Bụt thương như vậy đó

Melvin McLeod interviews Thích Nhất Hạnh
Shambhala Sun | March 2006
Sư cô Khiết Nghiêm chuyển ngữ

Là biên tập viên của nguyệt san Shambhala Sun, một trong những phần việc thú vị nhất của tôi là được vinh hạnh pháp đàm một cách nghiêm chỉnh, thậm chí thân mật, với các bậc thầy lớn. Là một người học Phật trước khi là một phóng viên, những câu hỏi tôi đưa ra thường có ý nghĩa sâu sắc với tôi với tư cách một con người và một hành giả. Kết quả của những cuộc tham vấn này là một bản đúc kết những lời dạy mà tôi đã tiếp nhận, hơn là một bài phỏng vấn theo tiêu chuẩn thông thường. Đây là một vinh dự và một đặc ân cho tôi, mong rằng bạn đọc cũng được lợi lạc từ đó.

Tôi gặp Thiền Sư Thích Nhất Hạnh tại Tu Viện Lộc Uyển gần San Diego, một nơi hoà lẫn các yếu tố Đông và Tây, hiện đại và tao nhã, chánh niệm và vui tươi. Tu viện nằm giữa một thung lũng nhỏ, khéo tách rời khỏi khu vực ngoại ô chỉ cách đó một dặm. Những dãy nhà trệt và thấp gợi lên cảm giác tạm thời, dã chiến của một trại binh (đây từng là khu trại của hội khoả thân và trung tâm huấn luyện cảnh sát,) nhưng ngôi thiền đường thanh lịch mới xây lên thì lại hết sức đồ sộ uy nghiêm. Bên ngoài, các sư chú trẻ người Mỹ gốc Việt chơi bóng rổ trong khi các sư cô lớn tuổi, đầu đội nón lá, đang quét sân, các thiền sinh thì đang chăm chỉ pháp đàm. Thức ăn sáng được bày ra gồm các món chay Việt Nam bên cạnh Corn Flakes (cốm bắp ăn với sữa) và bơ đậu phụng. Khi có tiếng chuông đồng hồ, mọi hoạt động đều dừng lại để mọi người thực tập quay về với chánh niệm.

Tôi được hầu chuyện với Thiền Sư Thích Nhất Hạnh độ hơn một giờ, sau đó Thiền Sư đưa cho tôi các thư pháp (in trong số này) mà thầy đã viết để làm quà cho tạp chí Shambhala Sun. Mặc dầu Thiền Sư thường được biết đến nhiều nhất qua các nhận định sâu sắc trong lĩnh vực chính trị và các công tác xây dựng cộng đồng, tôi đã khám phá nơi Thầy một vị Thầy bội phần hơn những gì mà người ta diễn tả về Thầy. Tôi đã gặp một vị thầy thấy biết thật nhiều trên mọi bình diện, thâm sâu và chứng đạt, chú trọng cả tu tập lẫn xây dựng tăng thân, thấm nhuần vừa giáo pháp truyền thống vừa biết rõ hướng đi thế giới ngày nay. Lời nói của Thiền Sư đi thẳng vào trái tim tôi. Nếu có cơ duyên để nghe Ngài giảng, xin bạn đừng bỏ lỡ. Chữ nghĩa in trong sách báo không sao sánh được, không diễn tả hết được con người thật của Ngài.

—Melvin McLeod—

Melvin McLeod: Quanh tu viện này có nhiều câu cảnh tỉnh, nhắc mọi người chánh niệm, trở về với thân và hơi thở, và nhận ra nhân tánh của mình. Trong giờ ăn , mọi người đều dừng lại khi chuông đồng hồ trong phòng ăn điểm để thực tập hơi thở chánh niệm. Tại sao việc trở về với hơi thở, đưa tâm về với thân, và thực tập sự có mặt lại quan trọng như vậy?

Thích Nhất Hạnh: Thiền tập nghĩa là quay về với chính mình. Nhờ vậy mà mình biết chăm sóc những gì đang xảy ra bên trong mình, cũng như những gì đang xảy ra chung quanh mình. Các bài thiền tập đều nhằm đưa mình trở về với tự thân, với quê hương đích thực của mình. Nếu không biết khôi phục sự bình an nơi tự thân, không giúp thế giới khôi phục sự bình an, mình sẽ không đi xa được trong sự tu tập.

Cái ngã chân thật của mình

Melvin McLeod: Cái ngã chân thật – cái ta mà mình quay về, – và cái mà chúng ta thường cho đó là mình khác nhau như thế nào?

Thích Nhất Hạnh: Cái ngã chân thật của mình là vô ngã, nhận thức rằng cái mà mình gọi là ta, là ngã được làm bằng những yếu tố không-phải- ta, không phải ngã. Không có sự cách biệt giữa ta và người, mọi sự vật đều liên đới với nhau. Một khi nhận thức được điều đó mình sẽ không còn kẹt vào ý niệm mình là một thực thể riêng biệt.

Melvin McLeod: Chuyện gì xảy ra khi mình nhận ra rằng tự tánh của ta là vô-ngã, là không có cái ta riêng biệt ?

Thích Nhất Hạnh: Nhận thức này đưa tới tuệ giác, đưa tới một cái thấy thật thâm sâu. Mình biết rằng hạnh phúc, khổ đau của mình tùy thuộc vào hạnh phúc, khổ đau của kẻ kia. Tuệ giác này giúp mình không làm những việc đưa tới khổ đau cho mình và cho người. Nếu mình tìm cách giúp cho cha mình bớt khổ thì mình cũng được bớt khổ. Nếu mình có thể giúp cho con mình bớt khổ thì mình cũng sẽ bớt khổ. Nhờ nhận thức được rằng không có một cái ta riêng biệt, mình nhận ra rằng hạnh phúc và khổ đau không phải là vấn đề của cá nhân. Mình nhận ra tính tương liên tương đới (tương tức), và mình biết rằng muốn bảo vệ mình thì mình phải bảo vệ cả nhân loại.

Đó là mục đích của sự tu tập — nhận ra được tính vô-ngã và tương tức. Đây không phải là một ý niệm hay một điều mình chỉ hiểu trên bề mặt ý thức. Mình phải áp dụng tuệ giác này trong đời sống hằng ngày. Vì vậy mình cần phải có định để duy trì tuệ giác vô-ngã để tuệ giác ấy có thể soi sáng cho mình từng giây từng phút trong đời sống hằng ngày. Bây giờ các nhà khoa học đã thấy được tính vô-ngã nơi não bộ, nơi thân thể, và nơi mọi sự vật. Nhưng khám phá ấy không giúp được gì cho họ, bởi vì họ không áp dụng được tuệ giác ấy vào đời sống hằng ngày của mình. Vì vậy họ vẫn khổ. Cũng vì lý do đó mà trong đạo Bụt chúng ta nói đến Định. Nếu mình có tuệ giác về vô-ngã, nếu mình có tuệ giác về vô-thường, mình phải biến tuệ giác đó thành một cái Định mà mình thắp sáng suốt ngày. Những gì mình nói, mình nghĩ, mình làm sẽ được soi sáng bởi tuệ giác đó, và mình sẽ tránh gây ra lầm lỗi, khổ đau.

Melvin McLeod: Như vậy thực tập chánh niệm là để duy trì tuệ giác vô-thường và tương-tức trong tất cả mọi thời.

Thích Nhất Hạnh: Đúng vậy.

Melvin McLeod: Con người chúng ta nói rằng tình thương là trên hết. Chúng ta muốn thương; chúng ta muốn được thương. Chúng ta biết tình thương là thuốc chữa lành mọi căn bệnh. Nhưng làm sao để tìm thấy tình thương trong trái tim mình, bởi vì thường khi mình không thể thương?

Thích Nhất Hạnh: Thương là khả năng chăm sóc, bảo vệ, nuôi dưỡng. Nếu mình không phát khởi được năng lượng đó cho chính mình — nếu mình không chăm sóc được mình, không nuôi dưỡng được mình, không bảo hộ được mình – thì khó mà chăm sóc cho kẻ khác. Trong giáo lý đạo Bụt, thương mình chính là nền tảng để thương người. Thương yêu là một sự thực tập. Thương yêu thật sự là một sự thực tập.

Melvin McLeod: Tại sao mình lại không thương được mình?

Thích Nhất Hạnh: Chúng ta có thể có thói quen đi tìm hạnh phúc ở một nơi nào khác với cái bây giờ và ở đây. Chúng ta có thể thiếu khả năng để nhận ra rằng hạnh phúc là điều có thể có được ngay bây giờ và ở đây, rằng chúng ta đã có đủ các điều kiện để hạnh phúc ngay trong giờ phút này. Tin tưởng rằng hạnh phúc không thể có được ngay trong giờ phút này, rằng mình phải đi về tương lai để có thêm những điều kiện hạnh phúc là một tập khí. Tập khí này ngăn không cho chúng ta an trú được trong giờ phút hiện tại, tiếp xúc được với những mầu nhiệm của sự sống đang có mặt bây giờ và ở đây. Đó là lý do tại sao mình không hạnh phúc được.

Trở về với giây phút hiện tại, chăm sóc lấy tự thân, tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống đang thật sự có mặt – đó đã là thương rồi. Thương là tử tế với chính mình, có lòng xót thương với chính mình, làm phát khởi những hình ảnh của niềm vui, và nhìn mọi người bằng đôi mắt bình đẳng, không kỳ thị. Đó là điều mình phải trau dồi. Vô-ngã có thể đạt được. Thực tại này có thể được tiếp xúc từ từ. Chân lý có thể được trau dồi. Khi khám phá một điều gì, ban đầu ta có thể khám phá được một phần thôi. Nếu tiếp tục, ta có thể có cơ hội khám phá nhiều hơn. Và cuối cùng ta khám phá ra toàn bộ sự vật. Khi thương, nếu đó là tình thương chân thực, ta bắt đầu thấy người kia là một phần của mình và mình là một phần của người kia. Đạt tới nhận thức đó là đã bắt đầu có tuệ giác vô-ngã đã đạt tới vô ngã. Nếu mình nghĩ rằng hạnh phúc của mình là khác, hạnh phúc của người kia là khác, thì mình chưa thực chứng được chút gì về vô-ngã, và hạnh phúc không thể nào đạt tới được.

Khi mình đi trên con đường của tuệ giác tiến tới vô-ngã, hạnh phúc mang lại từ tâm thương yêu sẽ tăng trưởng. Khi hai người thương nhau, những ngăn cách, phân chia, giới hạn giữa họ bắt đầu tan biến, mình trở thành một với người mình thương. Không còn ganh tị, giận hờn nữa, tại vì giận người kia tức là mình tự giận mình rồi . Vì vậy vô-ngã không phải là một học thuyết, giáo điều, hay một hệ tư tưởng mà là một chứng đắc có thể mang lại rất nhiều hạnh phúc.

Melvin McLeod: Và hoà bình.

Thích Nhất Hạnh: Hẳn vậy. Hoà bình là sự vắng bóng của chia rẽ, kỳ thị.

Xây dựng tăng thân

Melvin McLeod: Thầy nổi tiếng với các lời dạy về xây dựng sự hài hòa trong cộng đồng mà trong đạo Bụt gọi là xây dựng tăng thân. Qua những thực tập như Mười Bốn Giới Tiếp Hiện, Thầy định nghĩa chánh niệm trong chiều hướng có tính cách xã hội, thậm chí chính trị. Thầy dạy về các phương pháp truyền thông và sức mạnh của ái ngữ và lắng nghe. Tại sao Thầy lại nhấn mạnh khía cạnh cộng đồng, quan hệ giữa người với người?

Thích Nhất Hạnh: Mình có những kinh nghiệm trong sự tu tập – an lạc, chuyển hoá, và trị liệu — dựa trên nền tảng đó mà mình giúp cho người khác. Mình không chỉ tu với tư cách cá nhân, vì trên đường tu mình sẽ sớm nhận ra rằng mình cần phải tu với Chúng – nhiều người cùng tu- nếu muốn sớm có sự chuyển hoá và trị liệu. Đó là nương tựa tăng.

Thực tập chung với nhau, năng lượng của niệm, định, và niềm vui sẽ hùng mạnh hơn. Đó là điều Bụt thích làm. Ngài đi đâu cũng có nhiều đệ tử đi theo, nhờ vậy mà các vị xuất gia này học được từ Bụt cách đi, cách ngồi, và cách tiếp xử. Và Tăng Đoàn bắt đầu hoạt động như một cơ thể, ai cũng góp phần vào năng lượng chung của bình an, hỷ lạc, an tĩnh, và tình huynh đệ.

Đồng thời, mọi người trong Tăng Đoàn đều nói thay cho Bụt, không phải chỉ bằng lời mà qua cách họ hành động và cư xử với mọi người. Đó là vì sao vua Ba Tư Nặc nói với Bụt: “Bạch đức Thế Tôn, mỗi khi nhìn thấy Tăng thân của Ngài con lại có thêm niềm tin nơi Ngài.” Vua muốn nói rằng Tăng thân có khả năng đại diện cho Bụt. Bụt với Tăng Thân của Ngài có thể thành tựu được nhiều điều. Tôi không nghĩ rằng một vị thầy có thể làm được nhiều nếu không có Chúng cùng tu; cũng như một nhạc sĩ không thể biểu diễn được nếu không có nhạc cụ. Tăng thân rất quan trọng — tuệ giác và sự tu tập của vị thầy có thể được nhìn thấy qua tăng thân. Khi mình chia sẻ giáo pháp và sự thực tập với tư cách một tăng thân thì hiệu quả sẽ lớn

Melvin McLeod: Như vậy để giáo pháp thật sự có sức mạnh, trên thực tế, chúng ta phải chuyển hoá không chỉ chính mình mà cả xã hội?

Thích Nhất Hạnh: Đúng. Đó là Đại Thừa (Mahayana), là cùng đi với nhau trên một cỗ xe lớn. Đó là lý do vì sao đạo Bụt phải luôn luôn nhập thế. Không phải bằng sự tách mình ra khỏi xã hội mà mình có thể làm được điều đó. Đó là vì sao cỗ xe lớn – Đại Thừa- đã được hiện rõ ngay trong cái gọi là Tiểu Thừa (Hinayana.)

Melvin McLeod: Thầy có nghĩ rằng một trong những lý do khiến Thầy nhấn mạnh đến xây dựng tăng thân và xã hội như một sự thực tập là cuộc chiến tranh khốc liệt mà Thầy đã chứng kiến ở Việt Nam? Phải chăng việc chứng kiến xã hội bị tàn phá bởi chiến tranh, những hy sinh mất mát, đã làm tăng thêm mối quan tâm của Thầy đối với đời sống cộng đồng?

Thích Nhất Hạnh: Tôi nghĩ điều này có phần đúng. Đó là tuệ giác mình có được- cái thấy sâu sắc khi tiếp xúc với thực trạng. Nhưng điều đó cũng đã từng được chú trọng trong truyền thống. Người Phật tử nào cũng biết nói: ‘Con về nương tựa Tăng,” nhưng Tăng được làm bằng những cá nhân có tu tập. Mình phải tự chăm sóc lấy mình. Nếu không thì mình không có gì nhiều để đóng góp cho tăng thân, vì mình không có đủ bình an, vững chãi, và tự do trong lòng. Đó là vì sao muốn xây dựng tăng thân mình cũng phải đồng thời xây dựng bản thân. Tăng thân có trong mình và mình có trong tăng thân. Yếu tố này đi vào yếu tố kia. Đó là lý do tại sao tôi chú trọng đến việc xây dựng tăng thân. Điều đó không có nghĩa là mình không chú trọng đến việc tự tu. Mình thấy rõ ràng nhờ chăm sóc tốt hơi thở, thân tâm, cảm thọ của chính mình mà mình có thể xây dựng một tăng thân tốt.

Mở cánh cửa cho người Tây Phương

Melvin McLeod: Thầy đã sống ở Tây phương nhiều năm. Thầy nghĩ nên trình bày đạo Bụt theo cách nào để đáp ứng được những nhu cầu, mong mỏi của người học Phật ở Tây phương?

Thích Nhất Hạnh: Tôi nghĩ đạo Bụt nên mở ra cánh cửa của tâm lý và trị liệu để đi vào xã hội Tây phương dễ dàng hơn. Đứng về phương diện tôn giáo, phương Tây đã có nhiều niềm tin nơi một đấng thần linh rồi. Mình không nên đi vào địa hạt tâm linh của Tây phương theo nguyên tắc tín ngưỡng, bởi vì Tây phương đã có nhiều rồi.

Vậy thì tâm học là cánh cửa tốt. Nền văn học A Tì Đàm (Abhidharma) của đạo Bụt tiêu biểu cho sự hiểu biết rất phong phú về tâm, đã được phát triển qua nhiều thế hệ Phật tử. Nếu đến với người Tây phương bằng con đường tâm học, mình có thể thành công hơn trong việc giúp người ta hiểu được tâm họ, giúp người ta thực tập như thế nào để chữa lành được thân tâm.

Thân và tâm liên hệ mật thiết với nhau, và chúng ta có thể nói thiền tập đạo Bụt có khả năng trị liệu thân và tâm. Mình thấy điều này rất rõ khi học các kinh căn bản về thiền tập như Kinh Quán Niệm Hơi Thở (Anapannasati Sutra) và Kinh Bốn Lĩnh Vực Quán Niệm. Thiền tập giúp ta thư giãn những căng thẳng — nơi thân thể, tâm hồn, cảm thọ — để tiến tới sự chữa lành thân tâm. Cho dù mình uống nhiều thuốc đi nữa mà nếu thân, tâm còn quá nhiều căng thẳng thì thuốc cũng sẽ ít công hiệu. Vì vậy Bụt đã đưa ra những bài tập rất thực tế như: “Thở vào, tôi ý thức toàn thân; thở ra tôi an tịnh toàn thân. Thở vào tôi ý thức cảm thọ; thở ra tôi an tịnh cảm thọ. Tôi ôm lấy thân và cảm thọ của tôi bằng năng lượng chánh niệm.”

Sự thực tập buông thư những căng thẳng nơi thân tâm là nền tảng của sự trị liệu. Ban đầu sự thực tập này giúp mình vơi nhẹ. Rồi với nhiều niệm và định hơn, mình thực tập nhìn sâu vào những đau nhức, căng thẳng đó và tìm ra những gốc rễ sâu xa, nguyên nhân của bệnh. Mình khám phá ra sự thật thứ hai của Tứ Thánh Đế. Mình có thể nhận ra nguồn gốc của sự căng thẳng, trầm cảm, và bệnh hoạn đó. Một khi đã nhìn ra nguyên nhân của khổ, tức sự thực thứ hai, mình bắt đầu nhìn thấy sự thực thứ tư của Tứ Thánh Đế, con đường dẫn đến sự chấm dứt bệnh hoạn, căng thẳng, khổ đau. Thấy được con đường là phần quan trọng nhất. Nếu mình đi theo con đường đó, chẳng bao lâu bệnh hoạn biến đi, nhường chỗ cho sự lành mạnh, sự thực thứ ba của Tứ Thánh Đế. Nguyên tắc của đạo Bụt chính là nguyên tắc của Y Liệu.

Một cánh cửa khác nên mở là cánh cửa sinh môi học, vì trong đạo Bụt có sự tôn trọng sâu sắc đến cầm thú, cỏ cây, và cả đất đá. Trong đạo Bụt Đại Thừa, chúng ta nói ai cũng có Phật Tánh – không chỉ con người mà cả cầm thú, cỏ cây, và đất đá. Học Kinh Kim Cang mình sẽ thấy Kinh Kim Cang là văn kiện cổ nhất về bảo vệ sinh môi. Ý niệm về ngã, về cái ta, được đánh đổ, vì cái ta được làm bằng những yếu tố không phải ta, và ý niệm về loài người được được đánh đổ, vì loài người được làm bằng những yếu tố không phải người, chủ yếu là cầm thú, cỏ cây, và đất đá v.v… Nghĩa là muốn bảo vệ con người mình phải bảo vệ những yếu tố không phải người. Điều đó rất rõ ràng.

Vậy cánh cửa sinh môi học là cánh cửa rất tuyệt vời để mở. Và rồi cánh cửa hoà bình, vì đạo Bụt là đạo của hoà bình. Một Phật tử chân chính không thể từ chối làm việc cho hoà bình. Tôi nghĩ còn cánh cửa nam nữ bình quyền, sự không kỳ thị giới tính. Bụt đã mở cửa cho phụ nữ gia nhập Tăng đoàn, đó là một hành động rất cách mạng của Ngài.

Tôi nghĩ những cánh cửa phương tiện này cần được mở rộng để người Tây phương có thể tiếp nhận được giáo pháp đích thực của Bụt. Những pháp môn này đều nằm sẵn trong gốc rễ đạo Bụt, nhưng nhiều thế hệ Phật tử đã đánh mất các giá trị ấy. Phật tử nên thực tập như thế nào để khôi phục lại những giá trị ấy cho truyền thống để có thể cống hiến lại cho người sau.

Đạo Phật và khoa Học

Melvin McLeod: Ngược lại, Thầy có thấy điều gì trong tư tưởng và kiến thức Tây phương có thể đóng góp cho Phật giáo?

Thích Nhất Hạnh: Tôi nghĩ dân chủ và khoa học có thể giúp Phật giáo, nhưng không phải theo cách mà mọi người thường nghĩ. Mình biết rằng sự thực tập dân chủ vốn đã có sẵn trong truyền thống đạo Bụt. Nhưng nếu đem so với dân chủ Tây phương, mình thấy dân chủ đạo Bụt đặt căn cứ trên thật tế nhiều hơn, vì lá phiếu của một người thầy có nhiều tuệ giác và kinh nghiệm có nhiều trọng lượng hơn lá phiếu của một Sa Di ít tuệ giác và kinh nghiệm. Vì vậy, trong đạo Bụt việc biểu quyết cần phải phối hợp giữa hai nguyên tắc dân chủ và thâm niên. Đó là điều có thể làm được. Chúng tôi đã làm điều này, với rất nhiều thành công, trong cộng đồng của chúng tôi, bởi vì những người trẻ và ít kinh nghiệm hơn thường tin tưởng và kính trọng những vị lớn. Nhưng mình biết có nhiều cộng đồng Phật giáo không theo cách đó; vị thầy quyết định tất cả và họ đánh mất chế độ dân chủ. Bây giờ chúng ta phải khôi phục lại chế độ dân chủ, nhưng không phải theo cách người ta làm ở Tây phương. Chúng ta phải phối hợp chế độ dân chủ với tinh thần thâm niên.

Riêng tôi, việc học khoa học đã giúp tôi hiểu đạo Bụt sâu hơn. Tôi đồng ý với Einstein rằng nếu có một tôn giáo có thể đồng hành với khoa học thì đó là đạo Bụt. Bởi vì đạo Bụt có tinh thần không chấp chặt vào giáo điều. Mình có thể có một cái hiểu về khoa học mà mình cho đó là sự thật, nhưng nếu mình chấp vào cái thấy đó thì mình cũng thôi luôn việc khám phá thêm những cái thấy mới một cách vô tư. Mình nên biết rằng với sự thực tập nhìn sâu mình có thể thấy rõ sự việc hơn. Vì vậy mình không nên có thái độ giáo điều đối với những gì mình từng thấy biết; mình phải sẵn sàng buông bỏ cái thấy cái biết của mình về khoa học để có được tuệ giác cao hơn. Rất là thú vị.

Trong Kinh dạy cho những người trẻ của bộ tộc Kalama, kinh Kalama, Bụt nói: “Đừng vội tin vào một điều gì dù điều đó đã được lập đi lập lại bởi nhiều người. Đừng vội tin điều gì vì nó được các bậc thầy nổi tiếng thốt ra. Đừng vội tin vào một điều gì dù điều đó đã được viết trong kinh điển.” Mình phải quán sát, thử nghiệm và thực hành, nếu như nó có hiệu quả, nếu như nó giúp mình chuyển hoá khổ đau và mang lại an lạc, giải thoát thì mình có thể tin tưởng vào nó một cách rất khoa học.

Tôi nghĩ Phật tử không cần sợ khoa học. Khoa học có thể giúp đạo Bụt hiểu sâu hơn lời dạy của Bụt. Chẳng hạn như Kinh Hoa Nghiêm (Avatamsaka Sutra) nói rằng cái một được làm bằng cái nhiều, và cái nhiều có thể tìm thấy trong cái một. Điều này có thể chứng minh được bởi khoa học. Từ một tế bào người ta có thể làm ra một bản giống y hệt như toàn bộ một cơ thể. Toàn bộ di sản di truyển có thể được tìm thấy trong một tế bào và từ một tế bào chúng ta có thể làm lại một bản giống y hệt bản chính của toàn bộ cơ thể. Trong cái một mình thấy có cái nhiều. Điều này giúp mình hiểu giáo lý của Bụt một cách sâu sắc hơn.

Vì vậy không có lý do gì để Phật tử phải sợ khoa học cả, nhất là khi họ có khả năng buông bỏ cái thấy hiện có của mình để đạt tới một cái thấy sâu hơn, cao hơn. Và trong đạo Bụt cái thấy cao nhất là cái thấy vượt thoát khỏi mọi cái thấy, vượt khỏi mọi ý niệm. Mình tưởng sự vật là thường còn, là không đổi thay thì mình bị kẹt vào một cái thấy sai lầm gọi là thường kiến. Và mình dùng vô thường để chỉnh lại cái tưởng là sự vật thường còn. Nhưng mình không để cho mình bị kẹt vào cái ý niệm vô thường. Khi mình nhận diện được cái chân tánh của sự vật, mình có tuệ giác, thì chẳng những mình buông bỏ cái tưởng là mọi vật luôn thường còn mà cũng buông bỏ được luôn cái ý niệm về vô thường. Cũng như khi mình quẹt que diêm, cái ngọn lửa biểu hiện từ que diêm sẽ đốt luôn que diêm. Khi mình quán chiếu thật sâu thì mình đạt đến tuệ giác về vô thường; cái tuệ giác về vô thường sẽ đốt cháy cái ý niệmvề vô thường.

Đó là tại sao giáo lý không chấp vào Kiến, rất mầu nhiệm. Vô ngã có thể xem là một Kiến , một ý niệm; vô thường cũng là một ý niệm. Nếu mình bị kẹt vào một ý niệm nào đó như vô ngã, vô thường, niết bàn và cho nó là chân lý thì mình không thật sự tự do. Thế giới của bản môn không còn Kiến, ý niệm. Vì thế niết bàn là sự tắt ngấm những khái niệm, tắt ngấm những cái tưởng. – Dù là quan niệm về niết bàn, về vô thường và về vô ngã – những quan niệm trên có thể mang tới khổ đau nếu ta sử dụng chúng để chống đối nhau.

Tương đối và tuyệt đối

Melvin Mc Leod : Tôi thật sự thích thú khi nghe thầy giảng về những điều mà các truyền thống Phật giáo khác gọi là sự thật tương đối và sự thật tuyệt đối. Thầy thì gọi đó là bình diện tích môn và bình diện bản môn. Rất nhiều điều thầy dạy chú trọng đến sự thật tương đối hay bình diện tích môn, như là nguyên tắc tương quan tương duyên mà Thầy hay gọi là tương tức (interbeing). Đó có phải là cách thầy diễn tả thực tại toàn bộ hay không ? Hay là còn một thực tại nằm ngoài cái tuệ giác là không có sự vật nào có thể hiện hữu độc lập với nhau và mọi sự vật đều tương duyên.

Thích Nhất Hạnh : Trong đạo Bụt có hai cách diễn tả thực tại : bình diện tướng và bình diện tánh. Tông phái Trung Quán(Madhyamika) và thiền Tào Động, đều hướng dẫn thiền giả đi thẳng vào tánh chân thật của mình. Còn trường phái A Tỳ Đàm thì thiền giả được dạy tùng tướng nhập tánh nghĩa là tiếp xúc thật thâm sâu với tướng thì mình sẽ đồng thời đi vào tánh. Sống thật thâm sâu trong tích môn sẽ tiếp xúc được đồng thời với bản môn. Cũng như một lượn sóng. Mình có thể thấy sự phát sinh và sự chấm dứt của một lượn sóng. Có những lượn sóng to, có những lượn sóng nhỏ, lượn sóng cao, lượn sóng thấp. Nhưng lượn sóng cũng đồng thời là nước. Dĩ nhiên là lượn sóng có thể chỉ sống được đời sống của một lượn sóng thôi. Nhưng một lượn sóng có thể thấy và đi sâu hơn. Thấy mình vừa là sóng vừa là nước. Sóng thì có sanh ra và có bị tan biến (chết đi) nhưng nếu lượn sóng chịu nhìn sâu hơn và thấy rõ mình vừa là sóng mà cũng vừa là nước thi sóng sẽ mất hết sợ hãi. Sinh ra, tan biến, đến, đi không làm cho sóng sợ hãi vì sóng biết mình vừa là sóng mà cũng vừa là nước. Nước thi không sinh ra không chết đi, không đến không đi đâu hết. Khi nhân duyên đầy đủ sóng biểu hiện, khi nhân duyên không đầy đủ, sóng ẩn tàng…. Vì thế sóng cũng có hai bình diện: tích môn thì có sanh có diệt, có đến có đi có cao có thấp, mà bản môn thì không sanh không diệt, không cao, không thấp…. Hai bình diện mà là một, không chia chẻ. Khi mình tiếp xúc với bình diện này(tướng – tích môn) đủ thâm sâu thì đồng thời cũng tiếp xúc luôn bình diện kia (tánh – bản môn).

MelvinMc Leod: Tôi có nói chuyện với một số người mà hình như đã hiểu rằng khái niệm về tương tức là một lời tuyên bố rằng tất cả vốn là một. Đó cũng vẫn là một khái niệm (kiến) . Thế thì có lẽ ngay cả cái khái niệm – tất cả là một- cái kiến đó chúng ta cũng không nên nắm giữ phải không?

Thích Nhất Hạnh: Đúng thế. Một là một khái niệm mà nhiều cũng là khái niệm. Cũng như có (hiện hữu) hay không ( không hiện hữu) cũng là khái niệm. Anh nói rằng Thượng Đế là nền tảng của hữu thể (being) nhưng nếu thiên hạ hỏi : Thế thì ai là nền tảng của vô thể (non-being) ? (cười). Thành ra cái khái niệm về hiện hữu hay khái niệm về không hiện hữu cũng chỉ là những khái niệm, không phải là thực tại(dị) và khái niệm một (đồng) , cũng là khái niệm. Là một hay là khác cũng là khái niệm. Niết bàn là sự tắt ngấm mọi khái niệm, kể cả khái niệm về một và khái niệm về khác. Vì thế tương tức không có nghĩa là mọi sự vật là một. Nó giúp ta lấy ra hết những cặp khái niệm: một -nhiều, có- không, dị – đồng. Mình buông bỏ hết những khái niệm, những cái thấy chia chẻ. . Khái niệm khác

Melvin McLeod : Thầy nói Bụt là một con người. Nhưng Đại Thừa nói có vô lượng Bụt và Bồ Tát ở trong mọi cõi đang trải lòng từ đến mình. Làm sao những người Tây phương duy lý chúng tôi có thể hiểu những vị Bụt và Bồ Tát này? Làm sao chúng ta có thể mở lòng ra với họ khi chúng ta không thể nhận biết họ qua năm giác quan?

Thích Nhất Hạnh : Trong đạo Bụt, Bụt được xem như một vị thầy, một con người, chứ không phải một vị thần linh. Ta cần phải nói cho mọi người biết cái điều thật quan trọng đó. Chúng ta không cần Bụt là một đấng thần linh. Ngài là một vị đạo sư, như vậy là đủ lắm cho chúng ta rồi! Tôi nghĩ chúng ta cần phải nói cho các bạn ở Tây phương biết như vậy. Và chính vì Bụt là một con người, cho nên vô lượng người mới thành Bụt được.

Melvin McLeod : Bụt có chết không?

Thích Nhất Hạnh : Đương nhiên. Đã là một con người thì phải có sinh và có tử. Đó là bình diện tích môn. Nhưng rồi mình phải tiếp xúc với Bụt một cách sâu sắc để tiếp xúc cho được bình diện bản môn của Ngài. Anh nên tập tiếp xúc với một con người thường – không phải là Bụt – như anh hay tôi. Nếu mình nhìn sâu vào tự thân, mình thấy mình có tích môn – có sinh và có tử. Nhưng nếu mình nhìn sâu hơn nữa, mình sẽ thấy bản chất đích thực của mình là vô sinh, bất diệt. Mình cũng giống như Bụt: chưa bao giờ từng sinh và cũng sẽ không bao giờ chết. Vậy thì trong anh, tôi thấy một vị Bụt; trong mỗi người tôi đều thấy Bụt bản môn. Đó là lý do vì sao mình có thể nói đến vô lượng Bụt. Chính bởi Bụt là một con người nên mới có thể có vô lượng Bụt.

Chúng ta nên nhớ rằng trong tích môn có chứa đựng bản môn. Chúng ta không thật sự có sinh và diệt. Giống như một đám mây. Đám mây không thể nào chết được; đám mây chỉ có thể trở thành mưa, tuyết hay nước đá thôi chứ không thể nào trở thành hư vô. Đó là thực tánh của đám mây. Vô sinh bất diệt. Bụt cũng có cùng tự tánh vô sinh bất diệt ấy, và mình cũng có cùng một tự tánh vô sinh bất diệt ấy.

Chúng ta biết trên trái đất này có nhiều người đầy từ bi và trí tuệ. Họ là những vị Bụt. Đừng nghĩ rằng Bụt ở đâu xa trên trời. Mình tiếp xúc với Bụt ở trong mình; mình tiếp xúc với Bụt nơi những người chung quanh. Điều này có thể làm được ngay bây giờ và ở đây, mầu nhiệm như vậy.

Bụt ở ngay đây. Nếu mình biết thực tập thiền hành thì mình có thể thưởng thức Tịnh Độ ngay bây giờ và ở đây. Đây không phải là nói về Tịnh Độ, đây là thực sự nếm Tịnh Độ. Trong truyền thống của chúng tôi, mình phải đi như thế nào để mỗi bước chân giúp mình tiếp xúc được với Tịnh Độ. Tịnh Độ có mặt cho mình bây giờ và ở đây. Vấn đề là mình có có mặt cho Tịnh Độ hay không. Mình có bị vướng vào những ganh tị, giận hờn, lo sợ của mình hay không? Nếu thế thì Tịnh Độ không thể có. Với Niệm và Định, mình có thể tiếp xúc với thế giới cực lạc của chư Bụt và Bồ Tát ngay bây giờ và ở đây. Đó không phải là lý thuyết. Đó là cái mà chúng tôi sống mỗi ngày, thực tập mỗi ngày. Đó là điều ai cũng làm được.

