Sử dụng kinh thiền Nguyên thỉ làm nền tảng với tinh thần Phật giáo Ðại thừa

Phương pháp thiền Làng Mai –
Sử dụng các kinh thiền Nguyên thỉ làm nền tảng với tinh thần của Phật giáo Ðại thừa

Được bắt nhịp và bám rễ trên mảnh đất Tây phương từ khá sớm, phương pháp thiền do Thiền sư Nhất Hạnh hướng dẫn đã tạo nên một ảnh hưởng rất lớn trong xu hướng tu tập của nhiều giới, nhiều người. Trong khuôn khổ phác thảo một bức tranh chung về Thiền học Việt Nam đương đại, NSGN xin trân trọng giới thiệu cuộc phỏng vấn với Thiền sư Nhất Hạnh xoay quanh chủ đề về Thiền phái mà Thiền sư chính là người khai phát thành công tại Tây phương và nhiều quốc gia trên thế giới.

NSGN

Phóng viên:

Xin Thiền sư cho biết, nhân duyên nào khiến Thiền sư chọn pháp môn tu Thiền trong đường hướng tu tập của mình?

Thiền sư Nhất Hạnh:

Hồi còn là học Tăng, tôi đã có dịp thực tập các phép Chỉ và Quán của thầy Trí Giả, các pháp quán Ngũ Ðình Tâm, và phép niệm Phật, nhưng một phần vì sự học hỏi còn chưa được sâu sắc, một phần vì sự hướng dẫn của các vị thầy y chỉ lúc ấy còn sơ sài, nên kết quả không có gì đáng kể. Lớn lên, tôi có dịp nghiên cứu về Thiền Tổ Sư, Thiền Công Án, Thiền Mặc Chiếu, và cũng đã cố gắng đem ra thực tập, nhưng cũng không đạt được những kết quả mình mong muốn. Mãi đến khi phải đối diện với các tình trạng chiến tranh, đất nước chia đôi, mẹ mất, sa sút tinh thần, mất ngủ, tôi mới quyết liệt nắm lấy pháp môn An Ban Thủ Ý mà thực tập để sống sót. Nhờ đem thiền Ðông độ trở về tắm ở dòng suối của Phật giáo Nguyên thỉ nên tôi mới tinh lọc được giá trị chân thật của Phật giáo Ðại thừa. Những thiền kinh căn bản của Nguyên thỉ như Niệm Xứ, Niệm Thân, An Ban Thủ Ý, A Lê Xá, An Nan Thuyết v.v… trong Hán tạng cũng như trong Pali tạng đã được tôi nghiên cứu kỹ lưỡng để đem ra thực tập. Giáo nghĩa hiện pháp lạc trú, các phép điều thân, điều tức, nhận diện cảm thọ, cảm xúc, quán chiếu tự tính các pháp v.v… hiện ra như một bó đuốc soi đường. Lúc bấy giờ tôi mới thấy được tính cách thiết dụng các kinh điển đại thừa như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Kim Cương, và tính cách nhất trí giữa hai truyền thống Nguyên thỉ và Ðại thừa. Tác phẩm nhỏ bé Bông Hồng Cài Áo là hoa trái đầu tiên của sự thực tập ấy. Tác phẩm Phép Lạ của Sự Tỉnh Thức , xuất bản lần đầu tại Việt Nam và Hoa Kỳ năm 1974 là chứng tích của sự thực tập, 1956-1972 là giai đoạn thai nghén và hình thành Thiền Làng Mai.

Thưa, quan điểm về Thiền của Ngài là gì, và nền tảng lý luận về phương pháp ấy?

Thiền sư Nhất Hạnh:

Tôi nghĩ, bất cứ pháp môn nào có sử dụng năng lượng của Niệm và của Ðịnh đều mang tính chất thiền, kể cả các pháp môn Niệm Bụt và Trì Chú. Niệm và Ðịnh nếu thực sự có mặt thì sẽ đem tới Tuệ. Tuệ luôn luôn làm phát khởi Từ và Bi. Chính Tuệ sẽ tháo gỡ được những khó khăn của bản thân và giúp tháo gỡ những khó khăn của những người khác. Thiền có công năng chuyển hóa và trị liệu cho mình và cho người. Giải thoát trước hết là vượt thoát các tâm hành giận hờn, bế tắc, lo lắng, sợ hãi, tuyệt vọng, những khó khăn trong nội tâm và trong hoàn cảnh, giải tỏa được hiểu lầm, thực hiện được hòa giải và tha thứ. Vì vậy, thiền phải có tính cách thực dụng. Mình tháo gỡ được cho mình rồi mình mới có khả năng giúp người khác tháo gỡ. Công phu cũng như thành quả phải tập trung cả vào giờ phút hiện tại. Ðọc lại Lâm Tế Lục , mình mới thấy được rõ ràng cái quan trọng của giây phút hiện tại: tùy xứ tác chủ, lập xứ tắc chân, phép lạ là đi ngay trên mặt đất . Vì lý do đó cho nên Thiền có thể đi đôi tuyệt hảo với Tịnh: nếu tâm có Niệm và Ðịnh thì Tịnh Ðộ hiện tiền, không cần đi tìm Tịnh Ðộ ở tương lai và ở một nơi nào khác. Giáo lý Duy Tâm Tịnh Ðộ đã cung cấp nền tảng cho sự thực tập này: nếu tâm tịnh là độ tịnh, ở đâu mình cũng có thể ngồi ở tịnh độ, đi trong tịnh độ. Có tịnh độ bây giờ thì chắc chắn cũng có tịnh độ trong tương lai. Vì vậy người tu thiền cảm thấy thoải mái khi trì tụng bài sám: Nương tựa A Di Ðà, trong bản môn mầu nhiệm (Nhật Tụng Thiền Môn 2000 ). Các vị tổ sư như Trần Thái Tông và Tuệ Trung Thượng Sĩ đều có nói: Di Ðà là tự tính, là pháp thân của chính ta, không phải là một thực tại nằm bên ngoài.

– Nếu như có thể, xin khái quát phương thức tu tập căn bản của dòng Thiền mà Thiền sư hướng dẫn – bao gồm những gì, quá trình tu tập và cùng những ích lợi cụ thể thiết thực của nó trong đời sống hiện đại?

Thiền sư Nhất Hạnh:

Sự thực tập của giới xuất gia và cả của giới không xuất gia là nắm cho vững hơi thở, bước chân và an trú trong giây phút hiện tại để nhận diện tất cả những gì đang xảy ra trong giây phút hiện tại. Tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống để được nuôi dưỡng, nhận diện những khổ đau để làm vơi nhẹ và cuối cùng để chuyển hóa và trị liệu: năng lượng để làm các công việc này là Niệm và Ðịnh. Mỗi giây phút của sự thực tập hằng ngày là để chế tác Niệm và Ðịnh. Niệm và Ðịnh đưa tới hiểu (Tuệ) và thương (Từ và Bi). Chính cái vốn liếng hiểu và thương ấy giúp mình tháo gỡ được những khó khăn cho mình và cho người. Các khóa tu tổ chức hoặc 90 ngày, 21 ngày, 7 ngày, 5 ngày, 3 ngày hay 1 ngày đều là để thực tập chế tác niệm, định và tuệ; những giờ ngồi thiền, đi thiền, chấp tác, pháp đàm, địa xúc, làm mới, xướng tụng… đều nhắm vào mục đích ấy. Phương pháp lắng nghe và ái ngữ giúp mình điều chỉnh tri giác sai lầm, giúp người khác điều chỉnh tri giác sai lầm, phục hồi tình huynh đệ, nuôi dưỡng hiểu và thương. Những khóa tu như thế đã được tổ chức khắp nơi, thường thường phải thuê các trường Ðại Học trong dịp Hè mới có đủ chỗ cho cả ngàn thiền sinh về tu tập trong nhiều ngày. Năng lượng hùng hậu của một tăng thân có tu có học lâu ngày rất cần thiết cho sự thành công của những khóa tu lớn như thế. Ít nhất phải có một tăng thân gồm có 60 vị vừa xuất gia vừa tại gia mới hướng dẫn được một khóa tu như thế. Khóa nào cũng chứng kiến sự chuyển hóa của những cặp vợ chồng, cha con, mẹ con, đem lại hòa giải, tha thứ, hạnh phúc. Sau những khóa tu như thế ai cũng muốn khi trở về địa phương thành lập một tăng thân để tiếp tục nuôi dưỡng sự thực tập cho bền bỉ. Hiện có cả hàng ngàn tăng thân như thế tại các nước Âu, Mỹ, Á và Úc. Các thành phố lớn như New York, London, Los Angeles đều có ít nhất mười tăng thân. Tăng thân là những nhóm người thực tập theo pháp môn Làng Mai, thường được gọi là Communities of Mindful Living. Từ Ðiển Làng Mai cũng như các web sites trang nhà liên hệ tới Làng đều cung cấp địa chỉ của những tăng thân như thế để mọi người có thể tìm tới tham dự.

Thiền sinh thực tập theo pháp môn Làng Mai đều thọ trì Năm Giới và Giới Tiếp Hiện. Trong pháp tu Làng Mai, Niệm là bản chất của Giới. Cho nên vị nào thực tập Năm Giới và Mười Bốn Giới và các Uy Nghi cho vững vàng thì vị ấy sẽ dễ thành công hơn trong công phu thiền tập. Có những khóa tu được tổ chức cho những giới chức nghiệp đặc biệt như các vị chuyên về Tâm Lý Trị Liệu, các vị Giáo Chức, các vị chuyên về Bảo Hộ Sinh Môi, các vị chuyên về ngành An Ninh, các vị Văn Nghệ Sĩ, Diễn viên và Sản xuất Ðiện Ảnh, các vị Doanh Nhân, các vị Dân Biểu Quốc Hội v.. v… Trước khi mở những khóa đặc biệt như thế, mình phải học hỏi về những khó khăn và khổ đau của họ để có thể đưa ra những pháp môn thực tập thích hợp và hữu hiệu.

– Phương pháp tu Thiền mà Thiền sư đang hướng dẫn có thể gọi là gì?

Thiền sư Nhất Hạnh:

Làng Mai chưa từng có ý đặt tên cho sự thực tập của mình. Các bạn thiền sinh Tây phương khi viết và nói về Làng Mai hay dùng danh từ “Thiền Làng Mai” hoặc “In the tradition of Thích Nhất Hạnh” . Có một hôm nhìn lại tôi bỗng ngạc nhiên thấy sao mà pháp môn Làng Mai đi đúng con đường Thiền Sư Tăng Hội đã vạch cách đây 18 thế kỷ quá: sử dụng các kinh thiền nguyên thỉ làm nền tảng cho sự thực tập, nhưng với tinh thần của Phật giáo Ðại Thừa! (Thiền Sư Tăng Hội có nói : An Ban là đại thừa của chư Phật, có mục đích cứu độ chúng sanh ). Tôi cũng thấy sao mà pháp môn tu tập Làng Mai trung thực với tinh thần Lâm Tế Lục một cách không ngờ được như thế! Ðây là tình cờ hay là có chủ ý? Có chủ ý thì tôi thấy mình chưa bao giờ có chủ ý, nhưng tình cờ thì tôi không tin là tình cờ được. Không có cái gì tình cờ. Phải có những động lực nào thúc đẩy trong chiều sâu tâm thức. Tôi nghĩ đó là năng lượng dẫn dắt của chư vị tổ sư.

– Xin Thiền sư cho biết sự phát triển hiện nay của dòng Thiền do thiền sư hướng dẫn, trên thế giới và Việt Nam ?

Thiền sư Nhất Hạnh:

Cho đến ngày 06.08.2008, chúng tôi đã độ được 515 người xuất gia của 31 quốc tịch, và đào tạo được suýt soát 300 vị giáo thọ vừa xuất gia, vừa tại gia. Số lượng này còn quá ít không thể thỏa mãn được những nhu cầu khắp nơi. Có những trung tâm tu học đã được thiết lập tại Tây Phương : Các Tu Viện Bích Nham (Nữu Ước), Lộc Uyển (Cali), Rừng Phong, Thanh Sơn, (Vermont), Mộc Lan (Mississipi) ở Hoa Kỳ, Làng Cây Phong ở Canada, Làng Sen Búp, Làng Trúc Xanh ở Úc, các trung tâm Từ Thị ở Bavaria, Trung Tâm Suối Thương ở Berlin (Ðức). Pháp môn Làng Mai hiện đang được thực tập ở ít nhất là 50 quốc gia. Viện Phật Học Ứng Dụng Châu Âu (The European Institute of Applied Buddhism) gọi tắt là EIAB vừa được thiết lập ở Ðức để góp phần đào tạo thêm các vị Giáo Thọ.

-Liên hệ giữa Thiền và Giáo như thế nào trong pháp môn Làng Mai ?

Thiền sư Nhất Hạnh:

Nhìn vào cách học và thực tập ở Làng Mai ta có thể thấy được sự nhất trí của Thiền và Giáo một cách rõ ràng. Các kiến thức về Duy Biểu do các tác phẩm Duy Thức Học cung cấp, các kiến thức về A Tỳ Ðạt Ma do các bộ Luận như Câu Xá, Thành Thật, Thanh Tịnh Ðạo, Giải Thoát Ðạo v..v.. đều có ích lợi cho sự thực tập Thiền bởi vì chúng giúp cho hành giả biết rõ hơn về cách vận hành của tâm thức. Thiền sư Thường Chiếu ngày xưa đã nói: “Biết rõ về cách vận hành của tâm thức thì sự thực tập trở nên dễ dàng hơn”. Các kinh điển lớn của Ðại Thừa như Bát Nhã, Hoa Nghiêm, Bảo Tích, Pháp Hoa đều đóng một vai trò quan trọng trong thiền tập. Khi học các kinh này, thiền sinh luôn luôn phải đặt câu hỏi: Những giáo lý uyên thâm trong kinh này phải được áp dụng như thế nào để tháo gỡ những khó khăn nội tâm mà hành giả đang mắc phải ? Cho nên giữa cái học và cái hành có một liên hệ rất thân thiết. Sách Nhật Tụng Thiền Môn có một buổi Công Phu Niệm Bụt với màu sắc Tịnh Ðộ Tông và một buổi Công Phu Thí Thực có màu sắc Mật Tông. Hành giả cảm thấy thoải mái với cả hai truyền thống này. Chắc quý vị còn nhớ là năm 2007 các thiền sinh Làng Mai đã tham dự các Ðại Trai Ðàn Chẩn Tế Bình Ðẳng tại Ba Miền Việt Nam với rất nhiều thoải mái trong có các buổi thiền tọa, thiền hành, pháp thoại… Các kiến thức về khoa sinh học mới, nhất là về khoa thần kinh não bộ, về khoa lượng tử học cũng như kinh nghiệm của các trường phái tâm lý trị liệu Tây Phương cũng đóng góp rất nhiều cho sự giảng dạy và thực tập ở Làng Mai. Thiền Làng Mai không có tính trừu tượng, trái lại rất cụ thể: thiền sinh nào cũng đều thực tập thiền hướng dẫn một thời gian mới có thể tự quán chiếu một mình; Các sách tập thiền căn bản như Sen Búp Từng Cánh Hé, Phép Lạ của sự Tỉnh Thức, Từng Bước Nở Hoa Sen, Chỉ Nam Thiền Tập cho Người Trẻ v…v… đều có thể được sử dụng như những thiền phổ cho người mới bắt đầu thực tập. Viện Phật Học Ứng Dụng Châu Âu với các khuôn viên của Viện ở Ðức, Pháp, Hoa Kỳ v..v.. có mở những khóa tu thiền rất thực tiễn cho thiền sinh như những khóa tu dành cho những người đang khổ đau vì mất người thân, cho những người vừa khám phá ra rằng mình có bệnh nan y, cho những cặp cha con vợ chồng đang có khó khăn trong việc truyền thông, cho những cặp nam nữ đang có dự tính kết hôn v..v.. Những khóa tu ấy rất thực dụng và đều đi về hướng Ðạo Phật Nhập Thế, ai cũng có thể ghi tên theo học và thực tập mà không nhất thiết cần phải là Phật tử.

-Thiền sư nhận định gì về tình hình tu tập ở Việt Nam hiện nay? Phương pháp tu hành của Ngài đóng góp như thế nào cho vấn đề tu tập ấy và tương lai của nó?

Thiền sư Nhất Hạnh:

Cái học của chúng ta hiện rất từ chương. Tôi rất mong Phật giáo Việt Nam sớm đi về hướng nhập thế và thực dụng để có thể đóng góp cụ thể cho hạnh phúc dân tộc và đất nước. Cái học và cái hành phải đi song song (hành giải tương ưng). Rất mong tại các Viện Phật Học, các vị giáo thọ và các học tăng được thực tập với nhau, sống với nhau, ngồi thiền, bái sám, đi thiền hành, ăn cơm chánh niệm, chấp tác với nhau… như trong truyền thống các tu viện ngày xưa. Có như thế người học tăng mới tiếp nhận được từ kinh nghiệm và phong cách của các bậc thầy của mình. Hy vọng pháp môn Làng Mai có thể đóng góp một phần nhỏ vào hướng đi ấy. Chúng ta có thể tổ chức cho các vị giáo thọ và sinh viên các Viện Phật Học, thỉnh thoảng về các tu viện Làng Mai tại Âu Mỹ hay tại Việt Nam để thăm viếng, cắm trại và quán sát cách học, cách tu của những nơi này. Có thể đó là một trong những phương thức vui tươi nhất để tìm hiểu và đối thoại mang ích lợi cho cả hai phía truyền thống.

 

Chúc Phú – Quảng Kiến thực hiện – (Tựa đề của NSGN, Nguyệt San Giác Ngộ số 150/ tháng 9/2008)

Oprah đàm đạo với Thiền sư Nhất Hạnh

Oprah Winfrey là một phụ nữ 56 tuổi – một ngôi sao truyền hình Mỹ. Có thể nói Oprah Winfrey là một phụ nữ danh tiếng và có nhiều ảnh hưởng nhất trên quần chúng ở Hoa Kỳ. Năm 2006, chính Oprah đã mang về cho Obama hơn một triệu lá phiếu, thắng Hilary Clinton,  để được đảng Dân Chủ đề cử làm ứng viên Tổng thống. Có người cho rằng Oprah có quyền lực mạnh bằng hay hơn 100 nghị sĩ, dân biểu Mỹ.

Cô đã là tỷ phú da đen đầu tiên và duy nhất trên thế giới (trong các năm 2004-2006). Sanh ra trong nghèo khó và trải qua nhiều thảm kịch khi còn trẻ, Oprah đã được học về ngành truyền thông trên đại học. Từ 1986, Oprah bắt đầu Show riêng của cô, lấy tên là Oprah Winfrey, mỗi năm mỗi thêm khán giả – tới năm 1998, hàng ngày có khoảng 14 triệu người Mỹ xem chương trình truyền hình của cô. Cũng thời gian này, Oprah đổi hướng, làm các show chú trọng tới các vấn đề văn chương, tâm linh và giáo dục.  Công ty Harpo do Oprah làm chủ phát hành các Shows truyền hình, sách báo, radio, phim ảnh và trang nhà Oprah.com v.v… Cô dự định ngưng việc làm Show trên truyền hình vào tháng 9, 2011, sau 25 năm làm “bá chủ” ngành này. Năm 2010, cô bước vào lãnh vực mới, làm người kể chuyện trong một loạt chương trình dài hạn về Đời sống cho đài Discovery, sau khi đã bỏ vốn hùn hạp với họ.

Trên trang nhà Oprah.com, chúng tôi đọc được lời giới thiệu sau đây của Oprah về Thiền sư Nhất Hạnh, người mà cô được đặc cách phỏng vấn vào tháng 9, 2009 tại Nữu Ước, khi thiền sư tới đó hoằng pháp:

OWand - ThichNhatHanh

Đó là nhà sư Phật Giáo có 60 tuổi đạo, cũng là một vị thầy dạy học, một nhà văn, một người can đảm gióng lên tiếng gọi ngưng chiến tranh, những vị thế đó đã đưa người vào tình trạng bị lưu đày khỏi quê hương bốn mươi năm. Và người ấy, người mà Martin Luther King Jr đã gọi là “một vị tông đồ của hòa bình và bất bạo động” đã chỉ cho chúng ta thấy cái đẹp của phút giây hiện tại, biết cám ơn từng hơi thở, và giúp cho ta thấy được là giải thoát và hạnh phúc có thể tìm thấy rất dễ dàng trong khi ta uống một ngụm trà. Ngay phút giây được gặp người ở khách sạn Bốn Mùa (Four Season Hotel) ở Mahattan Nữu Ước, tôi cảm nhận ngay một sự an bình tỏa rạng nơi người. Một trường năng lượng an bình và sâu lắng toát ra từ Thiền Sư. Nhưng bên dưới của phong thái rất bình an đó là một chiến sĩ cang cường. Sinh đẻ tại Việt Nam ông thầy tu 83 tuổi này đi tu hồi năm 16, can đảm đòi hỏi chấm dứt chiến tranh Việt Nam trong thời kỳ mà hai bên đất nước ông đang lâm chiến. Dù đã chọn cuộc đời thiền quán của một ông thầy tu nhưng chiến tranh xảy ra trước mắt khiến người phải chọn : một là mãi ẩn tránh trong chùa, hai là vừa thiền quán mà vừa ra ngoài giúp người đang chạy dưới bom đạn? Quyết định của ông thầy tu trẻ này đã khai sinh ra một loại Phật Giáo dấn thân, một phong trào vận động cho hòa bình đồng thời dấn thân vào những công tác đưa tới sự thay đổi chuyển hóa xã hội. Chính những hành động muốn sửa đội xã hội bằng phương pháp bất bạo động đó đã khiến cho ngài Martin Luther King Jr đề nghị Thiền Sư nhận giải Nobel Hòa Bình năm 1967.

Song song với việc phản đối những bạo động mà đồng bào ông phải gánh chịu, ông thầy tu trẻ đã thành lập một tổ chức xã hội để xây trường học trạm y tế ở những nơi nghèo khó, xây dựng lại những làng xã bị nát tan vì đạn bom và tìm cách giúp định cư cho những người nhà cửa bị tiêu tán vì bom đạn. Thầy Nhất Hạnh cũng đã xây dựng trường đại học Phật giáo, lập nhà xuất bản và chủ trương viết tuần báo, viết nguyệt san cổ xúy cho hòa bình – tất cả những việc làm này cuối cùng đã khiến cho chính quyền Miền Nam cấm đoán ông trở về lại Việt Nam sau một chuyến đi vận động cho hòa bình. Thầy bị lưu đày khỏi xứ 39 năm.

Trước khi bị lưu đày Thầy đã từng xuất ngoại và sống ở Tây Phương (học và nghiên cứu tại đại học Princeton và dạy học ở Đại Học Columbia trong những năm đầu 1960) và cũng chính ở Tây Phương mà bây giờ Thầy đã trở lại. Thấy rằng để có dịp chia sẻ những hiểu biết của mình về đạo Phật và cũng để vận động cho hòa bình Việt Nam qua hành động bất bạo động, Thầy đã thành lập Phái Đoàn Hòa Bình Phật Giáo tại Paris trong khi các cường quốc đang hội họp để bàn về vận mạng Việt Nam ở nơi này . Đó là vào năm 1969, khi thầy thành lập Giáo Hội Phật Giáo Nhất Quán tại Pháp và tiếp tục viết hơn 100 quyển sách, kể cả quyển sách bán chạy nhất là Living Buddha, living Chirst (Bụt đang sống Chúa đang có mặt) năm 1995 – cuốn sách này là sách gối đầu giường của tôi.

Thầy Nhất Hạnh giờ đây đã định cư ở Miền Nam nước Pháp và thành lập Làng Mai, một trung tâm tu học đạo Phật và một tu viện nơi mà thầy đang sống. Mỗi năm, hàng ngàn người tới từ nhiều quốc gia, họ đến để tìm hiểu thâm sâu hơn cách hành trì theo lời Bụt dạy – kể cả thực tập chánh niệm (mục đích là đưa tâm về phút giây hiện tại), khai triển những phương pháp tu tập (sinh hoạt bình thường như là đi trong ý thức, và kéo mình trở lại chánh tư duy) và giác ngộ (thoát khỏi những khổ đau khi mình thấy rõ được bản chất của thực tại). Những nguyên tắc này đã được giới thiệu từ hơn 2000 năm nay bởi Siddhartha Gautama – là Đức Phật, một ông hoàng người Ấn Độ đã từ bỏ đời sống dễ dãi và hưởng thụ của mình để đi tìm ánh sáng giác ngộ – và sau đó đã thành lập một con đường tâm linh cho cuộc hành trình đó. Thiền sư Thích Nhất Hạnh, hay đơn giản hơn “thầy” mà các đệ tử của người đã gọi rất thân thương, đã dẫn theo một nhóm nam và nữ tu sĩ từ Làng Mai đến để tham dự cuộc trò chuyện của chúng tôi. Trong vài truyền thống tâm linh thường hay có một nhóm người có mặt để lắng nghe một cách từ bi câu chuyện. Thầy Nhất Hạnh đã đem theo một nhóm người như thế và đã cùng chụp ảnh với chúng tôi và cuối cùng đã hát chung một bản nhạc rất nhẹ nhàng bình an : “Chúng ta là lá của một thân cây, chúng ta là những đợt sóng của một đại dương, đã đến lúc mà chúng ta phải đến và sống với nhau như cùng một cơ thể.”

Cô Oprah: Cám ơn thầy đã cho chúng tôi hân hạnh trò chuyện với thầy. Chỉ cần sự hiện diện của thầy là chúng tôi đã cảm thấy bớt bức xúc quýnh quáng nhiều lắm, so với những gì xảy ra từ sáng đến giờ. Quả thực như là có một vùng ánh sáng thật bình an đang toát ra quấn lấy thầy. Lúc nào thầy cũng có vẻ an bình tròn đầy như vậy sao ?

TS Nhất Hạnh: Đó là sự thực tập của tôi. Và tôi luyện cách sống như vậy mỗi phút giây để có thể giữ sự bình an trong tôi suốt ngày.

Cô Oprah: Bởi vì mình sẽ không thể cho người khác cái gì mà mình không có phải không thưa thiền sư ?

TS Nhất Hạnh: Vâng, đúng vậy.

Cô Oprah: Tôi biết rõ là thầy được sinh ra ở Việt Nam năm 1926. Thầy có thể chia sẻ cho chúng tôi một kỷ niệm nào tuyệt vời nhất trong thời ấu thơ không ?

TS Nhất Hạnh: Đó là ngày tôi thấy được hình ảnh của Đức Phật trong một tờ tạp chí.

Cô Oprah: Hồi ấy thầy mấy tuổi ?

TS Nhất Hạnh: Tôi lên 7 hay 8 gì đó. Phật ngồi trên cỏ, thật bình an và mỉm cười. Tôi rất cảm kích, bởi vì quanh tôi không ai được như vậy. Vì thế tôi đã mong được như ngài. Và tôi đã nuôi dưỡng ước mong đó cho tới năm tôi 16 tuổi khi tôi xin được cha mẹ tôi để đi tu và tôi được quy y, thọ giới.

Cô Oprah: Ba mẹ thầy có khuyến khích thầy không ?

TS Nhất Hạnh: Ban đầu thì hơi miễn cưỡng vì họ nghĩ là cuộc sống của một nhà tu cực khổ và nhiều khó khăn.

Cô Oprah: Ở tuổi 16 thầy có biết cuộc đời sẽ như thế nào không ?

TS Nhất Hạnh: Không nhiều lắm. Tôi chỉ biết là trong tôi có một khát khao lớn. Cảm tưởng rằng mình sẽ không bao giờ hạnh phúc được nếu không là thầy tu. Người đời thường gọi đó là tâm ban đầu – sự khát khao sâu sắc mà một người có thể có. Và tôi có thể nói là cho tới bây giờ cái tâm ban đầu đó vẫn còn sống mạnh mẽ trong tôi.

Cô Oprah: Đó là cái mà thiên hạ gọi là sự đam mê. Đó cũng là cách tôi cảm nhận về công việc tôi đang làm hàng ngày. Khi có đam mê như thế thì mình vẫn cảm thấy thoải máy khi làm việc dù không ai trả tiền cho mình.

TS Nhất Hạnh: Và ta thích thú làm việc đó.

Cô Oprah: Vậy là thầy thích thú hành động theo cái tâm ban đầu đó. Chúng ta thử nhắc lại khi thầy vừa mới bước tới Bắc Mỹ lần đầu nhé. Thầy đã học ở Viện Đại Học Princeton phải không? Là một ông thầy tu Việt Nam, cái gì khó khăn nhất với thầy để có thể làm bạn được với sinh viên (Hoa Kỳ) ? Thầy có cảm thấy cô đơn không ?

