(Phiên tả Pháp thoại ngày 01 tháng 02 năm 1998, tại xóm Thượng, Làng Mai, Pháp)
Kinh Phổ môn, trong sách Nhật tụng Thiền môn năm 2000 gọi là kinh Sức mạnh Quan Âm (Quan Âm lực kinh) thuộc phẩm 25 của kinh Pháp hoa, do thầy Cưu Ma La Thập dịch từ tiếng Phạn vào đầu thế kỷ thứ V.
Chữ Phổ có nghĩa là cùng khắp (universal), môn có nghĩa là cánh cửa. Chữ Phổ môn (普門), Samantamukha, The Universal Dharma Door. Mukha có nghĩa là cái miệng (khẩu), hay cũng có nghĩa là ouverture (một chỗ mở ra cho ta đi). Samantamukha là một lối ra có tính cách phổ biến, chúng ta thường dịch là The universal dharma door, tức là muốn đi tới đâu cũng có thể sử dụng cánh cửa này. Phổ môn là cánh cửa mở ra cho ta có thể đi tới nhiều nơi, đích nào cũng tới. Giống như khi ta lái xe đi vào một thành phố và muốn tìm đường ra, ta thường thấy một cái bảng có dòng chữ “toutes directions” (all directions), tức là muốn đi hướng nào chỉ cần đi theo phía bảng chỉ dẫn này thì có thể tới được. “Toutes directions” đó là phổ môn – cánh cửa mở ra cho chúng ta muốn đi về mọi hướng. Phổ môn có nghĩa như vậy, là cánh cửa mà qua đó ta có thể đi tới bất cứ một nơi nào.
Phổ môn là một phẩm trong kinh Pháp hoa. Trong Phẩm này, chúng ta được nghe về hạnh nguyện của một người, gọi là Quan Thế Âm (觀世音). Trong đạo Bụt Nam tông, chúng ta không nghe nói tới đức Quan Thế Âm vì đức Quan Thế Âm không phải là nhân vật lịch sử được ghi chép lại như một đệ tử của Bụt. Trong Đại thừa, ta thấy đức Quan Thế Âm hóa hiện làm đệ tử của Bụt, nhưng có khi ta cũng nghe nói đức Quan Thế Âm là Bụt từ lâu. Nếu nghiên cứu, chúng ta sẽ thấy dấu tích của đức Quan Thế Âm có trong kinh Vệ đà. Chữ Avalokiteśvara, phiên âm là Á Phược Lô Chỉ Đế Thập Phược La, ngày xưa thầy Cưu Ma La Thập dịch là Quan Thế Âm. Có lẽ ngày xưa viết là Avalokitaśvara nên mới dịch là Quan Thế Âm. Khoảng 1.000 năm trở lại đây thì người ta dịch là Quán Tự Tại. Quán có nghĩa là nhìn kỹ, quán sát, lắng nghe; thế là cuộc đời; âm là âm thanh, tiếng kêu thương. Quán Thế Âm là nhìn kỹ, quán sát, lắng nghe tiếng kêu thương của cuộc đời, đây là bản dịch cũ. Thỉnh thoảng có người dịch là Quang Thế Âm. Quang tức là ánh sáng và gọi tắt là Quang Âm. Trong kinh Pháp hoa thì Quan Thế Âm là nam, nhưng ở Trung Quốc và Việt Nam thì người ta thường nghĩ Quan Thế Âm là nữ. Tuy nhiên, điều này không phải là một chướng ngại, sự thật Quan Thế Âm có khi là nam hoặc nữ, có khi là người trẻ hoặc người già, có khi là người xuất gia hoặc người tại gia. Bởi vì tình thương được hóa hiện ra nhiều hình thức. Chỗ nào có sự hóa hiện của tình thương là chỗ đó có Quan Thế Âm. Vì vậy Quan Thế Âm không phải là đen hay trắng, không phải là Bắc hay Nam, cũng không phải là nam hay nữ. Quan Thế Âm là tình thương.
Nếu quý vị có dịp đi thăm động Ajanta ở Aurangabad tại Ấn Độ và đi vào động thứ bảy thì sẽ thấy một bức họa Bồ tát Quan Thế Âm ngồi nghiêng nghiêng, tay cầm một bông sen, rất đẹp. Đó là Bồ tát Liên Hoa Thủ, 莲花手 (Padmapāṇi), tên gọi khác của Bồ tát Quan Thế Âm. Bồ tát Padmapāṇi cũng được trình bày như một người nam. Ở Aurangabad, động Ajanta có khoảng hai mươi mấy động đá, mỗi động là một ngôi chùa đục trong đá. Khi đục đá, người ta phải dùng gương để chiếu ánh sáng mặt trời vào trong động. Trong động, tất cả mọi thứ đều bằng đá: bàn Bụt, cột nhà, liêu phòng của các thầy. Vào thế kỷ thứ II, có những tu viện được đục ra từ trong núi. Trong liêu của các thầy, có chỗ để bình bát, có chỗ để y, có giường nằm,… Tất cả đều bằng đá. Người ta chỉ đục núi để lấy đá ra chứ không đem vào một thứ gì cả, chỉ đem vào đó không gian mà thôi. Có một lần thầy đã đi vào trong động của thế kỷ thứ hai đó và nằm thực tập thiền buông thư trong phòng của một thầy, biết rằng vào thế kỷ thứ II đã có một thầy ngủ ở đó. Khi vào trong động thứ bảy, nhìn thấy chân dung của Bồ tát Padmapāṇi rất đẹp, thầy đã cảm hứng làm được bài thơ Padmapāṇi:
Mười bông hoa trên trời
Mười bông hoa dưới đất
Hoa nở trên mi Phật
Hoa nở trong tâm người
Bồ tát cầm đóa sen
Dáng nghiêng trời nghệ thuật
Trên cánh đồng sao mọc
Nụ cười trăng mới lên
Tàu lá dừa màu ngọc
Vắt ngang lưng trời khuya
Tâm đi trong tĩnh mặc
Bắt gặp chân như về.
Theo kinh Đại A Di Đà, đức Quan Thế Âm đứng bên tay trái của đức Phật A Di Đà, và đứng bên phải đức Phật là đức Bồ tát Đại Thế Chí. Di Đà, Quan Âm, Thế Chí là ba vị đang chờ những người tu Tịnh độ đi sang bên đó. Ba vị đó được gọi là Tây phương Tam thánh, tức là ba vị Thánh ở Tây phương. Do đó, người ta có thể nghĩ rằng đức Quan Thế Âm hiện giờ đang ở Tây phương cực lạc thế giới.
Tuy nhiên, kinh Hoa nghiêm và nhiều kinh khác thì cho rằng Quan Thế Âm là công dân của trái đất, hiện đang ở cõi Ta bà và chỗ ở hiện giờ của đức Quan Âm là núi Phổ Đà. Khi có người đặt câu hỏi: “Hiện giờ đức Quan Thế Âm đang cư trú tại đâu? Cõi Ta bà hay cõi Tịnh độ?”. Chúng ta có thể nói rằng: “Cả hai”. Tình thương có mặt ở đây và cũng có mặt ở bên kia. Tình thương có mặt khắp nơi.