Nhiều người trong chúng tôi có khả năng làm được việc đó. Khi nói chuyện với những nbạn Cơ Đốc Giáo, tôi nói Nước Chúa phải là đây hay là sẽ không bao giờ có cả. Khi mình có tự do, Nước Chúa có đó cho mình. Nếu mình không có tự do, Nước Chúa sẽ không bao giờ có mặt, kể cả trong tương lai. Đồng một giáo lý và thực tập có thể được chia sẻ giữa nhiều truyền thống khác nhau.

Melvin McLeod: Thầy đã sống một cuộc sống dài qua một thế kỷ đau thương hơn bất cứ thế kỷ nào, trên một quê hương thống khổ hơn bất cứ quê hương nào. Tôi nghĩ nhiều người đang nhìn vào thế kỷ này, và một lần nữa, nhận ra những mầm mống thảm hoạ trên cả hai phương diện — con người và thiên nhiên. Theo Thầy, thế giới đang đi về đâu?

Thích Nhất Hạnh: Tôi nghĩ trong thế kỷ hai mươi điều nổi bật nhất là chủ nghĩa cá nhân, hơn một trăm triệu người đã chết vì chiến tranh. Có quá nhiều bạo động, có quá nhiều tàn phá sự sống và thiên nhiên. Nếu chúng ta muốn thế kỷ 21 khác hơn, nếu chúng ta muốn trị liệu và chuyển hoá, thì mọi người cần phải nhận thức rằng chúng ta là những phần khác nhau của cùng một cơ thể, rằng sự an nguy của những thành phần khác cũng là sự an nguy của chính mình. Nhận thức này rất thiết yếu. Sinh vật học hiện đại đã thấy rằng con người chính là một cộng đồng của hàng tỉ tế bào. Không có tế bào nào là chủ cả; mỗi tế bào trong cơ thể hợp tác với các tế bào khác để tạo ra năng lượng cần thiết giúp cho cơ thể được bảo vệ và phát triển. Chỉ có sự tỉnh thức đó, chỉ có tuệ giác đó — rằng sự an nguy, hạnh phúc, khổ đau của chúng ta không phải là một cái gì riêng rẽ mà là một vấn đề chung — mới có thể ngăn ngừa tác hại phát sinh từ chủ nghĩa cá nhân của thế kỷ hai mươi.

Tuệ giác vô-ngã, không có cái ta riêng biệt, tuệ giác cọng sinh này rất thiết yếu cho sự sống còn của chúng ta và của hành tinh này. Không nên để cho cái thấy nầy chỉ là những khái niệm sách vở; tuệ giác này phải được sống linh động trong đời sống hằng ngày của mọi người. Trong trường học, trong ngành doanh thương, trong Quốc Hội, trong hội đồng thành phố, trong gia đình chúng ta phải thực tập để nuôi dưỡng tuệ giác rằng chúng ta là các phần khác nhau của cùng một cơ thể , rằng bất cứ chuyện gì xảy ra cho các tế bào kia cũng đồng thời xảy ra cho mình. Tuệ giác này hoàn toàn đi đôi với khoa học cũng như đi đôi với tinh thần đạo Bụt. Chúng ta cần học để sống với nhau như một cơ thể.

Tôi đã dành nhiều thời gian để xây dựng các cộng đồng và tôi đã học được nhiều từ đó. Ở Làng Mai chúng tôi tập sống như một cơ thể. Không ai có xe riêng, sổ ngân hàng riêng, điện thoại riêng. Ấy vậy mà vẫn hạnh phúc. Thực tập căn bản của chúng tôi là xem mỗi người như một tế bào của cơ thể, và đó là vì sao tình huynh đệ trở nên hiện thực. Khi mình được nuôi dưỡng bởi tình huynh đệ thì hạnh phúc có mặt, và nhờ vậy mà mình có thể làm không biết bao nhiêu là việc để giúp cho người ta bớt khổ.

Điều này có thể thấy được, sờ mó được. Đây không phải là điều nói suông. Đây là sự hành trì, sự thực tập; mỗi hơi thở, mỗi bước chân đều nhắm đến thực hiện cái chung này. Sống trong một cộng đồng như vậy rất mầu nhiệm, vì sự an lạc của người kia cũng chính là sự an lạc của mình. Mang lại hạnh phúc cho một người, mình cũng đem lại hạnh phúc cho từng người trong Chúng. Đó là vì sao tôi nghĩ rằng xây dựng cộng đồng, xây dựng tăng là công việc quan trọng nhất, cao quý nhất mà chúng ta có thể làm.

Cũng giống như trong lớp học, nếu cô giáo biết cách tổ chức lớp học như một gia đình, học sinh sẽ khổ ít hơn và có nhiều niềm vui hơn. Trong hội đồng thành phố hay trong một thương nghiệp cũng vậy. Những người lãnh đạo thương nghiệp có thể tổ chức công ty như một gia đình trong đó mọi người xem nhau là những tế bào trong cùng cơ thể.

Chúng ta biết trong cơ thể mình có nhiều loại tế bào: tế bào gan, tế bào phổi, tế bào thần kinh. Tế bào nào cũng làm hết sức mình. Không có sự ganh tị về địa vị với các tế bào khác, vì không có sự phân biệt. Làm một tế bào gan cho tốt là mình đã nuôi dưỡng các tế bào khác rồi. Tế bào nào cũng đóng góp cái hay nhất của mình để mang lại sự hài hoà, khoẻ mạnh cho toàn cơ thể. Không có sự kỳ thị, không có chiến tranh giữa các tế bào, đó là điều mình học được từ ngành sinh học hiện đại. Chúng ta có thể tổ chức theo cách này trong gia đình, lớp học, hội đồng thành phố, Quốc Hội. Đó là điều có thể làm được, bởi vì nếu các tế bào của chúng ta có thể làm chuyện đó thì con người chúng ta cũng có thể làm được chuyện đó

Tình yêu thương

Melvin McLeod : Hy vọng Thầy không phiền tôi hỏi câu này, Thầy cũng không cần phải trả lời nếu không tiện. Nhưng tôi rất cảm động khi đọc những gì Thầy viết về mối tình Thầy từng có với một người mà rõ ràng Thầy đã yêu thương rất nhiều và rồi đã từ bỏ người đó. Bây giờ thì Thầy thấy chuyện đó ra sao? Chuyện đó, ở thời điểm này của đời Thầy, có phải là điều đáng tiếc không?

Thích Nhất Hạnh : Tình yêu đó chưa bao giờ mất. Nó tiếp tục phát triển. Đối tượng thương yêu của tôi được mở rộng ra mỗi ngày, mỗi ngày, mỗi ngày, cho đến khi tôi có thể ôm được tất cả mọi người. Thương một người là một cơ hội mầu nhiệm để mình thương mọi người. Nếu như đó là tình thương đích thực. Trong tuệ giác vô-ngã, mình thấy đối tượng của tình thương mình luôn có đó, và tình thương của mình tiếp tục phát triển. Không có gì mất đi cả, và mình không hối tiếc điều gì, bởi vì nếu mình có tình thương đích thực trong lòng thì mình và tình thương ấy cùng đi về một hướng, và mỗi ngày mình đều có thể thương thêm được nhiều hơn và nhiều hơn. Vì vậy, thương một người là cơ hội lớn để mình thương được nhiều người hơn.

Melvin McLeod : Thế nhưng trong đời sống xuất gia, Thầy khuyến khích những người muốn trở thành tu sĩ từ bỏ tình yêu ấy. Tại sao lại nên từ bỏ cơ hội thương yêu này?

Thích Nhất Hạnh : Trong đời sống xuất gia, mình nguyện phát triển hiểu biết và thương yêu. Mình phát triển khả năng ôm trọn tất cả mọi người trong tình thương của mình. Vì vậy, như tôi đã nói, thương một người là cơ hội để mình biết thương được thật nhiều người. Nhất là khi người kia , những người kia có cùng lý tưởng với mình, thì càng thương càng giàu có và càng hạnh phúc, không có khổ đau gì hết. Là một người xuất gia, mình sống đời sống phạm hạnh và ở với Chúng cùng tu với mình. Nếu người mình thương biết vậy thì người đó sẽ không khổ mà mình cũng sẽ không khổ, bởi vì tình thương chân thật rộng lớn và thâm sâu hơn là việc quan hệ giới tính. Bởi vì trong một tình thương lớn mình có thể hy sinh khía cạnh đó của tình yêu, và tình thương của mình trở nên cao cả hơn, thâm sâu hơn. Tình thương đó nuôi dưỡng mình, nuôi dưỡng người kia, nuôi dưỡng mọi người chung quanh và cuối cùng tình thương đó không còn biên giới nữa. Đó là tình thương của Bụt.

Nếp sống can đảm và từ bi

(Bài viết “An lạc từng bước chân” của tác giả Andria Miller đăng trên báo Shambhala Sun – tháng 7 năm 2010; được chuyển ngữ từ nguyên bản tiếng Anh)

Nếp sống can đảm và từ bi của Thầy Nhất Hạnh

Thầy Nhất Hạnh ngồi trên một trong bảy chiếc thuyền chài cùng với một nhóm nhỏ sinh viên. Thuyền chất đầy khẳm gạo, đậu xanh, đường, sữa, nồi, xoong chảo mới và áo quần cũ đã được giặt và xếp ủi thẳng lại. Họ đi ngược sông Thu Bồn, dần vào sâu trong núi. Trên ấy binh sĩ của hai bên còn đang đánh nhau và còn nồng nặc mùi nhiều xác chết. Đoàn không có mùng và cũng không đem được nhiều nước uống. Gió lạnh như cắt da. Đoàn người ngủ trên thuyền và phải tự nấu cơm lạt trên thuyền. Vì tình trạng vệ sinh giới hạn như thế nên Thầy lại bị rét và kiết lỵ trở lại…

Đó là hồi năm 1964 ở Miền Nam Việt Nam. Sau những trận mưa bão toàn vùng, nước đã dâng cao bao trùm nhiều tỉnh khiến cho hơn 4000 người bị nước cuốn theo trong vài giờ và nhà cửa của hàng chục ngàn người hoàn toàn bị nước cuốn đi. Mọi người trong toàn quốc cố gắng làm nhiều cách để cứu trợ những nạn nhân bão lụt nhưng chỉ riêng vùng thượng lưu sông Thu Bồn là không đoàn cứu trợ nào dám đi, vì ngoài chuyện bão lụt còn chuyện đụng độ nhau giữa Quốc gia và Giải Phóng. Ai cũng sợ bị kẹt giữa hai lằn đạn. Vì thế đoàn công tác do Thầy hướng dẫn phải chọn chỗ mà không ai dám đi.

Đứng hàng đầu trong những công tác từ bi trên mảnh đất Việt Nam tan nát vì chiến tranh, Thầy Nhất Hạnh đã trở thành vị đạo sư được toàn cầu thương mến vì đã hiến đời mình cho hòa bình bằng những pháp môn thực tiễn của Bụt.

Andrea Miller thuật cho mọi người nghe câu chuyện phi thường của vị tu sĩ Việt Nam này.

Năm ngày liên tiếp đoàn người đã thăm viếng, an ủi và phát quà tại rất nhiều xóm làng nát tan. Khi gặp binh sĩ, đoàn người cũng chia phần cho họ, không phân biệt bên này hay bên kia. Đứng trước cảnh đau thương chừng ấy, kéo dài dai dẳng như vậy, Thầy đã cắt đầu ngón tay và để máu rơi xuống dòng sông rồi phát lời cầu  nguyện: “Những giọt máu này là để cầu nguyện cho những người đã chết vì bão lụt và vì chiến tranh. Chúng tôi xin hứa sẽ không bao giờ quên quý vị.” Đạo Bụt dấn thân là đem áp dụng những tuệ giác mình đạt được từ thiền quán và từ những lời dạy của Bụt mà làm nhẹ vơi những khổ đau trong xã hội, trong môi sinh và trong chính trường.

 

 

Thầy Thích Nhất Hạnh được toàn thế giới xem như là người đề xuất đầu tiên cách tu tập này, nhưng để trả lời riêng với Shambala Sun, Người nói: “Tất cả những ai thực tập theo Bụt đều phải dấn thân thôi, bởi vì khi thiên hạ đang khổ đau, chết chóc vì bom đạn chúng ta đâu có thể ngồi yên suốt ngày trong thiền đường được. Thiền quán là ý thức về những gì đang xảy ra – không những xảy ra trong thân và cảm thọ của ta mà còn đang xảy ra xung quanh ta nữa.” Thầy nói tiếp: “Từ khi còn là một tu sĩ trẻ ở Việt Nam, chúng tôi đã chứng kiến quá nhiều khổ đau do chiến tranh gây ra. Vì thế chúng tôi rất mong áp dụng lời Bụt dạy như thế nào để có thể đem những pháp môn ấy vào cuộc sống thực tế của xã hội. Điều này không dễ gì làm được vì truyền thống xưa không trực tiếp dạy về đạo Bụt  dấn thân cho chúng tôi. Thế nên chúng tôi phải tự chế tác cách tu tập cho thích hợp với hòan cảnh, như thế là Đạo Bụt dấn thân vốn được khai sinh giữa chiếc nôi chinh chiến nhưng nó được đúc kết và hệ thống hóa lại tại phương Tây.” Và hôm nay, Thầy – tiếng gọi thân thương mà các đệ tử của Người thường gọi – người khai sáng cách áp dụng đạo Phật dấn thân ấy, là một trong những vị đạo sư có ảnh hưởng lớn nhất toàn cầu. Người cũng là một nhà văn viết khá nhiều tác phẩm và sáng tác của Người phong phú về đủ mọi mặt.

Thầy Nhất Hạnh đã viết hồi ký, nhật ký, thi ca, truyện ngắn, sách cho trẻ em và cả những chuyện dã sử với dữ kiện lịch sử rất gần với sự thực. Nhưng những sách làm cho Thầy nổi tiếng vẫn là những sách hướng dẫn mọi người tu tập. Trong những sách rất phổ cập và được yêu thích nhất như An Lạc Từng Bước Chân hay Tình Thương Chân Thật, Người đã tháo tung ra những khối nguyên tắc căn bản Bụt dạy và đề nghị những phương pháp thực tập để áp dụng một cách thực tiễn vào cuộc sống hằng ngày. Còn trong một số sách khác, bác học hơn, như Kim Cương Gươm Báu Diệt Trừ Phiền Não, chú giải về Kinh Kim Cương hay là Chuyển Hóa Tận Gốc (Duy Biểu Học) thì Thầy đưa những dòng tư duy Phật Giáo quan trọng khác nhau về một mối  để cống hiến một cách trình bày mới về  hệ thống A Tỳ Đàm (Abhidharma), khoa tâm lý học truyền thống mà Bụt dạy.

Ông Alan Senaute, nguyên Giám Đốc điều hành tập san Buddhist Peace Fellowship, đã bình luận về cách dạy của Thầy Nhất Hạnh: “Tư duy uyên bác của Người có căn bản thật vững chắc và không hề tối nghĩa. Thầy trình bày những pháp môn rất khó hiểu mà thường ít người với tới được, thành rõ ràng, trong tầm hiểu biết của mọi người. Thầy làm cho các pháp môn này trở nên thật sống động. Và người nghe, người đọc thật sự thấy rõ cách áp dụng những phương pháp ấy vào đời sống của họ.” Ông Jack Kornfield, tác giả quyển The Wise Heart (Trái Tim thông tuệ), nói thêm: “Thiền sư Nhất Hạnh có khả năng diễn tả những pháp môn thâm sâu Bụt dạy về tương tức và về không một cách vô cùng uyên áo mà đơn sơ, tôi chưa hề nghe ai trình bày được như thế. Thầy đưa lên một tờ giấy và với biện tài thật khéo của một thi sĩ, thầy dạy chúng ta rằng mưa, mây, người đốn những cây rừng… đều đang có mặt trong tờ giấy. Thầy là một trong những vị đạo sư quan trọng nhất đã đưa ngọn đèn chánh pháp của Bụt về phương Tây mà chúng ta đang có được.”

Thiền sư Thích Nhất Hạnh, tên khai sinh là Nguyễn Xuân Bảo, được sinh ra ở Miền Trung Việt Nam năm 1926. Theo cuộc phỏng vấn Thầy của Oprah Winfrey thì kỷ niệm mầu nhiệm nhất trong thời ấu thơ của Thầy là khi Thầy được thấy hình Bụt trên bìa một tập san Phật giáo lúc bảy tám tuổi. Bụt đang ngồi trên cỏ, mỉm cười và bình an hơn bất cứ ai mà chú bé từng được gặp. Chú bé quyết định là lớn lên mình phải trở nên một người như Bụt, trở nên một ông thầy tu như Ngài. Ba mẹ Người khó mà chấp nhận điều đó, vì nghĩ rằng đó là một cuộc sống khó khăn; tuy nhiên đến năm 16 tuổi Thầy cũng được ba mẹ cho đi tu tại một ngôi chùa thuộc tông Lâm Tế (tiếng Nhật là Rinzai) ở Huế.

Nơi đây, Thầy bắt đầu học những bài học đầu tiên Bụt dạy từ vị bổn sư của Người, Thiền sư Thanh Quý Chân Thật. Thầy được dạy rằng thiền quán là cánh cửa đưa vào sự hiểu biết thâm sâu. Tuy nhiên, những vị tu sĩ không thực tập ngồi thiền suốt ngày. Trong thiền môn, từ những vị thầy lớn đến các chú điệu nhỏ ai cũng thực tập thiền ngữ “bất tác bất thực” (không làm việc là không ăn). Thành ra, Thầy Nhất Hạnh cũng biết làm phân chuồng, giã gạo, gánh nước đến phồng cả vai.

Sau nhiều năm tập sự, Thầy mới thật sự nhận giới và được gửi tới Phật Học Viện Báo Quốc. Tuy nhiên, Thầy không được thoả mãn lắm với cách dạy dỗ nơi đây vì thiếu sự học hỏi về văn chương, triết học và ngoại ngữ. Những vị chức sắc trong Phật Học Viện không tiếp nhận những đề nghị của Thầy và các bạn cùng tu của Thầy và do đó cả nhóm rời bỏ Phật Học Viện để đi vào Nam tìm nơi trú ẩn ở một ngôi chùa thuộc Miền Nam. Nơi đó, Thầy và các bạn học khoa học, văn chương, ngoại ngữ và tự nghiên cứu nội điển với niềm tin là học như thế sẽ mở rộng tầm mắt của mình và sẽ làm mới lại đạo Bụt.

Những năm 1930, có nhiều nhóm Phật tử trẻ bắt đầu muốn làm mới lại đạo Phật. Sự kiện Thầy rời chùa truyền thống Báo Quốc cho thấy rõ là Thầy đứng chung vào hàng ngũ phong trào làm mới đạo Phật này. Để góp phần vào việc làm mới đạo Bụt, Thầy đã dạy học, viết sách. Vào khoảng hai mươi lăm tuổi, Thầy đã viết xong vài quyển sách với những tư duy khá hiện đại và được các nhà xuất bản đương thời nhận xuất bản và phổ biến. Thời đó, Thầy viết rằng để cứu vãn đạo Phật đã bắt đầu xuống dốc, đạo Phật phải biết phát triển về mặt giúp đời cùng một tốc độ với sự phát triển của văn minh thế giới. Sự thực thứ nhất bàn về khổ đau – điều đó không đổi thay – nhưng ở mỗi lứa tuổi, mỗi thời đại sự khổ đau có đổi thay. Thầy Nhất Hạnh dạy: “Để làm vơi bớt khổ đau, người hành giả cần phải có kinh nghiệm trực tiếp với khổ đau trong phương diện này.” Tình hình chiến tranh tại Việt Nam đã tác động rất lớn đến những suy tư của Người. 

Trong cuộc chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản đã chiếm cứ Việt Nam và đẩy thực dân Pháp ra khỏi đất nước này. Khi Nhật đầu hàng năm 1945, Pháp chưa trở lại được. Mặt Trận Việt Minh nhờ thế đứng lên giành độc lập trong khoảng thời gian chưa có cường quốc nào kịp chen chân vào. Đây là một phong trào đòi độc lập do những người Cộng Sản lãnh đạo. Tuy nhiên, những nước đồng minh thắng Nhật và Đức đã đồng ý cho Pháp trở lại Việt Nam để nắm quyền. Vì thế, chiến tranh lại bùng nổ vào năm 1947.

Năm 1954, khi quân đội Pháp thất thủ ở Điện Biên Phủ, trong cuộc hòa đàm tại Geneve, Việt Nam bị chia đôi thành hai nước: Miền Nam thân Tây Phương và Miền Bắc do đảng Cộng Sản cầm quyền. Theo quyết định của cuộc hòa đàm 1954, hai miền Bắc Nam của Việt Nam sẽ thống nhất lại sau cuộc Tổng Tuyển Cử tự do hai năm sau đó. Nhưng người Hoa Kỳ rất sợ là Tổng Tuyển Cử sẽ đưa Miền Bắc lên cai trị trên toàn cõi Việt Nam từ Nam ra Bắc nên họ đã làm mọi cách để cuộc bầu cử ấy không bao giờ xảy ra. 

Người Phật tử Việt Nam nào cũng mong mỏi một mặt trận liên minh ủng hộ một Việt Nam dân chủ và độc lập. Thầy Nhất Hạnh là chủ bút một tập san khuyến khích toàn dân đi về hướng quốc gia và nhân bản (tờ Phật Giáo Việt Nam bán nguyệt san). Cùng lúc ấy, Thầy cũng viết trên một nhật báo (nhật báo Dân Chủ của Ông Vũ Ngọc Cát) mỗi ngày một bài bình luận có tính cách hướng dẫn người Phật tử và toàn dân nên đi về hướng nhân bản hòa giải. Đồng thời, Thầy cũng bắt đầu khởi xướng một tập san cho tăng ni sinh trẻ (Sen Hái Đầu Mùa) để hướng dẫn cách sống dấn thân làm mới đạo Bụt. Những cố gắng này đã bị những thành phần bảo thủ của Phật Giáo chú ý và tìm nhiều cách gây khó khăn cho đường hướng này. Đáng kể nhất là tờ bán nguyệt san Phật Giáo Việt Nam, tiếng nói của Tổng Hội Phật Giáo gồm ba miền đất nước do Thầy làm chủ bút đã bị các tôn túc thuộc phe bảo thủ cho đình chỉ.

Thầy đành rút lui về xây dựng Phương Bối Am ở trong Rừng Đại Lào tỉnh Lâm Đồng. Cuốn Nẻo Về Của Ý được Thầy phác họa rất thi vị và diễm tuyệt về nếp sống ở Phương Bối Am. Những buổi sáng tinh sương trinh nguyên như một tờ giấy trắng, với vài nét chấm phá quanh bờ rừng và những buổi chiều khi màn đêm xuống dần như chiếc màn dày đặc và huyền bí. Trong những ngày sống ở Phương Bối, Thầy vẫn tiếp tục viết về Đạo Bụt dấn thân chia sẻ những tuệ giác của Thầy về cách làm mớí đạo Bụt. Thầy vẫn thỉnh thoảng rời Phương Bối Am để đi dạy ở những thành phố lớn ở Việt Nam. Trong một chuyến đi dạy, Người gặp được một số sinh viên trong đó có cô Cao Ngọc Phượng đang học về Sinh Vật Học nhưng rất dấn thân trong những công tác giúp trẻ em nghèo đường phố. Sau đó, cô và các bạn của cô trở thành “mười ba cây tùng” trong ngôi nhà Phật giáo mới mà Thầy muốn xây dựng. Đó là nhóm người trẻ rất hăng say trong việc theo học với Thầy và tìm cách để thực hiện những hoài bão làm mới đạo Bụt của Thầy bằng nhiều cách khác nhau. Trong khi đó, Thầy vẫn tiếp tục bị khó khăn với cấp lãnh đạo truyền thống xưa. Họ khá lo ngại, không hiểu vì sao cái ông thầy tu này lại cuốn hút quá nhiều sinh viên trẻ đến chùa chỉ để được học với Thầy thôi. Trong khi đó, tại các lớp khác không có bao nhiêu người chịu học. Vì thế họ ra lệnh không cho phép các lớp học dành cho sinh viên do Thầy hướng dẫn tại chùa (Xá Lợi) được tiếp tục!

Thầy và các vị học tăng tại chùa Ấn Quang – Sài Gòn

Chính quyền Miền Nam thời đó cũng không dễ thương gì lắm với Thầy. Một thành viên trong Phương Bối Am bị bắt nên Thầy phải về Sài Gòn và chính quyền buộc dời Am Phương Bối vào Ấp Chiến Lược (một chính sách của thời Ông Ngô Đình Diệm). Chán ngán về sự thúc đẩy của tình thế nên Thầy nhận một học bổng thân hữu để đi Hoa Kỳ nghiên cứu về Tôn giáo Tỷ Giáo tại đại học Princeton. Nhật ký của Thầy từ năm 1962 đã diễn tả về Princeton cũng thi vị diễm tuyệt như đã tả về Phương Bối Am: “Trời mát lạnh se se trong mùa này. Một cơn gió thoảng nhẹ lướt qua là lá lại lìa cành chạm nhẹ trên bờ vai ta. Chiếc thì vàng, chiếc thì đỏ như môi son bé thơ.” Tuy Princeton đẹp như thế nhưng Thầy vẫn nhớ nhà, vẫn có cái cảm xúc ai oán của sự xa rời cộng đồng tu tập ngày xưa của mình. Princeton đẹp thật! Thầy đã viết: “Nhưng Princeton không có cái đẹp của Phương Bối. Không có sương mù bao quanh núi khiến ta có cảm tưởng như ta đang đứng trên bờ biển mênh mông. Princeton không thuần hòa đáng yêu như Phương Bối.”

Tuy nhiên, Thầy cũng đã viết: “Chúng ta sẽ không bao giờ mất Phương Bối thực sự đâu. Phương Bối đã trở thành một thực tại linh thiêng trong tâm ta rồi.” Tìm ra nơi trở về đích thực của mỗi người là khả năng mà Thiền sư Nhất Hạnh tiếp tục khai triển và khuyến khích mọi người nên luyện từ nhiều năm nay. Giờ đây sự thực tập đó đã trở thành thiền ngữ để tu tập “Tôi đã về, tôi đã tới!” Thầy đã viết trong quyển sách: “Tôi đã tới, tới cõi Tịnh Độ, tới một nơi an toàn thật sự, nơi mà tôi nếm được thiên đàng của tuổi thơ và rất nhiều mầu nhiệm của sự sống. Tôi không còn phải lo lắng về hiện hữu hay không hiện hữu, đến hay đi, sinh hay tử. Trong ngôi nhà chân thật này, tôi không còn sợ hãi, không lo âu. Tôi có bình an, có giải thoát. Ngôi nhà chân thật của tôi là bây giờở đây.”

Năm 1962, trong nhật ký, Thầy ghi ra những phương cách thiền quán hướng về nội tâm sau khi thực chứng một cách thâm sâu về không như một lóe sáng tuệ giác xuất hiện bất chợt từ một nguyên nhân không chờ đợi – quyển sách cũ trong thư viện Đại Học Columbia. Sau khi làm xong công trình nghiên cứu Tôn Giáo Tỷ Giáo tại Đại Học Princeton, Thầy được mời làm giảng sư cho Đại Học Columbia về Đạo Bụt. Từ đó, Thầy dời về thành phố New York. Thầy được chia một căn phòng trong chung cư với một sinh viên Hoa Kỳ đang làm luận án. Anh này được Thầy dạy nấu đồ chay để cùng ăn với Thầy. Và anh cũng được Thầy dạy cho vài ba câu tiếng Việt.

Mùa Thu năm 1962, trong khi Thầy rút từ kệ sách ở thư viện Butler ra một quyển sách được in năm 1892, cuốn sách cũng được tặng cho thư viện cùng năm ấy. Nhìn mảnh giấy nhỏ ghi tên những người mượn sách, Thầy thấy quyển này chỉ có hai người mượn. Một lần mượn vào năm 1915 và một lần năm 1932. Bỗng dưng Thầy thấy nhu yếu muốn gặp hai người kia của năm 1915 và 1932. Lúc ấy, cái quyết định làm người thứ ba mượn sách để đọc chợt tan biến. Đột nhiên, Thầy thấy hai người kia đang tan biến đi và chính Thầy cũng đang nhanh chóng tan loãng ra như thế. Thầy tự hỏi: Thầy là ai ở bên dưới những cảm xúc này? Thầy đã là gì đâu? Và bỗng dưng thoáng lóe lên trong Thầy một cảm nhận bình an, nhẹ nhàng và thâm sâu. Sau đó, Thầy đã ghi trong nhật ký: “Anh có thể đánh tôi, liệng đá hoặc giả giết tôi đi, tất cả những gì được gọi là ‘tôi’ sẽ tan biến. Và những cái gì có mặt nơi đó, lúc ấy sẽ tự nó biểu hiện – tan ra như sương khói, loãng như hư không, thế nhưng đó không phải là khói, cũng không phải không khói, không xấu, không không xấu, không đẹp, không không đẹp… Như con châu chấu, tôi nhẹ nhàng bao la nhưng không thấy cần có tư duy về thánh thiện…” Theo Thầy Nhất Hạnh, Thầy đi tu ở Việt Nam, đã dạy nhiều thế hệ học tăng, học ni và cư sĩ ở Việt Nam nhưng chính ở Tây Phương, Thầy mới thấy đạo và chứng đạo.

Trong khi ấy, trên quê hương Thầy, tình trạng ngày càng xấu thêm. Tháng Tư năm 1963, trong ngày Đản sinh của Bụt, Tổng thống Ngô Đình Diệm của Việt Nam Cộng Hòa, người theo đạo Thiên Chúa, đã cấm treo cờ Phật giáo. Quần chúng biểu tình, nhiều người chết, hàng ngàn người bị bắt và tra tấn. Tháng Sáu năm 1963, một vị Hòa Thượng Phật Giáo đã tự thiêu tại một nơi công cộng để kêu gọi chính quyền ngưng sự đàn áp. Thế giới giật mình, rồi sau đó nhiều sự tự thiêu khác lại xảy ra tiếp theo để phản đối sự đàn áp. Ở Hoa Kỳ, Thầy Nhất Hạnh rất lo âu. Những giấc mơ kỳ lạ cứ liên tiếp xuất hiện làm Thầy trăn trở rất nhiều. Trong giấc mơ, Thầy thấy như mình vì muốn tránh làm tổn thương ai đó mà bỗng cảm nghe cơ thể mình như gãy ra làm đôi giống như hai mảnh sành.

Từ tháng Sáu đến tháng Mười năm 1963, Thầy gặp ký giả các nhật báo, các tuần báo, các đài truyền thanh, truyền hình, Thầy liên tiếp xuất hiện trên các đài truyền hình, để ủng hộ phong trào tranh đấu cho hòa bình và tự do ở nước nhà. Thầy cũng đã nhịn ăn năm ngày để cầu nguyện cho Việt Nam. Thầy đã dịch ra tiếng Anh rất nhiều thư kêu oan của hàng trăm nhân chứng đã bị chính quyền Diệm đàn áp, tra tấn, giết chóc và đóng thành một tập tài liệu để nộp cho Liên Hiệp Quốc. Cuối cùng, Liên Hiệp Quốc đã gửi một phái đoàn tới Việt Nam để điều tra. Tháng 11 năm 1963, chính quyền Ngô Đình Diệm bị lật đổ, ông Ngô Đình Diệm bị quân cách mạng bắn chết trong dịp ấy. Thầy Nhất Hạnh nhận được một điện tín của một vị trưởng thượng trong Giáo Hội Phật Giáo, vốn rất thủ cựu. Ngày xưa, vị này luôn tìm cách dẹp hết những tư duy mới, những đề nghị cải tổ Phật Giáo của Thầy. Vậy mà hôm nay, chính vị ấy lại đánh điện mời Thầy về Việt Nam gấp để giúp tổ chức lại ngôi nhà Phật giáo. Thầy đã khá cảm động và suy tư rất nhiều. Thầy nói với một người đệ tử thân tín (chị Cao Ngọc Phượng mà sau này là Sư cô Chân Không) rằng đây quả thật là sự mầu nhiệm của vô thường. Cũng chính vị đó chống đối Thầy và giờ thì cũng chính vị đó lại mời Thầy về gấp.

Ngày 16 tháng 12 năm 1963, Thầy Nhất Hạnh bay về Việt Nam. Sau khi tìm hiểu về tình hình Việt Nam với Tăng thân đông đảo của thầy tại đây, ba tuần sau Thầy nộp lên Hội Đồng Lãnh Đạo Giáo Hội Phật Giáo Viêt Nam Thống nhất ba điểm đề nghị. Thứ nhất là xin Giáo Hội kêu gọi ngưng chiến tức khắc giữa anh em người Việt với nhau là miền Nam và miền Bắc (lúc này chưa có quân đội Hoa Kỳ vào Việt Nam).

Thứ hai là thành lập ngay một Viện Cao Đẳng Phật Học Ứng Dụng để đưa tới Viện Đại Học. Mục đích là để hướng dẫn cấp lãnh đạo Việt Nam được thấm nhuần tinh thần bao dung của đạo Phật đã áp dụng thật thành công trong lịch sử Việt Nam từ xưa. Thứ ba là thành lập trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội, trung tâm đào tạo những người đi làm công tác xã hội để lo cho hạ tầng cơ sở, giúp đỡ tầng lớp nghèo khó, chuyển hóa bất công xã hội bằng tinh thần tình thương, trách nhiệm và tự nguyện.

Nhưng Viện Hóa Đạo chỉ chấp nhận ủng hộ Viện Cao Đẳng Phật Học và sau này trở nên Đại Học Vạn Hạnh. Đối với hai điểm kia, các vị trưởng thượng cho rằng quá lý tưởng, không sát thực tế. Đó chỉ là giấc mộng của thi sĩ thôi. Tuy nhiên, Thầy Nhất Hạnh đã rất kiên cường. Dù không có sự đồng thuận của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Thầy vẫn bắt đầu gửi người về hai thôn làng làm thí điểm giúp dân quê, bắt đầu cuộc cách mạng xã hội ngay. Dân quê được góp ý, tự đứng lên mở lớp học, lo y tế, vệ sinh công cộng, phát triển thêm kinh tế cho từng gia đình với sự góp sức của các tình nguyện viên đệ tử của Thầy. Những người trẻ trong làng được huấn luyện để có thể tự mình học cách canh tác chăn nuôi hay trồng trọt, biết tự làm hố tiêu vệ sinh để làm mới vệ sinh cộng đồng. Khi Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN) thấy sự thành công của Thầy, quý vị mới bắt đầu làm hậu thuẫn cho chương trình đó. Đó là điểm đề nghị thứ hai – cách mạng hạ tầng cơ sở giúp đỡ dân quê, đa số quá nghèo bằng sự hiểu biết, trách nhiệm và tự nguyện. Quý vị ủng hộ bằng cách cho phép nhân danh Giáo Hội kêu gọi mọi người đóng góp tài chính. Và cho TNPSXH là một chi nhánh của Đại Học Vạn Hạnh.

