Tổng thống Mỹ Obama đến Việt Nam là câu chuyện được bàn tán khắp nơi trong những ngày này. Người dân Việt Nam muốn được tận mắt gặp gỡ và chứng kiến sự hiện diện của “người đàn ông quyền lực nhất thế giới”. Và mỗi người ấn tượng về ông một cách khác nhau.
Cá nhân tôi rất xúc động khi được nghe Tổng thống Obama trực tiếp nhắc đến Thiền sư Thích Nhất Hạnh, vị thầy mà tôi luôn thương kính: "…Hai nước đã học được bài học như Thiền sư Thích Nhất Hạnh từng nói: đối thoại thực sự là khi cả hai bên đều sẵn sàng thay đổi…" ("We learned a lesson taught by the venerable Thich Nhat Hanh, who said, “In true dialogue, both sides are willing to change.*). Những lời thú vị này được người đứng đầu nước Mỹ nói ra hôm nay tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia trong buổi nói chuyện với giới trí thức và học sinh, sinh viên Thủ đô Hà Nội.
Được nghe những lời nói này từ Tổng thống Obama hôm nay, tôi thật sự xúc động. Trong bài nói chuyện được chuẩn bị rất công phu, ông đã nhắc đến cả Lý Thường Kiệt lẫn Bà Trưng, Bà Triệu, cả Đại tướng Võ Nguyên Giáp lẫn nhà thơ Nguyễn Du, cả chí sĩ yêu nước Phan Chu Trinh đến nhạc sĩ Văn Cao, cả nhạc sỹ Trịnh Công Sơn và giáo sư Ngô Bảo Châu. Tuy nhiên Thiền sư Thích Nhất Hạnh được ông nhắc đến ngay từ đầu.
Đạo Phật luôn chủ trương bất bạo động. Thiền sư Thích Nhất Hạnh bao năm dành tâm huyết, trí tuệ, thời gian, công sức để vận động cho hòa bình. Thầy Nhất Hạnh đã cùng với mục sư Martin Luther King kêu gọi chống chiến tranh Việt Nam. Thầy Nhất Hạnh đã có rất nhiều buổi nói chuyện và thuyết giảng về hòa bình. Và hôm nay, ngồi nghe Tổng thống Obama nói chuyện tại Hà Nội, tai tôi như ngấm rất sâu câu nói “In true dialogue both sides are willing to change.” (đối thoại thực sự là khi cả hai bên đều sẵn sàng thay đổi).
Thầy và Tăng thân thiền hành quanh Hồ Hoàn Kiếm trong chuyến về Việt Nam năm 2005
Tôi nhớ về lần gặp Thiền sư Thích Nhất Hạnh vào năm 2005, cách đây đã 11 năm. Tôi nhớ về những lần được nghe Thầy giảng và trực tiếp hướng dẫn thiền trong các năm 2005, 2007, 2008 tại Việt Nam và 2013 tại Thái Lan. Tôi nhớ lắm hình ảnh Thầy rất hiền từ và thân mật. Và thật khó quên rằng Thầy đã từng được Mục sư Luther King đề cử cho Giải Nobel Hòa bình. Và hôm nay, câu nói của Thầy đã được Tổng thống Obama trích dẫn làm cho tôi thấy kính yêu thầy quá đỗi.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh luôn dạy học trò chúng tôi thực hành chánh niệm. Tôi luôn nhắc mình chánh niệm mọi lúc, mọi nơi. Và hôm nay, tại trung tâm Hội nghị Quốc gia, từ mindfulness, tức chánh niệm, được Tổng thống Obama nhắc đến hai lần trong bài nói chuyện. Ngồi nghe Tổng thống nói mà tôi thấy hạnh phúc vô cùng.
Tôi nghĩ và quán chiếu về từ “truyền thông” mà thiền sư Thích Nhất Hạnh hay dùng khi nói về các mối quan hệ trong gia đình, tại cơ quan, ngoài xã hội. Bài giảng về cách tái thiết lập truyền thông trong các mối quan hệ của Thầy vẫn đang nằm trong tâm tôi. Đúng là rất cần truyền thông. Quả là rất cần đối thoại chân thành. Hôm nay, khi nói đến quan hệ Việt – Mỹ, khi nhìn về quá khứ, Tổng thống Obama lại trích dẫn lời thiền sư, rằng “đối thoại thực sự là khi cả hai bên đều sẵn sàng thay đổi”.
Tổng thống Mỹ không là Phật tử nhưng ông đã rước tượng Phật vào Nhà trắng. Ông không là con Phật nhưng lại có những câu nói mà hôm nay tôi và nhiều người thấy ấn tượng vô cùng. Phải có tâm Phật thì Tổng thống Obama mới khẳng định rằng trái tim có thể thay đổi khi ta từ chối làm tù nhân của quá khứ. Thật sâu sắc.
Tôi ngồi nghe và rất ấn tượng, rất ghi nhớ rất nhiều những câu nói của Tổng thống Obama, trong đó có:
"Việt Nam là đất nước đầy truyền thống. Trong lịch sử, nhiều lần các bạn không được tự quyết định số phận của mình".
"Câu chuyện hai nước là bài học cho cả thế giới, rằng trái tim có thể thay đổi, khi ta từ chối làm tù nhân của quá khứ, rằng hòa bình tốt hơn chiến tranh".
