Sách Thầy Nhất Hạnh đang trở thành best seller ở Trung Quốc

 

Nhà Xuất Bản Tử Cấm Thành ở Bắc Kinh cho biết là cuốn Dữ Sinh Mệnh Tương Ước (Ước Hẹn với Sự Sống) của Sư Ông  đã trở thành một trong những cuốn sách bán chạy nhất (sướng tiêu thư ) ở Trung Quốc. Sách này được in lần đầu vào tháng 10 năm 2010 mà đến cuối tháng 12 năm 2010 (chỉ trong vòng hai tháng) đã phải tái bản. Làng Mai đã nhận được ấn bản lần thứ hai do nhà xuất bản gửi tới.

Sách này là bản dịch Hoa văn của ba cuốn sách bằng Anh ngữ cũa Sư Ông :

Cultivating the Mind of Love (dịch thành Hoa Văn là Sơ Luyến Tam Ma Địa)
The Heart of Understanding ( dịch thành Hoa Văn là Bát Nhã chi tâm)
Our Appointment with life (dịch thành Hoa văn là Dữ Sinh Mệnh Tương  Ước)

Sách do Tân Hoa Thư Điếm phát hành. Dịch giả là Minh Hạo và Minh Qua.

Người viết lời giới thiệu là học giả Trần Cầm Phú ở Đài Loan. Sách giới thiệu Sư Ông  là

“Thế Giới Đệ Nhất Thiền Tông Đại Đức” và là “ Một trong những vị đại sư tâm linh vĩ đại nhất trên thế giới”

Đồng thời tại Hồng Kông cuốn Phóng Hạ Tâm Trung Đích Ngưu (Releasing the Cow in your Mind) cũng đã trở thành một cuốn best sellers. Sách này tập hợp những bài pháp thoại cũa Sư Ông đăng trên tập chí Ôn Noản Nhận Gian (Buddhist Compassion) và do nhà Cognizance ( Tri Xuất Bản Xã). Cuốn này cũng in lần đầu vào tháng 10 năm 2010 và cũng được tái bản hai tháng sau đó. Tất cả những bài giảng trong ấy đều rất thiết thực cho đời sống hằng ngày. Sách ghi tên người dịch là Tăng Đoàn Làng Mai, trong đó sư cô Chân Sĩ Nghiêm là người dịch chính.

Sách Thầy Nhất Hạnh đang trở thành best seller ở Trung Quốc_Sách Thầy Nhất Hạnh đang trở thành best seller ở Trung Quốc

Ông Thầy tu danh tiếng – tích cực lo cho hoà bình

Thích Nhất Hạnh – Người là hiện thân cho một thứ đạo Bụt dấn thân

Tuần báo LA VIE ra ngày 29 tháng 6 năm 2006

ký giả Isabelle Francq
Sư cô Chân Không chuyển ngữ

Ngọn gió tâm linh thổi xuyên qua vùng ruộng nho và đồi mận

“Ở Việt Nam cũng như khắp nơi trên thế giới, đạo Bụt phải được làm mới. Hiện nay ở Việt Nam phần đông thiên hạ nghĩ rằng đạo Bụt là để dành cho các vị xuất gia và cho những ông bà cụ già. Tuy nhiên chính những người trẻ lại đang rất cần có một nếp sống tâm linh, nếu không họ sẽ bị lạc lối. Nhưng nếu đạo Bụt không trao truyền được cho người trẻ những phép tu tập có thể đáp ứng lại nhữngnhu yếu của họ, thì họ sẽ ruồng bỏ truyền thống tâm linh của cha ông họ.” Thầy Thích Nhất Hạnh đã giải thích như thế. Sau 39 năm sống lưu vong, vị thiền sư Việt Nam định cư trên đất Pháp đã trở về thăm quê hương đất nước của ông, hồi đầu năm vừa qua. Ông được chính quyền Cộng Sản cho thuyết pháp ở những nơi công cộng. Trong các thính đường, ở các nơi trình diễn công cộng và tại các chùa, chỗ nào thiền sư tới giảng cũng đầy ắp người. Ba trăm thanh thiếu niên, nam và nữ đã theo Thầy để xuất gia, thành lập hai tu viện ở hai nơi trên đất nước Việt Nam, theo thể thức tổ chức tu viện Làng Mai của thiền sư ở Pháp.

Thiền sư nói rõ thêm: “ Những điều tôi chia sẻ đã gợi hứng cho nhiều người, bởi vì tôi truyền trao một thứ Phật giáo dấn thân trong cuộc đời, gần gũi với những thao thức của mọi người, một loại Phật giáo đã được làm mới lại, nhờ ba mươi năm tu tập và giảng dạy ở Tây Phương.”

“Muốn thương ai ta phải có mặt, cả thân và tâm, cho người đó”

Rõ ràng là người Việt Nam đã không nhầm lẫn. Người Pháp cũng thế. Mùa Xuân năm nay, như các mùa Xuân mỗi năm, 700 người Pháp đã về Làng Mai để dự khóa tu trọn một tuần lễ do Thiền Sư dạy bằng tiếng Pháp. Phần đông từ 25 đến 55 tuổi, đến từ khắp mọi miền nước Pháp. Cũng có một số đến từ Bỉ hay Thụy Sĩ, từ Ý và Tây Ban Nha. Có những người đã chịu bay từ Montréal – Gia Nã Đại. “Nhà tôi đã biết được Thầytừ Gia Nã Đại. Những điều Thầy dạy đã khiến cô ấy quá mến phục nên đã thuyết phục được tôi cùng đi ”. Vị thiền sinh người Gia Nã Đại đã thú thật với tôi như thế khi ông đặt chân đến Làng Mai – một góc trời Việt Nam nho nhỏ nằm ở tam biên các tỉnh Dordogne, Lot& Garonne và Gironde. Từ năm 1982 Thầy Nhất Hạnh cùng một số đệ tử của Thầy đã chọn làm quê hương góc trời nhỏ giữa những ruộng nho và những đồi mận này.

Rồi từ từ, khi mà những điều dạy dỗ của Thầy đã xuất hiện qua nhiều cuốn sách của Thầy trong các hiệu sách Pháp và các nước nói tiếng Pháp, với những quyển sách càng ngày càng nổi tiếng ấy, số người đến tu học càng lúc càng đông, các vị xuất gia đã mua thêm một nông trại, rồi hai nông trại, rồi một góc Xã cho đến cuối cùng là có bảy xóm tất cả, làm thành một Làng. Làng có tên là Làng Mai vì họ có trồng 1250 cây mai ăn trái. Tiền bán trái mai (mận) sẽ để dành nuôi trẻ em thiếu ăn tại Việt Nam và các nơi khác.

Rải rác đây đó là những hồ sen, những tượng Bụt được dựng lên và những tháp chuông, dưới mỗi tháp mái cong là một quả chuông thật to. Tiếng chuông trầm hùng thỉnh lên mỗi giờ một lần, suốt cả ngày. Khi chuông thỉnh lên thì mọi người dừng lại, từ ánh mắt đến cử chỉ, lời nói. Nhìn cỏ cây, lắng nghe chim hót hay cảm nghe làn gió nhẹ mơn man trong không gian. Rồi sự sống lại tiếp tục diễn tiến. Những điều dạy của Thầy Nhất Hạnh nằm nơ i bí quyết đó. Sự có mặt thật tình trong phút giây hiện tại mà Thầy gọi là “ chánh niệm” và mọi người – người tới tu tập hay người chỉ mớ i bước chân tới thăm Làng Mai lần đầu – tất cả đều nếm được sự dừng lại với hình ảnh đó.

Các thiền sinh về đây tu học được chia thành từng nhóm, nhóm đây không phải là nhóm người chỉ mê sống theo thiên nhiên, họ cũng không là những người hoài niệm thời híp-pi. Bất cứ ai về đây, tất cả đều phải chấp nhận hay tạm chấp nhận sống chung phòng với những người lạ chứ không còn cách nào khác. Tất cả đều phải chấp nhận ăn những bữa ăn chay chung, theo lối Việt Nam, chấp nhận tham dự những buổi thiền làm việc, có khi gọi là chấp tác, nhặt rau hay xắt gọt dưa, khoai, hay lau nhà vệ sinh v.v… Nhưng không ai than phiền cả. Không khí thật bình an và tươi vui, rất khác xa với những mẫu mực có sẵn của những nhóm Phật tử nghiêm nghị và khắc khổ. Suốt một tuần lễ, mọi người đều phải thức dậy từ lúc 5 giờ 00 sáng để ngồi thiền sáng vào lúc 5g 30, hướng dẫn bởi một thầy hay một sư cô của Chùa thuộc xóm mình ở – mỗi xóm có khoảng 50 sư cô và vài trăm thiền sinh trong đó có mươi sư cô Tây phương. Các sư cô mặc áo nâu, đầu cạo nhẵn, ngồi trên những chiếc gối tọa thiền, hướng dẫn thiền sinh định tâm vào hơi thở vào… hơi thở ra.., ý thức toàn thân… buông thư toàn thân…, an trú thâm sâu trong phút giây hiện tại. Vào 9 giờ 00 sáng tất cả từ trẻ con đến người lớn đều tập trung vào thiền đường lớn. Mọi người ngồi yên tới nỗi người ta có thể nghe cả tiếng ruồ i bay. Họ ngồi để chuẩn bị nghe pháp thoại của Thầy.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh diễn giảng với giọng nói thật nhẹ nhàng, bằng một thứ tiếng Pháp tuyệt hảo, thanh lịch, không cần chêm những chữ chuyên môn khó hiểu, cũng không cần dùng những từ đặc biệt Phật giáo cầu kỳ.

Thầy nói: “Muốn thương thì phải “có mặt”, cả thân và tâm. Bằng hơi thở chánh niệm. Để ý tới hơi thở vào và hơi thở ra, cái tâm nhờ thế không đi lung tung, được đưa trở về lại với thân, và do đó ta có mặt cho chính ta và cho người ta thương. Món quà quý nhất cho người mình thương là sự có mặt thật tình cho người đó : Mẹ (hayBa) thương ơi, con có mặt cho mẹ (ba) đây ! Hay là: Anh thương ơi, em có mặt cho anh đây. Hay là: em thương ơi, anh có mặt cho em đây. Hay là: con của mẹ ơi, con của cha ơi, cha (hay mẹ) đang có mặt cho con đây!” Không bị thời gian tàn phá, gương mặt thanh lịch của ông Thầy tu tỏa rạng sự bình an.

Suốt một tuần lễ, nữ luật gia Nathalie, trong những bộ áo có vẻ thời trang, đến từ miền Alpes Maritimes, đã bỏ hẳn văn phòng luật sư của cô, chồng cô và đứa con tám tuổi để đến đây tu học. Chúng tôi ngồi đàm đạo trong thiền đường với câu bút pháp: “Lắng nghe để hiểu, nhìn kỹ để thương”. Khi chia sẻ với các bạn thiền sinh khác, cô Nathalie cảm động nói: “Các điều Thầy dạy sáng nay tiếp tục âm vang trong tôi. Đơn giản vô cùng nhưng thật thâm sâu và không dễ thực tập để mà sống được như vậy. Thầy đang thật tình có mặt cho chúng ta; tôi cảm nghe như Thầy đang hướng dẫn từng bước cho chúng ta đi. Thầy dạy ta nhìn kỹ, nhận diện từng chiếc bóng của chính chúng ta tận mặt, mà không cần có mặc cảm tội lỗi. Như thế ta tiếp xúc được với phần thương tích của chính mình bằng tất cả lòng từ bi, khi nhận diện sự có mặt của thương tích trong ta thì ta có thể hiểu và thương được cách hành xử của người khác vì họ cũng đã từng bị thương tích như mình.”

Như phần đông những người tu tập ở Làng Mai, Nathalie không tự nhận cô là Phật tử. Nhưng từ khi khám phá được sách của Thầy, cô đã tới Làng Mai học với Thầy để có thể có nếp sống đẹp, lành mạnh và hạnh phúc hơn. Những người khác thì xin quy y với Thầy. Là đệ tử tại gia của Thầy, họ tự hứa và hứa với tăng thân Làng Mai trong một buổi lễ quy y là sẽ sống đời sống hằng ngày theo tiêu chuẩn năm giới, trình bày theo cách của Thầy. Họ sẽ tập tìm hiểu sâu thêm giáo lý Bụt dạy và tập thiền quán. Đó là trường hợp cô Marianne 52 tuổi, cố vấn về quản trị xí nghiệp nên biết rất rõ những nhịp độ công tác và những đòi hỏi cấp bách, những điều kiện bức xúc trong các hãng xưởng. “Pháp môn dạy dỗ của Thầy giúp tô i biết nắm lấy những gì thiết yếu nhất.” Cô Marianne tới tu học ở Làng Mai từ nhiều năm nay. Lần này cô mời được mẹ cô cùng về. Bà cụ là người theo đạo Thiên Chúa rất thuần thành. Bà cụ nói “Tôi rất may mắn mà thuộc về một giáo xứ rất cởi mở và nhờ vậy đã được phép thuật lại cho giáo dân nghe những gì tôi học được khi đi tu học ở Làng Mai về. Giáo lý đạo Bụt mà Thầy dạy không có gì chống đối với những điều tôi học trong Thánh Kinh. Ngược lại, những ngày sống ở Làng Mai giúp tôi có nhiều bình an khiến tôi thấy con tim mình mở ra, hiểu Chúa Ky Tô và những người khác nhiều hơn.”

“Ban đầu người Pháp tưởng là họ cần phải mặc áo ki mô nô…”

Nhóm quần chúng đủ màu sắc này, thiền sư Nhất Hạnh đã hiểu khá rõ tâm tư họ nên Thầy đã giúp họ được rất nhiều.

Sư Cô Chân Không, tới Pháp vào những năm cuối thập niên 1960 để phụ giúp thiền sư lo các chương trình cứu trợ nạn nhân chiến tranh và kêu gọi hòa bình, đã vui vẻ nhắc : “ Ban đầu người Pháp tưởng là họ cần phải mặc áo ki mô nô, ăn cơm bằng đũa thì mới trở nên Phật tử được! Thầy mớ i bảo với họ rằng những điều Bụt dạy là một nghệ thuật sống trong bình an và sâu sắc. Với nghệ thuật sống đẹp đó, quý vị là người Pháp thì nên xây dựng một đạo Bụt Pháp có màu sắc văn hóa Pháp”. Thiền Sư Thích Nhất Hạnh là một trong những vị Thầy hiếm có, rất lão thông văn hóa Pháp. Trong những bài thuyết giảng, ông hay hóm hỉnh thuật về triết gia Pháp Descartes hay đọc thơ của thi hào Victor Hugo. Người cũng rất giỏi Thánh Kinh. Thiền Sư xác nhận như sau : “ Khi đọc Thánh Kinh hay khi tiếp xúc với các bạn Ky Tô Giáo, tôi nhận thấy rằng thỉnh thoảng hai đạo này giao thoa rất kỳ diệu với nhau và nhìn cho kỹ thì một số tín hữu Ky Tô lại có nhiều Phật tính hơn một số Phật tử. Bởi vì kh i bạn hành xử với lòng bao dung và từ bi thì bạn đã là Phật tử rồi !”

Những vị anh hùng châu Á

Dịch từ Time Asia Magazine,ấn hành ngày 13 tháng 11 năm 2006, bộ 168, số 20

Trong sáu mươi năm qua, tạp chí TIME đã liên tục đưa lên thời sự những thành đạt lớn lao của châu Á. Trong số đặc biệt kỷ niệm 60 năm này, chúng tôi muốn vinh danh những con người Á châu đã góp phần tạo dựng xã hội chúng ta trong thời đại mới.

time-60-heroes-jpgTrong sáu thập niên huyên náo vừa qua, châu Á, một châu đông dân cư nhất của địa cầu, đã cho ra đời một loạt các vị anh hùng đáng làm cho chúng ta sửng sốt. Trong 60 năm từ ngày tạp chí TIME bắt đầu phát hành ấn bản Á châu, ban biên tập chúng tôi đã có hân hạnh tiếp xúc được với những con người lỗi lạc nhất trong số các vị anh hùng ấy, có lúc trên những nẻo đường vận động, có lúc giữa chiến trường, có lúc trong phòng thí nghiệm khoa học, hoặc trong phòng trọ, lại có lúc trên sân nhà máy hoặc tại phim trường. Đi theo dấu chân của những con người lỗi lạc ấy chúng tôi đã có cơ duyên tường thuật lại câu chuyện quá trình chuyển hóa của châu Á: từ một xóm làng nghèo đói đi đến sự thành lập một trung tâm điện lực, từ hồi phải đi bắt chước người ta cho đến khi người ta phải trở lại bắt chước mình, từ khi bị đô hộ cho đến khi thoát ra để lãnh đạo kinh tế toàn cầu đi vào một kỷ nguyên mới. Từ Gandhi đến Rushdie, từ Bruce Lee, cho đến Li Ka Shing, số báo đặc biệt này được ra đời để tôn vinh những người đàn ông và những người phụ nữ Á châu đã góp phần dựng thành số phận và thời đại chúng ta.

Thích Nhất Hạnh, vị tăng sĩ Phật Giáo đã góp phần
chấm dứt khổ đau của chiến tranh Việt Nam.

Ngày 11 tháng 06 năm 1963, giữa một đường phố Sài Gòn, Thượng tọa Thích Quảng Đức ngồi xuống châm lửa tự thiêu để chống đối chế độ áp bức của miền nam Việt Nam, một chế độ độc tài do Hoa Kỳ yểm trợ. Hình ảnh ông thầy tu ngồi an nhiên trong lửa đỏ đã trở thành những hình ảnh đầu tiên của cuộc chiến dai dẳng, những hình ảnh có tác dụng đánh thức và gây ra niềm đau nhức trong lương tâm thế giới. Trong những năm kế tiếp, hơn 30 vị xuất gia khác đã dâng hiến mạng sống của mình như thế để tiếp tục chống đối cuộc chiến vô nghĩa và thô bạo này.

Những năm tháng khổ đau chất ngất và dai dẳng của cuộc chiến Đông Dương, trong đó giới phật tử đã nỗ lực để làm vơi bớt đau thương, những tháng năm ấy dường như đã lui về một quá khứ xa xăm. Nhưng ông thầy tu Thích Nhất Hạnh, người đã xướng xuất chủ thuyết triết học Engaged Buddhism (Đạo Phật dấn thân), và đã gây niềm cảm hứng cho phong trào Phật Giáo tranh đấu cho hòa bình trong những năm tháng ấy, ông thầy tu này vẫn còn sống với chúng ta. Ở lãnh vực tôn giáo, Thầy là một trong những tư tưởng gia và hành động gia lớn nhất của thời đại chúng ta.

thich-nhat-hanhthis-buddhist-monk-helped-end-theBằng kinh nghiệm bản thân của mình, Thầy đã thấy được tại sao những ý thức hệ và những tư trào thế tục và đại chúng hóa – như chủ nghĩa quốc gia quá khích, chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa thực dân – đã làm tuôn ra bao nhiêu nguồn năng lượng bạo động cho thế kỷ thứ 20, những nguồn năng lượng bạo động chưa từng được tuôn ra quá nhiều như thế trong quá khứ. Thầy đã học được bài học này từ khi còn nhỏ tuổi. Ít có những chiến trường nào lại đẫm máu nhiều như những chiến trường tại Việt Nam, khi hết người Pháp rồi tới người Mỹ đem quân tới để đàn áp phong trào yêu nước và phong trào cộng sản trong suốt ba thập niên dai dẳng. Tuy lớn lên và sống trong không khí thanh tịnh của thiền viện, Thầy Nhất Hạnh cũng không thể nào đứng ra ngoài được cuộc tranh chấp đang xảy ra chung quanh. Thầy thấy được nhu cầu xác định sự quan yếu cấp thiết của lòng từ bi đạo Phật trong một nền văn hóa càng ngày càng bắt buộc phải trở nên bạo động thêm lên. Thầy tin tưởng rằng chỉ có thể chấm dứt được chiến tranh khi ta dập tắt được ngọn lửa của sợ hãi, thù hận, khinh miệt và giận dữ, những chất liệu đích thực đang nuôi dưỡng chiến tranh.

Năm 1965, sau ngày có một vị xuất gia nữa tự thiêu cho hòa bình, Thầy Nhất Hạnh đã viết cho mục sư Martin Luther King Jr, nhà lãnh đạo dân quyền Mỹ rằng: “Những vị xuất gia khi tự thiêu, không nhắm tới cái chết của những người áp bức họ, mà chỉ muốn có một sự thay đổi chính sách của những người ấy thôi. Họ bảo kẻ thù của họ không phải là con người. Kẻ thù của họ là sự thiếu bao dung, là cuồng tín, là độc tài, là tham lam, là hận thù và sự kỳ thị đang nằm sâu trong trái tim con người”. Thầy Nhất Hạnh đã hướng dẫn cho mục sư King và tiếp sau đó chuyển hóa cảm nghĩ của cả dư luận Hoa Kỳ đi về hướng chống đối lại chiến tranh Việt Nam. Trong những năm 1960, Thầy Nhất Hạnh đã trở thành một trong những biểu tượng cho phong trào phản chiến. Những bài viết của Thầy được đăng trong những tạp chí nổi tiếng nhất của Hoa Kỳ như tạp chí The New York Review of Books, và các bài thơ của Thầy đã được hát lên với đàn ghi ta như những bài nhạc phản chiến trong khuôn viên các trường đại học Hoa Kỳ. Ta sẽ không bị mang tiếng là quá đáng khi nói rằng thầy Nhất Hạnh đã có công gây sức ép buộc Hoa Thịnh Đốn phải rút quân ra khỏi Việt Nam.