Tháng 9 – 1965, Thầy chính thức báo tin được Giáo Hội chấp nhận thành lập Trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội (TNPSXH) như một phân ban của Viện Đại Học Vạn Hạnh. Toàn dân hưởng ứng thật nồng nhiệt, hơn một nghìn người trẻ ghi tên để thi tuyển vào trường TNPSXH. Trường chỉ có 300 chỗ. Nhưng đến năm 1966, khi Thầy Nhất Hạnh lên tiếng kêu gọi Hòa Bình, Viện Đại Học Vạn Hạnh đã tuyên bố là bắt đầu từ năm nay, trường TNPSXH không còn là Phân Ban của Viện nữa, bởi vì lời kêu gọi hòa bình của thầy Nhất Hạnh là thân cộng sản. Tuy không còn chỗ đứng chính thức, hợp pháp trong Đại Học Vạn Hạnh hay trong Giáo Hội PGVN thống nhất trong chín năm liên tiếp, trường TNPSXH vẫn phụng sự vững vàng biết bao nhiêu chương trình giúp những người khốn khổ, xây dựng lại những thôn làng (như Trà Lộc, Quảng Trị) đã bị oanh tạc đến lần thứ tư mà vẫn tiếp tục xây dựng lại để nuôi dưỡng niềm tin nơi những người đã bị chiến tranh lấy đi tất cả. Vì phải đi công tác giúp đồng bào ở vùng sâu vùng xa, nhiều tác viên xã hội đã mất mạng vì bị bắt cóc rồi bị thủ tiêu. Những người lạ mặt đã quăng lựu đạn vào những đoàn đang công tác, nhiều người chết, nhiều người bị thương…

Sáu thành viên đầu tiên của Dòng tu Tiếp Hiện

Tháng 2 năm 1966, Thầy Nhất Hạnh truyền 14 giới Bồ Tát Tiếp Hiện cho 6 người lãnh đạo trong Ban Điều Hành TNPSXH. Những giới luật mới do Thầy Nhất Hạnh viết ra lấy từ những lời dạy thâm sâu nhất của các kinh Bụt dạy. Người cư sĩ hay xuất sĩ (xuất gia) đều có thể thọ nhận giới này, miễn là họ thực hành đúng giới luật tuyên đọc để tiếp tục nuôi dưỡng tâm bồ đề trên đường phụng sự. Điều kiện để được thọ giới Tiếp Hiện là giới tử phải hứa giữ 60 ngày chánh niệm trong một năm (mỗi tuần một ngày và mỗi năm một khóa tu 8 ngày với Tăng thân). Những giới chánh niệm này do Thầy Nhất Hạnh rút từ những kinh thâm sâu nhất rồi cô đọng lại như một loại giới tướng mới có ý thay thế, hay ít nhất là bổ túc mấy trăm giới mà các tu sĩ Phật Giáo đang theo từ hàng ngàn năm nay. Giới này không có nghĩa là nhét thêm lý thuyết đạo Bụt mà là để giúp người giữ giới đi thẳng vào trái tim của những điều Bụt dạy.

Ba giới đầu nhằm dạy ta luyện cách vượt thoát cái thấy kỳ thị giữa người với người, vượt thoát cái thấy cuồng tín và thần tượng hóa, cho rằng tôn giáo của mình là hay nhất. Giới thứ tư khuyên mọi người không những quán sát khổ đau mà còn phải tập cách tích cực làm vơi bớt khổ đau. Giới thứ năm nhằm về cách tiêu thụ – tập sống đơn giản và tránh dùng những chất độc hại cho thân và tâm. Giới thứ sáu tìm cách hóa giải những cơn giận cá nhân bằng cách mở cái nhìn xa hơn vào tập thể để thấy hậu quả của nó ảnh hưởng khá xa lên xã hội. Giới thứ bảy được xem như quan trọng nhất vì nhấn mạnh cái thiết yếu của thực tập chánh niệm, giữ nếp sống sâu sắc trong phút giây hiện tại. Giới thứ tám và thứ chín dạy cách tập nói lời ái ngữ.

Và năm giới sau cùng nhấn mạnh về việc giữ gìn thân trong chánh niệm, như là nhắc ta đừng giết chóc, tôn trọng sự sống (giới 12), đừng hành động dữ dằn, bạo động hoặc đừng phạm vào những hành động dâm dục sai trái * (về phương diện dâm dục trong giới thứ 14 thì có hai phần khác nhau, bên cư sĩ nhắc nhở chỉ ăn nằm với những người mình cam kết sống trọn đời, bên xuất sĩ thì nói rõ ràng là phải sống đời phạm hạnh, rằng hành động dâm dục sẽ tàn phá cuộc đời xuất gia của mình).

Sự trao truyền 14 giới Tiếp Hiện được chuẩn bị rất trang trọng. Mỗi giới tử được trao một chiếc đèn mà chụp đèn làm bằng giấy lụa. Trên ấy, Thầy viết bút pháp từng câu như là Đèn Trăng Tròn, Đèn Trí Tuệ, v.v… Sáu vị giới tử Tiếp Hiện đầu tiên, có ba chị chọn giữ 14 giới Tiếp Hiện xuất sĩ trong đó có chị Cao Ngọc Phượng và bây giờ là Sư cô Chân Không vì các chị có thọ thêm giới tướng khất sĩ truyền thống. Còn ba anh thì chỉ giữ 14 giới Tiếp Hiện cư sĩ. Sau đó ba anh đều có gia đình. Sau khi truyền giới cho 6 người đầu tiên, vì Thầy phải đi kêu gọi hòa bình và bị lưu đày nên sự truyền 14 giới Tiếp Hiện bị gián đoạn cho tới năm 1981. Nhưng tính đến hôm nay thì đã có hơn một nghìn anh chị Tiếp Hiện thuộc chúng Chủ Trì, thuộc nhiều quốc gia trên thế giới.

Tháng 5 năm 1966, Thầy Nhất Hạnh rời Việt Nam. Theo dự đoán, Thầy chỉ đi vài tuần theo lời mời của Viện Đại Học Cornell ở Nữu Ước và đi thêm vài tuần nữa để nói lên tiếng nói tha thiết của người dân chạy dưới bom đạn mà không theo Cộng Sản hay theo thành phần chống Cộng. Không ngờ Thầy bị lưu đày từ đó, và mãi gần 40 năm sau Thầy mới được về lại đất nước. Trong chuyến này, thầy đã gặp những nhân vật xuất sắc như Linh Mục Thomas Merton, Thượng Nghị Sĩ William Fullbright, Bộ Trưởng Quốc Phòng Robert Mac Namara và nhất là Mục Sư Martin Luther King Jr. Sau đó, ông này đã đề nghị trao giải Nobel Hòa Bình cho Thầy. Nhưng ngày 01 tháng 06 năm 1966, khi Thầy họp báo đề nghị những điểm đưa tới hòa bình cho Việt Nam thì chính quyền Miền Nam tuyên bố Thầy phản quốc. Thầy đề nghị quân đội Hoa Kỳ ngưng oanh tạc Việt Nam và giúp xây dựng lại những thôn làng bị tàn phá bởi bom đạn mà không phân biệt bên này hay bên kia. Sự cứu trợ phải hoàn toàn vượt ra khỏi những chủ nghĩa và lý thuyết chính trị. Thầy cũng đề nghị nhiều điểm khác làm rõ hơn ý muốn của Thầy là giúp đỡ cả hai bên xây dựng lại những gì chiến tranh đã tàn phá và tìm một giải pháp hợp tình hợp lý cho toàn dân. Nhưng vì lẽ đó mà cả hai phe lâm chiến đều xem Thầy như thù nghịch vì không theo lập trường của họ.

Thầy và Mục sư Martin Luther King

Thầy và Linh mục Thomas Merton

Sau khi đi một vòng mấy mươi nước để kêu gọi chấm dứt chiến tranh, Thầy rút về Pháp, mướn một nơi gần Paris để có thể có mặt trong thành phố mà các cường quốc đang hòa đàm về Việt Nam. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN) đã đề cử Thầy làm Chủ Tịch Phái Đoàn Hòa Bình của Giáo Hội PGVNTN. Phái đoàn này có bổn phận thông báo cho dư luận thế giới biết những gì đang xảy ra tại Việt Nam để cuộc hòa đàm đừng đi quá xa với thực tại khổ đau của người dân. Phái đoàn cũng kêu gọi giúp đỡ nạn nhân trong chiến tranh và nhất là tìm người bảo trợ cho trẻ em mất cha mẹ vì chiến tranh. Đây là những công tác thật quan trọng nhưng cũng là thách thức cho Thầy. Đang ở môi trường Việt Nam với hàng triệu đồng bào, hàng ngàn cộng tác viên thân thương cùng phụng sự lý tưởng, Thầy bỗng bị đẩy ra trong xã hội Tây phương như một tế bào bị tách ra khỏi cơ thể, như một con ong bị tách khỏi đàn ong. Dù hiểm nguy, Thầy vẫn mong quay về Việt Nam để cùng đi chung với Tăng thân của Thầy. Từ năm 1972, Thầy đã nhờ một số bạn bè nổi tiếng ở Tây Phương vận động cho Thầy được về nước nhưng không có kết quả và sau khi chính quyền Miền Bắc nắm chính quyền cả nước vào năm 1975, Thầy vẫn bị chính quyền mới từ chối không cho về lại quê hương.

Năm 1976, Thầy Nhất Hạnh tham dự Đại Hội Tôn Giáo Thế Giới (World Conference on Religions and Peace) họp tại Singapore và trong khi Thầy đang ở đại hội thì có một nhóm phụ nữ Việt Nam sinh sống ở đây tới báo cáo cho Thầy biết là đang có hàng trăm ngàn thuyền nhân sống cơ cực rãi rác khá nhiều trong các trại tị nạn dọc theo bờ biển các nước Đông Nam Á. Họ sống khổ cực mà không thấy tương lai vì số người được cho phép định cư ở các nước Tây Phương quá ít, bởi lẽ con số di trú thẩm định (quotas) của các nước quá thấp. Những người tị nạn này là những thuyền nhân bị bầm dập khá nhiều, đã trốn đi khỏi nước Việt Nam bằng những chiếc thuyền mong manh thật nguy hiểm, mà trong đó họ đã bị nhét như những con cá hộp. Sư cô Đẳng Nghiêm, một vị xuất gia thuộc dòng tu Tiếp Hiện, gốc Việt, đã nói như thế. Sư cô nói, những người này lo sợ một cuộc sống dưới chế độ Cộng Sản nên phải liều mình trốn đi trên những chuyến đi rất nguy hiểm. Nếu họ bị chính quyền Cộng sản bắt gặp thì sẽ bị rượt theo, nếu bị bắt thì sẽ bị tù hoặc bị bắn chết.

Hải tặc lại là một hiểm nguy khác. Khi gặp hải tặc thì thuyền nhân bị cướp và bị hãm hiếp. Có khi họ gặp nhiều nhóm hải tặc trong một ngày, vì vậy khó mà tới bờ được. Nhưng nếu thuyền nhân tới được bờ rồi thì cảnh sát dọc theo bờ biển cũng đã được lệnh đưa họ ra biển trở lại, không cho ghé thuyền vào nước mình, đẩy họ quay về với sự hiểm nguy biển cả. Có lần một thiếu phụ Việt Nam ở Singapore đã tới cho Thầy biết là hiện tại có 9 người thuyền nhân Việt Nam mới vừa ghé bến Singapore và sắp bị đuổi, Thầy có đến thăm họ không? Sau khi chứng kiến cảnh đau lòng của thuyền nhân, Thầy bắt đầu làm việc giúp họ ngay. Đêm ấy, Thầy thức suốt đêm để thiền quán. Và Thầy đã viết ra một bài thơ thật cảm động. Ngày hôm sau, cả Hội ĐồngTôn Giáo Thế Giới và Hòa Bình đã rúng động vì bài thơ ấy và đề cử thầy đứng ra lo cho chương trình cứu trợ này.

Thầy và các bạn của Thầy quyên tiền và cấp bách mướn ngay hai chiếc tàu, một chiếc tàu chở hàng tên là Roland và một chiếc tàu chở dầu tên là Leapdal. Chỉ trong vòng vài tuần, đoàn cứu trợ của Thầy đã vớt được gần 600 thuyền nhân. Kế hoạch là sẽ đưa thuyền nhân đi Guam (lãnh thổ Hoa Kỳ) và đi một nơi gần nhất của Úc châu và kêu gọi chính quyền hai nước này giúp đỡ họ. Nếu nhà nước hai nước đó không giúp thì Thầy và Tăng thân của Thầy sẽ mời báo chí Hoa Kỳ và Úc châu lên tiếng kêu gọi. Khi nghe tin này (dù là truyền miệng), có nhiều thuyền nhân đã tới được các trại tị nạn ở Mã Lai hay Thái Lan rồi nhưng vì ở đây đã hơn một năm mà không thấy có tương lai được định cư bất cứ nơi nào nên họ đã tự  tìm mọi cách rời trại tị nạn để lên tàu Leapdal hay Roland. Điều này khiến Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc nổi cơn thịnh nộ. Khi chương trình chưa đủ ba tháng, Thầy bị mời chấm dứt chương trình giúp thuyền nhân. Sư cô Đẳng Nghiêm nói: Tuy bị buộc ngưng chương trình nhưng không vì thế mà Thầy ngưng giúp đồng bào thuyền nhân về tâm linh và tình cảm. Hãy gọi đúng tên tôi là bài thơ thật cảm động và được nhiều người rất thích, vượt hơn cả những bài thơ khác của Thầy. Thầy viết bài thơ này năm 1978 khi thuyền nhân khổ đau nhất vì hải tặc. Trong này có những câu như là:

Tôi là em bé mười hai bị làm nhục đã trầm mình dưới biển
mà tôi cũng là người hải tặc chưa hề biết cảm biết thương.
Tôi là một đảng viên nắm quyền sinh sát trong tay
nhưng tôi cũng là người bị học tập ở trại giam
khổ đau cùng tận.

Và Thầy kết luận:

Hãy gọi đúng tên tôi
Cho tôi giật mình tỉnh thức
và để cho cánh cửa lòng tôi mở ngỏ,
cánh cửa xót thương.

Lòng từ bi thật lớn đã biểu hiện qua bài thơ này. Bài thơ đã chữa lành được cho rất nhiều cựu thuyền nhân dù nhiều năm qua vẫn còn khổ đau. Họ viết cho Thầy báo cáo rằng khi đọc bài thơ này họ đã ôm được niềm đau cũ, chấp nhận và chuyển hóa chúng và mở lòng ra được với những người khác.

Thầy Nhất Hạnh cũng đào tạo từ từ một số lớn giáo thọ cư sĩ

Tháng 7 năm 1971, Thầy và học trò của Thầy, phần đông là người Việt, bắt đầu tìm một  ngôi nhà cũ hoang phế bán rẻ ở vùng rừng Othe, nằm phía Tây Nam Paris. Phái Đoàn Hòa Bình vẫn làm việc rất chuyên cần và hết lòng ở Văn Phòng Paris, nhưng cuối tuần  họ thường rút lui về nơi đó để xây cất sơn sửa và xây lại từng căn phòng. Nhờ vậy mà có được một nơi an tĩnh để tu tập cuối tuần thường gọi là Am Khoai Lang Ngọt (Les Patates Douces hay Sweet Potatoes) hay Phương Vân Am. Năm 1975, Thầy cùng khoảng 11 đệ tử trong Phái Đoàn Hòa Bình rút lui về chiếc Am bình an này nằm giữa núi rừng đông nam nước Pháp, đẹp đẽ và an lành để tự chữa những  thương tích của cuộc chiến và giúp chữa những thương tích trong tâm hồn những người Việt bị lưu đày.

Năm 1982, Am Phương Vân trở nên quá nhỏ cho số người muốn đến tu học để chữa lành những vết thương lòng qua một tuần lễ tĩnh tu. Vì thế Tăng thân đã mua được hai nông trại với những ngôi nhà đá điêu tàn, một ở tỉnh Lot & Garonne (gọi là Xóm Hạ Làng Mai) và một ở tỉnh Dordogne (gọi là Xóm Thượng Làng Mai).

Trẻ em về Làng – năm 1986

Tăng thân Làng Mai có khá nhiều việc để làm, sửa nhà chứa rơm thành Thiền Đường, chuồng lừa làm Trà thất và nhất là đã trồng được 1250 cây mận rất ngon ngọt, loại mận đặc biệt  chỉ trồng được ở vùng này. Đây là nguồn kinh tế có thể giúp cho trẻ em thiếu ăn ở các nước nghèo đói. Từ năm 1990 các cây mai (mận) đã bắt đầu cho trái và mùa mận  năm 1992 Làng thu hoạch được hơn sáu tấn mận.

Song song với việc trồng mận giúp trẻ em đói, cộng đồng tu học này tăng trưởng khá nhanh. Mùa Hè năm 1983 có 117 người về tu học trọn tháng. Nhưng đến năm 2000, số người đến tu học lên đến 1800 người.

Làng Mai ngày nay chia làm năm xóm khác nhau, nhưng vẫn còn đơn sơ và thanh bạch lắm. Trong quyển sách “Đã về, đã tới”- Ăn mừng 25 năm Làng Mai, Thầy Nhất Hạnh giải thích: “Tôi không bao giờ có ý muốn xây dựng một tu viện sang trọng diễm lệ nơi đây. Khi tôi bán được sách, có được khá nhiều tiền bản quyền, tôi chỉ muốn dùng tiền đó để giúp trẻ em thiếu ăn hay cho những nạn nhân thiên tai bão lụt tại Việt Nam. Nhiều người trong chúng tôi vẫn còn ngủ trong túi ngủ ngay trên sàn phòng như sư cô Chân Không. Hồi mới thành lập Làng Mai, chúng tôi thường ngủ trên những chiếc giường làm bằng một lớp nệm mousse mỏng đặt lên phiến gỗ gác lên trên bốn viên gạch. Sống đơn giản, thanh bần như thế nhưng vẫn không làm cho chúng tôi bớt hạnh phúc.”

Thiền đường Thái Bình Dương – tu viện Lộc Uyển

Năm 2000, Thiền sư Nhất Hạnh xây dựng tu viện đầu tiên ở Hoa Kỳ, Tu viện Lộc Uyển. Tu viện được xây dựng trên một lô nhiều dãy nhà xưa cũ. Ngôi nhà có một tiểu sử khá đặc biệt: Trước đây nó là trung tâm của những người lõa thể, sau đó trở thành trung tâm cai nghiện, kế đó là nhà tù dành cho hơn 300 tù nhân, rồi trở thành trường tập bắn cho những Công An Cảnh Sát đến tập bắn thiện xạ. Khi các đệ tử của Thầy đến mua cơ sở này, nó chỉ là những dãy nhà tồi tàn, đổ nát và đầy những vỏ đạn trên nền đất, nhưng bao quanh đó là chập chùng những rừng hoa đinh hương và rừng cây sage ngát hương.

Trong quyển sách Tình Thương Chân Thật (La Force de l’Amour), Sư cô Chân Không đã viết: “Tôi biết là chúng tôi đủ sức biến những dãy nhà tồi tàn dơ dáy này thành nơi tĩnh tu thật đẹp như chúng tôi đã làm tại Làng Mai.” Và dĩ nhiên là Sư cô nói đúng. Thiền sư Nhất Hạnh có hàng chục nghìn đệ tử cùng khắp thế giới. Chỉ riêng tại Hoa Kỳ mà đã có hàng trăm nhóm tu học theo truyền thống của Thầy. Năm 2007, Thầy xây dựng thêm một trung tâm tu học nữa – Tu viện Bích Nham, trải dài trên thung lũng sông Hudson ở Nữu Ước. Và cứ mỗi hai năm, Thầy lại có những khóa tu tại Miền Tây và Miền Đông Hoa Kỳ thu hút hàng ngàn thiền sinh về ghi tên tu tập trọn năm sáu ngày chung với nhau.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã viết hơn 45 quyển sách bằng Anh văn, sách của Thầy luôn nằm trong hàng sách loại đơn giản bán chạy nhất cho đến loại sách rất sâu sắc và uyên bác. Thầy đã có những khóa tu cho cảnh sát, cho quản giáo, cho tù nhân và cho những chính trị gia như Nghị Sĩ Quốc Hội Hoa Kỳ.

Thầy cũng hướng dẫn nhiều đoàn đi thiền hành cho hòa bình, đã đưa được người Do Thái đến với người Palestine để cùng ngồi thiền chung, làm việc chung. Người là nguồn hứng khởi cho cả phong trào Đạo Bụt Dấn Thân.

Ngày 11 tháng 01 năm 2005, Thầy Thích Nhất Hạnh có cơ hội đặt lại những bước chân của Thầy lên trên mảnh đất Việt Nam. Thầy được phép cùng đi chung với Tăng thân của Thầy (100 tu sĩ và 99 cư sĩ) nhiều nơi trên đất nước, liên lạc nhiều người quen cũ và đặc biệt là với giới trẻ. Sư cô Tùng Nghiêm, người Hoa Kỳ có dịp theo Thầy đi Việt Nam đã nói: “Hơn phân nửa dân số Việt Nam đã được sinh ra sau khi Thầy rời nước. Vì thế Thầy thiết lập lại liên hệ với cả hai thế hệ Việt Nam. Điều này thật  quan trọng vì ngày nay ở Việt Nam, người trẻ xem đạo Phật như là đạo của bà ngoại bà nội. Họ ưa ra thành phố chạy theo những văn minh vật chất của người Tây Phương. Thầy là một trong rất ít những ông thầy tu cuốn hút được giới trẻ đến tu tập, nhất là sẵn sàng đi xuất gia trở thành đệ tử của Thầy.” Rồi sư cô tiếp: “Chính quyền cũng sợ hãi thật khi thấy quá nhiều ngươì trẻ đi theo Thầy, nhất là những người trẻ có học thức cao.”

Năm 2007, Thầy Thích Nhất Hạnh lại trở về quê hương lần thứ hai và lần này Thầy chú tâm chữa lành những vết thương đau nhức nhất trong cuộc chiến bằng cách cầu nguyện cho tất cả những người chết trong cuộc thương đau dai dẳng này từ những chiến sĩ bên này hay bên kia, chết ngoài biển cả hay chết trong ngục tù những trại cải tạo. Ban đầu, chính quyền rất lo lắng vì sợ mất an ninh, nhưng cuối cùng những lời cầu nguyện cho các thành phần dân tộc đều được thốt ra đầy đủ trong không khí thành tâm nguyện cầu mà trang nghiêm, thanh tịnh không hề gây cản trở an ninh nên mọi việc có vẻ tốt đẹp. Sư cô Tùng Nghiêm nói rằng trước khi rời Việt Nam, Thầy đã đề nghị Chủ Tịch nước Việt Nam một số điểm trong đó có đề nghị cho phép những người mang hộ chiếu Tây phương nhưng gốc Việt Nam được về nước mà không cần xin thị thực trước, đề nghị lập tượng đài kỷ niệm thuyền nhân quá cố. Nhưng điểm then chốt là ba buổi Cầu Siêu lớn cho toàn dân. Theo Thiền sư, sự thực tập cầu siêu tập thể rất cần thiết cho sự làm lành những vết thương nhức nhối của hàng triệu gia đình khổ đau bằng nhiều cách khác nhau.

Tháng 4 năm 2008, Thầy và Tăng thân còn trở về Việt Nam thêm một lần nữa để tham dự và thuyết pháp trong ngày Phật Đản Quốc Tế mà Việt Nam đăng cai tổ chức cho mấy chục nước Phật giáo. Sau lần đó, có những dấu hiệu cho biết là nhà nước Việt Nam không mong chào mừng Thiền sư nữa.

Chuyện Bát Nhã

Trong chuyến đi Việt Nam năm 2005, thầy Trụ Trì chùa Bát Nhã ở Bảo Lộc nhiều lần xin cúng dường chùa Bát Nhã cho Thiền sư để làm trung tâm đào tạo những người tu theo pháp môn Làng Mai. Thầy Nhất Hạnh nói chỉ chấp nhận biến chùa này thành tu viện nếu thầy Trụ Trì Chùa Bát Nhã tiếp tục ở lại làm trụ trì và Thiền sư chỉ giúp bằng cách cho các đệ tử giáo thọ từ Làng Mai về hướng dẫn tu học thôi. Thầy Trụ Trì cũ đồng ý ở lại làm trụ trì và đứng ra xin phép nhà nước cho ông tổ chức tu học tại đây theo pháp môn Làng Mai. Tăng thân của Thiền sư Nhất Hạnh khắp nước Việt Nam và trên thế giới đã gửi tiền về đóng góp xây dựng cơ sở vật chất tu viện và sáu người giáo thọ Làng Mai gốc Việt Nam nhưng có hộ chiếu Tây Phương đã được gửi về Tu viện Bát Nhã để hướng dẫn các tu sinh đến thực tập các pháp môn Làng Mai khá thành công.

Chùa Bát Nhã ban đầu chỉ có một Chánh Điện nhỏ có thể chứa năm mươi người đến tụng kinh. Sư cô Đẳng Nghiêm đã từng ở Bát Nhã nhiều tháng để hướng dẫn các sư cô trẻ nói rằng: “Từ năm 2005 đến 2008, chúng tôi đã xây được năm cư xá lưu trú cho hàng trăm tu sinh. Và số lượng các vị muốn đến tu tập ngày thêm đông, một thiền đường rất rộng có thể chứa 3000 người tới nghe hay ngủ tạm ban đêm khi có khóa tu đông đảo đã được xây dựng. Chúng tôi cũng đã mua rất nhiều đất xung quanh tu viện. Và số đất xung quanh giờ đã hơn ba lần số đất cũ (dĩ nhiên là thầy trụ trì đứng tên mua dùm, chúng tôi vẫn còn giữ giấy xác nhận của thầy chỉ đứng tên dùm). Nhà nước không ngờ Tu viện Bát Nhã đã phát triển nhanh chóng như thế và đáp ứng nguyện vọng của mọi người. Hàng ngàn người tới tu viện để tham dự ngày chánh niệm và trong vòng dưới 4 năm, Thầy Nhất Hạnh đã xuất gia cho hơn 500 người trẻ nam và nữ trong tu viện này.”

Khoảng giữa năm 2008, sự thành công thu hút quá đông người đến tu học. Giờ đây, nó trở thành một mối lo, một đe dọa cho chính quyền Việt Nam (nhất là khi Thầy có những tư tưởng quá cách mạng và không chịu tuân theo luật lệ tham nhũng chung!) Bắt đầu họ chỉ đề nghị những thầy cô đến từ Làng Mai, có quốc tịch Tây phương nên rời khỏi trung tâm này. Họ nghĩ rằng đuổi sáu vị giáo thọ quốc tịch Tây Phương về Mỹ hay về Làng thì số còn lại sẽ ngoan ngoãn theo sự điều khiển của họ. Sau khi đuổi xong các giáo thọ quốc tịch Tây phương, công an bắt đầu cấm không cho Phật tử cư sĩ đến tham dự ngày chánh niệm hàng tháng. Năm 2009, một cánh tay của chính quyền đã thuê côn đồ đến thảy phân lên trên các vị tu sĩ và treo những bản hiệu đề “Làng Mai đến đâu, gieo sầu đến đó”. Tháng 9 năm 2009, sự xua đuổi lên đến tột đỉnh. Khoảng 100 công an mặc thường phục đã xuất hiện chung với côn đồ và đánh bật hàng trăm quý thầy và quý số sư cô ra cho khỏi cư xá họ đang ở bằng vũ lực. Sau khi kéo xềnh xệch từ tầng trên xuống cầu thang xi-măng tận tầng dưới và vất từng thầy ra ngoài trời mưa gió, sau khi chửi bới không thành công, họ kéo vất từng thầy lên xe taxi, một số thầy cưỡng lại đã bị đánh đập, bị bóp vào chỗ kín để phải chịu thua và bị bắt đưa lên xe taxi. Có hai thầy lớn bị bắt đi và tải về tận quê của từng thầy cách Bát Nhã hơn 1000 cây số. Số còn lại bị bắt ngồi dưới mưa nếu không chịu rời Bát Nhã vì họ cấm trở vào cư xá để lấy vật dùng. Tuy bị đối xử bạo động như thế nhưng không một người trong số mấy trăm người trẻ đó phản ứng lại bằng bạo động. Họ chỉ niệm danh hiệu bồ tát và giữ sự bình tĩnh. Sau khi bị cưỡng bức đuổi ra khỏi tu viện, các tu sĩ ấy đã đến xin tạm trú ở một ngôi chùa gần đó nhất. Nhưng nhân viên nhà nước vẫn đến ép họ phải đi và ép thầy trụ trì ngôi chùa này phải đuổi họ đi cho bằng được. Theo sư cô Đẳng Nghiêm, dù cho họ có về nhà họ, hay ẩn trốn thành từng nhóm nhỏ hoặc đến xin tạm trú trong một chùa khác thì họ vẫn bị cảnh sát đuổi xua. Gần đây, các trung tâm tu học của Thầy ở Pháp và ở Hoa Kỳ có tìm cách đưa các tu sinh này sang tiếp tục tu học ở Pháp hay ở Hoa Kỳ nhưng thủ tục khá rườm rà và lâu lắc và chưa có gì chắc chắn cả.

Sau khi nghe tin các môn đệ của Người bị đuổi ra khỏi tu viện, Thầy Nhất Hạnh đi thiền hành rất nhiều lần và rất lâu. Sư cô Đẳng Nghiêm thuật cho chúng tôi nghe: “Nhiều khi chúng tôi ra thăm Thầy và có dịp ngồi trong cái thất nhỏ của Thầy. Thầy trò ngồi nhìn ra ngoài, gió thổi rất mạnh, các cành cây oằn oại trong gió lớn, Thầy đã nói: “Đất trời cũng đang đau niềm đớn đau của các anh chị em của con bên kia trời đó.” Sư cô nói tiếp: “Chúng tôi là những con người rất lý tưởng và cũng rất lạc quan. Chúng tôi thế nào cũng có một trung tâm Bát Nhã khác, tuy không y hệt như Bát Nhã nhưng có thể sẽ là với hình thái mới.” Sư cô lại cười: “và chúng tôi sẽ xây 400 Bát Nhã.”

Mùa Hè 2009, trong một khóa tu ở ngoại ô thành phố Boston, căn bệnh nhiễm độc đường phổi trong Thầy bị lan rộng ra nhanh chóng. Ban đầu ai cũng tưởng Thầy vẫn có thể tiếp tục đi dạy ở khóa tu kế tiếp tại Colorado. Nhưng bác sĩ đề nghị Thầy phải nhập viện gấp và trị bằng trụ sinh đưa thuốc mạnh thẳng vào phổi. Nhờ cách trị này, Thầy đã được phục hồi sức khỏe và nhanh chóng trở về tiếp tục hướng dẫn các khóa tu liên tục như chưa hề có chuyện bệnh hoạn nào xảy ra cho ông thầy tu 83 tuổi này cả. Nay thì Thầy tiếp tục chương trình dạy dỗ rất sít sao như chưa hề bao giờ bệnh! Sư cô Tùng Nghiêm nói: “Thầy trên đường tiến lên liên tục, đủ mọi mặt. Với tuổi 83, tuy lúc nào cũng nhẹ nhàng thảnh thơi nhưng Thầy làm việc quá nhiều khiến cho chúng tôi, phân nửa tuổi của Thầy hay một phần tư tuổi của Thầy, vẫn theo không kịp, chạy theo sau chỉ kịp ngửi thấy bụi mà thôi!” Những ngày gần đây, Thầy viết rất nhiều, nhất là dạy dỗ học trò hành xử cho xứng đáng với tình hình Bát Nhã. Trong bức thư gần đây cho các đệ tử ở Bát Nhã, Thầy viết: “Ta thấy ta là sự tiếp nối của tổ tiên, ta là một dòng chảy chứ không phải là một ao hồ nằm nguyên tại chỗ. Ta cũng thấy được sự có mặt của các em của ta trong ta, cũng như sự có mặt của con em các vị ấy trong ta. Ta đang tự trao truyền ta cho các em và các người trẻ mà ta đang chăm sóc và giáo dưỡng, dù là xuất sĩ hay cư sĩ. Ta thấy họ trong ta và ta trong họ. Ta đang có cơ hội trao truyền những gì tốt đẹp nhất, lành mạnh nhất của ta cho các vị ấy, và đó là một niềm vui, một sự mãn nguyện….Ta, tổ tiên ta và con cháu ta đang hợp nhất trong một dòng chảy. Không còn sự ngăn cách, sự hối tiếc, không còn sự cô đơn.” (trích thư Thầy, ngày 7.3.2010)

Nguồn: Peace in Every Step:Thich Nhat Hanh’s Life of Courage and Compassion by Andrea Miller

 

 

Nguồn hiểu biết trong hơi thở Chánh Niệm

Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã vạch ra con đường đưa đến sự hòa giải
cho từng cá nhân và cho cả đất nước Thái Lan.
Liệu các nhà chính trị của chúng ta có đang lắng nghe những lời chia sẻ này hay không?

(Được chuyển ngữ từ bài viết “Understanding in the breath” của tác giả Aree Chaisatien
đăng trên báo The Nation của Thái Lan, số ra ngày 13/4/2013)

Trong bối cảnh người dân Thái Lan đang bị chia rẽ sâu sắc về mặt chính trị và nguy cơ xung đột ngày càng tăng giữa những người ủng hộ phe “áo vàng” và phe “áo đỏ” liên quan đến dự thảo sửa đổi Hiến pháp, có lẽ đã đến lúc chúng ta cần phải suy nghĩ một cách nghiêm túc về những lời chia sẻ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

Theo Thiền sư, sự thực tập hơi thở chánh niệm, thiền đi và sự thực tập lắng nghe sâu có thể giúp cho chúng ta hòa giải và hàn gắn lại mọi thứ, từ những mối liên hệ cá nhân cho đến những xung đột chính trị.

Tối thứ Ba vừa qua, chia sẻ trong buổi pháp thoại công cộng với chủ đề “Chúng ta là Một” (We are One) tại Royal Paragon Hall thuộc Trung tâm thương mại Siem Paragon – một sự kiện được tổ chức trong chuyến hoằng pháp kéo dài một tháng tại Thái Lan, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã cảnh báo về nguy cơ đánh mất tình thương chân thật trong một xã hội đang đi về hướng tiêu thụ.

“Nhiều người suy nghĩ rằng càng tiêu thụ nhiều chừng nào thì họ càng có nhiều hạnh phúc chừng đó. Tuy nhiên chúng ta có thể thấy rằng nhiều người tuy có nhiều tiền bạc và danh vọng nhưng vẫn khổ đau như thường.” – đó là lời chia sẻ của vị Thiền sư đã 87 tuổi nhưng trông dáng vẻ thì chỉ như người 77 tuổi mà thôi.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh – một bậc thầy về chánh niệm đồng thời là một nhà hoạt động vì hòa bình – nói rằng Người đã gặp nhiều doanh nhân rất giàu có nhưng vợ con của họ lại không hạnh phúc. “Họ là nạn nhân của sự thành công của chính họ. Không có tình thương, chúng ta không thể nào hạnh phúc được. Nếu bạn quá bận rộn để kiếm tiền thì bạn sẽ đánh mất tình thương. Sau một ngày làm việc vất vả, bạn không còn gì nhiều để hiến tặng cho những người mà mình thương yêu”.