Trong phẩm Phổ môn, chúng ta đọc được rằng nếu cần hóa hiện ra một người đàn ông để độ người thì đức Quan Âm hiện ra người đàn ông; nếu cần hóa hiện ra một người đàn bà để độ người thì đức Quan Âm hiện ra người đàn bà; nếu cần hóa hiện ra một nhà chính trị để độ người thì đức Quan Âm hóa hiện ra nhà chính trị; nếu cần hóa hiện ra một nhà thương mại để độ người thì đức Quan Âm hóa hiện ra nhà thương mại; nếu cần hóa hiện làm thiếu nhi để độ người thì đức Quan Âm hóa hiện ra một em bé trai hay một em bé gái, bởi vì một bé trai hay bé gái cũng có khả năng độ người. Vì vậy, đức Quan Âm có thể là một doanh nhân (businessman), có thể là một nhà chính trị (politician), một người nam hay người nữ, một bé trai hay bé gái... Tóm lại, khi nào có tình thương và tình thương có thể làm vơi bớt nỗi khổ của con người thì khi đó có sự có mặt của Bồ tát Quan Thế Âm. Cần phải có một cặp mắt tinh vi mới có thể nhận diện được sự có mặt của Bồ tát Quan Thế Âm. Chúng ta cũng biết rằng đức Quan Âm có mặt trong mỗi chúng ta, đó là những lúc chúng ta có khả năng thương, có khả năng hiểu. Những lúc ta thiếu đi khả năng hiểu và thương thì những lúc đó đức Quan Âm lãng đãng như gần như xa, có mặt mà như không có mặt. Do vậy, sự thực tập của chúng ta là làm thế nào để đức Quan Âm có mặt một cách rõ rệt trong mỗi giây phút của đời sống hằng ngày dưới năng lượng của bi và của từ.
Chúng ta có một bản dịch kinh từ chữ Hán và một bản dịch từ tiếng Phạn. Kinh có hai hình thức: một là trường hàng (prose), tức là văn xuôi, và thứ hai là trùng tụng (verse), tức là kệ. Thường sau phần trường hàng thì có phần trùng tụng để lặp lại những ý chính trong phần trường hàng. Trong kinh Sức mạnh Quan Âm này chúng ta chỉ học phần trùng tụng.
Trong kinh Sức mạnh Quan Âm có một vị Bồ tát tên là Vô Tận Ý. Vô Tận Ý hỏi đức Thế Tôn: “Người kia – vị Phật tử kia, tại sao lại có tên là Quan Thế Âm?”
Thế Tôn muôn vẻ đẹp
Con xin hỏi lại Người
Bồ tát kia vì sao
Tên là Quan Thế Âm?
Thế Tôn muôn vẻ đẹp, tức là lời của Bồ tát Vô Tận Ý sử dụng để ca tụng Bụt.
Trong bản chữ Hán:
Thế Tôn diệu tướng cụ 世尊妙相具
Ngã kim trùng vấn bỉ 我今重問彼
Phật tử hà nhân duyên 佛子何因緣
Danh vi Quan Thế Âm? 名為觀世音?
Diệu tướng, tức là những tướng mầu nhiệm; cụ là đầy đủ. Thế Tôn diệu tướng cụ, tức là Thế Tôn có đầy đủ các tướng mầu nhiệm.
Trùng vấn là hỏi lại một lần nữa. Ngã kim trùng vấn bỉ: tức là bây giờ con xin hỏi lại đức Thế Tôn.
Hà nhân duyên là nhân duyên nào. Danh vi là gọi là. Phật tử hà nhân duyên, danh vi Quan Thế Âm?: Người con của Bụt đó, vì nhân duyên nào mà được gọi là Quan Thế Âm?
Bậc diệu tướng từ tôn
Trả lời Vô Tận Ý:
“Vì hạnh nguyện Quan Âm
Đáp ứng được muôn nơi.
Bậc diệu tướng từ tôn, tức là đức Thế Tôn.
Cụ túc diệu tướng tôn 具足妙相尊
Kệ đáp Vô Tận Ý 偈答無盡意
Nhữ thính Quan Âm hạnh 汝聽觀音行
Thiện ứng chư phương sở. 善應諸方所.
Cụ túc là đầy đủ; diệu tướng tức là những hình tướng mầu nhiệm; tôn là đức tôn kính. Cụ túc diệu tướng tôn: nghĩa là đức tôn kính có đầy đủ những tướng tốt mầu nhiệm.
Kệ đáp Vô Tận Ý, tức là dùng những câu kệ để đáp lại câu hỏi của Bồ tát Vô Tận Ý.
Nhữ tức là ông, là con; thính là nghe; Quan Âm hạnh tức là hành động của đức Quan Thế Âm. Nhữ thính Quán Âm hạnh có nghĩa là nếu quý vị được nghe về hạnh nguyện của đức Quan Thế Âm.
Ứng là đáp ứng, giống như pháp tự của sư anh Pháp Ứng. Pháp Ứng có nghĩa là đáp ứng lại chánh pháp. Chư phương sở là nhiều nơi chốn. Thiện ứng chư phương sở, tức là khéo léo đáp ứng được mọi địa phương. Nơi này người ta cần cái này, nơi kia thì cần cái kia. Hành động của đức Quan Thế Âm có thể thỏa mãn, đáp ứng được nhu yếu của tất cả các nơi.
Lời thề rộng như biển
Vô lượng kiếp qua rồi
Đã theo ngàn muôn Bụt
Phát nguyện lớn thanh tịnh.
Hoằng thệ thâm như hải 弘誓深如海
Lịch kiếp bất tư nghị 歷劫不思議
Thị đa thiên ức Phật 侍多千億佛
Phát đại thanh tịnh nguyện. 發大清淨願.
Lời thề của đức Quan Thế Âm là một lời thề rộng như biển. Trải qua vô lượng kiếp, đức Quan Thế Âm đã từng đi theo ngàn muôn đức Bụt và đã phát lời nguyện thanh tịnh.
Hoằng thệ thâm như hải. Lịch kiếp bất tư nghị. Hoằng thệ là lời nguyện lớn; thâm như hải là sâu như biển; lịch kiếp là trải qua nhiều kiếp; tư là suy nghĩ, nghị là đàm luận, nói ra bằng lời; bất tư nghị là không thể suy nghĩ, không thể bàn luận được. Hai câu này có nghĩa là: Lời thề lớn của đức Quan Thế Âm thì sâu như biển cả, trải qua muôn vạn kiếp không thể suy nghĩ và bàn luận được.
Thị đa thiên ức Phật. Phát đại thanh tịnh nguyện. Thị là đi theo để làm phụ tá, thị giả; đa là nhiều; thiên ức là rất nhiều, ngàn muôn. Hai câu này có nghĩa là: Quan Thế Âm đã đi theo làm thị giả, phụ tá cho rất nhiều ngàn muôn vị Bụt và đã phát lên lời nguyện lớn thanh tịnh.
Ai nghe danh, thấy hình
Mà tâm sanh chánh niệm
Thì thoát khổ mọi cõi
Đây nói sơ lược thôi.
Ngã vị nhữ lược thuyết 我為汝略說
Văn danh cập kiến thân 聞名及見身
Tâm niệm bất không quá 心念不空過
Năng diệt chư hữu khổ. 能滅諸有苦.
Vị nhữ là vì quý vị, lược thuyết là nói sơ lược. Ngã vị nhữ lược thuyết: Đây nói sơ lược thôi – tôi vì quý vị mà nói sơ lược. Bất cứ người nào nghe được danh hiệu Avalokiteśvara, thấy được hình dáng Avalokiteśvara mà tâm có chánh niệm, có để ý, nhận diện được, an trú được trong hiện tại và tiếp nhận được hình ảnh, âm thanh đó thì những người ấy có thể vượt thoát tất cả những khổ đau trong ba cõi.
Văn danh cập kiến thân. Văn danh là nghe tên, cập là và, kiến thân là thấy hình.
Không quá là không nắm được. Tâm niệm bất không quá, tức là tâm niệm của mình không đi qua một cách luống uổng. Bởi vì có khi chúng ta nghe được một cái tên, thấy được một cái hình mà tâm ta dửng dưng, không để ý tới. Đó gọi là không quá, tức là đi qua một cách vô tình, vô tâm, không để ý, tức là không có chánh niệm. Bất không quá là không đi qua một cách dửng dưng. Nghe tên đó, thấy hình bóng đó thì liền khởi tâm chánh niệm. Sống chánh niệm trong từng phút giây, biết những gì đang xảy ra, nhận diện được mọi hình ảnh, mọi âm thanh, không để chúng đi qua tuốt luốt, gọi là bất không quá. Ví dụ khi giẫm lên chiếc lá khô mà có chánh niệm, tự nhiên quý vị sẽ thấy chiếc lá khô đó thị hiện có sinh có tử nhưng kỳ thực nó không sinh không tử. Đó chính là tâm niệm bất không quá, nghĩa là khi giẫm lên chiếc lá khô trong chánh niệm thì quý vị có tuệ giác. Nhưng có khi chúng ta giẫm lên lá khô cũng chỉ là giẫm lên lá khô mà thôi chứ tâm niệm của chúng ta thì dửng dưng, tức là ta giẫm lên lá khô mà không biết là đang giẫm lên lá khô. Lá khô thì kệ nó, ta đang có những sầu đau và ta đang ôm những sầu đau đó, thành ra ta không để ý đến cái gì nữa hết. Đó gọi là không quá. Trong đời sống hằng ngày, ta vẫn thường để cho tâm “không quá” – những gì xảy ra trong giây phút hiện tại ta không nhận diện được, không tiếp xúc được một cách sâu sắc.