Thầy Nhất Hạnh năm nay đã 80 tuổi, vẫn còn sống và hành đạo trong một tu viện bên Pháp. Thầy đã đóng góp một vai trò quan trọng trong việc trao truyền một truyền thống tâm linh Á châu cho xã hội Tây phương, một xã hội tân tiến nhưng phần lớn đã hoàn toàn thế tục hóa. Thầy dạy: “Đừng bị kẹt vào một chủ thuyết nào, một lý thuyết nào, một ý thức hệ nào, kể cả những chủ thuyết Phật giáo. Những giáo nghĩa Phật dạy phải được nhận thức như những pháp môn hướng dẫn thực tập để phát khởi tuệ giác và từ bi mà không phải là một chân lý tuyệt đối để thờ phụng và bảo vệ”. Trong khi các nhà lãnh đạo của thời đại ta từ Hoa Kỳ đến Iran đang lớn tiếng đốc thúc quần chúng họ tham dự vào những cuộc chiến tranh ý thức hệ mới, tạo nên những nguy cơ biến thế kỷ này thành một thế kỷ còn đẫm máu hơn cả thế kỷ vừa rồi, chúng tôi thiết nghĩ tất cả chúng ta đều nên hướng về và đi theo tuệ giác của thiền sư Nhất Hạnh.

________
(Ghi chú của người dịch: trong số những vị anh hùng được tạp chí TIME Magazine vinh danh có hai vị người Việt: đó là tướng Võ Nguyên Giáp và thầy Nhất Hạnh)

Ta hạnh phúc liền giây phút này

Ngày 10/9/2014, báo La Stampa, một trong những tờ báo lớn nhất ở Ý, có đăng một bài phỏng vấn Thầy. Claudio Gallo – Biên tập viên phụ trách chuyên mục Văn hóa (Culture Editor) của tờ báo đã tham dự trọn vẹn khóa tu dành cho người Ý được tổ chức tại Làng Mai trong tuần lễ cuối cùng của tháng 8, và anh đã tự mình trải nghiệm được cái gọi là “hiện pháp lạc trú”. Sau đây là bài tường thuật của anh với tựa đề “Happiness is Now” đã được BBT chuyển ngữ  sang tiếng Việt.

 

 


 

TA HẠNH PHÚC LIỀN GIÂY PHÚT NÀY

Cuộc gặp gỡ với Thiền sư Thích Nhất Hạnh – một vị thầy theo truyền thống Phật giáo – cùng với tăng thân của Thầy tại Pháp. Thầy có đệ tử khắp nơi trên thế giới nhưng Thầy không hề yêu cầu họ phải từ bỏ đạo gốc của mình.

 

Có một cái gì thật dịu ngọt mà cũng thật hùng tráng tỏa từ những ruộng nho, những cánh rừng, những đồng cỏ xanh mướt trải dài nối đuôi nhau lướt qua ô cửa sổ của chuyến tàu đi về miền quê nước Pháp, từ Bordeaux đến Bergerac. Đó cũng là sự nhẹ nhàng đầy hùng lực mà ta có thể tìm thấy trong những lời giảng của Thầy Nhất Hạnh. Là một tu sĩ Phật giáo người Việt, Thầy sống với tăng thân của mình tại Làng Mai, một trung tâm tu học tọa lạc trên những ngọn đồi bao quanh ngôi làng Thénac nhỏ bé. Mọi người đều gọi Thầy một cách giản dị là “Thầy” (nghĩa là “một vị thầy tâm linh”).

Thầy đã 88 tuổi, gương mặt trông có vẻ nghiêm khắc nhưng có thể bất ngờ nở một nụ cười trẻ thơ khiến cho ai nhìn thấy cũng phải mỉm cười theo. Năm 1973, Thầy bị chính quyền miền Nam Việt Nam buộc phải lưu vong và Thầy đã chọn Tây phương nơi mà Thầy được Mục sư Martin Luther King và Linh mục Thomas Merton vô cùng trân quý. Ở Mỹ, Thầy cũng đã được biết đến thông qua các chuyến đi vận động hòa bình cho Việt Nam.

Là tác giả của trên 100 cuốn sách, Thầy đã đem đến cho người Tây phương một phương pháp thực tập dựa trên giáo lý căn bản của đạo Bụt, đó là phương pháp thực tập chánh niệm – sự thực tập tỉnh thức và có mặt một trăm phần trăm cho những gì đang xảy ra trong ta và chung quanh ta. Trong Phật giáo, cùng với đức Đạt Lai Lạt Ma, Thầy có lẽ là vị thầy nổi tiếng nhất trên thế giới với rất nhiều trung tâm tu học ở khắp các châu lục và có số người theo tu học lên đến hàng trăm nghìn người. Điều đáng chú ý là Thầy không đòi hỏi các đệ tử Tây phương phải từ bỏ đạo gốc của mình. Rất nhiều người trong số 700 người Ý tham dự khóa tu vào cuối tháng 8 vừa qua tại Làng Mai là những người theo truyền thống Cơ Đốc giáo.

 

Thưa Thầy, đạo Bụt có thể cống hiến được gì cho thế hệ kỹ thuật số hiện nay – thế hệ những người trẻ suốt ngày vùi đầu vào Internet?

Hiện nay, những người trẻ đã bỏ quá nhiều thì giờ vào internet. Đây  là căn bệnh của thời đại chúng ta. Khi ngồi hai tiếng đồng hồ trước máy vi tính, chúng ta  hoàn toàn quên là mình có một hình hài. Internet là một phương tiện có khả năng mang lại rất nhiều lợi ích cho con người, nhưng đồng thời nó cũng tạo ra vô số vấn đề.

Sử dụng internet là một hình thức tiêu thụ. Ta tiêu thụ thông qua những tư tưởng, hình ảnh, âm thanh mà ta tiếp xúc được trên internet và sự tiêu thụ đó có thể lành mạnh hoặc có thể gây tàn hại cho bản thân ta. Thực tế là chỉ riêng lượng thông tin nhận được qua internet thôi cũng đủ khiến cho nhiều người rơi vào tình trạng quá tải thông tin rồi.

Cũng có nhiều người trong chúng ta trở nên nghiện internet. Ta đánh mất mình trong biển thông tin đó và ta không có mặt cho chính mình, không có mặt cho những người thương của mình và không có mặt cho thiên nhiên. Ta có ảo tưởng là thông qua mạng internet chúng ta có thể nối kết được với nhau, nhưng kỳ thực ta lại càng cảm thấy cô đơn.

Chánh niệm giúp cho ta biết điều độ khi lên mạng, đồng thời cũng giúp cho ta thấy được cái mà ta đang tiếp xúc có thật sự ích lợi hay chỉ làm cho ta càng cô đơn và tuyệt vọng thêm. Ta tiêu thụ internet để khỏa lấp sự cô đơn, nhưng thật ra nó chỉ làm cho tình trạng tệ hại hơn mà thôi. Thường thì khi tiêu thụ những tin tức, quảng cáo, những phim ảnh khêu gợi và kích thích dục tình thì ta đồng thời cũng đang đưa vào trong thân tâm ta những độc tố như giận hờn, bạo động, sợ hãi và thèm khát.

 

 

Theo đạo Bụt thì cái ta riêng biệt là một ảo tưởng, vậy trong cái thấy đó có còn sự phân biệt giữa thiện và ác hay không?

Trong thế kỷ thứ 20, chủ nghĩa cá nhân được đưa lên vị trí hàng đầu và điều này đã tạo ra rất nhiều khổ đau. Chúng ta tạo ra sự phân biệt, chia cách giữa ta và người, giữa cha và con, giữa con người và thiên nhiên, giữa quốc gia này và quốc gia khác… Chúng ta không ý thức được mối tương quan mật thiết giữa mình với mọi người và mọi loài xung quanh mình. Đạo Bụt gọi mối liên hệ đó là “tương tức” (“inter-being”).

Cái hiểu, cái thấy sâu sắc về tương tức chính là nền tảng của con đường đạo đức mà đạo Bụt đóng góp cho nhân loại. Những gì xảy ra cho một cá nhân cũng ảnh hưởng tới toàn thể xã hội và cả thế giới. Với cái thấy này, sự thực tập chánh niệm giúp cho ta phân biệt được cái gì thiện, cái gì ác, cái gì đúng, cái gì sai. Có chánh niệm thì ta sẽ nhận ra được những tàn hại đối với các loài gia súc, gia cầm cũng như đối với hành tinh này do ngành công nghiệp sản xuất thịt gây ra. Ý thức được điều đó thì ăn chay là một hành động thương yêu đối với chính mình, đối với sinh môi và đối với trái đất.

Nhiều người trong chúng ta đang chạy theo danh vọng, quyền hành, tiền tài và sắc dục. Chúng ta nghĩ rằng những thứ đó đem lại cho ta hạnh phúc, nhưng thực ra nó có thể dẫn chúng ta đi tới chỗ tàn hoại thân tâm mình.  Những người trẻ thường lẫn lộn giữa tình dục và tình yêu chân thật. Trên thực tế thì tình dục có thể hủy hoại tình yêu và đưa tới sự thèm khát, cô đơn và tuyệt vọng nhiều hơn. Sự thực tập chánh niệm giúp chúng ta mỗi ngày hiểu sâu hơn về người ta thương. Cái hiểu chính là nền tảng của tình thương đích thực. Chúng ta không thể nào có được một tình thương đích thực nếu ta không hiểu được người mình thương.

 

Có thể vượt thoát sự sợ hãi về cái chết hay không?

Gốc rễ của sự sợ hãi nằm ở cái thấy sai lạc của ta về bản chất cái chết. Ta sợ hãi cái chết tại vì ta nghĩ rằng khi chết rồi thì ta sẽ trở thành không. Khoa học hiện đại đã chứng minh cho ta thấy rằng: không có gì sinh cũng không có gì diệt, tất cả đều chuyển biến không ngừng.

Quan sát một đám mây, ta có thể đặt câu hỏi: đám mây có thể chết được không? Đám mây có thể từ mà trở thành không hay không? Nhìn cho sâu ta thấy đám mây chỉ có thể trở thành mưa, thành tuyết, thành mưa đá, rồi thành hơi nước trở lại. Bản chất của chúng ta cũng giống như bản chất của đám mây. Cũng như mưa, tuyết là sự tiếp nối của đám mây thì những hành động, lời nói và tư tưởng mà ta chế tác ra chính là sự tiếp nối của chúng ta.

 

Chúng ta sống trong một thế giới đầy sự xung đột và bất công xã hội. Làm sao ta có thể cải thiện được tình trạng đó với tư cách một Phật tử?

Sự xung đột và bất công trong xã hội phát sinh ra từ tâm chúng ta. Đạo Bụt cống hiến cho chúng ta những phương pháp thực tập cụ thể để nuôi dưỡng tình thương và hạnh phúc đích thực trong ta. Khi tình thương và hạnh phúc có mặt thì ta có thể tạo ra sự bình an trong tự thân và góp phần vào hòa bình trên thế giới. Khi tâm ta bị cuốn đi bởi tham vọng và sợ hãi thì bất công xã hội và bạo động sẽ phát sinh. Sự thực tập chánh niệm giúp cho ta nuôi lớn hạnh phúc và bình an trong giây phút hiện tại. Và đây chính là sự đóng góp tuyệt vời cho nền hòa bình thế giới và cũng đồng thời là nền tảng để chúng ta có thể làm tốt những công tác phụng sự cho xã hội.

 

Thầy dạy cho mọi người về sự thực tập chánh niệm và chánh định, thế nhưng một tình trạng đáng lo ngại của thế giới hiện nay là tình trạng suy giảm khả năng tập trung của con người…

Nhiều người trong chúng ta không biết làm thế nào để thật sự có mặt cho người mình thương và cho những mầu nhiệm đang có sẵn trong giây phút hiện tại. Tâm của ta rất dễ bị phân tán. Trong khi đó, thị trường bên ngoài không ngừng cung cấp cho ta những phương tiện để giữ cho tâm ta luôn ở trong tình trạng này. Thân của ta ở đây mà tâm của ta thì đang chạy theo những dự án ở tương lai, những sầu đau của quá khứ hay những lo lắng, buồn phiền trong hiện tại.

Cách đây không lâu, chúng tôi được mời hướng dẫn thực tập chánh niệm cho hơn 700 nhân viên của Google tại trụ sở chính của tập đoàn này ở California. Điều đầu tiên mà chúng tôi chia sẻ là sự thực tập dừng lại, tại vì trong xã hội hiện nay chúng ta luôn có thói quen rong ruổi, tìm cầu. Khi chúng ta có khả năng dừng lại, chúng ta có thể nhận diện được những gì đang xảy ra trong thân và trong tâm mình. Và đây là cách thức để ta có thể bắt đầu chăm sóc cho chính mình. Chúng ta đã có quá đủ những điều kiện để hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại. Chỉ cần dừng lại và nhận diện những điều kiện hạnh phúc đang có mặt thì ta có thể tiếp xúc được ngay với hạnh phúc đích thực.

Claudio Gallo

Để đọc bản dịch bằng tiếng Anh, xin xem tại đây:
http://plumvillage.org/news/an-italian-journalist-reports-from-plum-village/

Vấn đề mang tính toàn cầu

Một vấn đề mang tính toàn cầu với những câu trả lời từ địa phương
Những gì chúng ta làm với tư cách cá nhân, gia đình, cộng đồng và xã hội đóng vai trò rất quan trọng.

What we do as individuals, families, communities and societies: It Matters A global problem with local answers

Viết bởi Brigid Brett – Thời báo Quận Phía Bắc – ngày 21/9/2006
Sư cô Khiết Nghiêm chuyển ngữ

 

Watching Thich Nhat Hanh drink a cup of tea is a profound experience. He sits with his eyes closed, his hands circling the cup and sips in such a way that you know that there is nothing more important to him in that moment than the fragrant aroma, the warmth of the cup, the delicious flavor of the liquid.

Nhìn Thiền sư Thích Nhất Hạnh uống một tách trà quả là một kinh nghiệm sâu sắc. Thầy ngồi đó, đôi mắt nhắm lại, ha i bàn tay nâng lấy tách trà và nhấp từng ngụm theo cách mà bạn sẽ thấy được ngay là trong phút giây đó, không có gì quan trọng hơn mùi thơm, hơi ấm tỏa ra từ chiếc tách và vị ngon của nước trà.

When I first discovered the teachings of the 80-year-old Buddhist monk about 10 years ago, I never imagined I’d be watching him drink his tea right here in North County. Last Sunday, I joined about 800 people at Deer Park Monastery high in the hills of Escondido for a Day of Mindfulness with the man who has written many books on mindful living and whom Martin Luther King nominated for the Nobel Peace Prize in 1967.

Lần đầu tiên phát hiện ra những bài pháp thoại của vị Hòa thượng 80 tuổi này cách đây khoảng 10 năm, tôi không bao giờ tưởng tượng được rằng ngay tại đây, tại Quận Phía Bắc, tôi lại được ngồi ngắm nhìn Thầy đang uống trà. Chủ Nhật tuần trước, tại tu viện Lộc Uyển nằm cao trên những ngọn núi của vùng Escondido, tôi đã cùng khoảng 800 người tham dự một Ngày Chánh niệm cùng với người Thầy, tác giả của biết bao nhiêu cuốn sách về nếp sống chánh niệm và cũng là người đã được luật sư Martin Luther King đề cử cho giải Nobel Hòa Bình năm 1967.

Like many deeply spiritual people, Nhat Hanh believes that words are not enough —- that one must take positive action when faced with social injustice and environmental crises. On Sunday, with an unusually somber expression on his face and sense of urgency in his gentle Vietnamese accent, he spoke at length about global warming. He spoke about how each one of us needs to wake up and make some drastic lifestyle changes if we want our children to enjoy the earth the way we are able to now. And he told us about some of the new practices and programs that the Deer Park community in Escondido has underway.

Cũng như nhiều người có nếp sống tâm linh sâu sắc, Thầy Nhất Hạnh tin tưởng rằng ngôn từ không thể nào diễn tả đủ, rằng một người phải hành động một cách tích cực khi đối mặt với tình trạng bất công xã hội và khủng hoảng về môi trường. Vào Chủ Nhật đó, với vẻ mặt khác thường và cảm giác cấp bách trong âm điệu Việt Nam nhẹ nhàng, Thầy đã nói khá lâu về tình trạng hiệu ứng nhà kính. Thầy đã nói về phương pháp làm thế nào để mỗi người trong chúng ta cần tỉnh thức và thay đổi nếp sống một cách quyết liệt nếu chúng ta muốn con cháu chúng ta sau này cũng được tận hưởng trái đất theo cách chúng ta đang tận hưởng bây giờ. Thầy cũng kể cho chúng tô i biết một vài điểm mới trong sự thực tập cũng như một vài chương trình mới mà đại chúng tu viện Lộc Uyển tại Escodido đang tiến hành.

1. Tuesday is a No Car Day – nobody drives on Tuesdays.
2. They have a goal to reduce car use by 50 percent. They will shop for the community only once a week.
3. They are moving toward using biodiesel and hybrid cars.
4. They are purchasing solar panels to provide for all energy needs.
5. They are digging wells to access water.

I had the feeling that all 800 of us were experiencing a similar sense of hopelessness and hope as we listened to his words. I imagined we were all asking ourselves the same question: What can I do to make things better and not worse?

  1. Ngày Thứ Ba sẽ là Ngày không sử dụng xe hơi – Không ai sử dụng xe hơi trong ngày Thứ Ba.
  2. Tu viện đặt ra mục tiêu là giảm việc sử dụng xe hơi xuống còn 50%. Chỉ thực hiện việc mua sắm cho nhu cầu của đại chúng một lần trong tuần.
  3. Tu viện đang đi theo hướng sử dụng dầu diesel sạch và xe hơi hybrid (nửa điện nửa xăng) hay xe hơi chạy dầu hữu cơ.
  4. Tu viện sẽ trang bị các tấm thu năng lượng mặt trời để cung cấp cho toàn bộ nhu cầu về năng lượng của tu viện.
  5. Tu viện sẽ đào giếng để lấy nước.


    Tôi có cảm giác rằng tất cả 800 người chúng tôi đang được trải qua kinh nghiệm của cảm giác tuyệt vọng và hy vọng khi nghe những lời của Thầy. Tôi tưởng tượng ra chúng tôi đang tự hỏ i bản thân cùng một câu hỏi: chúng ta có thể làm được gì để cho cuộc sống không tồi tệ đi và trở nên tốt đẹp hơn?

    When I got home from the monastery, I made myself a cup of tea and took it outside to drink. The sun was starting to set and I watched a pair of hawks flying as if they were really enjoying themselves. Some brazen rabbits came to nibble the grass near where I sat. My husband dropped a handful of just-picked figs into my lap . Inside the house I heard my teenage kids laughing and I thought about how it would feel to one day hold a grandchild in my lap and show her the hawks and rabbits and give her a taste of warm, ripe fig.

    Từ tu viện trở về nhà, tôi đã pha cho mình một tách trà và mang ra ngoài trời uống. Mặt trờ i bắt đầu lặn và tôi thấy một cặp diều hâu đang bay như thể chúng đang thực sự tận hưởng chính bản thân. Một vài chú thỏ chạy tới gặm cỏ gần nơi tôi ngồi. Chồng tôi thả vào tay tôi một vốc sung mới hái. Tôi nghe từ trong nhà vọng ra tiếng cười đùa của mấy đứa con đã đến tuổi thành niên của tôi, và tôi nghĩ đến chuyện một ngày nào đó tôi sẽ ôm đứa cháu nội trong trong vòng tay mình và chỉ cho bé những con chim diều hâu và đàn thỏ và đưa cho bé nếm vị quả sung mới chín và còn ấm.

    So here are some things I am going to do to make North County a little greener. I’m going to have a No Car Day once a week. I’m going to cut down as much as possible on the driving I do. And I’m going to save up to buy a hybrid car. It’s the least I can do for my children – and yours.

    Và đây là vài điều mà tôi sẽ làm để góp phần làm cho quận Phía Bắc xanh hơn. Tôi sẽ thực hiện một ngày không sử dụng xe hơi hằng tuần. Tôi sẽ cố gắng để giảm việc đi lại bằng xe hơi càng nhiều càng tốt. Và tôi sẽ tiết kiệm để mua một chiếc xe chạy bằng dầu hữu cơ. Đó là những gì tối thiểu nhất tôi có thể làm cho các con của tôi – và cũng là cho các bạn.

    For more information on Deer Park Monastery and its programs, visit www.deerparkmonastery.org or call (760) 291-1003.

    Để biết thêm thông tin về tu viện Lộc Uyển và các chương trình của tu viện, xin mời các bạn thăm trang nhà tại địa chỉ www.deerparkmonastery.org hoặc điện thoại số (760) 291-1003.

    Ông hoàng tử Hạnh Phúc

    Sau một tuần tham dự khóa tu do Thiền sư Thích Nhất Hạnh và tăng thân Làng Mai tổ chức tại Brock University, Toronto (11-16/8/2013), Alice Klein – chủ bút của tuần báo Now Magazine, một trong những tờ báo lớn nhất Canada – đã chia sẻ những cảm nhận và khám phá thú vị của mình về nghệ thuật chuyển hóa khổ đau, về tình thương và hạnh phúc chân thực qua bài viết “The Prince of Happiness” (Ông hoàng tử Hạnh Phúc). Dưới đây là phần chuyển ngữ từ nguyên bản tiếng Anh.



    thở với tiếng chuông

    Tình thương và hạnh phúc chân thực? Phải chăng những điều này chỉ có trong chuyện cổ tích mà thôi? Không, hoàn toàn không phải vậy – đó là lời của thiền sư Thích Nhất Hạnh, một vị thầy 87 tuổi và cũng đồng thời là một nhà hoạt động xã hội can trường, người đang ngồi thật an nhiên trong tư thế kiết già trên bục giảng kia.