“Chúng ta cần phải hỏi chính mình: liệu chúng ta có thời gian để thương yêu và chăm sóc những người mà ta đã nguyện thương yêu hay không? Có một người cha luôn bận rộn kiếm tiền nói với đứa con trai của mình rằng: Này con trai, ngày mai là sinh nhật của con. Con có muốn một món quà gì đặc biệt không, cha sẽ mua cho con? Cậu bé nhún vai trước câu hỏi của cha rồi trả lời: Con không muốn gì hết. Cái mà con muốn là cha.”

Thiền sư Thích Nhất Hạnh định nghĩa thương yêu là “khả năng có mặt thật sự cho người mà mình thương”. Thiền sư nhấn mạnh rằng: “Món quà quý giá nhất mà bạn có thể hiến tặng cho người mình thương chính là sự có mặt của bạn. Bạn cần phải thực tập như thế nào để sự có mặt của mình thật tươi mát.”

Hiểu biết và thương yêu là những điều mà ta có thể chế tác được nhờ vào sự thực tập chánh niệm. Và nếu ta biết cách thực tập hơi thở chánh niệm và thiền đi thì ta có thể làm cho sự có mặt của mình trở nên tươi mát – đó là lời chia sẻ của Thiền sư.

Bụt dạy cho chúng ta 16 bài tập về quán niệm hơi thở, trong đó bài tập thứ 3 là ý thức về cơ thể, về hình hài của mình. “Thở vào, tôi ý thức rằng tôi đang có một hình hài; thở ra, tôi mỉm cười với tất cả thương yêu. Khi ngồi trước máy tính, chúng ta thường hay quên mất cái thân của mình. Vì vậy đã đến lúc chúng ta cần phải thực tập bài tập thứ ba và thứ tư trong 16 hơi thở. Bài tập thứ tư là buông thả hết những căng thẳng trong thân của mình. Chúng ta có thể thực hành bài tập này ở bất kỳ nơi đâu, ngay cả khi chúng ta đang ngồi trên xe.”

Và trong khi đi bộ từ bãi đỗ xe đến văn phòng, bạn cũng có thể thực tập thiền đi – Thiền sư chia sẻ thêm. “Bụt dạy rằng chúng ta nên biết tận hưởng từng hơi thở của mình. Mỗi hơi thở vào mang lại cho ta nhiều niềm vui và sự nuôi dưỡng, mỗi thở ra có thể giúp ta buông hết những căng thẳng trong thân. Vì vậy, khi đi bộ đến văn phòng, dù quãng đường rất ngắn, ta cũng có thể thực tập hơi thở chánh niệm và thiền đi”.

“Trong khi thở vào, ta có thể bước hai bước và ý thức về sự tiếp xúc giữa bàn chân và mặt đất, và trong khi duy trì ý thức đó, ta dừng hết mọi suy nghĩ. Thiền đi giúp chúng ta tận hưởng trọn vẹn từng bước chân của mình. Khi bước một bước, ta có thể nói thầm: Ta đã tới; và khi bước tiếp một bước nữa, ta lại nói: Ta đã tới. “Tới” ở đây có nghĩa là tới trong giờ phút hiện tại, bây giờ và ở đây. Bụt dạy rằng quá khứ đã đi qua, tương lai thì chưa tới. Sự sống đích thực chỉ có mặt trong giây phút hiện tại mà thôi.”

“Trong khi thở ra, ta có thể bước ba bước. Sở dĩ như vậy là vì hơi thở ra của chúng ta thường dài hơn hơi thở vào. Trong bước thứ nhất và bước thứ hai, ta thầm nói : Ta đã về; và bước thứ ba, ta nói : Ta đã về thật rồi. Ngôi nhà đích thực của chúng ta là trong giây phút hiện tại, bây giờ và ở đây. Chính trong giờ phút hiện tại này ta mới có thể tiếp xúc được với sự sống đích thực”.

Thiền sư đề nghị các cặp vợ chồng cũng như các gia đình tổ chức những buổi ngồi thiền cùng nhau để chế tác năng lượng bình an và lắng dịu trước khi bắt đầu một ngày mới hoặc sau một ngày làm việc. “Một người không có sự lắng dịu và bình an thì không thể nào có hạnh phúc được”.

Bài tập thứ 7 về quán niệm hơi thở là ý thức về những cảm xúc khổ đau trong lòng mình. Bài tập thứ 8 là làm lắng dịu những nỗi khổ, niềm đau đó. “Những cảm xúc khổ đau không cho chúng ta được bình an, vì vậy chúng ta phải biết cách ôm ấp và xử lý những cảm xúc này” – Thiền sư chia sẻ.

“Giận dữ, sợ hãi hay khổ đau đều là một loại năng lượng. Nếu chúng ta không biết xử lý những cảm xúc này thì chúng ta sẽ hết năng lượng và không còn gì để hiến tặng cho những người mà mình thương yêu”. Vì vậy bài tập thứ 8 là nhằm chế tác năng lượng chánh niệm để ôm ấp và chăm sóc những cảm xúc mạnh trong ta.

“Trong khi thở vào, ta đưa tâm trở về với thân. Khi thân và tâm hợp nhất thì khi đó ta thực sự trở về với ngôi nhà đích thực của mình. Năng lượng chánh niệm giúp ta thực sự có mặt trong giây phút hiện tại, bây giờ và ở đây. Khi có đủ chánh niệm và ý thức rõ ràng về cảm xúc của mình thì chúng ta sẽ có đủ bình an và sự tươi mát để hiến tặng cho người mình thương ”.

Đã từ lâu, các khóa tu do các trung tâm tu học của Làng Mai tổ chức thường hiến tặng các pháp môn tu học nhằm mang lại hạnh phúc cho mọi người và giúp nối lại truyền thông trong gia đình, trong đó có những cặp vợ chồng không nói chuyện được với nhau nhiều năm liền. Những người đến tham dự khóa tu đều được học về hơi thở chánh niệm, thiền hành và phương pháp lắng nghe sâu.“Khi họ biết lắng nghe trong chánh niệm thì họ sẽ có khả năng hòa giải và hàn gắn lại các mối liên hệ của mình”, Thiền sư chia sẻ.

Đối với một quốc gia, Thiền sư Thích Nhất Hạnh cho rằng các đảng phái đối lập cần thực tập lắng nghe sâu để có thể mang lại sự hòa giải và hòa hợp dân tộc. Thiền sư nói thêm rằng sở dĩ quá trình hòa giải ở Thái Lan chưa đi đến thành công là vì các phe đối lập chưa có được sự lắng dịu và bình an. Mỗi chính trị gia cần phải ngồi yên để nhìn sâu vào những khổ đau và khó khăn của các phe đối lập, Thiền sư nhấn mạnh.

“Chúng ta không cần phải lên nắm quyền mới có thể phụng sự cho quốc gia, dân tộc. Nếu các đảng đối lập có sự lắng dịu và bình an thì họ vẫn có thể đưa ra những dự án, chính sách giúp ích cho đất nước”.

Đảng cầm quyền cũng cần áp dụng nguyên tắc này. “Họ có thể nói với các đảng phái đối lập rằng rằng: chúng tôi biết là các anh đang có nhiều khó khăn. Chúng tôi muốn lắng nghe những chính sách mà các anh mong muốn thực hiện để giúp ích cho đất nước. Chúng tôi biết rằng các anh có khả năng đưa đất nước ra khỏi tình trạng khó khăn hiện nay. Chúng ta có thể kết hợp  tuệ giác của cả hai phía để cùng nhau xây dựng đất nước”.

(Sư cô Tại Nghiêm chuyển ngữ).

Hãng Thông Tấn CNN giới thiệu Làng Mai

Theo Kornfield, điều quan trọng hơn hết là bạn cần tìm “một nơi có nhiều tình thương yêu và tất cả những gì mà mọi người ở đó làm đều chứa đựng năng lượng từ bi”.

Ngày 25/6 vừa qua, Hãng Thông tấn CNN (Mỹ) đã giới thiệu 10 trung tâm tu học tốt nhất trên thế giới trong đó Trung tâm tu học Làng Mai, nước Pháp đứng vào vị trí số hai. Sau đây là phần giới thiệu của CNN:

Theo Thiền sư Thích Nhất Hạnh – vị Thiền sư người Việt được Mục sư Martin Luther King Jr. đề cử giải Nobel Hòa bình thì sự thực tập chánh niệm, nuôi dưỡng sự tỉnh giác, sáng tỏ chính là cách để chúng ta có thể duy trì sự truyền thông với chính mình và với mọi người.

“Khi ta có chánh niệm về một cái gì thì tâm ý của ta tập trung vào đối tượng đó và năng lượng của sự định tâm có thể giúp ta nhìn sự vật hoặc sự việc với mặt mũi đích thực của chúng, và ta sẽ khám phá ra được tính tương tức của vạn vật”, đó là lời chia sẻ gần đây của Thiền sư Thích Nhất Hạnh với tạp chí Shambhala Sun.

Trung tâm Làng Mai ở miền Nam nước Pháp – nơi cư trú của Thiền sư cùng với khoảng 200 quý thầy và quý sư cô –  luôn chào đón các bạn thiền sinh đủ mọi lứa tuổi đến tu học.

Một điều đặc biệt ở Làng Mai là trong tuần sẽ có một ngày hoàn toàn không có thời khóa, còn được gọi là ngày làm biếng.

Dưới đây là 10 trung tâm tu học được CNN giới thiệu là tốt nhất thế giới:

  1. Trung tâm Spirit Rock, bang California, nước Mỹ (Jack Kornfield là một trong những thành viên sáng lập và là giảng viên của trung tâm này): xin xem thêm tại www.spiritrock.org
  2. Trung tâm tu học Làng Mai, nước Pháp: www.plumvillage.org / www.langmai.org / villagedespruniers.net
  3. Trung tâm Dharamsala, Ấn Độ với sự giảng dạy của Đức Đa Lai Lạt Ma: www.buddhapath.com
  4. Chương trình giảm stress bằng chánh niệm tại Glenview Hotel và Leisure Club, Ireland do Jon Kabat-Zinn hướng dẫn: xin xem thêm tại trang www.umassmed.edu
  5. Trung tâm tu học Phật giáo ở KwaZulu-Natal, Nam Phi: www.brcixopo.co.za
  6. Trung tâm Suan Mokkh, Chaiya, Thái Lan: www.suanmokkh-idh.org
  7. Trung tâm Ala Kukui, Hawaii: www.alakukui.org
  8. Trung tâm Assisi Retreat Home & Hermitage, Assisi, Italy: www.assisiretreats.org
  9. Tu viện Gampo Abbey, Nova Scotia, Canada: www.gampoabbey.org
  10. Trung tâm Kripalu, Massachusetts, Mỹ: www.kripalu.org

 

Theo CNN:

Du lịch mạo hiểm không phải lúc nào cũng là lướt sóng hay chinh phục các đỉnh núi cao, đôi khi đó là hành trình hướng vào bên trong để khám phá thế giới nội tâm trong chính chúng ta.

Có thể nhiều người trong chúng ta cảm thấy không mấy hấp dẫn khi nghĩ đến chuyện phải đi một chặng đường dài để đến một nơi xa lạ và ngồi trong yên lặng với biết bao nhiêu là người mà mình không hề quen biết. Tuy nhiên, đối với những ai đang trong cuộc hành trình khám phá nội tâm thì các khóa tu thiền có thể mang lại cho bạn rất nhiều điều bổ ích.

Trong bất cứ nền văn hóa tiến bộ nào, người ta cũng đều biết rằng có những lúc chúng ta cần phải đi vào trong sa mạc hay lên những đỉnh núi cao hoặc tham gia những khóa tĩnh tu để lắng nghe chính mình” – đó là lời chia sẻ của Jack Kornfield, một giảng viên về thiền và cũng là tác giả của những cuốn sách như “The Wise Heart” (Trái tim hiểu biết) và “Bringing Home the Dharma” (Mang pháp môn tu học về nhà).

Làm cho tâm yên lắng, mở lòng ra và lắng nghe thật sâu, đó là điều thật sự hữu ích cho hầu hết mọi người trong vòng quay không ngừng của cuộc sống”.

Có thể bạn sẽ lo lắng về một tuần không ăn thịt, không được chuyện trò thoải mái hoặc thức dậy muộn, điều này cũng dễ hiểu thôi. Nhưng những ai can đảm và quyết chí sẽ được đền bù xứng đáng.

Hầu hết mọi người khi đến tham gia khóa tu đều cảm thấy thích thú. Những điều mà ban đầu họ coi là khó khăn, chẳng hạn như sự thực tập im lặng trong khóa tu, thì ngay sau đó họ nhận ra rằng đó chính là một món quà tuyệt diệu”, Kornfield chia sẻ.

Mỗi trung tâm tu học đều có quy định riêng, tuy nhiên có thể nhiều trung tâm tu học sẽ yêu cầu bạn thực tập im lặng trong suốt thời gian hoặc hầu hết thời gian tu học ở đó.

Một nguyên tắc quan trọng là bạn cần phải tìm đến những vị thầy có danh tiếng, xuất thân từ một truyền thống tu học lâu đời, không nên nương tựa vào những người tự xưng là thiền sư.

Bạn nên có cái nhìn thực tế về nhu yếu thể chất cũng như nhu yếu về tiện nghi ăn, ở của chính mình. Những điều kiện sống đơn giản, thiếu thốn một chút có thể sẽ làm phát sinh tuệ giác, giúp cho bạn thấy rõ sự khác nhau giữa những gì bạn muốn và những gì bạn thực sự cần.

Tại các thiền viện Phật giáo, thời khóa tu học thường bắt đầu từ sáng sớm. Có thể bạn sẽ được yêu cầu làm một số công việc nhẹ như gọt cà rốt trong chánh niệm hay dọn dẹp nơi ở của mình.

Theo Kornfield, điều quan trọng hơn hết là bạn cần tìm “một nơi có nhiều tình thương yêu và tất cả những gì mà mọi người ở đó làm đều chứa đựng năng lượng từ bi“.

___________________________

Nguồn 10 of the world’s best meditation retreats, Rebecca L. Weber, June 25, 2013 – Sư cô Tại Nghiêm chuyển ngữ

 

    Giải quyết xung đột giữa các nhà chính trị – những gợi ý của một Thiền sư



    Được chuyển ngữ từ bài viết

    Thai monk plans to reconcile warring politicians

    của tác giả Phatarawadee Phataranawik đăng trên báo
    The Nation của Thái Lan, số ra ngày 28/4/2013


     

    Những cơn gió mát thổi nhè nhẹ, những chú chim đang ca hót líu lo trong một ngày chủ nhật đẹp trời tại Nakhon Ratchasima thuộc huyện Pakchong, Thái Lan. Đây thực sự là ngày lý tưởng cho một cuộc phỏng vấn hiếm hoi với Thiền sư Thích Nhất Hạnh – một thiền sư người Việt nổi tiếng thế giới.

    Hôm đó, chỉ có ba phóng viên có mặt ở tu viện Làng Mai Quốc tế Thái Lan, “chi nhánh” của Làng Mai tại Thái – Làng Mai là một trung tâm thiền tập do Thiền sư Thích Nhất Hạnh thành lập ở miền Nam nước Pháp. Tu viện tại Pakchong chỉ mới được xây dựng nhưng các thầy, các sư cô Làng Mai đã đến ở đây được năm tuần rồi. Chúng tôi được mời vào trong một cái thất làm bằng tre và ngồi yên chờ đợi. Một lúc sau, Thiền sư nhẹ nhàng bước vào.

    Theo lời của Thiền sư, chúng tôi ngồi thiền một chút trước khi bắt đầu cuộc phỏng vấn, như vậy sẽ giúp chúng tôi có thể hiểu sâu hơn những lời chia sẻ của Thiền sư về sứ mệnh làm mới đạo Bụt ở Thái Lan cũng như hy vọng về khả năng hàn gắn những chia rẽ về mặt chính trị tại đất nước này. Trong hai tiếng đồng hồ phỏng vấn, vài lần chúng tôi phải dừng lại khi nghe một tiếng chuông vang lên, lúc đó mọi người đều im lặng và trở về theo dõi hơi thở vào – ra, rồi cùng nhau thưởng thức vài ngụm trà trước khi tiếp tục cuộc phỏng vấn.

    Hàng ngàn người đã và đang thực tập theo pháp môn của Thiền sư Thích Nhất Hạnh – một vị thầy đã 87 tuổi, Người chủ trương đưa đạo Bụt trở thành một phần của đời sống hàng ngày, ngay cả trong một thế giới đầy bận rộn mà chúng ta đang sống. Thầy Nhất Hạnh được tôn kính là một vị Thiền sư, một bậc trưởng thượng trong truyền thống đạo Bụt Đại thừa là nhờ vào đường lối “Đạo Bụt nhập thế” và các pháp môn thực tập thiền chánh niệm cùng với sự nghiệp hoạt động vì hòa bình và tài thơ văn của Người.

    Với mong muốn làm sống dậy niềm tin vào đạo Bụt của người dân Thái Lan, Thầy chỉ ra rằng đạo Bụt đã từng là nền tảng của văn minh và sự phát triển của đất nước Thái Lan, “chúng ta mong muốn đạo Bụt sẽ tiếp tục phụng sự đất nước như trong quá khứ”. Nhưng nếu người dân Thái Lan không được hướng dẫn làm thế nào để giáo lý và phương pháp thực tập của đạo Bụt có thể áp dụng vào trong đời sống hiện đại thì “đạo Bụt sẽ đánh mất khả năng phụng sự và giúp ích cho đất nước”. Vì vậy, theo Thầy Nhất Hạnh, việc làm mới đạo Bụt là nhiệm vụ của mọi công dân, mọi Phật tử Thái Lan.

    “Các pháp môn thực tập của đạo Bụt có thể giúp chúng ta bảo vệ hòa bình, tháo gỡ những chia rẽ, làm cho mọi người truyền thông với nhau dễ dàng hơn, đồng thời giúp làm lắng dịu những căng thẳng và xung đột chính trị, thậm chí có thể giúp cho các nhà doanh thương thành công hơn. Các pháp môn của đạo Bụt còn có thể giúp giảm nhẹ gánh nặng của các nhà giáo, cải thiện chất lượng dạy và học, đồng thời giúp cho học sinh bớt căng thẳng và khổ đau. Một đạo Bụt được làm mới sẽ mang lại lợi ích cho tất cả mọi người.”

    Thầy Nhất Hạnh chia sẻ rằng Thầy và các đệ tử của mình đã hướng dẫn tu tập và trị liệu cho các chính trị gia ở nhiều quốc gia trên thế giới và đã đem được phương pháp chế tác bình an, hiểu biết và thương yêu của đạo Bụt vào trong mọi lĩnh vực của đời sống. Các nhà báo cũng cần phải tham gia các khóa tu và thực tập thiền, Thầy nhấn mạnh với chúng tôi. “Chúng tôi cần những nhà báo như các anh để làm cho đạo Bụt tươi mới và hữu ích hơn.”

    Thầy nói rằng trong quá khứ người Thái thường tìm đến các ngôi chùa ở địa phương – nơi đóng vai trò trung tâm của cộng đồng – để tìm những lời chỉ dẫn cho các vấn đề khó khăn trong cuộc sống. Các ngôi chùa còn giữ vai trò nòng cốt trong việc giáo dục và chăm sóc sức khỏe cho cộng đồng. “Nhưng bây giờ đạo Bụt đã đánh mất vai trò đó, bởi vì chúng ta đã không có khả năng làm mới đạo Bụt”.

    “Điều này không chỉ là vấn đề của Thái Lan, mà còn của tất cả các quốc gia Phật giáo như Sri Lanka, Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc. Đạo Bụt đang bị suy tàn và đó là lý do vì sao chúng ta cần phải bảo vệ di sản quý giá này.”

    Một nhiệm vụ khác cũng khó khăn không kém, đó là việc hòa giải xung đột giữa các nhà chính trị Thái Lan. Tuy nhiên, Thầy Nhất Hạnh đã chỉ ra con đường để làm điều đó. Cầm cây bút lên, Thầy vẽ một vòng tròn to tượng trưng cho nhà chính trị, sau đó Thầy vẽ thêm ba vòng tròn nhỏ nằm bên trong vòng tròn đó tượng trưng cho gia đình của nhà chính trị. Thầy nói rằng nếu một chính trị gia biết chăm sóc cho gia đình và bảo vệ cho gia đình mình được bình an, không bị nguy hại thì người đó cũng sẽ có khả năng làm như vậy đối với đất nước, dân tộc mình.

    “Một chính trị gia phải biết cách chăm sóc và trị liệu những khổ đau trong chính mình – những cảm xúc giận dữ, sợ hãi, tuyệt vọng và căng thẳng. Nếu một chính trị gia không biết làm gì với khổ đau của mình thì làm sao có thể giúp được người khác? Để hiểu được khổ đau của người khác, trước tiên chúng ta phải hiểu khổ đau của chính mình. Vì vậy, chúng ta phải thực tập trước, sau đó mới đi ra giúp đỡ người khác. “

    Theo Thầy Nhất Hạnh, nếu chính trị gia có một gia đình hạnh phúc thì người đó sẽ có khả năng xây dựng một đảng phái chính trị hòa hợp và có nhiều thương yêu.  Thầy vẽ tiếp một vòng tròn khác lớn hơn tượng trưng cho người lãnh đạo đảng và xung quanh là những vòng tròn nhỏ tượng trưng cho các thành viên của đảng.

    “Đạo Bụt có thể hiến tặng một phương pháp thực tập cụ thể để trị liệu cho các nhà chính trị”, Thầy nhấn mạnh.

    “Bên phải thì hoàn toàn khác với bên trái. Ta không thể đem bên phải qua bên trái được. Tuy nhiên, bên phải hay bên trái cũng đều không thể tồn tại một cách biệt lập. Ta không thể lấy bên phải đem về Chiềng Mai và lấy bên trái đem về Băng Cốc được. Bên trái dựa vào bên phải để tồn tại, cũng như bên phải dựa vào bên trái để tồn tại. Chúng tương tức với nhau. Các đảng phái chính trị cũng tương tự như vậy.”

     

    Trong suốt năm tuần tại Thái Lan, Thầy Nhất Hạnh cùng 50 đệ tử đến từ Pháp đã tổ chức một loạt khóa tu nằm trong chương trình hoằng pháp tại Á Châu do Quỹ Làng Mai tại Thái Lan (Thai Plum Village Foundation) tổ chức. Đây là lần thứ năm Thầy Nhất Hạnh đến Thái Lan. Hơn 2000 người đã tham dự các khóa tu tại đây và Thầy Nhất Hạnh đã dành riêng một khóa tu để hướng dẫn tu tập cho các chính trị gia.

    Sau cuộc phỏng vấn với Thầy Nhất Hạnh, chúng tôi được mời ăn trưa trong nhà ăn với những thức ăn chay mà các thầy, các sư cô ở đây vẫn thường dùng mỗi ngày. Ngay cả trong nhà ăn, chúng tôi cũng cảm nhận được năng lượng bình an, tĩnh lặng vốn bao trùm cả Trung tâm Tu học Làng Mai Quốc tế Thái Lan.

    Trên các bức tường có treo những tấm mành tre trên đó là những dòng thư pháp của Thầy Nhất Hạnh như: “Present Moment, Beautiful Moment” (An trú trong hiện tại, Giờ phút đẹp tuyệt vời) và “Peace in Oneself, Peace in the World” (Bình an trong ta chính là bình an cho thế giới).

    Tại Trung tâm tu học quốc tế Làng Mai, các thầy, các sư cô duy trì nếp sống bền vững, thân thiện với môi trường. Họ tự trồng trọt lấy rau quả sau những giờ công phu tụng kinh và ngồi thiền. Được thành lập năm 2007, Quỹ Làng Mai tại Thái Lan vẫn đang tiếp tục đầu tư vào việc xây dựng trung tâm tu học tại Pakchong. Hiện nay đã có hơn 160 vị xuất sĩ quốc tịch Việt Nam, Mỹ, Trung Quốc (Hồng Kông) và Thái Lan đang tu học tại trung tâm này.

    Chuyến thăm Thái Lan đầu tiên của Thầy Nhất Hạnh là vào năm 1975, khi cuốn sách đầu tiên của Thầy “Phép lạ của sự tỉnh thức” được xuất bản tại Thái Lan. Thầy quay trở lại Thái Lan cùng với Tăng đoàn Làng Mai vào năm 2007 khi Thái Lan đăng cai tổ chức Đại lễ Phật Đản Liên hiệp quốc (World Visakha Bucha Day) và Thầy đã cho pháp thoại tại Băng Cốc, Chiềng Mai và Nakhon Pathom. Thầy cũng đã quay lại Thái Lan vào năm 2010 và 2011.

    Chuyến đi Thái Lan lần này của Thầy Nhất Hạnh chủ yếu là để thúc đẩy việc xây dựng Trung tâm tu học tại Pakchong. Cũng giống như các trung tâm tu học của Làng Mai tại miền Nam nước Pháp, Mỹ, Đức và Hồng Kong, trung tâm tu học Làng Mai Quốc tế Thái Lan đã trở thành ngôi nhà thân thương của một tăng thân “tứ chúng”, gồm có các thầy, các sư cô, cư sĩ nam và cư sĩ nữ cùng tu tập với nhau.

    Hiện giờ Thầy Nhất Hạnh đã có hơn 500 đệ tử xuất gia đến từ 20 quốc gia và khoảng 1000 tăng thân cư sĩ tu tập theo pháp môn Làng Mai tại 31 quốc gia trên thế giới.

     

    Sư cô Tại Nghiêm chuyển ngữ

    Không cần phải là Phật tử mới có thể thọ năm giới

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh chia sẻ với Andrea Miller, Shambhala Sun, số ra tháng Giêng 2013, rằng: “Ai cũng có thể thực tập theo Năm giới – năm phép thực tập chánh niệm” để sống một cuộc đời đầy hiểu biết và thương yêu. Dưới đây là bài ghi lại cuộc phỏng vấn Thiền sư do Adrea Miller thực hiện tại Làng Mai.

     

    Sư cô Chân Tại Nghiêm chuyển dịch theo nguyên bản tiếng Anh “You don’t need to be a Buddhist“,
    Shambhala Sun, January 2013.

     

    Tại sao Thầy nói rằng không cần phải là Phật tử mới có thể nhận Năm giới?

    Bạn không cần phải là một Phật tử mới có thể tư duy bằng hiểu và thương. Bạn không cần phải là một Phật tử mới có thể nói những lời dễ thương và đầy từ bi. Vì vậy chúng tôi có thể nói rằng Năm giới – năm phép thực tập chánh niệm là những giá trị đạo đức mang tính toàn cầu, dành cho cả những người Phật tử và những người không phải là Phật tử.

    Pháp môn thực tập chánh niệm rất là cụ thể. Bạn không thể chỉ nói về các phương pháp này mà bạn cần phải thực tập, phải sống với chúng. Nếu bạn đã đến Làng Mai tu tập một thời gian thì khi về, có thể bạn cũng muốn mang sự thực tập ở Làng Mai về nhà và làm cho gia đình của mình trở thành một tăng thân nhỏ như kiểu Làng Mai – có nghĩa là bạn và gia đình cùng tụng giới chung với nhau, cùng tập thở, tập ngồi và ăn cơm như thế nào để chế tác được hạnh phúc và làm vơi bớt khổ đau của chính mình và của mọi người.

    Con được biết năm giới là phương pháp thực tập cụ thể của bát chánh đạo – tám sự hành trì chân chính – gồm có: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định. Xin Thầy giải thích cụ thể hơn về điều này.

    Chánh kiến là cái thấy về tương tức, vượt thoát mọi sự phân biệt, kỳ thị. Và nhờ có cái thấy về tương tức mà ta có được chánh tư duy. Chánh tư duy là cách tư duy không có sự phân biệt, kỳ thị. Khi bạn khởi lên một ý nghĩ theo hướng chánh tư duy thì ý nghĩ đó sẽ mang đầy chất liệu hiểu biết và thương yêu. Nó có công năng trị liệu cho chính bạn và cho thế giới. Với chánh kiến – tức là với tuệ giác tương tức – bạn cũng có thể thực tập chánh ngữ. Bất cứ điều gì bạn nói ra hoặc viết xuống, dù đó là một email, một bài viết hay một bài thơ cũng đều có thể biểu hiện tinh thần không kỳ thị. Điều đó có nghĩa là những gì bạn nói và viết đều hoàn toàn thoát khỏi những chia rẽ, sợ hãi và hận thù. Nó chứa đầy chất liệu từ bi và hiểu biết. Chỉ bằng sự thực tập chánh ngữ, bạn cũng có thể chữa lành cho chính mình và cho thế giới này. Còn chánh nghiệp là những hành động do thân thể bạn làm ra. Nếu bạn không kỳ thị, không sợ hãi thì bất cứ điều gì bạn làm cũng có thể giúp duy trì sự sống của hành tinh này.

    gioi tu 5 gioi danh le

    Các giới tử Năm giới đảnh lễ – chùa Pháp Vân, Xóm Thượng

    Thầy nói rằng hành động, lời nói và ý nghĩ là sự tiếp nối của chúng ta. Điều đó có nghĩa là gì?

    Những gì bạn nghĩ, bạn nói và bạn làm chính là sự tiếp nối của bạn – đó là một loại năng lượng tồn tại trong một thời gian dài. Khi thân này đã tàn hoại, bạn sẽ vẫn được tiếp nối bởi ba loại năng lượng mà bạn chế tác ra mỗi ngày. Sau khi bạn rời bỏ hình tướng này, bạn sẽ mang một hình tướng khác bởi vì năng lượng mà bạn chế tác ra sẽ biểu hiện thành những hình tướng mới.

    Giống như một đám mây. Khi đám mây không còn là đám mây nữa, nó sẽ biểu hiện thành một cái gì khác, chẳng hạn như mưa, hay tuyết hoặc mưa đá. Vì vậy  khi không nhìn thấy đám mây trên trời, bạn không thể nói là đám mây không còn đó nữa. Nó vẫn còn đó, nhưng dưới những hình tướng khác mà thôi. Điều này cũng đúng đối với con người chúng ta.  Khi bạn không còn biểu hiện dưới hình hài này nữa thì chính các hành động bằng thân, bằng ý nghĩ và bằng lời nói – hay còn gọi là nghiệp (karma) – sẽ là sự tiếp nối của bạn. Đó là lý do tại sao khi bạn thực tập niệm, định và tuệ thì chắc chắn bạn sẽ có một sự tiếp nối đẹp đẽ trong tương lai.

    Thầy có hy vọng gì cho tương lai của Làng Mai?

    Chúng tôi không lo lắng cho tương lai. Chúng tôi chỉ lo cho hiện tại bởi vì chúng tôi biết rằng nếu trong giây phút hiện tại chúng tôi đã làm hết sức mình thì như vậy là quá đủ rồi. Đó là tất cả những gì chúng tôi có thể làm cho tương lai. Tương lai tùy thuộc vào hiện tại, vì vậy nếu ta để hết tâm trí vào những gì ta đang làm trong giây phút hiện tại, thì chúng ta luôn có hy vọng cho tương lai. Còn nếu trong giây phút hiện tại mà chúng ta cảm thấy tuyệt vọng, bất lực thì sẽ không có hy vọng gì cho tương lai cả. Sự sống của hành tinh này có thể duy trì được hay không đều tùy thuộc vào ngày hôm nay của chúng ta, tùy thuộc vào cách sống trong hiện tại của chính chúng ta.

    Xin xem bài cùng một đề tài của Andrea Miller “Xứ sở của giây phút hiện tại”

    Hạnh phúc bây giờ và ở đây

     

    Trong chuyến hoằng pháp mới đây tại Thái Lan, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã có buổi nói chuyện tại trường Đại học Thammasat với chủ đề “Những phép lạ của phút giây hiện tại” (The Miracles of the Present Moment). Trong buổi nói chuyện này, Thiền sư đã chia sẻ về hơi thở ý thức, về phương pháp lắng nghe sâu và sử dụng ngôn từ hòa ái như là những phương pháp có công năng trị liệu, mang lại cho chúng ta khả năng hiểu biết và thương yêu đối với bản thân mình và đối với mọi người, mọi loài. Thông điệp của Thiền sư về tính bất nhị và tương tức – một trong những giáo lý căn bản của đạo Bụt, cũng có tác dụng gợi mở cho đất nước Thái Lan vốn đang bị chia rẽ về chính trị và sắc tộc về một hướng tiếp cận của đạo Bụt cho một nền hòa bình trên thế giới, đồng thời giúp cho hai truyền thống của đạo Bụt – truyền thống Nam Tông (Theravada) và truyền thống Bắc Tông (Mahayana) – xích lại gần nhau theo tinh thần bất nhị. Sau đây là phần trích đoạn (đã được biên tập) từ bài pháp thoại của Thiền sư:

    thich-nhat-hanh-jpgHồi tôi mới đi tu, lúc 16 tuổi, thầy tôi có trao cho tôi một quyển sách gồm 60 bài thi kệ để học thuộc lòng. Bất kỳ vị xuất gia nào cũng phải học thuộc các bài thi kệ này để thực tập chánh niệm. Bài thi kệ đầu tiên là bài  thức dậy buổi sáng:

    “Thức dậy miệng mỉm cười
    Hai bốn giờ tinh khôi
    Xin nguyện sống trọn vẹn
    Mắt thương nhìn cuộc đời.”

    Tất cả các bài thi kệ đều có bốn câu. Mỗi câu của bài thi kệ đi theo một hơi thở, câu đầu đi với hơi thở vào, câu thứ hai đi với hơi thở ra. Khi mình thở vào, thở ra và thầm đọc bài kệ, mình sẽ ý thức được rõ ràng mình thực sự đang làm gì. Buổi sáng khi chúng ta thức dậy, chúng ta nhận ra là mình đang còn sống và sự sống đang có mặt xung quanh ta. Chúng ta nhận ra 24 giờ là một món quà của sự sống và chúng ta nguyện sống thật sâu sắc với những giờ phút quý báu này.

    Khi chúng ta thực tập như vậy, hạnh phúc sẽ đến với chúng ta ngay tức thì. Đối với tôi, sự kiện rằng mình đang còn sống là một điều kỳ diệu; chỉ bấy nhiêu đó thôi cũng đủ để ta ăn mừng rồi. Vì vậy, chỉ cần thở vào và ý thức rằng mình đang còn sống đã là một phương pháp thực tập giúp mang lại hạnh phúc rồi.