TS Nhất Hạnh: Vâng, đại học Princeton giống như một tu viện. Thời đó chỉ có nam sinh viên và không có lấy một người Việt sống ở vùng lân cận và cũng không có nhiều ở Hoa Kỳ. Sáu tháng liền tôi không thể chuyện trò với ai bằng tiếng Việt. Nhưng khu làng đại học rất đẹp. Và cái gì cũng mới đối với tôi – cây cỏ chim chóc, và cả thức ăn nữa. Mùa tuyết đầu tiên của tôi là ở tại đây, và lần đầu tiên tôi dùng máy sưởi. Mùa thu đầu tiên của tôi cũng ở Princeton.

Cô Oprah: Khi lá bắt đầu đổi màu.

TS Nhất Hạnh: Vâng, ở Việt Nam chúng tôi không hề thấy được cảnh huy hoàng ấy của mùa thu.

Cô Oprah: Thời đó thầy vẫn mặc áo thầy tu chứ ?

TS Nhất Hạnh: Vâng.

Cô Oprah: Khỏi phải lo đi mua áo phải không ạ ? Lúc nào cũng chỉ mặc cái áo thầy tu ư ?

TS Nhất Hạnh: Vâng.

Cô Oprah: Thầy có áo nào khác vào những dịp khác không ?

TS Nhất Hạnh: Chúng tôi có áo để làm lễ gọi là y, màu cam. Chỉ có thế. Chúng tôi cảm thấy rất thoải mái khi mặc những y áo ấy. Và chúng đã vui vẻ nhắc nhở rằng chúng tôi là thầy tu.

Cô Oprah: Thầy tu là sao thưa thầy ?

TS Nhất Hạnh: Là thầy tu là để có được nhiều thì giờ tu tập, để chuyển hóa những khó khăn và chữa lành được những nỗi khổ niềm đau của mình. Rồi sau đó mình mới biết cách giúp người khác chuyển hóa và trị liệu như mình.

Cô Oprah: Có phải là hầu hết các người tu đều được giác ngộ hay là đang tìm cách để sớm giác ngộ không ?

TS Nhất Hạnh: Giác ngộ lúc nào cũng có mặt đó. Một giác ngộ nhỏ, hai giác ngộ nhỏ … từ từ đưa tới giác ngộ lớn. Nếu cô thở và cô ý thức là cô đang sống – là cô đang tiếp xúc với cái mầu nhiệm của sự kiện mình vẫn đang còn sống – đó một loại giác ngộ. Nhiều người đang còn sống nhưng họ không ý thức và vì thế không tiếp xúc được sự mầu nhiệm là mình còn sống ấy.

Cô Oprah: Tôi biết chắc là thầy đã thấy rõ hết quanh thầy – tôi cũng cảm thấy mình có sai lầm ấy – vì sao lúc nào người ta cũng gắng làm xong việc thật nhanh để bắt kịp việc làm kế tiếp, hành động kế tiếp. Ở đất nước chúng tôi, con người rất bận rộn. Ngay cả trẻ con. Tôi có cảm tưởng như là rất ít người trong chúng ta làm được những gì thầy vừa nói, nghĩa là tiếp xúc với phép lạ mà mình đang được sống.

TS Nhất Hạnh: Đó là môi trường mà mọi người đang sống. Nhưng với sự thực tập, chúng ta vẫn có thể luôn giữ đựợc sự tỉnh giác trong phút giây hiện tại là mình đang may mắn còn sống. Với chánh niệm, ta có thể định tâm trong phút giây hiện tại để có thể tiếp xúc được với những nhiệm mầu của sự sống đang có mặt trong giây phút đó. Chúng ta có thể sống rất hạnh phúc ngay bây giờ và tại đây. Có rất nhiều điều kiện đang có mặt bây giờ và tại đây – nhiều hơn là bạn tưởng, để bạn có thể hạnh phúc liền tức thì. Bạn không cần chạy về tương lai để có thêm nữa.

Thầy Nhất Hạnh định nghĩa về hạnh phúc và tiết lộ cách nào để đạt tới hạnh phúc

Cô Oprah: Hạnh phúc là gì thưa Thầy?

TS Nhất Hạnh: Hạnh phúc là sự chấm dứt khổ đau, mạnh khoẻ và thoải mái. Ví dụ như khi tôi thở vào và ý thức sự có mặt của đôi mắt tôi, thở ra tôi ý thức đôi mắt tôi còn tốt và mỉm cười với đôi mắt của tôi, hạnh phúc quá phải không. Có cả một thiên đường mầu sắc và hình dáng dàn trãi quanh tôi, trên cuộc đời này. Nhờ chúng ta còn đôi mắt sáng nên ta mới tiếp xúc được với thiên đàng ấy. Vì thế khi tôi bắt đầu ý thức về đôi mắt tôi, tôi tiếp xúc ngay được những điều kiện hạnh phúc. Và khi tiếp xúc những điều kiện ấy, ta bắt gặp ngay hạnh phúc trong giờ phút này.

Cô Oprah: Và thầy có thể làm như thế với những phần khác của cơ thể thầy phải không ?

TS Nhất Hạnh: Đúng vậy. Thở vào, tôi để ý tới trái tim tôi. Thở ra tôi mỉm cười với trái tim tôi và biết rằng trái tim tôi còn đang đập bình thường. Tôi rất cám ơn trái tim của tôi.

Cô Oprah: Thế là phải nhớ ý thức từng sự vật, từng phút giây và dâng niềm biết ơn về những gì mà mình đang có phải không thưa thiền sư ?

TS Nhất Hạnh: Vâng.

Cô Oprah: Và không chỉ những điều kiện vật chất mà thôi, mà về sự kiện là ta vẫn còn hơi thở.

TS Nhất Hạnh: Vâng, ta chỉ cần tập chánh niệm nghĩa là đem tâm trở về với thân và an trú trong giây phút hiện tại. Nếu mình hoàn toàn có mặt trong phút giây này, ta có thể nhìn sâu hơn để bước một bước chân ý thức trên hành tinh đẹp đẽ này, hay thở vào một hơi để ý thức là ta đang đứng trong thiên đàng của Thượng Đế. Khi mà ta đã có cõi thiên đàng thanh tịnh đó rồi, ta đâu có cần phải chạy theo đối tượng của sự thèm khát như là danh tiếng, tiền tài hay những dục lạc khác. Bình an và niềm vui nhẹ nhàng có thể đạt tới ngay. Và sự thực tập này đủ đơn giản cho tất cả mọi người.

Cô Oprah: Thầy dạy chúng tôi cách thực tập đó đi.

TS Nhất Hạnh: Ví dụ như cô đang uống trà nhé. Cô nâng chén trà lên, cô có thể thở vào, đưa tâm cô trở về với thân và cô sẽ hoàn toàn có mặt trong lúc đó. Và khi mà cô thực tình có mặt trong phút ấy thì còn một cái khác cũng có mặt, đó là sự sống được đại diện bởi chén trà. Trong giây phút ấy cô thật sự sống, chén trà cũng hiển hiện thơm tho, sâu lắng… Cô không bị đi lạc vào quá khứ, không bị kéo về tương lai, về những dự án, những lo âu… Cô hoàn toàn tự do, thoát khỏi những phiền toái đó. Và trong trạng thái có mặt thực sự với chén trà, cô hoàn toàn tự do, vượt khỏi phiền muộn và tận hưởng từng ngụm trà. Đó là phút giây hạnh phúc và bình an. Khi cô chải răng cũng vậy, có lẽ là cô thường chải cho nhanh chừng hai phút thôi. Nhưng với sự thực tập này cô có thể đạt tới tự do buông bỏ những suy tư về quá khứ hay bị kéo đi bởi những tính toán tương lai, vì cô đang định tâm vào phút giây hiện tại, cô có niềm vui khi nhìn sâu những chiếc răng của cô, kem đánh răng thơm, bàn chải ưng ý của cô… trong chánh niệm. Nếu cô có khả năng chải răng trong chánh niệm thì cô cũng có thể rất hạnh phúc tận hưởng giây phút hiện tại khi tắm, khi chuẩn bị thức ăn sáng, uống từng ngụm trà… vô số hành động khác trong chánh niệm.

Cô Oprah: Như vậy theo cái cách nầy thì ta có vô số điều kiện hạnh phúc.

TS Nhất Hạnh: Vâng. Chánh niệm giúp ta trở về với chính ta trong phút giây hiện tại và mỗi khi trở về với phút giây này ta nhận diện những điều kiện hạnh phúc mà ta đang có và ta hạnh phúc ngay.

Cô Oprah: Với Thầy, trà là thực tại mầu nhiệm.

TS Nhất Hạnh: Tôi, và trà có thật. Tôi đang sống trong phút giây hiện tại. Tôi không nghĩ đến chuyện đã qua. Không nghĩ đến những gì sắp tới. Khi đó mới có một sự trực diện thâm sâu giữa tôi và trà. Bình an, hạnh phúc và niềm vui có mặt khi tôi uống trà.

Cô Oprah: Tôi thật chưa bao giờ có cái suy tư khá sâu về một chén trà như thế.

TS Nhất Hạnh: Chúng tôi tập làm thiền trà rất vui. Chúng tôi cùng ngồi, uống với nhau một chén trà và cảm nhận được tình bạn, tình huynh đệ, tình chị em. Chúng tôi có thể ngồi chơi như thế một giờ luôn, chỉ để hưởng một chén trà.

Cô Oprah: Một chén trà chừng này thôi phải không ? (Cô nâng chén trà của cô lên).

TS Nhất Hạnh: Đúng vậy.

Cô Oprah: Một giờ.

TS Nhất Hạnh: Mỗi phút giây là một phút giây hạnh phúc. Và trong một giờ đồng hồ cùng ngồi uống trà, ta nuôi dưỡng niềm vui, tình huynh đệ, tình chị em, định trú thật bình an nơi này và ở đây.

Suốt 39 năm bị lưu đày, tạo được một cộng đồng để phụng sự chung là việc làm thiết yếu

Cô Oprah: Thầy có làm như vậy với các thức ăn không ?

TS Nhất Hạnh: Thưa có. Chúng tôi có những bữa ăn im lặng, ăn như thế nào để có thể tiếp xúc được với cả vũ trụ, với từng miếng thức ăn đưa vào miệng.

Cô Oprah: Như vậy thì ăn một bữa ăn phải tốn bao lâu ? Trọn ngày ư ?

TS Nhất Hạnh: Một giờ là đủ. Ngồi chung với nhau như nhóm bạn bè thân thiện, cùng ăn chung những thức ăn như nhau, rồi uống trà, rồi cùng rửa chén. Ta thực tập như thế nào để cho thảnh thơi, niềm vui và hạnh phúc có mặt trong suốt thời gian ấy. Rất nhiều người đến Trung Tâm tu học của chúng tôi, học cái nghệ thuật sống chánh niệm ấy. Rồi khi họ trở về thành phố cư trú của họ họ thành lập một tăng thân, một nhóm bạn thực tập như vậy để giúp đở nhau nuôi dưỡng sự tu tập. Chúng tôi đã giúp xây dựng rất nhiều những tăng thân như vậy cùng khắp trên thế giới.

Cô Oprah: Một tăng thân tức là một cộng đồng dễ thương.

TS Nhất Hạnh: Vâng.

Cô Oprah: Cộng đồng dễ thương như vậy quan trọng như thế nào trong đời chúng ta ? Thiên hạ có gia đình để cùng sống như một cộng đồng, còn thầy, thầy mở rộng cộng đồng dễ thương của thầy để chấp nhận những người khác. Thành ra cộng đồng dễ thương càng lớn thì ta có thể đạt những thành quả lớn trong cuộc đời.

TS Nhất Hạnh: Đúng như vậy.

Cô Oprah: Với đề tài cộng đồng dễ thương, ta nên trở về năm 1966. Thầy được mời đến đại học Cornell để thuyết giảng về Việt Nam và không lâu sau đó thầy không được phép trở về nước của thầy nữa. Thầy bị lưu đày 39 năm. Làm thế nào mà thầy xử lý được với những cảm thọ ấy ?

TS Nhất Hạnh: Vâng, tôi như một con ong bị tách rời khỏi tổ. Nhưng nhờ tôi mang theo tôi cộng đồng dễ thương trong lòng, tôi tìm những yếu tố của cộng đồng đó, của tăng thân dễ thương đó quanh tôi, ngay trong lòng các tiểu bang Hiệp Chủng Quốc, trong lòng các nước Âu Châu. Và tôi bắt đầu xây dựng cộng đồng dễ thương làm việc cho hòa bình cùng với tôi.

Cô Oprah: Ban đầu thầy có giận không ? Tổn thương không ?

TS Nhất Hạnh: Có giận, có lo, buồn và tổn thương. Sự thực tập giúp tôi nhận diện những trạng thái đó. Trong năm đầu, đêm nào tôi cũng nằm mơ thấy trở về quê, gần như mỗi đêm. Tôi thấy tôi leo lên một ngọn đồi thật đẹp, thật xanh và thật hạnh phúc nhưng rồi tôi chợt tỉnh dậy và nhận ra là mình đang bị lưu đày. Và sự thực tập của tôi là đem tâm về với thân sống thật hết lòng trong phút giây hiện tại, tiếp xúc với cây cỏ chim chóc hoa lá và trẻ em và những người bạn mới ở phương Tây – và chấp nhận biến họ thành cộng đồng dễ thương của tôi. Nhờ cách tu tập như thế tôi đã tìm ra quê hương ngoài quê hương. Dần dà khoảng một năm sau thì những giấc mơ chấm dứt.

Cô Oprah: Lý do vì sao mà thầy không được phép trở về nước ?

TS Nhất Hạnh: Trong thời gian chiến tranh, các phe lâm chiến nhất định đánh tới cùng. Và vì thế mà dĩ nhiên là không phe nào cho phép chúng tôi nói tới chuyện hòa giải giữa anh em – họ không cho phép nói đến hòa giải.

Cô Oprah: Thành ra thầy là một người không có quê hương để về, nên thầy biến nơi nào thầy đang ở là quê hương, cùng khắp trên nhiều nước phải không ?

TS Nhất Hạnh: Đúng thế.

Cô Oprah: Và Hoa Kỳ là một phải không ?

TS Nhất Hạnh: Vâng.

Cô Oprah: Thầy gặp Martin Luther King khi nào ?

TS Nhất Hạnh: Tháng sáu năm 1965. Tôi viết cho người một bức thư – từ Việt Nam – giải thích vì sao những ông thầy tu ở Việt Nam đã hiến thân cho lửa. Tôi giải thích đó không phải là hành động tự tử. Tôi nói ở Việt Nam rất khó để cho lời kêu gọi tha thiết của mình được lắng nghe. Đôi khi ta phải tự thiêu để tiếng nói được lắng nghe. Và người tự thiêu hành động như vậy vì lòng thương chứ không vì giận hờn hay tuyệt vọng. Và sau khi tôi viết bức thư cho người thì đúng một năm sau tôi gặp được người ở Chicago. Chúng tôi đã đàm luận rất nhiều về hòa bình, về tự do và về cộng đồng. Và chúng tôi cũng đồng ý với nhau là nếu không có một cộng đồng cùng sống cùng làm thì chúng ta không thể đi xa.

Cô Oprah: Thầy đàm luận với Martin được bao lâu ?

TS Nhất Hạnh: Chắc cũng chỉ hơn năm phút thôi vì sau đó còn có một cuộc họp báo và ngài đã nói rất rõ là ngài hoàn toàn chống chiến tranh ở Việt Nam.

Cô Oprah: Thầy có nghĩ đó là kết quả của cuộc đàm luận với thầy ?

TS Nhất Hạnh: Tôi tin là như thế, và chúng tôi cùng làm việc chung trên hướng đó. Rồi lần chót mà tôi gặp ngài là ở Geneva trong một hội nghị hòa bình.

Thầy Thích Nhất Hạnh giải thích cách giải quyết hay nhất và duy nhất để chống khủng bố

Oprah: Trong hội nghị hòa bình đó, hai vị đã đàm luận nhiều chứ ?

TS Nhất Hạnh: Vâng có. Ngài mời tôi lên ăn sáng và chúng tôi lại bàn sâu hơn những vấn đề này. Tôi bị kẹt trong một cuộc họp báo bên tầng dưới và đến khá trễ, nhưng ngài vẫn giữ thức ăn sáng nóng cho tôi. Tôi có nói rằng dân chúng nước tôi xem ngài như là một vị bồ tát – một người giác ngộ – vì những hành động của ngài cho dân tộc ngài, cho đất nước ngài và cho cả thế giới.

Cô Oprah: Và nhất là ông làm những điều đó bất bạo động.

TS Nhất Hạnh: Đúng vậy. Đó là hành động của một vị bồ tát, một đức Phật. Làm gì cũng với lòng từ bi và bất hại. Khi tôi nghe tin ngài bị ám sát, tôi không thể tin được. Tôi tự nhủ : “Dân tộc Hoa Kỳ đã sinh ra được một vị như King nhưng không đủ khả năng giữ gìn che chở được ngài”. Tôi hơi giận. Tôi không ăn được, không ngủ được. Nhưng lòng quyết chí xây dựng những cộng đồng dễ thương vẫn luôn tiếp tục. Tôi nghĩ là tôi đang luôn được ngài ủng hộ.

Cô Oprah: Luôn được ủng hộ ?

TS Nhất Hạnh: Vâng.

Cô Oprah: Đúng rồi. Chúng ta đang nói về chánh niệm, và thầy nhắc đến đi trong chánh niệm. Đi trong chánh niệm là sao ?

TS Nhất Hạnh: Khi ta đi, ta tiếp xúc với mặt đất một cách chánh niệm. Mỗi bước chân định tâm trong phút giây hiện tại đó, cho ta thêm vững chãi, niềm vui và sự thanh thoát. Thoát khỏi những tiếc nuối về những chuyện trong quá khứ, thoát khỏi sự lo sợ cho tương lai.

Cô Oprah: Phần đông mọi người khi đi họ thường nghĩ phải đi đâu, phải làm gì. Nhưng thầy nói như thế sẽ đánh mất hết những niềm vui trong ta ?

TS Nhất Hạnh: Người ta hy sinh hiện tại cho tương lai, nhưng sự sống chỉ xảy ra trong phút giây hiện tại. Vì thế cho nên ta phải đi như thế nào mà mỗi bước chân có thể đưa ta đến sự sống đang có mặt bây giờ và chỗ ta đang đứng.

Cô Oprah: Nhưng các giấy nợ, đòi thanh toán những món tiền chưa trả thì sao ? Tôi đang đi nhưng tôi nhớ phải thanh toán tiền này nè, tiền kia nè. Tôi đang đi mà tôi đang nghĩ đến các món tiền cần trả.

TS Nhất Hạnh: Mỗi việc mỗi lúc. Có lúc cần ngồi xuống, định tâm để giải quyết những món tiền cần trả, nhưng khi đang đi thảnh thơi thì việc gì phải lo trước khi đang đi. Một thời điểm, chú tâm lo một việc thôi. Chúng ta đi thiền hành để chữa lành cho ta, để trị liệu, bởi vì đi như thế ta buông nhẹ được những lo âu, những bức bách, những căn thẳng trong thân và trong tâm ta.

Cô Oprah: Trường hợp cũng sẽ tương tự khi ta lắng nghe sâu mà tôi được nghe thầy nói khi nảy.

TS Nhất Hạnh: Lắng nghe sâu là lắng nghe như thế nào mà làm vơi được khổ đau của người khác. Ta có thể gọi đó là cách lắng nghe bằng tâm từ bi. Ta lắng nghe chỉ với một mục đích duy nhất : giúp cho ngươi kia trút hết nỗi lòng. Dù rằng có khi người kia đã nói những điều dẫy đầy những cái thấy rất sai lạc, đầy cay đắng, nhưng ta vẫn có thể tiếp tục ngồi lắng nghe với tâm từ bi. Bởi vì ta biết rõ là lắng nghe như thế sẽ cho người kia một dịp may là bớt khổ. Nếu bạn muốn tìm cách sửa cái thấy sai lạc của người kia, ta phải chờ một dịp khác. Nhưng bây giờ đang ngồi nghe, bạn không nên cướp lời người đó, cũng không nên lý luận gì hết. Nếu bạn cướp lời thì người kia sẽ cụt hứng, sẽ mất dịp may được trút bầu tâm sự. Bạn chỉ cần lắng nghe với tấm lòng thật từ bi và điều đó sẽ giúp cho người kia bớt khổ nhiều lắm. Chỉ cần ngồi lắng nghe được chừng một giờ như thế thì ta có thể giúp chuyển hoá và chữa lành khá nhiều.

Cô Oprah: Tôi thích cách lắng nghe sâu này lắm bởi vì khi người bạn tới với ta và muốn ta lắng nghe nỗi khổ của người ấy, ta hay bị kéo đi bởi ý muốn góp ý khuyên can này nọ. Nhưng nếu ta để cho người kia trút được hết nỗi lòng. Rồi một thời gian khác ta mới trở lại khuyên nhủ và góp ý thì người kia có dịp chữa lành sâu sắc hơn. Có phải thầy muốn nói như vậy không ?

TS Nhất Hạnh: Thưa đúng. Lắng nghe sâu giúp ta nhận diện những cái thấy sai lầm của người kia về chính họ và cả những cái thấy phiến diện của họ về ta. Người kia có cái thấy sai lầm về chính anh hay chị ta và về chúng ta. Và chúng ta thì cũng có tri giác sai lầm về chính ta và về người đó. Đó là căn nguyên của bạo động, bất hòa và chiến tranh. Các người khủng bố, họ có cái thấy sai lệch. Họ tin là nhóm người kia (chống khủng bố) đang muốn tiêu diệt tôn giáo họ, tiêu diệt nền văn minh của họ. Vì thế họ phải tiêu diệt ta trước, trước khi ta tiêu diệt họ. Rồi những người chống khủng bố cũng nghĩ và hành xử y chang như nhóm kia : tụi nó muốn tiêu diệt ta thì ta phải tiêu diệt họ trước. Cả hai bên đều bị kích động bởi sự sợ hãi, căm thù và tri giác sai lầm. Và tri giác sai lầm, cái thấy sai không thể chữa trị bằng đạn bom. Cái thấy sai chỉ có thể chữa trị bằng lắng nghe sâu, nghe với tâm từ bi và lời nói ái ngữ, để gỡ từ từ những cái thấy sai lệch đó mà thôi

Tại sao khổ đau quan trọng thế và làm sao để chữa lành nó?

Cô Oprah: Cách duy nhất để chấm dứt chiến tranh là sự truyền thông của các bên.

TS Nhất Hạnh: Vâng, chúng ta phải có khả năng nói rằng: “Này các bạn, này các bạn thân mến, tôi biết quý vị đang khổ, tôi không hiểu hết được những khó khăn và khổ đau của quý vị. Chúng tôi không có ý đồ làm khổ quý vị. Ngược lại chúng tôi không hề muốn làm cho quý vị khổ thêm nữa. Nhưng chúng tôi không biết làm cách nào và chúng tôi e sẽ làm thêm những điều sai trái để khiến cho quý vị khổ thêm nếu quý vị không giúp chúng tôi hiểu thêm quý vị. Vì thế xin quý vị cho chúng biết những khó khăn của quý vị, chúng tôi rất mong được học thêm, được hiểu thêm”. Chúng ta phải tập nói lời ái ngữ. Và nếu thật sự chúng ta nói những lời ấy bằng tấm lòng chân thật của ta thì họ sẽ mở lòng ra. Rồi thì ta thực tập lắng nghe với tâm từ bi và nhờ thế ta sẽ học thêm được biết bao điều về cái thấy (chưa đúng đắn) của ta và cái thấy (chưa đúng đắn) của họ. Chỉ có những dịp như thế ta mới lấy ra từ từ những cái thấy sai lầm. Đó là cách hay nhất, cách duy nhất để làm vơi đi nạn khủng bố.

Cô Oprah: Nhưng những điều thầy nói cũng áp dụng được cho những khó khăn trong các gia đình, giữa ta và những người thân trong gia đình ta phải không, hay cả giữa bạn bè với nhau (khi mà ta thấy người kia dữ dằn liều mạng như người khủng bố ). Nguyên tắc vẫn như thế phải không ?

TS Nhất Hạnh: Đúng vậy, trong gia đình cũng vậy và các cuộc thương thuyết cho hòa bình cũng nên làm theo nguyên tắc đó. Khi tới bàn hội nghị, ta không nên thương thuyết ngay. Ta nên để thời gian đi dạo chung, ăn chung, tập biết nhau nhiều hơn về những khổ đau khó khăn của mỗi người, mỗi bên. Kể ra những khổ đau tủi nhục của dân tộc ta mà không cần phải lên án kết tội. Chắc cũng cần một hay hai tuần rồi mới đi đến chuyện thương thuyết. Nếu bên này nghe được thông hiểu được nỗi khổ của bên kia thì hiểu biết là chuyện có thể thực hiện và có hiểu biết thì thương thuyết sẽ dễ hơn nhiều. Vì thế nếu tôi đứng ra tổ chức những hòa đàm thì tôi sẽ tổ chức theo cách đó.

Cô Oprah: Và thầy sẽ bắt đầu cho mọi người uống trà ?

TS Nhất Hạnh: Vâng, uống trà và đi trong chánh niệm.

Cô Oprah: Uống trà trong chánh niệm.

TS Nhất Hạnh: Và sẽ chia sẻ những hạnh phúc và những khổ đau. Và lắng nghe sâu và nói lời ái ngữ.

Cô Oprah: Vậy là không có chỗ cho sự tức giận sao ?

TS Nhất Hạnh: Tức giận là năng lượng giúp người ta hành động, có gan hành động, nhưng khi ta giận, ta không còn sáng suốt và ta rất có thể làm nhiều điều sai quấy mà ta sẽ hối tiếc. Từ bi cũng là năng lượng nhưng năng lượng rất lành. Khi năng lượng từ bi rất mạnh thì ta cũng cang cường không kém. Ta sẽ bớt khổ đau khi ta có từ bi. Điều này rất đúng. Ta nên tập không nên để cho cơn giận kéo ta đi. Ta đang khổ đó nhưng đừng để cho cơn sợ hãi đó kéo ta đi. Ta ý thức rõ ràng rằng đó chỉ là sợ hãi. Đó là tri giác sai lầm.

Cô Oprah: Thầy nghĩ sao nếu trong khi ta đang thực tập chánh niệm thì có một chuyện rất thách thức xảy ra như là tự nhiên bị thiên hạ kiện ta ra tòa. Và dĩ nhiên khi bị đưa ra toà thì khó mà an trú trong phút giây hiện tại để cảm thấy hạnh phúc.

TS Nhất Hạnh: Sự thực tập là cứ bình tĩnh đến với niềm bức xúc lo lắng ấy.

Cô Oprah: Sợ hãi. Điều thứ nhất là cơn sợ hãi trấn áp tôi liền và tôi tự hỏi : Ta sẽ phải làm gì đây ?

TS Nhất Hạnh: Này nhé, cô nhận diện ngay có sự sợ hãi trong cô. Cô ôm ấp nó, dịu dàng và nhìn sâu vào niềm sợ hãi đó. Cũng cùng một cách như khi cô có niềm đau, cô ôm ấp niềm đau kia một cách dịu dàng vì niềm đau chính là cô, sợ hãi cũng chính là cô. Cô chấp nhận trạng thái không dễ chịu đó, làm cho nó dịu xuống, nhẹ hơn một chút, tìm cách xử lý trạng thái này của tâm. Và nếu cô biết xử lý cơn sợ hãi của cô thì cô sẽ có đủ tuệ giác để giải quyết cái khó khăn ấy. Vấn đề là không để cho cơn sợ nó trấn ngự. Khi những cảm xúc mạnh mẽ ấy nổi dậy, ta tập để cho năng lượng chánh niệm nhận diện nó liền (biết rồi, đây cơn sợ của tôi nè!), chấp nhận ôm ấp nó, nhìn sâu vào nó. Cũng như một bà mẹ khi nghe bé khóc. Niềm lo của bạn chính là đứa bé đang khóc đó. Ta phải chăm sóc bé ngay, ta phải trở về với chính ta để nhận diện cơn đau này, chấp nhận ôm ấp cơn đau kia thì ta sẽ thấy đỡ hơn một chút. Ta tiếp tục dùng sự thực tập chánh niệm để ôm ấp, nhìn sâu và từ từ tìm ra gốc rễ cái bản chất của nổi khổ đó, và khi biết rõ bản chất, gốc rễ của cơn đau đó thì ta có thể tìm cách chuyển hóa nó.

Cô Oprah: Thầy dùng khá nhiều chữ khổ đau. Nhiều người có thể nghĩ khổ đau chỉ đơn giản là thiếu thốn, nghèo đói. Nhưng khi thầy nói về khổ đau thầy có nghĩ như vậy không ? (thiếu thốn những phương tiện vật chất).

TS Nhất Hạnh: Tôi muốn nói đến sợ hãi, tức giận, tuyệt vọng, lo lắng trong ta. Nếu ta biết xử lý chúng, ta sẽ có thể xử lý vấn đề chiến tranh, nghèo đói và những tranh chấp.