Trong bản dịch tiếng Việt: Ai nghe danh thấy hình, mà tâm sanh chánh niệm, chúng ta không dùng chữ trong kinh nhưng nói đúng được ý kinh, trái lại nếu dùng chữ trong kinh có thể lại không nói được đúng ý kinh. Dịch kinh là phải như vậy, phải nắm được ý kinh và phải dùng những chữ nào có thể nói ra được ý đó chứ không hẳn là dùng những chữ đã có sẵn trong kinh.
Năng diệt chư hữu khổ: Năng là có khả năng, diệt là chấm dứt, chư hữu tức là các cõi. Chữ hữu (有) ở đây là một danh từ chuyên môn. Trong chữ Hán, chữ hữu chỉ có nghĩa là có (bhava), nhưng trong văn mạch Phật giáo, chữ hữu này có nghĩa là cõi nước. Chữ hữu đi trong danh từ tam hữu (三有), tức là ba cõi: cõi dục, cõi sắc và cõi vô sắc. Năng diệt chư hữu khổ tức là có khả năng chấm dứt được tất cả những khổ đau trong ba cõi. Nếu không hiểu chữ hữu như vậy thì không hiểu được ý kinh. Khi chúng ta nghe được tên, nhận diện được hình thái của Avalokiteśvara và có chánh niệm thì chúng ta có khả năng vượt thoát được những khổ đau trong mọi cõi, vì có tình thương, tiếp xúc được với tình thương thì tự nhiên mọi đau khổ sẽ tan biến. Người ta chỉ khổ đau khi không tiếp xúc được với tình thương. Khi tiếp xúc được với tình thương thì khổ đau sẽ từ từ tan rã.
Tình thương đó, ta có thể tiếp xúc được bằng âm thanh hoặc bằng hình ảnh. Âm thanh đó là tên Avalokiteśvara, hình ảnh đó là những hóa hiện của Avalokiteśvara dưới mọi hình thức. Nếu nhìn xung quanh, chúng ta cũng có thể thấy được một vài hình ảnh. Nếu lắng nghe, chúng ta cũng nghe được một vài âm thanh. Những hình ảnh, âm thanh đó cũng là Avalokiteśvara. Có những người mà khi nghĩ tới, ta tiếp xúc được với tình thương, vì những người đó có tình thương thật: Họ có sự kiên nhẫn, bao dung. Tuy họ không có hào quang như ta tưởng tượng, nhưng kỳ thực trong họ có năng lượng của tình thương, tiếp xúc với họ là tiếp xúc với tình thương, nghe tên họ tức là nghe tên của tình thương. Khi ta tiếp xúc với những hình ảnh, âm thanh của tình thương thì trong lòng ta dịu xuống, có chất liệu của từ bi nên ta từ từ bớt khổ. Còn những người nào không có khả năng tiếp xúc được với những hình ảnh, âm thanh biểu trưng cho tình thương thì không thể nào làm cho tình thương trong họ biểu hiện được. Những người đó là những người khổ đau nhất trên đời.
Vì vậy niệm đức Quan Thế Âm là để hình dung về tình thương, để nghe tiếng gọi của tình thương. Mà khi hình dung được tình thương và nghe được tiếng gọi của tình thương rồi thì tự nhiên cam lộ của từ bi ứa ra trong trái tim và người đó bắt đầu bớt khổ. Namo Avalokiteśvaraya.
Nếu có ai ác ý
Xô vào hầm lửa lớn
Niệm sức mạnh Quan Âm
Hầm lửa biến hồ sen.
Giả sử hưng hại ý 假使興害意
Thôi lạc đại hỏa khanh 推落大火坑
Niệm bỉ Quan Âm lực 念彼觀音力
Hỏa khanh biến thành trì. 火坑變成池.
Hầm lửa đây là hầm lửa của khổ đau. Đó là địa ngục của sự thèm khát, thù hận, nghi kỵ. Chúng ta ai cũng đã từng rơi xuống hầm lửa lớn đó. Có thể mỗi ngày chúng ta còn bị xô xuống hầm lửa nhiều lần. Chúng ta biết dưới hầm lửa đó nóng như thế nào. Và bây giờ thì chúng ta đã biết cách: Mỗi khi bị người ta xô xuống hầm lửa hay tự mình nhảy xuống hầm lửa (phần lớn là ta tự nhảy xuống nhiều hơn), nếu ta niệm Namo Avalokiteśvaraya thì tự nhiên hầm lửa đó sẽ biến thành hồ sen. Thầy nhớ ngày xưa thầy có ra bài tập cho các sư cô, sư chú là mỗi người viết cho thầy một bài hát với đề tài hầm lửa biến thành hồ sen. Trong khi các sư cô, sư chú làm bài thì sư cô Chân Đức và sư cô Chân Không cũng làm bài có hình ảnh hầm lửa và hồ sen. Trong đó có câu: Mỗi khi tôi giận cái mặt tôi buồn xo… Hầm lửa ở trong tâm ta và hồ sen cũng ở trong tâm ta, vậy thì khi nào sắp bị xô xuống hầm lửa ta hãy niệm đức Quan Thế Âm, tự nhiên sẽ có một hồ sen nâng đỡ ta. Có gì đâu!
Giả sử là ví dụ như, hưng là làm cho dấy lên, hưng hại ý là nổi lên một ý tưởng muốn làm hại ta.
Lạc là rớt xuống, thôi là đứng sau lưng đẩy tới, đại hỏa khanh là hầm lửa lớn. Thôi lạc đại hỏa khanh là xô ta rớt xuống hầm lửa lớn.
Niệm bỉ Quan Âm lực là niệm sức mạnh Quan Âm, tức là sức mạnh của tình thương.
Hỏa khanh biến thành trì là hầm lửa biến thành một cái hồ. Ở đây không nói là hồ sen, bản dịch của chúng ta nói rõ là hồ sen. Hồ thì mát nhưng hồ sen thì vừa mát, vừa thơm, lại vừa tinh khiết.
Đang trôi dạt đại dương
Gặp nạn rồng, quỷ, cá
Niệm sức mạnh Quan Âm
Sóng gió không nhận chìm.
Hoặc phiêu lưu cự hải 或漂流巨海
Long ngư chư quỷ nạn 龍魚諸鬼難
Niệm bỉ Quan Âm lực 念彼觀音力
Ba lãng bất năng một. 波浪不能沒.
