Bài kệ 10

Đổ vô trước diệc vô thức

覩無著亦無識

Nhất thiết xả vi đắc tế

一切捨為得際

Trừ thân tưởng diệt thống hành

除身想滅痛行

Thức dĩ tận vi khổ cánh

識已盡為苦竟

Đạt được cái vô trước và cái vô phân biệt,

Một khi buông bỏ được mọi ý niệm rồi thì sẽ vào được cõi ấy

Vượt thắng được ý niệm về ngã,

Điều phục được các tâm hành có tác dụng gây đau nhức

Và dứt bỏ được hoàn toàn cái tập khí nhận thức phân biệt kỳ thị, thì khổ đau không còn.

Đây là những chỉ dẫn rất cặn kẽ, rất chi tiết để chúng ta làm theo.

Đổ vô trước diệc vô thức: Đổ vô trước là thấy được, đạt được khả năng vô trước. Vô trước là không bị kẹt, không bị dính mắc vào. Thấy thì vẫn thấy, nghe thì vẫn nghe, nhớ thì vẫn nhớ, phân biệt thì vẫn phân biệt nhưng không bị dính vào. Diệc vô thức là không phân biệt, không kỳ thị.

Nhất thiết xả vi đắc tế: Một khi buông bỏ được mọi ý niệm rồi thì sẽ vào được cõi ấy. Xả là bỏ. Nhất thiết là tất cả. Nhất thiết xả là buông bỏ được tất cả. Tế là cõi, là không gian. Vi đắc tế là đạt được không gian đó.

Trừ thân tưởng diệt thống hành: Tưởng là một khái niệm, một nhận thức (perception). Thân ở đây có nghĩa là cái ngã.

Trừ thân tưởng là buông bỏ được ý niệm về ngã. Mỗi người chúng ta đều có thói quen coi cái thân, cái tâm của mình là cái ta, một cái ta thường còn, bất biến và đến khi xác thân này tiêu hoại thì nó hoặc vẫn còn hoặc bị hoàn toàn tiêu diệt. Đó là thân tưởng. Thân tưởng là ngã chấp (the perception of the self). Trừ thân tưởng là buông bỏ được ý tưởng “có một tự ngã riêng biệt”.

Diệt thống hành là làm chấm dứt tâm hành gây ra đau nhức như cái sợ, cái đam mê, cái ganh tị, cái giận hờn. Thân tưởng là ý niệm về một cái ngã, hoặc thường (vẫn còn y nguyên sau khi chết) hoặc đoạn (hoàn toàn tiêu diệt sau khi chết).

Thức dĩ tận vi khổ cánh: Thức dĩ tận là dứt bỏ hoàn toàn tập khí nhận thức phân biệt. Vi khổ cánh là khổ đau không còn nữa.

Bài kệ 9

Minh bất thanh tịnh năng ngự

明不清淨能御

Vô sở cận vi khổ tế

無所近為苦際

Kiến hữu kiến văn hữu văn

見有見聞有聞

Niệm hữu niệm thức hữu thức

念有念識有識

Trong một bản in khác:

Minh bất nhiễm tịnh năng ngự

明不染淨能御

Vô sở cận vi khổ tế

無所近為苦際

Kiến hữu kiến văn hữu văn

見有見聞有聞

Niệm hữu niệm thức hữu thức

念有念識有識

Sáng suốt, không để cho tâm ý bị nhiễm ô

Một khi đã được thanh tịnh hóa thì chế ngự được mọi dục ý.

Lúc ấy không còn phải tiếp cận với thế giới đau khổ nữa

Tuy rằng thấy thì vẫn thấy, nghe thì vẫn nghe, Nhớ thì vẫn nhớ, và biết thì vẫn biết.

Minh bất thanh tịnh năng ngự: Chữ thanh 清ở đâycó thể bị chép lầm. Trong một bản in khác là chữ nhiễm 染 . Minh bất nhiễm tịnh năng ngự: Minh bất nhiễm là sáng suốt, không để tâm ý bị nhiễm ô. Tịnh năngngự là: một khi đã đạt được sự thanh tịnh thì chế ngự được mọi dục ý.

Vô sở cận vi khổ tế: Lúc ấy không cần phải tiếp cận với thế giới khổ đau nữa. Nhưng như vậy không có nghĩa là mình tách rời sự sống. Tại vì trong khi có mặt, thì

Kiến hữu kiến văn hữu văn

Niệm hữu niệm thức hữu thức

Ta vẫn thấy những gì ta thấy, ta vẫn nghe những gì ta nghe, ta vẫn nhớ những gì ta nhớ, ta vẫn phân biệt những gì ta phân biệt. Nhưng ta không bị kẹt, không bị cuốn hút vào đó, ta vẫn giữ được tự do của ta. Ta vẫn là con người, vẫn thấy, vẫn nghe, vẫn biết, vẫn nhớ. Nhưng tất cả đối tượng đó không nắm bắt được ta, không làm cho ta mất tự do.

Bài kệ 8

Tâm nan kiến tập khả đổ

心 難見習可覩

Giác dục giả nãi cụ kiến

覺 欲者乃具見

Vô sở lạc vi khổ tế

無 所樂為苦際

Tại ái dục vi tăng thống

在 愛欲為增痛

Tâm khó thấy, nhưng thói quen có thể nhận ra,

Kẻ nhận diện được dục ý thấy được đầy đủ rằng

Không tìm thú vui trong dục lạc thì tránh được mọi thứ khổ

Và ái dục luôn luôn làm tăng trưởng niềm đau.

Tâm nan kiến tập khả đổ: Tâm nan kiến là mình khó thấy được tâm mình. Tâm không có hình tướng nên khó nhận diện, khó nắm bắt được. Tập là thói quen, là tập khí. Tập khả đổ có nghĩa là: thói quen thì có thể nhận diện được.

Mỗi chúng ta đều có thói quen, chính thói quen đó xúi đẩy chúng ta suy nghĩ, nói và làm. Nhiều khi chúng ta không muốn nói điều đó, nhưng nó đẩy chúng ta nói. Chúng ta không muốn làm điều đó, nhưng nó đẩy chúng ta làm. Chúng ta không muốn nghĩ về chuyện đó, nhưng nó đẩy chúng ta nghĩ. Đó là thói quen. Thói quen có thể từ tổ tiên, cha mẹ truyền lại, hay do huân tập từ hồi mình còn thơ ấu. Ngựa theo lối cũ. Tập là vāsanā, tiếng Anh có thể dịch là habit energy.

Tâm của ta, ta không thấy được; nhưng tập khí của ta thì ta có thể nhận diện được. Ta nhận diện bằng chánh niệm của ta. Chánh niệm là khả năng biết những gì đang xảy ra: cái đang xảy ra là ta đang bị thói quen áp đảo, thúc đẩy. Có hai loại thói quen:

Thói quen về nghiệp, nghiệp tập khí (karma-vāsanā). Nghiệp là hành động (action), nghiệp có ba hình thức:tư duy, nói năng và hành động. Ta có thói quen nghĩ như vậy, nói như vậy và làm như vậy. Có thể là thói quen tốt hay thói quen xấu. Khi làm theo thói quen tốt thì ta biết ta đang làm theo thói quen tốt. Ví dụ như khi nghe tiếng chuông ta ngưng suy nghĩ, nói năng và bắt đầu thở vô nhẹ nhàng. Mỗi khi nghe tiếng chuông, không cần ai nhắc hay bắt buộc, ta tự động làm như vậy. Đó là một thói quen tốt.

Ta tập đi thiền hành đã quen, nên khi đi ta đi thảnh thơi, và trong mỗi bước chân ta thưởng thức được sự thanh thản. Đi như vậy đã thành một thói quen. Mỗi buổi sáng, buổi chiều ngồi thiền, ta thấy khỏe khoắn. Ngày nào không ngồi thiền, ta thấy thiếu cái gì đó. Ngồi thiền đã trở thành một thói quen, một thói quen tốt.

Nhưng cũng có những thói quen xấu. Khi chúng ló đầu ra thì ta nhận diện được ngay, nhờ chánh niệm. Thói quen suy nghĩ như vậy, thói quen nói năng như vậy và thói quen hành xử như vậy.