"Việt Nam là nước độc lập, có chủ quyền, không nước nào có thể áp đặt, quyết định số phận thay Việt Nam".
"Không nước nào là hoàn hảo, kể cả Mỹ".
Tôi nhớ đến Thiền sư Nhất Hạnh với những khóa thiền cho thiền sinh phương tây tại rất nhiều nước trên thế giới. Tôi nhớ đến những lần được ngồi bên Thầy, được đi thiền hành cùng Thầy. Tôi thấy tim mình rung động khó tả khi nhận thấy rất rõ tình yêu đất nước và dân tộc Việt Nam vô cùng lớn của Thiền sư.
Hôm nay, ngồi nghe những câu nói của Tổng thống Obama mà tôi cứ suy nghĩ mãi. Mà đáng nghĩ lắm khi người đứng đầu Nhà trắng nói những câu rất hay, rất sâu sắc. Chúng ta cùng đọc nhé:
“Tự do tôn giáo sẽ khiến người dân yêu thương nhau hơn”.
“Hai nước đã từng chiến tranh, giờ chúng ta lại cùng nhau gìn giữ hòa bình thế giới. Mọi việc không phải sau một đêm là có. Có những khó khăn, thụt lùi. Nhưng tôi đứng đây, trước các bạn, rất lạc quan về tương lai của hai nước”.
May thay Việt Nam chúng ta có một thiền sư nổi tiếng thế giới như Thiền sư Thích Nhất Hạnh. May thay, nhờ Tổng thống Obama mà thêm nhiều người dân Việt Nam và công dân toàn cầu biết đến và hiểu hơn về triết lý đối thoại của Thiền sư. May thay, trong ngày hôm nay, thêm thật nhiều người hiểu về giá trị của chánh niệm, của hòa bình, của bất bạo động. May thay câu nói “In true dialogue both sides are willing to change.” (đối thoại thực sự là khi cả hai bên đều sẵn sàng thay đổi) của Thiền sư Nhất Hạnh đã, đang và sẽ vang đi khắp muôn nơi. May thay câu nói này được nói ra từ chính “người đàn ông quyền lực nhất thế giới” tại trung tâm hội nghị Quốc gia, thủ đô Hà Nội.
Tôi thấy hạnh phúc vô cùng. Tôi thấy bình an kỳ lạ. Tự nhiên tôi muốn bay ngay sang Pháp, đến Làng Mai để thăm Thầy, để được quỳ gối dưới chân Thầy và nói một từ biết ơn.
TS Nguyễn Mạnh Hùng
Chủ tịch công ty sách Thái Hà
*********************
(*) Câu nói: “In true dialogue, both sides are willing to change" (đối thoại thực sự là khi cả hai bên đều sẵn sàng thay đổi…) được trích từ tác phẩm "Living Buddha, Living Christ" của Thiền sư Nhất Hạnh.
Xin chào!
Xin chào Việt Nam!
Xin cảm ơn!
Xin cảm ơn Chính phủ và nhân dân Việt Nam về sự đón tiếp nồng hậu và sự hiếu khách mà quý vị đã dành cho tôi trong chuyến thăm này. Xin cám ơn các bạn vì đã có mặt tại đây ngày hôm nay.
Có rất nhiều các bạn trẻ từ khắp mọi nơi trên đất nước Việt Nam đã có mặt tại đây, họ đại diện cho sự năng động, tài năng và niềm hy vọng của Việt Nam. Trong chuyến thăm này, tình cảm chân thành của người dân Việt Nam đã chạm đến trái tim tôi. Có rất nhiều người đã xuống đường vẫy tay và tươi cười với tôi để thể hiện tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước.
Tối qua, tôi đã đi thăm khu phố cổ Hà Nội và được ăn những món ăn Việt Nam rất ngon. Tôi đã ăn bún chả và uống bia Hà Nội. Tôi phải nói thật rằng, đường phố của các bạn rất nhộn nhịp và cả đời mình tôi chưa từng thấy nhiều xe máy đến vậy. Tôi chưa thử tìm cách sang đường nhưng có lẽ khi tôi quay trở lại, các bạn sẽ giúp tôi làm điều này.
Tôi không phải là Tổng thống Mỹ đầu tiên đến thăm Việt Nam trong thời gian qua, nhưng tôi là Tổng thống đầu tiên, cũng như nhiều bạn có mặt tại đây đã lớn lên sau chiến tranh.
Khi binh sĩ Mỹ cuối cùng rời khỏi Việt Nam, tôi mới 13 tuổi. Chính vì thế, ấn tượng của tôi về Việt Nam chỉ có khi tôi ở Hawaii thông qua Cộng đồng người Mỹ gốc Việt. Nhưng cũng vào thời điểm đó, có rất nhiều người Việt Nam thậm trí còn trẻ hơn tôi rất nhiều. Giống như 2 con gái của tôi, các bạn khi sinh ra chỉ biết đến hòa bình và khi Mỹ và Việt Nam đã bình thường hóa quan hệ.
Khi tôi đến đây, tôi nhận thức rõ về những khó khăn trong quá khứ nhưng lại muốn tập trung hoàn toàn vào tương lai vào sự thịnh vượng, an ninh và phẩm giá con người mà chúng ta cùng nhau vun đắp.