Cô Oprah: Bản chất những điều Bụt dạy – theo sự hiểu biết của tôi – là tin rằng chúng ta ai cũng đều thanh tịnh và sáng suốt sâu trong tâm ta. Thế nhưng ta chỉ thấy chung quanh ta rất nhiều người không hành xử trong tư thế thanh tịnh và sáng suốt gì hết. Làm sao mà ta liên kết được cái thấy đó của Phật dạy và sự kiện phũ phàng hằng ngày ta gặp ?

TS Nhất Hạnh: Cô biết không, hạnh phúc và đau khổ nó nương nhau. Cùng hiện hữu, cũng như bên trái và bên phải. Nếu không có bên trái thì cũng không có bên phải. Điều này cũng đúng với khổ đau và hạnh phúc, tốt và xấu. Mỗi người trong ta đều có những hạt giống tốt và xấu. Ta có hạt giống của tình huynh đệ, từ, bi và tuệ giác. Nhưng chúng ta cũng có hạt giống của giận hờn, căm thù và tách biệt.

Cô Oprah: Đó là bản chất rất “người.”

TS Nhất Hạnh: Đúng vậy. Có bùn và có hoa sen mọc lên từ bùn. Chúng ta cần có bùn để cho hoa sen mọc được.

Cô Oprah: Chúng ta không thể có cái này mà không có cái kia.

TS Nhất Hạnh: Vâng. Ta chỉ có thể thấy rõ hạnh phúc của ta dựa trên quá khứ khổ đau. Nếu bạn chưa bao giờ bị đói, bạn sẽ không trân quý khi được ăn. Nếu bạn chưa bao giờ thấy chiến tranh, bạn sẽ không thấy được giá trị của hòa bình. Vì thế ta không nên trốn chạy khó khăn này đến khó khăn khác. Nhận diện cái khổ của bạn, nhìn sâu và tìm cách đi ra khỏi khó khăn kia để đến được hạnh phúc.

Khi thiền quán ta tập bốn câu thần chú của thiền sư Thích Nhất Hạnh

Cô Oprah: Ngày nào thầy cũng đều thiền quán chứ ?

TS Nhất Hạnh: Chúng tôi thiền quán không phải mỗi ngày mà mỗi giây phút của sự sống. Khi chúng tôi uống, khi nói chuyện, khi viết lách, khi tưới cây trong vườn… và chúng tôi tập để sống trong hiện tại để nhìn sâu hơn vào cái hiện tại đó (và tiếp xúc với những gì tích cực mầu nhiệm trong hiện tại đó).

Cô Oprah: Nhưng thầy không có ngồi im lặng để đọc thần chú sao ?

TS Nhất Hạnh: Có, chúng tôi ngồi một mình, chúng tôi ngồi chung.

Cô Oprah: Càng nhiều người cùng ngồi càng tốt phải không ?

TS Nhất Hạnh: Vâng, năng lượng tập thể giúp ta nhiều lắm. Tôi muốn chia sẻ với cô về những thần chú mà cô vừa mới nhắc đến. Thần chú thứ nhất “Em yêu ơi, anh có mặt với em đây !***” Khi ta thương ai, món quà quý nhất mà ta có thể tặng cho người kia là sự có mặt, sự hiện diện của mình. Làm sao mà ta có thể nói là ta thương người kia được nếu ta không có mặt ?

***ghi chú: ngôn ngữ Việt rất đặc biệt, chữ my darling tiếng Anh, có thể dịch là anh yêu (nếu vợ nhìn mặt chồng mà đọc thần chú), hay em yêu (nếu chồng nhìn mặt vợ mà đọc thần chú, hay mẹ yêu (nếu con nhìn mặt mẹ mà đọc thần chú), hay bố yêu (nếu con nhìn mặt bố mà đọc thần chú), hay con yêu (nếu mẹ hay bố nhìn mặt con mà đọc thần chú), tùy theo đối tượng.

Cô Oprah: Thật là một thần chú đáng yêu.

TS Nhất Hạnh: Bạn phải nhìn sâu vào mắt người kia (mẹ của các cháu) và nói với tất cả tấm lòng của mình “Bạn nói : “Em em yêu ơi, em có biết gì không, em có biết là anh đang có mặt cho em đây không ?” hay là với mẹ của mình: “Mẹ yêu ơi, mẹ có biết là con đang có mặt cho mẹ không ?” hay là “Con yêu của mẹ ơi, con có biết là mẹ đang có mặt cho con không ?” Ta hiến dâng cho người kia sự có mặt trọn vẹn của ta. Ta không bị bực mình của quá khứ, dự án của tương lai lôi kéo. Ta có mặt hoàn toàn với người ta thương. Thần chú thứ hai là : “Mẹ yêu ơi, con biết là mẹ còn đó, hiện diện bên con và con thật hạnh phúc.” Nếu bạn là cha thì nhìn vào mắt con bạn nói: “Con trai thương của ba, ba biết là con đang có mặt bên ba, nên ba rất hạnh phúc.” Bởi vì bạn đang có mặt, bạn nhận diện sự có mặt của người mà bạn rất thương kia đang còn đó, thật là quý báu. Bạn ôm trọm người kia bằng ánh mắt chánh niệm của bạn. Và người kia sẽ nở ra như một đóa hoa. Được thương có nghĩa là được công nhận sự hiện diện của nhau. Và hai câu thần chú đó đủ đem cho ta hạnh phúc ngay, dù rằng người kia không ở gần thì mình cũng đọc thần chú được bằng điện thoại.

Cô Oprah: Hoặc bằng điện thư.

TS Nhất Hạnh: Vâng, bằng điện thư. Và ta không đọc thần chú bằng tiếng Phạn hay tiếng Tây Tạng, ta có thể đọc thần chú bằng ngôn ngữ ngọt ngào thường ngày của ta.

Cô Oprah: Con yêu ơi, mẹ đang có mặt cho con này.

TS Nhất Hạnh: Và mẹ đang hạnh phúc.

Ta tập thốt lên thần chú thứ ba khi người ta thương đang khổ. “Mẹ ơi, con biết mẹ đang khổ, và vì thế con đang có mặt với mẹ đây.” Trước khi mình làm được gì cho mẹ, chỉ cần nói lên câu thần chú đó là mẹ khoẻ liền

Cô Oprah: Thấy được cái khổ của người kia, sự tổn thương của người kia.

TS Nhất Hạnh: Đúng vậy. Còn câu thần chú thứ tư mới là khó nhất. Đọc thần chú này khi mà mình đang khổ và mình biết rõ là nỗi khổ của mình do chính người mà mình yêu thương và tin cậy nhất gây ra. Nếu ai khác mà làm điều sai trái ấy thì mình cũng khổ nhưng khổ ít hơn. Đằng này, người kia chính là người mình yêu thương tin tưởng nhất cho nên mình khổ vô cùng. Mình chỉ muốn vào phòng riêng, đóng cửa lại và ôm nỗi khổ một mình.

Cô Oprah: Đúng vậy !

TS Nhất Hạnh: Mình bị tổn thương, mình muốn phạt người đó (mẹ hay ba mình hay người yêu của mình) vì đã nở tâm làm cho mình khổ. Đọc thần chú này để vượt thoát cái cách hành sử thường tình ấy : “Mẹ, con đang khổ, con đang cố gắng hết sức, nhưng mẹ phải giúp con.” (hay bố ơi, con đang khổ, con đang cô gắng hết sức nhưng bố phải giúp con hay Anh ơi, em đang khổ, em đang cô gắng hết sức nhưng anh phải giúp em) Mình phải tới với người đó, với chính đương sự làm khổ mình và phải vượt qua mặc cảm, nói thẳng với người đó bằng thần chú kia thì bạn sẽ nhẹ vơi đi nhiều lắm. Tại vì bạn không còn bị cái tự ái đó nó chận đường giữa bạn và người kia. Làm được như thế bạn sẽ nhẹ bớt đi nhiều.

Cô Oprah: “Anh yêu, em đang khổ ! Anh phải giúp em!”

TS Nhất Hạnh: “Mẹ ơi, con đang khổ, mẹ giúp con với !”

Cô Oprah: Nhưng nếu anh chàng hay cô nàng không muốn giúp mình ?

TS Nhất Hạnh: Trước nhất khi mình thương ai, mình muốn chia sẻ hết tất cả những gì mình đang mang trong lòng với người đó. Vì thế đó là bổn phận mình phải nói câu đó với người đó : “Con khổ, con muốn mẹ biết điều đó. Hay anh khổ, anh muốn em biết điều đó” Và chắc chắn là người kia sẽ đánh giá cao câu nói chí tình ấy.

Cô Oprah: Nếu người đó thương mình.

TS Nhất Hạnh: Vâng, trong trường hợp hai người thương nhau. Đây là câu thần chú với người mình thương.

Cô Oprah: Đồng ý.

TS Nhất Hạnh: Và khi mình tìm mọi cách để nhìn sâu hơn, để thấy rằng niềm đau đó có thể là do tri giác sai lầm của mình và mình đang tìm cách chứng minh là tri giác ấy của mình là sai (thí dụ như thấy người yêu của mình đang líu lo vui vẻ với cô nàng khác). Nhưng trong trường hợp ta không tìm ra được cái thấy kia là sai thì ta phải nhờ người kia giúp ta. (Phần chú thích của Phù Sa: “Anh ơi, em đang khổ, Anh phải giúp em, hôm qua anh không nhìn thấy em, anh líu lo vui vẻ quá với cái cô mặc áo xanh đó” Bằng cách đó mình diễn tả sự tin tưởng nơi người kia, mình có niềm tin nơi người kia, mình không muốn phạt người ấy nữa. Làm được như thế bạn sẽ bớt khổ tức thì. Và anh ta có thể ngạc nhiên thốt lên : Ồ em không biết sao? Cô ấy là em con của dì của anh mà!).

Cô Oprah : Hay quá.

Thầy Thích Nhất Hạnh chia sẽ về những  cái thấy của mình mà mình thường chắc chắn là đúng.

Cô Oprah: Bây giờ đây, tôi xin hỏi thầy một số câu hỏi về cách sống của người tu. Thầy có tập thể dục để cho mạnh khỏe không ?

TS Nhất Hạnh: Có chứ. Hằng ngày chúng tôi tập 10 động tác chánh niệm, cùng đi thiền hành chung với nhau một giờ đồng hồ mỗi ngày và ăn cơm chung trong chánh niệm.

Cô Oprah: Thầy có ăn chay không?

TS Nhất Hạnh: Vâng, chúng tôi ăn chay. Hoàn toàn chay tịnh, không có thực phẩm từ thú vật.

Cô Oprah: Vậy thầy không ăn trứng sao ?

TS Nhất Hạnh: Không trứng, không sữa bò, không phô mai bò. Bởi vì chúng tôi biết cách ăn chánh niệm này sẽ cứu vãn hành tinh của ta.

Cô Oprah: Thầy có xem truyền hình không ?

TS Nhất Hạnh: Không. Nhưng tôi vẫn tiếp xúc được với thế giới. Khi có sự kiện nào quan trọng, thế nào cũng có người kể cho tôi nghe.

Cô Oprah: Tôi cũng nghĩ như thế !

TS Nhất Hạnh: Ta không cần nghe bản tin mỗi ngày ba lần. Hay là đọc hết tờ báo này tới tờ báo khác.

Cô Oprah: Đúng vậy. Giờ thầy nói cho chúng tôi nghe đi. Đời sống của ông thầy tu là sống độc thân, đúng không ?

TS Nhất Hạnh: Đúng.

Cô Oprah: Thầy có khó khăn gì về ý niệm nên hay không nên bỏ đời thầy tu để có gia đình rồi có con không ?

TS Nhất Hạnh: Một hôm đó, khi tôi vào khoảng 30 tuổi, trong khi tôi đang đi thiền hành ở một công viên bên Pháp, tôi thấy một bà mẹ trẻ đang đang đùa với một đứa bé rất xinh. Trong một thoáng rất nhanh, tôi đã nghĩ là nếu tôi không đi tu thì tôi cũng sẽ có người vợ trẻ và đứa con như thế. Ý niệm đó chỉ thoáng qua trong một giây thôi rồi thì tôi vượt qua ngay ý tưởng ấy.

Cô Oprah: Đó không phải là nếp sống của thầy. Ta đang nói về sự sống. Thế thì cái chết thì sao ? Chuyện gì xảy ra khi ta chết, thầy tin về cái chết ra sao ?

TS Nhất Hạnh: Tôi có thể trả lời câu đó khi tôi trả lời được câu này : Những gì đang xảy ra trong lúc này đây ? Trong phút giây hiện tại, ta đang chế tác tư duy, ngôn từ và hành động. Chúng đang phát ra ba thứ đó và chúng đang ảnh hưởng cùng khắp. Mỗi tư duy, mỗi lời nói mỗi hành động của ta đều mang chữ ký của ta. Đó là nghiệp của ta. Đó là sự tiếp nối của ta. Khi thân xác này tàn hoại, ta vẫn được tiếp nối bằng những nghiệp lực ấy. Cũng như đám mây trên trời kia. Khi đám mây không thể giữ được hình thái đám mây nữa thì đám mây đang tiếp tục bằng những hình thái khác như là mưa, tuyết, nước đá. Bản chất của của chúng ta là không sinh, không diệt. Không thể nào một đám mây lại có thể thành hư không được. Và điều đó cũng đúng với người thương của ta. Họ không có chết đâu. Họ đang tiếp tục trong nhiều hình thái khác, nếu ta nhìn sâu, ta sẽ nhận diện ra sự luân hồi của người kia, cùng khắp quanh ta và ngay cả trong ta.

Cô Oprah: Có phải đó là ý nghĩa của bài thơ của thầy “Hãy gọi đúng tên tôi” bài thơ tôi mà tôi thích nhất.

TS Nhất Hạnh: Vâng. Khi quý vị hỏi tôi có phải là người Âu Châu không ? Tôi sẽ nói vâng ạ, tôi là người Âu. Nếu quý vị hỏi tôi có phải là người Á Rập không ? Tôi sẽ nói : Vâng, tôi là người Á Rập. Nếu quý vị hỏi tôi có phải là người da đen không?, tôi sẽ nói vâng, tôi là người da đen. Nếu quý vị hỏi tôi có phải là người da trắng không, tôi cũng sẽ nói : Vâng, tôi là người da trắng. Bởi vì tôi có mặt trong các bạn và các bạn có mặt trong tôi. Chúng ta đã có nhau từ muôn vạn kiếp, cùng khắp trong vũ trụ…

Cô Oprah: [đọc bài thơ] “Tôi là con phù du thoát hình trên mặt nước | Và là con chim sơn ca mùa xuân về trên sông đón bắt phù du | Tôi là con ếch bơi trong hồ thu, | và cũng là con rắn nước trườn đi | Tìm cách nuôi thân bằng thân ếch nhái | Tôi là em bé nghèo Uganda, bao nhiêu xương sườn đều lộ ra hai bàn chân bằng hai ống sậy, | Tôi cũng là người chế tạo bom đạn để cung cấp kịp thời cho Á Phi | Tôi là em bé mười hai bị làm nhục, nhảy xuống biển sâu | Tôi cũng là nguời hải tặc sinh ra với một trái tim chưa biết nhìn biết cảm | Hãy nhớ gọi đúng tên tôi | Cho tôi được nghe một lần tất cả những tiếng tôi khóc tôi cười | Cho tôi thấy nỗi đau và niềm vui là một | Hãy nhớ gọi đúng tên tôi | Cho tôi giật mình tỉnh thức | Và để cho cánh cửa lòng tôi để ngỏ | Cánh cửa Xót Thương.” Bài thơ đó nghĩa là sao thưa thầy ?

TS Nhất Hạnh: Có nghĩa là lòng từ bi là sự tu tập quan trọng nhất của chúng tôi. Phải hiểu sâu thì mới phát sinh lòng từ bi được. Hiểu được nỗi khổ mà chúng sinh phải gánh chịu thì năng lượng từ bi mới trào dâng. Và với năng lượng đó ta mới biết phải làm gì.

Cô Oprah: Xong rồi. Cuối bài này, tôi còn một đề tài nữa tên là : Làm sao mà tôi biết cái thấy của tôi là đúng. Làm sao mà thầy biết cái thấy của thầy là đúng nhất ?

TS Nhất Hạnh: Tôi biết chắc chắn là tôi không bao giờ biết đúng, biết đầy đủ trọn vẹn hết. Tôi phải tập học hỏi thêm, phải sẳn sàng buông bỏ những cái biết trước đó của tôi để có thể thấy sâu hơn, hiểu rõ hơn về từng tình trạng, từng thực tại. Ta phải luôn luôn học hỏi. Phải mở lòng ra để buông bỏ ý kiến riêng của mình để có thể có cái thấy sâu sắc trọn vẹn hơn. Như khi ta leo lên một cái thang. Lên tới bậc thứ sáu và ta nghĩ là tới đây là cao nhất rồi, vì thế ta không có dịp leo lên bậc thứ bảy. Phương pháp là phải tập buông bỏ bậc thứ sáu để mới lên được bậc thứ bảy. Đó là sự thực tập của chúng tôi, tập buông bỏ cái thấy của mình. Không cố thủ cái thấy đang có, để có thể thấy được sâu hơn, rõ hơn, trọn vẹn hơn. Đó là cốt lõi của sự thực tập trong Phật giáo. Người ta đau khổ vì họ bị kẹt trong cái thấy của họ. Chắc mẻm là cái thấy của mình đúng nhất. Khi nào mà ta buông bỏ được cái thấy –không trọn vẹn ấy – của mình, thì ta mới giải thoát được và không còn khổ đau nữa.

Cô Oprah: Có phải là sự thao thức là tìm cho được tự do phải không ?

TS Nhất Hạnh: Vâng, nhưng tự do trước nhất là thoát được những cái thấy sai lầm phiến diện của mình. Chính cái thấy phiến diện sai lầm ấy là nền tảng của tất cả khổ đau, sợ hãi và bạo động.

Cô Oprah: Thật là vinh dự cho tôi được hầu chuyện với thầy ngày hôm nay.

TS Nhất Hạnh: Cám ơn cô. Tôi mong cái hạnh phúc chia sẻ này có thể giúp được mọi người.

Cô Oprah: Tôi tin là nó sẽ giúp.


PSN – 20.02.2010 | Phỏng vấn độc quyền của Oprah – Phù Sa chuyển ngữ
Nguồn: http://www.oprah.com/spirit/Oprah-Ta…hich-Nhat-Hanh

Sách Thầy Nhất Hạnh đang trở thành best seller ở Trung Quốc

 

Nhà Xuất Bản Tử Cấm Thành ở Bắc Kinh cho biết là cuốn Dữ Sinh Mệnh Tương Ước (Ước Hẹn với Sự Sống) của Sư Ông  đã trở thành một trong những cuốn sách bán chạy nhất (sướng tiêu thư ) ở Trung Quốc. Sách này được in lần đầu vào tháng 10 năm 2010 mà đến cuối tháng 12 năm 2010 (chỉ trong vòng hai tháng) đã phải tái bản. Làng Mai đã nhận được ấn bản lần thứ hai do nhà xuất bản gửi tới.

Sách này là bản dịch Hoa văn của ba cuốn sách bằng Anh ngữ cũa Sư Ông :

Cultivating the Mind of Love (dịch thành Hoa Văn là Sơ Luyến Tam Ma Địa)
The Heart of Understanding ( dịch thành Hoa Văn là Bát Nhã chi tâm)
Our Appointment with life (dịch thành Hoa văn là Dữ Sinh Mệnh Tương  Ước)

Sách do Tân Hoa Thư Điếm phát hành. Dịch giả là Minh Hạo và Minh Qua.

Người viết lời giới thiệu là học giả Trần Cầm Phú ở Đài Loan. Sách giới thiệu Sư Ông  là

“Thế Giới Đệ Nhất Thiền Tông Đại Đức” và là “ Một trong những vị đại sư tâm linh vĩ đại nhất trên thế giới”

Đồng thời tại Hồng Kông cuốn Phóng Hạ Tâm Trung Đích Ngưu (Releasing the Cow in your Mind) cũng đã trở thành một cuốn best sellers. Sách này tập hợp những bài pháp thoại cũa Sư Ông đăng trên tập chí Ôn Noản Nhận Gian (Buddhist Compassion) và do nhà Cognizance ( Tri Xuất Bản Xã). Cuốn này cũng in lần đầu vào tháng 10 năm 2010 và cũng được tái bản hai tháng sau đó. Tất cả những bài giảng trong ấy đều rất thiết thực cho đời sống hằng ngày. Sách ghi tên người dịch là Tăng Đoàn Làng Mai, trong đó sư cô Chân Sĩ Nghiêm là người dịch chính.

Sách Thầy Nhất Hạnh đang trở thành best seller ở Trung Quốc_Sách Thầy Nhất Hạnh đang trở thành best seller ở Trung Quốc

Ông Thầy tu danh tiếng – tích cực lo cho hoà bình

Thích Nhất Hạnh – Người là hiện thân cho một thứ đạo Bụt dấn thân

Tuần báo LA VIE ra ngày 29 tháng 6 năm 2006

ký giả Isabelle Francq
Sư cô Chân Không chuyển ngữ

Ngọn gió tâm linh thổi xuyên qua vùng ruộng nho và đồi mận

“Ở Việt Nam cũng như khắp nơi trên thế giới, đạo Bụt phải được làm mới. Hiện nay ở Việt Nam phần đông thiên hạ nghĩ rằng đạo Bụt là để dành cho các vị xuất gia và cho những ông bà cụ già. Tuy nhiên chính những người trẻ lại đang rất cần có một nếp sống tâm linh, nếu không họ sẽ bị lạc lối. Nhưng nếu đạo Bụt không trao truyền được cho người trẻ những phép tu tập có thể đáp ứng lại nhữngnhu yếu của họ, thì họ sẽ ruồng bỏ truyền thống tâm linh của cha ông họ.” Thầy Thích Nhất Hạnh đã giải thích như thế. Sau 39 năm sống lưu vong, vị thiền sư Việt Nam định cư trên đất Pháp đã trở về thăm quê hương đất nước của ông, hồi đầu năm vừa qua. Ông được chính quyền Cộng Sản cho thuyết pháp ở những nơi công cộng. Trong các thính đường, ở các nơi trình diễn công cộng và tại các chùa, chỗ nào thiền sư tới giảng cũng đầy ắp người. Ba trăm thanh thiếu niên, nam và nữ đã theo Thầy để xuất gia, thành lập hai tu viện ở hai nơi trên đất nước Việt Nam, theo thể thức tổ chức tu viện Làng Mai của thiền sư ở Pháp.

Thiền sư nói rõ thêm: “ Những điều tôi chia sẻ đã gợi hứng cho nhiều người, bởi vì tôi truyền trao một thứ Phật giáo dấn thân trong cuộc đời, gần gũi với những thao thức của mọi người, một loại Phật giáo đã được làm mới lại, nhờ ba mươi năm tu tập và giảng dạy ở Tây Phương.”

“Muốn thương ai ta phải có mặt, cả thân và tâm, cho người đó”

Rõ ràng là người Việt Nam đã không nhầm lẫn. Người Pháp cũng thế. Mùa Xuân năm nay, như các mùa Xuân mỗi năm, 700 người Pháp đã về Làng Mai để dự khóa tu trọn một tuần lễ do Thiền Sư dạy bằng tiếng Pháp. Phần đông từ 25 đến 55 tuổi, đến từ khắp mọi miền nước Pháp. Cũng có một số đến từ Bỉ hay Thụy Sĩ, từ Ý và Tây Ban Nha. Có những người đã chịu bay từ Montréal – Gia Nã Đại. “Nhà tôi đã biết được Thầytừ Gia Nã Đại. Những điều Thầy dạy đã khiến cô ấy quá mến phục nên đã thuyết phục được tôi cùng đi ”. Vị thiền sinh người Gia Nã Đại đã thú thật với tôi như thế khi ông đặt chân đến Làng Mai – một góc trời Việt Nam nho nhỏ nằm ở tam biên các tỉnh Dordogne, Lot& Garonne và Gironde. Từ năm 1982 Thầy Nhất Hạnh cùng một số đệ tử của Thầy đã chọn làm quê hương góc trời nhỏ giữa những ruộng nho và những đồi mận này.

Rồi từ từ, khi mà những điều dạy dỗ của Thầy đã xuất hiện qua nhiều cuốn sách của Thầy trong các hiệu sách Pháp và các nước nói tiếng Pháp, với những quyển sách càng ngày càng nổi tiếng ấy, số người đến tu học càng lúc càng đông, các vị xuất gia đã mua thêm một nông trại, rồi hai nông trại, rồi một góc Xã cho đến cuối cùng là có bảy xóm tất cả, làm thành một Làng. Làng có tên là Làng Mai vì họ có trồng 1250 cây mai ăn trái. Tiền bán trái mai (mận) sẽ để dành nuôi trẻ em thiếu ăn tại Việt Nam và các nơi khác.

Rải rác đây đó là những hồ sen, những tượng Bụt được dựng lên và những tháp chuông, dưới mỗi tháp mái cong là một quả chuông thật to. Tiếng chuông trầm hùng thỉnh lên mỗi giờ một lần, suốt cả ngày. Khi chuông thỉnh lên thì mọi người dừng lại, từ ánh mắt đến cử chỉ, lời nói. Nhìn cỏ cây, lắng nghe chim hót hay cảm nghe làn gió nhẹ mơn man trong không gian. Rồi sự sống lại tiếp tục diễn tiến. Những điều dạy của Thầy Nhất Hạnh nằm nơ i bí quyết đó. Sự có mặt thật tình trong phút giây hiện tại mà Thầy gọi là “ chánh niệm” và mọi người – người tới tu tập hay người chỉ mớ i bước chân tới thăm Làng Mai lần đầu – tất cả đều nếm được sự dừng lại với hình ảnh đó.

Các thiền sinh về đây tu học được chia thành từng nhóm, nhóm đây không phải là nhóm người chỉ mê sống theo thiên nhiên, họ cũng không là những người hoài niệm thời híp-pi. Bất cứ ai về đây, tất cả đều phải chấp nhận hay tạm chấp nhận sống chung phòng với những người lạ chứ không còn cách nào khác. Tất cả đều phải chấp nhận ăn những bữa ăn chay chung, theo lối Việt Nam, chấp nhận tham dự những buổi thiền làm việc, có khi gọi là chấp tác, nhặt rau hay xắt gọt dưa, khoai, hay lau nhà vệ sinh v.v… Nhưng không ai than phiền cả. Không khí thật bình an và tươi vui, rất khác xa với những mẫu mực có sẵn của những nhóm Phật tử nghiêm nghị và khắc khổ. Suốt một tuần lễ, mọi người đều phải thức dậy từ lúc 5 giờ 00 sáng để ngồi thiền sáng vào lúc 5g 30, hướng dẫn bởi một thầy hay một sư cô của Chùa thuộc xóm mình ở – mỗi xóm có khoảng 50 sư cô và vài trăm thiền sinh trong đó có mươi sư cô Tây phương. Các sư cô mặc áo nâu, đầu cạo nhẵn, ngồi trên những chiếc gối tọa thiền, hướng dẫn thiền sinh định tâm vào hơi thở vào… hơi thở ra.., ý thức toàn thân… buông thư toàn thân…, an trú thâm sâu trong phút giây hiện tại. Vào 9 giờ 00 sáng tất cả từ trẻ con đến người lớn đều tập trung vào thiền đường lớn. Mọi người ngồi yên tới nỗi người ta có thể nghe cả tiếng ruồ i bay. Họ ngồi để chuẩn bị nghe pháp thoại của Thầy.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh diễn giảng với giọng nói thật nhẹ nhàng, bằng một thứ tiếng Pháp tuyệt hảo, thanh lịch, không cần chêm những chữ chuyên môn khó hiểu, cũng không cần dùng những từ đặc biệt Phật giáo cầu kỳ.

Thầy nói: “Muốn thương thì phải “có mặt”, cả thân và tâm. Bằng hơi thở chánh niệm. Để ý tới hơi thở vào và hơi thở ra, cái tâm nhờ thế không đi lung tung, được đưa trở về lại với thân, và do đó ta có mặt cho chính ta và cho người ta thương. Món quà quý nhất cho người mình thương là sự có mặt thật tình cho người đó : Mẹ (hayBa) thương ơi, con có mặt cho mẹ (ba) đây ! Hay là: Anh thương ơi, em có mặt cho anh đây. Hay là: em thương ơi, anh có mặt cho em đây. Hay là: con của mẹ ơi, con của cha ơi, cha (hay mẹ) đang có mặt cho con đây!” Không bị thời gian tàn phá, gương mặt thanh lịch của ông Thầy tu tỏa rạng sự bình an.