Có một anh chàng người Mỹ tới xóm Thượng tu một tháng. Anh tu rất giỏi, làm việc gì cũng thong thả, từ tốn, không gấp gáp. Các thầy và các sư chú dạy anh rằng làm việc gì cũng nên làm thong thả, từ tốn. Xung quanh anh, người nào cũng làm như vậy nên anh được ôm ấp, bao vây bởi năng lượng từ tốn, thong thả. Trong ba tuần đầu tiên anh làm rất giỏi. Đến tuần thứ tư có lễ Thanks giving (Lễ Tạ Ơn), anh được gửi đi chợ mua sắm để về nấu cỗ. Đây là lần đầu tiên anh đi ra ngoài một mình không có tăng thân. Trong khi đi chợ, tự nhiên thói quen hấp tấp trở lại. Anh ta hối hả muốn làm cho xong việc để về. Nhưng vì đã được thực tập ba tuần rồi nên anh có khả năng nhận diện được. Anh thấy mình đang hấp tấp, vụt chạc, muốn làm cho xong để về. Anh nhận diện được tập khí đó và bất chợt thấy rằng cái thói quen đó là do má của anh truyền lại. Má của anh luôn luôn hấp tấp và anh đã tiếp thu cái tập khí xấu đó từ má. Thấy được, anh nhận diện và mỉm cười: “Hello mother, I know you are there!” (Chào Má, con biết là Má đang ở đó!) Khi nhận diện được thì anh trở về với chánh niệm, và trở lại sự từ tốn, thong thả trong khi đi chợ. Nương theo hơi thở, thì tập khí không còn lôi cuốn anh ta được nữa.

Nhận diện là một phương pháp rất hay. Ta không đàn áp, không trách cứ; chỉ nhận diện thôi. Pháp môn này được gọi là nhận diện đơn thuần. Ta không cần trách móc ta, ta không cần đàn áp tập khí. Khi nhận diện thì tập khí không làm gì ta được, và ta vẫn giữ được tự do của ta. Mỗi người chúng ta đều có nhiều tập khí, nhiều thói quen như vậy. Theo thói quen thì chúng ta làm đổ vỡ rất nhiều. Ta không muốn làm như vậy, ta không muốn nói như vậy, nhưng tập khí đẩy ta phải làm, phải nói như vậy. Người tu phải biết học thói quen nhận diện tập khí.

Không thể thấy được tâm, nhưng có thể nhận diện được tập khí. Trước hết là tập khí về suy tư. Có thể ta quen suy tư một cách tiêu cực, một cách nghi ngờ. Ta phải nhận diện tập khí của ta để đừng bị nó kéo theo. Đó là karma-vāsanā.

Thói quen thứ hai là nhị thủ tập khí. Nhị thủ tập khí là thói quen cho rằng có một chủ thể có mặt độc lập ngoài đối tượng và có một đối tượng độc lập với chủ thể. Đó là bị kẹt vào, là thủ. Nhị thủ là bị kẹt một lần vào hai cái, chủ thể và đối tượng.

Nhà khoa học bây giờ cũng đang còn bị vướng vào nhị thủ, cho rằng tâm thức ta và thế giới của thực tại ta đang nghiên cứu là hai cái riêng biệt nhau. Tiếng Anh gọi là double grasping. Ta cứ nghĩ rằng tâm thức của ta là một thực tại tồn tại độc lập ngoài đối tượng của nó. Đó là một tập khí rất sâu dày của con người. Ta không đạt tới giác ngộ được cũng là do tập khí nhị thủ này.

Ta có thể học hỏi để nhận diện được hai loại tập khí đó và từ từ chuyển hóa chúng.

Giác dục giả nãi cụ kiến: Giả là người (the one).

Người có thể nhận diện dục ý của mình là người có khả năng thấy được hoàn cảnh một cách rõ ràng. (The one who has the capacity to recognize his mind of desire will be able to see everything clearly.)

Ta có những mong cầu, những theo đuổi, những cái muốn nắm bắt. Đó là dục ý. Ta nghĩ ta không có hạnh phúc, ta đang không có hạnh phúc. Ta đang chạy theo, đang trông cầu, đang theo đuổi, đang ham muốn một cái gì đó. Đó cũng là một tập khí làm cho ta không có khả năng sống hạnh phúc trong giây phút hiện tại. Trong giây phút hiện tại, có thể ta đang có đầy đủ điều kiện để có hạnh phúc liền, nhưng ta không có khả năng có được hạnh phúc ấy. (You do not have the capacity to be happy.) Lý do là vì ta có một dục ý, ta đang theo đuổi, đang muốn nắm bắt một cái gì đó. Ta tin rằng, nếu không nắm bắt được cái đó thì ta không có hạnh phúc. Vì vậy, người có khả năng nhận diện được dục ý mới có thể thấy được rõ ràng.

Vô sở lạc vi khổ tế: Chữ lạc có thể đọc là nhạo.

Nhạo là muốn, vô sở nhạo là không muốn đeo đuổi gì nữa. Ta như thế này đã là mầu nhiệm lắm rồi, ta không cần phải trở thành một người khác mới có hạnh phúc. (Be yourself, you don’t need to become someone else.) Tại sao ta không còn mong muốn gì nữa? Tại vì hiện bây giờ những điều kiện hạnh phúc của ta đã quá nhiều. Có được hai lá phổi để thở không khí trong lành cũng đã là hạnh phúc rồi. Trái tim của ta không bị nghẽn, hai mắt của ta còn sáng, mở mắt ra là ta có thể thấy được mùa xuân. Ta có rất nhiều điều kiện hạnh phúc; ta không cần đeo đuổi, chạy theo, nắm bắt gì nữa. Đó là vô sở nhạo, là aimlessness. Đó là cánh cửa giải thoát thứ ba trong ba cánh cửa giải thoát là không, vô tướng và vô tác. Nếu không còn đeo đuổi thì ta thoát ra được ngoài biên giới của khổ đau.

Tại ái dục vi tăng thống: Thấy rõ rằng, ái và dục, sự đam mê, sự đeo đuổi, luôn luôn làm tăng trưởng niềm đau của ta. Không đam mê, không theo đuổi là nền tảng của hạnh phúc.

Bài kệ 7

Trong Đại Tạng Tân Tu:

Thỉ vô như bất

始 無 如 不

Thỉ bất như vô

始 不 如 無

Thị vi vô đắc

是 為 無 得

Diệc vô hữu tư

亦 無 有 思

Trong một bản in khác:

Thỉ vô thỉ phủ

始 無 始 否

Như bất như vô

如 不 如 無

Thị vi vô đắc

是 為 無 得

Diệc vô hữu tư

亦 無 有 思

Thấy được cái không trước, không sau

Không là, không không là

Cái đó là vô đắc

Cũng là cái không thể tư duy được.

Đây là một bản đàn đã được chư Tổ đánh lên. Những nốt đàn đã nằm sẵn trong kinh, chư Tổ lấy ra dạo lên cho ta nghe để ta thấm được, hưởng được Niết bàn.

Bài kệ này là một đoạn văn rất khó!

Thỉ vô như bất: Ở đây người ta chép lộn chữ thỉ 始 thành ra chữ như 如. Trong một bản khác là:

Thỉ vô thỉ phủ: Phủ là phủ nhận. Không có cái bắt đầu, cũng không có cái không bắt đầu. (There is no beginning, there is no non-beginning).

Nếu là một nhà thiên văn học đang tin vào thuyết “Big Bang”, quý vị cần đọc kinh này. Theo thuyết “Big Bang”, thì có cái ban đầu, trước “Big Bang” không có gì hết. Không gian và thời gian chỉ biểu hiện sau cái “Big Bang”. Hiện nay, có người hỏi: Trước “Big Bang” có cái gì? Các ý niệm về ban đầu không ban đầu chống đối nhau. “Có cái ban đầu” có thể sai, mà “không có cái ban đầu” cũng có thể sai, tại vì tất cả đều chỉ là ý niệm.

Trong Cơ đốc giáo, có ý niệm về sáng thế, tức sự tạo dựng của đất trời. Ban đầu, chưa có gì hết và Thượng đế đã tạo đựng ra thế giới, đó là ý niệm “thuở tạo thiên lập địa”. Nhưng trước “thuở tạo thiên lập địa” thì có cái gì? Có thể cái không trở thành cái có hay không? Cái non- being tự nhiên trở thành being được không? Trước khi cái being hiện ra, thì có cái non-being không? Đó là một vấn đề lớn.