Chúng ta đang trôi dạt trong đại dương và gặp phải những tai nạn như là gặp loài rồng, loài quỷ, loài cá (cá mập, quỷ dạ xoa, thủy quái,…). Chúng ta đừng tưởng rằng phải ra ngoài biển mới gặp rồng, quỷ, cá; ở trên cạn chúng ta cũng gặp rồng, quỷ, cá. Đức Thế Tôn đã nói rằng, đôi khi đi trên đất liền nhưng ta có cảm tưởng như đang bơi lội trong một đại dương rất nguy hiểm: mắt là đại dương sâu, mũi là đại dương sâu, tai là đại dương sâu, lưỡi là đại dương sâu, thân là đại dương sâu, ý là đại dương sâu. Chúng ta ngụp lặn, chết chìm giữa những đại dương trong con người chúng ta. Chính thân thể chúng ta là một đại dương sâu thẳm, có nhiều đợt sóng ngầm, có những loài thủy quái, có những trận cuồng phong, và nếu ta không có chánh niệm thì ta bị nhận chìm trong lòng đại dương sâu thẳm đó. Con mắt ta cũng vậy, cũng là một đại dương sâu thẳm và trong đó có thủy quái, có rồng, có quỷ, có cá. Nếu ta không có chánh niệm thì những hình ảnh trong đại dương mắt đó sẽ kéo ta xuống, nhận chìm ta. Vì vậy sáu căn là đại dương lớn và sáu trần có thể là những rồng, những quỷ, những cá. Tất cả chúng ta, người nào cũng đã từng bị rồng, quỷ, cá nhận chìm trong quá khứ. Đại dương này nằm ngay trong sáu căn và sáu trần của chúng ta. Chúng ta không có an ninh. Vì vậy, chúng ta phải có một chiếc thuyền chánh niệm, và ngồi trên chiếc thuyền chánh niệm đó, giữ vững tay chèo thì chúng ta mới không bị chìm trong khổ đau của biển âm thanh, biển hương, biển vị, biển xúc.
Ví dụ, nói về chuyện ăn, dù biết cơ thể ta không chịu được khi ăn món đó, ấy vậy mà khi đứng trước bàn ăn, ta thấy món ăn đó quá hấp dẫn và rất muốn nếm thử nó. Ta như đứng trong đại dương của lưỡi, còn món ăn trên bàn đó chính là con rồng, là con cá mập, là con quỷ, nếu chánh niệm không vững thì con rồng, con cá, con quỷ đó sẽ cuốn ta đi. Cho nên, đại dương không ở đâu xa, đại dương nằm ngay trên bàn ăn của ta, và những hương vị món ăn cũng như những con rồng, con quỷ, con cá. Ở chợ, người ta bán những loại nước hoa gọi là Scorpion, Poison, Samsara,… Đó là họ gọi tên đích thực của những con quỷ. Họ không che giấu. Những con quỷ này không sợ, nó nói: “Tôi là quỷ đây, anh sẽ bị tôi bắt, anh sẽ chết vì tay tôi.” Nó không cần nói tôi là tiên, là thánh, mà nói luôn là bò cạp, chất độc,… Vậy mà, thiên hạ có bao nhiêu tiền là bỏ ra mua những thứ đó. Đó là đại dương mũi. Còn đại dương mắt nữa. Mỗi khi lái xe vào thành phố là chúng ta đi qua một đại dương mắt, có biết bao nhiêu là con quỷ, con rồng, con cá mập sẵn sàng lao vào để rỉa phần xương thịt còn lại trong cơ thể ta. Vì vậy, mỗi chúng ta đều đang trôi dạt trong các đại dương. Vậy thì khi đi chợ, chúng ta nên thực tập đi ba bốn người để bảo hộ cho nhau trong việc mua sắm, tiêu thụ, vì chợ hay siêu thị cũng là một đại dương. Bài hát Hộ trì sáu căn có nội dung rất thấm thía:
Mắt là đại dương sâu
Với những đợt sóng ngầm
Với những loài thủy quái
Với những trận cuồng phong
Thuyền tôi đi trong chánh niệm
Xin nguyện nắm vững tay chèo
Để không đắm chìm trong biển sắc mênh mông.
Cùng hơi thở nhiệm mầu
Tôi hộ trì nhãn căn
Giữ gìn cho tôi và giữ gìn cho anh
Để cho ngày hôm nay còn tươi sáng
Và để ngày mai chúng ta sẽ vẫn còn có nhau.
Tương tự như vậy, lời bài hát tiếp tục với tai, mũi, lưỡi, thân và ý.
Chỉ cần gọi tên tình thương là ta sẽ không bị những con rồng, độc long, ác quỷ, cá mập kia tàn sát.
Hoặc phiêu lưu cự hải 或漂流巨海
Long ngư chư quỷ nạn. 龍魚諸鬼難.
Phiêu lưu là trôi dạt, cự hải là biển lớn, long là rồng, ngư là cá, chư quỷ nạn là nạn do các loài quỷ.
Ba là sóng, lãng cũng là sóng, ba lãng là sóng gió, bất năng là không thể, một là làm cho ta bị tiêu diệt, làm cho chìm, làm cho chết. Ba lãng bất năng một, nghĩa là sóng gió không thể nhận chìm. Chúng ta có danh hiệu Avalokiteśvara, có hình ảnh của người thương, người có từ bi, chỉ cần ta gọi tên đó, hình dung về người đó thì ta sẽ không bị nạn. Nhờ thương mà chúng ta không đánh mất mình, nhờ thương mà chúng ta biết giữ gìn thân tâm ta. Nếu không có tình thương đó thì ta sẽ trở nên liều mạng, bất chấp. Thi sĩ Vũ Hoàng Chương có một câu thơ nói về cuộc đời lênh đênh trên biển như sau:
Lũ chúng ta lạc loài năm bảy đứa
Bị quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh
Biển vô tận sá gì phương hướng nữa
Thuyền ơi thuyền theo gió hãy lênh đênh.
(Phương xa)
Chết cũng được, đi đâu cũng được, muốn đi thì đi, bởi vì đã bất chấp, bất cần, bởi vì không có tình thương.
Đứng chóp núi Tu Di
Bị người ta xô ngã
Niệm sức mạnh Quan Âm
Như mặt trời trên không.
Hoặc tại Tu Di phong 或在須彌峰
Vi nhân sở thôi đọa 為人所推墮
Niệm bỉ Quan Âm lực 念彼觀音力
Như nhật hư không trú. 如日虛空住.
Tu Di là Sumeru, một đỉnh núi rất cao. Phong là đỉnh núi; nhân là người; đọa là rơi xuống, rớt xuống; vi nhân sở thôi đọa là bị người đẩy xuống. Trong tình trạng nguy hiểm bị người ta xô ngã xuống, niệm danh hiệu của đức Quan Thế Âm thì ta tự đặt mình vào vòng an toàn.
Như nhật hư không trú là như mặt trời an trú trong hư không. Đây là một câu rất hay. Mặt trời không rơi xuống mà lơ lửng trong hư không. Bản tiếng Việt thiếu ý này. Chúng ta chỉ dịch là: Niệm sức mạnh Quan Âm. Như mặt trời trên không.
Bị người dữ đuổi chạy
Rơi xuống núi Kim Cương
Niệm sức mạnh Quan Âm
Không hao một mảy lông.
Hoặc bị ác nhân trục 或被惡人逐
Đọa lạc Kim cang sơn 墮落金剛山
Niệm bỉ Quan Âm lực 念彼觀音力
Bất năng tổn nhất mao. 不能損一毛.
Bị oán tặc vây hãm
Cầm đao thương sát hại
Niệm sức mạnh Quan Âm
Oán tặc thấy thương tình.
Hoặc trị oán tặc nhiễu 或植怨賊繞
Các chấp đao gia hại 各執刀加害
Niệm bỉ Quan Âm lực 念彼觀音力
Hàm tức khởi từ tâm. 咸即起慈心.
Trị là gặp, oán tặc là những người thù oán, nhiễu là bao quanh.
Các chấp đao gia hại. Các là mỗi người, mỗi đứa; chấp đao là cầm đao; gia hại là sắp sửa hại ta.
Hàm tức khởi từ tâm, tức là đều phát khởi lòng từ.
Nếu chúng ta lâm vào trường hợp bị giặc vây hãm, bị những người oán thù sát hại và tất cả những tên giặc đó đều cầm dao, cầm thương, cầm súng (thương là một loại binh khí đầu nhọn), khi ta niệm Quan Âm thì sẽ phát khởi lòng thương trong tâm của những tên giặc, những kẻ oán thù đó.
Bị khổ nạn vua quan
Sắp sửa bị gia hình
Niệm sức mạnh Quan Âm
Ðao kiếm gãy từng khúc.