Suốt một tuần lễ, nữ luật gia Nathalie, trong những bộ áo có vẻ thời trang, đến từ miền Alpes Maritimes, đã bỏ hẳn văn phòng luật sư của cô, chồng cô và đứa con tám tuổi để đến đây tu học. Chúng tôi ngồi đàm đạo trong thiền đường với câu bút pháp: “Lắng nghe để hiểu, nhìn kỹ để thương”. Khi chia sẻ với các bạn thiền sinh khác, cô Nathalie cảm động nói: “Các điều Thầy dạy sáng nay tiếp tục âm vang trong tôi. Đơn giản vô cùng nhưng thật thâm sâu và không dễ thực tập để mà sống được như vậy. Thầy đang thật tình có mặt cho chúng ta; tôi cảm nghe như Thầy đang hướng dẫn từng bước cho chúng ta đi. Thầy dạy ta nhìn kỹ, nhận diện từng chiếc bóng của chính chúng ta tận mặt, mà không cần có mặc cảm tội lỗi. Như thế ta tiếp xúc được với phần thương tích của chính mình bằng tất cả lòng từ bi, khi nhận diện sự có mặt của thương tích trong ta thì ta có thể hiểu và thương được cách hành xử của người khác vì họ cũng đã từng bị thương tích như mình.”

Như phần đông những người tu tập ở Làng Mai, Nathalie không tự nhận cô là Phật tử. Nhưng từ khi khám phá được sách của Thầy, cô đã tới Làng Mai học với Thầy để có thể có nếp sống đẹp, lành mạnh và hạnh phúc hơn. Những người khác thì xin quy y với Thầy. Là đệ tử tại gia của Thầy, họ tự hứa và hứa với tăng thân Làng Mai trong một buổi lễ quy y là sẽ sống đời sống hằng ngày theo tiêu chuẩn năm giới, trình bày theo cách của Thầy. Họ sẽ tập tìm hiểu sâu thêm giáo lý Bụt dạy và tập thiền quán. Đó là trường hợp cô Marianne 52 tuổi, cố vấn về quản trị xí nghiệp nên biết rất rõ những nhịp độ công tác và những đòi hỏi cấp bách, những điều kiện bức xúc trong các hãng xưởng. “Pháp môn dạy dỗ của Thầy giúp tô i biết nắm lấy những gì thiết yếu nhất.” Cô Marianne tới tu học ở Làng Mai từ nhiều năm nay. Lần này cô mời được mẹ cô cùng về. Bà cụ là người theo đạo Thiên Chúa rất thuần thành. Bà cụ nói “Tôi rất may mắn mà thuộc về một giáo xứ rất cởi mở và nhờ vậy đã được phép thuật lại cho giáo dân nghe những gì tôi học được khi đi tu học ở Làng Mai về. Giáo lý đạo Bụt mà Thầy dạy không có gì chống đối với những điều tôi học trong Thánh Kinh. Ngược lại, những ngày sống ở Làng Mai giúp tôi có nhiều bình an khiến tôi thấy con tim mình mở ra, hiểu Chúa Ky Tô và những người khác nhiều hơn.”

“Ban đầu người Pháp tưởng là họ cần phải mặc áo ki mô nô…”

Nhóm quần chúng đủ màu sắc này, thiền sư Nhất Hạnh đã hiểu khá rõ tâm tư họ nên Thầy đã giúp họ được rất nhiều.

Sư Cô Chân Không, tới Pháp vào những năm cuối thập niên 1960 để phụ giúp thiền sư lo các chương trình cứu trợ nạn nhân chiến tranh và kêu gọi hòa bình, đã vui vẻ nhắc : “ Ban đầu người Pháp tưởng là họ cần phải mặc áo ki mô nô, ăn cơm bằng đũa thì mới trở nên Phật tử được! Thầy mớ i bảo với họ rằng những điều Bụt dạy là một nghệ thuật sống trong bình an và sâu sắc. Với nghệ thuật sống đẹp đó, quý vị là người Pháp thì nên xây dựng một đạo Bụt Pháp có màu sắc văn hóa Pháp”. Thiền Sư Thích Nhất Hạnh là một trong những vị Thầy hiếm có, rất lão thông văn hóa Pháp. Trong những bài thuyết giảng, ông hay hóm hỉnh thuật về triết gia Pháp Descartes hay đọc thơ của thi hào Victor Hugo. Người cũng rất giỏi Thánh Kinh. Thiền Sư xác nhận như sau : “ Khi đọc Thánh Kinh hay khi tiếp xúc với các bạn Ky Tô Giáo, tôi nhận thấy rằng thỉnh thoảng hai đạo này giao thoa rất kỳ diệu với nhau và nhìn cho kỹ thì một số tín hữu Ky Tô lại có nhiều Phật tính hơn một số Phật tử. Bởi vì kh i bạn hành xử với lòng bao dung và từ bi thì bạn đã là Phật tử rồi !”

Những vị anh hùng châu Á

Dịch từ Time Asia Magazine,ấn hành ngày 13 tháng 11 năm 2006, bộ 168, số 20

Trong sáu mươi năm qua, tạp chí TIME đã liên tục đưa lên thời sự những thành đạt lớn lao của châu Á. Trong số đặc biệt kỷ niệm 60 năm này, chúng tôi muốn vinh danh những con người Á châu đã góp phần tạo dựng xã hội chúng ta trong thời đại mới.

time-60-heroes-jpgTrong sáu thập niên huyên náo vừa qua, châu Á, một châu đông dân cư nhất của địa cầu, đã cho ra đời một loạt các vị anh hùng đáng làm cho chúng ta sửng sốt. Trong 60 năm từ ngày tạp chí TIME bắt đầu phát hành ấn bản Á châu, ban biên tập chúng tôi đã có hân hạnh tiếp xúc được với những con người lỗi lạc nhất trong số các vị anh hùng ấy, có lúc trên những nẻo đường vận động, có lúc giữa chiến trường, có lúc trong phòng thí nghiệm khoa học, hoặc trong phòng trọ, lại có lúc trên sân nhà máy hoặc tại phim trường. Đi theo dấu chân của những con người lỗi lạc ấy chúng tôi đã có cơ duyên tường thuật lại câu chuyện quá trình chuyển hóa của châu Á: từ một xóm làng nghèo đói đi đến sự thành lập một trung tâm điện lực, từ hồi phải đi bắt chước người ta cho đến khi người ta phải trở lại bắt chước mình, từ khi bị đô hộ cho đến khi thoát ra để lãnh đạo kinh tế toàn cầu đi vào một kỷ nguyên mới. Từ Gandhi đến Rushdie, từ Bruce Lee, cho đến Li Ka Shing, số báo đặc biệt này được ra đời để tôn vinh những người đàn ông và những người phụ nữ Á châu đã góp phần dựng thành số phận và thời đại chúng ta.

Thích Nhất Hạnh, vị tăng sĩ Phật Giáo đã góp phần
chấm dứt khổ đau của chiến tranh Việt Nam.

Ngày 11 tháng 06 năm 1963, giữa một đường phố Sài Gòn, Thượng tọa Thích Quảng Đức ngồi xuống châm lửa tự thiêu để chống đối chế độ áp bức của miền nam Việt Nam, một chế độ độc tài do Hoa Kỳ yểm trợ. Hình ảnh ông thầy tu ngồi an nhiên trong lửa đỏ đã trở thành những hình ảnh đầu tiên của cuộc chiến dai dẳng, những hình ảnh có tác dụng đánh thức và gây ra niềm đau nhức trong lương tâm thế giới. Trong những năm kế tiếp, hơn 30 vị xuất gia khác đã dâng hiến mạng sống của mình như thế để tiếp tục chống đối cuộc chiến vô nghĩa và thô bạo này.

Những năm tháng khổ đau chất ngất và dai dẳng của cuộc chiến Đông Dương, trong đó giới phật tử đã nỗ lực để làm vơi bớt đau thương, những tháng năm ấy dường như đã lui về một quá khứ xa xăm. Nhưng ông thầy tu Thích Nhất Hạnh, người đã xướng xuất chủ thuyết triết học Engaged Buddhism (Đạo Phật dấn thân), và đã gây niềm cảm hứng cho phong trào Phật Giáo tranh đấu cho hòa bình trong những năm tháng ấy, ông thầy tu này vẫn còn sống với chúng ta. Ở lãnh vực tôn giáo, Thầy là một trong những tư tưởng gia và hành động gia lớn nhất của thời đại chúng ta.

thich-nhat-hanhthis-buddhist-monk-helped-end-theBằng kinh nghiệm bản thân của mình, Thầy đã thấy được tại sao những ý thức hệ và những tư trào thế tục và đại chúng hóa – như chủ nghĩa quốc gia quá khích, chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa thực dân – đã làm tuôn ra bao nhiêu nguồn năng lượng bạo động cho thế kỷ thứ 20, những nguồn năng lượng bạo động chưa từng được tuôn ra quá nhiều như thế trong quá khứ. Thầy đã học được bài học này từ khi còn nhỏ tuổi. Ít có những chiến trường nào lại đẫm máu nhiều như những chiến trường tại Việt Nam, khi hết người Pháp rồi tới người Mỹ đem quân tới để đàn áp phong trào yêu nước và phong trào cộng sản trong suốt ba thập niên dai dẳng. Tuy lớn lên và sống trong không khí thanh tịnh của thiền viện, Thầy Nhất Hạnh cũng không thể nào đứng ra ngoài được cuộc tranh chấp đang xảy ra chung quanh. Thầy thấy được nhu cầu xác định sự quan yếu cấp thiết của lòng từ bi đạo Phật trong một nền văn hóa càng ngày càng bắt buộc phải trở nên bạo động thêm lên. Thầy tin tưởng rằng chỉ có thể chấm dứt được chiến tranh khi ta dập tắt được ngọn lửa của sợ hãi, thù hận, khinh miệt và giận dữ, những chất liệu đích thực đang nuôi dưỡng chiến tranh.

Năm 1965, sau ngày có một vị xuất gia nữa tự thiêu cho hòa bình, Thầy Nhất Hạnh đã viết cho mục sư Martin Luther King Jr, nhà lãnh đạo dân quyền Mỹ rằng: “Những vị xuất gia khi tự thiêu, không nhắm tới cái chết của những người áp bức họ, mà chỉ muốn có một sự thay đổi chính sách của những người ấy thôi. Họ bảo kẻ thù của họ không phải là con người. Kẻ thù của họ là sự thiếu bao dung, là cuồng tín, là độc tài, là tham lam, là hận thù và sự kỳ thị đang nằm sâu trong trái tim con người”. Thầy Nhất Hạnh đã hướng dẫn cho mục sư King và tiếp sau đó chuyển hóa cảm nghĩ của cả dư luận Hoa Kỳ đi về hướng chống đối lại chiến tranh Việt Nam. Trong những năm 1960, Thầy Nhất Hạnh đã trở thành một trong những biểu tượng cho phong trào phản chiến. Những bài viết của Thầy được đăng trong những tạp chí nổi tiếng nhất của Hoa Kỳ như tạp chí The New York Review of Books, và các bài thơ của Thầy đã được hát lên với đàn ghi ta như những bài nhạc phản chiến trong khuôn viên các trường đại học Hoa Kỳ. Ta sẽ không bị mang tiếng là quá đáng khi nói rằng thầy Nhất Hạnh đã có công gây sức ép buộc Hoa Thịnh Đốn phải rút quân ra khỏi Việt Nam.

Thầy Nhất Hạnh năm nay đã 80 tuổi, vẫn còn sống và hành đạo trong một tu viện bên Pháp. Thầy đã đóng góp một vai trò quan trọng trong việc trao truyền một truyền thống tâm linh Á châu cho xã hội Tây phương, một xã hội tân tiến nhưng phần lớn đã hoàn toàn thế tục hóa. Thầy dạy: “Đừng bị kẹt vào một chủ thuyết nào, một lý thuyết nào, một ý thức hệ nào, kể cả những chủ thuyết Phật giáo. Những giáo nghĩa Phật dạy phải được nhận thức như những pháp môn hướng dẫn thực tập để phát khởi tuệ giác và từ bi mà không phải là một chân lý tuyệt đối để thờ phụng và bảo vệ”. Trong khi các nhà lãnh đạo của thời đại ta từ Hoa Kỳ đến Iran đang lớn tiếng đốc thúc quần chúng họ tham dự vào những cuộc chiến tranh ý thức hệ mới, tạo nên những nguy cơ biến thế kỷ này thành một thế kỷ còn đẫm máu hơn cả thế kỷ vừa rồi, chúng tôi thiết nghĩ tất cả chúng ta đều nên hướng về và đi theo tuệ giác của thiền sư Nhất Hạnh.

________
(Ghi chú của người dịch: trong số những vị anh hùng được tạp chí TIME Magazine vinh danh có hai vị người Việt: đó là tướng Võ Nguyên Giáp và thầy Nhất Hạnh)

Ta hạnh phúc liền giây phút này

Ngày 10/9/2014, báo La Stampa, một trong những tờ báo lớn nhất ở Ý, có đăng một bài phỏng vấn Thầy. Claudio Gallo – Biên tập viên phụ trách chuyên mục Văn hóa (Culture Editor) của tờ báo đã tham dự trọn vẹn khóa tu dành cho người Ý được tổ chức tại Làng Mai trong tuần lễ cuối cùng của tháng 8, và anh đã tự mình trải nghiệm được cái gọi là “hiện pháp lạc trú”. Sau đây là bài tường thuật của anh với tựa đề “Happiness is Now” đã được BBT chuyển ngữ  sang tiếng Việt.

 

 


 

TA HẠNH PHÚC LIỀN GIÂY PHÚT NÀY

Cuộc gặp gỡ với Thiền sư Thích Nhất Hạnh – một vị thầy theo truyền thống Phật giáo – cùng với tăng thân của Thầy tại Pháp. Thầy có đệ tử khắp nơi trên thế giới nhưng Thầy không hề yêu cầu họ phải từ bỏ đạo gốc của mình.

 

Có một cái gì thật dịu ngọt mà cũng thật hùng tráng tỏa từ những ruộng nho, những cánh rừng, những đồng cỏ xanh mướt trải dài nối đuôi nhau lướt qua ô cửa sổ của chuyến tàu đi về miền quê nước Pháp, từ Bordeaux đến Bergerac. Đó cũng là sự nhẹ nhàng đầy hùng lực mà ta có thể tìm thấy trong những lời giảng của Thầy Nhất Hạnh. Là một tu sĩ Phật giáo người Việt, Thầy sống với tăng thân của mình tại Làng Mai, một trung tâm tu học tọa lạc trên những ngọn đồi bao quanh ngôi làng Thénac nhỏ bé. Mọi người đều gọi Thầy một cách giản dị là “Thầy” (nghĩa là “một vị thầy tâm linh”).

Thầy đã 88 tuổi, gương mặt trông có vẻ nghiêm khắc nhưng có thể bất ngờ nở một nụ cười trẻ thơ khiến cho ai nhìn thấy cũng phải mỉm cười theo. Năm 1973, Thầy bị chính quyền miền Nam Việt Nam buộc phải lưu vong và Thầy đã chọn Tây phương nơi mà Thầy được Mục sư Martin Luther King và Linh mục Thomas Merton vô cùng trân quý. Ở Mỹ, Thầy cũng đã được biết đến thông qua các chuyến đi vận động hòa bình cho Việt Nam.

Là tác giả của trên 100 cuốn sách, Thầy đã đem đến cho người Tây phương một phương pháp thực tập dựa trên giáo lý căn bản của đạo Bụt, đó là phương pháp thực tập chánh niệm – sự thực tập tỉnh thức và có mặt một trăm phần trăm cho những gì đang xảy ra trong ta và chung quanh ta. Trong Phật giáo, cùng với đức Đạt Lai Lạt Ma, Thầy có lẽ là vị thầy nổi tiếng nhất trên thế giới với rất nhiều trung tâm tu học ở khắp các châu lục và có số người theo tu học lên đến hàng trăm nghìn người. Điều đáng chú ý là Thầy không đòi hỏi các đệ tử Tây phương phải từ bỏ đạo gốc của mình. Rất nhiều người trong số 700 người Ý tham dự khóa tu vào cuối tháng 8 vừa qua tại Làng Mai là những người theo truyền thống Cơ Đốc giáo.

 

Thưa Thầy, đạo Bụt có thể cống hiến được gì cho thế hệ kỹ thuật số hiện nay – thế hệ những người trẻ suốt ngày vùi đầu vào Internet?

Hiện nay, những người trẻ đã bỏ quá nhiều thì giờ vào internet. Đây  là căn bệnh của thời đại chúng ta. Khi ngồi hai tiếng đồng hồ trước máy vi tính, chúng ta  hoàn toàn quên là mình có một hình hài. Internet là một phương tiện có khả năng mang lại rất nhiều lợi ích cho con người, nhưng đồng thời nó cũng tạo ra vô số vấn đề.

Sử dụng internet là một hình thức tiêu thụ. Ta tiêu thụ thông qua những tư tưởng, hình ảnh, âm thanh mà ta tiếp xúc được trên internet và sự tiêu thụ đó có thể lành mạnh hoặc có thể gây tàn hại cho bản thân ta. Thực tế là chỉ riêng lượng thông tin nhận được qua internet thôi cũng đủ khiến cho nhiều người rơi vào tình trạng quá tải thông tin rồi.

Cũng có nhiều người trong chúng ta trở nên nghiện internet. Ta đánh mất mình trong biển thông tin đó và ta không có mặt cho chính mình, không có mặt cho những người thương của mình và không có mặt cho thiên nhiên. Ta có ảo tưởng là thông qua mạng internet chúng ta có thể nối kết được với nhau, nhưng kỳ thực ta lại càng cảm thấy cô đơn.

Chánh niệm giúp cho ta biết điều độ khi lên mạng, đồng thời cũng giúp cho ta thấy được cái mà ta đang tiếp xúc có thật sự ích lợi hay chỉ làm cho ta càng cô đơn và tuyệt vọng thêm. Ta tiêu thụ internet để khỏa lấp sự cô đơn, nhưng thật ra nó chỉ làm cho tình trạng tệ hại hơn mà thôi. Thường thì khi tiêu thụ những tin tức, quảng cáo, những phim ảnh khêu gợi và kích thích dục tình thì ta đồng thời cũng đang đưa vào trong thân tâm ta những độc tố như giận hờn, bạo động, sợ hãi và thèm khát.

 

 

Theo đạo Bụt thì cái ta riêng biệt là một ảo tưởng, vậy trong cái thấy đó có còn sự phân biệt giữa thiện và ác hay không?

Trong thế kỷ thứ 20, chủ nghĩa cá nhân được đưa lên vị trí hàng đầu và điều này đã tạo ra rất nhiều khổ đau. Chúng ta tạo ra sự phân biệt, chia cách giữa ta và người, giữa cha và con, giữa con người và thiên nhiên, giữa quốc gia này và quốc gia khác… Chúng ta không ý thức được mối tương quan mật thiết giữa mình với mọi người và mọi loài xung quanh mình. Đạo Bụt gọi mối liên hệ đó là “tương tức” (“inter-being”).

Cái hiểu, cái thấy sâu sắc về tương tức chính là nền tảng của con đường đạo đức mà đạo Bụt đóng góp cho nhân loại. Những gì xảy ra cho một cá nhân cũng ảnh hưởng tới toàn thể xã hội và cả thế giới. Với cái thấy này, sự thực tập chánh niệm giúp cho ta phân biệt được cái gì thiện, cái gì ác, cái gì đúng, cái gì sai. Có chánh niệm thì ta sẽ nhận ra được những tàn hại đối với các loài gia súc, gia cầm cũng như đối với hành tinh này do ngành công nghiệp sản xuất thịt gây ra. Ý thức được điều đó thì ăn chay là một hành động thương yêu đối với chính mình, đối với sinh môi và đối với trái đất.

Nhiều người trong chúng ta đang chạy theo danh vọng, quyền hành, tiền tài và sắc dục. Chúng ta nghĩ rằng những thứ đó đem lại cho ta hạnh phúc, nhưng thực ra nó có thể dẫn chúng ta đi tới chỗ tàn hoại thân tâm mình.  Những người trẻ thường lẫn lộn giữa tình dục và tình yêu chân thật. Trên thực tế thì tình dục có thể hủy hoại tình yêu và đưa tới sự thèm khát, cô đơn và tuyệt vọng nhiều hơn. Sự thực tập chánh niệm giúp chúng ta mỗi ngày hiểu sâu hơn về người ta thương. Cái hiểu chính là nền tảng của tình thương đích thực. Chúng ta không thể nào có được một tình thương đích thực nếu ta không hiểu được người mình thương.

 

Có thể vượt thoát sự sợ hãi về cái chết hay không?

Gốc rễ của sự sợ hãi nằm ở cái thấy sai lạc của ta về bản chất cái chết. Ta sợ hãi cái chết tại vì ta nghĩ rằng khi chết rồi thì ta sẽ trở thành không. Khoa học hiện đại đã chứng minh cho ta thấy rằng: không có gì sinh cũng không có gì diệt, tất cả đều chuyển biến không ngừng.

Quan sát một đám mây, ta có thể đặt câu hỏi: đám mây có thể chết được không? Đám mây có thể từ mà trở thành không hay không? Nhìn cho sâu ta thấy đám mây chỉ có thể trở thành mưa, thành tuyết, thành mưa đá, rồi thành hơi nước trở lại. Bản chất của chúng ta cũng giống như bản chất của đám mây. Cũng như mưa, tuyết là sự tiếp nối của đám mây thì những hành động, lời nói và tư tưởng mà ta chế tác ra chính là sự tiếp nối của chúng ta.

 

Chúng ta sống trong một thế giới đầy sự xung đột và bất công xã hội. Làm sao ta có thể cải thiện được tình trạng đó với tư cách một Phật tử?

Sự xung đột và bất công trong xã hội phát sinh ra từ tâm chúng ta. Đạo Bụt cống hiến cho chúng ta những phương pháp thực tập cụ thể để nuôi dưỡng tình thương và hạnh phúc đích thực trong ta. Khi tình thương và hạnh phúc có mặt thì ta có thể tạo ra sự bình an trong tự thân và góp phần vào hòa bình trên thế giới. Khi tâm ta bị cuốn đi bởi tham vọng và sợ hãi thì bất công xã hội và bạo động sẽ phát sinh. Sự thực tập chánh niệm giúp cho ta nuôi lớn hạnh phúc và bình an trong giây phút hiện tại. Và đây chính là sự đóng góp tuyệt vời cho nền hòa bình thế giới và cũng đồng thời là nền tảng để chúng ta có thể làm tốt những công tác phụng sự cho xã hội.

 

Thầy dạy cho mọi người về sự thực tập chánh niệm và chánh định, thế nhưng một tình trạng đáng lo ngại của thế giới hiện nay là tình trạng suy giảm khả năng tập trung của con người…

Nhiều người trong chúng ta không biết làm thế nào để thật sự có mặt cho người mình thương và cho những mầu nhiệm đang có sẵn trong giây phút hiện tại. Tâm của ta rất dễ bị phân tán. Trong khi đó, thị trường bên ngoài không ngừng cung cấp cho ta những phương tiện để giữ cho tâm ta luôn ở trong tình trạng này. Thân của ta ở đây mà tâm của ta thì đang chạy theo những dự án ở tương lai, những sầu đau của quá khứ hay những lo lắng, buồn phiền trong hiện tại.

Cách đây không lâu, chúng tôi được mời hướng dẫn thực tập chánh niệm cho hơn 700 nhân viên của Google tại trụ sở chính của tập đoàn này ở California. Điều đầu tiên mà chúng tôi chia sẻ là sự thực tập dừng lại, tại vì trong xã hội hiện nay chúng ta luôn có thói quen rong ruổi, tìm cầu. Khi chúng ta có khả năng dừng lại, chúng ta có thể nhận diện được những gì đang xảy ra trong thân và trong tâm mình. Và đây là cách thức để ta có thể bắt đầu chăm sóc cho chính mình. Chúng ta đã có quá đủ những điều kiện để hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại. Chỉ cần dừng lại và nhận diện những điều kiện hạnh phúc đang có mặt thì ta có thể tiếp xúc được ngay với hạnh phúc đích thực.

Claudio Gallo

Để đọc bản dịch bằng tiếng Anh, xin xem tại đây:
http://plumvillage.org/news/an-italian-journalist-reports-from-plum-village/

Vấn đề mang tính toàn cầu

Một vấn đề mang tính toàn cầu với những câu trả lời từ địa phương
Những gì chúng ta làm với tư cách cá nhân, gia đình, cộng đồng và xã hội đóng vai trò rất quan trọng.

What we do as individuals, families, communities and societies: It Matters A global problem with local answers

Viết bởi Brigid Brett – Thời báo Quận Phía Bắc – ngày 21/9/2006
Sư cô Khiết Nghiêm chuyển ngữ

 

Watching Thich Nhat Hanh drink a cup of tea is a profound experience. He sits with his eyes closed, his hands circling the cup and sips in such a way that you know that there is nothing more important to him in that moment than the fragrant aroma, the warmth of the cup, the delicious flavor of the liquid.

Nhìn Thiền sư Thích Nhất Hạnh uống một tách trà quả là một kinh nghiệm sâu sắc. Thầy ngồi đó, đôi mắt nhắm lại, ha i bàn tay nâng lấy tách trà và nhấp từng ngụm theo cách mà bạn sẽ thấy được ngay là trong phút giây đó, không có gì quan trọng hơn mùi thơm, hơi ấm tỏa ra từ chiếc tách và vị ngon của nước trà.

When I first discovered the teachings of the 80-year-old Buddhist monk about 10 years ago, I never imagined I’d be watching him drink his tea right here in North County. Last Sunday, I joined about 800 people at Deer Park Monastery high in the hills of Escondido for a Day of Mindfulness with the man who has written many books on mindful living and whom Martin Luther King nominated for the Nobel Peace Prize in 1967.

Lần đầu tiên phát hiện ra những bài pháp thoại của vị Hòa thượng 80 tuổi này cách đây khoảng 10 năm, tôi không bao giờ tưởng tượng được rằng ngay tại đây, tại Quận Phía Bắc, tôi lại được ngồi ngắm nhìn Thầy đang uống trà. Chủ Nhật tuần trước, tại tu viện Lộc Uyển nằm cao trên những ngọn núi của vùng Escondido, tôi đã cùng khoảng 800 người tham dự một Ngày Chánh niệm cùng với người Thầy, tác giả của biết bao nhiêu cuốn sách về nếp sống chánh niệm và cũng là người đã được luật sư Martin Luther King đề cử cho giải Nobel Hòa Bình năm 1967.

Like many deeply spiritual people, Nhat Hanh believes that words are not enough —- that one must take positive action when faced with social injustice and environmental crises. On Sunday, with an unusually somber expression on his face and sense of urgency in his gentle Vietnamese accent, he spoke at length about global warming. He spoke about how each one of us needs to wake up and make some drastic lifestyle changes if we want our children to enjoy the earth the way we are able to now. And he told us about some of the new practices and programs that the Deer Park community in Escondido has underway.

Cũng như nhiều người có nếp sống tâm linh sâu sắc, Thầy Nhất Hạnh tin tưởng rằng ngôn từ không thể nào diễn tả đủ, rằng một người phải hành động một cách tích cực khi đối mặt với tình trạng bất công xã hội và khủng hoảng về môi trường. Vào Chủ Nhật đó, với vẻ mặt khác thường và cảm giác cấp bách trong âm điệu Việt Nam nhẹ nhàng, Thầy đã nói khá lâu về tình trạng hiệu ứng nhà kính. Thầy đã nói về phương pháp làm thế nào để mỗi người trong chúng ta cần tỉnh thức và thay đổi nếp sống một cách quyết liệt nếu chúng ta muốn con cháu chúng ta sau này cũng được tận hưởng trái đất theo cách chúng ta đang tận hưởng bây giờ. Thầy cũng kể cho chúng tô i biết một vài điểm mới trong sự thực tập cũng như một vài chương trình mới mà đại chúng tu viện Lộc Uyển tại Escodido đang tiến hành.

1. Tuesday is a No Car Day – nobody drives on Tuesdays.
2. They have a goal to reduce car use by 50 percent. They will shop for the community only once a week.
3. They are moving toward using biodiesel and hybrid cars.
4. They are purchasing solar panels to provide for all energy needs.
5. They are digging wells to access water.

I had the feeling that all 800 of us were experiencing a similar sense of hopelessness and hope as we listened to his words. I imagined we were all asking ourselves the same question: What can I do to make things better and not worse?

  1. Ngày Thứ Ba sẽ là Ngày không sử dụng xe hơi – Không ai sử dụng xe hơi trong ngày Thứ Ba.
  2. Tu viện đặt ra mục tiêu là giảm việc sử dụng xe hơi xuống còn 50%. Chỉ thực hiện việc mua sắm cho nhu cầu của đại chúng một lần trong tuần.
  3. Tu viện đang đi theo hướng sử dụng dầu diesel sạch và xe hơi hybrid (nửa điện nửa xăng) hay xe hơi chạy dầu hữu cơ.
  4. Tu viện sẽ trang bị các tấm thu năng lượng mặt trời để cung cấp cho toàn bộ nhu cầu về năng lượng của tu viện.
  5. Tu viện sẽ đào giếng để lấy nước.


    Tôi có cảm giác rằng tất cả 800 người chúng tôi đang được trải qua kinh nghiệm của cảm giác tuyệt vọng và hy vọng khi nghe những lời của Thầy. Tôi tưởng tượng ra chúng tôi đang tự hỏ i bản thân cùng một câu hỏi: chúng ta có thể làm được gì để cho cuộc sống không tồi tệ đi và trở nên tốt đẹp hơn?