Đứng về phương diện Niết bàn, ta không thể suy nghĩ với phạm trù có không, being và non-being. Nói Nirvāna là being cũng sai, mà nói là non-being cũng sai, tại vì Niết bàn là sự vắng mặt của tất cả mọi ý niệm. Nếu đi sâu vào thần học, thì Thượng đế cũng vậy. Nói Thượng đế có cũng sai, mà nói Thượng đế không có cũng sai. Có và không chỉ là những ý niệm trong đầu của ta, chúng không thể áp dụng được vào trong thực tại tuyệt đối mầu nhiệm.

Đây là sự thực tập của sóng để trở về với nước. Khi đợt sóng trở về với nước, nó cảm thấy rất hạnh phúc, rất an toàn. Sự thực tập này nằm trong tầm tay của mình, của các bậc chân nhân, của người tu.

Thỉ bất như vô: Ở đây người ta đã chép lộn chữ như 如thành ra chữ thỉ 始. Trong một bản khác là:

Như bất như vô: Chữ như dịch ra tiếng Anh là to be. To be or not to be, that is not the question.

Không phải là vấn đề bắt đầu hay không bắt đầu. Không phải là vấn đề to be hay không to be. Niết bàn vượt thoát ý niệm “beginning or non-beginning” và ý niệm “to be or not to be”.

Thị vi vô đắc: Đó gọi là vô đắc. Vô đắc là aprapti hay anupalambha (bất khả đắc). Bất khả đắc là không nắm được.

Ta nắm bằng cái gì? Mùa Xuân đang có mặt, ta tìm cách nắm bắt mùa Xuân lại, hay nắm bắt ngọn gió Xuân lại, được hay không? Ta có thể nhốt ngọn gió Xuân vào trong rương được không? Không được. Người yêu của ta ta cũng không nắm bắt được (ungraspable). Các nhà khoa học tìm cách nắm lấy các lượng tử, nắm bằng trí óc của họ. Nhưng họ không biết rằng bản chất của lượng tử là bất khả đắc. Tất cả đều là bất khả đắc.

Sử dụng các phạm trù tư tưởng (mental categories) để nắm bắt thì không thể được, bởi vì Niết bàn cũng như Thượng đế đều là cái không thể nắm bắt. Vô đắc là một đặc tính của Niết bàn. Ta chỉ có thể ca hát về Niết bàn, và kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một bản nhạc giúp cho ta nhiều điều kiện để có thể tiếp cận với Niết bàn.

Thị vi vô đắc: Nó là cái ta không thể nắm bắt được.

Vô đắc không có nghĩa là không có mặt. Gió Xuân hay nắng mai tuy có mặt đó, nhưng ta nắm bắt không được. Ta chỉ có năm ngón tay thì làm sao nắm được gió Xuân?

Diệc vô hữu tư: Và cũng không thể suy nghĩ được. có nghĩa là tư duy. Vô hữu tư là không thể tư lượng được. You can not conceive it with your mental categories. Nó là bất khả tư nghì, không tư duy, không nói năng được, không thể dùng tâm mà nắm bắt được. Tiếng Phạn là acintiya. Thiền Tào Động có câu: “Không thể tư lương về cái không thể tư lương. Không tư lương là chỗ thiết yếu của thiền.”

Chúng ta hãy xem kinh như một bài hát hay một bài thơ và đừng bị kẹt vào ngôn từ, kỵ nhất là bị kẹt vào những ý niệm. Nếu may mắn thì nhờ bài hát, bài thơ đó ta có thể tiếp cận được với Niết bàn có sẵn trong lòng ta.

Thấy được cái không trước không sau

Thấy được cái không là và cái không không là

Cái đó là cái vô đắc

Và chính cái đó cũng là cái không thể tư duy được.

Bài kệ 6

Mi lộc y dã

麋 鹿 依 野

Điểu y hư không

鳥 依 虛 空

Pháp quy kỳ báo

法 歸 其 報

Chân nhân quy diệt

真 人 歸 滅

Hươu nai nương đồng quê

Chim chóc nương trời mây

Sự vật nương phân biệt mà biểu hiện

Các bậc chân nhân nương vào Niết bàn để sống thảnh thơi.

Kinh hay như một bài thơ. Nếu không có rừng, thì nai không có hạnh phúc. Ta đem nai nhốt vào vườn bách thú hay nhốt vào trong cũi thì làm gì nai có được hạnh phúc? Nai chỉ có hạnh phúc, khi nó có thảnh thơi. Trong Tương Ưng Bộ, có một kinh rất ngắn nói về con nai:

Một thuở nọ có nhiều vị khất sĩ kết hạ tại một khu rừng tại miền quê Kosala. Sau khi đã kết hạ ba tháng, các vị khất sĩ bắt đầu rời khu rừng để đi du hành. Một vị thiên giả trú ở khu rừng này thấy vắng bóng các vị khất sĩ, than thở, buồn bã nói lên một bài kệ sau đây:

Hôm nay trong lòng ta

Trống vắng không niềm vui.

Những chỗ ngồi hôm qua

Giờ đây không ai ngồi.

Các bậc đa văn ấy

Thuyết pháp thật là giỏi.

Đệ tử Đức Thế Tôn

Hiện đi đâu hết rồi?

Vị thiên giả ngồi khóc. Khi nghe bài kệ, một vị thiên giả khác đang có mặt, dùng một bài kệ khác để trả lời vị thiên giả kia:

Họ đi đâu hả?

Họ đi Ma Kiệt Đà

Họ đi Câu Tát La

Còn những khất sĩ khác

Thì đi về Bạt Xà.

Như nai thoát bẫy sập

Chạy nhảy khắp bốn phương.

Đời sống người xuất gia

Là thảnh thơi như thế.

Con nai không muốn bị nhốt, nó chỉ muốn thảnh thơi, và nó nương vào đồng quê.

Mi lộc ư dã: Nai thì nương vào đồng quê.

Điểu y hư không: Chim chóc thì nương vào hư không. Không có không gian, chim làm gì có hạnh phúc. Chỉ cần nhìn chúng bay vút lên cao là ta thấy hạnh phúc của con chim rồi.

Hươu nai có chỗ hạnh phúc của nó và chim chóc cũng có chỗ hạnh phúc của nó.

Pháp quy kỳ báo: Bốn chữ nầy là cả một vấn đề.

Trong một ấn bản khác mà Đại Tạng Kinh trích dẫn, chữ “kỳ báo” được thay bằng chữ “phân biệt”, Pháp quy phân biệt. Như trong phẩm Viên Tịch của Pháp Tập Yếu Tụng Kinh cũng chép “nghĩa quy ư phân biệt.” Có lẽ người chép kinh không hiểu “Pháp quy phân biệt” là gì, nên sửa lại là “Pháp quy kỳ báo”. Đây là tam sao thất bản. Cũng như trong ấn bản Truyện Kiều mới, người ta không hiểu được cụ Nguyễn Du, nên họ sửa lại văn của cụ. Khi Thúy Kiều đang ở trong Quan Âm Các, cụ Nguyễn Du viết:

Sớm trưa lá bối phiến mây

Ngọn đèn khêu nguyệt tiếng chày nện sương.

Cụ Nguyễn Du viết chữ “phiến mây” rõ ràng. Nhưng người in Truyện Kiều nghĩ phiến mây là gì, trong chùa thì chỉ có phướn thôi nên viết là phướn mây. Lá bối là đọc kinh. Là người tu, buổi sáng, buổi trưa chúng ta đọc kinh và buổi tối chúng ta thỉnh chuông. Trong chùa có một cái chuông hình đám mây gọi là vân bản. Phiến mây là vân bản. Vân bản được đúc hình đám mây.

Câu “Pháp quy kỳ báo” thì dễ hiểu: các pháp do quả báo của nó mà có. Làm lành có lành, làm dữ có dữ. Vì vậy, pháp quay trở về quả báo của nó. Chép như vậy không sai với đạo lý: cái gì cũng có nhân có quả, có nghiệp, có báo.