    Còn có một bài thi kệ để thực tập khi chải răng. Khi thực tập bài thi kệ này, chúng ta có thể biến hai hay ba phút chải răng thành những giây phút hạnh phúc. Tôi nay đã trên 80 tuổi, vậy mà mỗi lần chải răng tôi vẫn thấy vui. Tôi nghĩ thật là hạnh phúc quá chừng, ở tuổi này rồi mà tôi vẫn còn răng để chải!
    Tôi cũng có làm thêm những bài thi kệ mới để thực tập. Khi tôi còn là một sadi, ở Việt Nam thời đó, người tu không đi xe hơi, thậm chí là không lái xe đạp. Tôi là người tu đầu tiên ở Việt Nam sử dụng xe đạp. Vì vậy mà tôi có làm một bài kệ để thực tập khi lái xe đạp. Sau này tôi có làm thêm nhiều bài thi kệ mới, chẳng hạn như bài kệ dùng khi sử dụng điện thoại hoặc khi đi máy bay.

     

    ts-thich-nhat-hanh-jpgSử dụng những bài thi kệ này luôn mang lại cho tôi nhiều hạnh phúc. Những bài thi kệ có tác dụng giúp cho ta ý thức về những gì ta đang làm trong giây phút hiện tại và chúng ta có thể làm những việc đó với nhiều niềm vui. Bụt có chỉ dạy cho chúng ta một giáo pháp mà tôi cho là rất quan trọng, đó là giáo pháp Hiện pháp Lạc trú. Theo giáo pháp này, chúng ta đã có đầy đủ, nếu không muốn nói là quá dư thừa, những điều kiện để có hạnh phúc ngay trong hiện tại. Chúng ta không cần đi tìm kiếm hạnh phúc ở tương lai. Nếu chúng ta biết đem tâm trở về với thân và thiết lập thân tâm hợp nhất trong giây phút hiện tại thì chúng ta sẽ nhận ra rằng chúng ta đã có quá đủ những điều kiện để hạnh phúc ngay bây giờ và ở đây.

    Nhiều người trong chúng ta tin rằng hạnh phúc chưa thể có được trong hiện tại và cần phải có nhiều điều kiện hơn nữa thì ta mới thực sự hạnh phúc. Đó là lý do tại sao chúng ta cứ tiếp tục chạy theo những đối tượng mà mình tìm cầu. Làm như vậy thì chúng ta khổ. Bụt khuyên chúng ta nên trở về với giây phút hiện tại để tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống đang có sẵn cho ta ngay trong giây phút này. Trong nhiều kinh, Đức Thế Tôn đã dạy rằng quá khứ đã đi qua, tương lai thì chưa tới; chỉ có duy nhất một giây phút mà ta có thể thực sự sống, đó là giây phút hiện tại.
    Một ngày nọ, có một thương gia đến thăm Bụt. Đi cùng với ông còn có vài trăm thương gia khác. Hôm đó, Bụt đã thuyết giảng cho họ nghe về giáo pháp Hiện pháp Lạc trú. Bụt biết rất rõ rằng các vị thương gia này đang lo nghĩ quá nhiều về những thành tựu trong tương lai. Họ không có thời gian cho chính mình và cho những người mà họ thương yêu. Vì vậy mà Bụt đã dạy rằng, “Này các vị, các vị đừng tìm kiếm hạnh phúc ở tương lai. Hạnh phúc đang có sẵn cho quý vị ngay bây giờ và ở đây.”

    Trong kinh Quán Niệm Hơi Thở, Bụt đã chỉ bày cho chúng ta những bài thực tập cụ thể giúp chế tác niềm vui (hỷ) và hạnh phúc (lạc). Bài thực tập thứ năm chỉ cho chúng ta phương pháp để chế tác hỷ và bài thực tập thứ sáu chỉ cho chúng ta phương pháp để chế tác lạc. Giáo pháp của Đức Thế Tôn về phương pháp chế tác an lạc, hạnh phúc là một giáo pháp rất rõ ràng và sâu sắc. Nếu chúng ta biết cách tạo ra năng lượng niệm và định thì chúng ta có thể tiếp xúc với vô vàn những điều kiện hạnh phúc đang có mặt cho ta ngay bây giờ và ở đây. Chẳng hạn như khi chúng ta tiếp xúc với hai mắt: “tôi đang thở vào và có ý thức về hai mắt của tôi; tôi đang thở ra và mỉm cười với hai mắt tôi”. Khi ta thực tập như vậy thì tuệ giác sẽ phát sinh. Chỉ trong hai hay ba giây là ta có thể nhận thấy rằng đôi mắt của mình vẫn còn tốt, còn sáng. Chuyện hai mắt mình vẫn còn sáng là một điều mầu nhiệm, một phép lạ. Một thiên đường của màu sắc và hình ảnh đang có mặt cho mình. Khi mình ngồi trên bãi cỏ, chỉ cần mở mắt ra là mình có thể tiếp xúc được với thiên đường đó ngay bây giờ và ở đây. Đối với một người bị khiếm thị thì mơ ước sâu sắc nhất của họ là làm sao cho mắt họ sáng lại, để họ có thể tận hưởng được thiên đường của màu sắc và hình ảnh như chúng ta. Vì vậy mà đôi mắt là một trong những điều kiện căn bản để có hạnh phúc. Ta chỉ cần thở vào để thắp sáng ý thức rằng chúng ta đang có một đôi mắt sáng.

    ngoi-thien-langmai-thai-lan-jpgTa cũng có thể thực tập tiếp xúc với trái tim mình: “Tôi đang thở vào và ý thức về trái tim của tôi, tôi đang thở ra và tiếp xúc với trái tim của tôi”. Khi chúng ta sử dụng năng lượng chánh niệm thì chúng ta sẽ khám phá ra trái tim ta đang hoạt động một cách bình thường. Có biết bao nhiêu người không có được trái tim hoạt động bình thường, họ có thể bị nhồi máu cơ tim hoặc đột quỵ bất cứ lúc nào. Điều mong ước sâu sắc nhất của họ là có được một trái tim bình thường như chúng ta. Vì vậy, khi ta thở vào và ý thức về trái tim của mình thì ta tiếp xúc được với một điều kiện hạnh phúc đã có sẵn trong ta.

    Nếu ta cứ tiếp tục thực tập như vậy thì ta sẽ tiếp xúc được với vô vàn những điều kiện hạnh phúc đang có mặt trong ta. Trong kinh Bốn lĩnh vực quán niệm, Bụt dạy ta về phương pháp quán chiếu cơ thể. Theo phương pháp này, ta sử dụng ánh sáng chánh niệm để quán chiếu cơ thể; trong quá trình quán chiếu, ta đi ngang qua và ý thức rõ ràng về tất cả các bộ phận của cơ thể từ đỉnh đầu cho đến các ngón chân.

    Những điều kiện hạnh phúc không chỉ có mặt trong ta mà còn có mặt xung quanh ta. Nếu chúng ta ngồi xuống và lấy ra một tờ giấy để viết xuống tất cả những điều kiện hạnh phúc mà ta đã có thì tôi tin chắc là hai trang giấy dành cho chúng ta sẽ không đủ.

    Theo lời dạy của Đức Thế Tôn, tất cả những gì chúng ta đang tìm cầu đều đã có mặt trong giây phút hiện tại. Những điều kiện chưa phát sinh cũng đã có mặt trong giây phút hiện tại. Nhiều người trong chúng ta bị mắc kẹt trong những ưu sầu và hối tiếc về quá khứ hay những lo lắng và sợ hãi về tương lai. Nếu chúng ta biết phương pháp thực tập hơi thở ý thức và định tâm thì chúng ta có thể đi ra khỏi những khổ đau này và có thể tiếp xúc được với mầu nhiệm của sự sống ngay tức thì.

    lang-mai-khaoy-t-tha-c-tha-i-lan-2010-jpgKhi mình thương một ai đó, điều mà mình muốn hiến tặng cho người đó chính là sự có mặt đích thực của mình. Ta không thể thương một người nếu ta không có mặt cho người đó. Điều quý giá nhất mà ta có thể hiến tặng cho người thương chính là sự có mặt của ta. Với sự thực tập chánh niệm, ta có thể có mặt một cách dễ dàng. Ta chỉ cần thở có chánh niệm hoặc bước một bước chân cho có chánh niệm là ta có thể thực sự có mặt trong giây phút hiện tại, bây giờ và ở đây. Ta có thể nhìn vào mắt người thương của mình và nói: “Ba ơi, con đang có mặt thật sự bên ba đây. Mẹ ơi, con đang có mặt thật sự bên mẹ đây”.

    Sự có mặt của ta, nhất là khi ta có mặt một cách tươi mát và tràn đầy yêu thương là món quà quý giá nhất dành cho những người mà ta thương yêu. Đây là một trong những câu linh chú mà ai cũng có thể thực tập mỗi ngày. Mình thở vào, ý thức rằng mình đang thực sự có mặt và mình nói với người thương rằng mình đang có mặt đó cho họ. Ngay cả khi người đó không có mặt với ta trong lúc này thì ta cũng có thể thực tập câu linh chú bằng điện thoại di động. Có thể người đó đang ở sở làm, mình có thể gọi điện và nói rằng “Ba ơi, ba có biết gì không? Con đang có mặt cho ba đó!”. Hoặc nếu mình đang ở sở làm thì mình có thể gọi điện cho con trai, con gái, cho vợ mình để nói rằng mình đang có mặt cho họ.

    Câu linh chú thứ hai có thể giúp người khác hạnh phúc liền, đó là công nhận sự có mặt của người đó thật quý giá và quan trọng đối với ta. Khi ta thực sự có mặt, ta có thể nhận rõ sự có mặt của người khác. Ta có thể đến gặp người đó và đọc câu thần chú: “Ba ơi, con biết là ba đang còn sống bên con nên con rất hạnh phúc”.

    Với năng lượng chánh niệm, mình cũng có thể nhận ra có điều gì đó bất ổn đang xảy ra với người mình thương. Khi mình biết người thương của mình không hạnh phúc, mình có thể sử dụng câu linh chú thứ ba: “Mẹ ơi, con biết là mẹ đang khổ, cho nên con đang có mặt cho mẹ đây”. Khi mình khổ mà người thương của mình không biết gì hết thì mình càng khổ hơn. Nhưng nếu người đó biết được và đến với mình thì mình bớt khổ liền. Trước khi mình có thể làm gì cho người đó thì sự có mặt của mình thôi cũng đủ giúp người đó vơi bớt rất nhiều khổ đau trong lòng rồi.
    Giáo pháp của Đức Thế Tôn có thể áp dụng ngay trong cuộc sống hàng ngày. Chỉ cần có chánh niệm là mình có thể chế tác được niềm vui và hạnh phúc. Nuôi lớn năng lượng chánh niệm mỗi ngày có thể giúp ta trở thành một nguồn hạnh phúc cho bản thân và cho những người mà ta yêu thương. Năng lượng chánh niệm là suối nguồn của hạnh phúc nhưng năng lượng đó không thể mua được trong siêu thị mà chỉ có thể do chính bản thân ta tự chế tác ra.

    Trong Kinh Quán Niệm Hơi Thở, Bụt cũng dạy chúng ta trở về và tiếp xúc với những khổ đau bên trong chúng ta. Nhiều người trong chúng ta không có đủ can đảm để trở về với chính mình, bởi vì chúng ta sợ phải chạm đến những niềm đau, nỗi khổ trong lòng mình. Hầu hết chúng ta đều tìm cách trốn chạy khỏi những khổ đau của chính mình bằng cách tiêu thụ. Chúng ta đọc tiểu thuyết, xem sách báo, tivi, phim ảnh để khỏa lấp những khổ đau bên trong. Chúng ta không biết làm cách nào để đối diện và chuyển hóa những khổ đau đó. Và vì vậy chúng ta cứ tiếp tục khổ đau và làm cho những người ta thương khổ đau. Chính vì điều này mà trong Kinh Quán Niệm Hơi Thở, Bụt khuyên chúng ta trở về và nhận diện những khổ đau trong ta; đây là bài thực tập thứ bảy trong Kinh Quán Niệm Hơi Thở. Bài thực tập thứ tám là buông bỏ những căng thẳng và sầu khổ. Nếu chúng ta biết cách thực tập hơi thở có ý thức, thực tập đi chánh niệm, lái xe chánh niệm và ăn chánh niệm mỗi ngày thì năng lượng chánh niệm trong ta sẽ đủ mạnh để giúp ta trở về và ôm ấp những lo lắng, sợ hãi trong ta. Nếu chúng ta biết cách ôm ấp nỗi khổ, niềm đau trong ta một cách nhẹ nhàng thì chỉ sau vài phút là những khổ đau đó sẽ vơi đi liền.

    Khi một bà mẹ nghe tiếng con khóc, bà sẽ đến bế đứa trẻ lên và ôm nó vào lòng với tất cả sự trìu mến. Người mẹ đó có thể chưa biết có chuyện gì xảy ra với đứa trẻ, nhưng việc bà bế đứa bé trong tay đã có thể giúp đứa bé bớt khổ ngay lập tức. Năng lượng chánh niệm cũng có tác dụng tương tự như vậy. Chúng ta chưa biết gốc rễ của những niềm đau, nỗi khổ trong ta, nhưng nếu ta có thể ôm lấy niềm đau một cách nhẹ nhàng với năng lượng chánh niệm thì ta có thể nhanh chóng làm vơi nhẹ những khổ đau ấy rồi.

    Trong Kinh về Bốn sự thật mầu nhiệm (Tứ Diệu Đế), Bụt đã chỉ ra cho ta sự thật thứ nhất là khổ, sự thật thứ hai là bản chất của khổ. Nếu chúng ta biết cách lắng nghe sâu những khổ đau trong chính mình thì chúng ta có khả năng hiểu được những gốc rễ đưa tới khổ đau đó. Những ai không thực tập chánh niệm thì sẽ không biết cách đối diện với những khổ đau và lắng nghe chúng. Trên thực tế, chúng ta thường sợ trở về và đối diện với những khổ đau đó. Chỉ những ai biết cách lắng nghe những khổ đau trong mình và nhìn sâu vào bên trong với năng lượng của chánh niệm và chánh định thì sẽ có khả năng đi ra khỏi những khổ đau đó. Khi chúng ta hiểu được niềm đau, nỗi khổ của chính mình thì ta sẽ bớt khổ liền. Cái hiểu sẽ làm phát khởi tình thương ngay trong trái tim ta. Nếu ai đó hỏi tôi rằng “Làm thế nào để chế tác được thương yêu?”, tôi sẽ nói rằng chỉ có một cách duy nhất, đó là hãy nhìn sâu vào niềm đau, nỗi khổ của chính mình và tìm cách hiểu chúng. Nếu ta không hiểu những niềm đau của mình thì ta không thể hiểu được những khổ đau của một ai khác và không thể thương được ai.

    Giáo pháp Bụt dạy về thương yêu rất rõ ràng. Chúng ta phải học thương chính bản thân mình trước khi có thể thương một ai khác. Muốn thương được thì trước tiên phải hiểu. Hiểu ở đây có nghĩa là hiểu về khổ đau. Nếu ta không hiểu những khổ đau của chính mình thì chúng ta không thể thương và chăm sóc cho chính mình được. Nếu chúng ta không hiểu những khổ đau của người khác thì ta không thể thương và giúp người đó vơi bớt khổ đau được. Chúng ta ai cũng biết rằng khi chúng ta hiểu được nỗi khổ, niềm đau của chính mình thì chúng ta sẽ dễ dàng hiểu được khổ đau của người khác.

    Trong các phương pháp tu tập mà Bụt chỉ dạy, có một phương pháp gọi là lắng nghe với tâm từ bi và sử dụng ngôn từ hòa ái. Lắng nghe với tâm từ bi có thể giúp nối lại sự truyền thông. Đôi khi chúng ta không thể truyền thông với chính bản thân ta. Nhiều người trong chúng ta luôn tìm cách trốn chạy khỏi chính mình, bởi vì chúng ta không biết cách lắng nghe nỗi khổ của chính mình. Khi chúng ta bắt đầu hiểu được niềm đau của chính mình thì chúng ta có thể truyền thông được với chính mình dễ dàng hơn. Và khi chúng ta có khả năng truyền thông được với chính mình rồi thì chúng ta sẽ dễ dàng truyền thông với một người khác. Ta có thể đi đến gặp người đó và nói rằng: “Mẹ ơi, con biết mẹ đã chịu nhiều khổ đau trong những năm qua, vậy mà con đã không thể làm gì để giúp mẹ; trái lại, con còn có những hành xử làm cho mẹ khổ đau thêm. Con đã không thể giúp mẹ bởi vì con chưa hiểu được chính những nỗi khổ và khó khăn của chính con. Mẹ ơi, con không muốn làm cho mẹ khổ. Sở dĩ con làm cho mẹ khổ là vì con đã không hiểu được những khổ đau của mẹ. Mẹ ơi, hãy giúp con! Mẹ hãy nói cho con biết về những khó khăn của mẹ, con không muốn tiếp tục phạm phải những sai lầm trước đây và làm cho mẹ khổ thêm. Nếu mẹ không giúp con thì liệu có ai khác có thể giúp con?”.

    Nếu mình có thể nói với người thương của mình bằng ngôn ngữ như vậy thì người đó có cơ hội mở lòng mình ra. Khi đó ta có thể áp dụng phương pháp lắng nghe với tâm từ bi. Nếu ta lắng nghe với tâm từ bi thì người thương của ta sẽ bớt khổ liền. Trong quá trình lắng nghe, ta phải luôn ý thức rõ rằng ta lắng nghe chỉ với một mục đích duy nhất, đó là giúp cho người kia nói ra để cho người đó bớt khổ.

    Có thể lời nói của người kia vẫn còn chứa nhiều tri giác sai lầm và chất liệu trách móc, chua chát. Những lời nói đó có thể làm phát khởi tâm hành nóng giận và bực bội trong ta. Và trong trường hợp đó, ta sẽ đánh mất khả năng lắng nghe của mình, ta không thể tiếp tục lắng nghe với tâm từ bi được nữa. Đó là lý do tại sao trong suốt quá trình lắng nghe, ta phải luôn nắm lấy hơi thở và tự nhắc mình rằng “hôm nay mình lắng nghe chỉ với mục đích duy nhất là giúp người kia có dịp nói ra những niềm đau trong lòng, để giúp họ bớt khổ”.

    Nếu ta làm được như vậy thì ta sẽ có thể tiếp tục duy trì năng lượng thương yêu trong suốt buổi lắng nghe và những gì người kia nói không thể làm phát khởi tâm hành buồn giận và khó chịu trong ta. Những lời người kia nói có thể chứa đầy tri giác sai lầm, nhưng ta quyết tâm không ngắt lời người đó. Ta tự dặn mình rằng có thể ba hay bốn ngày sau ta sẽ cung cấp cho người ấy thêm một số thông tin để giúp người đó điều chỉnh tri giác của mình. Còn bây giờ là lúc ta chỉ thực tập lắng nghe thôi.

    khat-thuc-lang-mai-thai-lan-2010-jpgTăng thân Làng Mai đã tổ chức rất nhiều khóa tu chánh niệm ở châu Âu và châu Mỹ. Chúng tôi luôn hướng dẫn phương pháp thực tập lắng nghe với tâm từ bi và sử dụng ngôn từ hòa ái; phương pháp này đã giúp rất nhiều cặp vợ chồng hàn gắn lại với nhau. Vào ngày thứ năm của khóa tu, chúng tôi thường đề nghị các bạn thiền sinh sử dụng những gì họ đã học được ở khóa tu để hàn gắn lại quan hệ giữa họ với những người khác. Và luôn luôn có những điều mầu nhiệm xảy ra khi họ áp dụng phương pháp này. Nếu ta biết cách lắng nghe nỗi khổ, niềm đau của chính mình thì ta sẽ có thể lắng nghe được nỗi khổ, niềm đau của người khác nhờ sử dụng phương pháp lắng nghe với tâm từ bi. Với ngôn từ hòa ái và khả năng lắng nghe sâu, chúng ta có thể nối lại sự truyền thông giữa mình với mọi người. Nếu người mà ta muốn làm lành không có mặt trong khóa tu thì ta có thể sử dụng điện thoại. Nhiều người đã báo cáo lại với tôi rằng bằng cách thực tập phương pháp lắng nghe với tâm từ bi và sử dụng ngôn ngữ hòa ái, họ đã gọi điện và hòa giải được với cha, con hoặc vợ/chồng của họ.

    Khi ta đau khổ, ta có xu hướng nghĩ rằng khổ đau của ta là do một người khác gây ra. Chúng ta muốn trừng phạt người đó bởi vì họ đã làm cho ta khổ. Nhưng khi chúng ta thực tập hơi thở có ý thức và nhìn sâu vào nỗi khổ, niềm đau của người đó thì ta sẽ thấy rằng người đó cũng chỉ là nạn nhân của chính khổ đau trong lòng họ. Nhiều người trong chúng ta không biết cách xử lý khổ đau của chính mình và vì vậy chúng ta gây khổ đau cho chính bản thân và cho những người xung quanh, trong đó có những người mà mình thương yêu như cha, mẹ, con cái, vợ hoặc chồng.

    Những người như vậy chưa từng có cơ hội được nghe giáo pháp của Đức Thế Tôn để có thể biết cách lắng nghe sâu và hiểu được khổ đau của chính mình. Và từ trước tới giờ, chưa có ai giúp họ thấy được điều đó. Ta là người đã biết về pháp môn và đã có sự thực tập, vì vậy ta có thể là người đầu tiên có khả năng giúp họ. Ta thấy rằng người đó đang có đầy khổ đau trong lòng và không biết phải xử lý như thế nào. Họ đang là nạn nhân của khổ đau nơi chính mình. Khi quán chiếu một cách sâu sắc, ta thấy rằng người đó cần được giúp đỡ chứ không đáng bị trừng phạt. Nếu chúng ta có thể hiểu được khổ đau của chính mình và của người khác thì ta sẽ không còn có ý định trừng phạt ai cả mà chỉ muốn giúp đỡ họ mà thôi.

    Chúng ta có thể áp dụng những phương pháp Bụt dạy để thúc đẩy hòa giải và mang lại sự hòa hợp trên thế giới. Tại Làng Mai, nước Pháp, chúng tôi đã từng tài trợ cho các nhóm người Palestine và Israel đến Làng để thực tập cùng với chúng tôi. Ban đầu những người này có rất nhiều khó khăn khi thực tập, bởi vì cả hai nhóm đều chứa đầy năng lượng buồn giận và sợ hãi. Vì vậy trong tuần đầu tiên, chúng tôi chỉ giới thiệu với họ phương pháp trở về với chính mình và ôm ấp năng lượng buồn giận và sợ hãi trong con người họ. Đó chính là thực tập hơi thở quán niệm thứ tám trong kinh Quán Niệm Hơi Thở: “Thở vào, tôi làm cho các tâm hành trong tôi an tịnh. Thở ra, tôi làm cho các tâm hành trong tôi an tịnh”. Trong suốt tuần đầu tiên, chúng tôi chỉ cho họ phương pháp buông bỏ những căng thẳng và những niềm đau trong cơ thể. Chúng tôi đã cùng họ thực tập hơi thở có ý thức và đi thiền hành để chế tác niềm vui và hạnh phúc. Bắt đầu sang tuần thứ hai, cả hai nhóm đều được hướng dẫn phương pháp thực tập lắng nghe với tâm từ bi. Chúng tôi đã mời nhóm người Palestine nói lên những nỗi khổ, niềm đau mà họ đã trải qua. Chúng tôi cũng khuyên họ chỉ nói lên niềm đau của mình mà không trách móc hay buộc tội, để cho phía bên kia có thể lắng nghe và hiểu được họ. Nhóm người Israel chỉ ngồi yên và lắng nghe. Họ không ngắt lời ngay cả khi họ nhận thấy có những tri giác sai lầm. Họ biết rằng sau này họ sẽ có dịp cung cấp thông tin để giúp cho người Palestine điều chỉnh lại nhận thức mình.

    Phương pháp lắng nghe này đã mang lại những kết quả thật kỳ diệu. Lần đầu tiên, phía bên này đã nhận ra là những người ở phía bên kia cũng chịu nhiều khổ đau không kém gì họ. Khi hiểu được như vậy thì tự nhiên lòng xót thương bắt đầu tràn ngập trong trái tim họ và họ bớt khổ ngay tức thì.

    Sau hai tuần thực tập tại Làng Mai, cả hai nhóm người Palestine và Israel đều cảm thấy vơi bớt rất nhiều khổ đau trong lòng. Đến tuần thứ ba, cả hai nhóm có thể chia sẻ với nhau và nắm tay nhau cùng đi thiền hành. Họ đã hứa rằng khi trở về Trung Đông, họ sẽ tổ chức những hoạt động để những người khác có thể đến và học cách chuyển hóa khổ đau. Ở Pháp, hầu như năm nào chúng tôi cũng tổ chức những khóa tu như vậy.

    Trong xã hội của chúng ta hiện đang có rất nhiều sự kỳ thị, chia rẽ, bạo động và căm thù. Những vấn đề này chỉ có thể được chuyển hóa bằng sự thực tập lắng nghe sâu và sử dụng ngôn từ hòa ái. Nếu ta đang tu tập trong một tăng thân theo truyền thống đạo Bụt, ta có thể tìm cách tổ chức như thế nào để tạo ra một môi trường mà các nhóm người có mâu thuẫn, xung đột có thể đến và thực tập lắng nghe nhau. Tôi cho rằng sở dĩ các cuộc đàm phán về hòa bình thường không mang lại kết quả là vì các cuộc đàm phán đó không được tiến hành theo phương pháp mà Bụt đã chỉ bày. Khi các bên bước vào bàn đàm phán về hòa bình, họ thường muốn bàn về vấn đề ngay lập tức, trong khi đó các bên tham chiến vẫn còn mang đầy kỳ thị và căm thù. Với sự sợ hãi, giận dữ và nghi ngờ, họ không thể nào có niềm tin đối với nhau. Và vì vậy các cuộc đàm phán thường lâm vào tình trạng khó khăn. Theo phương pháp của đạo Bụt, khi các bên bước vào đàm phán về hòa bình, chúng ta không nên để họ bàn vào vấn đề ngay lập tức mà ta nên dành hai hoặc ba tuần để các bên thực tập buông bỏ những căng thẳng trong thân và tâm của họ. Ta có thể sử dụng bài thực tập thứ tám trong Kinh Quán Niệm Hơi thở để giúp những người đó buông bỏ sự căng thẳng và làm lắng dịu năng lượng sợ hãi và giận dữ trong họ.

    Chúng ta cần có những người nắm được hơi thở chánh niệm có mặt để yểm trợ, đóng góp năng lượng bình an và định tâm cho các bên xung đột. Chúng ta cần hướng dẫn cho các bên xung đột cách thức làm lắng dịu cơ thể và cảm xúc của họ. Và khi cả hai bên đều đã bình tĩnh hơn, lắng dịu hơn, chúng ta có thể mời họ thực tập lắng nghe nhau. Cả hai phía đều đã chịu quá nhiều khổ đau, dù họ thuộc phe thân chính phủ hay phe đối nghịch. Chúng ta cần ít nhất là một tuần hoặc mười ngày để cả hai bên có thể nói lên những khổ đau mà họ đã phải trải qua. Nếu cả hai phía đều hiểu được niềm đau của nhau thì họ sẽ vơi bớt khổ đau rất nhiều. Khi tình thương yêu, lòng xót thương phát khởi trong trái tim của những người tham gia xung đột thì việc tiến hành đàm phán để đi đến hòa bình sẽ dễ dàng hơn rất nhiều.

    Chúng tôi đã học hỏi được rất nhiều khi giúp những người Palestine và Israel xích lại gần nhau. Tôi tin rằng khi sử dụng những giáo lý và phương pháp Bụt dạy, chúng ta có thể giúp mọi người hòa giải với nhau. Chúng ta có thể đóng góp vào sự hòa hợp và thống nhất của quốc gia. Trong đạo Bụt, có một giáo lý gọi là vô phân biệt. Theo giáo lý này, trong tình thương chân thật không còn tồn tại bất kỳ sự phân biệt nào. Khi có tình thương chân thực thì khổ đau của mình cũng là khổ đau của người, hạnh phúc của mình cũng là hạnh phúc của người. Trong tình thương chân thật, không còn tồn tại hạnh phúc của cá nhân hay khổ đau của cá nhân. Đức Thế Tôn đã dạy cho chúng ta về trí tuệ vô phân biệt. Khi tôi nhìn vào bàn tay phải của tôi, tôi có thể thấy trí tuệ vô phân biệt. Bàn tay phải của tôi chưa bao giờ kỳ thị bàn tay trái. Bàn tay phải của tôi đã vượt thoát những mặc cảm hơn, kém và bằng. Bàn tay phải đã giúp tôi viết xuống các bài thơ tôi làm. Tôi còn sử dụng bàn tay phải để viết thư pháp. Tuy vậy, bàn tay phải của tôi không cảm thấy mình quan trọng hơn bàn tay trái. Nó chưa bao giờ nói: “Tay trái, anh chẳng có ích lợi gì cả. Nhìn tôi đây này, tôi đã viết tất cả những bài thơ này”. Còn bàn tay trái của tôi, nó cũng chẳng cảm thấy mặc cảm gì cả. Đó là lý do tại sao bàn tay trái của tôi không hề khổ đau tí nào. Cả hai bàn tay tôi luôn luôn sống chung với nhau rất hòa hợp.

    Một ngày nọ, tôi đang tìm cách treo một bức tranh lên tường. Bàn tay trái của tôi cầm một cây đinh và tay phải tôi cầm một cái búa. Ngày hôm đó tôi không được khéo léo cho lắm. Thay vì đóng vào cây đinh, tay phải cầm búa lại đập vào một ngón tay của bàn tay trái. Ngay lúc đó, bàn tay phải hạ búa xuống và ôm lấy bàn tay trái mà không hề có sự phân biệt, kỳ thị nào cả, bởi vì nỗi đau của bàn tay trái cũng là nỗi đau của bàn tay phải. Tay trái của tôi hiểu được điều đó, cho nên nó không hề giận bàn tay phải. Tay trái của tôi không nói rằng: “Tay phải, anh đã làm cho tôi đau. Tôi phải đòi lại công bằng. Đưa búa đây cho tôi!”. Đó là lý do tại sao bàn tay phải và bàn tay trái của tôi luôn sống chung với nhau một cách hòa hợp. Bàn tay phải nhìn thấy bàn tay trái trong chính mình và ngược lại. Đó chính là trí tuệ vô phân biệt, là tuệ giác bất nhị.

    Khi những người thực tập đạo Bụt theo truyền thống Bắc Tông nhìn sâu vào giáo lý của truyền thống Nam Tông, họ sẽ thấy Bắc Tông trong Nam Tông. Với sự thực tập nhìn sâu, họ sẽ thấy rằng tất cả những tư tưởng siêu  việt trong các kinh điển Đại thừa đều đã có trong những giáo lý tinh yếu của đạo Bụt nguyên thủy. Họ sẽ nhìn thấy Bắc Tông trong Nam Tông và ngược lại. Có một cách nhìn gọi là cách nhìn tương tức. Khi nhìn vào một bông hoa, ta sẽ thấy bông hoa được làm từ những yếu tố không phải là bông hoa. Nhìn thật sâu vào bông hoa, ta sẽ thấy được ánh nắng mặt trời. Nếu không có ánh nắng mặt trời thì bông hoa không thể sống được và vì vậy có thể nói bông hoa được làm từ những yếu tố không phải là bông hoa, trong đó có ánh nắng mặt trời. Nhìn sâu vào bông hoa ta còn thấy những đám mây. Ta biết rằng nếu không có mây thì sẽ không có mưa và hoa sẽ không thể sống được nếu thiếu nước. Và vì vậy những đám mây cũng là một yếu tố không phải là bông hoa. Nếu chúng ta lấy đi tất cả những yếu tố không phải là bông hoa thì bông hoa không thể nào tồn tại được. Do vậy ta có thể nói một bông hoa được làm từ những yếu tố không phải là hoa.

    Ta cũng có thể sử dụng cách nhìn đó khi nhìn vào đạo Bụt. Đạo Bụt là một đóa hoa rất đẹp và được hình thành từ những yếu tố không phải là đạo Bụt. Thực tập đạo Bụt, ta có thể tiếp cận được với trí tuệ của tất cả các truyền thống khác, đó là lý do tại sao đạo Bụt hoàn toàn không mang tính chủ thuyết, không phải là một đức tin để tôn thờ và bảo vệ. Nếu ta theo truyền thống Bắc Tông, ta có thể nói Bắc Tông là một bông hoa đẹp, nhưng bông hoa đẹp đó cũng được làm từ những yếu tố không phải là Bắc Tông. Nếu ta lấy đi tất cả những yếu tố không phải là Bắc Tông thì truyền thống Bắc Tông sẽ không thể tồn tại. Ta cũng có thể nói tương tự như vậy với truyền thống Nam Tông.

    Khi ta trồng hoa sen, ta biết rất rõ rằng chúng ta cần phải có bùn để nuôi hoa sen. Khi chúng ta nhìn vào hoa sen, chúng ta nhìn thấy những yếu tố không phải là hoa sen và chúng ta biết rằng bùn là một trong những yếu tố không phải là hoa sen nhưng lại là một yếu tố thiết yếu để hoa sen có thể biểu hiện được. Khổ đau của chúng ta cũng có thể xem như là bùn và hạnh phúc của chúng ta có thể ví như hoa sen. Giữa hạnh phúc và khổ đau có một mối liên hệ mật thiết và sâu sắc. Chúng ta sẽ có được trí tuệ vô phân biệt khi chúng ta nhìn sâu vào tự tánh của hoa sen. Khi chúng ta nhìn thấy yếu tố bùn trong hoa sen, ta sẽ không còn kỳ thị đối với bùn nữa.

    Cũng như vậy, khi nhìn vào một người con, ta sẽ thấy người cha. Đứa con là sự tiếp nối của người cha. Người con được làm từ những yếu tố không phải là con, ta không thể lấy yếu tố cha ra khỏi con được. Đó là lý do tại sao khi nhìn sâu vào đứa con ta có thể thấy người cha và ngược lại. Khi nhìn như vậy ta sẽ chạm tới được tự tánh vô ngã, ta sẽ có được trí tuệ vô phân biệt, có được tuệ giác bất nhị. Khi ta nhìn sâu như vậy, ta sẽ không còn có thể giận cha mình được nữa, bởi vì ta là sự tiếp nối của cha. Giận cha cũng có nghĩa là ta đang giận chính bản thân ta. Đó là lý do tại sao tinh thần vô phân biệt trong đạo Bụt lại vô cùng quan trọng cho một nền hòa bình trên thế giới. Với tuệ giác vô phân biệt và bất nhị, ta sẽ không còn coi ai là kẻ thù nữa. Ta sẽ thấy rằng những người làm ta khổ cần được giúp đỡ, chứ không đáng bị trừng phạt.