Hoặc tao vương nạn khổ 或遭王難苦
Lâm hình dục thọ chung 臨刑欲壽終
Niệm bỉ Quan Âm lực 念彼觀音力
Đao tầm đoạn đoạn hoại. 刀尋段段壞.
Tao là thình lình gặp mà không chờ đợi. Hoặc tao vương nạn khổ là hoặc thình lình gặp những khổ nạn.
Lâm hình là lọt vào, đi vào những giờ phút bị hành hình, bị xử, bị chém. Dục là muốn, thọ là mạng sống, chung là kết thúc. Dục thọ chung là mạng sống của ta sắp kết thúc.
Đoạn đoạn là từng khúc. Đao tầm đoạn đoạn hoại: những binh khí đó liền bị gãy ra thành từng khúc.
Nơi tù ngục xiềng xích
Chân tay bị gông cùm
Niệm sức mạnh Quan Âm
Được tháo gỡ tự do.
Hoặc tù cấm già tỏa 或囚禁枷鎖
Thủ túc bị nữu giới 手足被杻械
Niệm bỉ Quan Âm lực 念彼觀音力
Thích nhiên đắc giải thoát. 釋然得解脫.
Già tỏa là gông cùm; thủ túc là tay chân; nữu là thắt nút lại, cột lại. Giới là cùm lại, khóa lại – như cùm tay, cùm chân.
Thích nhiên là tự nhiên được giải thoát tự do.
Gặp thuốc độc trù ếm
Nguy hại đến thân mình
Niệm sức mạnh Quan Âm
Người gây lại gánh chịu.
Chú trớ chư độc dược 咒詛諸毒藥
Sở dục hại thân giả 所欲害身者
Niệm bỉ Quan Âm lực 念彼觀音力
Hoàn trước ư bổn nhân. 還著於本人.
Chú là những câu thần chú, đọc để hại người chứ không phải cứu người; trớ là những lời nói lâm râm để thu hút những năng lượng đen tối, độc hại, những lời khấn với quỷ, thần đến làm hại một người nào đó; độc dược là những loại thuốc độc. Chú, trớ và độc dược, ba thứ này người ta sử dụng để làm hại thân mình (Sở dục hại thân giả).
Hoàn trước ư bổn nhân, nghĩa là ba thứ trên quay trở lại làm hại tác giả đã tạo ra chúng.
Đây là câu dở nhất trong kinh Phổ môn. Trong kinh Tứ thập nhị chương có câu đại ý là người ác mà hại người hiền thì cũng giống như ngửa mặt lên trời nhổ nước miếng muốn làm cho dơ trời nhưng trời không dơ mà nước miếng rơi ngược xuống mặt mình. Những người thường, nghe kinh nói như vậy thì thấy “đã” lắm! Nhưng ta có lòng từ bi nên thấy người ác đó cũng thật tội nghiệp. Khi họ làm ra chú, trớ, độc dược để hại người khác nhưng người ta không bị hại mà những thứ đó trở về làm hại họ thì ta thấy họ cũng thật đáng thương. Thành ra, ta cũng không thích câu kinh này. Khi đọc kinh, ta phải có nhận thức độc lập của ta, vì không hẳn tất cả những chữ trong kinh đều do Bụt nói, có thể do những người sau thêm thắt. Có thể họ muốn trừng phạt hay cảnh báo những người làm dữ cho nên họ muốn thêm câu này vào. Đức Thế Tôn không hẹp hòi như vậy. Vì trong kinh Bát đại nhân giác (Tám điều giác ngộ của các bậc đại nhân), đức Thế Tôn nói rằng “Bồ tát thì không đem lòng ghét bỏ những người làm ác”, trong khi ở đây thì hình như ta thấy có cảm giác “đã” khi người làm ác bị trừng phạt. Như vậy, lòng từ bi ở đây chưa đạt được đến mức từ bi của đức Thế Tôn.
Ta cứ để nguyên văn cả câu này như vậy, tuy nhiên mỗi khi đọc qua, ta thấy nó chưa tới được mức mà mình trông đợi.
Gặp La sát hung dữ
Rồng độc và quỷ ác
Niệm sức mạnh Quan Âm
Hết dám làm hại ta.
Hoặc ngộ ác La sát 或遇惡羅剎
Độc long chư quỷ đẳng 毒龍諸鬼等
Niệm bỉ Quan Âm lực 念彼觀音力
Thời tất bất cảm hại. 時悉不敢害.
La sát là một loài quỷ, quỷ La sát.
Độc long là con rồng độc, chư quỷ là nhiều loại quỷ, đẳng là vân vân.
Thời là lúc bấy giờ, tất bất cảm hại là không dám làm hại ta nữa.
Bụt dạy kinh Thương yêu (Metta Sutta) cho các thầy ở một khu rừng nọ. Trong đêm, các thầy thường nghe thấy có tiếng than khóc, tiếng khổ đau vang khắp khu rừng. Hình như chúng sinh, ma quỷ trong khu rừng đó đau khổ quá nhiều, nên giờ đây họ bộc phát, vung vãi nó ra. Khi thấy các thầy tới trú ẩn trong khu rừng đó thì họ không có thiện cảm lắm. Họ phát ra những âm thanh dọa dẫm. Các thầy kể lại cho Bụt rằng vì thấy khu rừng đó có suối, mát mẻ và yên tĩnh, nên các thầy đến đó để cư trú tu học, nhưng có những lực lượng ma quái có vẻ không muốn các thầy ở đó, các thầy phải làm thế nào? Đức Thế Tôn dạy rằng đừng bỏ khu rừng đó mà đi vì ở khu rừng đó có những loài chúng sinh đang đau khổ. Cho nên các thầy trở về và thực tập Từ bi quán. Bụt dạy kinh Thương yêu cho các thầy. Các thầy học thuộc, tụng kinh Thương yêu và hành trì theo Từ bi quán. Sau một thời gian những âm thanh oán hờn kia từ từ lắng xuống. Không còn loài nào muốn làm hại các thầy, trái lại, lòng từ bi của các thầy đã chữa lành thương tích cho những loài trong khu rừng đó. Bụt dạy kinh Thương yêu trong trường hợp này.
Gặp ác thú vây quanh
Nanh vuốt thật hãi hùng
Niệm sức mạnh Quan Âm
Đều vội vàng bỏ chạy.
Nhược ác thú vi nhiễu 若惡獸圍繞
Lợi nha trảo khả bố 利牙爪可怖
Niệm bỉ Quan Âm lực 念彼觀音力
Tật tẩu vô biên phương. 疾走無邊方.
Vi tức là vây, nhiễu là đi xung quanh. Nhược ác thú vi nhiễu: Nếu có ác thú bao vây xung quanh.
Lợi là sắc, nha trảo là móng vuốt, khả bố là đáng sợ. Lợi nha trảo khả bố: Móng vuốt rất sắc bén, hãi hùng, đáng sợ.
Tật tẩu là chạy gấp, vô biên phương là một nơi rất xa.
Rắn độc và bò cạp
Lửa khói un hơi độc
Niệm sức mạnh Quan Âm
Theo tiếng tự lui về.
Ngoan xà cập phúc yết 蚖蛇及蝮蠍
Khí độc yên hỏa nhiên 氣毒煙火然
Niệm bỉ Quan Âm lực 念彼觀音力
Tầm thanh tự hồi khứ. 尋聲自回去.
Tiếng tức là tiếng niệm. Theo tiếng tự lui về, tức là chúng tự lui về chỗ chúng xuất phát. Từ những chỗ chúng ở: cái hang, vỏ cây, hốc đất… khi nghe niệm Namo Avalokiteśvara thì những loài trùng độc không tới làm hại ta nữa mà tự quay về trú xứ của chúng.
Xà là rắn, yên là khói, hỏa là lửa, nhiên là đốt lên. Khói lửa đốt lên những chất độc.
Tầm thanh tự hồi khứ: khi nghe tiếng niệm Quan Âm thì những thứ đó liền trở về nguồn gốc của chúng.
Sấm sét, mây, điện, chớp
Mưa đá tuôn xối xả
Niệm sức mạnh Quan Âm
Đều kịp thời tiêu tán.