    Tôi đang sắp sửa nhận được từ Thầy những lời khuyên giản dị và thiết thực làm thế nào để có được tình thương và hạnh phúc chân thực. Nhưng ngay lúc này đây, tôi thực sự không hạnh phúc chút nào. Tôi hết sức mệt mỏi và phải thú thật là đầu óc tôi lúc này chỉ toàn nghĩ đến chuyện trục trặc vừa mới xảy ra trong gia đình tôi. Tất nhiên là chuyện này xảy ra trước khi khóa tu tại đại học Brock bắt đầu.

    Khi hào hứng quyết định tham gia khóa tu sáu ngày để học hỏi từ vị thầy được coi là một trong số ít những nhân vật huyền thoại còn sống về phong trào bất bạo động trên thế giới, tôi không hề tính đến chuyện phải thức dậy từ lúc 5 giờ rưỡi sáng và ăn toàn thức ăn chay được phục vụ trong căn-tin của trường đại học. Tôi cũng không hình dung rằng mình sẽ ngồi hàng giờ liền trong im lặng với 1300 người. Cả một gian phòng lớn – nguyên là phòng thể dục của trường đại học đều chật kín người, thật là ấn tượng. Trong khóa tu, mọi người đều thực tập im lặng hùng tráng từ tối hôm trước cho đến sau giờ ăn trưa của ngày hôm sau, cũng như trong suốt các bữa ăn.

    Thực lòng khi đến khóa tu, tôi chỉ tò mò muốn được trực tiếp cảm nhận sự có mặt sống động của vị thầy nổi tiếng thứ hai thế giới trong lĩnh vực Phật giáo. Nhưng không hiểu vì nhân duyên gì, hay là vì thấu hiểu được tâm lý rất “con người” của tôi nên hôm đó Thầy đã dạy cho tôi làm thế nào để có thể có mặt thực sự trong giây phút hiện tại, bây giờ và ở đây, chỉ khi đó tôi mới có thể thực sự cảm nhận được sự có mặt của người khác.

    Cũng như Đức Đạt Lai Lạt Ma, lập trường tranh đấu bất bạo động cho hòa bình và hòa giải dân tộc của Thầy Nhất Hạnh được hun đúc và rèn giũa trong lò lửa chiến tranh với bạo động chính trị, đàn áp và biết bao đau thương không thể nói thành lời. Trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam, Thầy là người sáng lập phong trào “đạo Bụt dấn thân” (“Engaged Buddhism”), tạo cảm hứng cho hàng ngàn xuất sĩ trong cả nước đi về các vùng nông thôn để giúp xây dựng lại những làng quê bị chiến tranh tàn phá và giúp những người dân đang sống trong cảnh nghèo đói. Tất cả những người đi theo phong trào này đều cam kết kêu gọi hòa bình bằng phương pháp bất bạo động. Và sứ mệnh của Thầy là đi ra nước ngoài để kêu gọi hòa bình cho Việt Nam và từ đó phong trào tranh đấu bất bạo động cho hòa bình và hòa giải dân tộc đã lan rộng ra các quốc gia và vẫn còn đang được tiếp tục cho đến ngày hôm nay.

    Năm 1966, sau hai thập niên dấn thân cho phong trào hoạt động xã hội, mở ra một hướng đi mới cho thế hệ trẻ lúc bấy giờ đang bị bế tắc và gặp nhiều thách thức, Thầy Nhất Hạnh đã bị chính quyền Việt Nam ngăn cấm không được trở về quê hương. Mặc dù vậy, Thầy vẫn không ngừng nỗ lực vận động người dân Mỹ cũng như người dân khắp nơi trên thế giới ủng hộ việc chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam. Vì những nỗ lực đó, Thầy đã được Mục sư Martin Luther King đề cử giải Nobel Hòa bình. Mục sư Luther King đã hoàn toàn cam kết đấu tranh cho hòa bình và chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam sau cuộc nói chuyện với Thầy Nhất Hạnh – vị Hoàng tử Hạnh Phúc đang ngồi an nhiên trước mặt tôi đây.

    Thầy không hề để lộ tuổi tác qua dáng vẻ của mình. Trong chiếc áo tràng nâu, Thầy hơi có vẻ giống nhân vật Spock trong bộ phim nổi tiếng Star Trek, với cặp lông mày rậm và đôi mắt sâu thẳm luôn có tia sáng lấp lánh. Thầy đang chuẩn bị giảng về cái mà Thầy gọi là nghệ thuật khổ đau. Và dĩ nhiên là tôi sẽ phải bận rộn với trái tim đang tan vỡ của mình.

    Có lẽ bất kỳ ai dù chỉ mới đọc một xíu thôi trong hơn 80 đầu sách của Thầy – chưa kể đến các CD, video và những thứ khác – cũng biết rằng những gì Thầy Nhất Hạnh dạy đều bắt đầu bằng một cách rất đơn giản, đó là theo dõi hơi thở vào. Thầy nói rằng chỉ cần một hơi thở vào là ta có thể trở về và tiếp xúc với một sự thật mầu nhiệm là ta đang còn sống trong giây phút hiện tại và đây là giây phút hạnh phúc.

    Tôi thử làm theo lời Thầy dạy, và quả nhiên hơi thở vào giúp tôi kết nối với thân thể của mình ngay lập tức. Wow! Tôi thật sự cảm nhận được điều này! Tôi thở vào và lần này tôi theo sát hơi thở xuống dưới bụng (trong khi thở vào tôi nhủ thầm “Con đã về”), rồi tôi theo dõi hơi thở ra từ đầu cho đến cuối, trọn vẹn và thoải mái (đồng thời nhủ thầm câu “Con đã tới”). Thầy gọi đó là hơi thở có ý thức, hay hơi thở chánh niệm.

    Mặc dù trái tim khổ đau của tôi vẫn bắt buộc tôi phải dành gần như toàn bộ tâm ý cho nó, nhưng phải thừa nhận rằng phương pháp làm cho thân tâm hợp nhất này thật là thâm sâu và có hiệu quả ngay tức thì.

    Trong khi theo dõi hơi thở từ đầu cho đến cuối, tôi đã đi ra khỏi những ồn ào huyên náo trong đầu và bước sang một trạng thái tỉnh thức khác lạ. Bây giờ tôi mới hiểu thế nào là giây phút hiện tại. Tôi không thể nào tin được rằng sau hàng chục năm nghiên cứu và tìm tòi, tôi lại khám phá ra được một cách kết nối thân tâm nhanh chóng và giản dị đến thế.

    “Nghệ thuật khổ đau” cũng đòi hỏi ta phải chế tác năng lượng chánh niệm bằng hơi thở ý thức. “Ai trong chúng ta cũng có ít nhiều khổ đau”, Thầy nói một cách nhẹ nhàng. “Và với năng lượng chánh niệm, ta có thể trở về với chính mình và ta có thể nhận diện được khổ đau đang có mặt trong mình”. Đúng vậy, tôi đã làm được bước đầu tiên rồi!

    “Nhiều người trong chúng ta thường sợ phải đối diện và bị nhấn chìm trong khổ đau của chính mình, vì vậy mà ta thường có xu hướng trốn chạy hoặc khỏa lấp nỗi cô đơn, buồn giận, sợ hãi hay tuyệt vọng trong lòng mình. Chúng ta làm mọi cách để bận rộn, để không phải trở về với chính mình và tiếp xúc với niềm đau, nỗi khổ trong lòng mình. Nhưng với năng lượng chánh niệm, chúng ta sẽ có đủ sức mạnh để trở về nhà, trở về với chính mình. Ta có thể ôm ấp niềm đau của mình với tất cả sự dịu dàng như một người mẹ đang ôm đứa con của mình trong lòng.”

    Được rồi, vậy thì tôi sẽ cố gắng thở và nhẹ nhàng ôm ấp niềm đau trong tôi như ôm một em bé.

    “Chúng ta mang theo cả những khổ đau của cha, của mẹ, của ông bà tổ tiên trong ta” Thầy giải thích thêm.

    Trong giây phút này, tôi thực sự cảm nhận được sự có mặt rất rõ ràng của tổ tiên ở trong tôi và tôi muốn dừng lại cái vòng luẩn quẩn mà tôi đang mắc kẹt vào.

    Tôi càng có động lực hơn khi nghe Thầy dạy: “Khi ôm ấp khổ đau trong lòng mình, chúng ta sẽ đi đến một cái thấy về bản chất và gốc rễ của khổ đau đó. Và khi đã hiểu được gốc rễ của khổ đau rồi thì tình thương và lòng từ bi trong ta sẽ phát khởi một cách rất tự nhiên. Từ bi là một loại năng lượng có khả năng chữa trị cho chúng ta và cho cả thế giới này.”

    Tôi đã thực sự thực tập đúng theo lời Thầy dạy và phải mất khoảng 24 giờ. Tôi không hề nhận ra rằng cảm giác đau khổ trong lòng tôi đã tan biến, tôi chỉ thấy mình bỗng nhiên nhẹ nhàng hơn trước rất nhiều.

    Tuy nhiên, chìa khóa của thành công nằm ở chỗ: nếu anh chưa thực tập được đến mức không còn muốn trừng phạt bất kỳ ai – những người đã làm anh khổ đau – thì anh vẫn chưa thực sự thành công. Nếu anh chỉ thực tập nửa vời thì không bao giờ có thể thành công được.

    Phương pháp bất bạo động của Thầy Nhất Hạnh có vẻ quá khác lạ so với cách tư duy thông thường, vì vậy mà nó làm cho ta khó chấp nhận. Nhưng bù lại ta sẽ nhận được những phần thưởng thật xứng đáng, đó là tự do, hạnh phúc, tình thương chân thực và Niết bàn. Tất cả những điều này đều chờ đợi ta ở địa chỉ: bây giờ và ở đây, đó là lời của Thầy Nhất Hạnh. Thầy nói rằng: “Không có con đường đi đến Niết bàn, Niết bàn chính là con đường”.

    Chỉ đến khi kết thúc khóa tu tôi mới hiểu ra vì sao sự có mặt của Thầy có thể gây xúc động và ảnh hưởng lớn với tôi như vậy. Đó là vì Thầy luôn an trú trong giây phút hiện tại, Thầy luôn ở trong Niết bàn.

    Alice Klein



    Phần chuyển ngữ từ nguyên bản tiếng Anh
    The Prince of Happiness


    Đối thoại với thiền sư Thích Nhất Hạnh về hạnh phúc – 2008

    Buổi trực tuyến giữa nhà báo Nguyễn Anh Tuấn (tổng biên tập VietNamNet) với thiền sư Thích Nhất Hạnh trong chiều 4.5.2008 diễn ra với nhiều nội dung thú vị. Nhưng điều đọng lại lớn lao nhất, ấn tượng nhất trong người nghe là sự lý giải, gợi mở của thiền sư về hai chữ HẠNH PHÚC của con người.

    Hình ảnh trong Bàn tròn trực tuyến giữa VietNamNet và Thiền sư Thích Nhất Hạnh

     

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Chúng tôi mang đến đây tặng quý vị hai bức thư pháp. Bức "Từng bước nở hoa sen" là phương pháp thực tập để mỗi bước chân mình đi thảnh thơi, an lạc, tiếp xúc với những mầu nhiệm trên hành tinh này, đem lại cho mình hạnh phúc. Bức thứ hai là phương pháp lắng nghe để có thể hiểu được những khó khăn, khổ đau, bức xúc của người đối diện, và có thời giờ nhìn lại để chấp nhận và thương yêu: "Lắng nghe để hiểu, nhìn lại để thương". Phương pháp này có thể giúp mình tái lập lại truyền thông, hòa giải giữa hai người với nhau, đem lại hạnh phúc không chỉ cho riêng mình.

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh và TBT VietNamNet Nguyễn Anh Tuấn

     

    "Chúng tôi đã bỏ ra 30 năm để chia sẻ sự thực tập đạo Phật với người Tây Phương"

    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Cảm ơn Thiền sư Thích Nhất Hạnh và tăng đoàn đã có những món quà rất ý nghĩa tặng VietNamNet. Có lẽ chúng tôi không cần giới thiệu gì thêm về vị khách mời đặc biệt hôm nay, bởi tên tuổi cũng như uy tín của thiền sư đã lan tỏa sâu rộng cả trong và ngoài nước. Câu hỏi đầu tiên: Xin thiền sư chia sẻ về thành tựu chung hiện nay của đạo Phật trên toàn thế giới?

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Chúng tôi đã để ra trên 30 năm để chia sẻ sự thực tập đạo Phật với người Tây phương. Hiện giờ đạo Phật ở phương Tây phát triển rất mạnh và nhanh, được giới trẻ, giới trí thức hâm mộ nhiều. Chúng tôi đã mở những khóa tu tập riêng cho giới doanh nhận, giới bảo hộ môi trường, giáo chức, cựu chiến binh, văn nghệ sĩ… Có khóa tu cho giới diễn viên Holllywood, dân biểu quốc hội Hoa Kỳ, những người lo an ninh (cảnh sát, người giữ tù…), luật sư… Đây đúng là đạo Phật đi vào cuộc đời, mình không cần phải quy y nhưng có thể thừa hưởng kho tàng tuệ giác của đạo Phật để tháo gỡ khó khăn trong đời sống nội tâm, tái lập lại truyền thông với những người khác, trong đó có gia đình, đồng nghiệp, đem lại hạnh phúc trong đời sống hàng ngày.

    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Thiền sư có thể lý giải vì sao Phật giáo lại được chấp nhận và ngày càng phát triển ở những vùng đất, những bối cảnh xã hội như châu Âu, nước Mỹ, nơi các tôn giáo khác như công giáo, tin lành… đã bám rễ rất sâu rộng?

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Chúng tôi nghĩ một phần vì những cố gắng hiện đại hóa Cơ đốc giáo, Do Thái giáo chưa thành công lắm, trong khi chúng tôi thành công trong sự hiện đại hóa đạo Phật. Ở phương Tây đạo Phật được trình bày với ngôn ngữ mới, đưa ra những pháp môn tu tập rất thực tế để giúp mỗi cá nhân tháo gỡ những khó khăn ngay khi tu tập. Có những người đã từng là Linh mục, mục sư thương đạo Chúa rất nhiều, nhưng họ nói đạo Phật giúp họ tìm ra biện pháp cụ thể để tháo gỡ khó khăn.

    Ví dụ như mục sư Cyber Lee ở Houston, Texas, nhờ đọc sách của mình (chúng tôi), áp dụng sự thực tập học ở trong sách mà chữa lành bệnh ung thư, nên sau đó đã xin thụ trì 5 giới, quy y tam bảo mà không thấy có sự mâu thuẫn gì giữa đức tin cơ đốc giáo của bản thân với tuệ giác đạo Phật. Sau đó vị mục sư này đến làng Mai tu học 3 tháng mùa đông, tiếp tục tu học cho đến khi thành một vị giáo thọ của làng Mai, tức người có khả năng mở những khóa tu theo giáo lý đạo Phật. Vị mục sư này đã viết thư cho bề trên, đề xuất nguyện vọng muốn được vừa làm mục sư, vừa làm giáo thọ đạo Phật, trong trường hợp bề trên không cho thì sẽ chỉ làm giáo thọ đạo Phật. Chúng tôi được tin là bề trên đã đồng ý cho ông vừa làm mục sư, vừa làm giáo thọ. Sáng chủ nhật thì ông giảng bài cho con chiên, buổi chiều thì hướng dẫn thiền tập cho mọi người, trong đó có cả những người trong nhà thờ.

    Chúng tôi không nghĩ phải từ bỏ đạo Thiên chúa hay Do thái mới theo được đạo Phật, vì đạo Phật không phải chỉ là tôn giáo tín ngưỡng, mà còn là nguồn tuệ giáo sâu sắc, mà bất cứ ai cũng có thể thừa hưởng để tháo gỡ những khó khăn trong đời sống nội tâm, giúp cho đời sống an lạc, hạnh phúc.

    "Mong Giáo hội Công giáo và Phật giáo ra văn bản có hậu về hôn nhân dị giáo"

    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Chính nhờ những bước phát triển, cập nhật cái mới mà đạo Phật đã có sức sống ở những vùng đất như Âu-Mỹ. Ngược lại, đạo Phật có học hỏi những điều hay của các tôn giáo khác để làm giàu thêm cho mình không?

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Trong đạo tràng của chúng tôi, các thầy – sư cô – phật tử – cư sĩ đều có bổn phận phải học những truyền thống khác. Chúng tôi đã viết những cuốn sách đối thoại Phật giáo với những tôn giáo khác, như cuốn "Living Buddha, Living Christ" ("Bụt ngàn đời, Chúa ngàn đời"), "Về đi thôi, Bụt và Chúa là hai anh em" (Coming home, Buddha and Christ are brothers). Những cuốn sách đó cũng như những khóa tu chúng tôi mở ra cho những người Phật tử và Cơ đốc giáo đến tu tập chung là những phương tiện đối thoại rất hay, khiến cho nhiều người Cơ đốc giáo và Do Thái giáo có cơ hội tìm hiểu đạo Phật, đồng thời giúp những người đạo Phật có cơ hội hiểu thêm về giáo lý Cơ đốc giáo, Do thái giáo, nên sự hiểu biết chung ngày càng tăng, tình thân hữu nhờ đó mà phát triển.

    Chúng tôi cũng đề cập đến Hôn nhân dị giáo. Bởi đã có biết bao thanh niên thiếu nữ đau khổ vì không được lấy nhau, do hai bên cha mẹ đều muốn giữ đạo của mình. Chúng tôi có đề nghị biện pháp như cho phép hai người cưới nhau, người nào giữ tôn giáo người đó, đồng thời có cơ hội học thêm truyền thống của người bạn hôn phối của mình. Chủ nhật 2 người cùng đi nhà thờ, rằm và mùng 1 hai người cùng đi chùa. Thay vì có 1 gốc rễ thì hai người có hai gốc rễ tâm linh, vì học 2 truyền thống thì khám phá được rõ hơn châu báu của mỗi truyền thống, chỉ làm giàu thêm thôi. Hôm chúng tôi đến thăm nhà thờ Phát Diệm, gặp một số vị linh mục, chúng tôi có bàn về chuyện này, các vị linh mục tỏ vẻ đồng ý. Hy vọng các giáo hội Công giáo và Phật giáo sẽ ra một văn bản để tuổi trẻ khỏi phải đau khổ như suốt mấy trăm năm qua khi có tình yêu với người khác truyền thống.

    Hiện đại hoá đạo Phật?

    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Phật giáo VN đã có truyền thống lâu đời. Vậy thiền sư có nhận xét thế nào về Phật giáo hôm nay tại Việt Nam?

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Phật giáo VN có nhiều tiềm lực, như mỏ dầu hỏa rất lớn. Vấn đề là có biết khai thác để làm hạnh phúc cho dân, cho nước hay không? Cái học của chúng ta trong các trường Phật học lý thuyết hơi nhiều, sự thực tập mới chỉ tập trung vào sự tín mộ, cầu nguyện, chứ chưa đi sâu vào quán chiếu và chuyển hóa. Chúng tôi mong phương pháp học Phật và thực tập đạo Phật phải được hiện đại hóa mau chóng, để Phật giáo đi kịp những trào lưu khác trong xã hội.

    Chúng tôi ở Tây phương có hoàn cảnh thuận tiện nên hiện đại hóa đạo Phật rất dễ dàng, đào tạo những thế hệ tu sĩ, tăng sinh, thầy và sư cô mới, cư sĩ mới. Chúng tôi không tốn quá nhiều thời giờ mà vẫn đào tạo được những giáo thọ có khả năng mở những khóa thực tập (retreat) trong đó người ta tới học những cái chúng tôi vừa trình bày, học làm thế nào đem lại cái an, cái lạc cho thân tâm, thiết lập truyền thông với người khác, xóa bỏ hận thù bạo động, đem lại hạnh phúc. Sự thành công là nhờ ở chỗ chúng tôi dám làm mới đạo Phật, đem lại một đạo Phật thích hợp với tuổi trẻ, với người trí thức bây giờ. Việt Nam hiện giờ có nhiều điều kiện để làm mới, hiện đại hóa đạo Phật.

    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Thiền sư có thể làm rõ, ta cần hiện đại hóa, cập nhật điểm nào của đạo Phật?

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Chúng tôi đã nói, cái học của chúng ta phải thay đổi, phải học những biện pháp cụ thể để chuyển hóa thân tâm chứ không học như lý thuyết suông. Sinh viên y khoa ngoài giờ học trong lớp thì phải vào bệnh viện xem các giáo sư chẩn mạch, cho thuốc. Các thầy, sư cô trong các phật học viện cũng vậy, phải có khả năng tổ chức giúp đỡ, tham vấn, soi sáng cho những người tới với mình. Họ có những khó khăn, bức xúc, khổ đau, tai nạn, thì mình phải dùng trí tuệ đạo Phật để giúp họ tháo gỡ.

    Đức Thế tôn từ 2600 năm trước đã cho người phụ nữ vào trong giáo đoàn của ngài. Ấy vậy mà trong truyền thống của mình vẫn trọng nam khinh nữ. Tuần trước chúng tôi có đưa ra đề nghị BÁT KỈNH PHÁP của các thầy với các sư cô. Chúng tôi biết có nhiều vị sẽ mừng lắm, nhất là những người ở Tây phương. Nhưng cũng sẽ có những người bảo thủ, và chúng tôi sẽ phải gánh chịu búa rìu dư luận. Nhưng chúng tôi vẫn can đảm đưa ra để cho có được sự bình đẳng thực sự giữa nam và nữ trong giáo đoàn Đức Phật.