Tôi đến đây với tất cả sự tôn trọng dành cho lịch sử lâu đời của Việt Nam. Từ hàng nghìn năm qua, những người nông dân đã canh tác trên mảnh đất này. Lịch sử của mảnh đất này được hé lộ từ những hoa văn trên Trống đồng Đông Sơn và Hà Nội đã đứng vững bên dòng sông Hồng từ hơn 1.000 năm qua. Thế giới rất coi trọng sản phẩm lụa và các bức tranh của Việt Nam. Văn Miếu của các bạn đã trường tồn cùng thời gian như một bằng chứng rõ ràng về sự hiếu học của người Việt.
Hàng trăm năm qua, vận mệnh của Việt Nam đã bị nhiều nước khác can thiệp và mảnh đất này đã có lúc bị xâm chiếm. Tuy nhiên, cũng giống như cây tre, tinh thần bất khuất của các bạn được thể hiện rõ qua câu thơ thần của danh tướng Lý Thường Kiệt:
“Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận tại sách trời”.
Ngày hôm nay, chúng ta cùng nhìn lại lịch sử lâu đời giữa Mỹ và Việt Nam với rất nhiều sự giao thoa. Hơn 200 năm trước, khi người cha lập quốc của nước Mỹ Thomas Jefferson tìm cách mua lúa để trồng trong các trang trại của mình, ông đã tìm đến lúa của Việt Nam, loại lúa gạo mà theo ông là trắng nhất, ngon nhất và năng suất nhất.
Trong Thế chiến thứ 2, người Mỹ cũng đã giúp Việt Nam thoát khỏi ách đô hộ. Khi máy bay của các phi công Mỹ bị bắn rơi, người Việt Nam đã tìm cách cứu họ.
Vào ngày Việt Nam tuyên bố giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đã trích dẫn Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".
Lẽ ra, cuộc chiến nhằm lật đổ chế độ thực dân đã khiến nhân dân hai nước nhanh chóng đoàn kết với nhau hơn. Tuy nhiên, thay vì thế, nỗi sợ hãi chủ nghĩa Cộng sản, Chiến tranh Lạnh, và sự thù địch đã đẩy chúng ta vào một cuộc chiến. Từ các cuộc xung đột trong lịch sử thế giới, chúng ta hiểu ra được một sự thật đau đớn rằng, chiến tranh, dù vì lý do gì cũng mang đến thương đau và bi kịch.
Các nghĩa trang liệt sĩ và bàn thờ tại các gia đình Việt Nam nhắc nhở chúng ta rằng, có hơn 3 triệu binh sĩ và dân thường của Việt Nam đã mất trong chiến tranh.
Tại Đài tưởng niệm Chiến tranh Việt Nam tại Washington, chúng ta có thể chạm tay vào tên của hơn 58.315 binh sĩ Mỹ chết trong Chiến tranh Việt Nam. Ở cả Mỹ và Việt Nam, nhiều cựu chiến binh và cả những thân nhân của các liệt sĩ vẫn rất đau đớn trước sự ra đi của những người thân yêu nhất.
Tại Mỹ, có một câu nói như thế này: “Dù chúng ta có bất đồng gì về cuộc chiến đó, chúng ta vẫn phải tôn trọng những người đã phục vụ trong quân ngũ và chào đón họ về với những nghi thức mà họ xứng đáng được hưởng”. Ngày hôm nay, Việt Nam và Mỹ đã hàn gắn với nhau và nhận thức rõ nỗi đau và sự hy sinh mà cả hai phía đã phải trải qua.
Trong 2 thập kỷ qua, Việt Nam đã đạt được những tiến bộ đáng kể và ngày hôm nay, thế giới phải công nhận những gì mà các bạn đã đạt được. Thông qua việc cải cách kinh tế và các thỏa thuận thương mại với các nước, trong đó có Mỹ, Việt Nam đã tham gia vào nền kinh tế toàn cầu và xuất khẩu hàng hóa đi khắp thế giới. Các khoản đầu tư nước ngoài đổ vào Việt Nam ngày một nhiều hơn.
Với tư cách là một trong những nước có tốc độ phát triển kinh tế nhanh nhất châu Á, Việt Nam giờ đã trở thành quốc gia có thu nhập trung bình trên thế giới. Chúng ta có thể nhận thấy sự phát triển của Việt Nam thông qua những tòa nhà cao tầng chọc trời, các trung tâm mua sắm tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh và các đô thị vệ tinh.
Chúng ta đã thấy Việt Nam phóng vệ tinh vào vụ trũ và một thế hệ người Việt mới tham gia nhiều hơn vào các hoạt động trực tuyến, khởi nghiệp và điều hành các quỹ đầu tư mạo hiểm.
Chúng ta nhận thấy hàng triệu người Việt Nam đã kết nối với Facebook và có tài khoản Instagram và các bạn không chỉ chụp ảnh selfie (dù tôi được nghe là các bạn làm điều này rất thường xuyên và cho đến thời điểm này đã có rất nhiều bạn đề nghị chụp ảnh selfie với tôi), mà còn lên tiếng về những gì mà các bạn quan tâm như bảo vệ những cây cổ thụ ở Hà Nội.
Sự năng động này đã mang đến những đổi thay thực sự trong đời sống của người dân. Tại Việt Nam, các bạn đã thành công trong việc xóa đói giảm nghèo và tăng thu nhập cho các gia đình và khiến hàng triệu người trong xã hội nhanh chóng gia nhập tầng lớp trung lưu.