    Đạo Bụt là một di sản vô giá đã được trao truyền cho chúng ta từ bao nhiêu thế hệ đi trước. Nếu chúng ta biết thực tập theo tinh thần vô phân biệt thì ta có thể đóng góp rất lớn vào sự hòa hợp và hòa giải trong các quốc gia và trên thế giới. Những giáo lý và phương pháp thực tập của đạo Bụt vẫn còn mang tính thực tiễn đối với thế giới hiện đại ngày nay. Chúng ta cần học hỏi và thực tập đạo Bụt như thế nào để có thể giúp phát triển tuệ giác vô phân biệt và bất nhị trong ta.

    Nếu chúng ta biết áp dụng sự thực tập chánh niệm vào đời sống hàng ngày thì chúng ta có thể tạo ra hạnh phúc ngay bây giờ và ở đây. Nếu ta biết thực tập lắng nghe với tâm từ bi và sử dụng ngôn từ hòa ái, ta có thể tái lập lại sự truyền thông và mang lại hòa bình cho đất nước của chúng ta cũng như cho thế giới này.

     

    26/10/2010
    Dịch Theo: http://www.bangkokpost.com/feature/religion/203233/happiness-in-the-here-and-now

    Chữa lành vết thương chiến tranh

    Bài tường thuật của nhà sản xuất phim VELCROW RIPPER về chuyến đi lịch sử về thăm quê hương của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, chuyến trở về đã thu hút hàng vạn người cùng tới để hồi sinh sự thực tập Đạo Bụt và chữa lành vết thương chiến tranh.

    Ý về muôn vạn nẻo
    Thiền lộ tâm an nhiên
    Từng bước gió mát dậy
    Từng bước nở hoa sen

    – Thích Nhất Hạnh-

    thich-nhat-hanh-jpgTrong tận cùng tăm tối của thời kỳ bom napalm, của bom trải thảm và chất độc màu da cam, một bông hoa đã hé cánh trong hình dạng của một tu sỹ Phật giáo trẻ với cái tên Thích Nhất Hạnh. Thay vì đóng cửa trái tim trước thảm kịch chiến tranh Việt Nam, người tu sỹ đó đã làm ngược lại, Thầy đã khai thông được nguồn sức mạnh tuyệt vời. Thầy đã khơi nguồn cho tình thương đích thực, và trong khi làm như vậy, thầy đã khởi đầu cho một phong trào mà sau này đã lan rộng trên toàn thế giới, đó là phong trào đạo Bụt dấn thân.

    Thầy, như mọi người vẫn thường trìu mến gọi, nhận ra rằng tình thương đích thực phải bắt đầu với sự thực tập nhìn sâu, phải biết xóa tan trong tâm mình các tri giác để nhường chỗ cho không gian tâm thức. Với một tâm hồn vắng lặng, vắng lặng mọi ảo tưởng, thì lòng từ bi, sự dũng cảm, niềm an lạc và tuệ giác sẽ có không gian để xuất hiện. Tình thương đích thực sẽ xuất hiện.

    Với sự hiểu biết từ những kinh nghiệm sống về tính liên đới giữa mọi hình thức sống – cái mà Thầy gọi là “tương tức” – Thầy vượt khỏi tư tưởng hay sự quán chiếu đơn thuần để tiến tới hành động. Ngay trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, Thầy đã sáng lập dòng tu Tiếp Hiện, xuất bản một tờ báo quan trọng vận động cho hòa bình, và thành lập trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội – một đoàn thể những người đã nhận thấy giáo lý đạo Bụt là một sự thật đòi hỏi họ phải trở thành “hoa sen trong biển lửa”. Thầy đã khai sinh cho nền Đạo Bụt Dấn Thân, một phong trào bắt nguồn từ đất nước Việt Nam nhỏ bé mà đã lan rộng trên toàn thế giới.

    Năm 1966, ở tuổi 40, Thầy bị lưu đày khỏi quê hương Việt Nam thân yêu. Tội của Thầy là đã chứng kiến nỗi đau khổ có tính tương tức của những người Cộng Sản và Quốc Gia, của những người lính và dân thường, nạn nhân và tội phạm. Đối với nhà cầm quyền của cả hai phía, Thầy là kẻ phản quốc vì đã khơi dậy ý thức về lòng nhân ái trong lòng mọi người có liên quan tới cuộc chiến xấu xa này.

    Trong bốn thập kỷ bị lưu đày, Thầy không hề ngơi nghỉ. Thầy đi khắp thế giới truyền đi thông điệp về hòa giải và hòa bình. Sau khi chiến tranh kết thúc, Thầy đã đem những cựu chiến binh Việt Nam và những người Việt tị nạn lại với nhau để giúp họ tìm được sự hòa giải và hàn gắn. Thầy họat động trong các nhà tù, dẫn đầu các cuộc thiền hành vì hòa bình và giảng pháp, tới tất cả những nơi cần đến tuệ giác của Thầy. Một lần, khi Thầy mới trở về từ chuyến thăm tù nhân đầu tiên ở Maryland Correctional Institution (những bài giảng ở đây đã làm căn bản cho cuốn sách Be Free Where You Are – Tự do ở bất kỳ nơi nào), Thầy đã nói rằng Thầy thà đến nơi tù ngục hơn là ở Tịnh Độ, bởi vì chính nơi có nhiều khổ đau nhất là nơi có nhiều cơ hội nhất cho sự thực tập từ bi.

    Nhưng trong những năm tháng đằng đẵng xa quê hương Việt Nam, bởi vì Thầy đã trở thành bậc thầy lỗi lạc về đạo Bụt, Thầy luôn luôn lắng nghe tiếng gọi từ quê hương. Đã bao lần Thầy xin phép trở về nhưng bị từ chối. Cuối cùng, vào năm 2005, Thầy đã được phép trở về. Thầy và những thành viên trong tăng thân của Thầy đã đi xuyên đất nước Việt Nam, làm công việc khôi phục truyền thống tu tập đạo Bụt đã bị gián đoạn bao nhiêu năm bởi chiến tranh và chính sách của chế độ Cộng sản.

    Mùa xuân năm 2007, Thầy đem tăng thân về thăm quê lần thứ hai. Và tôi đã được tháp tùng đoàn với tư cách một nhà làm phim và ghi lại chuyến trở về lịch sử này. Trong thời gian ở đây, tôi đã được may mắn phỏng vấn Thầy và đã được giải thích khá dài về lý do của chuyến trở về và về những gì Thầy đang làm ở đây.

    Thầy kể cho tôi rằng “Chuyến đi là một cơ hội trở lại Việt Nam và cùng mọi người tu tập . Trong bốn mươi năm, Thầy đã không thể hiến tặng sự giảng dạy và thực tập cho đồng bào Việt Nam. Vì vậy, mục đích duy nhất là được gặp mọi người, được đoàn tụ với mọi người, và được hiến tặng họ những khóa tu, những ngày Chánh Niệm, những bài pháp thoại và những buổi thiền hành. Phần lớn những người tới tham dự đều được sinh ra trong khi Thầy vắng mặt. Nhưng khi nhìn họ, Thầy vẫn có thể nhận ra thế hệ cha mẹ của họ. Họ là sự tiếp nối của cha mẹ họ và họ tiếp tục tu tập. Thế hệ trẻ ngày nay rất có cảm hứng đối với một đạo Bụt có khả năng làm mới, và vì vậy họ có thể tiếp nhận được giáo lý, hiểu, hành trì và thấm đạo.”

    Nhưng Thầy còn muốn làm một điều khác nữa trong chuyến đi này: liên hệ với những nạn nhân đã chết trong chiến tranh và giúp hàn gắn vết thương mà người dân đã phải gánh chịu trong chiến tranh. “Chúng tôi sẽ tiến hành các Trai đàn để cầu nguyện cho nạn nhân chiến tranh của cả hai phía. Đây là lần đầu tiên một trai đàn như vậy được phép tổ chức. Đó là nghi lễ truyền thống tôn giáo nhưng ở một khía cạnh khác cũng là một lễ hội.

    Những người còn sống đến với nhau và tưởng nhớ tới người chết, cầu nguyện cho người chết và hòa giải. Chiến tranh đã để lại rất nhiều vết thương trong từng cá nhân và các bên lâm chiến đã không có cơ hội để hòa giải. Đây là sự thực tập chữa lành mang tính cộng đồng. Nếu chúng ta không chuyển hóa những khổ đau và thương tích bây giờ thì những khổ đau và thương tích đó sẽ truyền xuống các thế hệ con cháu. Các thế hệ sau sẽ khổ đau mà không hiểu vì sao. Mình nên làm điều gì đó ngay bây giờ để chuyển hóa khổ đau và bất công mà mình đã trải qua.”

    Dưới đây là câu chuyện mà tôi đã chứng kiến trong chuyến đi 2007 của Thầy.

    THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

    Thầy đã có cả một chương trình 3 tháng kín đầy các khóa tu, bài giảng và các trai đàn, nói chuyện với đông đảo quần chúng đến đông kín sân chùa, hướng dẫn những khóa tu thiền có tới 10.000 người và đem lại cho chúng tôi niềm vinh hạnh khi được tháp tùng Thầy trong chuyến đi rất sâu vào chánh niệm. Mặc dù những qui định về hạn chế tự do tôn giáo đã được nới lỏng ở Việt Nam nhưng một người vẫn có thể bị coi là chống Cộng nếu tới chùa thờ cúng. Nhưng bức tường cũng dần dần sụp đổ, và Thầy đang bước vào giai đoạn cởi mở bởi sự tập trung vào việc hòa giải, giúp chuyển hóa những đau thương của cuộc chiến kéo dài thành tình thương.

    Tôi tới sân bay Tân Sơn Nhất vào ngày chuyến đi bắt đầu và thấy Thầy đang ngồi trên băng ghế, bao bọc bởi các thầy, các sư cô cười rất tươi và rạng ngời hạnh phúc. Một vị tăng đeo kính tên là Thích Pháp Ấn, một trong những đệ tử lớn của Thầy lại gần và tôi giải thích rằng tôi là một nhà làm phim Canada đã được mời tham gia chuyến đi để sưu tầm tài liệu cho bộ phim ký sự tài liệu của tôi mang tên : Fierce Light: When Spirit Meets Action (tạm dịch là Sức mạnh Ánh sáng: Khi tâm linh gặp hành động), bộ phim theo sát từng đợt triều dâng của chủ nghĩa tâm linh hành động trên toàn địa cầu. Chuyến đi của tôi đã kéo dài 3 tháng tìm kiếm trong thế gian những mẩu chuyện mới mà Ghandi từng gọi là “soul force” – quyền năng tâm linh, cái mà Alice Walker gọi là “human sunrise” – bình minh nhân loại và cái mà Thích Nhất Hạnh gọi là “love in action” – thương yêu thành hành động.

    Chuyến đi của tôi bắt đầu từ New Zealand, viếng thăm một Làng thực tập hòa bình của người Maori, ngôi làng mà trước đây phương thức chống chính quyền bất bạo động của họ đã truyền cảm hứng cho Gandhi. Ở Kenya, tôi tham dự Diễn đàn Xã hội Thế giới, cuộc họp mặt lớn nhất của những nhân vật lịch sử đã làm thay đổi thế giới. Ở Nam Phi, tôi thăm Phoenix Ashram, nơi phong trào Satyagraha của Gandhi được sinh ra. Ở Ấn Độ, tôi đến thăm những người Dalits (trước đây gọi là giai cấp Cùng Đinh), những người đang trong giai đoạn thay đổi và nắm quyền lực tương tự như phong trào Dân Quyền Hoa Kỳ. Và ở Sri Lanka, tôi ghi hình cộng đồng Sarvadoyan, phong trào lớn nhất theo đường hướng của Gandhi ngày nay. Và bây giờ tôi đang ở Việt Nam với tăng đoàn Làng Mai và Lộc Uyển (trung tâm tu học của Thầy ở miền nam Cali) cùng với một tập thể những thành viên của tăng thân quốc tế, bước vào trái tim của Đạo Bụt Dấn Thân.

    Điểm dừng đầu tiên là thành phố Hồ Chí Minh, cái tên được đặt sau ngày “Sài Gòn sụp đổ” hay “Hồ Chí Minh lên ngôi”, tùy thuộc vào quan điểm của bạn. Tất cả đều tùy thuộc vào quan điểm. Những đường phố của Tp Hồ Chí Minh được trang hoàng bởi các biểu ngữ đỏ và tràn ngập xe gắn máy và người qua lại. Ban đầu, băng qua đường tưởng như là một chuyện không thể, nhưng khi theo dõi những người bản xứ, tôi có thể thấy những dòng xe xe gắn máy rẽ ra như một đàn cá khi có người băng qua đường. Chỉ cần có niềm tin.

    Sau bữa sáng trong im lặng với những thành viên khác của tăng thân quốc tế ở nhà hàng của khách sạn, chúng tôi lên xe bus đến chùa Pháp Vân, nơi xuất thân của đạo Bụt dấn thân trong thập niên 60. Cả một rừng máy chụp ảnh đón chào sự trở về của Thầy. Thầy dẫn mọi người đi thiền hành thật chậm rãi và bình yên. Sau đó, chúng tôi đến nhà ăn để nhận áo tràng và bình bát. Tôi luôn luôn bị thu hút bởi sự đơn giản và định tâm của những vị tu sĩ Làng Mai mà tôi được chứng kiến và tôi rất hào hứng trước cơ hội được làm một người tu bán thời gian trong vòng một tháng. Tôi nhìn quanh những người bạn cùng tháp tùng chuyến đi – 70 người nước ngoài từ khắp thế giới – tất cả đều khoác áo tràng lam, hơi ngần ngại nhưng cũng thấy thích thú bởi sự chuyển hóa đột ngột. Chúng tôi không còn là những người thường nữa.

    Đối với người dân Việt Nam, sự có mặt của tăng thân quốc tế này rất quan trọng. Phần nhiều người Việt đã từ chối văn hóa Phật giáo truyền thống một phần bởi vì không có tự do tôn giáo dưới chế độ Cộng sản nhưng có thể bởi vì thiếu sự tự tin. Phương Tây, qua truyền hình vệ tinh, được xem như là thiên đường, thế giới của những chiếc xe to, những sản phẩm hào nhoáng và sự giàu có dường như vô tận. Hình ảnh của một nhóm đông người Tây Phương khoác áo tràng và thực tập Phật giáo Việt Nam đem tới cho họ niềm tự hào về văn hóa của dân tộc mình.

    Sau một bữa trưa chay tịnh rất ngon miệng, ăn trong những chiếc bình bát mới, chúng tôi cởi giày và gặp nhau dưới một chiếc lều đã được dựng lên trước chánh điện. Sư cô Chân Không, đệ tử lâu năm và thân cận nhất của Thầy, đón tiếp chúng tôi. Năm 14 tuổi, Sư cô đã bị chấn động bởi khoảng cách bất công giữa giàu và nghèo và bắt đầu đi gõ cửa từng nhà hàng xóm, nói với họ rằng “hãy coi con như con chim mổ những hạt cơm sót trong nồi, cho con một nắm gạo, thế thôi, cho những ai không đủ ăn”. Sư cô đã sớm nhận ra vai trò của mình trong cuộc đời này là để thể hiện tình thương qua hành động. Nếu Thầy là thánh Francis thì Sư cô là thánh Clare.

    Sư cô Chân Không là một trong sáu thành viên đầu tiên của dòng tu Tiếp Hiện và trong suốt thời kỳ chiến tranh, cùng với những thanh niên phụng sự xã hội, sư cô đã hành động không sợ hãi vì hòa bình. Nhóm thanh niên dũng cảm này đã dấn thân vào giữa chiến trường để mang lại niềm an ủi và giúp đỡ nơi tuyến đầu, giúp nạn nhân chiến tranh mất nhà cửa ổn định lại cuộc sống, giúp tái thiết những xóm bị dội bom, xuyên qua làng mạc tan hoang trong tinh thần kiên quyết. Có những làng vừa được dựng lại chỉ để bị dội bom, rồi dựng lại, rồi bị dội bom, lần này qua lần khác. Rất nhiều trong số những người thanh niên đi theo con đường hành động tâm linh này bị giết hoặc bị thương, nhưng họ vẫn khước từ hận thù, nhất định không đứng về một phe nào, và không bỏ cuộc.

    Mặc dù Thầy được coi là người đặt ra khái niệm “Đạo Bụt Dấn Thân” nhưng Thầy tin chắc rằng Đạo Bụt dù dưới hình thức nào đều phải dấn thân, nếu không thì không phải đạo Bụt. Thầy giải thích rằng “khi thực tập ngồi thiền trong chùa mà nghe tiếng bom và tiếng kêu khóc ở ngoài, mình phải đi ra và giúp, bởi vì thiền là ý thức những gì đang xảy ra trong bản thân cũng như ở xung quanh. Trong tình trạng chiến tranh, mình phải dấn thân thì mới thực sự đúng với truyền thống từ bi và thương yêu của mình. Nhưng nếu quá bận rộn làm công việc cứu trợ, mình sẽ đánh mất sự thực tập và mình sẽ kiệt sức. Đó là lý do tại sao mình phải tìm những phương pháp để duy trì sự thực tập, duy trì sự vững chãi, sự tự do, sự bình an trong khi làm việc”.

    “Hành động bất bạo động là một biểu hiện của tình thương. Xã hội hiện có rất nhiều tệ nạn là hậu quả của quá trình phát triển và toàn cầu hóa. Nếu mình có tình thương đích thực, mình sẽ nhìn ra cần phải làm gì để chuyển hóa những vấn đề như ma túy, bạo lực và sự tan vỡ gia đình. Có rất nhiều, rất nhiều cách để bày tỏ tình thương của mình”.

    MƯỜI NGÀN TRÁI TIM

    Sau chuyến về thăm Việt Nam lần đầu tiên, Thầy đã thành lập tu viện Bát Nhã, gần thị xã Bảo Lộc, cách Sài Gòn khoảng 6 tiếng đi xe buýt. Nơi đây thật đẹp với chánh điện, thiền đường, các cư xá nằm trên sườn đồi bao bọc bởi rừng thông và rừng cà phê. Thung lũng phía dưới được trang trí bởi những con đường đất đỏ mịn chạy ngoằn ngoèo rất lý tưởng cho đi thiền hành, đây đó có những thất nhỏ cho ngồi thiền. Cuối thung lũng là một tượng Bụt rất lớn ngồi dưới gốc cây và phía bên kia là tượng Bồ Tát Quan Thế Âm – vị Bồ tát của lòng đại từ bi, cũng rất lớn. Gương mặt Bồ Tát thật thanh thản và rạng rỡ. Một ngôi chùa hiền lành với những lớp mái cong và sàn đá mát lạnh để lễ lạy và ngồi thiền, những hàng tượng lân đá được đặt tại các góc chùa, giống như các vị hộ pháp của lòng từ bi. Dưới chân đồi là hàng chữ khắc vào đá “Đã về, đã tới”.

    Trước đây, chỉ có một ngôi chùa ở đây. Vị trụ trì là người yểm trợ Thầy hết lòng. Trong suốt thời gian Thầy bị lưu đày, Thượng tọa Viện chủ vẫn giữ liên lạc và giúp Làng Mai thực hiện và mở rộng phạm vi các dự án xã hội trong vùng. Khi Thầy trở về Việt Nam lần đầu tiên ba năm về trước, Thầy đã thành lập một tu viện mới trên những khu đất xung quanh. Trong khoảng thời gian 3 năm đó, tu viện đã được mở rộng nhanh chóng. Ba trăm vị tân tu sỹ đang tu tập tại đây và những đợt xuất gia vẫn diễn ra đều đặn. Điều này chứng tỏ sức hồi sinh của tăng thân Phật giáo tại Việt Nam trong truyền thống Làng Mai. Sau một ngày “làm biếng”, một ngày không thời khóa, chúng tôi bắt đầu một khóa tu cùng mười ngàn thiền sinh Việt Nam. Không ai ngờ con số lại lớn đến vậy, chứng tỏ một niềm khao khát mạnh mẽ đối với giáo pháp tại đây. Chúng tôi ngồi chung, mười ngàn trái tim, tiếp nhận sự tỏa rạng dịu dàng từ người Thầy đang trở về với quê hương, phục sinh lại một tôn giáo đã bị khô cứng.

    Thầy nói rằng tôn giáo cũng giống như vỏ của quả mít, mình phải biết ăn những múi ngọt bên trong. Mình cần trở lại với giáo pháp nguyên thuỷ. Đức Bụt đã dạy “vô tướng” – đừng để bị kẹt vào tướng. Sư cô Chân Không nói với tôi “Trong thời Bụt, không có đạo Bụt. Mình phải tự tiếp xúc với sự bình an, ánh sáng và sự hiểu biết sâu sắc của chính mình. Đó là Bụt ở trong mình. Mình có thể gọi đó là Thượng Đế. Mình có thể gọi đó là Thánh Allah. Mình không cần đặt nó vào một cái khuôn khổ và gọi nó là Đạo Phật hay Đạo Chúa hay Đạo Do Thái. Mình phải sử dụng pháp khí vô tướng mà Bụt đã trao truyền. Khi đó mình có thể tiếp xúc với thực tại vĩ đại và đẹp đẽ kia mà gọi tên nào cũng được: Bụt, Allah hay Thượng Đế.

    TÌNH THƯƠNG ĐÃ NGẤM

    Đến giữa chuyến đi, tôi được bao trùm bởi tình thương. Tôi đã có thể tạm kìm được những bước chân của mình khi đi thiền hành – thiền hành giống như thiền trượt vậy. May mắn làm sao, tăng thân Làng Mai là nơi an toàn cho một người đang yêu. Không ai nghĩ tôi bị điên nếu tôi có cười hơi rộng miệng một chút. Mọi việc diễn ra rất đồng bộ. Đối với tôi bây giờ, từng tiếng chim líu lo cũng trở thành bản tình ca.

    Khi chứng kiến Thầy hướng dẫn thiền hành buổi sáng, tôi cảm nhận được trái tim mở rộng của Thầy. Hình thái Thiền Phật Giáo của Thầy khác xa với các khuôn mẫu thiền dùng gậy đập hay sử dụng công án rập khuôn của các vị Tổ. Thiền của Thầy là sự thực tập thấm đầy tình thương, trong mọi chiều hướng. Bạn có thể thấy điều này đang truyền qua những đệ tử của Thầy. Tăng thân này tỏa chiếu tình thương và những nụ cười. Ngay cả khi Thầy không hiện diện, tôi vẫn hấp thụ được giáo pháp của Thầy, giáo pháp trao truyền nguyên vẹn qua những người đệ tử. Đây không phải là một đoàn thể các thầy, các sư cô nghiêm khắc, ép mình, những người sợ hãi, trốn tránh cuộc đời trong cuộc sống tu viện. Những con người này thực sự dấn thân, họ sống sâu sắc, trong giây phút hiện tại, chia sẻ hết lòng những khám phá của họ với những người như chúng tôi.

    Đại đức Pháp Ấn, một trong những đệ tử lớn của Thầy, nói rằng trước khi gặp Thầy, đại đức đã thiền quán nhiều năm về công án đơn giản “Tôi là ai?”. Những câu hỏi “Tôi là ai đang nâng cánh tay này? Tôi là ai đang bước đi? Tôi là ai đang di chuyển qua không gian?” trở thành điều ám ảnh. Sau đó được gặp Thầy và đại đức khám phá ra thiền tập trong hành động. Đại đức ngừng triết lý và bắt đầu sống, sống sâu sắc. Làng Mai cũng có những pháp môn thiền tập theo nghi thức truyền thống cũ nhưng không nhiều. Điều quan trọng hơn là bạn sống ra sao, thực sự có mặt ra sao. Không phải là vấn đề phân tích bản thân để đưa tới sự giác ngộ, mà là sống. Sống thật sâu. Bây giờ, bây giờ và bây giờ.

    Khi tôi hỏi đại đức Pháp Ấn về ý nghĩa của tình thương, đại đức nói “Khi bạn mở mắt là tình thương xuất hiện. Tình thương là một trạng thái của tâm khi mình sáng suốt. Giữa bạn và toàn thể phần còn lại của vụ trụ có mối liên hệ với nhau. Đó là nguồn năng lượng làm bạn hòa nhập với mọi vật. Quá trình cởi mở bắt đầu dần dần và tâm bạn bắt đầu mở rộng, và bạn bắt đầu nhìn mọi việc rõ ràng hơn. Bạn nghe được tiếng chim ríu rít và thấy được màu tre xanh. Bạn cảm nhận được rất nhiều năng lượng để sống. Đó là tình thương. Nó cho bạn năng lượng để phụng sự. Bạn cảm thấy cuộc sống thật màu nhiệm. Đó là tình thương có tính tâm linh.”

    Tôi thích hỏi về tình thương, hiện tại tôi đang được sống trong tình thương. Tôi hỏi Sư cô Chân Không về tình thương, và câu trả lời của Sư cô đẹp đến nỗi làm tôi trào nước mắt. Sư cô nói ra từ chiều sâu của sự hiểu biết, với một giọng ngọt ngào, nhẹ nhàng nhưng mạnh mẽ. Ngọt ngào như một bông hoa và mạnh mẽ như sư tử. Sư cô nói rằng chúng ta cần thương yêu một người như thương yêu một cái cây – không chỉ yêu bề mặt, không chỉ yêu cành lá hay thân cây mà phải yêu cả gốc rễ. Chúng ta cần tập yêu tất cả những gì thuộc về người đó – tổ tiên, gia đình, bạn bè, ước mơ và hoài vọng của họ. Yêu tất cả những phần tạo nên con người ấy. Điều gì thực sự có ý nghĩa đối với người mình yêu? Một người biết yêu thương luôn luôn hiến tặng niềm vui và làm vơi nỗi khổ.

    Có rất nhiều nỗi đau khổ ở Việt Nam cần được làm vơi. Như Thầy nói “Chiến tranh tạo ra biết bao nạn nhân. Có biết bao bất công, cho cả Bắc Việt và Nam Việt, hàng trăm ngìn thuyền nhân đã bỏ mạng trên biển, bao nhiêu người chết trong ngục tù và trong các trại cải tạo, bao nhiêu chiến sỹ của cả miền Bắc và miền Nam chết trên chiến trường, giữa núi rừng và trên sông, bao nhiêu người mất không tìm ra hài cốt”.

    BỮA CƠM TỐI ĐƠN GIẢN CÙNG THẦY

    Sau vài tuần ở lại tu viện tôi đã chụp được những hình ảnh tôi cần, từ hình ảnh các thầy các sư cô thiền hành chậm rãi, cho đến những dòng suối tung bọt, tượng Bụt thật lớn, tượng những bồ tát của lòng từ bi và những chú lân hộ pháp, những hàng áo nâu khiêm cung ngồi trên chánh điện với khuôn mặt thanh thản và cặp mắt khép nhẹ đang đi sâu trong thiền định.

    Tôi có tất cả, giữ lại cho buổi phỏng vấn Thầy. Tôi muốn hỏi Thầy về ý nghĩa đích thực của tình thương. Chúng tôi đã hoãn lại ngày rời tu viện đi Tp HCM để chờ đợi cơ hội này. Ngày nào Sư cô Chân Không cũng đưa tin cho chúng tôi và bảo “Có thể ngày mai!”

    Những ngày tháng chờ đợi cứ trôi qua, chúng tôi bắt đầu cảm thấy như trong phim “Chờ đợi Fidel”, bộ phim kể về một đoàn làm phim tài liệu đến Cuba để phỏng vấn Ngài Fidel Castro. Đoàn làm phim luôn được bảo rằng “Chắc chắn ngày mai”. Họ tự quay phim mình và dần dần phát điên, uống say rượu rum Cuba, suốt ngày tranh cãi và biến thành đống than hồng. Họ không bao giờ có được buổi phỏng vấn, nhưng cũng cho ra một cuốn phim khôi hài làm bài học. Luôn có vấn đề nào đó xảy ra. Chúng tôi không uống say túy lúy ở đây, mặc dù thỉnh thoảng cũng có lẻn ra khỏi tu viện để ăn kem.

    Cái mà chúng tôi đạt được là chúng tôi có thêm khoảng thời gian quán chiếu lặng lẽ và sự kiên nhẫn nhẹ nhàng. Một cơ hội cho giáo pháp thấm vào. Có một khóa tu cho người xuất gia, tất cả đều nhẹ nhàng và yên lặng, một đại dương của những nụ cười không tắt. Cả tháng trời tôi chỉ cười và chắp tay vái như người điên. Nếu tôi tiếp tục làm như vậy khi về nhà thì chắc mọi người sẽ nghĩ tôi điên thật.

    Một buổi sáng, khi đang theo lối mòn đi lên từ thung lũng nhỏ xinh mà tôi yêu thích, tôi bỗng thấy Thầy, chỉ đi cùng với hai thị giả. Tôi dừng lại xá chào và Thầy nở một nụ cười thật tuyệt vời với tôi. Tôi hơi sợ, bởi vì thông thường mỗi khi thấy Thầy thì hoặc là Thầy đang ngồi trước cả 10.000 người hoặc là đang thiền hành với hàng ngìn người phía sau. Tôi cũng cười thật tươi và định đi tiếp, nhưng Thầy nói “Thầy nghĩ hôm nay anh có thể phỏng vấn. Thầy sẽ cho biết sau.” Tôi vội vàng đáp lại “Con cảm ơn Thầy rất nhiều”.

    Chúng tôi xá nhau, cười với nhau và tôi tiếp tục đi. Vài tiếng đồng hồ sau, buổi phỏng vấn được ấn định. Tôi xuống bếp và gặp Sư cô Chân Không.
    “Anh đã sẵn sàng chưa? Đã có máy quay phim chưa?”
    “Thưa, có ngay đây rồi.” Tôi vỗ vào chiếc túi thầy tu, chiếc máy ghi hình đã nằm gọn ghẽ bên trong.
    “Bây giờ anh đi lấy thức ăn rồi mang xuống luôn.”

    Thế là chúng tôi được ăn tối với Thầy trước. Người sản xuất phim của tôi, Cher, và tôi lấy đầy thức ăn vào bát, những món ăn chay đơn giản – cơm, mít, một chút đậu hũ, rau muống luộc. Sư cô Chân Không đưa chúng tôi xuống cốc của Thầy, một ngôi nhà nhỏ xinh xắn, giống như một ngôi chùa thu nhỏ. Chúng tôi tháo giày và bước vào. Thầy đang ngồi sau chiếc bàn gỗ thấp có bày một khay thức ăn với những chiếc bát nhỏ đựng rau, gạo đỏ và rau sống. Hai chiếc gối ngồi thiền đã được đặt sẵn cho chúng tôi.
    Thầy cười, “Mời quí vị vào, xin mời ngồi xuống.”
    Chúng tôi ngồi xuống, bên cạnh Sư cô Chân Không.
    “Hôm nay Thầy thấy anh đi xuống suối. Anh đang quay phim thác nước à?”
    Buổi sáng đó, khi tôi đứng trước Thầy trên con đường đó, tôi đã ghi hình Thầy bước đi dọc dòng suối. Thầy nhìn lên phía tôi khi tôi đang quay phim. Tôi sợ Thầy nghĩ rằng tôi đang xâm phạm sự riêng tư của Thầy, nhưng qua nụ cười của Thầy, tôi có thể thấy Thầy rất vui khi tôi ghi hình những cảnh đẹp của tu viện Bát Nhã.

    “Thưa vâng, dưới đó thật đẹp, thật yên bình.”
    Thầy chỉ vào bát của chúng tôi “Mời quí vị dùng cơm”
    Thể hiện lòng tôn kính, chúng tôi đợi đến khi Thầy gắp đũa đầu tiên mới bắt đầu ăn. Thầy gắp cho tôi một miếng xả. “Thử đi. Ngon lắm đấy.” Tôi đưa bát ra và Thầy bỏ vào.
    “Thưa, ngon thật.” Tôi công nhận. “Những khu vườn ở đây thật đẹp. Mình có thể trồng rau quanh năm được không ạ?”
    “Được chứ, quanh năm.”
    Chúng tôi ăn trong im lặng một lát, rồi bàn về khóa tu cho cư sỹ. Tôi kể cho Thầy rằng tôi cứ không thể tưởng tượng được tu viện lại có thể thu xếp ăn ở cho từng đó con người.
    “Thực tế là chúng tôi không có đủ cơ sở vật chất.”, giọng Thầy thật nhẹ, “Mọi người ngủ ở mọi nơi, và không có đủ cả nhà vệ sinh. Chúng tôi sẽ phải xây thêm. Thử cái này đi. Anh có biết nó là gì không? Thầy không biết tiếng Anh gọi nó là gì.” Thầy lại gắp cho tôi một lá rau có mùi thơm.
    “Thưa, cái này ăn giống rau ngò.” Tôi đáp lời.
    Thầy gắp một lá cho chính mình, nhai rất cẩn trọng, tận hưởng cảm giác thích thú. Thật đúng là thú vui của một thầy tu. Thầy gắp tiếp cho tôi một loại lá khác.
    “Cái này giúp nhuận tràng” Sư cô Chân Không nói, dường như hơi quá nhiều thông tin. Sư cô lật qua một tạp chí Việt Nam trong đó có bài viết về chuyến đi. Sư cô rất thoải mái. Sư cô đã cùng Thầy đi chung con đường này hơn bốn thập kỷ.

    Thầy bật cười nhẹ khi đưa cho chúng tôi đĩa nấm chiên và giải thích “Thịt chay đấy.”
    “Rồi các anh cảm thấy ra sao khi ở đây với chúng tôi?”
    Tôi đáp: “Thưa, thật tuyệt vời. Nó cũng giúp chúng con thật sự nâng cao kỹ năng làm phim của con. Con luôn nói rằng làm phim là phải tỉnh thức, phải thực sự nhìn, nhưng ở đây, được bao bọc bởi sự thực tập chánh niệm của nhiều người, con thấy mình còn chánh niệm hơn nữa. Ngay cả khi con không trực tiếp tham gia thiền hành thì con cũng di chuyển từ chỗ này đến chỗ kia một cách chánh niệm. Từng khoảnh khắc đều là thiền. Cảm ơn Thầy vì điều đó.”

    Cher nói thêm: “Nhóm thiền sinh muốn con kể cho Thầy biết họ thật là hạnh phúc khi được đi chuyến này cùng Thầy. Họ nhờ con gửi lời đến Thầy.”