    Chúng tôi cũng nghĩ Đạo Phật cần đi vào đời sống của tuổi trẻ. Chúng tôi mong tổ chức Gia đình phật tử ở Việt Nam được phục hồi, sẽ có những đoàn thanh niên Phật tử, những đoàn Phật tử hoạt động trong xã hội lành mạnh và từ bi hơn. Chúng tôi nghĩ rằng, làm cha mẹ phải học Phật để tháo gỡ khó khăn, chăm sóc nhau, giúp cho con mình học đạo Phật từ mình. Thầy cô giáo phải buông thả căng thẳng trong con người của mình, đối phó với những bức xúc trong tâm như sợ hãi lo lắng. Khi bố mẹ, thầy cô làm được thì sẽ giúp con cái và học trò. Vì thế, đạo Phật phải đi vào trong gia đình, trong học đường, trong xã hội.

    Ví dụ ông là một doanh nhân, ông biết nếu đem Đạo Phật vào trong doanh nghiệp thì sẽ tạo ra sự hiểu biết, chấp nhận, thương yêu, và nếu biết cách thì những công nhân trong doanh nghiệp biết phương pháp buông thư, có thời giờ để tìm hiểu khổ đau, khó khăn của nhau, thì sự hiểu nhau, chấp nhận nhau, thương yêu nhau sẽ làm công việc phát triển và thành công hơn.

    Nếu ông là nhà chính trị mà biết Phật-Pháp thì có thể đem phương pháp thực tập vào đảng của ông, thiết lập được sự đồng cảm, thương yêu, tin cậy giữa những người cộng sự thì sự nghiệp chính trị sẽ thành công. Mỗi chúng ta phải có chiều hướng tâm linh (spiritual dimension), nếu không thì không tháo gỡ được những khó khăn, bức xúc trong đời sống của mình, mà như thế thì rất khó thành công. Đạo Phật vì thế cần phải cung cấp cho mỗi người trong xã hội cái bình diện, chiều hướng tâm linh. Đó là điều mà giáo hội Phật giáo cần lưu tâm, đó là cái đẹp nhất, quý nhất mà đạo Phật có thể cống hiến cho xã hội, cho dân tộc.

    Tâm an và nhiệt huyết sống! Có mâu thuẫn không?

    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Thưa thiền sư, vậy có mâu thuẫn không khi ta đề cao tâm an, nhẹ nhàng, thanh tịnh, nhưng thực tế cuộc sống lại rất sôi động, cạnh tranh, mỗi con người phải vươn lên. Cũng có khi người ta coi stress, căng thẳng như là một thách thức thú vị của cuộc sống (như việc chơi game chẳng hạn). Đạo Phật có mâu thuẫn khi gạt đi những sôi động, những thách thức khiến con người phát triển và có nhiệt huyết sống không?

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Một nhà chính trị thì luôn muốn mình đem lại thành công cho đất nước. Một doanh thương cũng muốn thành công cho cả doanh nghiệp chứ không phải chỉ cho mình. Nếu hình hài không có an thì không thành công được. Thực tập đem lại sự yên ổn trong thân, trong tâm sẽ giúp họ thành công, dù là nhà chính trị hay doanh nhân, không có gì chống đối hết. Khi sử dụng ái ngữ và lắng nghe thì họ thành công hơn trong lĩnh vực chính trị, kinh doanh của họ. Những niềm vui của họ có thể rất lớn khi họ thực hiện những điều họ mơ ước. Sự thành công của mình không hẳn trả giá bằng sự thất bại của người khác. Tại sao người kia phải thất bại thì mình mới thành công? Đó là câu hỏi quan trọng? Làm thế nào để tôi thành công và anh cũng thành công, thì hạnh phúc của ta sẽ lớn hơn, vì không ai đau khổ vì sự thành công của chúng ta hết. Hạnh phúc của chúng ta đâu phải chỉ là quyền lực, danh vọng, tiền bạc. Hạnh phúc là khi chúng ta có tình thương và sự hiểu biết.

    Trong mỗi chúng ta có hai nhu cầu sâu sắc, đó là nhu cầu hiểu biết và thương yêu. Những nhà khoa học vì nhu cầu hiểu biết mà thức đến 3, 4h khuya để nghiên cứu thí nghiệm. Những nhà đạo học không dùng phương tiện đo lường mà dùng thiền quán để tìm hiểu. Con đường tâm linh cũng khám phá, làm thỏa mãn nhu yếu hiểu biết của con người.

    Nhu yếu thứ hai sâu sắc của con người là thương yêu và được thương yêu. Sở dĩ ngày xưa SIDDHARTHA bỏ nhà đi tu là tại thấy rằng tình thương dành cho một người không đủ, không làm thỏa mãn ý chí của người con trai đó, nên ra đi tìm tình thương có thể ôm lấy mọi người, mọi loài, tình thương không biên giới. Ta có khao khát rất lớn là được thương yêu, thương yêu có thể phát triển tới vô biên, ôm lấy vũ trụ. Khi ta có hiểu biết lớn, thương yêu lớn thì hạnh phúc lớn. Vì vậy nhà doanh thương, nhà chính trị mà trong khi hoạt động mở rộng được tình thương, hiểu biết của mình, càng hiểu thì càng thương, hiểu sâu thì thương nhiều, thì hạnh phúc rất lớn, không có gì mâu thuẫn.

     

    Sử dụng tuệ giác đạo Phật để chuyển hóa thân tâm, tháo gỡ khó khăn?

    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Con người tìm đến với tôn giáo là tìm đến với thế giới tinh thần, với sự an ủi, như đạo Phật giúp giải thoát khỏi những đau khổ nội tâm trong cuộc sống. Nhưng thưa thiền sư, lý thuyết giáo lý cao đẹp ấy đã đi vào thực tế cuộc sống được nhiều chưa?

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Với đạo Phật, phần lớn chúng ta mới thực tập tín mộ, tín ngưỡng, chứ ít người sử dụng được tuệ giác đạo Phật để chuyển hóa thân tâm, tháo gỡ những khó khăn. Cầu nguyện cũng phần nào đem lại sự an lạc, vì giúp lắng dịu những khổ đau, lo lắng. Nhưng muốn giải quyết tận gốc vấn đề thì phải có tuệ giác, mà tuệ giác phải do tu tập mới có được. Hiện ở Tây phương chúng tôi đang xướng xuất phong trào Phật học ứng dụng.

    Hạnh phúc là an lạc, không có an thì không có lạc, an trong thân và trong tâm. Nếu con người chứa chất quá nhiều sự căng thẳng, stress, thân không an thì tâm làm sao an được? Trong khi đó tâm có những cảm giác, cảm xúc như giận hờn, tuyệt vọng, bạo động, nếu không có phương pháp cụ thể thì làm sao nhận diện và chuyển hóa được những bất an của tâm? Trong kinh Niệm Xứ hay kinh Quán Niệm Hơi Thở, Đức Thế Tôn đã dạy những phương pháp cụ thể để làm lắng dịu những căng thẳng trong thân, trong tâm, rồi nhìn sâu để xem gốc rễ của những khổ đau phiền não đó do đâu, từ đó mới bắt đầu chuyển hóa được những tâm hành. Đó là phương pháp khoa học.

    Sở dĩ người Tây phương theo chúng tôi học hỏi, thực tập nhiều, vì chúng tôi không hiến tặng cho họ đạo Phật của đức tin mà hiến tặng cho họ đạo Phật của sự thực tập kinh nghiệm. Những khóa tu tổ chức ở New York, Los Angeles, Boston, Born, London, thường có trên 1000 người tới tu liền 6, 7 ngày, trong những ngày đó họ thực tập những phương pháp cụ thể, trước hết lấy ra những căng thẳng trong thân – tập buông thư, lấy ra những căng thẳng trong tâm – tập nhận diện và ôm ấp những đau buồn, lo lắng, sợ hãi của mình, nhìn sâu vào để có thể nhận diện những bản chất tâm hành đó. Rồi nhìn vào người thân của mình để thấy trong họ có căng thẳng trong thân, tâm, để phát khởi lòng thương, chấp nhận họ. Lúc đó mình cởi bỏ được thái độ trách móc, vì có sự lắng dịu trong thân và tâm, học thêm được phương pháp ái ngữ và lắng nghe, hiểu được khó khăn và bức xúc, mơ ước, khổ đau của người kia, từ đó chấp nhận để giúp đỡ họ. Không nói những lời chua chát, buộc tội, lên án, thì có thể giúp người kia hiểu được, thấy được những nhận thức sai lầm của họ để thay đổi.

    Đó là những phương pháp cụ thể, chỉ cần tu trong 6, 7 ngày là đã có thể đạt được những tiến bộ rất lớn rồi. Không khóa tu nào mà không có phép lạ xảy ra, vợ chồng hòa giải, cha con làm hòa là chuyện rất thường. Có điều lạ lùng, nếu 2 người cùng tới khóa tu thì sự chuyển hóa dễ dàng là đúng, nhưng có trường hợp chỉ 1 người đến khóa tu, chuyển hóa và có khả năng nói được lời êm dịu và lắng nghe được khó khăn của người đối thoại. Đến ngày thứ 6 chúng tôi cho phép dùng điện thoại di động để thực tập lắng nghe và ái ngữ, và có nhiều người đã báo cáo rằng chỉ dùng điện thoại di động đã có thể hòa giải với người kia ở nhà (bố, mẹ, anh chị em, vợ chồng, con…). Khi nghe báo cáo như thế thì chúng tôi rất hạnh phúc, vì biết rằng mình đã giúp được nhiều người.
     

    "Năm giới là sự thực tập cụ thể của tình thương"

    Thực sự chúng tôi không chủ ý quyến rũ người ta theo đạo Phật, nhưng vào cuối khóa tu, người xin quy y và thọ 5 giới rất đông, có những khóa tu mà 6 – 700 người Tây phương quỳ xuống xin quy y Phật-Pháp-Tăng và thọ 5 giới. Vì họ biết rằng 5 giới là sự thực tập cụ thể của tình thương.

    Giới thứ nhất là Bảo vệ sự sống không chỉ của loài người mà động vật, thực vật, khoáng vật. Giới này đi theo đường lối bảo hộ môi trường (deep ecology), không chỉ bảo vệ con người mà còn bảo vệ các loài khác trong đó có thực vật và khoáng vật.

    Giới thứ hai là Chia sẻ thời giờ và tài vật của mình với những người thiếu thốn, đừng lạm dụng và bóc lột người khác. Đó là giới không trộm cắp, không bóc lột, trái lại hiến dâng, là sự thực tập của tình thương.

    Giới thứ ba là Không tà dâm, không lạm dụng tình dục, bảo hộ trẻ em, bảo hộ những cặp vợ chồng. Đó cũng là tình thương, vì bao nhiêu trẻ em lớn lên trong gia đình không giữ giới thì đau khổ vô cùng. Bởi vậy, sự thực tập giới thứ ba là không ăn nằm với những người không phải vợ chồng, không lạm dụng tình dục, bảo hộ cho những đôi nam nữ, bảo hộ trẻ em cũng là sự thực tập của tình thương.

    Giới thứ tư là Sử dụng ái ngữ và lắng nghe để tái lập truyền thông giữa những người thân… cũng là sự thực tập tình thương.

    Giới thứ năm là Tiêu thụ trong chính niệm, chỉ tiêu thụ những sản phẩm mang lại sự an lạc cho thân tâm mình, còn những sản phẩm có độc tố (như phim ảnh sách báo) thì những độc tố đó sẽ làm thâm tâm bị hủy hoại. Biết chọn đối tượng tiêu thụ cũng là sự thực tập của tình thương, bảo hộ xã hội, bảo hộ con người.

    Khi họ thấy 5 giới là phương tiện bảo hộ mình và những người thương thì đó không còn là đức tin mơ hồ mà là những thực tập cần thiết. Họ tiếp nhận 5 giới với thái độ khoa học chứ không phải người đi tìm đức tin, nên họ thấy không chống đối gì với truyền thống tôn giáo của họ.

     

    Nên học vua A Dục và Trần Thánh Tông để thống nhất lòng người

    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Đúng là Giáo lý của đạo Phật rất đẹp, rất hay. Nhưng từ mong muốn mà chuyển hóa thành thực tiễn hành động, nhân cách mỗi con người thì không dễ chút nào. Liệu giáo lý đạo Phật có thể giúp định hình ra một nhân cách của dân tộc VN? Nhiều người mong muốn điều đó, nhưng nay còn bộn bề trăn trở nhiều. Thiền sư có đánh giá gì, có giải pháp gì đưa những điều hay của giáo lý Phật-Pháp đến với mỗi con người, để hình ảnh dân tộc Việt Nam có nhân cách tốt trong cộng đồng thế giới?

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Đạo Phật ngày xưa giúp đất nước nhiều lắm. Học giả Hoàng Xuân Hãn đã nói Đạo Phật giúp đời Lý là triều đại thuần từ nhất trong lịch sử, khi từ vua quan tới dân đều thực tập đạo Phật. Đời Trần cũng vậy, sau khi chiến thắng Nguyên Mông, quan quân có đệ trình lên một hòm tài liệu của một số viên chức chính quyền liên lạc với giặc. Nhưng Vua Trần Thánh Tông đã đem hòm tài liệu đốt trước mặt bá quan để yên tâm trăm họ, bởi chúng ta đã giành được độc lập, đẩy lui được quân thù thì cần nhất bây giờ là đoàn kết quốc gia. Đó là hành động phát sinh từ tuệ giác của đạo Phật.

    Hiện giờ, ta có thể học theo những hành động như thế. Cố nhiên là trong chiến tranh chúng ta bị chia rẽ, có những ý thức hệ đối chọi nhau, có những nhận thức khác nhau về chính trị, có cách thức yêu nước khác nhau. Giờ phải làm thế nào để buông bỏ thái độ đó đi. Đừng cho rằng chỉ có lý thuyết của chúng tôi là đúng, còn mọi lý thuyết khác đều sai lầm hết. Thái độ bám vào một chủ thuyết, không bao dung đó sẽ tiếp tục làm cho dân ta khổ.

    Trong giới luật Tiếp Hiện của chúng tôi có đưa ra tinh thần đạo Phật là không thờ phụng bất cứ một chủ nghĩa nào, một lý thuyết nào, kể cả đó là lý thuyết Phật giáo. Đạo Phật đưa ra những phương tiện để tu tập, để học hỏi, để chuyển hóa bản thân chứ không phải là những lý thuyết để thờ phụng, để phải phát động những cuộc chiến đẫm máu. Tôi nghĩ thái độ đó rất cần thiết. Vua A Dục ngày xưa sau khi thống nhất đất nước đã đi tu, yểm trợ cho các tôn giáo để các tôn giáo thống nhất nhân tâm. Vì thế, vua A Dục đã thống nhất được nhân tâm sau khi thống nhất lãnh thổ. Chúng ta nên học bài học đó. Chúng ta thống nhất Nam Bắc nhưng chưa thống nhất được lòng người, vẫn có sự tị hiềm, hận thù, đau khổ trong lòng mỗi chúng ta. Áp dụng đạo Phật là để buông bỏ những hận thù trong quá khứ. Đó là một trong những thực tập mà ta có thể thực hiện ngay, thống nhất lòng người, ôm lấy nhau như đồng bào.

    Năm ngoái về Việt Nam, chúng tôi được phép của Thủ tướng Chính phủ để tổ chức 3 đại trai đàn chẩn tế cầu siêu bình đẳng giải oan cho người Bắc, cho người Nam, cho người cộng sản và cả cho người chống cộng sản. Đó là tuệ giác của nhà nước Việt Nam. Đó là lần đầu tiên người Cộng sản và những người chống cộng sản được ôm lấy nhau để cùng khóc thương, cầu nguyện cho 6 triệu người chết, trong đó có bao người chết oan. Thực tập đó theo đúng tinh thần đạo Phật, buông bỏ những hận thù, bực bội, khổ đau trong quá khứ, đóng góp vào sự thống nhất lòng người.

     

    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Sau một năm thực hiện hành động mà thiền sư đánh giá là có tính đột phá và được Nhà nước ủng hộ đó, thiền sư có thấy tiến bộ thêm trong sự xóa bỏ hận thù của quá khứ không?

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Công việc đó cần phải được tiếp tục, mọi giới đều phải đóng góp vào. Ba trai đàn chẩn tế cũng chỉ là sự bắt đầu. Tôi nghe rằng nhiều vị thượng tọa, đại đức cũng đang tổ chức những trai đàn như vậy ở địa phương. Đó là sự tiếp nối. Chúng tôi nghĩ rằng những công việc như thế rất quan trọng, bởi thống nhất lòng người là điều căn bản. Chúng tôi nghĩ hiện ta có điều kiện làm việc đó. Những người Phật tử hiện đại hóa, làm mới được đạo Phật thì đạo Phật đóng góp được rất nhiều trong sự nghiệp thống nhất lòng người.

    Bạn đọc Nguyễn Trọng Chuyên: Thiền sư đã làm gì để gắn kết khối đại đoàn kết dân tộc giữa người Việt với người Việt, giữa người Việt với cộng đồng thế giới?

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Chúng tôi đã giúp được rất nhiều người Việt ở Hoa Kỳ thoát khỏi ngục tù của quá khứ. Nhưng cũng nhiều người rất khó vượt qua vì trong quá khứ họ có những chức vị, quyền lợi và họ không thể chấp nhận được việc họ bị mất đi những chức vị, quyền lợi ấy. Họ trở nên hận thù. Cả những Phật tử cũng trở thành đối tượng hận thù của họ. Họ có thể chửi mắng, bôi nhọ… Riêng về phần chúng tôi, chúng tôi không đau khổ gì hết mà chỉ tội nghiệp cho họ. Vì bản thân họ bị quá khứ giam hãm nên họ không biết sống hạnh phúc trong hiện tại, do đó họ không có tương lai. Nếu họ cứ ôm khư khư cái hận thù thì họ rất đáng tội nghiệp.

    Chúng tôi chỉ làm tối đa những gì có thể làm được, còn có lẽ phải nhờ một sự kì diệu nào đó, một ngày họ sẽ nhận ra thì đó là hạnh phúc của họ, và đó chính là sự giác ngộ.
     

    "Thực tập để sống sâu sắc giây phút hiện tại" – cách để hoàn thiện nhân cách!

    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Nhưng thực tế không chỉ chuyện thống nhất lòng người, mà trong ứng xử hàng ngày hiện nay thì kể cả với những người theo đạo Phật, các bạn trẻ cũng như người lớn tuổi, tính ăn gian nói dối, chiếm dụng của công, đố kị tị hiềm, chụp giật "bốc ngắn cắn dài" không nghĩ đến ngày mai… vẫn rất phổ biến trong xã hội? Như vấn nạn giao thông, còn nhiều người đi đường lạng lách, không lo lắng an toàn cho người khác. Phải chăng đạo Phật bất lực trong việc này?
     

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Những người ngoại quốc tới VN nghĩ rằng lâu nay trong chiến tranh người VN không được sống, nên nay có hòa bình thì họ sống hối hả, lái xe như điên. Cái đó chỉ đúng một phần thôi. Tôi nghĩ cách sống này là do cách suy nghĩ, quan niệm của chúng ta. Tuệ giác của đạo Phật là mình có thể sống an lạc và hạnh phúc trong giây phút hiện tại (hiện pháp lạc trú: Living happily in the present moment). Đó là giáo lý căn bản của đạo Phật. Chẳng hạn, khi đi từ đây ra bãi đậu xe, mục đích là lấy xe để đi, nhưng không ai cấm mình đi từ đây ra bãi đậu xe bằng những bước chân thảnh thơi, an lạc hạnh phúc, chứ không phải chỉ khi lái xe mới an lạc hạnh phúc. Nếu đi từ đây ra xe mà không an lạc hạnh phúc thì nắm vô lăng cũng không thể an lạc hạnh phúc được. Vấn đề là phải thực tập.

    Làm thức ăn sáng cho gia đình thì trong khi đun nước, nướng bánh mỳ có thể vừa theo dõi hơi thở, mỉm cười, thực tập thư giãn. Ngồi xuống bàn thì dành môt phút nhìn nhau mỉm cười, để biết mình còn nhau, có ngay hạnh phúc trong giây phút hiện tại. Nếu ông cầm tờ Wall Street Journal để xem giá cổ phiếu lên hay xuống thì thay vì nhìn thấy vợ con, ông lại phóng tâm vào tương lai.

    Nếu các thầy và sư cô đem ra giảng dạy, luyện tập cho người ta sống trong giây phút hiện tại, thì sự hối hả, đi tìm hạnh phúc trong tương lai kia sẽ giảm bớt. Vì biết tìm hạnh phúc trong hiện tại thì không cần bươn chải để đến tương lai. Hiện tại rất đẹp, quá khứ đã đi qua, tương lai thì chưa tới. Mình chỉ có giây phút thực sự sống là hiện tại, nếu sống sâu sắc mình có thể tiếp nhận trời xanh, mây trắng, chim hót, thông reo, hoa nở… những nhiệm màu của sự sống. Ly nước trong là nhiệm màu, mình có thể an trú trong hiện tại để tiếp xúc với ly nước không? Hay khi uống ly nước mà nghĩ tới dự án tương lai. Hiện pháp lạc trú là một nghệ thuật sống có hạnh phúc. Nếu hạnh phúc trong hiện tại thì chắc chắn tương lai sẽ hạnh phúc, còn nếu không có hạnh phúc trong hiện tại thì tương lai cũng không thể có hạnh phúc. Nếu lo rửa bát cho mau để cầm ly trà cho hạnh phúc, thì khi cầm ly trà cũng lại hối hả đến tương lai mà bỏ quên mất ly trà. Vấn đề là thực tập để sống sâu sắc giây phút hiện tại. Ta có đạo Phật mà không dùng đuợc tuệ giác của đạo Phật, nghĩa là đạo Phật của ta chưa thành công.

    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Mọi người vẫn đang thắc mắc, làm sao từ những khát vọng, lý tưởng của đạo Phật trở thành máu thịt, thành cuộc sống hiện tại của từng con người. Nếu trong 85 triệu dân Việt Nam mà có 80%, tức là hơn sáu mươi triệu dân làm được thì đất nước cũng hạnh phúc lắm rồi. Thiền sư có biện pháp cụ thể để điều đó thành hiện thực không?