Nhưng trong văn mạch của kinh, thì câu “pháp quy kỳ báo” đó không ăn khớp với kinh lắm. Vì vậy chúng ta lấy lại chữ “phân biệt” trong một ấn bản khác. Chúng ta đọc là:

Pháp quy phân biệt: Sự vật nương phân biệt mà biểu hiện. Phân biệt, được dịch từ chữ vikalpa. Chữ vikalpa có khi được dịch là biến kế, tức tâm thức của mình phân biệt.

Trong “Duy thức tam thập tụng” có bài kệ:

Thị chư thức chuyển biến

Phân biệt, sở phân biệt.

Đây là bản dịch của thầy Huyền Trang.

Trong nguyên văn chữ Phạn là: Sự chuyển biến của thức là sự phân biệt. The manifestation of consciousness is discrimination. Khi thức chuyển biến thì trở thành phân biệt (vikalpa). Vijñāna-pariṇāma vikalpa.

Theo nguyên tác, phải dịch như thế nầy: Sự chuyển biến của thức tức là phân biệt. Nhưng thầy Huyền Trang ngưng ở chữ chuyển biến và cho chữ phân biệt xuống dưới nên có thể có sự hiểu lầm. Phân biệt có hai thứ: năng phân biệt và sở phân biệt, tức chủ thể và đối tượng. Rồi người ta tưởng chủ thể và đối tượng là hai cái khác nhau, không thể tách rời nhau.

Trong một buổi pháp thoại vừa rồi tại Viện Phật Học Ứng Dụng Âu Châu, tôi có lấy ví dụ đồng 2 Euro. Nó có hai mặt, một mặt trái và một mặt phải. Nhưng cả trái, cả phải đều do chất đồng của đồng Euro làm ra.

Thức là chất đồng, là chất kim khí và khi chuyển biến thành đồng Euro thì nó trở thành hai mặt, mặt trái và mặt phải của đồng Euro. Đó là sự phân biệt. Chính sự chuyển biến của thức trở thành ra sự phân biệt.

Câu kinh này rất sâu, rất uyên áo. Ta không biết tự tánh (true nature) của các pháp như thế nào, nhưng cái ta nhận thức được bằng tâm của ta chỉ là phân biệt (vikalpa). Cây cối, ánh sáng mặt trời, cái bàn… chỉ là biểu hiện của tâm thức. Tâm thức thấy chúng là như vậy, nhưng chưa chắc chúng đã là như vậy. Chúng là đối tượng của biến kế, của phân biệt. Tâm nhận thức như vậy, nhưng chưa chắc là như vậy. Nhìn người kia, ta tưởng ta nắm được người kia, nhưng kỳ thực ta chỉ nắm được những nhận thức của ta về người kia thôi. Hình ảnh của người kia là nhận thức của ta. Ta tưởng ta biết mặt trời là cái gì, nhưng thật ra mặt trời trong nhận thức ta chẳng qua chỉ là một sáng tạo phẩm của tâm thức ta (mental construction).

Các nhà khoa học lượng tử (quantum mechanics) cũng đang tìm mọi cách để thấy được bản chất của các điện tử, các lượng tử (nature of the quantum). Họ có thể đạt tới được cái bản chất, cái tự thân (svabhāva) của quantum hay không? Đạo Phật nói không thể đạt được. Dùng trí óc phân biệt thì ta thấy tâm của ta nhiều hơn là thấy sự thật. Sự vật quanh ta, tùy theo tâm thức của ta mà hiện ra như thế này hay như thế kia. Có khi nó hiện ra như một đợt sóng, có khi nó hiện ra như một cái hạt. Tùy theo tâm của ta, ta đặt câu hỏi thế này thì nó hiện ra như cái hạt, ta đặt câu hỏi cách khác thì nó hiện ra như đợt sóng. Vì vậy, các pháp là do phân biệt mà có. Câu “sự vật do tâm thức mà biểu hiện” rất hay. Các nhà khoa học phải nghiên cứu điều đó.

Quan niệm “sự vật là một cái riêng và tâm thức là một cái riêng, hai cái tồn tại độc lập” là một sai lầm căn bản.

Câu kinh “Pháp quy phân biệt” rất sâu! Lĩnh vực của các pháp là tâm thức. Nhà của hươu nai là đồng quê, nhà của chim chóc là không gian, nhà của sự vật là tâm thức, tâm chứa hết tất cả các pháp. Còn người tu, nhà của người tu ở đâu?

Chân nhân quy diệt: Chân nhân là người tu. Chân là thiệt, nhân người. Một người muốn sống thật đời sống của mình, gọi là chân nhân.

Chân nhân là một danh từ rất hay của Lão giáo, Khổng giáo. Cư sĩ Chi Khiêm cũng như thầy Tăng Hội là những người rất can đảm. Họ đã sử dụng những danh từ của Khổng giáo hoặc của Lão giáo để dịch kinh. Thiền sư Lâm Tế cũng dùng chữ chân nhân, vô vị chân nhân, tức con người thật, không có vị trí. Người tu, trước hết là con người muốn sống thật với mình, không giả dối, không đeo mặt nạ.

Chân nhân là những bậc thánh. Chỗ nương tựa của họ là Niết bàn. Nếu con nai có chỗ thích thú của nó là đồng quê, nếu con chim có chỗ thích thú của nó là không gian, thì người tu có chỗ thích thú của họ là Niết bàn. Niết bàn là cái đã có sẵn, ta đang ở Niết bàn, chỉ có điều là ta không trở về được thôi.

Làng Mai chúng ta hay có một ví dụ đơn sơ là nước và sóng. Sống đời sống của một đợt sóng thì ta lao đao, sợ hãi tại vì đợt sóng phải đi lên đi xuống, có sinh có diệt, có có có không. Rất khó sống đời sống của một đợt sóng. Ta thấy rất rõ. Nhưng khi đợt sóng khám phá ra mình là nước, thì nó bắt đầu tập sống với tư cách nước. Sóng thì có lên có xuống, có có có không, có cao có thấp. Nhưng nước thì hoàn toàn tự do. Vấn đề là đợt sóng có khả năng sống cái tự tánh nước của mình không, hay nó chỉ có thể sống đời sống của đợt sóng. Đợt sóng có thể tập sống đời sống của nước. Nó không phải đi kiếm nước, tại vì nó đã là nước rồi. Đây là một ví dụ dễ hiểu cho ta thấy Niết bàn là gì.

Nếu sóng an trú trong nước, thì nó sẽ không sợ hãi, nó có sự an toàn rất lớn. Đi lên an toàn mà đi xuống cũng an toàn. Nó không còn bị ý niệm còn-mất, có-không… làm cho sợ hãi.

Ta là một đợt sóng và đồng thời ta cũng là nước. Nhưng phần lớn trong chúng ta chỉ có thể sống đời sống của sóng mà không sống được đời sống của nước. Cơ Đốc giáo dùng chữ “Resting in God” là như vậy. God tức là nước. Nếu biết dựa lên nước thì sóng rất khỏe, nó sẽ hết tất cả sự sợ hãi: sợ có, sợ không, sợ còn, sợ mất. Chữ diệt ở đây hàm ý sự lắng dịu của mọi sợ hãi và đau buồn. Một khi đợt sóng biết mình là nước và biết sống đời sống của nước, thì đợt sóng không còn sợ hãi nữa. Lên nó cũng vui, xuống nó cũng vui, cao nó cũng vui, thấp nó cũng vui, có cũng vui, không cũng vui, tại vì nó đã vượt được cái có-không, cao-thấp. Niết bàn cũng vậy, Niết bàn là cái ngược lại với hành, là những pháp hữu vi.

Các bậc chân nhân nương và  Niết bàn để sống thảnh thơi, khi dịch ta đã thêm vào bốn chữ “để sống thảnh thơi”. Chúng ta có quyền dịch như vậy, vì ta thấy có ý đó trong kinh: Hươu nai về đồng quê thì thảnh thơi, chim chóc trở về không gian thì thảnh thơi, thì các bậc chân nhân trở về Niết bàn thì cũng thảnh thơi.

Ta không cần phải đi tìm Niết bàn, chính ta đã ở trong Niết bàn rồi. Sóng không cần phải tìm nước, sóng chính là nước. Tùy theo ta chọn, ta vẫn là sóng, ta không cần phải tiêu diệt sóng, ta vẫn sống trong thế giới của các pháp hữu vi. Nhưng khi sống sâu sắc, ta chạm được với cái vô vi và các pháp hữu vi không làm cho ta đau khổ lắm.