Vân lôi cổ xiết điện 雲雷鼓掣電
Giáng bạc chú đại vũ 降雹澍大雨
Niệm bỉ Quan Âm lực 念彼觀音力
Ứng thời đắc tiêu tán. 應時得消散.
Vân là mây, lôi là sấm, cổ là trống. Chữ xiết ở đây có thể đọc là xế, nghĩa là kéo, rút.
Giáng là tuôn rơi xuống, bạc là mưa đá, chú là mưa kịp thời, đại vũ là mưa lớn.
Ứng thời tức là kịp thời.
Chúng sanh bị khốn ách
Vô lượng khổ bức thân
Trí lực mầu Quan Âm
Cứu đời muôn vạn cách.
Chúng sanh bị khổn ách 眾生被困厄
Vô lượng khổ bức thân 無量苦逼身
Quan Âm diệu trí lực 觀音妙智力
Năng cứu thế gian khổ. 能救世間苦.
Những khốn đốn, tai ách của chúng sanh nhiều vô lượng. Những nỗi khổ đó bức bách tấm thân của chúng sanh. Trí lực mầu nhiệm của đức Quan Âm có thể cứu được những khổ đau của thế gian bằng muôn vạn cách.
Trí phương tiện quảng đại
Đầy đủ sức thần thông
Mười phương trong các cõi
Không đâu không hiện thân.
Cụ túc thần thông lực 具足神通力
Quảng tu trí phương tiện 廣修智方便
Thập phương chư quốc độ 十方諸國土
Vô sát bất hiện thân. 無剎不現身.
Trí phương tiện là một loại trí có khả năng tạo tác những biện pháp để kịp thời cứu độ; nghĩa là trong một hoàn cảnh đặc biệt nào đó vẫn có được sự thông minh, sáng suốt, sử dụng ngay những phương tiện có sẵn tại chỗ để cứu người, cứu đời. Ví dụ, khi cần phải cứu giúp một người thì dù đang không phải ở trong nhà thương, không có được những dụng cụ của nhà thương, bác sĩ vẫn có thể xé tà áo để băng bó, nấu một nồi nước sôi để dùng nước đó rửa vết thương mà không cần có nước sát khuẩn. Một bác sĩ giỏi sẽ không nói rằng: “Ở đây tôi không có ống nghe, tôi không có gì hết, tôi phải về nhà thương lấy dụng cụ rồi mới cứu giúp được”, và khi bác sĩ về nhà thương thì ở đây người ta chết rồi. Thành ra, bác sĩ phải có trí phương tiện, phải dùng những phương tiện tại chỗ để cứu người ngay lập tức. Cũng vậy, khi ra ngoài chợ thấy có một người sắp tự tử thì ta phải dùng các phương tiện, tìm cách nào đó để giúp người kia dừng việc tự tử lại, chứ ta không thể nói rằng: “Anh nên đi về Làng Mai, ở đó có tăng thân có thể giúp anh.” Như vậy không được. Ta phải dùng trí phương tiện của mình. Trong bất kỳ một hoàn cảnh, môi trường nào ta cũng phải có trí phương tiện để có thể tạo tác ra những phương tiện giúp người ngay tại chỗ.
Mười phương trong các cõi. Không đâu không hiện thân. Chỗ nào đức Quan Âm cũng có mặt: ở Tây phương Cực lạc hay ở cõi Ta bà. Ở Trung Quốc có đức Quan Âm mà ở Tây Ban Nha cũng có đức Quan Âm. Đây là một loại thần thông. Đức Quan Thế Âm có mặt ở tất cả mọi nơi, vấn đề là ta phải nhận diện ra sự có mặt của Ngài.
Cụ túc thần thông lực là đầy đủ các thần thông.
Quảng tu trí phương tiện là đào luyện một cách rộng rãi trí phương tiện.
Thập phương chư quốc độ là mười phương, tất cả các cõi nước.
Chữ sát ở đây là cõi nước, quốc gia, quốc độ, nơi chốn, địa phương. Cõi Bụt được gọi là Phật sát. Nếu hiểu chữ sát nghĩa là giết, tức là ta không hiểu nghĩa kinh. Vô sát bất hiện thân tức là không có cõi nước nào mà không có mặt.
Những nẻo về xấu ác
Địa ngục, quỷ, súc sinh
Khổ sinh, lão, bệnh, tử
Cũng từ từ dứt sạch.
Chủng chủng chư ác thú 種種諸惡趣
Địa ngục, quỷ, súc sinh 地獄鬼畜生
Sinh, lão, bệnh, tử khổ 生老病死苦
Dĩ tiệm tất linh diệt. 以漸悉令滅.
Chữ nẻo về dịch từ chữ thú (destination). Những nẻo về xấu ác, tức là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Những nẻo về kia là thiên, nhân và a tu la thì không xấu ác bằng.
Khổ sinh, lão, bệnh, tử cũng từ từ dứt sạch. Đó là nhờ sự có mặt của đức Quan Thế Âm, sự có mặt của tình thương.
Chủng chủng là loại này và loại kia, chư ác thú là nhiều nẻo về xấu. Địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh là ba nẻo về xấu. Sinh, lão, bệnh, tử khổ là những cái khổ của sinh, già, bệnh, chết. Tiệm là từ từ, linh là khiến cho, diệt là chấm dứt. Nhờ sự có mặt của đức Quan Thế Âm, nhờ phương tiện trí, nhờ tình thương mà những nẻo về đó, cũng như những khổ đau, sinh, lão, bệnh, tử từ từ được tiêu diệt.
Quán Chân, quán Thanh tịnh
Quán Trí tuệ rộng lớn
Quán Bi và quán Từ
Thường nguyện, thường chiêm ngưỡng.
Chân quán, Thanh tịnh quán 真觀清淨觀
Quảng đại trí tuệ quán 廣大智慧觀
Bi quán cập Từ quán 悲觀及慈觀
Thường nguyện thường chiêm ngưỡng. 常願常瞻仰.
Bốn câu này là để định nghĩa chữ Quán. Quán là một trong ba chữ của tên đức Quan Thế Âm. Quán (觀), tiếng Anh là looking deeply, observing.
Quán Chân tức là quán sát để thấy được sự thật, thấy được chân lý tuyệt đối. Khi đã tiếp xúc được với cái chân thật, ta không còn bị cái giả dối đánh lừa nữa. Quán Thanh tịnh tức là quán chiếu để tiếp xúc được với sự thanh tịnh, trong sáng. Khi tiếp xúc được với sự thanh tịnh thì đối với những thứ bất tịnh ta không còn bị vướng vào nữa. Chữ Quan trong danh từ Quan Âm có nghĩa là quán Chân và quán Thanh tịnh.
Quán Trí tuệ rộng lớn. Trí tuệ tức là sự hiểu biết. Sự hiểu biết lớn gọi là đại trí, đại tuệ. Nhờ có sự hiểu biết lớn mà có từ và có bi. Hiểu biết lớn đưa tới thương yêu lớn. Quán Trí tuệ (quán thứ ba), quán Bi (quán thứ tư) và quán Từ (quán thứ năm). Chữ quán trong danh từ Quán Thế Âm có năm nghĩa như vậy: Chân quán, Thanh tịnh quán, Quảng đại trí tuệ quán, Bi quán và Từ quán.
Thường nguyện thường chiêm ngưỡng (contemplation, appreciation) nghĩa là lúc nào cũng đi theo con đường đó, lúc nào cũng quán chiếu và nhìn sâu để làm lớn lên năm phép quán trên. Bản chất của Quan Thế Âm là có năm quán, nếu không có thì không gọi là Quan Thế Âm được, vì Quan Thế Âm là sự thật, là sự thanh tịnh, là sự hiểu biết, là từ và bi. Chúng ta biết rằng trong ta cũng có hạt giống của năm yếu tố trên, nếu tưới tẩm, làm lớn lên năm bản chất đó thì Quan Thế Âm có mặt ngay trong ta.