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Trong 30 năm, chúng tôi đã giúp cho vô số người Tây phương nắm được phương pháp thực tập để sống an lạc, hạnh phúc, hòa giải với nhau. Nếu phương pháp này đã thành công trong giới trẻ và giới trí thức ở Tây phương thì cũng sẽ thành công ở đây, trong giới trẻ và giới trí thức Việt Nam. Trong những lần về vừa qua, chúng tôi đã mở những khóa tu cho giới trẻ và giới trí thức, và thấy sự tiếp thu đạo Phật rất nồng nhiệt. Trước khi đi Hà Nội chúng tôi có khóa tu cho 4000 người trẻ tại tu viện Bát Nhã – Lâm Đồng. Chúng tôi cũng vừa kết thúc một khóa tu cho người trẻ Hà Nội tại chùa Bằng A. Người trẻ tuổi và trí thức tới rất đông, nét mặt rất rạng rỡ, rất hạnh phúc, bởi học được phương pháp buông thư, ái ngữ lắng nghe để tháo gỡ những khó khăn với người thân. Nghĩa là chúng tôi cũng đã thí nghiệm thành công trong đất nước. Nếu ở Việt Nam, giới xuất gia và giới tại gia biết lợi dụng phương pháp này thì vài ba năm đã có sự thay đổi lớn trong cách sống rồi.

    Bạn đọc Tuấn Anh (TP.HCM): Xin thầy cho con hỏi phương pháp hiện tại lạc trú có phải là không nghĩ về quá khứ, cũng như không nghĩ tới tương lai? Nếu vậy thì làm thế nào để rút ra những bài học kinh nghiệm từ quá khứ, hay hoạch định kế hoạch cho tương lai? Còn nếu nghĩ về quá khứ hay tương lai thì có thể nào lạc trú trong hiện tại được không?

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Hiện pháp Lạc trú tức là sống sâu sắc đời sống của mình trong mỗi phút giây. Nguyên tắc là đừng đánh mất mình trong sự tiếc thương hay hối hận về quá khứ, chứ không phải là không được học hỏi từ quá khứ. Mình có thể an trú trong hiện tại và coi quá khứ là đối tượng của sự nghiên cứu của mình. Trong khi mình thiết lập thân tâm trong hiện tại, mình đem quá khứ về hiện tại để học tập thì mình sẽ học hỏi được nhiều từ quá khứ.

    Đối với tương lai cũng vậy, đừng đánh mất mình trong sự lo lắng và sợ hãi về tương lai. Còn mình có quyền thiết kế tương lai của mình chứ. Mình an trú trong hiện tại và mình đem tương lai về hiện tại để nghiên cứu và hoạch định.

    Nói cách khác, sống sâu sắc trong hiện tại thì đồng thời mình cũng tiếp xúc được quá khứ, còn tương lai cũng nằm trong hiện tại. Mình cần biết xử lý hiện tại với tất cả khả năng của mình, thì có nghĩa là mình đang làm tất cả những gì mình có thể làm cho tương lai rồi.

    Lo lắng và sợ hãi tương lai chỉ làm hư tương lai của mình, còn tiếc nuối và mặc cảm về quá khứ sẽ biến quá khứ thành nhà tù và mình không có khả năng sống trong hiện tại nữa. Đó là sự đáng tiếc!

     

    Không phải ai đi tu cũng thành công

    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Nhiều người trẻ cũng như trí thức suy ngẫm, tự tâm niệm, cảm nhận đạo Phật và hướng theo với sự tự giác, sâu sắc. Nhưng có người nhìn vào đội ngũ tu hành và thấy những người tu theo giáo lý Phật giáo mà không hành động, sống được như vậy, nên họ thất vọng và không tin. Phải làm thế nào để giải quyết được chuyện đó. Chẳng hạn có nhiều tình trạng giữa các nhà sư đố kỵ hiềm tị lẫn nhau, thượng tọa này nói xấu hòa thượng kia. Rồi chuyện phân bổ về chùa nọ chùa kia, ở bên ngoài có chạy chức chạy quyền thì trong những người tu hành lại có chạy chùa. Làm sao phải để người dân cảm nhận sự mực thước, trong sáng trong đạo Phật?

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Đi tu cũng có thể thành công hay thất bại. Nếu gặp thầy giỏi, đoàn thể tu tập giỏi thì có cơ hội thành công dễ dàng hơn. Nếu không gặp được minh sư thì thất bại như một người tu. Khi mình xuất gia, mình không sống đúng theo luật nghi thì cũng thất bại. Ở đạo tràng Mai thôn có tới 3, 400 người, nhưng chúng tôi thực tập không ai có xe hơi riêng, điện thoại riêng, không có chương mục ngân hàng riêng, bởi đi tu là không có của riêng nữa. Một người ra đường, dù đi dạy hay đi tổ chức khóa tu, kể cả khi lên mạng thì có người khác đi theo. Chúng tôi thực tập như vậy nên được an ninh rất nhiều.

    Những người Phật tử thấy một thầy ra thuê nhà ở riêng thì phải biết rằng họ làm sai với giới luật của đạo Phật. Nếu mình để họ như vậy và yểm trợ, rồi tìm tới với họ không phải để học hỏi giáo lý, để tu tập mà để có một sự thỏa mãn về tình cảm là hại cho người xuất gia đó. Bên phía xuất gia thất bại vì không hướng dẫn được cho cá nhân người tu sĩ đó. Bên cư sĩ lại không biết nên đã yểm trợ và dung túng cho hành vi không đúng của người tu sĩ, khiến họ có thể có lỗi lầm, có thể lạm dụng tình dục một người cư sĩ. Người tu sĩ trở thành nạn nhân của sự không thực tập, lỗi một phần ở tăng đoàn, một phần ở người cư sĩ không biết để giúp ngăn ngừa. Đạo Phật là đạo thực tập vô ngã, không có cái ta riêng biệt, người kia cũng là mình. Như bàn tay trái bàn tay phải có tinh thần vô ngã, bàn tay phải không bao giờ nói bàn tay trái vô tích sự không làm được gì hết. Mỗi khi bàn tay trái bị thương thì bàn tay phải chăm sóc như chăm sóc chính bản thân mình. Hai bàn tay có tuệ giác vô ngã, tuy hai mà một, không có kỳ thị.

    Người Phật tử mà nắm được tuệ giác vô ngã thì không thấy cha với con là hai người riêng biệt, mà hiểu trong cha có con, trong con có cha, con là sự tiếp nối của cha. Nếu cha đau khổ thì con đau khổ, con hạnh phúc thì cha hạnh phúc, thấy được đau khổ của cha là đau khổ của chính mình, hạnh phúc của con là hạnh phúc của chính mình. Người tu chứng thực được vô ngã thì sẽ không nói xấu những người khác, không cho mình là nhất. Thấy một vị xuất gia, thượng tọa, hòa thượng mà dương dương tự đắc thì thấy tội nghiệp cho họ vì đã tu bao nhiêu năm mà chưa chứng được tuệ giác vô ngã. Điều này áp dụng cho giới xuất gia cũng như tại gia. Vấn đề là làm thế nào để có được minh sư, mở được những môi trường để người tu tập có thể thành công. Vì ý chí muốn tu học là chuyện khác, thành công là chuyện khác. Ý chí không thì không đủ.
     

    Thực tập yêu thương, hạnh phúc, an lạc để thành chân tăng

    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Từ ý chí đến kết quả còn khoảng cách. Làm sao để những điều hay và giá trị tinh thần cao quý đó phải được lan tỏa vào mỗi con người, chứ hiện nay tỉ lệ thành công chưa cao? Nhiều người đến chùa không phải vì nhu cầu tâm linh thiêng liêng mà chủ yếu vì… mê tín. Họ cầu may để xin thành công trong làm ăn, đôi khi cả làm ăn bất chính.

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Nhiều người nghĩ Phật và các vị Bồ Tát là thần linh, nếu mình đến cầu nguyện và "đút lót", cúng cho vị Bồ Tát này mấy chục ngàn đồng, cúng cho vị Bồ Tát kia mấy chục ngàn đồng là mình về sẽ không bị tai nạn hay gặp tai hoạ nào trong cuộc sống nữa. Hiểu như vậy là hiểu lầm về đạo Phật. Nhưng sở dĩ họ hiểu lầm như vậy, một phần cũng là do các thầy, các sư cô và các vị cư sĩ đứng ở cương vị lãnh đạo, nên mình cũng không thể trách cứ những người dân thường được.

    Nhiều người lại nghĩ nhầm rằng khi gặp thất bại trong cuộc đời rồi thì mới xuất gia. Ngày xưa, đức SIDDHARTHA xuất gia là bởi muốn tìm tình yêu thương lớn dành cho muôn người, muôn loài. Hay vua Trần Nhân Tông, một vị vua rất yêu nước yêu dân cũng xuất gia, và khi xuất gia rồi vẫn phục vụ cho nước cho dân. Vậy mà có những gia đình thấy con xin đi xuất gia thì cảm giác như đó là một nỗi nhục nhã. Quan niệm thất bại rồi mới đi xuất gia là một quan niệm rất sai lầm.

    Quan niệm đó từ đâu tới? Đó là bởi đã có những thời điểm trong lịch sử mình cho chuyện đi tu là duy tâm, mê tín, tư duy không lành mạnh. Chúng ta cũng có một phần trách nhiệm trong sự tư duy như vậy. Tôi nghĩ rằng muốn thay đổi suy nghĩ này thì phải thiết lập những tăng thân – những đoàn thể tu học đúng mức mà trong đó, đạo Phật được thực tập như một nghệ thuật sống, mỗi người thực tập trong tăng thân đều được an lạc, hạnh phúc, được thương yêu. Khi có được những tăng thân như thế ở cả 3 miền để những người quan tâm có thể tới tiếp cận để trực tiếp tiếp xúc và thấy được đạo Phật thật sự mà họ cần phải hướng tới là đạo Phật hiện đại, phù hợp với tuổi trẻ và đời sống mới. Trong đạo Phật, sau khi qui y Phật, qui y Pháp thì còn cần qui y Tăng nữa. Tăng ở đây có nghĩa là "community" – là đoàn thể trong đó có người xuất gia – xuất gia tăng, có người tại gia – tại gia tăng. Khi mình tới với nhau để tu học mà thành công được thì hạnh phúc đạt được rất lớn, Tăng trở thành chỗ nương tựa cho nhiều người.

    Quy y Tăng không phải là đặt niềm tin vào một cái gì đó mơ hồ mà Tăng là đoàn thể đang thực tập hạnh phúc, có tha thứ, có vô ngã, có vô thường. Trong Tăng có Phật và có Pháp. Còn Tăng mà có sự ganh tỵ, chỉ có hình thức bên ngoài như cúng lạy thôi mà không có hạnh phúc, không có tha thứ, không có sự tươi mát của tâm hồn và lắng nghe nhau thì đó không phải "chân Tăng", do đó không có Phật và không có Pháp ở đó.

    Việc làm của chúng tôi bây giờ là thiết lập những tăng thân ở khắp nơi trên thế giới. Ở Tây phương, chúng tôi đã xây dựng được trên 1000 tăng thân, là nơi nương tựa của không biết bao nhiêu người. Ở mỗi thành phố lớn như London, New York, Los Angeles chúng tôi có trên 10 tăng thân như vậy. Tôi nghĩ, ở Hà Nội cũng nên có ít nhất 10 tăng thân, và mỗi tăng thân phải chứa đựng trong mình Phật-Pháp mang tính đời sống cụ thể hàng ngày. Xây dựng những tăng thân như vậy là công việc cao quí nhất của người Phật tử, tại vì đó là chỗ để con người tới để nương tựa, được che chở và bảo vệ.

     

    "Doanh nghiệp Tăng, gia đình Tăng và… Quốc hội Tăng"?

    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Nói như vậy thì một tổ chức, một công ty có thể trở thành một tăng, một cộng đồng?

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Doanh nghiệp mà thực tập theo Phật -Pháp thì thành doanh nghiệp Tăng. Một gia đình thực tập theo kiểu đó là gia đình Tăng. Khi tôi gặp ngài Chủ tịch Quốc hội Ấn Độ, chúng tôi có bàn luận làm sao để xây dựng quốc hội thành một đoàn thể mà ở đó mọi người lắng nghe nhau, vì trước đó tôi nghe có những buổi đàm luận rất bạo động, có khi một dân biểu nổi cáu đến mức cầm ghế phang một dân biểu khác.

    Ở nước ngoài, một dân biểu thường thuộc một đảng và phải nói theo đường lối của đảng mình, nên mình không được hoàn toàn tự do nói kinh nghiệm sâu sắc của mình khi nói, nếu mình lại dùng ngôn từ nặng nề thì sẽ làm phía bên kia nổi giận lên, rồi chửi mắng lại. Như vậy thành ra không có ái ngữ, không có lắng nghe. Trong khi đó, dân biểu phải hiểu rằng dân chúng bầu mình lên là để lắng nghe và để chia sẻ kinh nghiệm, tuệ giác của mình, để làm ra những đạo luật cho tất cả mọi người được thừa hưởng.

    Tôi đề nghị với ông Chủ tịch Quốc hội Ấn Độ rằng trước mỗi buổi họp Quốc hội thì nên đọc một bài quán niệm, nên thực hành một bài thiền, đọc một đoạn văn về bổn phận của người dân biểu là những người được dân chúng bầu lên, chúng ta có bổn phận phải lắng nghe nhau, học hỏi từ nhau để có thể đi tới những quyết định đúng đắn nhất, mang lại hạnh phúc cho nhân dân và đất nước. Do đó, trong phiên họp này, mọi người phải lắng nghe nhau, sử dụng ngôn từ hòa ái, đừng tức giận, đừng buộc tội, đừng chua chát, đừng lên án nhau. Ông Chủ tịch của buổi họp có một cái chuông, để khi thấy không khí của buổi họp căng thẳng, nóng bỏng, tranh chấp thì ông có thể thỉnh một tiếng chuông cho mọi người thở vào thở ra, khi nào lắng xuống thì mới tiếp tục phát biểu.

    Chủ tịch Quốc hội Ấn Độ rất thích thú với đề nghị này, và 10 ngày sau đã cho xây dựng "Ủy ban Đạo đức" để lo lắng cho Quốc hội. Ngài có mời tôi trở về để nói chuyện với toàn Quốc hội về ái ngữ và lắng nghe, nhưng tôi đã không có cơ hội trở lại. Sau này, ngài Chủ tịch Quốc hội đã trở thành Tổng thống của Ấn Độ.

    Một quốc hội cũng có thể trở thành một quốc hội tăng, trong đó mọi người lắng nghe nhau, hiểu nhau và như vậy có lợi cho đất nước.
     

    Súng bom không bao giờ lấy đi được những tri giác sai lầm

    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Thế quốc hội Mỹ đã trở thành một quốc hội tăng chưa, thưa thiền sư?

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Chưa, và còn lâu lắm. Chúng tôi cũng mong muốn Liên hợp quốc sẽ trở thành Liên hợp quốc tăng vì khi đó mọi lời nói, việc làm sẽ vì lợi ích chung của toàn thế giới. Tôi nghĩ Liên minh châu Âu là một sự thành công lớn vì nước nào cũng hy sinh bớt quyền lợi quốc gia để cho một Âu châu chung. Nghĩa là, họ đã thực tập đạo Phật mà họ không biết.

    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Nhưng phải chăng vì sự hy sinh quyền lợi quốc gia như vậy, mà ngày nay vị thế của Liên minh Châu Âu trên thế giới bị kém đi, mỗi nước châu Âu sẽ vì thế mà bị thiệt hại hơn. Thiền sư nghĩ sao về điều này?

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Tôi không nghĩ như vậy. Bởi nếu từng quốc gia châu Âu riêng lẻ sẽ không đủ mạnh để là đối trọng với Hoa Kỳ.

    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Thưa thiền sư, Phật-Pháp dạy rằng các đệ tử của nhà Phật thì phải yêu thương lẫn nhau. Vậy mà vẫn có những đất nước, dân tộc cùng theo đạo Phật nhưng vì lợi ích dân tộc, lợi ích quốc gia xung đột, nên vẫn tồn tại tình trạng nước này ăn hiếp nước khác. Việt Nam ta cũng là một đất nước đi theo đạo Phật mà có khi vẫn bị ăn hiếp bởi một nước khác cũng theo đạo Phật, và họ vẫn chưa thực sự yêu thương, trải lòng với ta? Có cách nào để Phật-Pháp đi vào lòng mỗi người, mỗi dân tộc để mỗi quốc gia sẽ yêu thương, trân trọng và đối xử hữu nghị với các quốc gia khác, để thế giới này không còn cảnh hận thù, chiến tranh?

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Nếu họ nói họ theo đạo Phật mà họ lại biến mình thành thế lực xâm lăng, có chủ trương xâm chiếm đất đai của người khác thì họ chỉ có đạo Phật trong danh từ, trong hình thức thôi. Do vậy, mình có thể nói thẳng với họ điều này, và hỏi thẳng họ rằng: "Từ bi của ông ở đâu? Tình huynh đệ của ông ở đâu? Tại sao ông lại đi xâm chiếm một nước khác? Đó có phải là chủ trương hoà bình của đức Thế Tôn hay không?"

    Các Phật tử trên thế giới đã cố gắng lập ra "World Fellowship of Buddhiste" – Liên minh Phật tử thế giới để điều hợp các hành động tu tập trên thế giới này. Tôi thấy rõ rằng đạo Phật có nhiều cách để đi vào mọi lĩnh vực của sự sống, rằng sự thực tập lắng nghe và ái ngữ có thể áp dụng trong bất cứ trường hợp nào để tạo ra sự hòa giải.

    Như cuộc chiến tranh Iraq chẳng hạn. Nguyên nhân căn bản của nó là sự hiểu lầm và những tri giác sai lầm, dẫn đến sự sợ hãi và oán thù, vì thế mà phải loại trừ nhau, để đạt được an ninh. Nếu mình nghĩ rằng người kia đang muốn giết mình, thì mình sợ, mà bản thân mình không muốn bị giết, do đó mình phải giết người ta trước khi người đó giết mình. Cái đó là tình trạng hiện nay ở Iraq.

    Cái sợ hãi do tri giác sai lầm mà ra. Hoa Kỳ có những tri giác sai lầm về mình và người Ả rập. Người Ả Rập cũng có những tri giác sai lầm về mình và về Hoa Kỳ. Do đó chiến tranh xảy ra dựa trên những tri giác sai lầm của cả hai phía. Tri giác sai lầm luôn luôn mang đến nghi ngờ, sợ hãi và bạo động. Ta biết rất rõ trong ánh sáng của đạo Phật, muốn cho đừng có những nghi ngờ, bạo động, sợ hãi đó thì phải lấy những tri giác sai lầm ra, bằng cách đối thoại và lắng nghe nhau, phải nói với nhau những lời mà người kia có thể hiểu được. Còn súng, bom… không bao giờ lấy đi được những tri giác sai lầm cả.

    Thành ra, càng đánh dẹp khủng bố bao nhiêu thì càng tạo nên những người khủng bố bấy nhiêu. Thực tế đã cho thấy, bao nhiêu năm tiêu diệt khủng bố mà có bớt người khủng bố đi đâu? Tại vì, họ không hiểu rằng phương pháp để tiêu diệt khủng bố chính là lấy ra những sợ hãi, căm thù, bạo lực, bằng tình người và bằng sự lắng nghe nhau. Phải có những buổi gặp gỡ, để lắng nghe những sợ hãi, khổ đau của nhau. Rồi từ đó, có cơ hội nói cho bên kia hiểu chúng tôi không có chủ đích muốn tiêu diệt các vị như một tôn giáo, một nền văn minh, một lối sống. Quý vị đã hiểu lầm. Chúng tôi đã nói, đã làm gì gây ra cho quí vị cảm tưởng đó thì chúng tôi xin lỗi. Chúng tôi sẽ không nói, không làm như vậy nữa. Đó là phương pháp duy nhất để mang lại hòa bình và là phương pháp thuần tuý từ đạo Phật mà đi ra.

    Khi nói chuyện với những doanh nhân, nhà chính trị,… ở Hoa Kỳ, chúng tôi cũng chỉ nói như vậy thôi. Chúng tôi đã từng bảo trợ cho những gia đình người Palestine, Do Thái tới Làng Mai để tu học. Ban đầu, họ nhìn nhau không được vì rất nghi kị và sợ hãi nhau. Nhưng sau những tuần lễ thực tập để buông thư, ôm ấp, nhận diện những sợ hãi đó và mọi người thực tập lắng nghe, mục đích là để hai bên nói được hết những khổ đau, sợ hãi, lo lắng của họ mà không bị cắt lời. Sau vài 3 buổi thì hai bên sẽ hiểu rằng: "À, hoá ra bên kia cũng giống hệt bên mình, cũng có những sợ hãi, khổ đau, lo lắng như vậy…", và họ có thể bắt đầu nhìn bên kia bằng con mắt cảm thông, nhận ra những tri giác sai lầm tồn tại, để từ từ gửi những thông tin để giúp cho bên kia tháo gỡ, điều chỉnh lại những tri giác sai lầm. Và họ ngồi ăn cơm, nắm tay nhau đi thực tập được.

    Khi trở về Trung Đông, họ đã thực tập, họ lập ra những tăng thân để cho những người khác tới cho bớt khổ. Chúng tôi đã làm được điều đó. Chứng tỏ rằng, mối quan hệ giữa 2 quốc gia Palestine và Israel cũng có thể cải thiện. Tương tự, mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Iraq cũng có thể thay đổi được nếu áp dụng phương pháp này của đạo Phật.
     