Bây giờ chúng ta hãy trở lại một chút với bài kệ thứ ba:

Cơ vi đại bệnh

飢為大病

Hành vi tối khổ

行為最苦

Dĩ đế tri thử

已諦知此

Nê hoàn tối lạc

泥洹最樂

Đói là cái bệnh khó chịu nhất

Tâm hành là cái gây khổ đau nhiều nhất

Cứ nhìn vào sự thực mà tìm hiểu

Thì Niết bàn là cái lạc thú lớn nhất.

Hành vi tối khổ: các hành là cái gây khổ đau nhiều nhất. Hành là các hữu vi pháp (saṃskṛta-dharma). Ở đây ta nên hiểu hành vi tối khổ nghĩa là: tâm hành là cái gây khổ đau nhiều nhất. Tại sao ta không dịch là “các pháp hữu vi là cái gây khổ đau nhiều nhất”, mà lại dịch là “tâm hành là cái gây khổ đau nhiều nhất”? Phạm vi của pháp hữu vi rất lớn, trong đó có thân hành, tâm hành và những thứ khác là vật hành như núi, sông, cây cỏ… Tâm hành chỉ chiếm độ một phần ba. Khi dùng chữ “tâm hành”, ta chỉ lấy độ một phần ba của hành, như thế là có sai với kinh hay không? Tại sao ta không dịch là “tất cả các pháp hữu vi đều gây ra đau khổ”, mà lại dịch là “tâm hành gây đau khổ”. Lý do là có sự nguy hiểm, người ta có thể nghĩ các pháp hữu vi là những cái độc lập với tâm và bản chất của các pháp hữu vi là gây đau khổ.

Đó là một sự hiểu lầm lớn mà ít người thoát khỏi trong khi học Phật. Hiểu lầm rằng vì các pháp hữu vi là vô thường, vô ngã; cho nên chúng là khổ. Ta cho vô thường, vô ngã đi đôi với khổ. Nhưng sự thật là: vì các pháp hữu vi là vô thường mà ta cho chúng là thường, cho nên ta khổ. Vì các pháp hữu vi là vô ngã mà ta cho chúng là có ngã, cho nên ta khổ. Khổ là do ta chứ không phải do các pháp. Nói các pháp hữu vi là khổ thì oan cho chúng lắm. Các pháp hữu vi là vô thường, vô ngã, chúng không có tội gì. Tại ta tưởng chúng là thường, là ngã, nên ta mới khổ. Các pháp hữu vi có thuộc tính vô thường, vô ngã, nhưng tính khổ không thuộc về các pháp hữu vi. Tính khổ thuộc về ta, tại ta có nhận thức sai lạc về các pháp hữu vi. Vì vậy cho nên nói các pháp hữu vi là khổ thì không đúng.

Nếu dịch “các pháp hữu vi là cái gây khổ đau nhiều nhất” mình có thể làm cho người ta hiểu lầm. Trong kinh Bảo Tích có một ví dụ rất vui, rất buồn cười: Có người cầm cục đá liệng một con chó. Bị liệng trúng, con chó đau quá, chạy theo sủa cục đá. Nó tưởng cục đá là nguyên do gây nên sự đau khổ của nó. Kỳ thực, nguyên do làm nó khổ là cái anh chàng liệng cục đá. Thay vì chạy theo sủa người liệng cục đá, nó lại chạy theo sủa cục đá.

Ở đây cũng vậy, các pháp hữu vi không làm cho ta đau khổ, nhưng ta khổ tại vì ta có nhận thức sai lầm về các pháp hữu vi. Cái gốc của khổ đau là tâm của mình mà không phải là các pháp hữu vi. Vì vậy, thay vì dùng chữ “các pháp hữu vi” thì ta dùng chữ “tâm hành”, trong đó có tham, sân, si (ngu dốt). Vì có sai lạc về nhận thức, nên các pháp hữu vi mới làm ta khổ. Nếu ta là một vị Bụt có trí tuệ, thì các pháp hữu vi không động được tới ta. Tâm hành là pháp hữu vi, nhưng chỉ là một phần thôi, ngoài ra còn có thân hành và vật hành. Tuy là tâm, nhưng đối tượng của nó có thể là vật và thân. Tâm bao gồm hết tất cả, cho nên ta dùng chữ “tâm hành” cũng được. Ta phải khéo léo, đừng để bị kẹt vào chữ. Khi đọc câu “các pháp nương vào phân biệt mà biểu hiện”, ta thấy rất rõ chữ phân biệt ở đây có nghĩa là tâm hành, là tri giác, là tưởng (perception).

Bài kệ 5

Tùng nhân sinh thiện

從 因 生 善

Tùng nhân đọa ác

從 因 墮 惡

Do nhân nê hoàn

由 因 泥 洹

Sở duyên diệc nhiên

所 緣 亦 然

Các cõi trời do tạo tác nhân lành mà mình được sinh lên,

Các ác đạo cũng do ác nhân mà mình bị đọa xuống

Niết bàn cũng như thế

Do nhân duyên tu tập mà có Niết bàn.

Trong nguyên văn chữ Hán không có chữ “cõi trời”.

Tùng nhân sinh thiện: Do sự thực tập những điều lành mà được sinh lên các cõi lành.

Ví dụ, Làng Mai là một cõi lành. Trong quá khứ, chắc mình có làm điều tốt nên được sinh ra trong Làng Mai. Làng Mai là một cõi thiện. Không hẳn trên mây mới có cõi trời, chỗ nào không có khổ đau thì đều là cõi trời.

Không phải ngẫu nhiên mà mình được sinh vào cõi thiện, phải do những nguyên nhân tích tụ trong quá khứ, nên bây giờ mình mới được sinh lên cõi thiện. Không phải trên trời mới có cõi trời, ngay ở dưới đất cũng có cõi trời. Nếu được sinh lên cõi trời, thì đó là do những nhân duyên, những hành động tốt trong quá khứ.

Tùng nhân đọa ác: Đọa là rơi xuống. Rơi xuống cõi ác. Nếu không tu, người đang ở cõi thiện rớt xuống cõi ác. Bị rơi xuống cõi hệ lụy cũng là do nhân.

Trong khi ở cõi trời, có thể ta không chịu nhận diện được những may mắn và hạnh phúc của mình. Ta coi thường, không giữ giới, đi ra ngoài không có đệ nhị thân. Đó là những nhân khiến ta rơi xuống cõi ác.

Hai câu kệ này xác nhận rằng: không có gì là ngẫu nhiên. Nếu ta được sinh ra ở một cõi an lành, đó là do ta, do nhân duyên của ta. Nếu ta rơi xuống cõi hệ lụy, cũng là do nhân duyên của ta.

Do nhân nê hoàn: Niết bàn cũng do nhân duyên mà có được.

Sở duyên diệc nhiên: Trong vấn đề duyên khởi, cũng giống như trường hợp được sinh lên cõi thiện hay bị đọa xuống cõi ác; đi vào Niết bàn cũng do nhân duyên mà sinh ra.

Điều chúng ta cần phải hiểu trong câu kinh là: Niết bàn không phải là một cái gì được tạo tác ra, tại vì Niết bàn là một pháp vô vi (unconditioned dharma), mà không phải là một hành (formation), hay một pháp hữu vi (conditioned dharma). Niết bàn không phải do những nguyên nhân tạo tác mà thành. Vì vậy, chữ “do nhân” không có nghĩa là do những điều kiện làm ra Niết bàn. “Do nhân”, có nghĩa là do sự tu tập mà Niết bàn hiển lộ ra. Niết bàn không phải có do ta tu tập, mà nó đã có sẵn rồi, nếu có tu tập thì ta được hưởng. Chữ nhân ở đây không phải là những nhân duyên tới với nhau để làm cho Niết bàn biểu hiện, như bông hoa, như mặt trời… Nhân là do công phu tu tập mà ta hưởng được Niết bàn.