    When I got home from the monastery, I made myself a cup of tea and took it outside to drink. The sun was starting to set and I watched a pair of hawks flying as if they were really enjoying themselves. Some brazen rabbits came to nibble the grass near where I sat. My husband dropped a handful of just-picked figs into my lap . Inside the house I heard my teenage kids laughing and I thought about how it would feel to one day hold a grandchild in my lap and show her the hawks and rabbits and give her a taste of warm, ripe fig.

    Từ tu viện trở về nhà, tôi đã pha cho mình một tách trà và mang ra ngoài trời uống. Mặt trờ i bắt đầu lặn và tôi thấy một cặp diều hâu đang bay như thể chúng đang thực sự tận hưởng chính bản thân. Một vài chú thỏ chạy tới gặm cỏ gần nơi tôi ngồi. Chồng tôi thả vào tay tôi một vốc sung mới hái. Tôi nghe từ trong nhà vọng ra tiếng cười đùa của mấy đứa con đã đến tuổi thành niên của tôi, và tôi nghĩ đến chuyện một ngày nào đó tôi sẽ ôm đứa cháu nội trong trong vòng tay mình và chỉ cho bé những con chim diều hâu và đàn thỏ và đưa cho bé nếm vị quả sung mới chín và còn ấm.

    So here are some things I am going to do to make North County a little greener. I’m going to have a No Car Day once a week. I’m going to cut down as much as possible on the driving I do. And I’m going to save up to buy a hybrid car. It’s the least I can do for my children – and yours.

    Và đây là vài điều mà tôi sẽ làm để góp phần làm cho quận Phía Bắc xanh hơn. Tôi sẽ thực hiện một ngày không sử dụng xe hơi hằng tuần. Tôi sẽ cố gắng để giảm việc đi lại bằng xe hơi càng nhiều càng tốt. Và tôi sẽ tiết kiệm để mua một chiếc xe chạy bằng dầu hữu cơ. Đó là những gì tối thiểu nhất tôi có thể làm cho các con của tôi – và cũng là cho các bạn.

    For more information on Deer Park Monastery and its programs, visit www.deerparkmonastery.org or call (760) 291-1003.

    Để biết thêm thông tin về tu viện Lộc Uyển và các chương trình của tu viện, xin mời các bạn thăm trang nhà tại địa chỉ www.deerparkmonastery.org hoặc điện thoại số (760) 291-1003.

    Ông hoàng tử Hạnh Phúc

    Sau một tuần tham dự khóa tu do Thiền sư Thích Nhất Hạnh và tăng thân Làng Mai tổ chức tại Brock University, Toronto (11-16/8/2013), Alice Klein – chủ bút của tuần báo Now Magazine, một trong những tờ báo lớn nhất Canada – đã chia sẻ những cảm nhận và khám phá thú vị của mình về nghệ thuật chuyển hóa khổ đau, về tình thương và hạnh phúc chân thực qua bài viết “The Prince of Happiness” (Ông hoàng tử Hạnh Phúc). Dưới đây là phần chuyển ngữ từ nguyên bản tiếng Anh.



    thở với tiếng chuông

    Tình thương và hạnh phúc chân thực? Phải chăng những điều này chỉ có trong chuyện cổ tích mà thôi? Không, hoàn toàn không phải vậy – đó là lời của thiền sư Thích Nhất Hạnh, một vị thầy 87 tuổi và cũng đồng thời là một nhà hoạt động xã hội can trường, người đang ngồi thật an nhiên trong tư thế kiết già trên bục giảng kia.

    Tôi đang sắp sửa nhận được từ Thầy những lời khuyên giản dị và thiết thực làm thế nào để có được tình thương và hạnh phúc chân thực. Nhưng ngay lúc này đây, tôi thực sự không hạnh phúc chút nào. Tôi hết sức mệt mỏi và phải thú thật là đầu óc tôi lúc này chỉ toàn nghĩ đến chuyện trục trặc vừa mới xảy ra trong gia đình tôi. Tất nhiên là chuyện này xảy ra trước khi khóa tu tại đại học Brock bắt đầu.

    Khi hào hứng quyết định tham gia khóa tu sáu ngày để học hỏi từ vị thầy được coi là một trong số ít những nhân vật huyền thoại còn sống về phong trào bất bạo động trên thế giới, tôi không hề tính đến chuyện phải thức dậy từ lúc 5 giờ rưỡi sáng và ăn toàn thức ăn chay được phục vụ trong căn-tin của trường đại học. Tôi cũng không hình dung rằng mình sẽ ngồi hàng giờ liền trong im lặng với 1300 người. Cả một gian phòng lớn – nguyên là phòng thể dục của trường đại học đều chật kín người, thật là ấn tượng. Trong khóa tu, mọi người đều thực tập im lặng hùng tráng từ tối hôm trước cho đến sau giờ ăn trưa của ngày hôm sau, cũng như trong suốt các bữa ăn.

    Thực lòng khi đến khóa tu, tôi chỉ tò mò muốn được trực tiếp cảm nhận sự có mặt sống động của vị thầy nổi tiếng thứ hai thế giới trong lĩnh vực Phật giáo. Nhưng không hiểu vì nhân duyên gì, hay là vì thấu hiểu được tâm lý rất “con người” của tôi nên hôm đó Thầy đã dạy cho tôi làm thế nào để có thể có mặt thực sự trong giây phút hiện tại, bây giờ và ở đây, chỉ khi đó tôi mới có thể thực sự cảm nhận được sự có mặt của người khác.

    Cũng như Đức Đạt Lai Lạt Ma, lập trường tranh đấu bất bạo động cho hòa bình và hòa giải dân tộc của Thầy Nhất Hạnh được hun đúc và rèn giũa trong lò lửa chiến tranh với bạo động chính trị, đàn áp và biết bao đau thương không thể nói thành lời. Trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam, Thầy là người sáng lập phong trào “đạo Bụt dấn thân” (“Engaged Buddhism”), tạo cảm hứng cho hàng ngàn xuất sĩ trong cả nước đi về các vùng nông thôn để giúp xây dựng lại những làng quê bị chiến tranh tàn phá và giúp những người dân đang sống trong cảnh nghèo đói. Tất cả những người đi theo phong trào này đều cam kết kêu gọi hòa bình bằng phương pháp bất bạo động. Và sứ mệnh của Thầy là đi ra nước ngoài để kêu gọi hòa bình cho Việt Nam và từ đó phong trào tranh đấu bất bạo động cho hòa bình và hòa giải dân tộc đã lan rộng ra các quốc gia và vẫn còn đang được tiếp tục cho đến ngày hôm nay.

    Năm 1966, sau hai thập niên dấn thân cho phong trào hoạt động xã hội, mở ra một hướng đi mới cho thế hệ trẻ lúc bấy giờ đang bị bế tắc và gặp nhiều thách thức, Thầy Nhất Hạnh đã bị chính quyền Việt Nam ngăn cấm không được trở về quê hương. Mặc dù vậy, Thầy vẫn không ngừng nỗ lực vận động người dân Mỹ cũng như người dân khắp nơi trên thế giới ủng hộ việc chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam. Vì những nỗ lực đó, Thầy đã được Mục sư Martin Luther King đề cử giải Nobel Hòa bình. Mục sư Luther King đã hoàn toàn cam kết đấu tranh cho hòa bình và chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam sau cuộc nói chuyện với Thầy Nhất Hạnh – vị Hoàng tử Hạnh Phúc đang ngồi an nhiên trước mặt tôi đây.

    Thầy không hề để lộ tuổi tác qua dáng vẻ của mình. Trong chiếc áo tràng nâu, Thầy hơi có vẻ giống nhân vật Spock trong bộ phim nổi tiếng Star Trek, với cặp lông mày rậm và đôi mắt sâu thẳm luôn có tia sáng lấp lánh. Thầy đang chuẩn bị giảng về cái mà Thầy gọi là nghệ thuật khổ đau. Và dĩ nhiên là tôi sẽ phải bận rộn với trái tim đang tan vỡ của mình.

    Có lẽ bất kỳ ai dù chỉ mới đọc một xíu thôi trong hơn 80 đầu sách của Thầy – chưa kể đến các CD, video và những thứ khác – cũng biết rằng những gì Thầy Nhất Hạnh dạy đều bắt đầu bằng một cách rất đơn giản, đó là theo dõi hơi thở vào. Thầy nói rằng chỉ cần một hơi thở vào là ta có thể trở về và tiếp xúc với một sự thật mầu nhiệm là ta đang còn sống trong giây phút hiện tại và đây là giây phút hạnh phúc.

    Tôi thử làm theo lời Thầy dạy, và quả nhiên hơi thở vào giúp tôi kết nối với thân thể của mình ngay lập tức. Wow! Tôi thật sự cảm nhận được điều này! Tôi thở vào và lần này tôi theo sát hơi thở xuống dưới bụng (trong khi thở vào tôi nhủ thầm “Con đã về”), rồi tôi theo dõi hơi thở ra từ đầu cho đến cuối, trọn vẹn và thoải mái (đồng thời nhủ thầm câu “Con đã tới”). Thầy gọi đó là hơi thở có ý thức, hay hơi thở chánh niệm.

    Mặc dù trái tim khổ đau của tôi vẫn bắt buộc tôi phải dành gần như toàn bộ tâm ý cho nó, nhưng phải thừa nhận rằng phương pháp làm cho thân tâm hợp nhất này thật là thâm sâu và có hiệu quả ngay tức thì.

    Trong khi theo dõi hơi thở từ đầu cho đến cuối, tôi đã đi ra khỏi những ồn ào huyên náo trong đầu và bước sang một trạng thái tỉnh thức khác lạ. Bây giờ tôi mới hiểu thế nào là giây phút hiện tại. Tôi không thể nào tin được rằng sau hàng chục năm nghiên cứu và tìm tòi, tôi lại khám phá ra được một cách kết nối thân tâm nhanh chóng và giản dị đến thế.

    “Nghệ thuật khổ đau” cũng đòi hỏi ta phải chế tác năng lượng chánh niệm bằng hơi thở ý thức. “Ai trong chúng ta cũng có ít nhiều khổ đau”, Thầy nói một cách nhẹ nhàng. “Và với năng lượng chánh niệm, ta có thể trở về với chính mình và ta có thể nhận diện được khổ đau đang có mặt trong mình”. Đúng vậy, tôi đã làm được bước đầu tiên rồi!

    “Nhiều người trong chúng ta thường sợ phải đối diện và bị nhấn chìm trong khổ đau của chính mình, vì vậy mà ta thường có xu hướng trốn chạy hoặc khỏa lấp nỗi cô đơn, buồn giận, sợ hãi hay tuyệt vọng trong lòng mình. Chúng ta làm mọi cách để bận rộn, để không phải trở về với chính mình và tiếp xúc với niềm đau, nỗi khổ trong lòng mình. Nhưng với năng lượng chánh niệm, chúng ta sẽ có đủ sức mạnh để trở về nhà, trở về với chính mình. Ta có thể ôm ấp niềm đau của mình với tất cả sự dịu dàng như một người mẹ đang ôm đứa con của mình trong lòng.”

    Được rồi, vậy thì tôi sẽ cố gắng thở và nhẹ nhàng ôm ấp niềm đau trong tôi như ôm một em bé.

    “Chúng ta mang theo cả những khổ đau của cha, của mẹ, của ông bà tổ tiên trong ta” Thầy giải thích thêm.

    Trong giây phút này, tôi thực sự cảm nhận được sự có mặt rất rõ ràng của tổ tiên ở trong tôi và tôi muốn dừng lại cái vòng luẩn quẩn mà tôi đang mắc kẹt vào.

    Tôi càng có động lực hơn khi nghe Thầy dạy: “Khi ôm ấp khổ đau trong lòng mình, chúng ta sẽ đi đến một cái thấy về bản chất và gốc rễ của khổ đau đó. Và khi đã hiểu được gốc rễ của khổ đau rồi thì tình thương và lòng từ bi trong ta sẽ phát khởi một cách rất tự nhiên. Từ bi là một loại năng lượng có khả năng chữa trị cho chúng ta và cho cả thế giới này.”

    Tôi đã thực sự thực tập đúng theo lời Thầy dạy và phải mất khoảng 24 giờ. Tôi không hề nhận ra rằng cảm giác đau khổ trong lòng tôi đã tan biến, tôi chỉ thấy mình bỗng nhiên nhẹ nhàng hơn trước rất nhiều.

    Tuy nhiên, chìa khóa của thành công nằm ở chỗ: nếu anh chưa thực tập được đến mức không còn muốn trừng phạt bất kỳ ai – những người đã làm anh khổ đau – thì anh vẫn chưa thực sự thành công. Nếu anh chỉ thực tập nửa vời thì không bao giờ có thể thành công được.

    Phương pháp bất bạo động của Thầy Nhất Hạnh có vẻ quá khác lạ so với cách tư duy thông thường, vì vậy mà nó làm cho ta khó chấp nhận. Nhưng bù lại ta sẽ nhận được những phần thưởng thật xứng đáng, đó là tự do, hạnh phúc, tình thương chân thực và Niết bàn. Tất cả những điều này đều chờ đợi ta ở địa chỉ: bây giờ và ở đây, đó là lời của Thầy Nhất Hạnh. Thầy nói rằng: “Không có con đường đi đến Niết bàn, Niết bàn chính là con đường”.

    Chỉ đến khi kết thúc khóa tu tôi mới hiểu ra vì sao sự có mặt của Thầy có thể gây xúc động và ảnh hưởng lớn với tôi như vậy. Đó là vì Thầy luôn an trú trong giây phút hiện tại, Thầy luôn ở trong Niết bàn.

    Alice Klein



    Phần chuyển ngữ từ nguyên bản tiếng Anh
    The Prince of Happiness


    Đối thoại với thiền sư Thích Nhất Hạnh về hạnh phúc – 2008

    Buổi trực tuyến giữa nhà báo Nguyễn Anh Tuấn (tổng biên tập VietNamNet) với thiền sư Thích Nhất Hạnh trong chiều 4.5.2008 diễn ra với nhiều nội dung thú vị. Nhưng điều đọng lại lớn lao nhất, ấn tượng nhất trong người nghe là sự lý giải, gợi mở của thiền sư về hai chữ HẠNH PHÚC của con người.

    Hình ảnh trong Bàn tròn trực tuyến giữa VietNamNet và Thiền sư Thích Nhất Hạnh

     

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Chúng tôi mang đến đây tặng quý vị hai bức thư pháp. Bức "Từng bước nở hoa sen" là phương pháp thực tập để mỗi bước chân mình đi thảnh thơi, an lạc, tiếp xúc với những mầu nhiệm trên hành tinh này, đem lại cho mình hạnh phúc. Bức thứ hai là phương pháp lắng nghe để có thể hiểu được những khó khăn, khổ đau, bức xúc của người đối diện, và có thời giờ nhìn lại để chấp nhận và thương yêu: "Lắng nghe để hiểu, nhìn lại để thương". Phương pháp này có thể giúp mình tái lập lại truyền thông, hòa giải giữa hai người với nhau, đem lại hạnh phúc không chỉ cho riêng mình.

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh và TBT VietNamNet Nguyễn Anh Tuấn

     

    "Chúng tôi đã bỏ ra 30 năm để chia sẻ sự thực tập đạo Phật với người Tây Phương"

    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Cảm ơn Thiền sư Thích Nhất Hạnh và tăng đoàn đã có những món quà rất ý nghĩa tặng VietNamNet. Có lẽ chúng tôi không cần giới thiệu gì thêm về vị khách mời đặc biệt hôm nay, bởi tên tuổi cũng như uy tín của thiền sư đã lan tỏa sâu rộng cả trong và ngoài nước. Câu hỏi đầu tiên: Xin thiền sư chia sẻ về thành tựu chung hiện nay của đạo Phật trên toàn thế giới?

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Chúng tôi đã để ra trên 30 năm để chia sẻ sự thực tập đạo Phật với người Tây phương. Hiện giờ đạo Phật ở phương Tây phát triển rất mạnh và nhanh, được giới trẻ, giới trí thức hâm mộ nhiều. Chúng tôi đã mở những khóa tu tập riêng cho giới doanh nhận, giới bảo hộ môi trường, giáo chức, cựu chiến binh, văn nghệ sĩ… Có khóa tu cho giới diễn viên Holllywood, dân biểu quốc hội Hoa Kỳ, những người lo an ninh (cảnh sát, người giữ tù…), luật sư… Đây đúng là đạo Phật đi vào cuộc đời, mình không cần phải quy y nhưng có thể thừa hưởng kho tàng tuệ giác của đạo Phật để tháo gỡ khó khăn trong đời sống nội tâm, tái lập lại truyền thông với những người khác, trong đó có gia đình, đồng nghiệp, đem lại hạnh phúc trong đời sống hàng ngày.

    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Thiền sư có thể lý giải vì sao Phật giáo lại được chấp nhận và ngày càng phát triển ở những vùng đất, những bối cảnh xã hội như châu Âu, nước Mỹ, nơi các tôn giáo khác như công giáo, tin lành… đã bám rễ rất sâu rộng?

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Chúng tôi nghĩ một phần vì những cố gắng hiện đại hóa Cơ đốc giáo, Do Thái giáo chưa thành công lắm, trong khi chúng tôi thành công trong sự hiện đại hóa đạo Phật. Ở phương Tây đạo Phật được trình bày với ngôn ngữ mới, đưa ra những pháp môn tu tập rất thực tế để giúp mỗi cá nhân tháo gỡ những khó khăn ngay khi tu tập. Có những người đã từng là Linh mục, mục sư thương đạo Chúa rất nhiều, nhưng họ nói đạo Phật giúp họ tìm ra biện pháp cụ thể để tháo gỡ khó khăn.

    Ví dụ như mục sư Cyber Lee ở Houston, Texas, nhờ đọc sách của mình (chúng tôi), áp dụng sự thực tập học ở trong sách mà chữa lành bệnh ung thư, nên sau đó đã xin thụ trì 5 giới, quy y tam bảo mà không thấy có sự mâu thuẫn gì giữa đức tin cơ đốc giáo của bản thân với tuệ giác đạo Phật. Sau đó vị mục sư này đến làng Mai tu học 3 tháng mùa đông, tiếp tục tu học cho đến khi thành một vị giáo thọ của làng Mai, tức người có khả năng mở những khóa tu theo giáo lý đạo Phật. Vị mục sư này đã viết thư cho bề trên, đề xuất nguyện vọng muốn được vừa làm mục sư, vừa làm giáo thọ đạo Phật, trong trường hợp bề trên không cho thì sẽ chỉ làm giáo thọ đạo Phật. Chúng tôi được tin là bề trên đã đồng ý cho ông vừa làm mục sư, vừa làm giáo thọ. Sáng chủ nhật thì ông giảng bài cho con chiên, buổi chiều thì hướng dẫn thiền tập cho mọi người, trong đó có cả những người trong nhà thờ.

    Chúng tôi không nghĩ phải từ bỏ đạo Thiên chúa hay Do thái mới theo được đạo Phật, vì đạo Phật không phải chỉ là tôn giáo tín ngưỡng, mà còn là nguồn tuệ giáo sâu sắc, mà bất cứ ai cũng có thể thừa hưởng để tháo gỡ những khó khăn trong đời sống nội tâm, giúp cho đời sống an lạc, hạnh phúc.

    "Mong Giáo hội Công giáo và Phật giáo ra văn bản có hậu về hôn nhân dị giáo"

    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Chính nhờ những bước phát triển, cập nhật cái mới mà đạo Phật đã có sức sống ở những vùng đất như Âu-Mỹ. Ngược lại, đạo Phật có học hỏi những điều hay của các tôn giáo khác để làm giàu thêm cho mình không?

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Trong đạo tràng của chúng tôi, các thầy – sư cô – phật tử – cư sĩ đều có bổn phận phải học những truyền thống khác. Chúng tôi đã viết những cuốn sách đối thoại Phật giáo với những tôn giáo khác, như cuốn "Living Buddha, Living Christ" ("Bụt ngàn đời, Chúa ngàn đời"), "Về đi thôi, Bụt và Chúa là hai anh em" (Coming home, Buddha and Christ are brothers). Những cuốn sách đó cũng như những khóa tu chúng tôi mở ra cho những người Phật tử và Cơ đốc giáo đến tu tập chung là những phương tiện đối thoại rất hay, khiến cho nhiều người Cơ đốc giáo và Do Thái giáo có cơ hội tìm hiểu đạo Phật, đồng thời giúp những người đạo Phật có cơ hội hiểu thêm về giáo lý Cơ đốc giáo, Do thái giáo, nên sự hiểu biết chung ngày càng tăng, tình thân hữu nhờ đó mà phát triển.

    Chúng tôi cũng đề cập đến Hôn nhân dị giáo. Bởi đã có biết bao thanh niên thiếu nữ đau khổ vì không được lấy nhau, do hai bên cha mẹ đều muốn giữ đạo của mình. Chúng tôi có đề nghị biện pháp như cho phép hai người cưới nhau, người nào giữ tôn giáo người đó, đồng thời có cơ hội học thêm truyền thống của người bạn hôn phối của mình. Chủ nhật 2 người cùng đi nhà thờ, rằm và mùng 1 hai người cùng đi chùa. Thay vì có 1 gốc rễ thì hai người có hai gốc rễ tâm linh, vì học 2 truyền thống thì khám phá được rõ hơn châu báu của mỗi truyền thống, chỉ làm giàu thêm thôi. Hôm chúng tôi đến thăm nhà thờ Phát Diệm, gặp một số vị linh mục, chúng tôi có bàn về chuyện này, các vị linh mục tỏ vẻ đồng ý. Hy vọng các giáo hội Công giáo và Phật giáo sẽ ra một văn bản để tuổi trẻ khỏi phải đau khổ như suốt mấy trăm năm qua khi có tình yêu với người khác truyền thống.

    Hiện đại hoá đạo Phật?

    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Phật giáo VN đã có truyền thống lâu đời. Vậy thiền sư có nhận xét thế nào về Phật giáo hôm nay tại Việt Nam?

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Phật giáo VN có nhiều tiềm lực, như mỏ dầu hỏa rất lớn. Vấn đề là có biết khai thác để làm hạnh phúc cho dân, cho nước hay không? Cái học của chúng ta trong các trường Phật học lý thuyết hơi nhiều, sự thực tập mới chỉ tập trung vào sự tín mộ, cầu nguyện, chứ chưa đi sâu vào quán chiếu và chuyển hóa. Chúng tôi mong phương pháp học Phật và thực tập đạo Phật phải được hiện đại hóa mau chóng, để Phật giáo đi kịp những trào lưu khác trong xã hội.

    Chúng tôi ở Tây phương có hoàn cảnh thuận tiện nên hiện đại hóa đạo Phật rất dễ dàng, đào tạo những thế hệ tu sĩ, tăng sinh, thầy và sư cô mới, cư sĩ mới. Chúng tôi không tốn quá nhiều thời giờ mà vẫn đào tạo được những giáo thọ có khả năng mở những khóa thực tập (retreat) trong đó người ta tới học những cái chúng tôi vừa trình bày, học làm thế nào đem lại cái an, cái lạc cho thân tâm, thiết lập truyền thông với người khác, xóa bỏ hận thù bạo động, đem lại hạnh phúc. Sự thành công là nhờ ở chỗ chúng tôi dám làm mới đạo Phật, đem lại một đạo Phật thích hợp với tuổi trẻ, với người trí thức bây giờ. Việt Nam hiện giờ có nhiều điều kiện để làm mới, hiện đại hóa đạo Phật.

    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Thiền sư có thể làm rõ, ta cần hiện đại hóa, cập nhật điểm nào của đạo Phật?

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Chúng tôi đã nói, cái học của chúng ta phải thay đổi, phải học những biện pháp cụ thể để chuyển hóa thân tâm chứ không học như lý thuyết suông. Sinh viên y khoa ngoài giờ học trong lớp thì phải vào bệnh viện xem các giáo sư chẩn mạch, cho thuốc. Các thầy, sư cô trong các phật học viện cũng vậy, phải có khả năng tổ chức giúp đỡ, tham vấn, soi sáng cho những người tới với mình. Họ có những khó khăn, bức xúc, khổ đau, tai nạn, thì mình phải dùng trí tuệ đạo Phật để giúp họ tháo gỡ.

    Đức Thế tôn từ 2600 năm trước đã cho người phụ nữ vào trong giáo đoàn của ngài. Ấy vậy mà trong truyền thống của mình vẫn trọng nam khinh nữ. Tuần trước chúng tôi có đưa ra đề nghị BÁT KỈNH PHÁP của các thầy với các sư cô. Chúng tôi biết có nhiều vị sẽ mừng lắm, nhất là những người ở Tây phương. Nhưng cũng sẽ có những người bảo thủ, và chúng tôi sẽ phải gánh chịu búa rìu dư luận. Nhưng chúng tôi vẫn can đảm đưa ra để cho có được sự bình đẳng thực sự giữa nam và nữ trong giáo đoàn Đức Phật.

    Chúng tôi cũng nghĩ Đạo Phật cần đi vào đời sống của tuổi trẻ. Chúng tôi mong tổ chức Gia đình phật tử ở Việt Nam được phục hồi, sẽ có những đoàn thanh niên Phật tử, những đoàn Phật tử hoạt động trong xã hội lành mạnh và từ bi hơn. Chúng tôi nghĩ rằng, làm cha mẹ phải học Phật để tháo gỡ khó khăn, chăm sóc nhau, giúp cho con mình học đạo Phật từ mình. Thầy cô giáo phải buông thả căng thẳng trong con người của mình, đối phó với những bức xúc trong tâm như sợ hãi lo lắng. Khi bố mẹ, thầy cô làm được thì sẽ giúp con cái và học trò. Vì thế, đạo Phật phải đi vào trong gia đình, trong học đường, trong xã hội.

    Ví dụ ông là một doanh nhân, ông biết nếu đem Đạo Phật vào trong doanh nghiệp thì sẽ tạo ra sự hiểu biết, chấp nhận, thương yêu, và nếu biết cách thì những công nhân trong doanh nghiệp biết phương pháp buông thư, có thời giờ để tìm hiểu khổ đau, khó khăn của nhau, thì sự hiểu nhau, chấp nhận nhau, thương yêu nhau sẽ làm công việc phát triển và thành công hơn.

    Nếu ông là nhà chính trị mà biết Phật-Pháp thì có thể đem phương pháp thực tập vào đảng của ông, thiết lập được sự đồng cảm, thương yêu, tin cậy giữa những người cộng sự thì sự nghiệp chính trị sẽ thành công. Mỗi chúng ta phải có chiều hướng tâm linh (spiritual dimension), nếu không thì không tháo gỡ được những khó khăn, bức xúc trong đời sống của mình, mà như thế thì rất khó thành công. Đạo Phật vì thế cần phải cung cấp cho mỗi người trong xã hội cái bình diện, chiều hướng tâm linh. Đó là điều mà giáo hội Phật giáo cần lưu tâm, đó là cái đẹp nhất, quý nhất mà đạo Phật có thể cống hiến cho xã hội, cho dân tộc.

    Tâm an và nhiệt huyết sống! Có mâu thuẫn không?

    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Thưa thiền sư, vậy có mâu thuẫn không khi ta đề cao tâm an, nhẹ nhàng, thanh tịnh, nhưng thực tế cuộc sống lại rất sôi động, cạnh tranh, mỗi con người phải vươn lên. Cũng có khi người ta coi stress, căng thẳng như là một thách thức thú vị của cuộc sống (như việc chơi game chẳng hạn). Đạo Phật có mâu thuẫn khi gạt đi những sôi động, những thách thức khiến con người phát triển và có nhiệt huyết sống không?

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Một nhà chính trị thì luôn muốn mình đem lại thành công cho đất nước. Một doanh thương cũng muốn thành công cho cả doanh nghiệp chứ không phải chỉ cho mình. Nếu hình hài không có an thì không thành công được. Thực tập đem lại sự yên ổn trong thân, trong tâm sẽ giúp họ thành công, dù là nhà chính trị hay doanh nhân, không có gì chống đối hết. Khi sử dụng ái ngữ và lắng nghe thì họ thành công hơn trong lĩnh vực chính trị, kinh doanh của họ. Những niềm vui của họ có thể rất lớn khi họ thực hiện những điều họ mơ ước. Sự thành công của mình không hẳn trả giá bằng sự thất bại của người khác. Tại sao người kia phải thất bại thì mình mới thành công? Đó là câu hỏi quan trọng? Làm thế nào để tôi thành công và anh cũng thành công, thì hạnh phúc của ta sẽ lớn hơn, vì không ai đau khổ vì sự thành công của chúng ta hết. Hạnh phúc của chúng ta đâu phải chỉ là quyền lực, danh vọng, tiền bạc. Hạnh phúc là khi chúng ta có tình thương và sự hiểu biết.