    "Tôi nghĩ, TT Bush là một trong những người đau khổ nhất trên thế giới"

    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Thiền sư nghĩ thế nào về trường hợp của tổng thống Bush ở Hoa Kỳ? Liệu ông Bush có thể thực tập theo phương pháp của nhà Phật thành công được không?

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Tôi nghĩ, Tổng thống Bush xuất thân từ bối cảnh tôn giáo bảo thủ, và lực lượng của TT Bush là một lực lượng bảo thủ. Những người bảo thủ đứng sau TT Bush, và những người cố vấn, cộng sự của TT Bush cũng đại diện cho quyền lợi của những người đó thành ra rất khó. Tôi đã từng viết thư cho TT Bush nhưng không lọt đến tay ông được. Tôi nghĩ, TT Bush là một trong những người đau khổ nhất trên thế giới. Ông ta không ngủ ngon được, sẽ bị trăn trở hàng đêm. Làm sao ngủ ngon được khi biết rằng con em của mình mỗi ngày đều bị chết ở Iraq. Những người Iraq và những người Mỹ chết mỗi ngày một nhiều, hận thù ngày một nhiều và ông ta sa lầy trong chiến tranh Iraq. Nuốt cũng không vào mà khạc ra cũng không được.

    Nhiều người nghĩ rằng ở cương vị của TT Hoa Kỳ, hẳn ông Bush sẽ có rất nhiều quyền lực. Nhưng tôi thấy TT Hoa Kỳ là một người rất bất lực, với quyền năng đó, quân đội đó, với nền kinh tế đó mà không thể làm được gì để giải quyết những vấn đề như vấn đề Iraq. Quyền năng trên thế gian không đủ đưa lại hạnh phúc. Phải có quyền năng tâm linh, nghĩa là khả năng hiểu và khả năng thương, mà những điều này thì TT Bush không có đủ.

    Tôi nghĩ, nếu ứng cử viên Obama mà lên được TT Mỹ thì khả năng không kỳ thị ở nước Mỹ là rất lớn. Nó chứng tỏ nước Mỹ không kỳ thị người da đen, không kỳ thị người trẻ. Do đó, nó thể hiện một hình ảnh mới của Hoa Kỳ.

    Với ông Obama, những người trí thức, những người tiến bộ có một cơ hội để có thể mong muốn lý tưởng công bằng xã hội, lý tưởng đổi mới, không kỳ thị được thực hiện trong xã hội Hoa Kỳ.

    Bạn đọc Phan Dũng (Hà Nội): Làm thế nào để tĩnh tâm, giữ bình yên thanh thản trong nền kinh tế hiện tại khi mà cái tham lam dục vọng của con người ngày càng nhiều? Trong cuộc sống hiện đại, nhiều khi con người muốn sống thiện cũng rất khó vì sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Vậy thiền sư hãy chỉ cho tôi cách nào để tránh những cái ác, cái tà tâm mà vẫn có thể phát triển bản thân và góp phần phát triển xã hội?"

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Tôi nghĩ rằng mình không cần đua đòi, đừng nghĩ phải có tiện nghi như mọi người khác trong xã hội thì mới có hạnh phúc. Chúng tôi là những người xuất gia, chúng tôi sống trong cộng đồng 300 – 400 người, sống rất đơn giản. Không ai có xe riêng, không ai có điện thoại riêng, không ai có tài khoản ngân hàng riêng, chúng tôi tiêu thụ rất ít nhưng hạnh phúc chúng tôi có rất lớn. Chúng tôi có rất nhiều tình huynh đệ và trong cuộc sống chúng tôi giúp được rất nhiều người.

    Điều đó chứng tỏ rằng không phải mình phải có rất nhiều tiền bạc, quyền hành, bằng cấp thì mới có hạnh phúc. Nếu mình thấy được con đường như vậy thì mình không sợ hãi nữa. Mình thấy rằng mình có khả năng sống đơn giản và hạnh phúc. Đó chính là con đường sống hạnh phúc của chúng ta, của không chỉ người Việt Nam mà còn của nhiều người trên thế giới.

    Ở tu viện Lộc Uyển, chúng tôi không dùng điện nữa. Trong một cộng đồng mấy trăm người, chúng tôi chỉ dùng năng lượng mặt trời thôi cũng đủ sống. Chúng tôi không dùng xăng, mà dùng dầu ăn người ta thải ra để chạy xe hơi của chúng tôi. Chúng tôi không ăn thịt, không ăn cá, không uống bia, không dùng các sản phẩm sữa, pho-mát, bơ… Vậy mà chúng tôi rất mạnh khoẻ. Chúng tôi rất hài lòng vì sống như thế là cách góp phần để trái đất có một tương lai.

     

    Đừng lo lắng thái quá về lạm phát

    Bạn đọc Lê Đình Thuận (Thanh Hoá): Về Việt Nam lần này, Thiền sư thấy đất nước có những sự thay đổi nào? Việt Nam đang phải đối mặt với những khó khăn như lạm phát, thiền sư có suy nghĩ về giải pháp nào không?

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Lần này, về Việt Nam, chúng tôi có tiếp xúc với rất nhiều bạn trẻ và các phật tử, thì tôi thấy có những đau khổ mới, bức xúc mới. Cùng với sự phát triển kinh tế thì các tệ nạn xã hội tăng thêm mà luật pháp không đủ để khống chế. Bên cạnh luật pháp, cần phải có đạo đức xã hội. Phải làm sao để đưa đạo đức vào từng gia đình, phải đưa sự thực tập vào từng gia đình để giảm thiểu những tệ nạn xã hội đó.

    Khi 400 người thanh niên, phật tử quì xuống để tiếp nhận 5 giới ở tu viện Bảo Lộc và 300 thanh niên quì xuống để tiếp nhận 5 giới ở tu viện Bằng A, chúng tôi biết rằng những người này có một con đường. Đó là con đường của yêu thương, của sự thực tập để bảo hộ mình và gia đình mình khỏi rơi vào những tệ nạn xã hội như ma tuý, cờ bạc, tà dâm…

    Về chuyện lạm phát, tôi có kiến giải thế này. Chúng ta phải đối diện với sự sợ hãi, lo lắng của chúng ta. Nếu chúng ta biết chấp nhận nhau, yêu thương nhau, lá lành đùm lá rách, đừng lợi dụng để làm giàu riêng, đừng đầu cơ thì chúng ta có đủ khả năng để đi qua được cuộc khủng hoảng kinh tế này.

    Do vậy, lạm phát nhiều hay ít, có đi qua được lạm phát hay không phụ thuộc rất nhiều vào cách suy nghĩ của chúng ta chứ không chỉ vào yếu tố kinh tế khách quan. Sự lên xuống của đồng đôla phụ thuộc phần nhiều vào sự lo lắng của chúng ta mà thôi. Thành thử ra, đừng lo lắng quá, đừng làm cho tình trạng nguy ngập thêm vì sự lo lắng sợ hãi của chính chúng ta. Đó chính là điều chúng tôi muốn nói.
     

    Mỗi người là một phần của sự nghiệp lớn của dân tộc

    Bạn Nguyễn Tuấn Anh: …Câu hỏi ở đây là ý chí của dân tộc, hồn thiêng của sông núi, vận mệnh của Tổ quốc, của dân tộc Việt Nam, theo Thiền sư có MỘT lần nữa sẽ lại tích tụ, lại sinh ra một cá nhân kiệt xuất, một người con dân đất Việt với TÂM HỒN TRONG SÁNG NHƯ PHA LÊ và có một TRÍ TUỆ PHI THƯỜNG, như một lãnh tụ tinh thần dẫn dắt dân tộc Việt Nam vươn lên một cách thần kỳ, ngoạn mục?

    Trong thâm tâm của mình, đã có lúc nào Thiền sư nghĩ đến điều kỳ diệu đó chưa? Tại Việt Nam đã có hay chưa NGƯỜI đó, trong dịp này Thiền sư có nghĩ rằng, có mong rằng mình có NHÂN DUYÊN gặp NGƯỜI đó không? Nếu gặp, Thiền sư sẽ đàm đạo với NGƯỜI đó về những vấn đề gì? Là một nhà tu hành, Thiền sư quan niệm như thế nào về sự kỳ diệu nói chung và sự kỳ diệu trong nền kinh tế tri thức, kỷ nguyên của Internet và Công nghệ thông tin nói riêng? Thành tâm cảm tạ thiền sư.

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Tôi có ý thức rằng dân số VN giờ này đông hơn dân số Pháp, và đều rất trẻ. Khi về VN, tiếp xúc với người trẻ nào tôi cũng nhìn bằng con mắt đặc biệt: "Người trẻ này có thể là người đặc biệt đó". Tuổi trẻ bây giờ rất thông minh, và bất cứ người trẻ nào cũng có thể trở thành một vĩ nhân được.

    Và tôi muốn trao truyền cho mỗi người trẻ toàn bộ những kinh nghiệm mà mình có, để họ trở thành tương lai của đất nước. Tôi rất lạc quan, vì gia tài tâm linh của mình rất lớn. Tôi không nghĩ nhiều đến chủ nghĩa anh hùng cá nhân. Chúng ta thành tựu được một sự nghiệp không phải do 1 người mà do nhiều người hợp sức. Một vị lãnh tụ không phải tự nhiên xuất hiện mà do khí thiêng của sông núi, do những người phụ tá hỗ trợ.

    Như lúc nãy tôi nói, ông Bush không phải chỉ là cá nhân ông ta, mà muốn hiểu ông ta thì phải hiểu hoàn cảnh của ông ấy, bạn bè, phụ tá của ông ấy.

    Ở Việt Nam cũng vậy, phải nhìn vào quá khứ dân tộc Việt Nam, nhìn vào những người cộng sự thì mới thấy được cụ Hồ. Thành ra tôi không để ý quá đến anh hùng cá nhân.

    Khoa học thần kinh não bộ đã khám phá ra rằng, không có tế bào nào là tế bào làm lãnh tụ hết. Tất cả các tế bào đều hoạt động trong một bản "đại hoà tấu" và không có nhạc trưởng. Khi tới với nhau thì tự nhiên có những cảm xúc, tư duy và vì vậy khoa học đã chứng tỏ được tuệ giác vô ngã trong đạo Phật.

    Đây là một cái nhìn của đạo Phật về đất nước. Mỗi người trong chúng ta đều có tài năng, phần đóng góp của mình. Và khi chúng ta tới với nhau được bằng tình huynh đệ, bằng tinh thần đồng bộ thì ta làm ra việc lớn thôi. Tôi không nghĩ đến cảnh một người hướng dẫn tất cả mọi người đi theo, mà mỗi người cũng là một phần của sự nghiệp lớn. Tôi nghĩ rằng tư duy này nó đúng với khoa học hơn, đúng với tinh thần Phật giáo hơn.

     

    "Nhà báo đang thực hành Phật-Pháp như một người chân tu"

    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Thiền sư có chia sẻ gì với những nhà báo về tinh thần Phật giáo?

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Chúng tôi tiếp xúc rất nhiều với các nhà báo, những người làm phim và làm phóng sự. Chúng tôi không muốn chỉ cung cấp thông tin cho họ, vì cung cấp thông tin không thì không đủ. Do đó chúng tôi cố gắng thiết lập mối liên hệ tình người với họ. Nếu các vị có khả năng lắng nghe, nhìn được bằng con mắt của từ bi, tha thứ, thương yêu thì quí vị có thể viết một bài phóng sự sâu sắc. Người đọc của quí vị cũng sẽ có cơ hội tưới tẩm hạt giống thương yêu, tha thứ, hiểu biết, chấp nhận. Còn nếu quí vị viết trên căn bản sợ hãi, hận thù thì bạn đọc cũng sẽ cảm nhận được điều đó.

    Do vậy, mỗi nhà báo đều có thể hành nghề ký giả như một vị Bồ Tát, mang yêu thương, hạnh phúc cho độc giả bằng cách tường thuật những gì đã nghe và đã thấy. Nhà báo cần phải được bình an trong trái tim, nhà báo phải có khả năng nhìn cho thật kỹ, lắng nghe cho thật rõ để hiểu nguồn cơn tại sao sự việc ấy lại xảy ra như thế này, hay như thế khác. Như vậy, nhà báo đang thực hành Phật-Pháp như một người chân tu.

    Trong con người chúng ta có một chiến sĩ, một nghệ sĩ và một tu sĩ. Và nếu chúng ta để cho cả 3 con người đó hoạt động cùng lúc với nhau thì chúng ta sẽ trở nên hạnh phúc. Nhà chiến sĩ muốn thành công, nhà nghệ sĩ phải làm thế nào cho đẹp và người tu sĩ phải tham dự vào đời sống để có khả năng tháo gỡ những đau khổ, khó khăn. Nhà báo sẽ thành công nếu để cho nhà chiến sĩ, nghệ sĩ, chân tu có cơ hội đóng góp vào sự nghiệp của mình.
     

    Những ai sẽ tiếp nối trọng trách của thiền sư Thích Nhất Hạnh?

    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Thiền sư là một người có uy tín, có ảnh hưởng ở trong nước và quốc tế, đã truyền bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới. Chúng tôi mong sẽ có những người tiếp nối trọng trách này của thiền sư. Vậy trong những hậu duệ thì thiền sư trông đợi vào những ai?

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Tôi may mắn có nhiều học trò xuất gia và tại gia mà tôi rất tin tưởng. Những năm gần đây thì học trò của tôi đã được gửi đi khắp nơi trên thế giới để tổ chức những khoá tu. Và họ đã chứng tỏ được họ có thể độ đời và giúp đời rất nhiều. Cho nên tôi rất an tâm. Nếu tối nay tôi phải thở hơi thở cuối cùng thì tôi cũng không tiếc nuối gì, bởi tôi nghĩ mình được tiếp nối xứng đáng. Tôi nghĩ rằng bố mẹ nào cũng có tâm trạng đó, thầy giáo, cô gíáo nào cũng có tâm trạng đó. Để tâm đến thế hệ tương lai, trao truyền cho thế hệ tương lai những gì quí nhất của mình là sứ mệnh rất quan trọng. Mai mốt, mình cũng phải từ giã cõi đời này thôi. Nên nếu mình bận rộn quá mà không trao truyền được cho con cháu mình và học trò, đệ tử của mình những gì quí giá thì tức là mình chưa làm tròn bổn phận của một người con, một công dân.

    Tôi xin khuyên các vị làm cha mẹ, làm thầy bớt bận rộn lại để có thì giờ ngồi với các con, cháu của mình, học trò của mình mà dùng ngôn từ thương yêu, ái ngữ, trao truyền tất cả những thương yêu, kinh nghiệm sống cho họ. Khi đó, mình có thể rời bỏ cuộc đời này không luyến tiếc.
     

    Tìm hạnh phúc cho dân, cho nước từ văn hoá tâm linh?

    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Thưa thiền sư, thiền sư có suy nghĩ gì về tương lai của đất nước Việt Nam ta, ít nhất là trong 10 năm tới?

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Tôi nghĩ, chúng ta phải tận dụng nền văn minh tinh thần của chúng ta mà đừng quá tin tưởng vào xã hội tiêu thụ Tây phương. Người Tây phương bây giờ khổ lắm, nhiều người tiền bạc rất nhiều, quyền lực rất lớn nhưng lại cực kỳ cô đơn, và phải tự tử. Chúng ta đừng theo dấu xe đổ của họ. Đừng tin rằng ta chỉ hạnh phúc nếu có tiền bạc, quyền lực…

    Chúng ta chỉ hạnh phúc khi có an trong lòng, có tình yêu và tình thương. Nếu chúng ta có thể an lạc trong từng giây phút của hiện tại thì chúng ta mới có thể có hạnh phúc. Vì vậy, chúng ta hãy trở lại kho tàng tuệ giác, văn minh của chúng ta đã có mà làm hạnh phúc cho dân, cho nước.

    Một điều rất rõ là trong 30, 40 năm vừa qua, chúng tôi đã sử dụng kho tàng tuệ giác đó của dân tộc Việt Nam để mang lại hạnh phúc cho biết bao người Tây phương. Tại sao họ có được hạnh phúc nhờ nó mà chúng ta thì không? Mình là chủ nhân của nền văn hoá tâm linh đó mà không khai thác được thì rất lãng phí. Chúng ta phải tu tập, học hỏi.

    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Giá trị tâm linh đó có phải là một trong những giá trị đặc sắc của Việt Nam đóng góp với kho tàng văn minh nhân loại không?

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Đúng như vậy. Chúng tôi đã truyền bá văn hoá đó, nếp sống, văn minh tinh thần đó trên thế giới. Mỗi khi người ta tu tập, nghe đến truyền thống đó, đọc sách đó thì ai cũng biết gốc của nó là từ Việt Nam.

    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Bạn đọc Phan Công Tuấn gửi đến VietNamNet kèm một đề xuất rất dài về vấn đề: Tệ nạn giao thông đang là một vấn đề lớn của người Việt Nam hiện nay. Đề nghị thiền sư tổ chức những khoá tu tập để giúp cho người Việt Nam có ý thức hơn trong việc tham gia giao thông, Trong 2 tháng ở VN, thiền sư có kế hoạch gì cho việc này không?

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Chúng tôi có thể đề nghị một vài ý tưởng cụ thể thế này: Người nào muốn có bằng lái thì phải qua một khoá tu 7 ngày, học về chánh niệm trong khi lái xe, học về phương pháp theo dõi hơi thở khi muốn lái xe hay muốn vượt một xe khác. Và cứ 6 tháng thì phải về tu tập 3 ngày trong một khoá tu như vậy để được nhắc nhở. Bộ Giao thông nên làm việc này, có những thầy, những sư cô sẽ tình nguyện giảng dạy không lấy tiền. Đó là một trong những điều chúng tôi có thể đề nghị được.

    Cố nhiên những người bị say không nên lái xe, do vậy thực tập 5 giới giúp mình trở thành người lái xe lý tưởng. Vấn đề là phải tổ chức sao để mọi người được nhắc nhở thường xuyên, và nếu không đi theo những lớp tu nghiệp như vậy thì không có quyền sử dụng bằng lái xe của mình mãi mãi. Xin bộ Giao thông lắng nghe!

    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Câu hỏi cuối cùng, thiền sư trông đợi gì ở đại lễ Phật đản Vesak tổ chức ở VN trong vài ngày tới?

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Tôi thấy đây là một vinh dự lớn. Phật tử bốn phương tới để tham dự sẽ thấy rằng Việt Nam đang trên con đường mở ra và đi lên. Chúng tôi trong dịp này đã cố gắng để đóng góp phần mình vào đại lễ. Chúng tôi đã đưa về chừng 500 thiền sinh ngoại quốc từ 40 quốc tịch. Trước khi vào tham dự đại lễ Phật đản, chúng tôi có một khóa tu "Đạo Phật đi vào cuộc đời" tu tập suốt 7 ngày, 7 đêm cho người nước ngoài. Rồi chúng tôi sẽ đem năng lượng đó, nội dung đó đi vào trong lễ Phật đản. Lễ Phật Đản này sẽ có nội dung rất sâu sắc chứ không phải chỉ có hình thức thông thường. Và trong lễ Phật Đản sẽ có những buổi hội đàm về những vấn đề nóng bỏng của thế giới như chiến tranh, hoà bình, năng lượng, môi trường, bạo động, căm thù… Các thiền sinh của chúng tôi đã được học hỏi nhiều năm sẽ tham dự vào các buổi tọa đàm như vậy. Tôi tin rằng đây là lần đầu tiên một lễ Phật Đản có nội dung rất là sâu sắc được tổ chức.

    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Cảm ơn thiền sư. Hy vọng những giá trị tinh thần cao quí của Phật giáo sẽ đi vào đời sống của dân tộc Việt Nam và lan tỏa trên thế giới, để dân tộc Việt Nam có nhân cách tốt, được bạn bè thế giới yêu mến, trân trọng. Xin cảm ơn Thiền sư đã tham dự bàn tròn với bạn đọc VietNamNet.

    http://www.tuanvietnam.net//vn/tructuyenvoitop/3665/index.aspx
    05-08-2008 12:23:14

     

     


     

     

    PHỎNG VẤN THIỀN SƯ NHẤT HẠNH
    Bùi Dũng

     

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã vận dụng giáo lý đạo Phật như thế nào để mong muốn hòa giải lòng người, thống nhất dân tộc? Và trong cuộc sống của chúng ta ngày nay, đạo Phật đóng vai trò như thế nào trong việc xây dựng nhân cách, lối sống và giữ gìn văn hóa dân tộc?

     

    “…Năm xưa khi đi ra ngoài để kêu gọi hòa bình, tôi có viết cuốn Hoa Sen Trong Biển Lửa (Lotus in sea of the fire) bằng tiếng Anh, được dịch ra nhiều thứ tiếng. Tôi nói rằng chiến tranh Việt Nam biến thành biển lửa nhưng mà có sức sống tâm linh trong đó, thành thử trong biển lửa nó có một sự kháng cự và có một đài hoa sen mọc lên mà không bị cháy trong lửa. Cái đó là đạo Phật của Việt Nam, cái đó là yếu tố làm cho mình không bị ngập tràn bởi bạo động, bởi căm thù, bởi chiến tranh…”

     

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh và TBT VietNamNet Nguyễn Anh Tuấn

     

    Đó là lời của thiền sư Thích Nhất Hạnh, người đứng đầu Thiền Phái Tiếp Hiện (còn gọi là “An trú trong hiện tại”) trong cuộc trò chuyện với Vietimes (chuyên trang của VietNamNet) tại thiền viện Bát Nhã – Lâm Đồng, năm ngoái.

    Trong những năm đất nước bị phân cắt, đặc biệt là giữa thập kỷ 60 của thế kỷ trước, Sư ông Thích Nhất Hạnh từng rất nổi tiếng vì những hành động phản chiến và tham gia lãnh đạo phong trào Phật giáo phản chiến.