Quán Vô cấu, Thanh tịnh
Mặt trời Tuệ phá ám
Điều phục nạn gió, lửa
Chiếu sáng khắp thế gian.
Vô cấu thanh tịnh quang 無垢清淨光
Tuệ nhật phá chư ám 慧日破諸闇
Năng phục tai phong hỏa 能伏災風火
Phổ minh chiếu thế gian. 普明照世間.
Lại còn phép quán gọi là Vô cấu, Thanh tịnh. Vô cấu, amala, tức là không có một chút dơ bẩn nào. Chúng ta thường gọi đức Quan Thế Âm là Tịnh thánh, tức là bậc thánh nhân hoàn toàn không có một vết nhơ (vô cấu).
Mặt trời Tuệ phá ám, tức là hành động nhìn sâu và quán chiếu là mặt trời có thể làm tiêu tan những mây mờ của phiền não. Chính năng lượng đó điều phục được những tai nạn gió, lửa, và ánh sáng đó chiếu khắp thế gian để soi đường cho nhân thế.
Vô cấu là không có vết nhơ, thanh tịnh quang là ánh sáng trong sạch.
Tuệ nhật là mặt trời tuệ, phá chư ám là xua đuổi những bóng tối.
Năng phục tai phong hỏa là có thể điều phục được những tai nạn gió, lửa.
Phổ minh là sáng suốt khắp nơi, chiếu là soi, thế gian là cuộc đời.
Tâm Bi như sấm động
Lòng Từ như mây hiền
Pháp cam lộ mưa xuống
Dập trừ lửa phiền não.
Bi thể giới lôi chấn 悲體戒雷震
Từ ý diệu đại vân 慈意妙大雲
Chú cam lồ pháp vũ 澍甘露法雨
Diệt trừ phiền não diệm. 滅除煩惱焰.
Ở đây ta thấy có hình ảnh Từ như một đám mây che mát cho chúng ta và Bi như tiếng sấm động có thể làm ra mưa. Đây là những hình ảnh rất đặc thù. Tình thương phải là những gì có thật và cái thật đó có thể che mát cho ta, giúp ta có thể sống được trong sự nóng bức của cuộc đời, như là khi đang đi dưới bầu trời mùa hạ, sắp chết cháy thì có một đám mây bay ngang qua làm cho ta mát hẳn lại. Đó gọi là lòng Từ như mây hiền. Sấm động làm đám mây đó trở thành mưa rơi xuống khiến cho cõi đời mát mẻ.
Pháp cam lộ mưa xuống. Dập trừ lửa phiền não. Chúng ta biết rằng giáo pháp của đức Thế Tôn có khả năng dập tắt lửa phiền não và đem lại sự thanh lương, cho nên trong truyền thống đạo Bụt, có sự biểu hiện của Bồ tát Thanh Lương Địa. Diệt trừ sự nóng bức, diệt trừ những cơn sốt, đưa lại sự mát mẻ,… đó là tác dụng từ giáo pháp của đức Thế Tôn. Ở đây, Từ và Bi là những năng lượng có thể dập tắt được phiền não và đưa lại sự tươi mát. Chúng ta đọc đoạn này như đọc một bài thơ vì tất cả được làm toàn bằng hình ảnh.
Bi thể giới lôi chấn là bản chất của bi giống như sấm động.
Từ ý diệu đại vân là ý niệm về lòng từ giống như một đám mây lớn mầu nhiệm.
Chú cam lồ pháp vũ là mưa kịp thời, đám mưa pháp rơi xuống rất ngọt, rất dịu.
Diệm là bốc cháy. Diệt trừ phiền não diệm là diệt trừ những phiền não đang bốc cháy.
Nơi án tòa kiện tụng
Chốn quân sự hãi hùng
Niệm sức mạnh Quan Âm
Oán thù đều tiêu tán.
Tránh tụng kinh quan xứ 諍訟經官處
Bố úy quân trận trung 怖畏軍陣中
Niệm bỉ Quan Âm lực 念彼觀音力
Chúng oán tất thối tán. 眾怨悉退散.
Tránh tụng là nơi kiện tụng, là tòa án; quan xứ là chỗ của chính quyền.
Bố úy là khiếp sợ, quân trận trung là bãi chiến trường, chỗ đang đánh giặc. Nếu có mặt ở đó, ta phải niệm Quan Thế Âm, thì Chúng oán tất thối tán, tức là tất cả những oán thù, tai nạn sẽ được rút lui (thối) và tiêu tán (tán).
Chúng ta đã học những câu nói về Quán, bây giờ chúng ta sẽ học những câu nói về Âm, tại vì Quán Âm là tên của đức Bồ tát Quan Thế Âm.
Tiếng Nhiệm, tiếng Quan âm
Tiếng Phạm, tiếng Hải triều
Tiếng vượt thoát tiếng đời
Hãy thường nên quán niệm.
Diệu âm, Quan thế âm 妙音觀世音
Phạm âm, Hải triều âm 梵音海潮音
Thắng bỉ thế gian âm 勝彼世間音
Thị cố tu thường niệm. 是故須常念.
Những câu trên là để đối lại với “Chân quán, Thanh tịnh quán, Quảng đại trí tuệ quán, Bi quán cập Từ quán. Thường nguyện, thường chiêm ngưỡng.”
Tiếng Nhiệm là tiếng mầu nhiệm, dịch từ chữ diệu âm. Chỉ là một cái tên, chỉ là một âm thanh, nhưng khi nghe thấy thì làm mát mẻ bao nhiêu cõi lòng, đó là sự nhiệm mầu rất lớn, gọi là diệu âm – Avalokiteśvara, Quan Thế Âm. Chỉ là một âm thanh vậy mà đọc lên thì thấy trái tim mát lại, đó gọi là tiếng nhiệm (diệu âm).
Quan thế âm (觀世音), tức là lắng nghe những tiếng đời để tìm tới cứu khổ, là tiếng của bậc biết quán sát trần thế. Thành ra chữ Quan thế âm ở đây ta phải hiểu nghĩa khác. Thường thường, chúng ta nói rằng Quan Thế Âm tức là quán chiếu tiếng kêu thương của cuộc đời, nhưng trong câu kệ trên, chữ âm có nghĩa khác. Quan thế âm có nghĩa là tiếng của người biết nhìn sâu vào cuộc đời, không phải là tiếng của chúng sinh đau khổ nữa mà là tiếng của đức Bồ tát. Diệu âm là tiếng của Bồ tát mà Quan thế âm cũng là tiếng của Bồ tát. Diệu âm là tiếng mầu nhiệm của tên Bồ tát và Quan thế âm là tiếng của người biết quán sát cuộc đời. Chữ âm này là của diệu âm trước, rồi của Quan thế âm sau.
Phạm âm, chữ phạm ở đây có nghĩa là cao cả, quý giá, tinh khiết, không tầm thường, không trần tục. Chữ Phạm có nghĩa là Brahmā, là cõi trời Phạm Thiên, giống như là phạm hạnh, là đời sống trinh bạch, không vướng vào nhục dục. Những người tu sống theo phạm hạnh là sống một cuộc đời băng tuyết của người không dâm dục. Tiếng hải triều tức là tiếng sóng biển – hải triều lên xuống. Trong kinh thường nói rằng giáo pháp của Bụt, tiếng của đức Thế Tôn hùng vĩ như tiếng hải triều, là Hải triều âm, the sound of the rising tide.
Tiếng của đức Quan Thế Âm là: Tiếng Nhiệm, tiếng Quan âm, tiếng Phạm, tiếng Hải triều. Hùng vĩ vô cùng. Nếu lắng nghe tiếng của đức Quan Thế Âm (tiếng của thương yêu, tiếng mầu nhiệm, tiếng cao quý, tiếng trong sáng), thì ta sẽ thấy tiêu tan những khổ đau trong tâm tư, đó gọi là tiếng hải triều. Cũng như khi ta ngồi yên bên bờ biển, lắng nghe tiếng hải triều và thở, dừng lại mọi suy nghĩ thì chỉ trong mười lăm phút hay nửa giờ là những buồn khổ, lo lắng của ta sẽ được gột sạch.