    Trong mỗi chúng ta có hai nhu cầu sâu sắc, đó là nhu cầu hiểu biết và thương yêu. Những nhà khoa học vì nhu cầu hiểu biết mà thức đến 3, 4h khuya để nghiên cứu thí nghiệm. Những nhà đạo học không dùng phương tiện đo lường mà dùng thiền quán để tìm hiểu. Con đường tâm linh cũng khám phá, làm thỏa mãn nhu yếu hiểu biết của con người.

    Nhu yếu thứ hai sâu sắc của con người là thương yêu và được thương yêu. Sở dĩ ngày xưa SIDDHARTHA bỏ nhà đi tu là tại thấy rằng tình thương dành cho một người không đủ, không làm thỏa mãn ý chí của người con trai đó, nên ra đi tìm tình thương có thể ôm lấy mọi người, mọi loài, tình thương không biên giới. Ta có khao khát rất lớn là được thương yêu, thương yêu có thể phát triển tới vô biên, ôm lấy vũ trụ. Khi ta có hiểu biết lớn, thương yêu lớn thì hạnh phúc lớn. Vì vậy nhà doanh thương, nhà chính trị mà trong khi hoạt động mở rộng được tình thương, hiểu biết của mình, càng hiểu thì càng thương, hiểu sâu thì thương nhiều, thì hạnh phúc rất lớn, không có gì mâu thuẫn.

     

    Sử dụng tuệ giác đạo Phật để chuyển hóa thân tâm, tháo gỡ khó khăn?

    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Con người tìm đến với tôn giáo là tìm đến với thế giới tinh thần, với sự an ủi, như đạo Phật giúp giải thoát khỏi những đau khổ nội tâm trong cuộc sống. Nhưng thưa thiền sư, lý thuyết giáo lý cao đẹp ấy đã đi vào thực tế cuộc sống được nhiều chưa?

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Với đạo Phật, phần lớn chúng ta mới thực tập tín mộ, tín ngưỡng, chứ ít người sử dụng được tuệ giác đạo Phật để chuyển hóa thân tâm, tháo gỡ những khó khăn. Cầu nguyện cũng phần nào đem lại sự an lạc, vì giúp lắng dịu những khổ đau, lo lắng. Nhưng muốn giải quyết tận gốc vấn đề thì phải có tuệ giác, mà tuệ giác phải do tu tập mới có được. Hiện ở Tây phương chúng tôi đang xướng xuất phong trào Phật học ứng dụng.

    Hạnh phúc là an lạc, không có an thì không có lạc, an trong thân và trong tâm. Nếu con người chứa chất quá nhiều sự căng thẳng, stress, thân không an thì tâm làm sao an được? Trong khi đó tâm có những cảm giác, cảm xúc như giận hờn, tuyệt vọng, bạo động, nếu không có phương pháp cụ thể thì làm sao nhận diện và chuyển hóa được những bất an của tâm? Trong kinh Niệm Xứ hay kinh Quán Niệm Hơi Thở, Đức Thế Tôn đã dạy những phương pháp cụ thể để làm lắng dịu những căng thẳng trong thân, trong tâm, rồi nhìn sâu để xem gốc rễ của những khổ đau phiền não đó do đâu, từ đó mới bắt đầu chuyển hóa được những tâm hành. Đó là phương pháp khoa học.

    Sở dĩ người Tây phương theo chúng tôi học hỏi, thực tập nhiều, vì chúng tôi không hiến tặng cho họ đạo Phật của đức tin mà hiến tặng cho họ đạo Phật của sự thực tập kinh nghiệm. Những khóa tu tổ chức ở New York, Los Angeles, Boston, Born, London, thường có trên 1000 người tới tu liền 6, 7 ngày, trong những ngày đó họ thực tập những phương pháp cụ thể, trước hết lấy ra những căng thẳng trong thân – tập buông thư, lấy ra những căng thẳng trong tâm – tập nhận diện và ôm ấp những đau buồn, lo lắng, sợ hãi của mình, nhìn sâu vào để có thể nhận diện những bản chất tâm hành đó. Rồi nhìn vào người thân của mình để thấy trong họ có căng thẳng trong thân, tâm, để phát khởi lòng thương, chấp nhận họ. Lúc đó mình cởi bỏ được thái độ trách móc, vì có sự lắng dịu trong thân và tâm, học thêm được phương pháp ái ngữ và lắng nghe, hiểu được khó khăn và bức xúc, mơ ước, khổ đau của người kia, từ đó chấp nhận để giúp đỡ họ. Không nói những lời chua chát, buộc tội, lên án, thì có thể giúp người kia hiểu được, thấy được những nhận thức sai lầm của họ để thay đổi.

    Đó là những phương pháp cụ thể, chỉ cần tu trong 6, 7 ngày là đã có thể đạt được những tiến bộ rất lớn rồi. Không khóa tu nào mà không có phép lạ xảy ra, vợ chồng hòa giải, cha con làm hòa là chuyện rất thường. Có điều lạ lùng, nếu 2 người cùng tới khóa tu thì sự chuyển hóa dễ dàng là đúng, nhưng có trường hợp chỉ 1 người đến khóa tu, chuyển hóa và có khả năng nói được lời êm dịu và lắng nghe được khó khăn của người đối thoại. Đến ngày thứ 6 chúng tôi cho phép dùng điện thoại di động để thực tập lắng nghe và ái ngữ, và có nhiều người đã báo cáo rằng chỉ dùng điện thoại di động đã có thể hòa giải với người kia ở nhà (bố, mẹ, anh chị em, vợ chồng, con…). Khi nghe báo cáo như thế thì chúng tôi rất hạnh phúc, vì biết rằng mình đã giúp được nhiều người.
     

    "Năm giới là sự thực tập cụ thể của tình thương"

    Thực sự chúng tôi không chủ ý quyến rũ người ta theo đạo Phật, nhưng vào cuối khóa tu, người xin quy y và thọ 5 giới rất đông, có những khóa tu mà 6 – 700 người Tây phương quỳ xuống xin quy y Phật-Pháp-Tăng và thọ 5 giới. Vì họ biết rằng 5 giới là sự thực tập cụ thể của tình thương.

    Giới thứ nhất là Bảo vệ sự sống không chỉ của loài người mà động vật, thực vật, khoáng vật. Giới này đi theo đường lối bảo hộ môi trường (deep ecology), không chỉ bảo vệ con người mà còn bảo vệ các loài khác trong đó có thực vật và khoáng vật.

    Giới thứ hai là Chia sẻ thời giờ và tài vật của mình với những người thiếu thốn, đừng lạm dụng và bóc lột người khác. Đó là giới không trộm cắp, không bóc lột, trái lại hiến dâng, là sự thực tập của tình thương.

    Giới thứ ba là Không tà dâm, không lạm dụng tình dục, bảo hộ trẻ em, bảo hộ những cặp vợ chồng. Đó cũng là tình thương, vì bao nhiêu trẻ em lớn lên trong gia đình không giữ giới thì đau khổ vô cùng. Bởi vậy, sự thực tập giới thứ ba là không ăn nằm với những người không phải vợ chồng, không lạm dụng tình dục, bảo hộ cho những đôi nam nữ, bảo hộ trẻ em cũng là sự thực tập của tình thương.

    Giới thứ tư là Sử dụng ái ngữ và lắng nghe để tái lập truyền thông giữa những người thân… cũng là sự thực tập tình thương.

    Giới thứ năm là Tiêu thụ trong chính niệm, chỉ tiêu thụ những sản phẩm mang lại sự an lạc cho thân tâm mình, còn những sản phẩm có độc tố (như phim ảnh sách báo) thì những độc tố đó sẽ làm thâm tâm bị hủy hoại. Biết chọn đối tượng tiêu thụ cũng là sự thực tập của tình thương, bảo hộ xã hội, bảo hộ con người.

    Khi họ thấy 5 giới là phương tiện bảo hộ mình và những người thương thì đó không còn là đức tin mơ hồ mà là những thực tập cần thiết. Họ tiếp nhận 5 giới với thái độ khoa học chứ không phải người đi tìm đức tin, nên họ thấy không chống đối gì với truyền thống tôn giáo của họ.

     

    Nên học vua A Dục và Trần Thánh Tông để thống nhất lòng người

    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Đúng là Giáo lý của đạo Phật rất đẹp, rất hay. Nhưng từ mong muốn mà chuyển hóa thành thực tiễn hành động, nhân cách mỗi con người thì không dễ chút nào. Liệu giáo lý đạo Phật có thể giúp định hình ra một nhân cách của dân tộc VN? Nhiều người mong muốn điều đó, nhưng nay còn bộn bề trăn trở nhiều. Thiền sư có đánh giá gì, có giải pháp gì đưa những điều hay của giáo lý Phật-Pháp đến với mỗi con người, để hình ảnh dân tộc Việt Nam có nhân cách tốt trong cộng đồng thế giới?

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Đạo Phật ngày xưa giúp đất nước nhiều lắm. Học giả Hoàng Xuân Hãn đã nói Đạo Phật giúp đời Lý là triều đại thuần từ nhất trong lịch sử, khi từ vua quan tới dân đều thực tập đạo Phật. Đời Trần cũng vậy, sau khi chiến thắng Nguyên Mông, quan quân có đệ trình lên một hòm tài liệu của một số viên chức chính quyền liên lạc với giặc. Nhưng Vua Trần Thánh Tông đã đem hòm tài liệu đốt trước mặt bá quan để yên tâm trăm họ, bởi chúng ta đã giành được độc lập, đẩy lui được quân thù thì cần nhất bây giờ là đoàn kết quốc gia. Đó là hành động phát sinh từ tuệ giác của đạo Phật.

    Hiện giờ, ta có thể học theo những hành động như thế. Cố nhiên là trong chiến tranh chúng ta bị chia rẽ, có những ý thức hệ đối chọi nhau, có những nhận thức khác nhau về chính trị, có cách thức yêu nước khác nhau. Giờ phải làm thế nào để buông bỏ thái độ đó đi. Đừng cho rằng chỉ có lý thuyết của chúng tôi là đúng, còn mọi lý thuyết khác đều sai lầm hết. Thái độ bám vào một chủ thuyết, không bao dung đó sẽ tiếp tục làm cho dân ta khổ.

    Trong giới luật Tiếp Hiện của chúng tôi có đưa ra tinh thần đạo Phật là không thờ phụng bất cứ một chủ nghĩa nào, một lý thuyết nào, kể cả đó là lý thuyết Phật giáo. Đạo Phật đưa ra những phương tiện để tu tập, để học hỏi, để chuyển hóa bản thân chứ không phải là những lý thuyết để thờ phụng, để phải phát động những cuộc chiến đẫm máu. Tôi nghĩ thái độ đó rất cần thiết. Vua A Dục ngày xưa sau khi thống nhất đất nước đã đi tu, yểm trợ cho các tôn giáo để các tôn giáo thống nhất nhân tâm. Vì thế, vua A Dục đã thống nhất được nhân tâm sau khi thống nhất lãnh thổ. Chúng ta nên học bài học đó. Chúng ta thống nhất Nam Bắc nhưng chưa thống nhất được lòng người, vẫn có sự tị hiềm, hận thù, đau khổ trong lòng mỗi chúng ta. Áp dụng đạo Phật là để buông bỏ những hận thù trong quá khứ. Đó là một trong những thực tập mà ta có thể thực hiện ngay, thống nhất lòng người, ôm lấy nhau như đồng bào.

    Năm ngoái về Việt Nam, chúng tôi được phép của Thủ tướng Chính phủ để tổ chức 3 đại trai đàn chẩn tế cầu siêu bình đẳng giải oan cho người Bắc, cho người Nam, cho người cộng sản và cả cho người chống cộng sản. Đó là tuệ giác của nhà nước Việt Nam. Đó là lần đầu tiên người Cộng sản và những người chống cộng sản được ôm lấy nhau để cùng khóc thương, cầu nguyện cho 6 triệu người chết, trong đó có bao người chết oan. Thực tập đó theo đúng tinh thần đạo Phật, buông bỏ những hận thù, bực bội, khổ đau trong quá khứ, đóng góp vào sự thống nhất lòng người.

     

    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Sau một năm thực hiện hành động mà thiền sư đánh giá là có tính đột phá và được Nhà nước ủng hộ đó, thiền sư có thấy tiến bộ thêm trong sự xóa bỏ hận thù của quá khứ không?

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Công việc đó cần phải được tiếp tục, mọi giới đều phải đóng góp vào. Ba trai đàn chẩn tế cũng chỉ là sự bắt đầu. Tôi nghe rằng nhiều vị thượng tọa, đại đức cũng đang tổ chức những trai đàn như vậy ở địa phương. Đó là sự tiếp nối. Chúng tôi nghĩ rằng những công việc như thế rất quan trọng, bởi thống nhất lòng người là điều căn bản. Chúng tôi nghĩ hiện ta có điều kiện làm việc đó. Những người Phật tử hiện đại hóa, làm mới được đạo Phật thì đạo Phật đóng góp được rất nhiều trong sự nghiệp thống nhất lòng người.

    Bạn đọc Nguyễn Trọng Chuyên: Thiền sư đã làm gì để gắn kết khối đại đoàn kết dân tộc giữa người Việt với người Việt, giữa người Việt với cộng đồng thế giới?

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Chúng tôi đã giúp được rất nhiều người Việt ở Hoa Kỳ thoát khỏi ngục tù của quá khứ. Nhưng cũng nhiều người rất khó vượt qua vì trong quá khứ họ có những chức vị, quyền lợi và họ không thể chấp nhận được việc họ bị mất đi những chức vị, quyền lợi ấy. Họ trở nên hận thù. Cả những Phật tử cũng trở thành đối tượng hận thù của họ. Họ có thể chửi mắng, bôi nhọ… Riêng về phần chúng tôi, chúng tôi không đau khổ gì hết mà chỉ tội nghiệp cho họ. Vì bản thân họ bị quá khứ giam hãm nên họ không biết sống hạnh phúc trong hiện tại, do đó họ không có tương lai. Nếu họ cứ ôm khư khư cái hận thù thì họ rất đáng tội nghiệp.

    Chúng tôi chỉ làm tối đa những gì có thể làm được, còn có lẽ phải nhờ một sự kì diệu nào đó, một ngày họ sẽ nhận ra thì đó là hạnh phúc của họ, và đó chính là sự giác ngộ.
     

    "Thực tập để sống sâu sắc giây phút hiện tại" – cách để hoàn thiện nhân cách!

    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Nhưng thực tế không chỉ chuyện thống nhất lòng người, mà trong ứng xử hàng ngày hiện nay thì kể cả với những người theo đạo Phật, các bạn trẻ cũng như người lớn tuổi, tính ăn gian nói dối, chiếm dụng của công, đố kị tị hiềm, chụp giật "bốc ngắn cắn dài" không nghĩ đến ngày mai… vẫn rất phổ biến trong xã hội? Như vấn nạn giao thông, còn nhiều người đi đường lạng lách, không lo lắng an toàn cho người khác. Phải chăng đạo Phật bất lực trong việc này?
     

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Những người ngoại quốc tới VN nghĩ rằng lâu nay trong chiến tranh người VN không được sống, nên nay có hòa bình thì họ sống hối hả, lái xe như điên. Cái đó chỉ đúng một phần thôi. Tôi nghĩ cách sống này là do cách suy nghĩ, quan niệm của chúng ta. Tuệ giác của đạo Phật là mình có thể sống an lạc và hạnh phúc trong giây phút hiện tại (hiện pháp lạc trú: Living happily in the present moment). Đó là giáo lý căn bản của đạo Phật. Chẳng hạn, khi đi từ đây ra bãi đậu xe, mục đích là lấy xe để đi, nhưng không ai cấm mình đi từ đây ra bãi đậu xe bằng những bước chân thảnh thơi, an lạc hạnh phúc, chứ không phải chỉ khi lái xe mới an lạc hạnh phúc. Nếu đi từ đây ra xe mà không an lạc hạnh phúc thì nắm vô lăng cũng không thể an lạc hạnh phúc được. Vấn đề là phải thực tập.

    Làm thức ăn sáng cho gia đình thì trong khi đun nước, nướng bánh mỳ có thể vừa theo dõi hơi thở, mỉm cười, thực tập thư giãn. Ngồi xuống bàn thì dành môt phút nhìn nhau mỉm cười, để biết mình còn nhau, có ngay hạnh phúc trong giây phút hiện tại. Nếu ông cầm tờ Wall Street Journal để xem giá cổ phiếu lên hay xuống thì thay vì nhìn thấy vợ con, ông lại phóng tâm vào tương lai.

    Nếu các thầy và sư cô đem ra giảng dạy, luyện tập cho người ta sống trong giây phút hiện tại, thì sự hối hả, đi tìm hạnh phúc trong tương lai kia sẽ giảm bớt. Vì biết tìm hạnh phúc trong hiện tại thì không cần bươn chải để đến tương lai. Hiện tại rất đẹp, quá khứ đã đi qua, tương lai thì chưa tới. Mình chỉ có giây phút thực sự sống là hiện tại, nếu sống sâu sắc mình có thể tiếp nhận trời xanh, mây trắng, chim hót, thông reo, hoa nở… những nhiệm màu của sự sống. Ly nước trong là nhiệm màu, mình có thể an trú trong hiện tại để tiếp xúc với ly nước không? Hay khi uống ly nước mà nghĩ tới dự án tương lai. Hiện pháp lạc trú là một nghệ thuật sống có hạnh phúc. Nếu hạnh phúc trong hiện tại thì chắc chắn tương lai sẽ hạnh phúc, còn nếu không có hạnh phúc trong hiện tại thì tương lai cũng không thể có hạnh phúc. Nếu lo rửa bát cho mau để cầm ly trà cho hạnh phúc, thì khi cầm ly trà cũng lại hối hả đến tương lai mà bỏ quên mất ly trà. Vấn đề là thực tập để sống sâu sắc giây phút hiện tại. Ta có đạo Phật mà không dùng đuợc tuệ giác của đạo Phật, nghĩa là đạo Phật của ta chưa thành công.

    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Mọi người vẫn đang thắc mắc, làm sao từ những khát vọng, lý tưởng của đạo Phật trở thành máu thịt, thành cuộc sống hiện tại của từng con người. Nếu trong 85 triệu dân Việt Nam mà có 80%, tức là hơn sáu mươi triệu dân làm được thì đất nước cũng hạnh phúc lắm rồi. Thiền sư có biện pháp cụ thể để điều đó thành hiện thực không?

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Trong 30 năm, chúng tôi đã giúp cho vô số người Tây phương nắm được phương pháp thực tập để sống an lạc, hạnh phúc, hòa giải với nhau. Nếu phương pháp này đã thành công trong giới trẻ và giới trí thức ở Tây phương thì cũng sẽ thành công ở đây, trong giới trẻ và giới trí thức Việt Nam. Trong những lần về vừa qua, chúng tôi đã mở những khóa tu cho giới trẻ và giới trí thức, và thấy sự tiếp thu đạo Phật rất nồng nhiệt. Trước khi đi Hà Nội chúng tôi có khóa tu cho 4000 người trẻ tại tu viện Bát Nhã – Lâm Đồng. Chúng tôi cũng vừa kết thúc một khóa tu cho người trẻ Hà Nội tại chùa Bằng A. Người trẻ tuổi và trí thức tới rất đông, nét mặt rất rạng rỡ, rất hạnh phúc, bởi học được phương pháp buông thư, ái ngữ lắng nghe để tháo gỡ những khó khăn với người thân. Nghĩa là chúng tôi cũng đã thí nghiệm thành công trong đất nước. Nếu ở Việt Nam, giới xuất gia và giới tại gia biết lợi dụng phương pháp này thì vài ba năm đã có sự thay đổi lớn trong cách sống rồi.

    Bạn đọc Tuấn Anh (TP.HCM): Xin thầy cho con hỏi phương pháp hiện tại lạc trú có phải là không nghĩ về quá khứ, cũng như không nghĩ tới tương lai? Nếu vậy thì làm thế nào để rút ra những bài học kinh nghiệm từ quá khứ, hay hoạch định kế hoạch cho tương lai? Còn nếu nghĩ về quá khứ hay tương lai thì có thể nào lạc trú trong hiện tại được không?

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Hiện pháp Lạc trú tức là sống sâu sắc đời sống của mình trong mỗi phút giây. Nguyên tắc là đừng đánh mất mình trong sự tiếc thương hay hối hận về quá khứ, chứ không phải là không được học hỏi từ quá khứ. Mình có thể an trú trong hiện tại và coi quá khứ là đối tượng của sự nghiên cứu của mình. Trong khi mình thiết lập thân tâm trong hiện tại, mình đem quá khứ về hiện tại để học tập thì mình sẽ học hỏi được nhiều từ quá khứ.

    Đối với tương lai cũng vậy, đừng đánh mất mình trong sự lo lắng và sợ hãi về tương lai. Còn mình có quyền thiết kế tương lai của mình chứ. Mình an trú trong hiện tại và mình đem tương lai về hiện tại để nghiên cứu và hoạch định.

    Nói cách khác, sống sâu sắc trong hiện tại thì đồng thời mình cũng tiếp xúc được quá khứ, còn tương lai cũng nằm trong hiện tại. Mình cần biết xử lý hiện tại với tất cả khả năng của mình, thì có nghĩa là mình đang làm tất cả những gì mình có thể làm cho tương lai rồi.

    Lo lắng và sợ hãi tương lai chỉ làm hư tương lai của mình, còn tiếc nuối và mặc cảm về quá khứ sẽ biến quá khứ thành nhà tù và mình không có khả năng sống trong hiện tại nữa. Đó là sự đáng tiếc!

     

    Không phải ai đi tu cũng thành công

    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Nhiều người trẻ cũng như trí thức suy ngẫm, tự tâm niệm, cảm nhận đạo Phật và hướng theo với sự tự giác, sâu sắc. Nhưng có người nhìn vào đội ngũ tu hành và thấy những người tu theo giáo lý Phật giáo mà không hành động, sống được như vậy, nên họ thất vọng và không tin. Phải làm thế nào để giải quyết được chuyện đó. Chẳng hạn có nhiều tình trạng giữa các nhà sư đố kỵ hiềm tị lẫn nhau, thượng tọa này nói xấu hòa thượng kia. Rồi chuyện phân bổ về chùa nọ chùa kia, ở bên ngoài có chạy chức chạy quyền thì trong những người tu hành lại có chạy chùa. Làm sao phải để người dân cảm nhận sự mực thước, trong sáng trong đạo Phật?

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Đi tu cũng có thể thành công hay thất bại. Nếu gặp thầy giỏi, đoàn thể tu tập giỏi thì có cơ hội thành công dễ dàng hơn. Nếu không gặp được minh sư thì thất bại như một người tu. Khi mình xuất gia, mình không sống đúng theo luật nghi thì cũng thất bại. Ở đạo tràng Mai thôn có tới 3, 400 người, nhưng chúng tôi thực tập không ai có xe hơi riêng, điện thoại riêng, không có chương mục ngân hàng riêng, bởi đi tu là không có của riêng nữa. Một người ra đường, dù đi dạy hay đi tổ chức khóa tu, kể cả khi lên mạng thì có người khác đi theo. Chúng tôi thực tập như vậy nên được an ninh rất nhiều.

    Những người Phật tử thấy một thầy ra thuê nhà ở riêng thì phải biết rằng họ làm sai với giới luật của đạo Phật. Nếu mình để họ như vậy và yểm trợ, rồi tìm tới với họ không phải để học hỏi giáo lý, để tu tập mà để có một sự thỏa mãn về tình cảm là hại cho người xuất gia đó. Bên phía xuất gia thất bại vì không hướng dẫn được cho cá nhân người tu sĩ đó. Bên cư sĩ lại không biết nên đã yểm trợ và dung túng cho hành vi không đúng của người tu sĩ, khiến họ có thể có lỗi lầm, có thể lạm dụng tình dục một người cư sĩ. Người tu sĩ trở thành nạn nhân của sự không thực tập, lỗi một phần ở tăng đoàn, một phần ở người cư sĩ không biết để giúp ngăn ngừa. Đạo Phật là đạo thực tập vô ngã, không có cái ta riêng biệt, người kia cũng là mình. Như bàn tay trái bàn tay phải có tinh thần vô ngã, bàn tay phải không bao giờ nói bàn tay trái vô tích sự không làm được gì hết. Mỗi khi bàn tay trái bị thương thì bàn tay phải chăm sóc như chăm sóc chính bản thân mình. Hai bàn tay có tuệ giác vô ngã, tuy hai mà một, không có kỳ thị.

    Người Phật tử mà nắm được tuệ giác vô ngã thì không thấy cha với con là hai người riêng biệt, mà hiểu trong cha có con, trong con có cha, con là sự tiếp nối của cha. Nếu cha đau khổ thì con đau khổ, con hạnh phúc thì cha hạnh phúc, thấy được đau khổ của cha là đau khổ của chính mình, hạnh phúc của con là hạnh phúc của chính mình. Người tu chứng thực được vô ngã thì sẽ không nói xấu những người khác, không cho mình là nhất. Thấy một vị xuất gia, thượng tọa, hòa thượng mà dương dương tự đắc thì thấy tội nghiệp cho họ vì đã tu bao nhiêu năm mà chưa chứng được tuệ giác vô ngã. Điều này áp dụng cho giới xuất gia cũng như tại gia. Vấn đề là làm thế nào để có được minh sư, mở được những môi trường để người tu tập có thể thành công. Vì ý chí muốn tu học là chuyện khác, thành công là chuyện khác. Ý chí không thì không đủ.
     

    Thực tập yêu thương, hạnh phúc, an lạc để thành chân tăng

    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Từ ý chí đến kết quả còn khoảng cách. Làm sao để những điều hay và giá trị tinh thần cao quý đó phải được lan tỏa vào mỗi con người, chứ hiện nay tỉ lệ thành công chưa cao? Nhiều người đến chùa không phải vì nhu cầu tâm linh thiêng liêng mà chủ yếu vì… mê tín. Họ cầu may để xin thành công trong làm ăn, đôi khi cả làm ăn bất chính.

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Nhiều người nghĩ Phật và các vị Bồ Tát là thần linh, nếu mình đến cầu nguyện và "đút lót", cúng cho vị Bồ Tát này mấy chục ngàn đồng, cúng cho vị Bồ Tát kia mấy chục ngàn đồng là mình về sẽ không bị tai nạn hay gặp tai hoạ nào trong cuộc sống nữa. Hiểu như vậy là hiểu lầm về đạo Phật. Nhưng sở dĩ họ hiểu lầm như vậy, một phần cũng là do các thầy, các sư cô và các vị cư sĩ đứng ở cương vị lãnh đạo, nên mình cũng không thể trách cứ những người dân thường được.

    Nhiều người lại nghĩ nhầm rằng khi gặp thất bại trong cuộc đời rồi thì mới xuất gia. Ngày xưa, đức SIDDHARTHA xuất gia là bởi muốn tìm tình yêu thương lớn dành cho muôn người, muôn loài. Hay vua Trần Nhân Tông, một vị vua rất yêu nước yêu dân cũng xuất gia, và khi xuất gia rồi vẫn phục vụ cho nước cho dân. Vậy mà có những gia đình thấy con xin đi xuất gia thì cảm giác như đó là một nỗi nhục nhã. Quan niệm thất bại rồi mới đi xuất gia là một quan niệm rất sai lầm.

    Quan niệm đó từ đâu tới? Đó là bởi đã có những thời điểm trong lịch sử mình cho chuyện đi tu là duy tâm, mê tín, tư duy không lành mạnh. Chúng ta cũng có một phần trách nhiệm trong sự tư duy như vậy. Tôi nghĩ rằng muốn thay đổi suy nghĩ này thì phải thiết lập những tăng thân – những đoàn thể tu học đúng mức mà trong đó, đạo Phật được thực tập như một nghệ thuật sống, mỗi người thực tập trong tăng thân đều được an lạc, hạnh phúc, được thương yêu. Khi có được những tăng thân như thế ở cả 3 miền để những người quan tâm có thể tới tiếp cận để trực tiếp tiếp xúc và thấy được đạo Phật thật sự mà họ cần phải hướng tới là đạo Phật hiện đại, phù hợp với tuổi trẻ và đời sống mới. Trong đạo Phật, sau khi qui y Phật, qui y Pháp thì còn cần qui y Tăng nữa. Tăng ở đây có nghĩa là "community" – là đoàn thể trong đó có người xuất gia – xuất gia tăng, có người tại gia – tại gia tăng. Khi mình tới với nhau để tu học mà thành công được thì hạnh phúc đạt được rất lớn, Tăng trở thành chỗ nương tựa cho nhiều người.

    Quy y Tăng không phải là đặt niềm tin vào một cái gì đó mơ hồ mà Tăng là đoàn thể đang thực tập hạnh phúc, có tha thứ, có vô ngã, có vô thường. Trong Tăng có Phật và có Pháp. Còn Tăng mà có sự ganh tỵ, chỉ có hình thức bên ngoài như cúng lạy thôi mà không có hạnh phúc, không có tha thứ, không có sự tươi mát của tâm hồn và lắng nghe nhau thì đó không phải "chân Tăng", do đó không có Phật và không có Pháp ở đó.