    Thầy chắp hai bàn tay và xá. Sư cô Chân Không kể về chuyến thăm của Sư cô tới những ngôi trường không phải đóng học phí và được dạy theo đường hướng tâm linh đạo Bụt do Làng Mai giúp thành lập ở những nơi trẻ em không có điều kiện tiếp xúc với sự giáo dục. Sư cô ngồi giữa các em nhỏ luôn luôn là hình ảnh ngọt ngào – trông sư cô giống như em bé nhất giữa các em. Sư cô tả lại cho Thầy nghe Sư cô đã ngồi sau xe gắn máy ra sao để đến thăm thêm được những ngôi trường ở vùng sâu vùng xa, nảy lên nảy xuống trên con đường đất đỏ bụi bặm xuyên qua những vườn cà phê và lên dốc xuống đèo. Sư cô cười phá lên khi kể đến đọan người lái xe gắn máy cố gắng trấn an Sư cô “Sư cô đừng lo, nếu Sư cô ngã thì con cũng ngã mà.” Niềm vui của Sư cô rộn rã, có phần đối lập với niềm vui bình lặng của Thầy.

    Sau bữa tối, Thầy mời chúng tôi bánh quy và chúng tôi đặt máy quay phim cho buổi phỏng vấn. Thầy bảo tôi “Câu hỏi hay sẽ có câu trả lời hay.”

    Thầy nhìn sâu vào mắt tôi, ôm trọn tôi trong cái nhìn dịu dàng nhưng mạnh mẽ như là câu trả lời đối với câu hỏi của tôi về ý nghĩa của tình thương. “Tình thương trong Đạo Bụt có rất nhiều nghĩa. Trước hết, đó là lòng từ, khả năng hiến tặng niềm vui, hiến tặng hạnh phúc, làm vơi nỗi khổ. Yếu tố thứ hai của tình thương đích thực trong Đạo Bụt là tâm bi. Tâm bi là khả năng tháo gỡ niềm đau nỗi khổ và sự tuyệt vọng của người khác. Đó là khả năng giúp người khác chuyển hóa điều gì đó trong nội tâm. Yếu tố thứ ba của tình thương đích thực là sự an lạc. Vì vậy tình thương đích thực phải có yếu tố an lạc.

    “Và yếu tố cuối cùng của tình thương đích thực trong Đạo Bụt là xả, bao dung. Mình không được loại trừ bất kỳ ai, không có sự phân biệt. Đây chính là yếu tố của tình thương đích thực. Nếu mình thương trong tinh thần đó, mình sẽ giữ được tự do. Mình sẽ không khổ đau nữa và không còn làm cho người khác khổ đau. Và khi chúng ta có tình thương đó trong lòng, tất cả những điều chúng ta nói, chúng ta làm đều biểu lộ tình thương.”

    .0.i-am-home-velcrow-ripper-shambhala-sun-septemberBA ĐẠI TRAI ĐÀN CHẨN TẾ

    Biểu hiện lớn nhất của tình thương của Thầy là ba Đại Trai Đàn cho 3-5 triệu người đã chết trong chiến tranh. Ba Đại Trai Đàn đã được tổ chức tại 3 thành phố ở các miền Bắc, Trung, Nam, mỗi Trai Đàn kéo dài 3 ngày – 3 trọng tâm của đất nước Việt Nam để hàn gắn vết thương chiến tranh. Thầy nhấn mạnh rằng nghi thức tế lễ và tán tụng ở các miền khá khác biệt, phản ánh chất lượng và truyền thống của các vùng khác nhau trên đất nước Việt Nam. Mọi người ở mọi nơi trên thế giới đều được mời tham dự các buổi lễ, cầu nguyện theo bất kỳ cách nào thích hợp với họ, ngay cả những người không theo tôn giáo nào cũng có thể tham dự. Thầy đề nghị những người Cộng sản đọc những văn bản mang tính đề cao con người của họ . Thầy giải thích “Đây là sự thực tập có tác dụng trị liệu, đã có từ lâu đời và ăn sâu vào truyền thống của người Việt. Phần đông chúng tôi đều tin rằng linh hồn của những người đã khuất đáp ứng lại lời mời của chúng tôi đến thọ thực trong thời gian các Đại Trai Đàn. Chúng tôi sẽ cúng dường thức ăn, nước uống và đặc biệt là cúng dường pháp để họ có thể nghe kinh chyển hóa những đau khổ của họ, và để họ có thể được sinh ra ở những nơi tốt hơn.”

    Đại Trai Đàn đầu tiên được tổ chức 1 tháng sau khi bắt đầu chuyến đi tại một ngôi chùa lớn ở Tp HCM. Cả khuôn viên chùa trở nên sống động với các biểu ngữ, bàn thờ và những phòng ở tầng dưới đầy những danh sách tên của những người thiệt mạng. Hàng ngàn người đã ở lại trong suốt ba ngày nghi lễ tưng bừng của Đại Trai Đàn. Các vị tu sĩ đã tới nghĩa trang của những người chống Cộng, những nghĩa trang đã bị đóng cửa ngay cả đối với những thành viên trong gia đình người chết trong nhiều thập kỷ. Họ mời linh hồn những người đã khuất bị bỏ rơi này tới tham dự với chúng tôi. Tất cả đều được đón chào. Những chiếc thuyền giấy hình hoa sen nhiều màu sắc đã được thả xuống sông, những lễ dâng hương được tiến hành, những buổi tụng kinh kéo dài đến đêm khuya.

    Thầy khai mạc Đại Trai Đàn ở tp HCM với một bài pháp thoại hùng hồn. Thầy ngồi trước chúng tôi, với đôi mắt bình thản, mở lớn và sáng quắc. Thầy hỏi chúng tôi khi người thương của mình mất đi, họ sẽ về đâu. Thầy nói mỗi người cần nhìn sâu để thấy rằng những người đã khuất đang có mặt trong chúng ta, giống như là đám mây đã trở thành mưa và nước mưa trở thành nước trà. Và như thế thì tổ tiên của chúng ta đang được tiếp nối trong chúng ta. Nếu chúng ta khỏe mạnh, nhẹ nhàng và tự do trong thân và tâm thì tổ tiên của chúng ta cũng sẽ được như vậy. Những người thương của chúng ta chỉ thay đổi về hình thức mà nội dung thì không đến không đi, không sinh không diệt. Tất cả những ai đã chết một cách oan ức trong chiến tranh cần đến năng lượng cộng đồng của toàn đất nước để được chữa lành. Chúng tôi đã ngồi hàng giờ dài của buổi lễ, toàn bộ gánh nặng của những gì đã xảy ra trên mảnh đất đầy thương tích này tràn về. Nước mắt tôi bắt đầu rơi, những giọt mưa của tổ tiên. Tôi đón chào những giọt nước mắt này. Từ khi tôi mở trái tim ra để thương, tôi đã thấy rằng tôi không còn sợ những giọt nước mắt nữa. Sư cô Chân Không nói với tôi rằng khi Hà Nội bị bỏ bom, Thầy đã khóc bởi vì những đồng bào của Thầy đang chết. Và khi Afghanistan bị bỏ bom, khi Iraq bị bỏ bom, Thầy cũng đã khóc với cùng một niềm quan tâm sâu sắc. Thầy không phân biệt. Tất cả những người đã khuất đều xứng đáng với những giọt nước mắt của chúng ta. Thầy đã viết một lá thư cho Tổng Thống Geoge W. Bush, hy vọng rằng Tổng Thống có thể mở trái tim mình để cảm thông cho những người dân đang bị ngài thả bom. Thầy nói rằng “Tôi mong ngài có thể khóc như tôi, ngài có thể đau khổ nhưng sau đó ngài có thể đưa ra những quyết định tốt nhất.”

    Thầy không hề yếu đuối, ngay cả khi Thầy có một trái tim cởi mở. Thầy là một bằng chứng sống của lòng từ bi mạnh mẽ. Thời gian được cùng Thầy sắp chấm dứt. Thầy nhìn tôi với ánh mắt thật sâu. “Trong truyền thống Đạo Bụt, tình thương bắt nguồn từ sự hiểu biết. Để có thể hiểu mình phải nhìn sâu và lắng nghe. Tất cả những lời mình nói là những điều mình làm đều bất bạo động, không phải đơn thuần là chiến thuật mà là sự biểu hiện của tình thương. Hiểu thấu được sự đau khổ của người khác sẽ đem lại tình thương đích thực.”

     

    ______________
    Sư cô Khiết Nghiêm chuyển ngữ
    chuyển ngữ từ Shambala Sun, tháng 09/2007, trang 50

    I am Home – By Velcrow Ripper
    Filmmaker Velcrow Ripper reports on Thich Nhat Hanh’s historic return to Vietnam, where tens of thousands gathered with him to revive Buddhist practice and to heal the wounds of war.

     

    Lời khấn nguyện trong đại trai đàn chẩn tế bình đẳng giải oan >>

    Xứ sở của giây phút hiện tại

    Shambhala Sun | January 2013
    In the Country of the Present Moment

    Trích từ tạp chí Shambhala Sun số ra Tháng Giêng 2013.
    Ký giả Andrea Miller viết sau một chuyến thăm Làng Mai.

    Sư cô Chân Tại Nghiêm dịch từ nguyên bản tiếng Anh


    Andrea Miller đến thăm Làng Mai tại Pháp với mong muốn tìm hiểu xem tăng thân của Thầy Thích Nhất Hạnh đang thực tập Năm giới như thế nào. Liệu Năm giới có đích thực là nền tảng để giúp thế giới này trở nên tốt đẹp và lành mạnh hơn không?

    Tôi nghĩ khi đến ga xe lửa, tôi sẽ được một thầy hay một sư cô Làng Mai với màu áo nâu quen thuộc ra đón. Nhưng rốt cuộc thì người đón tôi lại là một phụ nữ Paris với đầu húi cua, mái trước thì để theo kiểu bờm ngựa, nhuộm đỏ hoe, lại còn xỏ khuyên tai ở mũi. Chúng tôi cùng khiêng vali bỏ vào xe và trò chuyện với nhau lỏm bỏm bằng tiếng Anh và tiếng Pháp trong khi cô lái xe chạy vùn vụt qua những  con đường miền quê đang tắm mình trong ánh nắng dịu nhẹ của buổi chiều tà. Chúng tôi đi ngang qua những cánh đồng mận, những ngôi nhà bằng đá với những ô cửa sổ được làm theo kiến trúc cổ của Pháp và những hàng nho trồng thẳng tắp. Nhưng điều làm cho tôi thoát khỏi cơn mệt mỏi sau một một chặng đường dài với hai chuyến bay và ba chuyến xe lửa chính là những cánh đồng hoa hướng dương. Những cánh hoa vàng tươi với nhụy màu nâu thẫm nổi bật giữa một màu xanh ngát của cành lá là hình ảnh mà tôi thường thấy trong những sách báo nói về Làng Mai. Tôi biết là tôi đã tới, cuối cùng thì tôi cũng đã đến được Làng Mai.

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh gọi Làng Mai là “xứ sở của giây phút hiện tại”. Nằm ở miền Nam nước Pháp, đây là nơi cư trú của trên dưới hai trăm vị xuất sĩ, ngoài ra hàng năm nơi đây còn đón tiếp vài ngàn thiền sinh từ khắp nơi trên thế giới đến tu học. Trong ba mươi năm qua, các thầy, các sư cô Làng Mai cùng các bạn thiền sinh luôn thực tập những lời dạy của Thầy Nhất Hạnh về xây dựng tăng thân – những cộng đồng tu học và xây dựng một xã hội tỉnh thức. Nhưng làm thế nào mà các thầy, các sư cô Làng Mai có thể sống đúng với những lời dạy đó trong đời sống hàng ngày, trong từng hơi thở? Và, quan trọng hơn hết, các thầy, các sư cô ở đây đã tìm ra được những công cụ, những phương pháp gì mà tất cả chúng ta có thể sử dụng được để chuyển hóa tự thân, cho dù chúng ta đang ở bất cứ nơi đâu? Trong chuyến hành hương về Làng Mai lần này, đây là những câu hỏi mà tôi muốn tìm ra lời giải đáp.

    Theo Thiền sư Thích Nhất Hạnh, hay còn được gọi là Thầy – cách gọi thương kính mà các đệ tử dành cho Ngài, cốt lõi của những gì Thầy dạy nằm trong hai điều: thứ nhất, làm thế nào để có thể đối diện và ôm ấp – mà không phải là khỏa lấp hay che giấu – những cảm xúc mạnh và khổ đau của chính mình, và thứ hai, làm thế nào để có thể mang lại niềm vui và hạnh phúc cho chính mình. “Bạn có thể có hạnh phúc liền ngay bây giờ và ở đây mà không cần phải chạy đi tìm hạnh phúc ở một nơi nào khác”, Thầy dạy tôi.

    “Chánh niệm là một loại năng lượng mà ta có thể chế tác ra được”, Thầy nói tiếp. “Đó là năng lượng giúp đem tâm trở về với thân, để cho ta có thể sống đời sống của mình một cách sâu sắc hơn. Năng lượng chánh niệm cho phép ta ý thức được những gì đang xảy ra đối với cơ thể, cảm thọ, tri giác của mình – tức là biết được những gì đang xảy ra bên trong và xung quanh ta. Khi ta uống trà trong chánh niệm thì ta phải thật sự có mặt. Ta tiếp xúc với ly trà và thực sự có mặt bây giờ và ở đây. Nhưng nếu ta đang bị chiếm ngự bởi lo lắng, hay suy nghĩ miên man về quá khứ hoặc tương lai thì ly trà sẽ không thật sự có mặt. Khi đó sẽ không có sự sống đích thực, mọi thứ xảy ra chỉ như một giấc mơ.”

    Khi có chánh niệm, Thầy nói, “ta có thể tiếp xúc được với tự tính tương tức của vạn vật. Và một khi ta có được tuệ giác đó rồi thì mọi sự phân biệt, kỳ thị và sợ hãi sẽ tan biến. Ta sẽ ý thức rằng hạnh phúc của ta cũng là hạnh phúc của mọi người và khổ đau của mọi người cũng chính là khổ đau của chính ta. Vạn vật đều tương tức trong nhau.”

    Buổi sáng đầu tiên ở Làng, tôi tỉnh giấc khi nghe tiếng chuông báo hiệu đã đến giờ thức dậy chuẩn bị cho buổi ngồi thiền. Ngoài trời lúc đó vẫn còn tối. Căn phòng tập thể của tôi ở nhà Đầu Thôn thuộc xóm Mới vốn là một nông trại cũ. Nơi đây dành cho thiền sinh nữ và các gia đình đến thực tập. Tất cả thiền sinh đến Làng tu tập trong khóa tu đều được chia vào các gia đình pháp đàm. Chúng tôi ăn cơm chung, làm việc chung, và hầu như mỗi ngày đều thực tập chia sẻ pháp đàm với nhau. Gia đình pháp đàm của tôi bao gồm tất cả các thiền sinh ở nhà Đầu Thôn. Công việc của chúng tôi trong khóa tu là rửa dọn sau mỗi bữa ăn, vì vậy mà chúng tôi được biết đến với cái tên gia đình Joyful Scrubbers (Những người chà nồi vui vẻ).

    Gia đình “những người chà nồi vui vẻ”

    Phụ trách gia đình pháp đàm của chúng tôi là Sư cô Từ Nghiêm. Sư cô đã từng làm y tá 20 năm trước khi sư cô xuất gia năm 1991. “Thầy đã tạo dựng nên Làng Mai với ước mong là chúng tôi sẽ cùng chung sống và liên hệ với nhau như một gia đình”, sư cô Từ Nghiêm chia sẻ với tôi. “Ở đây chúng tôi cũng có sư anh, sư chị, sư em. Tăng thân là nơi nương tựa, là ngôi nhà thân thương và là nguồn sức mạnh nuôi lớn chúng tôi trong suốt đời tu của mình. Ngay cả khi có xung khắc hay mâu thuẫn nhỏ giữa hai người trong tăng thân thì bao giờ cũng có những người khác trong Tăng thân ôm ấp và giúp hai người đó hòa giải với nhau. Đó là lợi lạc của việc tu tập chung trong tăng thân.”

    Trong một tuần ở Làng, ngay bài pháp thoại đầu tiên tôi được nghe, Thầy đã dạy rất sâu sắc về tầm quan trọng của tăng thân. “Thực tập một mình, như một cá nhân cũng có thể được,” Thầy nói. “Nhưng mình có thể đánh mất sự thực tập trong vòng vài tháng vì mình không có tăng thân để hướng dẫn, bảo hộ và nâng đỡ cho mình. Đó là lý do vì sao một hành giả giỏi là người luôn tìm cách xây dựng tăng thân ở địa phương nơi mình cư trú. Ngay cả Bụt cũng vẫn cần đến tăng thân.”

    Nếu chúng ta chỉ là những giọt nước riêng lẻ thì chúng ta sẽ bị bốc hơi trên đường ra đại dương. Để đến được đại dương, ta cần đi như một dòng sông, như một tăng thân. “Hãy đi như một dòng sông,” Thầy nói.  “và để cho dòng sông ôm ấp mình. Nếu mình để cho năng lượng tập thể của tăng thân đi vào trái tim mình và giúp ôm lấy nỗi khổ, niềm đau trong lòng mình thì chỉ trong vài phút là mình bớt khổ liền.”

    Cuộc phỏng vấn của tôi với Thầy diễn ra vào Ngày Không Sử Dụng Xe Hơi – mỗi tuần ở Làng Mai đều có một ngày mà tất cả mọi người đều không sử dụng xe hơi nhằm giảm thiểu lượng khí thải carbon gây hiệu ứng nhà kính. Trong một căn phòng nhỏ, đơn sơ, Thầy nằm buông thư trên một cái võng màu xanh lá cây, trên tay là một ly trà ô long. Thầy vừa thưởng thức trà vừa nhấm nháp một chút mứt gừng. Ngồi quanh Thầy còn có nhiều sư cô, trong đó có một sư cô trẻ người In-đô-nê-xi-a mà Thầy giới thiệu là thị giả của Thầy. Rồi Thầy bảo sư cô hát một bài hát thiếu nhi tiếng Indo, mà nếu tôi hiểu đúng, thì đó là câu chuyện cổ tích về một con vẹt.

    Tôi vặn máy thu âm. “Chúng ta có thể bắt đầu được không thưa Thầy?” Tôi hỏi.

    “Bắt đầu cái gì?” Thầy đùa. “Ngồi chơi trên võng hả?” Đó là một lời nhắc nhở thật nhẹ nhàng, bởi vì tôi hơi căng thẳng khi được gặp một nhân vật quan trọng và đặc biệt như Thầy, trong khi đó thì Thầy lại không hề làm ra vẻ quan trọng về mình tí nào. Dù đã từng được đề cử giải Nobel Hòa Bình bởi Mục sư Martin Luther King và là tác giả của hơn 100 đầu sách, cũng như đạt được nhiều thành tựu đáng kể, Thầy vẫn mặc bộ đồ màu nâu bình dị như tất cả các vị xuất gia trong truyền thống của Thầy, bởi vì đó là màu áo mà người nông dân Việt Nam – quê hương Thầy – vẫn thường mặc. Thầy là người của muôn người.

    Thầy là người của muôn người

    Bất chợt có tiếng chuông từ đâu đó vang lên. Thầy nói: “Tôi đang có chánh niệm về tiếng chuông. Trong khi nghe chuông, tôi không suy nghĩ. Tôi tập trung tâm ý vào hơi thở và vào tiếng chuông. Khi có chánh niệm về một cái gì, ta tập trung tâm ý vào nó, và sức mạnh của sự định tâm sẽ giúp ta nhìn rõ bản chất thật sự của mọi việc, mọi vật và ta sẽ khám phá ra được tính tương tức của vạn pháp.”

    Thầy được nhiều người biết đến với việc sáng tạo ra từ “Inter-being” trong tiếng Anh, dùng để chỉ tính chất tương tức của vạn vật. Trong nhiều năm  qua, Thầy đã thường xuyên sử dụng hình ảnh của một bông hoa để giảng về giáo lý tương tức. Nếu có chánh niệm và có định lực thì khi nhìn vào một bông hoa như hoa hướng dương, phong lan hay một bông sen, ta sẽ thấy hoa được làm bởi vô vàn những yếu tố không phải là hoa. Bông hoa không chỉ được làm nên từ mưa, mà còn từ những đám mây tạo nên cơn mưa đó. Hoa không chỉ được làm nên từ đất mà còn từ những cây cỏ, cầm thú đã bị phân hủy và làm giàu cho đất. Nếu ta lấy đi hết tất cả những yếu tố không phải là hoa ra khỏi bông hoa, thì bông hoa sẽ không còn tồn tại được nữa. “Do vậy bông hoa không thể nào tồn tại biệt lập,” Thầy nói. “Nó phải tương tức với tất cả mọi thứ khác trong vũ trụ.” Điều này cũng đúng với con người. “Một con người được làm bằng những yếu tố không phải con người, và nếu ta lấy đi hết những yếu tố không phải con người thì con người đó không thể nào tồn tại được nữa. Vì vậy con người không thể tồn tại một mình mà phải  tương tức với vạn vật trong vũ trụ.”

    Theo Thầy thì tuệ giác tương tức chính là chìa khóa của hạnh phúc. “Khổ đau và hạnh phúc tương tức với nhau.“ Thầy nói. “Nếu ta hiểu một cách sâu sắc về khổ đau thì ta sẽ biết cách sử dụng nó để tạo nên hạnh phúc. Ta đã biết là hạnh phúc được làm bằng những yếu tố không phải là hạnh phúc, và một trong những yếu tố đó chính là khổ đau. Vì vậy khổ đau đóng một vai trò quan trọng để làm nên hạnh phúc.

    “Cũng giống như hoa sen và bùn vậy. Không có bùn thì ta không thể nào trồng được sen. Nếu không có bùn của khổ đau, ta không thể nào chế tác được hạnh phúc. Đó là lý do tại sao nếu ta tiếp xúc được với tự tính tương tức, ta sẽ không cần tìm cách chạy trốn khổ đau nữa. Thay vào đó, ta sẽ ôm ấp khổ đau của mình. Ta sẽ nhìn sâu vào khổ đau để hiểu được bản chất của nó và học cách sử dụng khổ đau để làm nên hạnh phúc.”

    “Những ai đã đi qua chiến tranh,” Thầy nói tiếp, “sẽ biết trân quý không khí hòa bình mà họ đang được hưởng bây giờ và ở đây. Nhiều người trong chúng ta phải đợi cho đến khi có chiến tranh xảy ra mới biết hòa bình quý như thế nào. Tuy nhiên, đối với những người này, sau khi đi qua những khổ đau do chiến tranh gây ra thì họ sẽ rất trân quý sự yên bình mà họ có được. ” Tương tự như vậy, khi một người đang khỏe mạnh, anh ta có thể không trân quý sức khỏe của mình. Đến khi bị bệnh, anh ta mới ân hận là mình đã không biết quý và sống cho hạnh phúc khi còn khỏe mạnh, rồi đến khi lành bệnh, anh ta mới thật sự trân quý sức khỏe của mình. “Ta có thể thấy đau khổ và hạnh phúc tương tức với nhau. Cũng giống như bên trái và bên phải, phía trên và phía dưới, như bùn và sen. Cái thấy về tương tức sẽ lấy đi tất cả những kỳ thị – những tư duy lưỡng nguyên, phân biệt – và mang lại sự hòa ái, hiểu biết và bình an. Thực tập chánh niệm có khả năng mang lại cho ta tuệ giác tương tức.”

    Nhằm đưa ra những phương pháp thực tập chánh niệm cụ thể trong đời sống hằng ngày, Thầy Thích Nhất Hạnh đã làm mới lại Năm giới truyền thống và làm biểu hiện được một cách cụ thể giáo lý Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo trong Năm giới, còn được gọi là Năm phép thực tập chánh niệm. Năm giới gồm có: 1. Bảo vệ sự sống; 2. Hạnh phúc chân thật; 3. Tình thương đích thực; 4. Ái ngữ và lắng nghe; 5. Nuôi dưỡng và trị liệu. “Năm giới dựa trên tuệ giác tương tức,” Thầy chia sẻ. “Tuệ giác tương tức là nền tảng để chúng ta xây dựng một nền đạo đức tốt đẹp hơn. Vì vậy năm giới – biểu hiện cụ thể của tuệ giác tương tức – chính là đạo đức ứng dụng, có thể giúp giảm thiểu khổ đau và đem lại cho chúng ta nhiều hạnh phúc hơn.”

    Trong cuốn sách Good Citizens (tạm dịch là “Người công dân tốt”), Thầy viết “Năm phép thực tập chánh niệm không dựa trên một tôn giáo hoặc một chủ thuyết nào. Ai trong chúng ta cũng có thể sử dụng năm phép thực tập này để làm nền tảng đạo đức cho cuộc đời mình mà không cần phải là Phật tử hoặc theo một đức tin hoặc một truyền thống tâm linh nào hết. Bạn vẫn là chính bạn thôi, chỉ khác là bạn đang cố gắng để sống đẹp hơn bằng cách thực hành theo những điều chỉ dẫn đó. Thực tập theo năm giới sẽ mang lại sự trị liệu, chuyển hóa, và hạnh phúc cho chính bản thân và cho cả thế giới.”

    1. Bảo vệ sự sống

    Trong thời gian tham dự khóa tu ở Làng Mai, tôi thường ăn cơm chung với gia đình pháp đàm dưới một gốc cây, cạnh đó có treo một chiếc xích đu nhỏ. Gia đình chúng tôi có khoảng hơn 20 người. Bữa ăn chỉ bắt đầu khi tất cả mọi người đều đã ngồi vào bàn, và chúng tôi dành vài phút quán chiếu về thức ăn – tặng phẩm của đất trời, của những người nông dân, những người đóng gói thực phẩm, những nhà phân phối, và những người đã nấu bữa ăn này cho chúng tôi. Sau một tiếng chuông, chúng tôi bắt đầu ăn muỗng đầu tiên trong yên lặng. Để có thể hoàn toàn có mặt và nuôi dưỡng lòng biết ơn đối với thức ăn mà mình thọ nhận, trong khi ăn chúng tôi không nói chuyện, chỉ thỉnh thoảng nghe tiếng muỗng nĩa va vào nhau mà thôi.

    Nhiều thiền sinh chia sẻ là ban đầu, họ cảm thấy không thoải mái khi ăn trong im lặng. Nhưng với tôi thì lại khác, tôi thấy khỏe liền lập tức. Thường thì tôi vừa ăn vừa xem TV hoặc vừa ăn vừa đọc sách hay nói chuyện. Tôi thường nghĩ rằng vừa ăn vừa làm một cái gì đó sẽ giúp tôi thư giãn hơn. Có thể là cũng có một chút thư giãn, nhưng không thể nào so sánh được với một bữa ăn trong im lặng cùng với gia đình pháp đàm được. Trong không khí yên lặng, tôi có thể hoàn toàn để tâm thưởng thức từng hương vị cũng như thành phần làm nên món ăn.

    Tặng phẩm của đất trời

    Những bát súp bốc khói với nước súp trong, những sợi bún thơm ngon tinh khiết hòa với vị ngọt của nấm dai; bánh ngọt được làm từ vụn bánh mì baguette, trộn với chuối và sô cô la đen; xà lách trộn với mì ống cùng với những trái ô liu đen mặn mà. Tất cả thức ăn ở Làng Mai đều là thức ăn chay, theo đúng tinh thần của giới thứ nhất là bảo vệ sự sống. Cũng giống như nhiều thiền sinh đến Làng, khi để tâm vào những thức mà mình ăn, tôi không còn muốn ăn thịt nữa – bởi vì tôi ý thức rằng khi ăn thịt động vật thì tôi cũng đang ăn cả những khổ đau của chúng khi bị giết để lấy thịt.

    Sư cô Châu Nghiêm, người lớn lên ở Chicago (Mỹ) và Narobi (Châu Phi) chia sẻ với tôi về những vi tế trong sự thực tập tôn trọng sự sống. “Chúng ta tương tức với tất cả mọi người và mọi loài, do vậy nếu ta làm hại đến bất cứ ai, bất cứ loài nào thì cũng có nghĩa là ta đang làm hại chính ta,” sư cô nói. “Nếu mình có một cái thấy sâu sắc như vậy thì mình không thể không thực tập tôn trọng sự sống dưới bất kỳ hình thức nào.”

    Tăng thân Làng Mai luôn tận dụng mọi cơ hội hướng dẫn mọi người thực tập để mang lại sự hòa giải, bình an, và bất bạo động, trong đó phải kể đến việc tổ chức khóa tu cho người Palestine và người Israel. Ban đầu, người Palestine và người Israel thực tập theo hai nhóm riêng, họ được học cách buông thư và tiếp xúc với các cảm thọ, với nỗi khổ niềm đau trong mình. Và rồi sau một tuần lễ được sống trong môi trường an ninh, bình an và đầy tình thương ở Làng Mai, những người Palestine và Israel đã đến với nhau để cùng chia sẻ. Và qua những buổi chia sẻ này, họ nhận ra rằng những người trong nhóm kia cũng có nhiều đau khổ không kém gì họ. Trước đó, theo sư cô Châu Nghiêm, “họ nhìn nhau như kẻ thù, nhưng sau khi nói chuyện và lắng nghe nhau, họ thấy là họ có rất nhiều điểm tương đồng.” Sau khi tham dự khóa tu ở Làng Mai, rất nhiều người Israel và Palestine đã phát nguyện phụng sự cho sự nghiệp hòa bình và hòa giải giữa hai dân tộc.

    “Chúng tôi chú trọng đến việc sống chung trong một tăng thân bởi vì nếu bạn có một nền tảng vững chắc như vậy trong cuộc sống thì bạn sẽ là người giúp mang lại hòa bình cho thế giới,” Sư cô Châu Nghiêm nói. “Bạn sẽ là người không hề đóng góp chút bạo động nào vào cuộc sống mà là một người bảo vệ sự sống. Bảo vệ sự sống, thương yêu sự sống phải bắt đầu bằng việc thương yêu sự sống của chính bạn và không kỳ thị những niềm đau, nỗi khổ của chính mình. Khi bạn không kỳ thị những cái chưa đẹp hoặc những nỗi đau của chính mình thì bạn cũng đồng thời học cách không kỳ thị những người mà bạn nghĩ là họ không tốt, không tử tế. Sự phân biệt, kỳ thị chính là nguyên nhân gốc rễ đưa đến hành động tàn phá, hủy diệt sự sống. Khi bạn nghĩ là có một cái gì đó không ổn đang xảy ra và bạn tin là “Đây là mình và  đó không phải là mình”, thì chính cái nhìn kỳ thị đó là gốc rễ dẫn đến sự giết chóc và tàn phá.” Sư cô Châu Nghiêm chia sẻ rằng ở Làng Mai, “chúng tôi tiếp xúc được với gốc rễ của tâm phân biệt và kỳ thị nhờ vào tuệ giác tương tức.”

    2. Hạnh phúc chân thật

    “Hạnh phúc chân thật không phải làm bằng danh vọng, quyền hành, của cải hoặc sắc dục mà được làm bằng hiểu và thương,” Thầy Nhất Hạnh chia sẻ trong cuộc phỏng vấn. “Khả năng sống trong giây phút hiện tại, bây giờ và ở đây, cho phép chúng ta nhận ra rằng chúng ta đã có tất cả những điều kiện cần thiết để có hạnh phúc. Ta không cần phải đi tìm kiếm hạnh phúc trong tương lai.”

    Ở Làng Mai không có một thầy hay sư cô nào có tài khoản riêng trong ngân hàng, cũng không có xe hơi hoặc máy tính riêng. Thậm chí không ai có địa chỉ email riêng. Sư cô Bạch chia sẻ, “đối với một người tu thì không có gì là riêng tư cả – chúng tôi cùng chia sẻ với nhau tất cả mọi thứ,  từ chỗ ở cho đến ý kiến của mình. Chúng tôi sống trong những căn phòng tập thể gồm có ba, bốn hoặc năm người. Mùa đông năm ngoái tôi ở trong một phòng đông nhất, có đến 7 sư cô.”

    Mặc dù cuộc sống không đầy đủ tiện nghi như ở ngoài đời nhưng không phải vì vậy mà mọi người ở đây cảm thấy khổ đau. Phỏng vấn sư cô Bạch Nghiêm ở quán sách của Xóm Mới, chưa cần đặt câu hỏi thì tôi cũng biết là sư cô đang có nhiều hạnh phúc, điều này hiện rõ qua nụ cười tươi luôn nở trên khuôn mặt của sư cô. Là con út lớn lên trong một gia đình có bảy người con, dường như sư cô đã quen với cuộc sống tập thể và đó là điều mà sư cô rất trân quý.

    “Hiện giờ tôi đang ở chung phòng với hai sư cô nữa,” sư cô Bạch Nghiêm nói. “Tôi chăm sóc cho một sư cô thứ hai trong phòng, và sư cô này chăm sóc cho sư cô thứ ba còn lại, rồi sư cô thứ ba này chăm sóc cho tôi. Đó gọi là vòng đệ nhị thân. Chúng tôi chăm sóc lẫn nhau không chỉ về sức khỏe vật chất mà còn về tinh thần và sự thực tập nữa. Đó là cái hay của việc sống chung trong tăng thân. Chúng tôi có cơ hội để xây dựng tình huynh đệ.”

    Tôi cứ ngẫm nghĩ hoài về những lời chia sẻ này. Có vẻ đây là một sự thực tập rất hay, nhưng sao tôi vẫn bị kẹt một chuyện, đó là mọi thứ có thể chung, nhưng ít nhất thì cũng có thể có email riêng chứ.

    Sư cô Bạch Nghiêm cười. “Không có email riêng hoặc không có tài khoản riêng cũng hay lắm,“ sư cô nói. “Hay là vì mình bớt được một mối lo.”

    3. Tình thương đích thực

    Vào ngày làm biếng –  ngày không có bất kỳ thời khóa chính thức nào, tôi được tham dự một lễ cưới tại Làng Mai. Lễ cưới bắt đầu bằng thiền hành. Quý sư cô đi trước, mặc áo tràng nâu và đội nón lá, theo sau là cô dâu chú rể, và cuối cùng là các khách mời. Một cách chậm rãi và tĩnh lặng, chúng tôi đi theo con đường dẫn ra tháp chuông của xóm Mới với chiếc mái cong cong, một bên là khóm tre xanh ngát, rồi vòng qua hồ sen trước khi vào thiền đường Trăng Rằm. Khi vào thiền đường, cô dâu chú rể ngồi trên bồ đoàn và tọa cụ màu tím trước bàn thờ Bụt – cô dâu trong chiếc váy cưới trắng tinh, còn chú rể thì mặc đồ vest.