Đói nghèo, bệnh tật, tỷ lệ tử vong ở bà mẹ và trẻ em đều đã giảm. Số người được tiếp cận nước sạch và điện cũng như số trẻ em nam và nữ đến trường cùng tỉ lệ người được xóa mù chữ đã gia tăng. Đó là một bước tiến đáng kinh ngạc mà các bạn đã đạt được trong một thời gian rất ngắn. Việt Nam đã chuyển mình và mối quan hệ giữa hai quốc gia cũng đã được cải thiện.
Chúng ta đã học được một bài học từ Thiền sư Thích Nhất Hạnh, người đã nói rằng: “đối thoại thực sự là khi cả hai bên đều sẵn sàng thay đổi". Theo cách đó, cuộc chiến đã chia cắt chúng ta lại trở thành nguồn cảm hứng để hàn gắn những vết thương. Điều đó cho phép chúng tôi tìm kiếm những người lính mất tích trong chiến tranh và đưa họ về nhà, cho phép chúng tôi hỗ trợ rà phá bom mìn và các vật liệu nổ còn sót lại sau chiến tranh để không đứa trẻ nào bị thiệt mạng khi vui chơi ngoài trời.
Ngay cả khi đang hỗ trợ những người tàn tật ở Việt Nam, trong đó có trẻ em, chúng tôi cũng tham gia vào việc tẩy rửa chất độc Da cam, dioxin để Việt Nam có thêm nhiều mảnh đất an toàn. Chúng tôi đã thực hiện việc này ở Đà Nẵng và sẽ tiếp tục hỗ trợ tại Biên Hòa.
Chúng ta cũng đừng quên rằng, quá trình hòa giải giữa hai nước cũng được tiến hành nhờ các cựu binh từng đối mặt nhau trên chiến trường. Khi Thượng Nghị sĩ John McCain, người từng là tù nhân chiến tranh ở Việt Nam trong nhiều năm, đã đến gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp và nói rằng: “Hai nước chúng ta không nên là kẻ thù, hãy là bạn”.
Hãy nghĩ đến tất cả các cựu binh Mỹ và Việt Nam, những người đã giúp hàn gắn vết thương chiến tranh và xây dựng mối quan hệ mới giữa hai nước. Ít có ai có thể làm được điều này trong vài năm qua như Trung úy Hải quân giờ đã là Ngoại trưởng Mỹ John Kerry, người cũng có mặt tại đây.
Chính nhờ sự mở lối của các cựu binh, nhờ sự dũng cảm theo đuổi hòa bình của các chiến binh ấy, người dân hai nước chúng ta đã xích lại gần nhau hơn bao giờ hết. Thương mại song phương đã gia tăng.
Các sinh viên và học giả hai nước có điều kiện học hỏi lẫn nhau. Chúng tôi đón chào sinh viên Việt Nam đến học tại Mỹ nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào khác tại Đông Nam Á và hàng năm, các bạn lại đón thêm nhiều du khách Mỹ, trong đó có những khách du lịch ba lô thăm thú 36 phố phường Hà Nội, phố cổ Hội An và cố đô Huế.
Cả người dân Việt Nam và người dân Mỹ đều có thể viện dẫn lời bài hát của nhạc sĩ Văn Cao: “Từ đây người biết thương người, từ đây người biết yêu người”.
Là Tổng thống Mỹ, tôi muốn góp phần thúc đẩy mối quan hệ song phương. Với mối quan hệ đối tác toàn diện mới, Chính phủ hai nước đang hợp tác chặt chẽ hơn bao giờ hết. Và thông qua chuyến thăm này, chúng ta đã tạo dựng nền móng vững chắc hơn cho những thập kỷ tới.
Với việc mối quan hệ lâu dài giữa hai nước từ thời Tổng thống Thomas Jefferson 200 năm trước và đã trải qua rất nhiều nỗ lực để có ngày hôm nay, thời điểm chúng ta có thể nói những điều tưởng như không thể tưởng tượng nổi.
Hiện tại, Mỹ và Việt Nam đã trở thành đối tác và tôi tin rằng, kinh nghiệm của chúng ta sẽ trở thành bài học cho toàn thế giới tại một thời điểm mà các cuộc xung đột dường như không thể giải quyết và không bao giờ chấm dứt. Chúng ta đã cho thấy, trái tim có thể thay đổi và một tương lai khác hoàn toàn có thể đạt được nếu chúng ta từ chối trở thành “tù nhân” của quá khứ.
Chúng ta cho thấy, hòa bình tốt hơn là chiến tranh và những tiến bộ trong việc tôn trọng phẩm giá con người sẽ được thúc đẩy tốt nhất thông qua hợp tác chứ không phải đối đầu. Đó là những điều mà Việt Nam và Mỹ có thể cho thế giới thấy.
Mối quan hệ đối tác mới giữa Mỹ và Việt Nam được bắt nguồn từ niềm tin cốt lõi rằng Việt Nam là một quốc gia độc lập, tự chủ và không một quốc gia nào có thể áp đặt ý chí của họ lên các bạn hoặc quyết định số phận của các bạn.
