paris, vùng Verdelot, cách Paris chừng 100 cây số và lập một trung tâm tên là Trung tâm Suối Trị Liệu. Mình mua nhà đó, nó có 2 mẫu đất. Đó là tu viện cũ của mấy bà sơ và mấy ông cha, mình đặt tên là Suối Trị Liệu tại vì nó có một dòng suối nhỏ chảy xung quanh. Tại sao là Trị Liệu?

Có một anh cư sĩ ly dị vợ và có một đứa con trai. Con trai anh lớn rồi và có cuộc đời riêng của nó. Anh làm công ty du lịch và kinh doanh rất giỏi, nhưng anh chạy trốn khổ đau của mình trong công việc cho tới một ngày tiền bạc thì nhiều nhưng anh muốn tự tử. Người ta khuyên anh nên tới ở một tuần với các thầy trên Xóm Thượng. Anh tới ở thấy hạnh phúc nên ở thêm hai tuần, rồi ba tuần, rồi anh ở luôn ba tháng mùa đông. Sau ba tháng mùa đông thì anh được trị liệu cho nên anh muốn xuất 1 triệu euro giúp xây Trung tâm Suối Trị Liệu để giúp cho người ta bớt khổ như anh. Nhưng khi đi vào thực tế thì không thể thực hành được tại vì anh có con trai lớn, anh không có quyền truất quyền thừa kế của con. Anh chỉ cho được khoảng 200,000€ và cho như là tiền anh xài cho cá nhân thôi. Mình xin một hồi rồi cũng đủ tiền mua Trung tâm Suối Trị Liệu và có 12 thầy lên ở.

Suối Trị Liệu gồm ba toà nhà hai tầng kết nối với nhau, tầng dưới là phòng ăn, phòng vệ sinh và một vài phòng ngủ. Tầng trên chỉ toàn là phòng ngủ như một nhà nghỉ. Vì lúc trước đây là nơi cư trú của người tu công giáo nên mỗi phòng ngủ cũng chỉ vừa cho hai đến ba người và rất đơn giản. Các thầy đã phải sửa sang rất nhiều vì nhà cũng quá cũ và bỏ hoang một thời gian lâu. Chủ trước, sau khi mua lại từ tu viện công giáo, chỉ có khả năng sửa một toà nhà để cho khách thuê mà thôi. Một phòng ăn rộng nằm riêng biệt ngoài khu vực ở được các thầy sửa chữa lại thành thiền đường để sinh hoạt.

Thiền đường Hơi Thở Nhẹ ở Villeneuve-sur-Bellot

Sau đó các sư cô ở Thiền đường Hơi Thở Nhẹ tìm ra một ngôi nhà nhỏ cách Suối Trị Liệu khoảng 2 km, rất thuận tiện cho những ngày quán niệm hai xóm. Khoảng cách giữa hai nơi tương tự như giữa Xóm Thượng và Xóm Hạ. Các sư cô có thể đi bộ ngang qua cánh đồng tới Trung tâm Suối Trị Liệu mất 35 phút. Ngôi nhà hai tầng xinh xắn, dễ thương dù đất không rộng. Tầng dưới gồm văn phòng, nhà bếp, phòng ăn, phòng trà và thiền đường (vốn là phòng khách thông qua phòng sinh hoạt gia đình). Tầng trên gồm bốn phòng ngủ, một phòng học và một phòng sinh hoạt lớn dùng để pháp đàm. Nhà để xe khá lớn, chứa được ba xe hơi thì đang được sửa chữa lại gồm có một phòng ngủ nhỏ, một phòng ngủ tập thể và phòng sinh hoạt chung. Hiện các sư cô đang sửa chữa lại hệ thống vệ sinh để phù hợp cho số lượng người sử dụng đông đảo vào ngày quán niệm và hệ thống sưởi cho ít tốn kém hơn.

Địa chỉ mới của Thiền đường Hơi Thở Nhẹ là Villeneuve- sur-Bellot (lieudit Montflageol).

Để có tiền mua nhà này, mình đã quyết định bán nhà Hơi Thở Nhẹ ở Noisy Le Grand cho hai anh chị trong tăng thân Quê Lụa để họ có chỗ nghỉ ngơi và sinh hoạt tăng thân mỗi khi qua Pháp.