Vào lúc bốn, năm giờ sáng, xóm Thượng trời rất trong, rất đẹp. Hương đêm rất thơm, tinh khiết. Ta trùm chăn ngủ, chuông thỉnh ta không chịu dậy. Cảnh vật lung linh, huyền ảo, mầu nhiệm bên ngoài tượng trưng cho Niết bàn. Trùm chăn ngủ, thì ta không hưởng được Niết bàn. Khi có tiếng chuông hay sư anh tới kéo dậy, ta tung mền đứng lên, rửa mặt. Đó là nhân, là công phu tu tập. Không phải nhân đó làm ra Niết bàn. Niết bàn đã có sẵn ngoài trời, ta chỉ cần mặc áo ấm, mở cửa đi ra thì tiếp xúc được với sự mầu nhiệm của cảnh trời khuya ở xóm Thượng. Những nguyên do đó không tạo ra Niết bàn, mà chỉ giúp cho mình hưởng được Niết bàn đang sẵn có. Niết bàn là một pháp vô vi. Nhưng pháp vô vi gọi là Niết bàn này không phải là một cái gì tách biệt ra khỏi các pháp hữu vi mà có. Nói cho đúng nó không phải là một trong một trăm pháp của tông Pháp tướng. Nó là bản thể, là lưng dựa, là nẻo thoát của tất cả các pháp hữu vi. Lìa hữu vi thì không có vô vi, ngược lại cũng thế. Như nước không lìa sóng và sóng không lìa nước mà có.

Có những tông phái cho rằng có nhiều pháp vô vi và có những tông phái nói chỉ có một pháp vô vi, đó là Niết bàn, còn các pháp khác đều là hữu vi. Ở Làng Mai, ta đi theo thuyết: Tất cả các pháp đều là hữu vi. Chỉ có một pháp vô vi, đó là Niết bàn.

Câu “Do nhân nê hoàn” có thể bị hiểu lầm là Niết bàn cũng do nhân mà có. Niết bàn không có cũng không không, vượt ra khỏi ý niệm có và không, nó là pháp vô vi. Niết bàn đang có mặt bây giờ và ở đây. Cảnh trời khuya mầu nhiệm của xóm Thượng có đó, sư em muốn hưởng thì chỉ cần đi ra ngoài. Nếu không đi ra bây giờ, thì làm gì hưởng được cảnh khuya mầu nhiệm như vậy? Nó có sẵn đó rồi, chỉ có điều ta có muốn hay không muốn, ta có khả năng hay không có khả năng. Hạnh phúc là một cái gì có thật đó, cái chính là ta có khả năng hưởng hạnh phúc hay không? Khả năng đó là nhân, do nhân. Nhân là khả năng tự giải phóng mình (ra khỏi chiếc chăn ấm), để được hưởng một buổi khuya mầu nhiệm trên xóm Thượng. Chúng ta đi tới bài kệ thứ 6, một trong những bài kệ rất đẹp trong kinh.

Bài kệ 4

Thiểu vãng thiện đạo

少 往 善 道

Thú ác đạo đa

趣 惡 道 多

Như đế tri thử

如 諦 知 此

Nê hoàn tối an

泥 洹 最 安

Ở đời, ít người được đi trên nẻo thiện,

Trong khi ấy, kẻ đi trên đường ác thì nhiều.

Cứ nhìn vào sự thực mà tìm hiểu

Thì Niết bàn là nơi an toàn nhất.

Thiểu vãng thiện đạo: Thiểu là số ít (thiểu số). Vãng là đi trên con đường (lai vãng). Thiện đạo là con đường tốt.

Thú ác đạo đa: Trong khi đó, người hướng về con đường ác thì nhiều, đa số.

Đạo là con đường (mārga). Trong giáo lý Tứ diệu đế, con đường chánh là sự thật thứ tư. Thiện đạo ở đây là sự thật thứ tư, là con đường bát chánh.

Sự thật thứ nhất là khổ đế (duḥkha) 苦 諦 , sự thật thứ hai là tập đế 集 諦 (saṃudāya). Ác đạo là con đường ngược với thiện đạo. Vì vậy, sự thật thứ hai cũng là một loại con đường, nhưng không phải đường chánh mà là đường tà. Sự thật thứ ba là diệt đế (nirodha) 滅 諦 và thứ tư là đạo đế (mārga) 道 諦 . Đạo là con đường, ở đây là con đường lành, gọi là thiện đạo, tức bát chánh đạo 八正道.

Saṃudāya là gốc rễ của khổ đau, là nguyên do của khổ đau, là con đường đưa tới khổ đau. Saṃudāya cũng là một thứ đạo, một tà đạo 邪道 . Ít người đi trên con đường bát chánh đạo, trong khi nhiều người đang đi trên con đường bát tà đạo. Chúng ta phải hiểu như vậy mới đúng nghĩa của kinh. Còn nếu nói: “Ít người đi trên đường thiện, nhiều người đi trên đường ác” thì rất thường. Tại sao chúng ta phải hiểu kinh như vậy? Tại vì:

Như đế tri thử: Chữ đế có nghĩa là sự thật (satya). Như đế là nhìn vào sự thật mà xét. Sự thật ở đây là Tứ đế(Bốn sự thật). Nhìn vào Tứ đế, ta thấy có bát chánh đạo và bát tà đạo. Chánh đạo đưa tới sự dập tắt khổ đau, tức đưa tới Niết bàn, hạnh phúc. Tà đạo đưa tới khổ đau, sinh tử. Câu “như đế thử tri” nói rất rõ: Nhìn vào sự thật qua ánh sáng của Tứ diệu đế. Sự thật ở đây phải là Tứ diệu đế. Nhìn sự thật qua nhãn quan của Tứ diệu đế, chúng ta thấy rõ ràng: Những người đi trên đường bát chánh thì ít, những người đi trên con đường tà đạo thì nhiều.

Và điều thứ ba chúng ta thấy được là:

Nê hoàn tối an: Niết bàn là cái an toàn nhất.

Khi đọc kinh, chúng ta thấy bốn câu kệ trên không có gì lạ, có vẻ quá đơn giản và ai cũng có thể hiểu được. Nhưng người học kinh cần phải có cái nhìn sâu hơn. Bài kệ nầy dựa trên giáo lý rất căn bản: Nhìn vào giáo lý Tứ diệu đế chúng ta thấy, người đi trên bát chánh đạo thì ít mà người đi trên bát tà đạo thì nhiều và ít ai thấy được rằng: Niết bàn là cái an toàn nhất.

An toàn, có thể được dịch là safety, sécurité, không lo sợ. Nhưng chúng ta chỉ có thể hiểu được chữ an khi đối chiếu với bài kệ thứ hai và thứ ba.

Bài kệ thứ hai nói: Niết bàn là cái hạnh phúc cao nhất. “Nê hoàn tối khoái”, khoái là khoái lạc. Tối khoái là extreme happiness. Khoái là một chữ rất cổ. Trong bài kệ thứ ba nói: “Nê hoàn tối lạc”, có nghĩa: Niết bàn là cái lạc thú lớn nhất. Bài kệ thứ hai và thứ ba diễn tả Niết bàn là cái lạc thú, khoái lạc nhất.

Bài kệ thứ tư diễn tả Niết bàn là cái an toàn nhất.

Muốn tìm cái an toàn, chúng ta tìm tới Niết bàn.

Bài kệ 3

Cơ vi đại bệnh

飢 為 大 病

Hành vi tối khổ

行 為 最 苦

Dĩ đế tri thử

已 諦 知 此

Nê hoàn tối lạc

泥 洹 最 樂

Đói là cái bệnh khó chịu đựng nhất.

Các pháp hữu vi là cái gây khổ đau nhiều nhất.

Cứ nhìn vào sự thực mà tìm hiểu

Thì Niết bàn là cái lạc thú lớn nhất.

Cơ vi đại bệnh: Đói là cái bệnh khó chịu đựng nhất. Ở trong thính chúng này chưa có vị nào đã từng trải qua một cơn đói thực sự đâu. Bảy tám giờ tối chưa được ăn chưa phải là đói. Nhịn ăn mười, mười lăm ngày để thanh lọc cơ thể, chưa gọi là đói. Phải đói cả mấy tháng trời không có ăn, đó mới thật là đói. Khi ấy mới thấm thía được nỗi thống khổ của cái đói.

Hành vi tối khổ: Các pháp hữu vi (các hành) là cái gây khổ đau nhiều nhất.