    Năm 1966, dưới áp lực của chính quyền Việt Nam Cộng hòa, ông đã từng bị phải sống lưu vong. Từ đó đến giờ, đạo tràng Làng Mai tại Pháp và giáo phái Tiếp Hiện của thiền sư Thích Nhất Hạnh đã có sự lan tỏa mạnh mẽ ở phương Tây.

    Triết lý của Thiền sư Nhất Hạnh đã cho con người phương Tây nhận ra con đường giúp họ thoát khỏi bế tắc và sự u uẩn của đời sống tinh thần trong một xã hội hậu hiện đại. Và triết lý này cũng cần thiết với đời sống tinh thần của người Việt Nam nói chung, và giới chuyên gia, doanh gia nói riêng trước những đe doạ của một nhịp sống công nghiệp ngày một hối hả.

    Năm 2005, trong chuyến trở về Việt Nam đầu tiên kể từ khi đất nước thống nhất, thiền sư Thích Nhất Hạnh đã từng có rất nhiều nỗ lực “xóa khổ đau” của một dân tộc nhiều phân ly loạn lạc; xóa bỏ định kiến để con người gần nhau hơn bằng tình yêu thương và hiểu biết.

    Lần trở về thứ nhì năm ngoái, với “Đại trai đàn giải oan” được tổ chức ở cả ba miền Nam – Trung – Bắc, ông hoan hỉ nhận thấy: “Việt Nam ngày một cởi mở và tiến bộ hơn”. Mỗi  lần trở về và “ở lại” của ông trên đất Việt là mỗi lần cố gắng kéo người Việt gần nhau thêm để dân tộc thực sự hòa giải và thống nhất.

    Chúng tôi dùng hình thức lắng nghe và ái ngữ để dung hoà và kêu gọi hòa giải. Quan điểm của tôi là ôm lấy cả hai bên, không gây thù oán. Tình thương đích thực có chất liệu của sự kiên nhẫn và không có kỳ thị” (Người Viễn xứ – chuyên trang của VietNamNet).

    Dùng tình thương để xóa bỏ hận thù là tinh thần, là triết lý của Phật giáo. Nhập thế một cách hữu hiệu nhất của người hiểu Phật pháp là lan tỏa tinh thần tốt đẹp của đạo Phật để giúp con người làm được nhiều điều tốt, sống có ích hơn trên thế gian này.

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã vận dụng giáo lý đạo Phật như thế nào để mong muốn hòa giải lòng người, thống nhất dân tộc? Và trong cuộc sống của chúng ta ngày nay, đạo Phật đóng vai trò như thế nào trong việc xây dựng nhân cách, lối sống và giữ gìn văn hóa dân tộc?

    Đó là chủ đề của buổi trực tuyến giữa nhà báo Nguyễn Anh Tuấn (TBT Báo điện tử VietNamNet) và thiền sư Thích Nhất Hạnh vào lúc 15:00 – 04.05.2008 tại toà soạn báo VietNamNet nhân dịp thiền sư và tăng thân Làng Mai về Việt Nam tham dự Đại lễ Phật đản.

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh xuất hiện tại Tòa soạn với gương mặt và ánh mắt hiền từ. Đi cùng Thiền sư là 6 vị tăng, ni – những học trò của Thiền sư. Cuộc trò chuyện, đối thoại được bắt đầu với hai bức thư pháp được Thiền sư viết trên tấm toan trắng: "Từng bước nở hoa sen" và "Lắng nghe để hiểu, nhìn lại để thương".

     

    Nội dung đó, thật tình cờ, với diễn giải của Thiền sư, cũng là chủ đề chính của cuộc Bàn tròn: Để yêu thương hơn, hạnh phúc hơn và đi qua đau khổ.

    1. Chủ đề đầu tiên về tình hình đạo Phật trên thế giới. Theo Thiền sư Thích Nhất Hạnh, đạo Phật Tây phương đang phát triển mạnh, được giới trẻ, giới khoa học và nhiều tầng lớp dân chúng hâm mộ, yêu thích. Các khóa thực tập cho nhiều giới đã được mở ra thường xuyên (ở Mỹ có khóa cho các nghệ sĩ Hollywood, cho các vị dân biểu Hoa Kỳ…).

    "Đạo Phật đi vào cuộc đời. Nhờ vậy, mỗi có thể thừa hưởng kho tàng tuệ giác, được tháo gỡ những khó khăn, bế tắc gặp phải trong đời sống nội tâm", Thiền sư nói.

    Với ý hỏi về sự nảy mầm của đạo Phật ở những vùng đất mà các đạo giáo khác như Tin lành, Thiên Chúa đã ngự trị từ lâu; thiền sư Thích Nhất Hạnh nói tiếp: Đó là vì đạo Phật đã đưa ra được những phương pháp thực tập rất thực tế, đã hiện đại hóa. Chính trong đạo Phật, nhiều người đã tìm ra ý nghĩa của các đạo giáo khác, tìm thấy sự hòa hợp.

    2. Sự an lạc trong thân và trong tâm – đó một ý nghĩa to lớn mà đạo Phật đã đem đến mọi người. Sự an lạc đó càng có ý nghĩa hơn trong đời sống hiện đại hôm nay khi con người  đứng trước sự lựa chọn: sống ở hiện tại hay sống vì tương lai hoặc cho quá khứ.

    "Phật học ứng dụng không chỉ là Phật giáo tín ngưỡng. Người Tây phương theo Phật học ngày càng nhiều không phải được vì tín mộ mà là được thực tập. Những khoá tu thường có trên 1000 ngàn người, trong 6, 7 ngày. Khi đó, mỗi người lấy ra những căng thẳng trong tâm, nhận diện căng thẳng, sự sợ hãi… từ đó có sự lắng dịu trong thân và tâm… hiểu thấu được những khó khăn, bức xúc…".

    Thành công và hạnh phúc dưới góc nhìn Phật pháp của Thiền sư, đó là khi "có tình thương và sự hiểu biết". Khi có hiểu biết lớn, thương yêu lớn thì có hạnh phúc lớn. Hiểu sâu thì thương nhiều.

    "Có khả năng sống trong giây phút hiện tại thì đó là nghệ thuật sống. Biết sống an lạc trong hiện tại thì tự tại đi tới tương lai. Quá khứ đi qua, tương lai chưa tới. Giây phút hiện tại là thực sự sống. Do đó cần an trú trong giây phút hiện tại… Hiện tại không có hạnh phúc thì làm sao có hạnh phúc trong tương lai", Thiền sư nói.

    3. Theo Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Đạo phật có tiềm lực lớn. Giống như mỏ dầu hỏa, cần làm sao để khai thác, đem tới hạnh phúc cho dân.

    "Lắng nghe để hiểu, nhìn lại để thương".

     

    Ở phương Tây điều kiện để hiện đại hóa đạo Phật đã diễn ra nhanh chóng. Ở Việt Nam cũng đang có nhiều điều kiện để hiện đại hóa. Lúc này những người đến với đạo Phật cần được thực tập nhiều chứ không chỉ dừng lại ở sự tín mộ. Mỗi người chúng ta cần có chiều hướng tâm linh để tháo gỡ bức xúc trong đời sống hàng ngày..

    Thành công của đạo Phật là dám làm mới đạo Phật, đưa ra một đạo Phật thích hợp với tuổi trẻ, trí thức bây giờ. Kết quả là đạo Phật đi vào gia đình, học đường, xã hội và có những "tăng thân" (trong một thành phố, mỗi hội sở…) – đó là nơi có mọi người biết "lắng nghe để hiểu và nhìn lại để thương".

    4. Có thể áp dụng đạo Phật để buông bỏ tất cả hận thù trong quá khứ, thống nhất lòng người, ôm lấy nhau như đồng bào cả nước.

    Thiền sư đã đưa ra hai ví dụ về sự "thống nhất lòng người, hòa hợp dân tộc". Ở Ấn Độ, A Dục vương chọn cách thống nhất nhân tâm sau khi thống nhất lãnh thổ. Với Thiền sư, lần trở về trước (năm 2007), "chúng tôi làm lễ cầu siêu cho tất cả. Những người dân thuộc các giới khác nhau cùng cầu nguyện cho nhau, khóc thương cho những người đã chết, bông bỏ những hận thù khổ đau trong quá khứ, thống nhất lòng người".

    Như thế, hiện đại hoá đạo Phật thì đạo Phật sẽ đóng góp rất nhiều trong sự nghiệp hiện đại hoá dân tộc.

    5. "Trong đời sống, đạo Phật là thực tập để sống vô ngã. Người xuất gia nắm được tuệ giác vô ngã thì không thấy cha và con là hai người riêng biệt. Trong con có cha, cha là sự tiếp nối của cha. Vị sư tăng mà nắm được điều đó thì không cho mình là nhất, nếu không thì tội nghiệp cho họ. Ý chí muốn tu học là một chuyện, thành công là chuyện khác", Thiền sư lý giải.

    "Nhiều người nghĩ Phật là thần linh, cầu nguyện là đút lót. Đó là sự hiểu lầm đạo Phật rất nhiều. Có người nghĩ thất bại trong cuộc đời thì mới đi xuất gia. Có thời đại cho rằng theo tôn giáo là duy tâm, mê tín, không lành mạnh. Đó là sai lầm. Đạo phật thực tập như nghệ thuật sống".

    6. Trong thế giới và trong từng cộng đồng ngày nay, "tăng thân" rất quan trọng; vì quy pháp rồi phải quy tăng (tăng là đoàn thể – community, có người xuất gia, có người tại gia). Tăng trở thành chỗ nương tự cho nhiều người.

    "Một Quốc hội cũng có thể trở thành Quốc hội tăng, họ lắng nghe nhau, hiểu nhau, có lợi cho đất nước. Tôi mong Liên Hợp Quốc trở thành tăng thân. Khi đó không phải nói gì là vì quyền lợi quốc gia không thôi mà không phải vì quyền lợi trái đất", Thiền sư nói.

    "Cuộc chiến tranh Iraq căn bản là sự hiểu lẫm, oán thù. Sợ hãi nhau thì muốn loại trừ nhau để được an ninh. Nghĩ người kia giết mình thì sợ hãi, trước khi người khác giết mình thì mình phải giết họ.

    Sợ hãi do tri giác sai lầm mà ra. Hoa Kỳ có tri giác sai lầm về Iraq và ngược lại. Tri giác sai lầm đem tới sợ hãi, nghi ngờ, bạo động. Thế nên cần lấy tri giác sai lầm ra, ngồi lại lắng nghe để hiểu nhau. Tri giác sai lầm sao có thể lấy đi bằng bạo lực!

    Tổng thống Bush là một trong những người đau khổ nhất của thế giới. Làm sao ngủ ngon khi biết con em mình mỗi ngày chết ở Iraq. Sa lầy trong chiến tranh Iraq mà nuốt không vào, khạc ra cũng không được… Quyền năng thế gian không đủ đưa lại hạnh phúc, quyền năng tâm linh thì mới có đủ".

     

    7. Với những vấn đề thiết thực của Việt Nam, ví dụ lạm phát đang diễn ra hay cách nào để tĩnh tâm trước những tham lam, dục vọng…, Thiền sư có những dẫn giải riêng với những câu hỏi mà bạn đọc gửi đến.

    "Không phải có nhiều tiền bạc, quyền hành mới hạnh phúc. Có khả năng sống đơn giản, hạnh phúc, thương yêu nhau, đó là con đường không chỉ của VN mà còn trên thế giới",  Thiền sư nói.

    Thiền sư làm gì cho cộng đồng người Việt ở Hoa Kỳ quên đi quá khứ? – một bạn đọc hỏi. Thiền sự Thích Nhất Hạnh: "Có những người rất khó để quên đi quá khứ. Họ không bao giờ tha thứ cho những người đã khiến họ mất đi những địa vị đã có. Không có hiện tại thế nên họ không có tương lai. Nếu cứ ôm khư khư hận thù, giam hãm quá khứ thì rất tội nghiệp. Một ngày tỉnh thức nào họ thấy được điều đó thì họ được giác ngộ".

    Và Thiền sư Thích Nhất Hạnh còn trả lời nhiều câu hỏi lý thú, đầy ý nghĩa khác, ví dụ câu hỏi của một bạn đọc: "Ý chí, hồn thiêng dân tộc ngày hôm nay có thể một lần nữa tích tụ và sinh ra cá nhân kiệt xuất? Thiền sư sẽ đàm luận gì khi đối diện với con người kiệt xuất đó?…".

    "Dân tộc, cộng đồng, khi đồng bộ sẽ tạo ra được sự nghiệp lớn. Mỗi người là một phần của sự nghiệp lớn...", Thiền sư gợi mở. Và mỗi con người như Thiền sư nói, cần mang ba phẩm chất: Chiến sĩ, nghệ sĩ và tu sĩ.

    Những tâm sự và kiến giải đầy lý thú của Thiền sư Thích Nhất Hạnh sẽ sớm được chuyển tài đầy đủ đến quý độc giả.

     

    Bùi Dũng
    (tuanvietnam.net)
    05-04-2008 05:25:12

    Tăng thân yêu quý

    Giấc mơ của Mục sư Martin Luther King Jr. và chuyến trở về miền Nam nước Mỹ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh

    (BBT chuyển ngữ từ bài viết “Beloved Community: Influenced by King’s teachings, Buddhist leader returns to Mid-South” của tác giả David Waters, đăng trên tờ Commercial Appeal – một tờ báo lớn của thành phố Memphis, ngày 28/9/2013)

     

    Giây phút hạnh phúc

    Cách đây mười một năm, vào năm 2002, có một cậu bé mười tuổi được nắm tay một vị thầy đi thiền hành trong yên lặng cùng với hàng trăm người khác nữa. Họ đi ngang qua công viên Overton với những bước chân bình an và chậm rãi – một hành động tưởng nhớ đến nhà lãnh đạo phong trào bất bạo động Martin Luther King Jr.

    Họ cùng nhau thiền hành qua những hàng cây tỏa bóng mát, nhẹ nhàng như làn gió trong nắng sớm. Nơi đó cách chỗ Mục sư Martin Luther King Jr. bị ám sát khoảng 8 km, cách nhà cậu bé ở Bắc Mississippi khoảng 97 km và cách Việt Nam – quê hương của vị thầy hơn 14000 km. Khi đó, cả cậu bé và vị thầy đều không thể nào tưởng tượng được khung cảnh mà họ sẽ gặp lại nhau hơn một thập kỷ sau.

    Vị thầy đó là thiền sư Thích Nhất Hạnh, năm nay đã 87 tuổi, một trong những vị thầy tâm linh được thế giới kính ngưỡng nhất. Thầy cũng là người chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi cuộc đời của Mục sư Martin Luther King Jr. và cả sự ra đi của ông. Thầy Nhất Hạnh hiện đang hướng dẫn khóa tu chánh niệm cho một ngàn người tại tu viện Mộc Lan – một tu viện Phật giáo của người Việt tại phía Bắc tiểu bang Mississippi.

    Cậu bé ngày xưa tên là Alan Hồ, nay đã trở thành thầy Pháp Triển, 21 tuổi, một vị xuất sĩ trong tăng thân Làng Mai. Cậu cũng đang tham gia hướng dẫn khóa tu tại Mộc Lan, trung tâm tu học mà ông Bình – cha của cậu, một người Việt nhập cư – là một trong những người đồng sáng lập. Cách đây 11 năm, chính ông Bình đã dẫn cậu con trai của mình tham gia cuộc đi bộ vì hòa bình tại công viên Overton và từ đó ông mong ước đem những lời dạy của Thầy Nhất Hạnh đến cho mọi người ở vùng châu thổ sông Mississippi (Mississippi Delta) ở miền Nam nước Mỹ – nơi gia đình ông đang sinh sống.

    “Chúng tôi coi việc xây dựng tu viện Mộc Lan là hành động đem Tăng thân yêu quý (Beloved Community) mà mục sư Martin Luther King Jr. hằng mơ ước về với quê hương của nó” – thầy Pháp Triển chia sẻ khi đang ngồi cùng với một người bạn trong khuôn viên của tu viện Mộc Lan, tọa lạc gần thành phố Batesville thuộc tiểu bang Mississippi. Từ năm 2010 đến nay, tu viện Mộc Lan đã trở thành nơi thường trú của hơn 32 thầy và sư cô đến từ nhiều trung tâm tu học của Làng Mai.

     

    Thầy dạy cho các cháu cách bắt ấn

    Trong một tuần qua, có hơn 100 vị xuất sĩ và 900 cư sĩ trên khắp nước Mỹ đã về tu viện Mộc Lan để được học hỏi và thực tập nghệ thuật sống chánh niệm từ Thiền sư Thích Nhất Hạnh – một trong những vị thầy tâm linh có ảnh hưởng lớn nhất ở phương Tây trong lĩnh vực Phật giáo, chỉ đứng sau Đức Đạt Lai Lạt Ma.

    Thầy Nhất Hạnh đã đi qua ba cuộc chiến tranh khốc liệt trên quê hương Việt Nam. Thầy đã dẫn đầu Phái đoàn Phật giáo Việt Nam trong cuộc đàm phán hòa bình Paris nhằm chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam. Vì lập trường chống chiến tranh đó mà Thầy Nhất Hạnh đã bị lưu vong hơn ba mươi năm.

    Bốn mươi năm sau khi Hiệp định hòa bình Paris được ký kết năm 1973, Thầy Nhất Hạnh giờ đây đang có một chuyến hoằng pháp tại Bắc Mỹ trong ba tháng. Thầy đã hướng dẫn một ngày thực tập chánh niệm tại trụ sở của Ngân hàng thế giới (World Bank) ở Washington và tại trường Đại học Y tế Cộng đồng Harvard (Harvard School of Public Health) ở Boston.

    Trong một tuần qua, tại tu viện Mộc Lan – một trong ba trung tâm tu học của Làng Mai tại Mỹ, Thầy Nhất Hạnh đã hướng dẫn một khóa tu với chủ đề “Healing Yourself is Healing the World” (Trị liệu cho bản thân ta là trị liệu cho cả thế giới). Khóa tu sẽ kết thúc vào ngày Chủ nhật.

    Thiền hành tại tu viện Mộc Lan

    Hàng trăm thiền sinh tham dự khóa tu đã cắm lều hoặc ngủ trong các xe “camper” chuyên dùng cho cắm trại trong khuôn viên rộng 120 mẫu tây của tu viện, được bao bọc bởi những rừng cây. Một số thiền sinh thì ở trong các căn phòng tập thể tương đối nhỏ hẹp của tu viện. Hàng trăm thiền sinh khác thì ở những khách sạn hoặc có nhà gần đó.

    Trong thời gian khóa tu, các bạn thiền sinh thức dậy từ lúc 5h15 sáng và bắt đầu các thời khóa như thiền tọa, thiền hành, thiền làm việc (chẳng hạn như rửa chén trong chánh niệm), thiền buông thư…và hoàn toàn không sử dụng điện thoại di động.

    “Chúng tôi muốn tạo cơ hội cho các bạn thiền sinh được nếm một chút hương vị của nếp sống chánh niệm và bình an. Tôi thường gọi đó là cảm giác của “ngày Chủ nhật tuyệt vời” (Sunday feeling)” – chia sẻ của sư cô Hiến Nghiêm, một sư cô người Anh vốn được sinh ra và lớn lên giữa lòng những ngôi giáo đường của Anh Giáo và Tin lành.

    “Trong xã hội ngày nay, mọi người đều có một cuộc sống quá bận rộn. Không phải lúc nào bạn cũng có thể dừng lại những gì mình đang làm. Vì vậy mà chúng tôi có mặt ở đây trong khóa tu này để giúp các bạn sống chậm lại và dừng những rong ruổi, tìm cầu để thực sự có mặt trong giây phút hiện tại, ít nhất là trong một tuần lễ”, sư cô Hiến Nghiêm chia sẻ thêm.

    Sự có mặt của Thiền sư Nhất Hạnh với giọng nói nhẹ nhàng và hóm hỉnh không những mang lại cho các bạn thiền sinh cơ hội được nếm hương vị của giáo lý và pháp môn thực tập của đạo Bụt, mà còn nhiều hơn thế nữa.

    Mỗi buổi sáng, hàng trăm thiền sinh có mặt tại thiền đường Thủy Triều Lên (Rising Tide) để ngồi yên lặng trong tư thế thiền tọa, chăm chú lắng nghe những lời dạy của Thiền sư. Bài pháp thoại có thể kéo dài trong 1 giờ hoặc 2 giờ đồng hồ.

    “Một bài pháp thoại hay cũng giống như một cơn mưa. Nó tưới tẩm những hạt giống hiểu biết, thương yêu, hạt giống từ bi trong chiều sâu tâm thức của ta”, Thầy chia sẻ.

    Thầy còn kể những câu chuyện thú vị như: một ngày nọ, Bụt cùng một số đệ tử của Người đang đi trên đường thì gặp một bác nông dân đang sầu khổ và lo lắng vì chưa tìm được bốn con bò bị lạc. Nếu không tìm được mấy con bò này thì không biết bác phải sống ra sao. Sau khi bác nông dân đi khỏi, Bụt mới quay sang các đệ tử của mình và nói: quý thầy có thấy là mình rất may mắn không? vì quý thầy không có con bò nào để mất cả.

    Vui chơi cùng các cháu

    Trong buổi vấn đáp, Thầy trả lời những câu hỏi của thiền sinh đôi lúc rất dí dỏm. Có một thiền sinh đặt câu hỏi: “Thưa Thầy, nếu con đứng giữa hai con đường và không biết phải chọn lối nào để đi thì con phải làm gì?”.  Thầy tủm tỉm trả lời: “Thì anh phải chọn một trong hai thôi”.

    Trong chiếc áo tràng nâu giản dị, Thầy chia sẻ với mọi người về ý nghĩa của những pháp môn như: thực tập buông bỏ; dừng lại và nhìn sâu; thực tập vô tác; thực tập ái ngữ và lắng nghe; thực tập chánh niệm và chế tác bình an trong khi đi đứng, nói năng và suy nghĩ.