    Việc làm của chúng tôi bây giờ là thiết lập những tăng thân ở khắp nơi trên thế giới. Ở Tây phương, chúng tôi đã xây dựng được trên 1000 tăng thân, là nơi nương tựa của không biết bao nhiêu người. Ở mỗi thành phố lớn như London, New York, Los Angeles chúng tôi có trên 10 tăng thân như vậy. Tôi nghĩ, ở Hà Nội cũng nên có ít nhất 10 tăng thân, và mỗi tăng thân phải chứa đựng trong mình Phật-Pháp mang tính đời sống cụ thể hàng ngày. Xây dựng những tăng thân như vậy là công việc cao quí nhất của người Phật tử, tại vì đó là chỗ để con người tới để nương tựa, được che chở và bảo vệ.

     

    "Doanh nghiệp Tăng, gia đình Tăng và… Quốc hội Tăng"?

    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Nói như vậy thì một tổ chức, một công ty có thể trở thành một tăng, một cộng đồng?

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Doanh nghiệp mà thực tập theo Phật -Pháp thì thành doanh nghiệp Tăng. Một gia đình thực tập theo kiểu đó là gia đình Tăng. Khi tôi gặp ngài Chủ tịch Quốc hội Ấn Độ, chúng tôi có bàn luận làm sao để xây dựng quốc hội thành một đoàn thể mà ở đó mọi người lắng nghe nhau, vì trước đó tôi nghe có những buổi đàm luận rất bạo động, có khi một dân biểu nổi cáu đến mức cầm ghế phang một dân biểu khác.

    Ở nước ngoài, một dân biểu thường thuộc một đảng và phải nói theo đường lối của đảng mình, nên mình không được hoàn toàn tự do nói kinh nghiệm sâu sắc của mình khi nói, nếu mình lại dùng ngôn từ nặng nề thì sẽ làm phía bên kia nổi giận lên, rồi chửi mắng lại. Như vậy thành ra không có ái ngữ, không có lắng nghe. Trong khi đó, dân biểu phải hiểu rằng dân chúng bầu mình lên là để lắng nghe và để chia sẻ kinh nghiệm, tuệ giác của mình, để làm ra những đạo luật cho tất cả mọi người được thừa hưởng.

    Tôi đề nghị với ông Chủ tịch Quốc hội Ấn Độ rằng trước mỗi buổi họp Quốc hội thì nên đọc một bài quán niệm, nên thực hành một bài thiền, đọc một đoạn văn về bổn phận của người dân biểu là những người được dân chúng bầu lên, chúng ta có bổn phận phải lắng nghe nhau, học hỏi từ nhau để có thể đi tới những quyết định đúng đắn nhất, mang lại hạnh phúc cho nhân dân và đất nước. Do đó, trong phiên họp này, mọi người phải lắng nghe nhau, sử dụng ngôn từ hòa ái, đừng tức giận, đừng buộc tội, đừng chua chát, đừng lên án nhau. Ông Chủ tịch của buổi họp có một cái chuông, để khi thấy không khí của buổi họp căng thẳng, nóng bỏng, tranh chấp thì ông có thể thỉnh một tiếng chuông cho mọi người thở vào thở ra, khi nào lắng xuống thì mới tiếp tục phát biểu.

    Chủ tịch Quốc hội Ấn Độ rất thích thú với đề nghị này, và 10 ngày sau đã cho xây dựng "Ủy ban Đạo đức" để lo lắng cho Quốc hội. Ngài có mời tôi trở về để nói chuyện với toàn Quốc hội về ái ngữ và lắng nghe, nhưng tôi đã không có cơ hội trở lại. Sau này, ngài Chủ tịch Quốc hội đã trở thành Tổng thống của Ấn Độ.

    Một quốc hội cũng có thể trở thành một quốc hội tăng, trong đó mọi người lắng nghe nhau, hiểu nhau và như vậy có lợi cho đất nước.
     

    Súng bom không bao giờ lấy đi được những tri giác sai lầm

    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Thế quốc hội Mỹ đã trở thành một quốc hội tăng chưa, thưa thiền sư?

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Chưa, và còn lâu lắm. Chúng tôi cũng mong muốn Liên hợp quốc sẽ trở thành Liên hợp quốc tăng vì khi đó mọi lời nói, việc làm sẽ vì lợi ích chung của toàn thế giới. Tôi nghĩ Liên minh châu Âu là một sự thành công lớn vì nước nào cũng hy sinh bớt quyền lợi quốc gia để cho một Âu châu chung. Nghĩa là, họ đã thực tập đạo Phật mà họ không biết.

    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Nhưng phải chăng vì sự hy sinh quyền lợi quốc gia như vậy, mà ngày nay vị thế của Liên minh Châu Âu trên thế giới bị kém đi, mỗi nước châu Âu sẽ vì thế mà bị thiệt hại hơn. Thiền sư nghĩ sao về điều này?

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Tôi không nghĩ như vậy. Bởi nếu từng quốc gia châu Âu riêng lẻ sẽ không đủ mạnh để là đối trọng với Hoa Kỳ.

    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Thưa thiền sư, Phật-Pháp dạy rằng các đệ tử của nhà Phật thì phải yêu thương lẫn nhau. Vậy mà vẫn có những đất nước, dân tộc cùng theo đạo Phật nhưng vì lợi ích dân tộc, lợi ích quốc gia xung đột, nên vẫn tồn tại tình trạng nước này ăn hiếp nước khác. Việt Nam ta cũng là một đất nước đi theo đạo Phật mà có khi vẫn bị ăn hiếp bởi một nước khác cũng theo đạo Phật, và họ vẫn chưa thực sự yêu thương, trải lòng với ta? Có cách nào để Phật-Pháp đi vào lòng mỗi người, mỗi dân tộc để mỗi quốc gia sẽ yêu thương, trân trọng và đối xử hữu nghị với các quốc gia khác, để thế giới này không còn cảnh hận thù, chiến tranh?

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Nếu họ nói họ theo đạo Phật mà họ lại biến mình thành thế lực xâm lăng, có chủ trương xâm chiếm đất đai của người khác thì họ chỉ có đạo Phật trong danh từ, trong hình thức thôi. Do vậy, mình có thể nói thẳng với họ điều này, và hỏi thẳng họ rằng: "Từ bi của ông ở đâu? Tình huynh đệ của ông ở đâu? Tại sao ông lại đi xâm chiếm một nước khác? Đó có phải là chủ trương hoà bình của đức Thế Tôn hay không?"

    Các Phật tử trên thế giới đã cố gắng lập ra "World Fellowship of Buddhiste" – Liên minh Phật tử thế giới để điều hợp các hành động tu tập trên thế giới này. Tôi thấy rõ rằng đạo Phật có nhiều cách để đi vào mọi lĩnh vực của sự sống, rằng sự thực tập lắng nghe và ái ngữ có thể áp dụng trong bất cứ trường hợp nào để tạo ra sự hòa giải.

    Như cuộc chiến tranh Iraq chẳng hạn. Nguyên nhân căn bản của nó là sự hiểu lầm và những tri giác sai lầm, dẫn đến sự sợ hãi và oán thù, vì thế mà phải loại trừ nhau, để đạt được an ninh. Nếu mình nghĩ rằng người kia đang muốn giết mình, thì mình sợ, mà bản thân mình không muốn bị giết, do đó mình phải giết người ta trước khi người đó giết mình. Cái đó là tình trạng hiện nay ở Iraq.

    Cái sợ hãi do tri giác sai lầm mà ra. Hoa Kỳ có những tri giác sai lầm về mình và người Ả rập. Người Ả Rập cũng có những tri giác sai lầm về mình và về Hoa Kỳ. Do đó chiến tranh xảy ra dựa trên những tri giác sai lầm của cả hai phía. Tri giác sai lầm luôn luôn mang đến nghi ngờ, sợ hãi và bạo động. Ta biết rất rõ trong ánh sáng của đạo Phật, muốn cho đừng có những nghi ngờ, bạo động, sợ hãi đó thì phải lấy những tri giác sai lầm ra, bằng cách đối thoại và lắng nghe nhau, phải nói với nhau những lời mà người kia có thể hiểu được. Còn súng, bom… không bao giờ lấy đi được những tri giác sai lầm cả.

    Thành ra, càng đánh dẹp khủng bố bao nhiêu thì càng tạo nên những người khủng bố bấy nhiêu. Thực tế đã cho thấy, bao nhiêu năm tiêu diệt khủng bố mà có bớt người khủng bố đi đâu? Tại vì, họ không hiểu rằng phương pháp để tiêu diệt khủng bố chính là lấy ra những sợ hãi, căm thù, bạo lực, bằng tình người và bằng sự lắng nghe nhau. Phải có những buổi gặp gỡ, để lắng nghe những sợ hãi, khổ đau của nhau. Rồi từ đó, có cơ hội nói cho bên kia hiểu chúng tôi không có chủ đích muốn tiêu diệt các vị như một tôn giáo, một nền văn minh, một lối sống. Quý vị đã hiểu lầm. Chúng tôi đã nói, đã làm gì gây ra cho quí vị cảm tưởng đó thì chúng tôi xin lỗi. Chúng tôi sẽ không nói, không làm như vậy nữa. Đó là phương pháp duy nhất để mang lại hòa bình và là phương pháp thuần tuý từ đạo Phật mà đi ra.

    Khi nói chuyện với những doanh nhân, nhà chính trị,… ở Hoa Kỳ, chúng tôi cũng chỉ nói như vậy thôi. Chúng tôi đã từng bảo trợ cho những gia đình người Palestine, Do Thái tới Làng Mai để tu học. Ban đầu, họ nhìn nhau không được vì rất nghi kị và sợ hãi nhau. Nhưng sau những tuần lễ thực tập để buông thư, ôm ấp, nhận diện những sợ hãi đó và mọi người thực tập lắng nghe, mục đích là để hai bên nói được hết những khổ đau, sợ hãi, lo lắng của họ mà không bị cắt lời. Sau vài 3 buổi thì hai bên sẽ hiểu rằng: "À, hoá ra bên kia cũng giống hệt bên mình, cũng có những sợ hãi, khổ đau, lo lắng như vậy…", và họ có thể bắt đầu nhìn bên kia bằng con mắt cảm thông, nhận ra những tri giác sai lầm tồn tại, để từ từ gửi những thông tin để giúp cho bên kia tháo gỡ, điều chỉnh lại những tri giác sai lầm. Và họ ngồi ăn cơm, nắm tay nhau đi thực tập được.

    Khi trở về Trung Đông, họ đã thực tập, họ lập ra những tăng thân để cho những người khác tới cho bớt khổ. Chúng tôi đã làm được điều đó. Chứng tỏ rằng, mối quan hệ giữa 2 quốc gia Palestine và Israel cũng có thể cải thiện. Tương tự, mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Iraq cũng có thể thay đổi được nếu áp dụng phương pháp này của đạo Phật.
     

    "Tôi nghĩ, TT Bush là một trong những người đau khổ nhất trên thế giới"

    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Thiền sư nghĩ thế nào về trường hợp của tổng thống Bush ở Hoa Kỳ? Liệu ông Bush có thể thực tập theo phương pháp của nhà Phật thành công được không?

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Tôi nghĩ, Tổng thống Bush xuất thân từ bối cảnh tôn giáo bảo thủ, và lực lượng của TT Bush là một lực lượng bảo thủ. Những người bảo thủ đứng sau TT Bush, và những người cố vấn, cộng sự của TT Bush cũng đại diện cho quyền lợi của những người đó thành ra rất khó. Tôi đã từng viết thư cho TT Bush nhưng không lọt đến tay ông được. Tôi nghĩ, TT Bush là một trong những người đau khổ nhất trên thế giới. Ông ta không ngủ ngon được, sẽ bị trăn trở hàng đêm. Làm sao ngủ ngon được khi biết rằng con em của mình mỗi ngày đều bị chết ở Iraq. Những người Iraq và những người Mỹ chết mỗi ngày một nhiều, hận thù ngày một nhiều và ông ta sa lầy trong chiến tranh Iraq. Nuốt cũng không vào mà khạc ra cũng không được.

    Nhiều người nghĩ rằng ở cương vị của TT Hoa Kỳ, hẳn ông Bush sẽ có rất nhiều quyền lực. Nhưng tôi thấy TT Hoa Kỳ là một người rất bất lực, với quyền năng đó, quân đội đó, với nền kinh tế đó mà không thể làm được gì để giải quyết những vấn đề như vấn đề Iraq. Quyền năng trên thế gian không đủ đưa lại hạnh phúc. Phải có quyền năng tâm linh, nghĩa là khả năng hiểu và khả năng thương, mà những điều này thì TT Bush không có đủ.

    Tôi nghĩ, nếu ứng cử viên Obama mà lên được TT Mỹ thì khả năng không kỳ thị ở nước Mỹ là rất lớn. Nó chứng tỏ nước Mỹ không kỳ thị người da đen, không kỳ thị người trẻ. Do đó, nó thể hiện một hình ảnh mới của Hoa Kỳ.

    Với ông Obama, những người trí thức, những người tiến bộ có một cơ hội để có thể mong muốn lý tưởng công bằng xã hội, lý tưởng đổi mới, không kỳ thị được thực hiện trong xã hội Hoa Kỳ.

    Bạn đọc Phan Dũng (Hà Nội): Làm thế nào để tĩnh tâm, giữ bình yên thanh thản trong nền kinh tế hiện tại khi mà cái tham lam dục vọng của con người ngày càng nhiều? Trong cuộc sống hiện đại, nhiều khi con người muốn sống thiện cũng rất khó vì sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Vậy thiền sư hãy chỉ cho tôi cách nào để tránh những cái ác, cái tà tâm mà vẫn có thể phát triển bản thân và góp phần phát triển xã hội?"

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Tôi nghĩ rằng mình không cần đua đòi, đừng nghĩ phải có tiện nghi như mọi người khác trong xã hội thì mới có hạnh phúc. Chúng tôi là những người xuất gia, chúng tôi sống trong cộng đồng 300 – 400 người, sống rất đơn giản. Không ai có xe riêng, không ai có điện thoại riêng, không ai có tài khoản ngân hàng riêng, chúng tôi tiêu thụ rất ít nhưng hạnh phúc chúng tôi có rất lớn. Chúng tôi có rất nhiều tình huynh đệ và trong cuộc sống chúng tôi giúp được rất nhiều người.

    Điều đó chứng tỏ rằng không phải mình phải có rất nhiều tiền bạc, quyền hành, bằng cấp thì mới có hạnh phúc. Nếu mình thấy được con đường như vậy thì mình không sợ hãi nữa. Mình thấy rằng mình có khả năng sống đơn giản và hạnh phúc. Đó chính là con đường sống hạnh phúc của chúng ta, của không chỉ người Việt Nam mà còn của nhiều người trên thế giới.

    Ở tu viện Lộc Uyển, chúng tôi không dùng điện nữa. Trong một cộng đồng mấy trăm người, chúng tôi chỉ dùng năng lượng mặt trời thôi cũng đủ sống. Chúng tôi không dùng xăng, mà dùng dầu ăn người ta thải ra để chạy xe hơi của chúng tôi. Chúng tôi không ăn thịt, không ăn cá, không uống bia, không dùng các sản phẩm sữa, pho-mát, bơ… Vậy mà chúng tôi rất mạnh khoẻ. Chúng tôi rất hài lòng vì sống như thế là cách góp phần để trái đất có một tương lai.

     

    Đừng lo lắng thái quá về lạm phát

    Bạn đọc Lê Đình Thuận (Thanh Hoá): Về Việt Nam lần này, Thiền sư thấy đất nước có những sự thay đổi nào? Việt Nam đang phải đối mặt với những khó khăn như lạm phát, thiền sư có suy nghĩ về giải pháp nào không?

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Lần này, về Việt Nam, chúng tôi có tiếp xúc với rất nhiều bạn trẻ và các phật tử, thì tôi thấy có những đau khổ mới, bức xúc mới. Cùng với sự phát triển kinh tế thì các tệ nạn xã hội tăng thêm mà luật pháp không đủ để khống chế. Bên cạnh luật pháp, cần phải có đạo đức xã hội. Phải làm sao để đưa đạo đức vào từng gia đình, phải đưa sự thực tập vào từng gia đình để giảm thiểu những tệ nạn xã hội đó.

    Khi 400 người thanh niên, phật tử quì xuống để tiếp nhận 5 giới ở tu viện Bảo Lộc và 300 thanh niên quì xuống để tiếp nhận 5 giới ở tu viện Bằng A, chúng tôi biết rằng những người này có một con đường. Đó là con đường của yêu thương, của sự thực tập để bảo hộ mình và gia đình mình khỏi rơi vào những tệ nạn xã hội như ma tuý, cờ bạc, tà dâm…

    Về chuyện lạm phát, tôi có kiến giải thế này. Chúng ta phải đối diện với sự sợ hãi, lo lắng của chúng ta. Nếu chúng ta biết chấp nhận nhau, yêu thương nhau, lá lành đùm lá rách, đừng lợi dụng để làm giàu riêng, đừng đầu cơ thì chúng ta có đủ khả năng để đi qua được cuộc khủng hoảng kinh tế này.

    Do vậy, lạm phát nhiều hay ít, có đi qua được lạm phát hay không phụ thuộc rất nhiều vào cách suy nghĩ của chúng ta chứ không chỉ vào yếu tố kinh tế khách quan. Sự lên xuống của đồng đôla phụ thuộc phần nhiều vào sự lo lắng của chúng ta mà thôi. Thành thử ra, đừng lo lắng quá, đừng làm cho tình trạng nguy ngập thêm vì sự lo lắng sợ hãi của chính chúng ta. Đó chính là điều chúng tôi muốn nói.
     

    Mỗi người là một phần của sự nghiệp lớn của dân tộc

    Bạn Nguyễn Tuấn Anh: …Câu hỏi ở đây là ý chí của dân tộc, hồn thiêng của sông núi, vận mệnh của Tổ quốc, của dân tộc Việt Nam, theo Thiền sư có MỘT lần nữa sẽ lại tích tụ, lại sinh ra một cá nhân kiệt xuất, một người con dân đất Việt với TÂM HỒN TRONG SÁNG NHƯ PHA LÊ và có một TRÍ TUỆ PHI THƯỜNG, như một lãnh tụ tinh thần dẫn dắt dân tộc Việt Nam vươn lên một cách thần kỳ, ngoạn mục?

    Trong thâm tâm của mình, đã có lúc nào Thiền sư nghĩ đến điều kỳ diệu đó chưa? Tại Việt Nam đã có hay chưa NGƯỜI đó, trong dịp này Thiền sư có nghĩ rằng, có mong rằng mình có NHÂN DUYÊN gặp NGƯỜI đó không? Nếu gặp, Thiền sư sẽ đàm đạo với NGƯỜI đó về những vấn đề gì? Là một nhà tu hành, Thiền sư quan niệm như thế nào về sự kỳ diệu nói chung và sự kỳ diệu trong nền kinh tế tri thức, kỷ nguyên của Internet và Công nghệ thông tin nói riêng? Thành tâm cảm tạ thiền sư.

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Tôi có ý thức rằng dân số VN giờ này đông hơn dân số Pháp, và đều rất trẻ. Khi về VN, tiếp xúc với người trẻ nào tôi cũng nhìn bằng con mắt đặc biệt: "Người trẻ này có thể là người đặc biệt đó". Tuổi trẻ bây giờ rất thông minh, và bất cứ người trẻ nào cũng có thể trở thành một vĩ nhân được.

    Và tôi muốn trao truyền cho mỗi người trẻ toàn bộ những kinh nghiệm mà mình có, để họ trở thành tương lai của đất nước. Tôi rất lạc quan, vì gia tài tâm linh của mình rất lớn. Tôi không nghĩ nhiều đến chủ nghĩa anh hùng cá nhân. Chúng ta thành tựu được một sự nghiệp không phải do 1 người mà do nhiều người hợp sức. Một vị lãnh tụ không phải tự nhiên xuất hiện mà do khí thiêng của sông núi, do những người phụ tá hỗ trợ.

    Như lúc nãy tôi nói, ông Bush không phải chỉ là cá nhân ông ta, mà muốn hiểu ông ta thì phải hiểu hoàn cảnh của ông ấy, bạn bè, phụ tá của ông ấy.

    Ở Việt Nam cũng vậy, phải nhìn vào quá khứ dân tộc Việt Nam, nhìn vào những người cộng sự thì mới thấy được cụ Hồ. Thành ra tôi không để ý quá đến anh hùng cá nhân.

    Khoa học thần kinh não bộ đã khám phá ra rằng, không có tế bào nào là tế bào làm lãnh tụ hết. Tất cả các tế bào đều hoạt động trong một bản "đại hoà tấu" và không có nhạc trưởng. Khi tới với nhau thì tự nhiên có những cảm xúc, tư duy và vì vậy khoa học đã chứng tỏ được tuệ giác vô ngã trong đạo Phật.

    Đây là một cái nhìn của đạo Phật về đất nước. Mỗi người trong chúng ta đều có tài năng, phần đóng góp của mình. Và khi chúng ta tới với nhau được bằng tình huynh đệ, bằng tinh thần đồng bộ thì ta làm ra việc lớn thôi. Tôi không nghĩ đến cảnh một người hướng dẫn tất cả mọi người đi theo, mà mỗi người cũng là một phần của sự nghiệp lớn. Tôi nghĩ rằng tư duy này nó đúng với khoa học hơn, đúng với tinh thần Phật giáo hơn.

     

    "Nhà báo đang thực hành Phật-Pháp như một người chân tu"

    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Thiền sư có chia sẻ gì với những nhà báo về tinh thần Phật giáo?

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Chúng tôi tiếp xúc rất nhiều với các nhà báo, những người làm phim và làm phóng sự. Chúng tôi không muốn chỉ cung cấp thông tin cho họ, vì cung cấp thông tin không thì không đủ. Do đó chúng tôi cố gắng thiết lập mối liên hệ tình người với họ. Nếu các vị có khả năng lắng nghe, nhìn được bằng con mắt của từ bi, tha thứ, thương yêu thì quí vị có thể viết một bài phóng sự sâu sắc. Người đọc của quí vị cũng sẽ có cơ hội tưới tẩm hạt giống thương yêu, tha thứ, hiểu biết, chấp nhận. Còn nếu quí vị viết trên căn bản sợ hãi, hận thù thì bạn đọc cũng sẽ cảm nhận được điều đó.

    Do vậy, mỗi nhà báo đều có thể hành nghề ký giả như một vị Bồ Tát, mang yêu thương, hạnh phúc cho độc giả bằng cách tường thuật những gì đã nghe và đã thấy. Nhà báo cần phải được bình an trong trái tim, nhà báo phải có khả năng nhìn cho thật kỹ, lắng nghe cho thật rõ để hiểu nguồn cơn tại sao sự việc ấy lại xảy ra như thế này, hay như thế khác. Như vậy, nhà báo đang thực hành Phật-Pháp như một người chân tu.

    Trong con người chúng ta có một chiến sĩ, một nghệ sĩ và một tu sĩ. Và nếu chúng ta để cho cả 3 con người đó hoạt động cùng lúc với nhau thì chúng ta sẽ trở nên hạnh phúc. Nhà chiến sĩ muốn thành công, nhà nghệ sĩ phải làm thế nào cho đẹp và người tu sĩ phải tham dự vào đời sống để có khả năng tháo gỡ những đau khổ, khó khăn. Nhà báo sẽ thành công nếu để cho nhà chiến sĩ, nghệ sĩ, chân tu có cơ hội đóng góp vào sự nghiệp của mình.
     

    Những ai sẽ tiếp nối trọng trách của thiền sư Thích Nhất Hạnh?

    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Thiền sư là một người có uy tín, có ảnh hưởng ở trong nước và quốc tế, đã truyền bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới. Chúng tôi mong sẽ có những người tiếp nối trọng trách này của thiền sư. Vậy trong những hậu duệ thì thiền sư trông đợi vào những ai?

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Tôi may mắn có nhiều học trò xuất gia và tại gia mà tôi rất tin tưởng. Những năm gần đây thì học trò của tôi đã được gửi đi khắp nơi trên thế giới để tổ chức những khoá tu. Và họ đã chứng tỏ được họ có thể độ đời và giúp đời rất nhiều. Cho nên tôi rất an tâm. Nếu tối nay tôi phải thở hơi thở cuối cùng thì tôi cũng không tiếc nuối gì, bởi tôi nghĩ mình được tiếp nối xứng đáng. Tôi nghĩ rằng bố mẹ nào cũng có tâm trạng đó, thầy giáo, cô gíáo nào cũng có tâm trạng đó. Để tâm đến thế hệ tương lai, trao truyền cho thế hệ tương lai những gì quí nhất của mình là sứ mệnh rất quan trọng. Mai mốt, mình cũng phải từ giã cõi đời này thôi. Nên nếu mình bận rộn quá mà không trao truyền được cho con cháu mình và học trò, đệ tử của mình những gì quí giá thì tức là mình chưa làm tròn bổn phận của một người con, một công dân.

    Tôi xin khuyên các vị làm cha mẹ, làm thầy bớt bận rộn lại để có thì giờ ngồi với các con, cháu của mình, học trò của mình mà dùng ngôn từ thương yêu, ái ngữ, trao truyền tất cả những thương yêu, kinh nghiệm sống cho họ. Khi đó, mình có thể rời bỏ cuộc đời này không luyến tiếc.
     

    Tìm hạnh phúc cho dân, cho nước từ văn hoá tâm linh?

    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Thưa thiền sư, thiền sư có suy nghĩ gì về tương lai của đất nước Việt Nam ta, ít nhất là trong 10 năm tới?

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Tôi nghĩ, chúng ta phải tận dụng nền văn minh tinh thần của chúng ta mà đừng quá tin tưởng vào xã hội tiêu thụ Tây phương. Người Tây phương bây giờ khổ lắm, nhiều người tiền bạc rất nhiều, quyền lực rất lớn nhưng lại cực kỳ cô đơn, và phải tự tử. Chúng ta đừng theo dấu xe đổ của họ. Đừng tin rằng ta chỉ hạnh phúc nếu có tiền bạc, quyền lực…

    Chúng ta chỉ hạnh phúc khi có an trong lòng, có tình yêu và tình thương. Nếu chúng ta có thể an lạc trong từng giây phút của hiện tại thì chúng ta mới có thể có hạnh phúc. Vì vậy, chúng ta hãy trở lại kho tàng tuệ giác, văn minh của chúng ta đã có mà làm hạnh phúc cho dân, cho nước.

    Một điều rất rõ là trong 30, 40 năm vừa qua, chúng tôi đã sử dụng kho tàng tuệ giác đó của dân tộc Việt Nam để mang lại hạnh phúc cho biết bao người Tây phương. Tại sao họ có được hạnh phúc nhờ nó mà chúng ta thì không? Mình là chủ nhân của nền văn hoá tâm linh đó mà không khai thác được thì rất lãng phí. Chúng ta phải tu tập, học hỏi.

    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Giá trị tâm linh đó có phải là một trong những giá trị đặc sắc của Việt Nam đóng góp với kho tàng văn minh nhân loại không?

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Đúng như vậy. Chúng tôi đã truyền bá văn hoá đó, nếp sống, văn minh tinh thần đó trên thế giới. Mỗi khi người ta tu tập, nghe đến truyền thống đó, đọc sách đó thì ai cũng biết gốc của nó là từ Việt Nam.

    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Bạn đọc Phan Công Tuấn gửi đến VietNamNet kèm một đề xuất rất dài về vấn đề: Tệ nạn giao thông đang là một vấn đề lớn của người Việt Nam hiện nay. Đề nghị thiền sư tổ chức những khoá tu tập để giúp cho người Việt Nam có ý thức hơn trong việc tham gia giao thông, Trong 2 tháng ở VN, thiền sư có kế hoạch gì cho việc này không?

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Chúng tôi có thể đề nghị một vài ý tưởng cụ thể thế này: Người nào muốn có bằng lái thì phải qua một khoá tu 7 ngày, học về chánh niệm trong khi lái xe, học về phương pháp theo dõi hơi thở khi muốn lái xe hay muốn vượt một xe khác. Và cứ 6 tháng thì phải về tu tập 3 ngày trong một khoá tu như vậy để được nhắc nhở. Bộ Giao thông nên làm việc này, có những thầy, những sư cô sẽ tình nguyện giảng dạy không lấy tiền. Đó là một trong những điều chúng tôi có thể đề nghị được.

    Cố nhiên những người bị say không nên lái xe, do vậy thực tập 5 giới giúp mình trở thành người lái xe lý tưởng. Vấn đề là phải tổ chức sao để mọi người được nhắc nhở thường xuyên, và nếu không đi theo những lớp tu nghiệp như vậy thì không có quyền sử dụng bằng lái xe của mình mãi mãi. Xin bộ Giao thông lắng nghe!

    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Câu hỏi cuối cùng, thiền sư trông đợi gì ở đại lễ Phật đản Vesak tổ chức ở VN trong vài ngày tới?