Mỹ có lợi ích tại đây, Mỹ có lợi ích của mình nếu Việt Nam thành công, nhưng mối quan hệ đối tác toàn diện của chúng ta mới ở giai đoạn khởi đầu, và trong những phút còn lại, tôi muốn cho các bạn thấy một tầm nhìn mà tôi tin rằng có thể dẫn lối cho chúng ta trong những thập niên tới.
Đầu tiên, hãy hợp tác cùng nhau để tạo dựng cơ hội thực sự và sự thịnh vượng cho người dân của chúng ta. Chúng ta đều biết công thức để thành công trong nền kinh tế toàn cầu trong thế kỷ 21 đó chính là, các nguồn đầu tư và dòng tiền sẽ chảy vào những nơi mà luật pháp được tôn trọng bởi không ai muốn phải đút lót để có thể bắt đầu kinh doanh.
Không ai muốn bán hàng hoặc đi học nếu họ không biết họ được đối xử ra sao. Trong nền kinh tế dựa vào tri thức như hiện nay, việc làm sẽ chỉ có tại những nơi mà con người được quyền tự do suy nghĩ cho bản thân, trao đổi ý tưởng và sáng tạo.
Mối quan hệ đối tác kinh tế thực sự không phải là một nước chỉ chăm chăm khai thác tài nguyên của nước khác. Mối quan hệ này dựa trên việc đầu tư vào nguồn tài nguyên vĩ đại nhất của chúng ta, đó chính là con người, kỹ năng và tài năng của họ dù họ sống ở thành thị hay nông thôn. Đó chính là hình thức đối tác mà Mỹ có thể đem lại.
Như tôi đã tuyên bố hôm 23/5, Tổ chức Hòa bình Mỹ sẽ lần đầu tiên đến Việt Nam và tập trung vào việc giảng dạy tiếng Anh. Sau hàng thế hệ khi người Mỹ đến đây để chiến đấu, lại có một thế hệ người Mỹ mới đến Việt Nam để giảng dạy và tạo dựng mối quan hệ sâu sắc hơn giữa hai nước.
Một vài tập đoàn công nghệ và học viện hàng đầu của Mỹ đã đến Việt Nam nhằm hỗ trợ các trường đại học đào tạo về khoa học, công nghệ, cơ khí, toán học và dược, bởi ngay cả khi đã chào đón rất nhiều sinh viên Việt Nam đến Mỹ, chúng tôi vẫn tin rằng, các bạn trẻ xứng đáng được hưởng nền giáo dục đẳng cấp thế giới ngay tại Việt Nam.
Một lý do khiến chúng tôi rất vui mừng là trường Đại học Fulbright sẽ chính thức mở cửa vào mùa Thu năm nay ở thành phố Hồ Chí Minh. Đây là trường đại học phi lợi nhuận độc lập đầu tiên tại Việt Nam, nơi sẽ mang đến quyền tự do học thuật và cấp học bổng toàn phần cho những người thực sự cần.
Các sinh viên, học giả và các nhà nghiên cứu sẽ tập trung vào nghiên cứu chính sách công, quản trị kinh doanh, cơ khí, máy tính, khoa học, nghệ thuật tự do, bao gồm tất cả các lĩnh vực, từ thơ ca Nguyễn Du, từ triết lý của Phan Chu Trinh đến toán học của Ngô Bảo Châu.
Tôi sẽ tiếp tục duy trì mối quan hệ đối tác với những thanh niên và doanh nhân trẻ bởi chúng tôi tin rằng, nếu các bạn có thể tiếp cận với những kỹ năng, công nghệ và nguồn vốn cần thiết thì không gì có thể cản đường các bạn. Điều đó cũng đúng với những phụ nữ tài năng của Việt Nam.
Chúng tôi tin rằng, bình đẳng giới là một nguyên tắc rất quan trọng. Từ thế hệ Hai Bà Trưng đến nay, những phụ nữ tài năng và mạnh mẽ đã luôn giúp Việt Nam tiến lên phía trước. Điều này là quá rõ ràng.
Tôi muốn nói rằng, bất kỳ nơi nào tôi đặt chân đến trên trái đất này, mỗi gia đình, cộng đồng và một quốc gia chỉ có thể thành công nếu người phụ nữ được trao cơ hội bình đẳng với nam giới để thành công trong học tập, trong công việc và trong Chính phủ. Điều này đúng ở mọi nơi và đúng cả ở Việt Nam.
Chúng tôi sẽ tiếp tục hỗ trợ để nền kinh tế Việt Nam có thể phát huy hết tiềm năng của mình thông qua Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Tại Việt Nam, TPP sẽ giúp các bạn xuất khẩu được nhiều hàng hóa hơn ra thế giới và giúp thu hút thêm nhiều đầu tư. TPP sẽ đòi hỏi các bạn phải thay đổi để bảo vệ người lao động cũng như tôn trọng các quy định về bản quyền sở hữu trí tuệ và Mỹ luôn sẵn sàng hỗ trợ Việt Nam thực thi đầy đủ cam kết của mình.
Tôi muốn các bạn hiểu rằng, với cương vị Tổng thống Mỹ, tôi ủng hộ mạnh mẽ TPP bởi điều này cũng đồng nghĩa với việc các bạn có thể mua được nhiều hàng hóa sản xuất tại Mỹ.