    Có một thiền sinh hỏi Thầy rằng liệu những người Phật tử có nên tham gia vào những phong trào bất tuân dân sự (civil disobedience) để phản đối chiến tranh hoặc chống lại những hành vi bạo lực hay không. Thầy trả lời rằng: “Cách tốt hơn là xây dựng một tăng thân có bình an, có tình huynh đệ – một “tăng thân yêu quý”- để làm gương cho mọi người noi theo, để mọi người thấy rằng mình có thể sống một nếp sống tốt đẹp hơn”.

    Thầy chia sẻ rằng Thầy bắt đầu dùng cụm từ “tăng thân yêu quý” từ khi gặp Mục sư Martin Luther King Jr. vào năm 1965 và năm 1966. “Tôi nhớ lần cuối cùng gặp Mục sư King, chúng tôi chia sẻ với nhau về việc xây dựng tăng thân. Nhưng không may là sau cuộc gặp gỡ đó không lâu thì Mục sư bị ám sát. Kể từ đó, tôi nguyện rằng dù đang bị lưu vong, tôi cũng sẽ nỗ lực gấp đôi và để hết tâm sức vào việc xây dựng Tăng thân yêu quý – điều mà chúng tôi đã chia sẻ cùng nhau”.

    Được trao giải Nobel Hòa bình năm 1964, Mục sư Martin Luther King Jr. đã đề cử Thầy Nhất Hạnh cho giải Nobel Hòa bình năm 1967, trong lúc cuộc chiến tranh Việt Nam đang diễn ra ác liệt. Cuộc gặp gỡ với Thầy Nhất Hạnh đã thúc đẩy Mục sư King đi đến quyết định công khai phản đối cuộc chiến tranh Việt Nam vào năm đó. “Cá nhân tôi không thấy ai xứng đáng được trao giải Nobel Hòa bình hơn vị thầy tu Phật giáo đến từ Việt Nam này” – Mục sư King đã viết những lời này cho Ủy ban Nobel. Tuy nhiên, giải Nobel Hòa bình của năm đó không được trao cho ai cả.

    “Thầy đã nói với Mục sư King rằng ông chính là một vị Bồ tát – một bậc giác ngộ” – đó là chia sẻ của sư cô Chân Không – một đệ tử lớn của Thầy Nhất Hạnh, người luôn đồng hành cùng Thầy từ cuối những năm 50 của thế kỷ trước.

    Tuần vừa qua, một số quý thầy và sư cô Làng Mai đã đến thăm Viện Bảo tàng Dân quyền  Quốc gia để tỏ lòng kính ngưỡng đối với những đóng góp vì hòa bình của Mục sư Luther King và vị thầy tâm linh của họ.

    “Hôm nay, Thầy không trực tiếp đến đây được, vì vậy mà tôi mang Thầy trong trái tim và trong những bước chân thiền hành của tôi khi đến nơi này, một nơi thật thiêng liêng”, chia sẻ của sư cô An Nghiêm – một người Mỹ gốc Phi, có truyền thống Thiên Chúa Giáo; sư cô đã từ bỏ công việc của mình trong lĩnh vực chính trị ở Washington cách đây một vài năm để trở thành một sư cô của Làng Mai như hiện nay.

    “Tôi thực sự xúc động khi nghĩ rằng sau bao nhiêu năm, sự nghiệp vì hòa bình và xây dựng tăng thân mà Mục sư Martin Luther King Jr. và Thầy Nhất Hạnh đã nỗ lực cùng nhau vẫn đang được gìn giữ và tiếp nối trên mảnh đất này”, sư cô An Nghiêm chia sẻ.

    Xem bài tiếng Anh tại đây: Nhat Hanh brings Dharma to Delta


    Thi kệ của Sư Ông Làng Mai tại phi trường Denver, USA

    Tại phi trường Denver, tiểu bang Colorado Hoa Kỳ, hành khách được đọc thi kệ “Đã về đã tới” của Sư Ông trên một tấm pa nô có bề dọc là 2.5 m và bề ngang dài 3m. Chúng tôi không được biết là tấm pa nô này được trưng bày ở đó bao lâu. Chỉ biết là trong khi còn nằm ở đó, mỗi ngày, phi trường hiến dâng cho hành khách câu nhắn nhủ của Sư Ông rằng đích đến của họ đang nằm trong mỗi bước chân.

    Bài thi kệ đó là:

    I have arrived,    (tôi đã tới)
    I am here           (tôi đã về tại đây)

    My destination is  (Nơi tôi tới

    in each step          đang nằm trong mỗi bước chân )


    Mời các bạn xem cho vui và cùng thực tập đi những bước chân vững chãi để “quê hương đi về trên mỗi bàn chân”, bạn nhé!


    Thiền sư Thích Nhất Hạnh: “Viết thư pháp là một môn thiền định”

    Nâng chén trà trên hai tay, Thiền sư Thích Nhất Hạnh chậm rãi nhấp từng ngụm nhỏ nhẹ. Khuôn mặt ngài thư thái. Thời gian như ngưng đọng. Mấy trăm khách mời đang chăm chú xem các đệ tử của ngài bày bút nghiên, mực, giấy dó lên bàn viết, háo hức chờ đợi cái thời khắc ngài biểu diễn thư pháp thiền nhưng trước mắt vị thiền sư lúc này, dường như chỉ có sự hiện diện của chén trà nóng đang tỏa hương.

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh_radiovietnam.vn

    Nhấp ngụm trà thứ ba, cảm nhận trọn vẹn cái hương thơm, vị đượm của trà, Thiền sư Thích Nhất Hạnh nghiêng chén, chậm rãi châm một ít trà vào nghiên mực rồi nhẹ nhàng cầm ngọn bút, chấm mực, viết. Toàn thân ngài tĩnh lặng, bàn tay ngài với những ngón tay thanh mảnh chậm rãi đưa từng nét bút đều đặn. “This is it”. (Tạm dịch: Nó đây rồi. Cái mà ta tìm kiếm đây rồi”. “Present moment, wonderful moment” (An trú trong hiện tại, giây phút đẹp tuyệt vời). “Breathe and smile” (Thở và cười)…

    Viết xong mỗi bức, ngài mỉm cười nâng bức thư pháp cho quan khách xem. Cả khán phòng bừng lên niềm ngạc nhiên, thích thú và hạnh phúc trước nguồn tuệ giác của vị thiền sư già qua từng nét chữ đậm chất thiền.

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh_radiovietnam.vn

    Sau hàng loạt các cuộc triển lãm thư pháp thiền gây tiếng vang lớn ở Pháp, Đức, Canada, Thái Lan, Đài Loan và Hồng Kông, đêm ngày 5 tháng 9 năm 2013, Cuộc triển lãm với chủ đề “Thiền thư pháp: Nghệ thuật chánh niệm của Thiền sư Thích Nhất Hạnh” đã chính thức khai mạc tại ABC home, New York (Mỹ), thu hút sự quan tâm đông đảo của những người mộ điệu và giới truyền thông quốc tế.

    Đây cũng chính là một trong những hoạt động nằm trong chương trình Hoằng pháp của Thiền sư Thích Nhất Hạnh kéo dài suốt hai tháng trên đất Mỹ. Hàng trăm tác phẩm được trưng bày chính là kinh nghiệm thiền định trong cuộc sống cho những người thưởng ngoạn. “Không có bùn, không có sen”, “Đi như một dòng sông”, “Hòa bình trong mình. Hòa bình trong thế giới”… Những dòng chữ ngắn gọn, giản dị mà sâu sắc ấy đã trở thành những thiền ngữ chứa đựng trong đó giáo lý căn bản của đạo Phật, nhắc nhở mọi người những niềm vui luôn song hành cùng nghệ thuật sống chánh niệm.

    Người xem tranh của Thiền sư Thích Nhất Hạnh_radiovietnam.vn

    “Trong thư pháp của tôi, có mực, trà, hít thở, chánh niệm và tập trung. Viết thư pháp là một môn thiền định. Tôi viết các từ hoặc câu mà có thể nhắc nhở mọi người về thực hành chánh niệm. Khi viết thư pháp, tôi luôn tìm cách viết như thế nào để có thể chế tác và duy trì được năng lượng niệm, định, tuệ và từ bi trong suốt thời gian viết. Khi bắt đầu vẽ một vòng tròn, tôi thở vào và vẽ nửa vòng tròn trong khi thở vào, rồi tôi thở ra và vẽ nửa vòng còn lại trong khi thở ra. Trong suốt thời gian vẽ vòng tròn, tôi cũng đồng thời ý thức rằng trong bàn tay này của tôi có bàn tay của cha, của mẹ, của ông bà tổ tiên. Vì vậy mà khi tôi vẽ vòng tròn này thì cha, mẹ, ông bà tổ tiên và cả các vị thầy tâm linh của tôi cũng đang vẽ cùng tôi. Và vì chúng tôi cùng nhau vẽ vòng tròn này nên không hề có một cái ngã riêng biệt. Do vậy, chỉ vẽ một vòng tròn thôi nhưng ta có thể có được tuệ giác về vô ngã (anatta)” – Thiền sư Thích Nhất Hạnh chia sẻ.

    Người xem tranh của Thiền sư Thích Nhất Hạnh_radiovietnam.vn

    Chính sức mạnh từ phương pháp thiền tập và tuệ giác đó đã làm cho nghệ thuật thư pháp của Thiền sư Thích Nhất Hạnh trở nên đặc biệt và được nhiều người yêu thích trên khắp thế giới. “Mọi người đều muốn đem năng lượng của Thầy về nhà. Bức thư pháp Thầy viết chứa đựng năng lượng mà Thầy đã chế tác ra, đó là năng lượng hiểu biết, thương yêu và chánh niệm”. Một quan khách người Pháp đã hoan hỉ chia sẻ sau khi mua bức thư pháp: “Breathe, you are alive” (Thở đi con và ý thức rằng con đang sống).

    Tại cuộc triển lãm, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã đề nghị những người tham dự buổi triển lãm thư pháp thực tập im lặng và giữ chánh niệm trong suốt buổi tham quan. “Ta cần duy trì hơi thở chánh niệm và đem tâm trở về với thân. Khi ta thực sự có mặt thì ta có thể để cho năng lượng của bức thư pháp đi vào trong trái tim ta. Trong chiều sâu tâm thức của ta có hạt giống của hiểu biết, thương yêu, hạt giống của niềm vui, hạt giống của tuệ giác, của giác ngộ. Nếu chúng ta để cho năng lượng của bức thư pháp đi vào và tiếp xúc với hạt giống tuệ giác trong ta thì chúng ta sẽ có được sự giác ngộ mà chúng ta mong muốn. Vì vậy khi chúng ta đi thật chậm qua các bức thư pháp và để cho năng lượng của bức thư pháp đi vào trong ta và tiếp xúc, tưới tẩm những hạt giống đẹp và lành nơi ta thì chúng ta sẽ được chuyển hóa và trị liệu trong thời gian đi xem các tác phẩm thư pháp. Nửa giờ trong phòng triển lãm là nửa giờ thiền tập. Nếu làm được như vậy thì khi bước ra khỏi phòng triển lãm, chúng ta có thể trở thành một con người hoàn toàn mới”.

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh_radiovietnam.vn
    Phóng viên đã có cuộc trò chuyện với thiền sư Thích Nhất Hạnh bên lề Cuộc triển lãm tại New York:
    PV: Thiền sư bắt đầu thực hành thư pháp từ bao giờ ạ?

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Tôi bắt đầu viết thư pháp vào năm 1994 chỉ với mục đích là làm phương tiện để nuôi dưỡng các học trò của mình trong nghệ thuật sống chánh niệm. Thư pháp của tôi không xuất sắc gì mấy. Vậy mà tập viết hoài ngó cũng được. Càng viết, chữ càng ngó được hơn.

    Năm 1999, trong chuyến thăm Trung Quốc, một phật tử có mang theo nhiều giấy, bút và mực. Anh xin tôi viết mấy chục tấm để bán lấy tiền cúng dường chùa tổ Lâm Tế, thuộc thành phố Thạch Gia Trang, tỉnh Hà Bắc. Anh nói đa số những người trong phái đoàn đi Trung Quốc là người Tây phương nên tôi có thể viết chữ tiếng Anh. Tôi chiều lòng anh. Và số tiền bán chữ đã lên tới hàng ngàn đô-la. Phái đoàn đã cúng dường toàn bộ số tiền cho chùa tổ Lâm Tế để giúp vào quỹ mua thêm đất và xây cất thêm tăng viện. Hòa thượng trụ trì Hữu Minh rất cảm động.

    Vào lễ giáng sinh năm đó, nhiều minh tinh màn bạc nổi tiếng Hollywood như Marlon Brando, Jack Nicholson, Sean Penn… cũng nhận được nhiều bức thư pháp tôi viết do bạn hữu của họ tặng. Mỗi khi trao đổi thư pháp với các vị tọa chủ các chùa lớn ở Trung Quốc, Hàn Quốc, tôi cũng viết chữ Tây cho lạ. Số thư pháp tôi đã viết, tính đến nay ước chừng cũng hơn 10.000 tác phẩm. Số tiền thu được dùng để tài trợ cho các chương trình nhân đạo tại các nước đang phát triển.

    PV: Ở Việt Nam, thư pháp phát triển khá mạnh. Song hầu hết các nhà thư pháp Việt đều viết bằng chữ Hán. Tại sao thiền sư lại chỉ viết thư pháp bằng tiếng Anh và tiếng Việt?

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh:
    Chữ Hán tôi viết rất ít vì hiện giờ ít người đọc được chữ Hán. Tôi thấy những bức chữ Anh, chữ Việt hoặc chữ Pháp lồng kính treo lên cũng đẹp vô cùng và khi đọc, người ta hiểu liền. Tôi cũng có viết nhiều câu đối chữ Việt và cả chữ Âu Mỹ nữa. Tôi chỉ viết những chữ mà khi treo lên người ta có thể thực tập theo được mà thôi. Có thể kể tên một số tác phẩm thư pháp được mọi người yêu thích nhất như: Breathe, you are alive (Thở đi, bạn đang là sự sống màu nhiệm). “The tears I shed yesterday have becam rain” (Nước mắt ngày xưa nay đã thành mưa”. “Be beautiful, be yourself” (Bạn chỉ đẹp khi là chính bạn). I have arrived, I am home (Con đã về, con đã tới)…

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh_radiovietnam.vn

    Mỗi tác phẩm thư pháp đều là một đề tài thiền tập. Chẳng hạn như bức thư pháp “Be beautiful, be yourself”. Ta phải là chính ta thì ta mới đẹp. Ta không cần phải trở thành một ai khác. Ví như một đóa sen, tự thân nó đã rất đẹp, nó không cần phải cố gắng để biến thành hoa hồng hay một loại hoa khác mới đẹp. Trong mỗi chúng ta đều có hạt giống của niềm vui, của thương yêu và hạnh phúc. Nếu chúng ta để cho những hạt giống này được biểu hiện thì ta sẽ trở thành một đóa hoa đẹp trong vườn hoa của nhân loại.

    Hay bức thư pháp “Let go and be happy” (Buông bỏ để có hạnh phúc). Buông bỏ ở đây nghĩa là buông bỏ những ham muốn, hờn giận, và buông bỏ luôn cả ý niệm của ta về hạnh phúc. Mỗi người trong chúng ta đều có một ý niệm về hạnh phúc. Chúng ta nghĩ rằng chúng ta cần phải có cái này hoặc cái kia thì mới có thể hạnh phúc. Nhưng chúng ta đâu biết rằng: chính cái ý niệm về hạnh phúc đó lại là chướng ngại để chúng ta có hạnh phúc thực sự. Nếu chúng ta can đảm buông bỏ ý niệm đó thì hạnh phúc sẽ đến với chúng ta ngay lập tức.

    PV: Bức thư pháp tiếng Việt nào của thiền sư được người Việt yêu thích nhất?


    Thiền sư Thích Nhất Hạnh:
    Bức mà Phật tử Việt Nam yêu thích nhất là bức có ba chữ: “Thở đi con”. Ai cũng muốn thỉnh một bức về treo trong phòng khách để khi có chuyện bất an thì nhớ mà thực tập. Còn khi bình thường mà thực tập thì nuôi dưỡng thêm hạnh phúc đang có.

    Có những bức tôi viết trọn một vài câu thơ hay cả bài thơ. Những câu thơ trong Truyện Kiều có thể hiểu theo nghĩa thiền quán cũng rất được hâm mộ. Ví như câu: “Bây giờ rõ mặt đôi ta. Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao”. Hay câu: “Trời còn để có hôm nay. Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời”. Có một cặp tân hôn xin chữ, tôi đã cho câu: “Trước sau cho vẹn một lời. Duyên ta mà cũng phúc người phải không?, tôi đổi một hai chữ cho thích hợp.

    PV: Những bức thư pháp của thiền sư bao giờ cũng đậm chất thiền và chuyên chở tuệ giác của đạo Phật. Có điều gì khiến thiền sư trăn trở trong việc truyền bá đạo Phật cho giới trẻ trong thời buổi hiện đại này không?

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Tôi muốn nói chuyện đạo Bụt. Đạo Bụt tại châu Á nói chung và Việt Nam nói riêng. Đạo Bụt nếu không được làm mới để có thể đáp ứng được nhu cầu đích thực của người thời nay thì đạo Bụt sẽ từ từ vắng mặt, nghĩa là sẽ chết như ông đồ xưa trong bài thơ “Ông đồ” của Vũ Đình Liên.

    Phải giảng dạy đạo Bụt như thế nào để tuổi trẻ bây giờ có thể áp dụng được vào trong đời sống hàng ngày của họ, chuyển hóa được khổ đau, khai thông được bế tắc, xây dựng lại được tình thâm. Lễ bái, cầu phước và tín mộ không đủ. Tuổi trẻ không muốn đến chùa chỉ để đốt nhang, đốt vàng mã, vái lạy và tụng những kinh mà họ hoàn toàn không hiểu. Buổi công phu sáng gần hết là bằng tiếng Phạn, có tính chất của Mật Tông, mà lại là tiếng Phạn phiên âm tiếng Hán – Việt xa lắc với nguyên âm. Buổi công phu chiều thì chủ yếu là để cầu sinh Tịnh Độ.

    Không mấy ai hiểu được và đọc được kinh chữ Hán. Vậy mà ta không có can đảm đem hai buổi công phu dịch ra quốc văn để hành trì. Ta sợ người ta đàm tiếu, chê bai là bỏ gốc rễ. Ta có bỏ gốc rễ đâu. Ta chỉ chăm sóc và làm mới cho gốc rễ thôi để cho cội cây xưa có được sức sống mới đâm lên những chồi mới, nếu không cây sẽ chết.

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh_radiovietnam.vn

    Cách đây chừng vài trăm năm, người ta đã từng bĩu môi chê chữ Nôm là quê mùa, là mách qué. “Nôm na là cha mách qué”. Người ta bảo người đứng đắn và người trí thức chỉ dùng chữ Hán thôi. Vậy mà đại thi hào Nguyễn Du đã sáng tác nên kiệt tác “Truyện Kiều” bằng chữ Nôm và đã tạo nên được một niềm tin lớn cho quốc dân. Không dùng súng đạn và gươm giáo mà thi sĩ đã xây dựng được thành lũy vững chãi cho nền độc lập dân tộc. Độc lập chính trị chỉ có thể bền vững khi có độc lập văn hóa. Cụ Nguyễn Du là một ông đồ không bao giờ già, không bao giờ chết. Hồn của cụ sống mãi trong hồn của người trẻ bây giờ. Bài học đó há không đủ cho chúng ta sao? Con cháu chúng ta bỏ chùa, bỏ đạo gốc tổ tiên chạy theo những trào lưu từ ngoài tới. Lỗi đó là của ai?

    Làm mới đạo Bụt, áp dụng ngay những pháp môn của đạo Bụt nhập thế, sử dụng ngay tiếng Việt để tụng niệm trong hai buổi công phu là điều rất cần thiết. Chúng ta đừng làm như ông đồ xưa, dần dần vắng mặt trong cuộc đời. Chúng ta phải tái sinh ngay lập tức để trở thành ông đồ nay. Chỉ có ông đồ nay mới làm thỏa mãn được những nhu yếu của người ngày nay. Từ thế kỷ thứ 14, vua Trần Nhân Tông và thiền sư Huyền Quang đã thấy được sự thực này. Các vị đã bắt đầu sáng tác bằng tiếng Việt, sử dụng chữ Nôm.

    Ở Triều Tiên, ngày xưa cả nước đi theo đạo Bụt. Vào đầu thế kỷ này, chỉ còn dưới 50% dân chúng là Phật tử. Giới trẻ đi theo ngoại lưu nhiều như thác lũ. Lý do là đạo Bụt bên đó quá bảo thủ và còn rất kỳ thị phụ nữ. Ta cầu xin xác vị tôn đức trong sơn môn ta nghĩ lại cho con cháu được nhờ. Đạo Bụt không thể không hiện đại hóa.

    Tại Tây phương, nhiều người đang muốn cho đạo Ky tô được hiện đại hóa nhưng họ chưa thành công vì thái độ thủ cựu và giáo điều của giới chức sắc bề trên. Nhiều nhà thờ vắng bóng tín đồ. Người xuất gia rất hiếm chỉ vì người ta bảo thủ quá, không chịu làm mới, không chịu cách mạng giáo lý và giáo chế. Đạo Bụt có tinh thần cởi mở tự do, dễ làm mới hơn nhiều. Ta có thể thành công trong vài thập niên nếu chúng ta tỉnh thức. Chúng ta không có lý do gì để không thành công.

    PV: Xin cảm ơn thiền sư!

    Hoàng Anh Sướng