Hành tiếng Phạn là saṃskāra. Trước hết, hành có nghĩa là tất cả các pháp, các hiện tượng, tất cả pháp hữu vi như núi, sông, cây cỏ, đất đá, con người và thú vật. Các pháp nương vào nhau mà biểu hiện ra, gọi là hành. Các hành đều vô thường và vô ngã. Các pháp hữu vi là mặt trái của Niết bàn. Niết bàn là vô vi. Các pháp hữu vi vì có sinh có diệt, có qua có lại, có còn có mất nên gây nên nhiều khổ đau. Nhưng khi tiếp xúc thật sâu với các pháp hữu vi, chúng ta chạm tới Niết bàn. Chạm vào Niết bàn là chạm vào pháp vô vi (asaṃskṛta). Chạm vào cái vô vi, thì không còn lên xuống, sinh diệt nữa.

Sóng là một pháp hữu vi có lên, có xuống, có có, có không. Nhưng khi sóng biết trở về và tìm ra được mình là nước, biết rõ mình là một pháp vô vi rồi, thì nó hết sợ, lên cũng vui mà xuống cũng vui. Hành là các pháp hữu vi ngược lại với Niết bàn là một pháp vô vi. Thật ra các hành không phải là nguyên do của khổ đau. Nguyên do chính của khổ đau là nhận thức sai lầm của chúng ta về các hành: chúng vô thường và vô ngã mà chúng ta cứ tưởng chúng là thường, là ngã, cho nên chúng ta khổ. Nếu nhìn sâu vào bản chất của chúng và thấy được tự tánh Niết bàn vô vi trong chúng thì chúng không còn làm cho ta đau khổ nữa.

Ta tiếp xúc với Niết bàn bằng cách tiếp xúc với các pháp hữu vi, cũng như ta tiếp xúc với nước bằng cách tiếp xúc với sóng.

Dĩ đế tri thử: Lấy sự thật mà xét, thì

Nê hoàn tối lạc: Niết bàn là hạnh phúc lớn nhất.

Còn tám ngày nữa chúng ta sẽ mở cửa cho thiền sinh các nước tới. Chúng ta hãy sửa soạn trái tim của mình cho lớn để có đủ không gian thênh thang cho những người đến với chúng ta. Có thể có đến 4000 người tới trong vòng bốn tuần lễ. Chúng ta có bổn phận đem niềm vui và hạnh phúc cho họ. Muốn được như vậy, chúng ta phải biết đem hạnh phúc lại cho chúng ta trước. Anh chị em trong nhà phải nương tựa vào nhau, nắm tay nhau trong tình huynh đệ. Như thế, chúng ta có thể làm hạnh phúc cho rất nhiều người trong vòng một tháng của khóa tu mùa hè. Các sư anh, sư chị lớn nên kể chuyện cho các sư em nghe, nhất là những sư em nào chưa từng được tham dự khóa tu mùa hè ở Làng Mai, về những kinh nghiệm, những niềm vui, những công việc, những phương pháp làm hạnh phúc cho các bạn thiền sinh tới với mình. Khi có sự hòa thuận, có tình anh chị em, có hạnh phúc và niềm vui trong tăng thân, thì chúng ta có thể làm hạnh phúc cho người khác một cách rất dễ dàng. Đọc kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại tôi có cảm tưởng như đang đọc một bài thơ. Khi dịch xong kinh này, tôi thấy rất biết ơn chư Tổ đã ngồi đọc hết các kinh rồi lấy những lời Bụt dạy rải rác trong tất cả các kinh về chủ đề Niết bàn để gom lại thành một kinh. Trong kinh Pháp Cú bằng tiếng Pali không có phẩm Niết Bàn. Phẩm Niết Bàn này chỉ có trong kinh Pháp Cú Hán tạng.

Bài kệ 2

Vô bệnh tối lợi

無 病 最 利

Tri túc tối phú

知 足 最 富

Hậu vi tối hữu

厚 為 最 友

Nê hoàn tối khoái

泥 洹 最 快

Không bệnh là cái lợi tức lớn nhất

Tri túc là cái giàu có to nhất

Trung thực là người bạn tốt nhất

Niết bàn là cái hạnh phúc cao nhất.

Vô bệnh tối lợi: Không bệnh là cái lợi tức lớn nhất. Đây là để đối trị cái tư duy của những nhà doanh thương, lúc nào cũng lo nghĩ tới lợi nhuận. Câu kinh này Bụt nói cho những nhà doanh thương, nhưng cũng nói cho tất cả mọi người – những ai muốn có thật nhiều đồng ra đồng vào – một điều rất đơn giản: Sức khỏe là lợi tức lớn nhất. Đừng làm điều gì để hư hao sức khỏe của mình. Và phải học những phương pháp để giữ gìn sức khỏe.

Tri túc tối phú: Tri túc là cái giàu có to nhất.

Ai là người giàu nhất? Người đó không phải là người có nhiều cổ phần trong thị trường chứng khoán. Khi giá trị chứng khoán xuống, người đó cũng trở nên nghèo. Nhất là trong thời đại khủng hoảng kinh tế, hôm nay ta có thể giàu, nhưng ngày mai ta có thể không giàu nữa. Trong cái nhìn của người giác ngộ, tri túc là cái giàu có lớn nhất. Tri túc (saṃtusta) cũng là một yếu tố của Niết bàn. Ta biết từng đó đã là đủ cho ta. Ta đã có đủ điều kiện để có hạnh phúc, ta không cần thêm gì nữa. Tự nhiên ta trở thành người giàu nhất trên đời, vì ta biết thực tập tri túc. “Tôi có ba y và một bình bát, vậy là giàu quá rồi! Tôi có gốc cây, có cái võng, tôi giàu quá!” Kinh dạy những điều rất thực tế, không dạy ta mơ tưởng tới một thiên đường tương lai.

Hậu vi tối hữu: Trung thực là người bạn tốt nhất.

Hậu là dày. Người có hậu là người có tình, cái tình và cái nghĩa của người đó rất dày. Người đó rất trung thực, những người khác có thể nương tựa được.

Người bạn tốt nhất không phải là người có quyền hành để ta có thể dựa vào trong lúc khó khăn. Khi ta gặp tai nạn, có khi người đó không dám lên tiếng bênh vực, tại vì người đó sợ mất quyền. Người bạn thân thiết nhất không phải là người bạn giàu sang và có quyền hành. Trung thực chính là người bạn tốt nhất. Đây là một bài học rất thực tế.

Nê hoàn tối khoái: Niết bàn là hạnh phúc cao nhất.Khoái được dịch ra tiếng Anh là delight, là happiness. Đây là một kinh nghiệm. Người nói lên câu này đã được hưởng Niết bàn. Nếu những cái khác người đó đã nói đúng, thì cái này người đó cũng nói đúng.

Bài kệ 1

Nhẫn vi tối tự thủ

忍 為 最 自 守

Nê hoàn Phật xưng thượng

泥 洹 佛 稱 上

Xả gia bất phạm giới

捨 家 不 犯 戒

Tức tâm vô sở hại

息 心 無 所 害

Nhẫn là biện pháp hay nhất để tự bảo hộ.

Niết bàn là cái mà Bụt khen ngợi là cao đẹp nhất.

Buông bỏ nếp sống trần tục, sống đời phạm hạnh, không phạm giới,

Vị sa môn không gây thiệt hại cho bất cứ ai.

Trong chúng ta có tâm hành sợ hãi; chúng ta sợ những tai nạn, những mưu mô ác độc xâm phạm tới mình. Sống trong sự sợ hãi, chúng ta không thể nào có hạnh phúc. Ngay trong câu đầu, Bụt đã dạy cho chúng ta sống như thế nào để đừng sợ hãi và cảm thấy an toàn. Đó là bước đầu đi vào Niết bàn. Bởi vì Niết bàn trước hết là sự an ổn.

Nhẫn là biện pháp hay nhất để tự bảo hộ. Nhẫn là sự chấp nhận. Chấp nhận được rồi thì ta sẽ có sức mạnh để đi tới và vượt thắng. Niết bàn là cái mà Bụt khen ngợi là cao đẹp nhất. Buông bỏ nếp sống trần tục, sống đời sống phạm hạnh, đừng phạm giới. Biết cách làm lắng dịu tâm ý. Lúc đó, an ninh của mình sẽ lớn lên và ta bắt đầu nếm được cái an ổn của Niết bàn.