Hơn thế nữa, tôi ủng hộ TPP bởi nó mang lại những lợi ích chiến lược cho Việt Nam và giúp Việt Nam giảm sự phụ thuộc vào một đối tác thương mại cụ thể nào đó và có thể mở rộng mối quan hệ với nhiều đối tác khác, trong đó có Mỹ.
TPP sẽ giúp tăng cường hợp tác trong khu vực, giải quyết sự bất bình đẳng về kinh tế và cải thiện quyền lợi của người lao động nhờ tiền lương cao hơn và được làm việc trong môi trường an toàn hơn. Lần đầu tiên, Việt Nam cho phép thành lập các liên đoàn lao động và cấm mọi hình thức cưỡng ép lao động hoặc lao động trẻ em.
Ngoài ra, TPP cũng đã đặt ra những tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường và chống tham nhũng cao nhất từ trước đến nay và đó là tương lai mà TPP có thể mang đến cho tất cả chúng ta. Bởi chúng ta, Mỹ, Việt Nam và các nước tham gia ký kết TPP sẽ phải tuân theo các quy định mà chúng ta đã đặt ra.
Đó là tương lai rộng mở cho tất cả chúng ta và chúng ta cần phải hoàn tất việc thông qua TPP để đảm bảo sự thịnh vượng về kinh tế và an ninh quốc gia.
Điều này đưa tôi đến lĩnh vực thứ hai mà chúng ta có thể hợp tác với nhau để đảm bảo an ninh chung. Thông qua chuyến thăm này, chúng ta đã nâng tầm hợp tác về an ninh và xây dựng thêm lòng tin giữa nhân dân hai nước. Chúng tôi sẽ tiếp tục huấn luyện và cung cấp trang thiết bị cho lực lượng Cảnh sát Biển của các bạn để tăng cường năng lực hàng hải của Việt Nam. Chúng tôi sẽ cung cấp viện trợ nếu xảy ra thiên tai.
Với tuyên bố mà tôi đưa ra ngày hôm qua rằng Mỹ quyết định dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm vũ khí đối với Việt Nam, Việt Nam giờ đã có thể tiếp cận mọi trang thiết bị cần thiết để đảm bảo an ninh quốc gia. Thông qua đó, Mỹ cũng muốn thể hiện cam kết của mình trong việc hoàn tất bình thường hóa quan hệ với Việt Nam.
Các cuộc chiến tranh trong thế kỷ 20 đã dạy cho tất cả chúng ta, trong đó có Mỹ và Việt Nam, một bài học rằng, trật tự thế giới quyết định mối quan hệ an ninh chung của chúng ta được bắt nguồn từ các nguyên tắc và chuẩn mực nhất định.
Mọi quốc gia đều có chủ quyền và dù là nước lớn hay nước nhỏ, chủ quyền của quốc gia đó cần phải được tôn trọng và không được xâm phạm lãnh thổ của họ. Các nước lớn không nên chèn ép các nước nhỏ và các tranh chấp cần phải cần được giải quyết hòa bình.
Các thiết chế trong khu vực như ASEAN và Hội nghị Cấp cao Đông Á cần phải được củng cố. Đó là điều mà tôi tin tưởng, đó là điều mà nước Mỹ tin tưởng và đó cũng chính là mối quan hệ đối tác mà Mỹ muốn hướng tới trong khu vực. Vào cuối năm nay, tôi sẽ là Tổng thống Mỹ đầu tiên đến Lào.
Liên quan đến vấn đề Biển Đông, dù không phải là nước có tranh chấp trực tiếp nhưng chúng tôi sẽ kề vai sát cánh với các đối tác trong việc tuân thủ những nguyên tắc cốt lõi như tự do hàng hải và tự do đi lại. Giao thương hợp pháp không được bị cản trở, các tranh chấp cần phải được giải quyết thông qua các quy định của luật pháp quốc tế. Mỹ sẽ tiếp tục điều tàu và máy bay hoạt động tại bất kỳ nơi nào mà luật pháp quốc tế cho phép, và chúng tôi sẽ hỗ trợ mọi quốc gia làm điều tương tự.
Ngay cả khi đã hợp tác chặt chẽ trong các lĩnh vực nói trên, mối quan hệ đối tác còn bao gồm cả những vấn đề mà Chính phủ hai nước vẫn còn bất đồng, bao gồm nhân quyền và tôi nói điều này không phải để ám chỉ riêng Việt Nam bởi không có quốc gia nào là hoàn hảo cả.
Hơn 200 năm đã trôi qua và nước Mỹ vẫn tiếp tục nỗ lực để theo đuổi những tư tưởng sơ khởi nhất. Chúng tôi vẫn phải đối mặt với những hạn chế của mình như có quá nhiều tiền đổ vào chính trị, bất bình đẳng về kinh tế cũng như sự phân biệt chủng tộc trong hệ thống pháp luật hình sự, phụ nữ không được trả tiền như nam giới dù làm cùng một công việc.
Chúng tôi vẫn có những vấn đề riêng của mình và chúng tôi không “miễn nhiễm” với những lời chỉ trích. Tôi khẳng định với các bạn rằng tôi nghe những lời chỉ trích ấy hàng ngày. Nhưng chính những thiếu sót ấy lại mở lối cho những cuộc tranh luận cởi mở và tạo điều kiện cho mọi người có thể cất lên tiếng nói của mình. Điều này giúp chúng tôi ngày càng lớn mạnh, thịnh vượng và công bằng hơn.