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Tôi thấy đây là một vinh dự lớn. Phật tử bốn phương tới để tham dự sẽ thấy rằng Việt Nam đang trên con đường mở ra và đi lên. Chúng tôi trong dịp này đã cố gắng để đóng góp phần mình vào đại lễ. Chúng tôi đã đưa về chừng 500 thiền sinh ngoại quốc từ 40 quốc tịch. Trước khi vào tham dự đại lễ Phật đản, chúng tôi có một khóa tu "Đạo Phật đi vào cuộc đời" tu tập suốt 7 ngày, 7 đêm cho người nước ngoài. Rồi chúng tôi sẽ đem năng lượng đó, nội dung đó đi vào trong lễ Phật đản. Lễ Phật Đản này sẽ có nội dung rất sâu sắc chứ không phải chỉ có hình thức thông thường. Và trong lễ Phật Đản sẽ có những buổi hội đàm về những vấn đề nóng bỏng của thế giới như chiến tranh, hoà bình, năng lượng, môi trường, bạo động, căm thù… Các thiền sinh của chúng tôi đã được học hỏi nhiều năm sẽ tham dự vào các buổi tọa đàm như vậy. Tôi tin rằng đây là lần đầu tiên một lễ Phật Đản có nội dung rất là sâu sắc được tổ chức.

    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Cảm ơn thiền sư. Hy vọng những giá trị tinh thần cao quí của Phật giáo sẽ đi vào đời sống của dân tộc Việt Nam và lan tỏa trên thế giới, để dân tộc Việt Nam có nhân cách tốt, được bạn bè thế giới yêu mến, trân trọng. Xin cảm ơn Thiền sư đã tham dự bàn tròn với bạn đọc VietNamNet.

    http://www.tuanvietnam.net//vn/tructuyenvoitop/3665/index.aspx
    05-08-2008 12:23:14

     

     


     

     

    PHỎNG VẤN THIỀN SƯ NHẤT HẠNH
    Bùi Dũng

     

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã vận dụng giáo lý đạo Phật như thế nào để mong muốn hòa giải lòng người, thống nhất dân tộc? Và trong cuộc sống của chúng ta ngày nay, đạo Phật đóng vai trò như thế nào trong việc xây dựng nhân cách, lối sống và giữ gìn văn hóa dân tộc?

     

    “…Năm xưa khi đi ra ngoài để kêu gọi hòa bình, tôi có viết cuốn Hoa Sen Trong Biển Lửa (Lotus in sea of the fire) bằng tiếng Anh, được dịch ra nhiều thứ tiếng. Tôi nói rằng chiến tranh Việt Nam biến thành biển lửa nhưng mà có sức sống tâm linh trong đó, thành thử trong biển lửa nó có một sự kháng cự và có một đài hoa sen mọc lên mà không bị cháy trong lửa. Cái đó là đạo Phật của Việt Nam, cái đó là yếu tố làm cho mình không bị ngập tràn bởi bạo động, bởi căm thù, bởi chiến tranh…”

     

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh và TBT VietNamNet Nguyễn Anh Tuấn

     

    Đó là lời của thiền sư Thích Nhất Hạnh, người đứng đầu Thiền Phái Tiếp Hiện (còn gọi là “An trú trong hiện tại”) trong cuộc trò chuyện với Vietimes (chuyên trang của VietNamNet) tại thiền viện Bát Nhã – Lâm Đồng, năm ngoái.

    Trong những năm đất nước bị phân cắt, đặc biệt là giữa thập kỷ 60 của thế kỷ trước, Sư ông Thích Nhất Hạnh từng rất nổi tiếng vì những hành động phản chiến và tham gia lãnh đạo phong trào Phật giáo phản chiến.

    Năm 1966, dưới áp lực của chính quyền Việt Nam Cộng hòa, ông đã từng bị phải sống lưu vong. Từ đó đến giờ, đạo tràng Làng Mai tại Pháp và giáo phái Tiếp Hiện của thiền sư Thích Nhất Hạnh đã có sự lan tỏa mạnh mẽ ở phương Tây.

    Triết lý của Thiền sư Nhất Hạnh đã cho con người phương Tây nhận ra con đường giúp họ thoát khỏi bế tắc và sự u uẩn của đời sống tinh thần trong một xã hội hậu hiện đại. Và triết lý này cũng cần thiết với đời sống tinh thần của người Việt Nam nói chung, và giới chuyên gia, doanh gia nói riêng trước những đe doạ của một nhịp sống công nghiệp ngày một hối hả.

    Năm 2005, trong chuyến trở về Việt Nam đầu tiên kể từ khi đất nước thống nhất, thiền sư Thích Nhất Hạnh đã từng có rất nhiều nỗ lực “xóa khổ đau” của một dân tộc nhiều phân ly loạn lạc; xóa bỏ định kiến để con người gần nhau hơn bằng tình yêu thương và hiểu biết.

    Lần trở về thứ nhì năm ngoái, với “Đại trai đàn giải oan” được tổ chức ở cả ba miền Nam – Trung – Bắc, ông hoan hỉ nhận thấy: “Việt Nam ngày một cởi mở và tiến bộ hơn”. Mỗi  lần trở về và “ở lại” của ông trên đất Việt là mỗi lần cố gắng kéo người Việt gần nhau thêm để dân tộc thực sự hòa giải và thống nhất.

    Chúng tôi dùng hình thức lắng nghe và ái ngữ để dung hoà và kêu gọi hòa giải. Quan điểm của tôi là ôm lấy cả hai bên, không gây thù oán. Tình thương đích thực có chất liệu của sự kiên nhẫn và không có kỳ thị” (Người Viễn xứ – chuyên trang của VietNamNet).

    Dùng tình thương để xóa bỏ hận thù là tinh thần, là triết lý của Phật giáo. Nhập thế một cách hữu hiệu nhất của người hiểu Phật pháp là lan tỏa tinh thần tốt đẹp của đạo Phật để giúp con người làm được nhiều điều tốt, sống có ích hơn trên thế gian này.

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã vận dụng giáo lý đạo Phật như thế nào để mong muốn hòa giải lòng người, thống nhất dân tộc? Và trong cuộc sống của chúng ta ngày nay, đạo Phật đóng vai trò như thế nào trong việc xây dựng nhân cách, lối sống và giữ gìn văn hóa dân tộc?

    Đó là chủ đề của buổi trực tuyến giữa nhà báo Nguyễn Anh Tuấn (TBT Báo điện tử VietNamNet) và thiền sư Thích Nhất Hạnh vào lúc 15:00 – 04.05.2008 tại toà soạn báo VietNamNet nhân dịp thiền sư và tăng thân Làng Mai về Việt Nam tham dự Đại lễ Phật đản.

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh xuất hiện tại Tòa soạn với gương mặt và ánh mắt hiền từ. Đi cùng Thiền sư là 6 vị tăng, ni – những học trò của Thiền sư. Cuộc trò chuyện, đối thoại được bắt đầu với hai bức thư pháp được Thiền sư viết trên tấm toan trắng: "Từng bước nở hoa sen" và "Lắng nghe để hiểu, nhìn lại để thương".

     

    Nội dung đó, thật tình cờ, với diễn giải của Thiền sư, cũng là chủ đề chính của cuộc Bàn tròn: Để yêu thương hơn, hạnh phúc hơn và đi qua đau khổ.

    1. Chủ đề đầu tiên về tình hình đạo Phật trên thế giới. Theo Thiền sư Thích Nhất Hạnh, đạo Phật Tây phương đang phát triển mạnh, được giới trẻ, giới khoa học và nhiều tầng lớp dân chúng hâm mộ, yêu thích. Các khóa thực tập cho nhiều giới đã được mở ra thường xuyên (ở Mỹ có khóa cho các nghệ sĩ Hollywood, cho các vị dân biểu Hoa Kỳ…).

    "Đạo Phật đi vào cuộc đời. Nhờ vậy, mỗi có thể thừa hưởng kho tàng tuệ giác, được tháo gỡ những khó khăn, bế tắc gặp phải trong đời sống nội tâm", Thiền sư nói.

    Với ý hỏi về sự nảy mầm của đạo Phật ở những vùng đất mà các đạo giáo khác như Tin lành, Thiên Chúa đã ngự trị từ lâu; thiền sư Thích Nhất Hạnh nói tiếp: Đó là vì đạo Phật đã đưa ra được những phương pháp thực tập rất thực tế, đã hiện đại hóa. Chính trong đạo Phật, nhiều người đã tìm ra ý nghĩa của các đạo giáo khác, tìm thấy sự hòa hợp.

    2. Sự an lạc trong thân và trong tâm – đó một ý nghĩa to lớn mà đạo Phật đã đem đến mọi người. Sự an lạc đó càng có ý nghĩa hơn trong đời sống hiện đại hôm nay khi con người  đứng trước sự lựa chọn: sống ở hiện tại hay sống vì tương lai hoặc cho quá khứ.

    "Phật học ứng dụng không chỉ là Phật giáo tín ngưỡng. Người Tây phương theo Phật học ngày càng nhiều không phải được vì tín mộ mà là được thực tập. Những khoá tu thường có trên 1000 ngàn người, trong 6, 7 ngày. Khi đó, mỗi người lấy ra những căng thẳng trong tâm, nhận diện căng thẳng, sự sợ hãi… từ đó có sự lắng dịu trong thân và tâm… hiểu thấu được những khó khăn, bức xúc…".

    Thành công và hạnh phúc dưới góc nhìn Phật pháp của Thiền sư, đó là khi "có tình thương và sự hiểu biết". Khi có hiểu biết lớn, thương yêu lớn thì có hạnh phúc lớn. Hiểu sâu thì thương nhiều.

    "Có khả năng sống trong giây phút hiện tại thì đó là nghệ thuật sống. Biết sống an lạc trong hiện tại thì tự tại đi tới tương lai. Quá khứ đi qua, tương lai chưa tới. Giây phút hiện tại là thực sự sống. Do đó cần an trú trong giây phút hiện tại… Hiện tại không có hạnh phúc thì làm sao có hạnh phúc trong tương lai", Thiền sư nói.

    3. Theo Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Đạo phật có tiềm lực lớn. Giống như mỏ dầu hỏa, cần làm sao để khai thác, đem tới hạnh phúc cho dân.

    "Lắng nghe để hiểu, nhìn lại để thương".

     

    Ở phương Tây điều kiện để hiện đại hóa đạo Phật đã diễn ra nhanh chóng. Ở Việt Nam cũng đang có nhiều điều kiện để hiện đại hóa. Lúc này những người đến với đạo Phật cần được thực tập nhiều chứ không chỉ dừng lại ở sự tín mộ. Mỗi người chúng ta cần có chiều hướng tâm linh để tháo gỡ bức xúc trong đời sống hàng ngày..

    Thành công của đạo Phật là dám làm mới đạo Phật, đưa ra một đạo Phật thích hợp với tuổi trẻ, trí thức bây giờ. Kết quả là đạo Phật đi vào gia đình, học đường, xã hội và có những "tăng thân" (trong một thành phố, mỗi hội sở…) – đó là nơi có mọi người biết "lắng nghe để hiểu và nhìn lại để thương".

    4. Có thể áp dụng đạo Phật để buông bỏ tất cả hận thù trong quá khứ, thống nhất lòng người, ôm lấy nhau như đồng bào cả nước.

    Thiền sư đã đưa ra hai ví dụ về sự "thống nhất lòng người, hòa hợp dân tộc". Ở Ấn Độ, A Dục vương chọn cách thống nhất nhân tâm sau khi thống nhất lãnh thổ. Với Thiền sư, lần trở về trước (năm 2007), "chúng tôi làm lễ cầu siêu cho tất cả. Những người dân thuộc các giới khác nhau cùng cầu nguyện cho nhau, khóc thương cho những người đã chết, bông bỏ những hận thù khổ đau trong quá khứ, thống nhất lòng người".

    Như thế, hiện đại hoá đạo Phật thì đạo Phật sẽ đóng góp rất nhiều trong sự nghiệp hiện đại hoá dân tộc.

    5. "Trong đời sống, đạo Phật là thực tập để sống vô ngã. Người xuất gia nắm được tuệ giác vô ngã thì không thấy cha và con là hai người riêng biệt. Trong con có cha, cha là sự tiếp nối của cha. Vị sư tăng mà nắm được điều đó thì không cho mình là nhất, nếu không thì tội nghiệp cho họ. Ý chí muốn tu học là một chuyện, thành công là chuyện khác", Thiền sư lý giải.

    "Nhiều người nghĩ Phật là thần linh, cầu nguyện là đút lót. Đó là sự hiểu lầm đạo Phật rất nhiều. Có người nghĩ thất bại trong cuộc đời thì mới đi xuất gia. Có thời đại cho rằng theo tôn giáo là duy tâm, mê tín, không lành mạnh. Đó là sai lầm. Đạo phật thực tập như nghệ thuật sống".

    6. Trong thế giới và trong từng cộng đồng ngày nay, "tăng thân" rất quan trọng; vì quy pháp rồi phải quy tăng (tăng là đoàn thể – community, có người xuất gia, có người tại gia). Tăng trở thành chỗ nương tự cho nhiều người.

    "Một Quốc hội cũng có thể trở thành Quốc hội tăng, họ lắng nghe nhau, hiểu nhau, có lợi cho đất nước. Tôi mong Liên Hợp Quốc trở thành tăng thân. Khi đó không phải nói gì là vì quyền lợi quốc gia không thôi mà không phải vì quyền lợi trái đất", Thiền sư nói.

    "Cuộc chiến tranh Iraq căn bản là sự hiểu lẫm, oán thù. Sợ hãi nhau thì muốn loại trừ nhau để được an ninh. Nghĩ người kia giết mình thì sợ hãi, trước khi người khác giết mình thì mình phải giết họ.

    Sợ hãi do tri giác sai lầm mà ra. Hoa Kỳ có tri giác sai lầm về Iraq và ngược lại. Tri giác sai lầm đem tới sợ hãi, nghi ngờ, bạo động. Thế nên cần lấy tri giác sai lầm ra, ngồi lại lắng nghe để hiểu nhau. Tri giác sai lầm sao có thể lấy đi bằng bạo lực!

    Tổng thống Bush là một trong những người đau khổ nhất của thế giới. Làm sao ngủ ngon khi biết con em mình mỗi ngày chết ở Iraq. Sa lầy trong chiến tranh Iraq mà nuốt không vào, khạc ra cũng không được… Quyền năng thế gian không đủ đưa lại hạnh phúc, quyền năng tâm linh thì mới có đủ".

     

    7. Với những vấn đề thiết thực của Việt Nam, ví dụ lạm phát đang diễn ra hay cách nào để tĩnh tâm trước những tham lam, dục vọng…, Thiền sư có những dẫn giải riêng với những câu hỏi mà bạn đọc gửi đến.

    "Không phải có nhiều tiền bạc, quyền hành mới hạnh phúc. Có khả năng sống đơn giản, hạnh phúc, thương yêu nhau, đó là con đường không chỉ của VN mà còn trên thế giới",  Thiền sư nói.

    Thiền sư làm gì cho cộng đồng người Việt ở Hoa Kỳ quên đi quá khứ? – một bạn đọc hỏi. Thiền sự Thích Nhất Hạnh: "Có những người rất khó để quên đi quá khứ. Họ không bao giờ tha thứ cho những người đã khiến họ mất đi những địa vị đã có. Không có hiện tại thế nên họ không có tương lai. Nếu cứ ôm khư khư hận thù, giam hãm quá khứ thì rất tội nghiệp. Một ngày tỉnh thức nào họ thấy được điều đó thì họ được giác ngộ".

    Và Thiền sư Thích Nhất Hạnh còn trả lời nhiều câu hỏi lý thú, đầy ý nghĩa khác, ví dụ câu hỏi của một bạn đọc: "Ý chí, hồn thiêng dân tộc ngày hôm nay có thể một lần nữa tích tụ và sinh ra cá nhân kiệt xuất? Thiền sư sẽ đàm luận gì khi đối diện với con người kiệt xuất đó?…".

    "Dân tộc, cộng đồng, khi đồng bộ sẽ tạo ra được sự nghiệp lớn. Mỗi người là một phần của sự nghiệp lớn...", Thiền sư gợi mở. Và mỗi con người như Thiền sư nói, cần mang ba phẩm chất: Chiến sĩ, nghệ sĩ và tu sĩ.

    Những tâm sự và kiến giải đầy lý thú của Thiền sư Thích Nhất Hạnh sẽ sớm được chuyển tài đầy đủ đến quý độc giả.

     

    Bùi Dũng
    (tuanvietnam.net)
    05-04-2008 05:25:12

    Tăng thân yêu quý

    Giấc mơ của Mục sư Martin Luther King Jr. và chuyến trở về miền Nam nước Mỹ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh

    (BBT chuyển ngữ từ bài viết “Beloved Community: Influenced by King’s teachings, Buddhist leader returns to Mid-South” của tác giả David Waters, đăng trên tờ Commercial Appeal – một tờ báo lớn của thành phố Memphis, ngày 28/9/2013)

     

    Giây phút hạnh phúc

    Cách đây mười một năm, vào năm 2002, có một cậu bé mười tuổi được nắm tay một vị thầy đi thiền hành trong yên lặng cùng với hàng trăm người khác nữa. Họ đi ngang qua công viên Overton với những bước chân bình an và chậm rãi – một hành động tưởng nhớ đến nhà lãnh đạo phong trào bất bạo động Martin Luther King Jr.

    Họ cùng nhau thiền hành qua những hàng cây tỏa bóng mát, nhẹ nhàng như làn gió trong nắng sớm. Nơi đó cách chỗ Mục sư Martin Luther King Jr. bị ám sát khoảng 8 km, cách nhà cậu bé ở Bắc Mississippi khoảng 97 km và cách Việt Nam – quê hương của vị thầy hơn 14000 km. Khi đó, cả cậu bé và vị thầy đều không thể nào tưởng tượng được khung cảnh mà họ sẽ gặp lại nhau hơn một thập kỷ sau.

    Vị thầy đó là thiền sư Thích Nhất Hạnh, năm nay đã 87 tuổi, một trong những vị thầy tâm linh được thế giới kính ngưỡng nhất. Thầy cũng là người chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi cuộc đời của Mục sư Martin Luther King Jr. và cả sự ra đi của ông. Thầy Nhất Hạnh hiện đang hướng dẫn khóa tu chánh niệm cho một ngàn người tại tu viện Mộc Lan – một tu viện Phật giáo của người Việt tại phía Bắc tiểu bang Mississippi.

    Cậu bé ngày xưa tên là Alan Hồ, nay đã trở thành thầy Pháp Triển, 21 tuổi, một vị xuất sĩ trong tăng thân Làng Mai. Cậu cũng đang tham gia hướng dẫn khóa tu tại Mộc Lan, trung tâm tu học mà ông Bình – cha của cậu, một người Việt nhập cư – là một trong những người đồng sáng lập. Cách đây 11 năm, chính ông Bình đã dẫn cậu con trai của mình tham gia cuộc đi bộ vì hòa bình tại công viên Overton và từ đó ông mong ước đem những lời dạy của Thầy Nhất Hạnh đến cho mọi người ở vùng châu thổ sông Mississippi (Mississippi Delta) ở miền Nam nước Mỹ – nơi gia đình ông đang sinh sống.

    “Chúng tôi coi việc xây dựng tu viện Mộc Lan là hành động đem Tăng thân yêu quý (Beloved Community) mà mục sư Martin Luther King Jr. hằng mơ ước về với quê hương của nó” – thầy Pháp Triển chia sẻ khi đang ngồi cùng với một người bạn trong khuôn viên của tu viện Mộc Lan, tọa lạc gần thành phố Batesville thuộc tiểu bang Mississippi. Từ năm 2010 đến nay, tu viện Mộc Lan đã trở thành nơi thường trú của hơn 32 thầy và sư cô đến từ nhiều trung tâm tu học của Làng Mai.

     

    Thầy dạy cho các cháu cách bắt ấn

    Trong một tuần qua, có hơn 100 vị xuất sĩ và 900 cư sĩ trên khắp nước Mỹ đã về tu viện Mộc Lan để được học hỏi và thực tập nghệ thuật sống chánh niệm từ Thiền sư Thích Nhất Hạnh – một trong những vị thầy tâm linh có ảnh hưởng lớn nhất ở phương Tây trong lĩnh vực Phật giáo, chỉ đứng sau Đức Đạt Lai Lạt Ma.

    Thầy Nhất Hạnh đã đi qua ba cuộc chiến tranh khốc liệt trên quê hương Việt Nam. Thầy đã dẫn đầu Phái đoàn Phật giáo Việt Nam trong cuộc đàm phán hòa bình Paris nhằm chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam. Vì lập trường chống chiến tranh đó mà Thầy Nhất Hạnh đã bị lưu vong hơn ba mươi năm.

    Bốn mươi năm sau khi Hiệp định hòa bình Paris được ký kết năm 1973, Thầy Nhất Hạnh giờ đây đang có một chuyến hoằng pháp tại Bắc Mỹ trong ba tháng. Thầy đã hướng dẫn một ngày thực tập chánh niệm tại trụ sở của Ngân hàng thế giới (World Bank) ở Washington và tại trường Đại học Y tế Cộng đồng Harvard (Harvard School of Public Health) ở Boston.

    Trong một tuần qua, tại tu viện Mộc Lan – một trong ba trung tâm tu học của Làng Mai tại Mỹ, Thầy Nhất Hạnh đã hướng dẫn một khóa tu với chủ đề “Healing Yourself is Healing the World” (Trị liệu cho bản thân ta là trị liệu cho cả thế giới). Khóa tu sẽ kết thúc vào ngày Chủ nhật.

    Thiền hành tại tu viện Mộc Lan

    Hàng trăm thiền sinh tham dự khóa tu đã cắm lều hoặc ngủ trong các xe “camper” chuyên dùng cho cắm trại trong khuôn viên rộng 120 mẫu tây của tu viện, được bao bọc bởi những rừng cây. Một số thiền sinh thì ở trong các căn phòng tập thể tương đối nhỏ hẹp của tu viện. Hàng trăm thiền sinh khác thì ở những khách sạn hoặc có nhà gần đó.

    Trong thời gian khóa tu, các bạn thiền sinh thức dậy từ lúc 5h15 sáng và bắt đầu các thời khóa như thiền tọa, thiền hành, thiền làm việc (chẳng hạn như rửa chén trong chánh niệm), thiền buông thư…và hoàn toàn không sử dụng điện thoại di động.

    “Chúng tôi muốn tạo cơ hội cho các bạn thiền sinh được nếm một chút hương vị của nếp sống chánh niệm và bình an. Tôi thường gọi đó là cảm giác của “ngày Chủ nhật tuyệt vời” (Sunday feeling)” – chia sẻ của sư cô Hiến Nghiêm, một sư cô người Anh vốn được sinh ra và lớn lên giữa lòng những ngôi giáo đường của Anh Giáo và Tin lành.

    “Trong xã hội ngày nay, mọi người đều có một cuộc sống quá bận rộn. Không phải lúc nào bạn cũng có thể dừng lại những gì mình đang làm. Vì vậy mà chúng tôi có mặt ở đây trong khóa tu này để giúp các bạn sống chậm lại và dừng những rong ruổi, tìm cầu để thực sự có mặt trong giây phút hiện tại, ít nhất là trong một tuần lễ”, sư cô Hiến Nghiêm chia sẻ thêm.

    Sự có mặt của Thiền sư Nhất Hạnh với giọng nói nhẹ nhàng và hóm hỉnh không những mang lại cho các bạn thiền sinh cơ hội được nếm hương vị của giáo lý và pháp môn thực tập của đạo Bụt, mà còn nhiều hơn thế nữa.

    Mỗi buổi sáng, hàng trăm thiền sinh có mặt tại thiền đường Thủy Triều Lên (Rising Tide) để ngồi yên lặng trong tư thế thiền tọa, chăm chú lắng nghe những lời dạy của Thiền sư. Bài pháp thoại có thể kéo dài trong 1 giờ hoặc 2 giờ đồng hồ.

    “Một bài pháp thoại hay cũng giống như một cơn mưa. Nó tưới tẩm những hạt giống hiểu biết, thương yêu, hạt giống từ bi trong chiều sâu tâm thức của ta”, Thầy chia sẻ.

    Thầy còn kể những câu chuyện thú vị như: một ngày nọ, Bụt cùng một số đệ tử của Người đang đi trên đường thì gặp một bác nông dân đang sầu khổ và lo lắng vì chưa tìm được bốn con bò bị lạc. Nếu không tìm được mấy con bò này thì không biết bác phải sống ra sao. Sau khi bác nông dân đi khỏi, Bụt mới quay sang các đệ tử của mình và nói: quý thầy có thấy là mình rất may mắn không? vì quý thầy không có con bò nào để mất cả.

    Vui chơi cùng các cháu

    Trong buổi vấn đáp, Thầy trả lời những câu hỏi của thiền sinh đôi lúc rất dí dỏm. Có một thiền sinh đặt câu hỏi: “Thưa Thầy, nếu con đứng giữa hai con đường và không biết phải chọn lối nào để đi thì con phải làm gì?”.  Thầy tủm tỉm trả lời: “Thì anh phải chọn một trong hai thôi”.

    Trong chiếc áo tràng nâu giản dị, Thầy chia sẻ với mọi người về ý nghĩa của những pháp môn như: thực tập buông bỏ; dừng lại và nhìn sâu; thực tập vô tác; thực tập ái ngữ và lắng nghe; thực tập chánh niệm và chế tác bình an trong khi đi đứng, nói năng và suy nghĩ.

    Có một thiền sinh hỏi Thầy rằng liệu những người Phật tử có nên tham gia vào những phong trào bất tuân dân sự (civil disobedience) để phản đối chiến tranh hoặc chống lại những hành vi bạo lực hay không. Thầy trả lời rằng: “Cách tốt hơn là xây dựng một tăng thân có bình an, có tình huynh đệ – một “tăng thân yêu quý”- để làm gương cho mọi người noi theo, để mọi người thấy rằng mình có thể sống một nếp sống tốt đẹp hơn”.

    Thầy chia sẻ rằng Thầy bắt đầu dùng cụm từ “tăng thân yêu quý” từ khi gặp Mục sư Martin Luther King Jr. vào năm 1965 và năm 1966. “Tôi nhớ lần cuối cùng gặp Mục sư King, chúng tôi chia sẻ với nhau về việc xây dựng tăng thân. Nhưng không may là sau cuộc gặp gỡ đó không lâu thì Mục sư bị ám sát. Kể từ đó, tôi nguyện rằng dù đang bị lưu vong, tôi cũng sẽ nỗ lực gấp đôi và để hết tâm sức vào việc xây dựng Tăng thân yêu quý – điều mà chúng tôi đã chia sẻ cùng nhau”.

    Được trao giải Nobel Hòa bình năm 1964, Mục sư Martin Luther King Jr. đã đề cử Thầy Nhất Hạnh cho giải Nobel Hòa bình năm 1967, trong lúc cuộc chiến tranh Việt Nam đang diễn ra ác liệt. Cuộc gặp gỡ với Thầy Nhất Hạnh đã thúc đẩy Mục sư King đi đến quyết định công khai phản đối cuộc chiến tranh Việt Nam vào năm đó. “Cá nhân tôi không thấy ai xứng đáng được trao giải Nobel Hòa bình hơn vị thầy tu Phật giáo đến từ Việt Nam này” – Mục sư King đã viết những lời này cho Ủy ban Nobel. Tuy nhiên, giải Nobel Hòa bình của năm đó không được trao cho ai cả.

    “Thầy đã nói với Mục sư King rằng ông chính là một vị Bồ tát – một bậc giác ngộ” – đó là chia sẻ của sư cô Chân Không – một đệ tử lớn của Thầy Nhất Hạnh, người luôn đồng hành cùng Thầy từ cuối những năm 50 của thế kỷ trước.

    Tuần vừa qua, một số quý thầy và sư cô Làng Mai đã đến thăm Viện Bảo tàng Dân quyền  Quốc gia để tỏ lòng kính ngưỡng đối với những đóng góp vì hòa bình của Mục sư Luther King và vị thầy tâm linh của họ.

    “Hôm nay, Thầy không trực tiếp đến đây được, vì vậy mà tôi mang Thầy trong trái tim và trong những bước chân thiền hành của tôi khi đến nơi này, một nơi thật thiêng liêng”, chia sẻ của sư cô An Nghiêm – một người Mỹ gốc Phi, có truyền thống Thiên Chúa Giáo; sư cô đã từ bỏ công việc của mình trong lĩnh vực chính trị ở Washington cách đây một vài năm để trở thành một sư cô của Làng Mai như hiện nay.

    “Tôi thực sự xúc động khi nghĩ rằng sau bao nhiêu năm, sự nghiệp vì hòa bình và xây dựng tăng thân mà Mục sư Martin Luther King Jr. và Thầy Nhất Hạnh đã nỗ lực cùng nhau vẫn đang được gìn giữ và tiếp nối trên mảnh đất này”, sư cô An Nghiêm chia sẻ.

    Xem bài tiếng Anh tại đây: Nhat Hanh brings Dharma to Delta