Tiếng vượt thoát tiếng đời. Câu này chữ Hán là thắng bỉ thế gian âm (勝彼世間音). Thắng là vượt lên trên, thế gian âm là tiếng của ngoài đời, bỉ là kia. Tiếng vượt thắng được những đàm tiếu, nhỏ mọn, phiền não của thế gian, gọi là tiếng vượt thoát tiếng đời. Rất hay! Ở đời xôn xao lắm. Đời có biết bao nhiêu là tiếng, chỉ toàn là tiếng trách móc, hờn oán, ganh đua, phân bì, tiếng ở ngoài chợ… Còn tiếng của đức Quan Âm giống như tiếng của một con hạc bay trên cao, vượt thoát những tiếng trần tục kia, thanh tao vô cùng.
Hãy thường nên quán niệm, tức là chúng ta phải quán niệm năm loại tiếng đó. Đoạn trên, chúng ta phải quán niệm năm loại quán của Quan Thế Âm (Chân quán, Thanh tịnh quán, Quảng đại trí tuệ quán, Từ quán và Bi quán) và đoạn dưới là chúng ta phải quán niệm năm loại tiếng của Quan Thế Âm (Diệu âm, Quan thế âm, Phạm âm, Hải triều âm, Thắng bỉ thế gian âm). Đây là những đoạn kinh có ý nghĩa nhất và rất có tính chất thi ca của phẩm Phổ môn. Năm tiếng đối lại với năm quán. Năm tiếng có bốn câu và năm quán cũng có bốn câu.
Diệu âm, Quan thế âm 妙音觀世音
Phạm âm, Hải triều âm 梵音海潮音
Thắng bỉ thế gian âm 勝彼世間音
Thị cố tu thường niệm. 是故須常念.
Niệm ở đây tức là nuôi dưỡng, đừng để ngưng lại, đừng để bị chấm dứt. Vậy nên chúng ta phải thường tâm niệm về năm thứ tiếng đó.
Từng niệm không nghi ngờ
Trong ách nạn khổ chết
Quan Âm là tịnh thánh
Là nơi cần nương tựa.
Niệm niệm vật sinh nghi 念念勿生疑
Quan Thế Âm tịnh thánh 觀世音淨聖
Ư khổ não tử ách 於苦惱死厄
Năng vi tác y hộ. 能為作依怙.
Tại sao chúng ta phải nghi ngờ trong khi đối tượng của chúng ta là tình thương? Quan Thế Âm là tình thương. Tình thương là một cái gì đó có thật, phải không? Ta đã sống, đã đau khổ và tìm ra một điều là: Sự độc ác có thật! Tuy nhiên, tình thương cũng có thật! Tại sao ta không đầu tư vào tình thương? Biết rằng tình thương là có thật và tình thương có thể làm vơi đi những nỗi khổ trên thế giới, vậy thì tại sao ta không dùng đời ta đầu tư vào tình thương, đầu tư trong mỗi giây mỗi phút. Phương pháp đầu tư hay nhất là thường niệm, tức là thực tập chánh niệm về tình thương mỗi giây mỗi phút: Thị cố tu thường niệm (Hãy thường nên quán niệm).
Quán niệm về tình thương là một sự đầu tư lớn. Dùng cả thân và tâm ta đầu tư vào tình thương. Niệm đức Quan Thế Âm không phải là một lời kêu cầu hay là một sự van xin. Niệm Quan Thế Âm là một hành động của sự đầu tư. Biết rằng chất liệu hiểu và thương là có thật và ta đầu tư vào chất liệu hiểu và thương đó. Vậy thì tại sao ta phải nghi ngờ? Đức Quan Thế Âm đâu phải là một ý niệm. Đức Quan Thế Âm là một thực tại. Nếu tiếp xúc trong ta, ta có thể tiếp xúc được với đức Quan Thế Âm. Nếu tiếp xúc với những người xung quanh ta, ta cũng có thể tiếp xúc được với năng lượng đức Quan Thế Âm. Vậy thì tại sao ta lại phải đặt vấn đề là có đức Quan Thế Âm hay không có đức Quan Thế Âm? Trong thâm tâm chúng ta biết rằng Quan Thế Âm có thật, có thể biểu hiện ra hàng muôn hàng vạn hình thức. Có khi Quan Âm là người lớn, có khi là trẻ em, có khi Quan Âm là con trai, có khi là con gái, có khi Quan Âm là một nhà chính trị, có khi là một nhà kinh tế,… Ta có bổn phận phải nhận diện đức Quan Thế Âm. Khi ta có hiểu biết, có khả năng nhận diện Quan Thế Âm thì tại sao còn phải nghi ngờ? Quan Thế Âm là từ, là bi, là hiểu biết. Cho nên niệm niệm vật sinh nghi tức là trong từng niệm, từng niệm một, đừng để trong lòng phát sinh ra sự nghi ngờ. Nếu chúng ta nghi ngờ tình thương thì chúng ta không còn gì để tin tưởng nữa. Cho nên gọi là từng niệm không nghi ngờ.
Trong ách nạn khổ chết, tức là dù đang ở trong những hoàn cảnh rất khó khăn mà ta vẫn tin vào tình thương, và chính nhờ tin vào tình thương nên trong những nghịch cảnh ấy, ta vẫn có thể sống được, vẫn có thể vượt qua được. Nếu làm được như vậy, tức là mỗi một niệm đều không sinh ra sự chán nản và nghi hoặc thì trong những hoàn cảnh khổ, não, tử, ách, những năng lượng kia vẫn có thể làm chỗ nương tựa cho ta.
Quan Âm là tịnh thánh: Đức tịnh thánh tên là Quan Thế Âm.
Y hộ là chỗ mà ta có thể bám lấy, nương tựa vào. Khi chúng ta khổ đau cùng cực thì ta cần có một chỗ để bám víu, và năng lượng từ bi của đức Quan Thế Âm là một chỗ mà ta cần bám víu để đừng chết chìm trong khổ đau.
Đầy đủ mọi công đức
Mắt thương nhìn thế gian
Biển phước chứa vô cùng
Nên ta cần đảnh lễ.
Cụ nhất thiết công đức 具一切功德
Từ nhãn thị chúng sanh 慈眼視眾生
Phước tụ hải vô lượng 福聚海無量
Thị cố ưng đảnh lễ. 是故應頂禮.
Đây là bài kệ chót để tán dương đức Quan Thế Âm do chính đức Thích Ca nói ra. Đầy đủ mọi công đức, tức là đức Bồ tát Quan Thế Âm có đầy đủ tất cả mọi công đức trên. Điều đặc biệt của đức Quan Thế Âm là biết dùng con mắt thương yêu để nhìn mọi người. Mắt thương nhìn thế gian là câu kinh có thể gọi là hay nhất trong phẩm Phổ môn này. Từ nhãn thị chúng sanh – Looking at living beings with compassionate eyes. Chỉ cần thực tập được năm chữ này của kinh là đủ để chúng ta có hạnh phúc và đem lại hạnh phúc cho biết bao nhiêu người xung quanh.
Biển phước chứa vô cùng. Có phúc đức rất lớn (the ocean of merit) là vì chúng ta thực tập được điều duy nhất đó: học làm thế nào để nhìn được mọi người chung quanh ta bằng con mắt thương yêu và hiểu biết. Vì biển công đức lớn đó cho nên ta phải chắp tay lại, bạn cũng như tôi, Bụt, chúng sinh cũng như Bồ tát, tất cả chúng ta hãy chắp tay lại, hướng về đức Quan Thế Âm làm lễ với tất cả sự cung kính. Đức Thế Tôn đã nói như vậy: “Tôi cũng phải hướng về đức Quan Thế Âm để làm lễ, và quý vị cũng vậy, tất cả quý vị đều phải hướng về đức Quan Thế Âm mà làm lễ.” Tại vì đức Quan Thế Âm là tình thương, mà tình thương là đối tượng niềm tin của ta. Tình thương tức là sự thực tập hằng ngày của chúng ta.