Như tôi từng nói trước đây, Mỹ không hề có ý định áp đặt mô hình Chính phủ của mình lên Việt Nam. Những quyền mà tôi nói ở trên không chỉ là những giá trị được coi trọng ở Mỹ mà tôi cho rằng, đó là những giá trị mang tính toàn cầu được viết trong Bản Tuyên ngôn Nhân quyền Quốc tế.
Những giá trị này được ghi trong Hiến pháp Việt Nam trong đó nêu rõ: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”.
Đó chính là những vấn đề chung đối với tất cả chúng ta, mỗi nước đều muốn theo đuổi những nguyên tắc nói trên và đảm bảo rằng, những người làm việc trong Chính phủ như chúng tôi phải thực sự tôn trọng những nguyên tắc đó.
Trong vài năm qua, Việt Nam đã đạt được những tiến bộ trong việc thực hiện các cam kết của mình trong việc đảm bảo rằng các bộ luật được thông qua đều theo đúng tinh thần của Hiến pháp và luật pháp quốc tế.
Theo một bộ luật mới được thông qua, Chính phủ Việt Nam sẽ công khai hơn các khoản chi tiêu ngân sách của mình và người dân sẽ được quyền tiếp cận thông tin nhiều hơn.
Như tôi đã nói ở trên, Việt Nam cũng đã đưa ra cam kết về cải cách kinh tế và lao động theo đúng tinh thần của TPP và đó là những bước đi tích cực và cuối cùng, tương lai của Việt Nam sẽ do chính người Việt quyết định. Mỗi quốc gia sẽ tự vạch ra con đường đi của mình.
Hai nước chúng ta có sự khác biệt về truyền thống, về thể chế chính trị và văn hóa, nhưng với tư cách là người bạn của Việt Nam, hãy cho phép tôi chia sẻ quan điểm của mình về việc tại sao một quốc gia lại trở nên thịnh vượng hơn khi những quyền cơ bản được tôn trọng.
Khi quyền tự do ngôn luận được tôn trọng và người dân có thể chia sẻ ý tưởng và được tiếp cận internet và mạng xã hội mà không bị hạn chế, nền kinh tế sẽ được “tiếp năng lượng và sự sáng tạo” để tiếp tục phá triển.
Đó là nơi những ý tưởng mới được sinh ra và đó cũng là nơi Facebook khởi nghiệp. Một số công ty lớn nhất của Mỹ được khai sinh là nhờ một ai đó có ý tưởng mới rất khác biệt và họ có thể chia sẻ với những người khác.
Khi quyền tự do báo chí được tôn trọng, khi các nhà báo và các bloggers có thể soi ánh sáng vào những nơi còn bất công và áp bức thì các quan chức sẽ buộc phải có trách nhiệm hơn. Điều này giúp tạo dựng niềm tin đối với người dân rằng hệ thống này đang làm việc hiệu quả.
Khi các ứng viên được quyền tranh cử tự do và cử tri được tự do lựa chọn người lãnh đạo mình trong các cuộc bầu cử tự do và công bằng, đất nước sẽ trở nên ổn định hơn bởi các công dân hiểu rằng, tiếng nói của họ được tôn trọng và sự thay đổi một cách hòa bình hoàn toàn có thể xảy ra nhằm tạo điều kiện cho những người mới hòa nhập vào hệ thống lãnh đạo.
Khi mà tự do tôn giáo không chỉ là cho phép người dân được bày tỏ sự thương yêu và thành kính, điều đã trở thành cốt lõi trong mọi tôn giáo, mà còn cho phép các nhóm tôn giáo phục vụ cộng đồng thông qua các trường học và bệnh viện cũng như chăm sóc cho những người nghèo khó và những người dễ bị tổn thương.
Và khi người dân được quyền tự do hội họp và lập hội và các tổ chức xã hội dân sự có thể giải quyết được những vấn đề mà bản thân Chính phủ cũng không giải quyết nổi.
Chính vì thế, quan điểm của tôi là, việc tôn trọng các quyền cơ bản đó sẽ không đe dọa gì đến sự ổn định, thay vào đó, nó sẽ giúp tăng cường sự ổn định và trở thành nền móng cho sự phát triển. Chính sự khát khao có được các quyền cơ bản đó đã thôi thúc người dân trên toàn thế giới, bao gồm Việt Nam lật đổ chế độ thực dân.
Tôi tin rằng, việc tôn trọng các quyền cơ bản này ở mức cao nhất cũng là thể hiện sự độc lập tự do mà rất nhiều người luôn ấp ủ, đặc biệt là ở một đất nước “của dân, do dân và vì dân”.
Việt Nam sẽ thực hiện điều này một cách hoàn toàn khác với Mỹ và mỗi nước sẽ thực thi một cách hoàn toàn khác với rất nhiều quốc gia khác trên thế giới. Tuy nhiên, có những nguyên tắc cơ bản mà tôi nghĩ rằng mọi quốc gia cần thực thi và cải thiện.
Tôi nói điều này với tư cách là người sắp rời khỏi nhiệm sở và tôi có điều kiện nắm quyền trong 8 năm để có thể nhìn lại những gì chúng tôi đã làm và hợp tác với các quốc gia khác trên toàn thế giới, những nước cũng luôn mong muốn cải thiện hệ thống của mình.