    Cô dâu Raphaelle và chú rể Ian

    Hai người đã chung sống với nhau bảy năm trước khi cưới, những lời nguyện ước mà họ trao cho nhau trong lễ cưới đã thể hiện sự gần gũi và gắn bó giữa hai người. Chú rể Ian cám ơn cô dâu Raphaelle đã giới thiệu cho anh đến với Làng Mai và mang lại cho cuộc đời anh rất nhiều điều tốt đẹp. Anh nói rằng nếu không có sự yểm trợ của cô thì không thể nào anh có thể làm được album nhạc đầu tiên của mình. Anh hứa là sẽ tưới tẩm những hạt giống tốt của cô bằng cách khen ngợi cô với những lời mà cô xứng đáng được nhận, và anh sẽ chia sẻ những công việc trong nhà. Đến lượt Raphaelle, cô bày tỏ lòng tri ân đối với những gì Ian đã làm cho cô, nhất là khi cô cảm thấy không tự tin hoặc bất an. “Anh thực tập rất giỏi,” cô nói. “Em biết là anh sẽ nhắc em trở về với hơi thở khi em cần lắng dịu lại, và em sẽ yểm trợ anh khi anh bị căng thẳng bằng cách cho anh không gian để trở về với giây phút hiện tại.”

    Tình thương đích thực – giới thứ ba trong năm giới là về sự cam kết sâu sắc và lâu dài với người bạn đời của mình, đó là điều mà Ian và Raphaelle đã phát nguyện. Đây không phải là những luật lệ cấm đoán về chuyện quan hệ tình dục ngoài hôn nhân, cũng không phải sự liệt kê những hành động tình dục được coi là đúng đắn, mà cũng không phải là một sự phán xét về việc quan hệ với người khác phái hay quan hệ đồng tính. Thay vào đó, phép thực tập chánh niệm này nhấn mạnh đến yếu tố cần thiết để có thể đi đến quan hệ tình dục, đó là sự cam kết lâu dài và nghiêm túc của cả hai phía và sự cam kết này phải được cả gia đình và bạn bè biết đến.

    Trong thời gian ở Làng Mai tôi có nói chuyện với anh Will Stephens – anh đã cùng với gia đình đến Làng tham dự khóa tu mùa hè trong nhiều năm qua. Stephen nói: “Qua sự thực tập này, tôi bắt đầu biết được như thế nào là tình thương đích thực.” Anh giải thích: “ Nó không phải là chuyện Tôi thương em vì em đáp ứng được nhu cầu của tôi. Mà nó là việc làm cho người mình thương được tự do và hạnh phúc. Tôi nghĩ là tôi sẽ không thể chung sống với vợ tôi cho đến ngày hôm nay nếu không có sự thực tập này. Tôi sẽ không có được sự sáng suốt để thấy rằng vấn đề không phải từ vợ tôi, mà chính tôi mới là người có vấn đề.”

    Stephen nói rằng từ những năm 1960 đến nay, chúng ta sống trong một thế giới mà người ta khó có thể chấp nhận sự thực tập về tình thương đích thực bởi vì ai cũng muốn có quan hệ tình dục mà không bị ràng buộc bởi một cam kết lâu dài. “Nhưng theo kinh nghiệm của tôi thì chính tôi và người kia sẽ bị tổn thương nếu như quan hệ giữa hai người quá thân mật mà lại không  có sự cam kết lâu dài. Đó là một sự xâm phạm gây tổn hại tâm lý cho chính mình và cho người kia.”

    “Tôi cũng đã từng trải qua chuyện quan hệ tình dục ngoài hôn nhân,” Stephens thú nhận, “và nó đã gây ra bao khổ đau cho tôi, cho vợ tôi và cả cho người kia nữa.” Một điều rất quan trọng mà ta cần ghi nhớ đó là: tình dục không phải là tình yêu, và đôi khi ham muốn tình dục thực sự có gốc rễ từ một nhu yếu sâu sắc là được kết nối, được gắn kết với một ai đó hoặc muốn khẳng định sự tồn tại của một cái ngã. “Đối với tôi,” Stephens nói, “ham muốn tình dục thường có nguyên nhân là sự cô đơn, cho nên khi quan hệ vợ chồng của chúng tôi không vững chắc thì nỗi cô đơn trong tôi thường trở nên mạnh hơn.” Nhưng, theo giới thứ ba thì, “Những hoạt động tình dục phát xuất từ sự ham muốn luôn luôn làm hại bản thân và người khác.” Nó chỉ có thể là một tấm băng dán tạm thời để băng bó vết thương của sự cô đơn mà thôi.

    Để sống với tình thương đích thực không dễ tí nào, Stephens công nhận. “Mình phải để tâm và bỏ nhiều công sức với nó.” Chìa khóa thật sự là ở chỗ “mình chỉ cần để hết tâm sức nuôi dưỡng tình thương đích thực đối với người bạn đời của mình, khi đó thì vấn đề chung thủy trong quan hệ tình dục sẽ trở thành một điều hết sức tự nhiên mà không cần phải cố gắng.” Dạo này Stephens và bạn đời của anh thường xuyên dành thì giờ để chăm sóc và trân quý nhau, chia sẻ với nhau những niềm đau hay những khó khăn mà họ đang đi qua. Giờ đây quan hệ giữa hai vợ chồng luôn có nhiều thương yêu, và vì vậy mà sự thủy chung có mặt.

    Lễ cưới hôm đó ở Làng Mai được kết thúc bằng thiền ôm – thay vì một nụ hôn, cô dâu chú rể đã đánh dấu hôn ước của mình bằng một cái ôm tròn đầy. Họ bước ra khỏi thiền đường với một nụ cười rạng ngời hạnh phúc. Những cánh hoa được tung lên trời để chúc mừng hạnh phúc của họ.

    4. Ái ngữ và lắng nghe

    Sư cô Chân Không đã làm việc bên Thầy hơn năm mươi năm qua và được công nhận là một người có đóng góp rất lớn vào sự phát triển của Làng Mai. Sư cô cũng đồng thời là một giáo thọ tài năng. Trong thời gian tôi tham dự khóa tu, vào một buổi chiều, sư cô đến Xóm Mới để dạy về một phương pháp thực tập có tên gọi là Làm Mới. Đó là phương pháp thực tập có tác dụng hỗ trợ cho sự thực tập giới thứ tư về ái ngữ và lắng nghe.

    Phương pháp Làm Mới giúp chúng ta nhìn sâu và trung thực về bản thân, đồng thời giúp cải thiện quan hệ giữa ta và mọi người thông qua sự thực tập ái ngữ và lắng nghe. Làm Mới gồm có bốn bước. Bước thứ nhất là nói lên những điều mà bạn trân quý nơi người kia, hay còn gọi là “tưới tẩm những hạt giống tốt” nơi người đó. Điều này có nghĩa là khi bạn chú ý đến những phẩm chất tích cực của người kia thì cũng đồng thời giúp cho những phẩm chất này lớn mạnh hơn. Bước thứ hai là thừa nhận những hành động còn vụng về của bạn trong liên hệ với người đó. Trong việc này, sự thực tập chánh niệm có thể giúp bạn vì nó sẽ rèn cho bạn càng ngày càng ý thức hơn về những hành động của mình. Tiếp theo, bước thứ ba là chia sẻ những niềm đau, những tổn thương mà bạn nghĩ rằng do người kia gây ra. Điều vô cùng quan trọng ở đây là bạn cần chia sẻ một cách nhẹ nhàng, khéo léo và không đổ lỗi cho người kia – nói như thế nào mà người kia không cảm giác là bạn đang chỉ trích họ, mà thay vào đó bạn chỉ muốn họ mở lòng ra để giải thích về những hành động mà đã làm cho bạn tổn thương. Cuối cùng, bước thứ tư là chia sẻ bất cứ khó khăn nào mà bạn đang trải qua và xin người đó giúp đỡ bạn. Sau đó, người nói và người nghe có thể đổi vai cho nhau.

    Ở Làng Mai, tăng thân xuất sĩ thực tập hai bước đầu của pháp môn làm mới hai tuần một lần và thực tập cả bốn bước trong những nhóm nhỏ, hoặc hai người làm mới riêng với nhau khi có nhu cầu. Sư cô Chân Không khuyến khích các bạn thiền sinh thực tập Làm Mới trong gia đình của mình. Bạn có thể thực tập ngay cả khi người mình muốn làm mới chưa từng biết đến pháp môn này. Bạn có thể khéo léo thực tập theo các bước đã nêu trên mà không bị kẹt vào hình thức, và không cần mong đợi là người đó sẽ tiếp nhận liền. Theo sư cô Chân Không thì với thời gian thái độ của người kia đối với bạn sẽ thay đổi theo chiều hướng tốt hơn.

    Như sư cô đã chia sẻ với một nhóm các bạn thiền sinh trong khóa tu ở Xóm Mới, “khi các bạn nhìn tôi, các bạn có một cái tưởng, một tri giác về sư cô Chân Không, nhưng cái tri giác đó của bạn chỉ có khoảng chừng 5 hoặc 10 phần trăm là gần với sự thật. Điều này cũng xảy ra tương tự khi bạn nhìn người mà bạn đang yêu hoặc người mà bạn ghét.” Tri giác của chúng ta không toàn hảo, vì vậy để hiểu thêm về người khác, chúng ta cần truyền thông nhiều hơn với họ.

    5. Nuôi dưỡng và trị liệu

    Hôm nay cây dâu gần vườn Bụt xóm Mới – nơi có ba tượng Bụt đang ngồi – trở nên rực rỡ với những mảnh giấy đủ màu được cắt thành hình trái tim, bông hoa hay hình cây nến đính trên các cành cây. Lục trong balô của mình, tôi tìm một mẩu giấy nhỏ màu xanh lá cây và viết lên đó tên của những người thân đã khuất  – ông bà, cha, chú và dì của tôi. Rồi tôi dán mảnh giấy đó lên một nhánh cây. Ngày hôm nay, ở Làng Mai có lễ giỗ tổ tiên để tưởng nhớ đến ông bà tổ tiên của mình và ý thức rằng chúng ta là sự tiếp nối của liệt vị. Sau buổi lễ, chúng tôi ăn trưa ngoài trời với bánh ngọt và có cả màn múa lân đẹp mắt với những con lân chớp chớp mắt, ngúc ngoắc đuôi, và nhảy nhót theo nhịp trống dồn. Chỉ một thứ duy nhất không có trong lễ giỗ tổ tiên này, đó là rượu.

    Mặc dù tôi có thể uống rượu một cách chừng mực mà không bị tổn hại gì nhiều cho bản thân ngoài chuyện bị choáng váng nhức đầu vào ngày hôm sau, nhưng đối với nhiều người thì chuyện đó là không thể. Đối với con cái, bạn bè và đồng nghiệp của mình, tôi không thể nào biết được cấu trúc gen di truyền hay nhìn thấu những ngõ ngách ẩn chứa những yếu đuối trong thân tâm của họ. Nói một cách ngắn gọn, tôi không thể biết hết được những tác hại mà rượu có thể gây ra đối với họ trong tương lai. Nhưng thông qua hành động uống cùng họ và trước mặt họ, tôi đã vô tình khuyến khích họ uống rượu. Vì vậy, ở Làng Mai mọi người đều ý thức rằng việc không sử dụng các sản phẩm độc (như rượu, các thức gây nghiện, v.v.) không chỉ vì lợi ích cho chính bản thân chúng ta, mà còn vì lợi ích của mọi người.

    Trong cuộc phỏng vấn với sư cô Châu Nghiêm, sư cô đã chia sẻ với tôi những điều Bụt dạy về bốn loại thức ăn (tứ thực) – những lời dạy này đã được thể hiện bằng giới thứ năm. Ngoài các loại thức ăn, thức uống mà chúng ta đưa vào cơ thể bằng đường miệng (còn gọi là đoàn thực), chúng ta còn tiêu thụ các loại thức ăn khác như: xúc thực, tư niệm thực và thức thực. Xúc thực bao gồm những thức ăn được đưa vào cơ thể qua mắt và tai – chẳng hạn như các hình ảnh quảng cáo, phim ảnh, sách báo và ngay cả chuyện trò.

    Còn tư niệm thực là những điều thôi thúc chúng ta trong cuộc sống, đó là ước mơ, là khát vọng của chúng ta. “Nếu bạn muốn trở thành nổi tiếng hoặc làm ra thật nhiều tiền, ước muốn đó được coi là một loại tư niệm thực,” Sư cô Châu Nghiêm giải thích. “Nó đem lại cho bạn thật nhiều năng lượng, bạn có thể thức khuya và xả thân mình cho mục đích đó. Nhưng bạn cũng có thể có ước mơ làm vơi bớt khổ đau của mọi người, đó cũng là một loại tư niệm thực, và nó cũng có thể đem lại cho bạn rất nhiều năng lượng.”

    Sau hết là thức thực, đây là loại thức ăn mà lúc nào mình cũng “ăn”. Theo sư cô Châu Nghiêm, “nó đến từ tâm thức của chính cá nhân mình, những suy nghĩ, những ký ức của mình, và ngoài ra còn đến từ tâm thức cộng đồng. Nếu chúng ta ở cạnh những người có nhiều sợ hãi và giận dữ, chúng ta sẽ ăn thức ăn của tâm thức cộng đồng là sợ hãi và giận dữ. Nhưng nếu ta ở cạnh những người có bình an, thì năng lượng bình an đó chính là một loại thức ăn.”

    Ở Làng Mai, các thầy, các sư cô cũng như các bạn thiền sinh đến Làng tu tập đều cố gắng thực tập tiêu thụ bốn loại thức ăn này trong chánh niệm. Về đoàn thực, sư cô Châu Nghiêm nói, “chúng tôi chỉ lấy thức ăn vừa đủ mà thôi, và chúng tôi luôn biết ơn là mình có đủ thức ăn để nuôi sống mình và cho phép mình tiếp tục tu tập.” Còn về xúc thực, “chúng tôi không xem truyền hình hoặc nghe radio hay đọc báo. Chúng tôi có thể lên Internet để đọc, nhưng chỉ đọc vừa đủ để biết cái gì đang xảy ra trên thế giới. Chúng tôi không tiêu thụ tin tức một cách thường xuyên bởi vì tin tức không phải là nguồn duy nhất cho ta biết về thực tại. Rất nhiều tin tức chỉ tập trung vào những khía cạnh tiêu cực của cuộc sống, tại vì những cái đó mới ăn khách.” Nếu chúng ta tiêu thụ quá nhiều tin tức và trở nên tuyệt vọng hoặc thờ ơ, dửng dưng thì cái đó không giúp gì được để cải thiện tình hình thế giới.

    Tại Làng Mai, các máy vi tính đều có cài chuông để thỉnh thoảng nhắc mọi người trở về với hơi thở vào và hơi thở ra. “Tiếng chuông chánh niệm là một loại xúc thực có tác dụng giúp ta trở về chăm sóc tự thân và không bị cuốn theo dòng suy nghĩ suốt cả ngày,” Sư cô Châu Nghiêm giải thích. “Suy nghĩ của chúng ta đôi khi không phải là những thức ăn lành mạnh, do vậy dừng lại dòng suy tư và tiếp xúc với những gì đang xảy ra ngay bây giờ và ở đây sẽ giúp nuôi dưỡng chúng ta. Nếu để ý, ta có thể nghe được tiếng gió thổi qua những cành cây và cả tiếng chim hót. Có rất nhiều thứ nuôi dưỡng chúng ta nếu chúng ta có ý thức.” Thức thực ở Làng Mai rất lành mạnh, bởi vì ở đây có khoảng 200 vị xuất sĩ đang thực tập chánh niệm mỗi ngày và họ thực tập như vậy quanh năm. Ngoài ra, trong tuần này còn có cả ngàn thiền sinh đến đây, và khi mà có khoảng một ngàn người cùng đi thiền hành, cùng ăn cơm trong chánh niệm theo gia đình pháp đàm thì tạo ra năng lượng rất hùng hậu, rất trị liệu.”

    “Năm phép thực tập chánh niệm không phải là luật lệ hoặc các điều răn dạy của một đấng tối cao”, Sư cô An Nghiêm chia sẻ – sư cô đã từng làm việc cho thị trưởng của thành phố Washington D.C trước khi xuất gia. Một số người quyết định không thọ năm giới vì họ nghĩ là họ cần phải thực tập các giới này một cách hoàn hảo. “Ai trong chúng ta có thể làm bất cứ cái gì cũng hoàn hảo hết?” Sư cô An Nghiêm hỏi. “Năm phép thực tập chánh niệm là phương hướng để chúng ta đi tới. Cũng giống như ngôi sao Bắc đẩu ở đằng kia, tôi muốn đi về hướng đó. Khi tôi càng đi theo hướng đó và chuyển hóa thì tôi sẽ nhìn thấy con đường càng lúc càng rõ ràng hơn.

    “Chúng ta có thể đi theo nhiều con đường, nhưng cốt lõi nhất – cái đỉnh cao nhất – là niệm, định và tuệ. Một số người có thể thực tập năm giới một cách rất nghiêm túc, một số khác thì thực tập theo một vài khía cạnh  mà thôi. Chìa khóa là ở chỗ dù làm bất kỳ điều gì, bạn cũng cần phải làm trong chánh niệm và tỉnh thức, bởi vì khi bạn càng có ý thức về những hành động của mình, chẳng hạn như ý thức về việc ăn thịt hay uống rượu có ảnh hưởng thế nào tới thân tâm của bạn thì bạn có thể có một quyết định hết sức rõ ràng về chuyện có nên tiếp tục hành động như vậy nữa hay không.”

    Lễ truyền Năm giới

    Vào buổi tối cuối cùng của tôi ở Làng Mai đã diễn ra một buổi lễ truyền năm giới tại thiền đường Trăng Rằm, xóm Mới. Ở trung tâm của thiền đường, hướng về phía bàn thờ Bụt với hoa quả được bày biện khéo léo là chỗ ngồi của các giới tử – những người sẽ nhận năm giới. Tôi cũng vào ngồi với họ trên bồ đoàn và tọa cụ màu tím, dù là tôi đã nhận năm giới hồi năm ngoái. Sư cô An Nghiêm nói đúng, không ai trong chúng ta có thể làm mọi thứ một cách hoàn hảo, nhưng rồi dần dần, qua mỗi hơi thở, mỗi giây phút của đời sống hàng ngày, tất cả chúng ta đều có khả năng sống và thực tập năm giới càng lúc càng trọn vẹn hơn. Năm giới là những hạnh nguyện mà chúng ta có thể luôn luôn làm mới.

    Sau khi tham dự lễ truyền giới, tôi ra khỏi thiền đường với gia đình pháp đàm của mình. Trên đường trở về nhà Đầu Thôn một lần cuối trước khi rời Làng, tôi chợt nhận ra rằng trên tay tôi không còn chiếc đồng hồ đeo tay nữa – chiếc đồng hồ mà trên mặt có in thư pháp của Thầy, chữ It’s ở chính giữa, và chữ Now ở vị trí 12, 3, 6 và 9 giờ. Khi nhìn đồng hồ lúc nào mình cũng thấy dòng chữ It’s Now, nghĩa là bây giờ, bây giờ, bây giờ….lúc nào cũng vậy. Tôi quay trở lại nhưng không tìm ra được chiếc đồng hồ, và trong khi mặt trời bắt đầu lặn, tôi cảm thấy buồn vô cùng bởi vì chiếc đồng hồ đó là một chút gì của Làng Mai mà tôi muốn mang về nhà, vậy mà không được nữa rồi. Bỗng nhiên tôi nhớ tới Thầy và cuộc phỏng vấn của tôi với Thầy.

    “Làng Mai không hẳn là một nơi tọa lạc trong không gian và thời gian,” Thầy bảo tôi. “Bạn có thể có nó bất cứ lúc nào và ở đâu. Nếu bạn tới Làng Mai và bạn không biết cách sống trong giây phút hiện tại thì đó không phải là xứ sở của giây phút hiện tại. Nhưng nếu bạn đang ở Mỹ hoặc ở châu Á nhưng bạn an trú trong giây phút hiện tại thì bạn đang ở Làng Mai. Khi bạn bay trở về Mỹ, bạn vẫn có thể có Làng Mai trên máy bay. Bạn không cần tìm tới tương lai, bạn không cần quay về quá khứ. Nếu bạn biết sống những giây phút của đời sống hàng ngày trong niềm vui và sự bình an thì bạn đang ở Làng Mai đó. Bạn đang ở trong xứ sở của giây phút hiện tại.”

    Đạo Phật Làng Mai làm sao hấp dẫn…

    2008 05 14 tăng thân Làng Mai niệm Bồ Tát Quan Thế Âm

    “Đạo Phật Làng Mai làm sao hấp dẫn được một lượng người ngoại quốc đi theo đông đảo như thế?”

    Báo Hồn Việt phỏng vấn Thiền sư Thích Nhất Hạnh
    Nguyễn Đắc Xuân thực hiện

    Đại lễ Phật Đản Liên Hiệp Quốc Vesak 2008 bế mạc, Thiền sư Thích Nhất Hạnh và tăng thân Làng Mai gần 500 người rời Hà Nội, đáp máy bay về Tổ đình Từ Hiếu, Huế nghỉ ngơi vài hôm trước khi vào Hội An để tổ chức sinh hoạt với doanh nhân tại Palm Garden Resort từ ngày 24 đến 25.05.2008, một đại diện của báo Hồn Việt hân hạnh được gặp Thiền sư và được Thiền sư trả lời một số câu hỏi mà độc giả của Hồn Việt đang quan tâm sau đây.

    Nguyễn Đắc Xuân:
    Xin cám ơn Thiền sư đã dành thời gian nghỉ ngơi quý báu này tiếp đại diện báo Hồn Việt của Hội Nhà văn Việt Nam. Để tranh thủ thời gian, kính xin Thiền sư cho chúng tôi được chuyển đến Thiền sư thắc mắc của dân chúng Hà Nội khi đứng xem đoàn tăng thân Làng Mai hàng năm trăm người với nhiều quốc tịch khác nhau thanh thản tiến vào Trung tâm Hội nghị Quốc gia Mỹ Đình dự Phật Đản LHQ Vesak 2008, rằng: “Đạo Phật Làng Mai làm sao hấp dẫn được một lượng người ngoại quốc đi theo đông đảo thế?” Kính nhờ Thiền sư giải đáp hộ.

    2008 05 14 ts Nhất Hạnh tại Vesak
    Thiền sư Thích Nhất Hạnh:
    Tôi vắng mặt ở Việt Nam từ 1966. Trong thời gian ở nước ngoài, tôi dành ít nhất 30 năm để chia sẻ tuệ giác và thực tập đạo Bụt Việt Nam (sau này tôi thành lập Làng Mai ở Pháp nên có tên là Đạo Bụt Làng Mai) với người Tây phương bằng những khóa tu, cộng với hàng trăm cuốn sách đạo Phật Việt Nam hiện đại hóa. Các khóa tu chung cho giới trẻ và trí thức, cũng có những khóa tu dành riêng cho các thầy giáo, các doanh nhân, giới bảo vệ môi trường, diễn viên điện ảnh Hollywood, dân biểu quốc hội Hoa Kỳ, cảnh sát, người giữ tù, v.v… Phần lớn người Tây phương cho biết họ theo đạo Phật Làng Mai vì những điều thông thường sau đây:

    1. Đạo Phật đã có trên 25 thế kỷ, đến nay đạo Phật được trình bày lại với ngôn ngữ văn hóa mới của Việt Nam và thế giới, dễ hiểu, gần gũi với con người của thời đại. Đạo Phật không chỉ là một tôn giáo tín ngưỡng mà còn là nguồn tuệ giác sâu sắc, những phương pháp tu tập thực tế giúp cho mỗi cá nhân tháo gỡ được những khó khăn trong một thời gian tu tập ngắn (một khóa tu ngắn hạn có thể từ 7 đến 10 ngày). Nói cách khác, người Tây phương đến tu học ở Làng Mai không phải để được hiến tặng một đức tin mà để được tiếp nhận một phương pháp thực tập kinh nghiệm, đem lại hạnh phúc cho mình, ngay bây giờ và ở đây.

    2. Đức Phật không phải là một đấng tạo hóa hay một vị thần linh mà đích thực là một con người, một người đã đắc đạo, có tuệ giác cao siêu nhờ tu tập. Đạo Phật là một phương pháp sống nương vào tự lực hơn là nương vào một quyền lực linh thiêng bên ngoài không có giáo điều, không mặc khải, không xung đột báng bổ với bất cứ một truyền thống tâm linh nào, và trong bản chất đích thực của nó cũng không xung đột với khoa học hiện đại. Chúng tôi học đạo Phật và cũng học để biết các truyền thống khác như Thiên Chúa giáo, Tin Lành, Hồi giáo… Nhiều tín đồ Thiên Chúa giáo, Tin Lành, và các tôn giáo khác đến tu ở Làng Mai mà vẫn giữ nguyên tôn giáo mà họ đã theo. Có người giác ngộ muốn vừa làm Mục sư Tin Lành vừa làm Giáo thọ của Làng Mai. Sáng chủ nhật ông giảng bài với con chiên với phương pháp mới học ở Làng Mai, buổi chiều hướng dẫn thiền tập cho Phật tử Làng Mai. Nếu bề trên không cho phép thì ông chọn cái nghiệp mới là làm Giáo thọ. Trí thức và tuổi trẻ phương Tây rất thích điều này.

    3. Đạo Phật Làng Mai được người phương Tây theo nhiều vì đạo Phật giúp họ tháo gỡ được những khủng hoảng giữa cha mẹ với con cái, vợ chồng, về đời sống xã hội, bế tắc về tâm linh đang diễn ra ở phương Tây hiện nay.

    Nguyễn Đắc Xuân:
    Kính thưa Thiền sư, những người đến Làng Mai tu tập được học và thực tập những nội dung gì?

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh:
    Trước hết chúng tôi chia sẻ với họ cách hít thở, hành thiền, chánh niệm, phương pháp lấy ra những căng thẳng trong thân, trong tâm, tập nhận diện và ôm ấp những sợ hãi, đau buồn, lo lắng của mình. Nhìn sâu vào mình để có thể nhận diện được bản chất tâm hành đó. Rồi nhìn vào người thân của mình để nhìn thấy trong họ có căng thẳng trong thân, trong tâm để phát khởi lòng thương, chấp nhận họ. Nhờ sự lắng dịu trong thân và tâm, cởi bỏ được thái độ trách móc, với phương pháp ái ngữ và lắng nghe, hiểu được khó khăn và bức xúc, khổ đau, mơ ước của người khác, chấp nhận người khác và giúp đỡ được cho người khác. Đó là hiểu và thương. Lập lại được truyền thông đã mất giữa những người thân.

    Sau các khóa tu, nhiều phép lạ đã xuất hiện, vợ chồng tưởng cắt đứt vĩnh viễn lại hòa giải được, cha mẹ với con tưởng đã không thể hiểu nhau lại làm hòa được và thương kính nhau. Sau các khóa tu, chúng tôi không quyến rũ người ta theo đạo Phật. Nhưng khi họ đã thấy được hiệu nghiệm của đạo Phật, họ xin quy y Phật và thọ năm giới. Năm giới là sự thực tập cụ thể của tình thương. Giới thứ nhất: bảo vệ sự sống, giới thứ hai: chia thời gian và tài vật cho người khác, không ăn cắp, ăn trộm; giới thứ ba: không lạm dụng tình dục, giới thứ tư: ái ngữ và lắng nghe; giới thứ năm: tiêu thụ trong chánh niệm (chỉ tiêu thụ những sản phẩm mang lại sự an lạc cho tâm mình, không rượu chè, ma-túy). Tiếp đến họ được chia sẻ ý nghĩa của Tứ Diệu Đế và tùy theo ý nguyện, họ có thể đi sâu vào các lĩnh vực triết lý Phật giáo cao siêu khác.

    Nguyễn Đắc Xuân:
    Xin Thiền sư cho biết có thể áp dụng năm giới cho toàn xã hội phương Tây và Việt Nam được không?

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh:
    Đó là ước muốn của Phật giáo. Nhiều Phật tử Việt Nam đã thực hiện 5 giới từ lâu rồi. Hàng triệu người trong hàng ngàn tăng thân theo đạo Phật Làng Mai trên thế giới đang thực hiện. Phật tử sinh hoạt đạo Phật ở Làng Mai (Pháp), Lộc Uyển (miền nam California, Mỹ), Bích Nham (New York, Mỹ), Bát Nhã (Bảo Lộc, Việt Nam) và ngay tại chùa Từ Hiếu (Huế) này nhiều Phật tử đang thực hiện. Nếu năm giới được đưa vào chương trình giáo dục quốc gia, thanh niên được chia sẻ và thực tập năm giới là một hồng ân của dân tộc. Thực hiện năm giới là cứu nạn cho con người hiện nay.

    Nguyễn Đắc Xuân:
    Kính xin Thiền sư cho vài ví dụ!

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh:
    Thực hiện giới thứ nhất là muốn bảo vệ sự sống thì phải sử dụng khả năng hiểu và thương để chấm dứt các cuộc xung đột trong phạm vi gia đình, cộng đồng, quốc gia và quốc tế, phải biết lắng nghe và nhìn sâu để tự hiểu mình và hiểu người khác, giải quyết những ngộ nhận để các dân tộc hiểu và thương nhau, lập lại hòa bình (ví dụ như chiến tranh ở I-rắc); thực tập giới thứ hai là không trộm cắp, không bóc lột, để trừ tận gốc bệnh tham nhũng, ăn cắp hiện nay. Thực hiện giới thứ năm là góp phần bảo vệ môi trường bằng cách sản xuất và tiêu thụ có ý thức chánh niệm. Một số tu viện của đạo Phật Làng Mai đã bắt đầu dùng điện mặt trời, ô-tô không chạy bằng xăng mà chạy bằng dầu thực vật v.v…

    Nguyễn Đắc Xuân:
    Những đại biểu thuộc nhiều tôn phái Phật giáo trên thế giới đến dự Phật Đản LHQ Vesak 2008 tại Hà Nội vận đủ kiểu, đủ sắc màu vàng, nâu, đen, trắng rất mới lạ. Tại sao Thiền sư và tăng thân Làng Mai chỉ với áo nâu và chiếc nón lá?

    2008 05 14 tăng thân Làng Mai tham dự Vesak   áo nâu nón láThiền sư Thích Nhất Hạnh:
    Nón lá, chiếc khăn chít đầu và trang phục màu nâu là hình ảnh và màu sắc của dân tộc Việt Nam đã có hàng ngàn năm nay. Đạo Phật Làng Mai là đạo Phật Việt Nam, dù đã được hiện đại hóa nhưng cái gốc văn hóa Việt Nam thì phải rõ. Hơn bốn mươi năm trước tôi ra đi với chiếc nón lá và chiếc áo nâu, nay trở về cũng chỉ với chiếc nón lá và áo nâu. Bây giờ, tôi thấy y áo lễ phục của các tăng sĩ Việt Nam mình màu sắc rực rỡ, gấm hoa, sang trọng quá nó gây cảm giác xa lạ với truyền thống bình dân Việt Nam. Tôi không muốn mình xa lạ với dân tộc mình. Áo nâu và nón lá là hình ảnh của đạo Phật Làng Mai đã quá quen thuộc với thế giới rồi thay đổi làm gì nữa và cũng không thể thay đổi được. Hình ảnh giới tu sĩ Phật giáo Việt Nam ở nước ngoài là thế đó!

    Nguyễn Đắc Xuân:
    Lâu nay chắc Thiền sư có biết Việt Nam đang theo đuổi việc xây dựng một nền văn hóa “đậm đà bản sắc dân tộc”. Vậy, “bản sắc dân tộc” theo Thiền sư nghĩ là cái gì? Cái bản sắc văn hóa dân tộc Việt đó đi vào đời sống hội nhập thế giới hiện đại ngày nay có gì khó khăn trở ngại không?

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh:
    Bản sắc văn hóa dân tộc có thể cảm nhận được nhưng nói ra cho đầy đủ thì rất khó. Người ta nói Làng Mai là một Việt Nam thu nhỏ trên đất Pháp. Người ta sống với Làng Mai họ có cảm giác như thế chứ nói cái gì ở Làng Mai là mang bản sắc văn hóa Việt Nam thì khó. Về bản sắc dân tộc, tôi lấy một ví dụ: Ngày xưa cha ông mình đi ăn giỗ, đi sớm đi muộn gì cũng có phần ăn. Ăn giỗ xong trên đường về ghé bẻ một nhánh cây dọc đường xỉa răng, không sao cả. Bây giờ đi ăn giỗ phải đi đúng giờ, phải tính đến chuyện kẹt xe, nếu đi trễ sẽ phải ra nhà hàng ăn lót dạ trước khi quay xe trở về. Việt Nam nghèo nhưng cha ông ta có nếp sống nhàn nhã, thong thả, đến bữa ăn tất cả mọi người trong gia đình đều ngồi quanh mâm cơm, có thì giờ dạy bảo con cái, chuyện trò với người thân, kỵ giỗ đình đám quanh năm, cuộc sống gắn bó tâm tình thân thiết. Bây giờ thì ít khi bữa ăn có đủ mặt người thân trong gia đình, vợ chồng con cái ít có thì giờ gặp gỡ, trò chuyện với nhau, mỗi người có mỗi thời khóa biểu làm việc riêng, không phụ thuộc nhau. Kỵ giỗ không nhớ. Vì vậy nếu giữ cái bản sắc dân tộc cố hữu của mình thì sẽ bị cuộc sống hiện nay đào thải. Nếu chạy theo cuộc sống hiện nay thì sẽ mất gốc. Theo tôi, văn hóa Việt Nam là một cái mỏ vàng, ta phải khai thác, tinh lọc để lấy cho được thứ vàng ròng, rồi dùng ngôn ngữ và phương pháp hiện đại trình bày lại cho hợp với nếp sống hiện đại. Làng Mai đã làm như thế đối với đạo Phật truyền thống của Việt Nam và đã có kết quả.

    Nguyễn Đắc Xuân:
    Kính thưa Thiền sư, như báo chí vừa phản ảnh, lễ Phật Đản Liên Hiệp Quốc Vesak 2008 tại Hà Nội vừa qua đã đạt được kết quả rất to lớn. Theo nhận xét của Thiền sư cuộc đại lễ chưa từng có đó có gì cần phải góp ý nữa không?

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh:
    Tôi hơi tiếc Ban tổ chức Đại lễ Vesak thiếu quan tâm đến giới trí thức hàng đầu của Việt Nam ở các Đại học, các Hội nhà văn, Hội sử học, Hội âm nhạc, và cả các tôn giáo khác. Phải có những thành phần ấy họ mới tiếp thu được kết quả của hội nghị để vận dụng vào cuộc đời ở những nơi, những giới mà ảnh hưởng của giới tu sĩ Phật giáo còn hạn chế.

    Nguyễn Đắc Xuân:
    Kính bạch Thiền sư, còn rất nhiều vấn đề độc giả Hồn Việt muốn biết nữa, nhưng vì sức khỏe của Thiền sư, chúng tôi xin được cám ơn Thiền sư ở đây. Kính chúc Thiền sư luôn sức khỏe để Đạo Phật Làng Mai dồi dào năng lượng chia sẻ phương pháp tu học giúp những người đang đau khổ lập lại truyền thông tạo dựng lại hạnh phúc đã mất trên thế gian này. Kính chào Thiền sư.

    Chùa Từ Hiếu, chiều 20.05.2008 (Hồn Việt số 12/06.2008)