Cuối cùng, tôi cho rằng, mối quan hệ đối tác của chúng ta có thể giúp giải quyết các thách thức toàn cầu mà không một quốc gia nào có thể một mình tự giải quyết nổi.
Nếu chúng ta muốn đảm bảo sức khỏe cho người dân và gìn giữ vẻ đẹp của hành tinh này, chúng ta phải phát triển một cách bền vững. Những kỳ quan thiên nhiên như Vịnh Hạ Long hay hang Sơn Đoòng cần phải được gìn giữ cho thế hệ con cháu chúng ta.
Tình trạng nước biển dâng đang đe dọa bờ biển của Việt Nam. Với tư cách là đối tác trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu, chúng ta cần thực thi đầy đủ các cam kết đã đưa ra tại Hội nghị Paris. Chúng ta cần hỗ trợ những người nông dân và các ngư dân thích nghi với biển đổi khí hậu và mang những nguồn năng lượng sạch đến những khu vực như Đồng bằng sông Cửu Long- vựa lúa của cả thế giới- mà chúng ta cần để nuôi sống thế hệ tương lai.
Chúng ta có thể giúp cứu sống những người nằm ngoài biên giới của chúng ta bằng cách hỗ trợ các nước khác. Bằng cách tăng cường hệ thống y tế của họ, chúng ta có thể ngăn chặn dịch bệnh bùng phát trở thành đại dịch đe dọa tất cả chúng ta.
Trong bối cảnh Việt Nam đang thực thi cam kết của mình trong việc gìn giữ hòa bình quốc tế, Mỹ rất tự hào được huấn luyện cho các binh sĩ gìn giữ hòa bình của Việt Nam.
Một điều rất đáng chú ý chính là, hai nước chúng ta, những quốc gia từng chiến đấu chống lại nhau trong quá khứ giờ lại sát cánh cùng nhau để hỗ trợ các nước khác giành lấy hòa bình. Bên cạnh hợp tác song phương, mối quan hệ đối tác giữa hai nước cũng giúp định hình môi trường toàn cầu theo hướng tích cực.
Tuy nhiên, chúng ta cần nhận thức được rằng, tầm nhìn mà tôi nêu ra ngày hôm nay không thể đạt được “chỉ sau một đêm” và không tránh khỏi những trở ngại hoặc khó khăn phía trước. Sẽ có những thời điểm xảy ra hiểu lầm. Điều này đòi hỏi một nỗ lực lâu dài và thiện chí đối thoại và cả hai bền đều phải tiếp tục thay đổi.
Mặc dù vậy, khi nhìn lại lịch sử đầy khó khăn và thách thức mà chúng ta đã trải qua, tôi đứng đây cùng các bạn ngày hôm nay và hoàn toàn lạc quan về tương lai chung của chúng ta.
Niềm tin của tôi bắt nguồn từ tình hữu nghị và khát vọng chung của hai dân tộc. Tôi nghĩ đến những người Mỹ gốc Việt đã vượt đại dương để đoàn tụ với gia đình lần đầu tiên trong nhiều thập kỷ qua và những người như nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã viết “nối vòng tay lớn” là mở tấm lòng của mình ra để thấu suốt trái tim mình.
Tôi đang nghĩ đến tất cả những người Mỹ gốc Việt thành công trong bất kỳ lĩnh vực nào: bác sĩ, nhà báo, thẩm phán hay viên chức. Một trong số họ đã viết thư cho tôi và nói rằng: “Nhờ ơn Chúa tôi đã thực hiện được Giấc mơ Mỹ của mình”.
Tôi rất tự hào được là người Mỹ nhưng cũng rất tự hào về những người Việt Nam như các bạn. Ngày hôm nay, các bạn có mặt tại đây, nơi quê cha đất tổ của mình, sứ mệnh của các bạn là giúp cải thiện cuộc sống của mọi người dân Việt Nam.
Tôi đã nghĩ đến một thế hệ thanh niên Việt Nam mới, những người như các bạn đang có mặt tại đây, những người luôn sẵn sàng tạo dấu ấn riêng của mình đối với thế giới.
Tôi muốn nói với tất cả các bạn trẻ tại đây: Tài năng, động lực và ước mơ của các bạn là tất cả những gì Việt Nam cần để có thể phát triển và số phận nằm trong tay các bạn. Đây là thời điểm của các bạn và khi các bạn theo đuổi tương lai của mình, tôi muốn các bạn hiểu rằng, nước Mỹ luôn ở bên các bạn với tư cách là một đối tác và là một người bạn.
Nhiều năm sau này, khi ngày càng có nhiều người Mỹ và người Việt Nam cùng học tập, sáng tạo và làm ăn với nhau cũng như cùng đứng lên để thúc đẩy nhân quyền và bảo vệ hành tinh của chúng ta.
Tôi mong các bạn nhớ đến khoảnh khắc này và có thêm hy vọng từ cái thấy mà tôi đã chia sẻ với các bạn ngày hôm nay. Hoặc, nói như trong truyện Kiều mà các bạn thuộc nằm lòng có câu:
"Rằng trăm năm cũng từ đây
Của tin gọi một chút này làm ghi"
Cảm ơn các bạn. Cảm ơn Việt Nam!