Ngoài đời, muốn làm giàu người ta đua nhau quảng cáo: “Có được chiếc xe hơi này quý vị sẽ là người hạnh phúc nhất”; “Máy tính của chúng tôi là loại máy tối tân chứa đựng cả một thiên đường, nó sẽ giúp quý vị biến cái không thể thành cái có thể…”

Niết bàn không phải là một hóa phẩm mà chúng ta đem đi bán. Mỗi tôn giáo cũng có thể bán một Thiên đường, một Tịnh độ, hay một Niết bàn. Nhưng Niết bàn có phải là một món hàng mà Bụt và chư Tổ muốn đem bán cho chúng ta hay không? Nó có phải là một cái giống như cái Thiên đường trên trần thế hay như một túp lều tranh có một trái tim vàng mà người ta tìm cách bán cho mình hay không? “Nếu ông theo đạo của tôi, nếu ông trở thành một thành phần trong tổ chức giáo hội của tôi, thì sau khi chết ông sẽ có Niết bàn, sẽ có Thiên quốc.” Niết bàn có phải là một món hàng như vậy hay không? Chúng ta thấy ngay một cách rõ ràng là không phải. Theo kinh Niết Bàn thì Niết bàn là cái đã có sẵn, ta không phải mua: Tôi không bán gì cho anh cả. Cái đó đã có sẵn. Nếu biết tiếp xúc, nếu có tự do, anh sẽ được hưởng cái đó. Như không khí tươi mát của buổi ban mai đã có sẵn, anh chỉ cần mở cửa sổ hoặc đi ra ngoài là anh có thể hưởng được. Chư Bụt, chư Tổ chỉ tìm cách giúp cho ta thấy mà thôi. Nếu khéo léo một chút, ta có thể bước ra và rong chơi ngay trong trời phương ngoại.

Thiên quốc hay Thiên đường trên trần thế là những cái thuộc về tương lai. Ta phải xuất tiền mua ngay bây giờ, nhưng trong tương lai hàng mới được giao. Niết bàn thì không như vậy. Niết bàn có thể có mặt liền ngay bây giờ, không cần đợi tương lai và cũng không cần phải quảng cáo.

Nhẫn là biện pháp hay nhất để tự bảo hộ. Bài kệ thứ nhất bắt đầu bằng chữ nhẫn. Chúng ta ngạc nhiên, tại sao kinh Niết Bàn lại bắt đầu bằng Nhẫn nhục ba la mật? Nhẫn, tiếng Phạn là ksānti, tiếng Việt là chịu đựng. Chữ chịu đựng rất hay! Chịu có nghĩa là có thể đồng ý được, có thể chấp nhận được mà không có khó khăn nhiều. Đựng có nghĩa là mang theo được, dung chứa được, đủ sức để tiếp nhận và dung chứa. Ví dụ, chúng ta có một cái thùng có thể chịu đựng được hai mươi lăm gói mì. Tâm của mình cũng vậy. Tùy tâm của mình nhỏ hay lớn mà nó có thể chịu đựng được nhiều hay ít. Chịu đựng được thì không đau khổ. Khi nghe chữ chịu đựng, có nhiều người hiểu theo nghĩa tiêu cực là phải cắn răng chịu đựng, nghĩa là trong sự chịu đựng này có khổ đau. Nhưng kỳ thực, hiểu theo đúng nghĩa của nó thì chữ chịu đựng có nghĩa là có khả năng chứa đựng được mà không cần phải cố gắng. Theo nguyên ngữ của chữ chịu đựng: chịu là đồng ý, đựng là có khả năng chứa đựng được. Tôi có thể mang anh, bỏ trọn anh vào trái tim của tôi mà không có vấn đề. Tại vì trái tim tôi đủ rộng, có đủ chỗ cho anh.

Nhẫn là một trong sáu sự thực tập đưa chúng ta đến bờ giải thoát gọi là Lục độ ba la mật. Trong kinh có một ví dụ rất hay về “chịu đựng”. Một hôm, Bụt cầm một nắm muối thả vào một bát nước, khuấy lên và nói: “Tôi vừa bỏ một nắm muối vào bát nước, bát nước này rất mặn không sao uống được. Nhưng nếu ta đem nắm muối ấy mà thả vào một dòng sông thì nó không đủ sức làm cho dòng sông mặn.” Dòng sông bao la, một nắm muối thả vào lòng nó không có nghĩa gì cả, nó có thể chịu đựng được nắm muối mà không có khổ đau gì. Kinh nói: Nước chịu và đựng rất giỏi. Nhưng đất, lửa và gió cũng có khả năng chịu và đựng rất giỏi. Đó là những lời Bụt đã dạy Rahula: “Con hãy tập được như đất. Con hãy tập được như gió. Con hãy tập được như nước. Con hãy tập được như lửa.” Đó là những lời Bụt dạy Rahula về nhẫn nhục ba la mật mà không cần sử dụng danh từ nhẫn.

Khi trái tim của ta lớn, thì dù có những khó khăn tới với ta, ta vẫn có thể chấp nhận được và chúng không đủ sức làm ta khổ. Còn nếu trái tim ta nhỏ xíu như hạt đậu phụng, thì bất cứ chuyện gì cũng có thể làm cho ta phiền lòng.

Nhẫn ở đây có nghĩa là làm cho trái tim ngày càng rộng lớn. Trái tim càng lớn thì sức dung chứa của nó càng nhiều và khổ đau càng nhỏ. Trái tim của Bụt là một trái tim không biên giới, gọi là Vô lượng tâm. Khi trái tim của ta lớn bằng trái tim của Bụt, thì không gì có thể làm cho mình bực tức, khổ đau được. Ai ta cũng có thể ôm được vào lòng. Đó gọi là nhẫn, là một cánh cửa mở ra để ta đi vào Niết bàn.

Nhẫn vi tối tự thủ: Thủ là bảo hộ. Tự thủ là tự mình bảo hộ cho mình. Tối là hay nhất. Câu này nghĩa là:

Nhẫn là phương pháp hay nhất để mình tự bảo hộ cho mình. Là học trò của Bụt, là người bạn đồng hành của Ngài, ta thử nhìn vào trái tim của mình để xem nó đã lớn chưa, hay còn nhỏ xíu. Nếu trái tim còn nhỏ xíu, ta sẽ còn nhiều đau khổ. Trái tim càng mở lớn chừng nào, thì ta càng có nhiều an lạc chừng đó.

Giữa hai câu này có sự so sánh: nếu nhẫn là phương pháp hay nhất để tự bảo hộ mình thì:

Nê hoàn Phật xưng thượng: Niết bàn là mục tiêu cao quí nhất đáng để cho ta đeo đuổi, là cái cao đẹp nhất mà ta có thể đạt tới được. Trong ta phải có cái ước muốn. Không muốn thì thôi, hễ muốn thì phải muốn cho nhiều mới được. Mới bốn giờ sáng, trời bên ngoài sao trăng rất đẹp, cây cối thức dậy rì rào, hương đêm rất thơm. Nếu muốn, ta chỉ cần tung mền, mặc áo đi ra ngoài là có thể hưởng được hương đêm tinh khiết. Niết bàn cũng vậy, nó là một cái rất dễ chịu. Hạnh phúc mà Niết bàn đem lại rất lớn. Muốn hưởng được Niết bàn, ta phải buông bỏ những hệ lụy tầm thường của cuộc đời. Một khi buông bỏ được những hệ lụy, thì tự nhiên Niết bàn có mặt. Cũng như khi buông bỏ cái mền ấm và sự lười biếng, ta mở tung cánh cửa bước ra ngoài, thì trăng sao, gió mát liền có mặt đó cho mình. Đừng muốn cái ít hơn. Đã muốn thì phải muốn cái gì thật đẹp, thật lớn. Cái đẹp nhất, lớn nhất đó là Niết bàn.

Ngay trong bài kệ mở đầu kinh đã rất hay: Nhẫn là biện pháp hay nhất để tự bảo hộ. Tự do là đối tượng cao đẹp nhất để mình theo đuổi. Niết bàn chính là tự do.

Xả gia bất phạm giới: Những người xuất gia không phạm giới.

Tức tâm vô sở hại: Tức tâm là tiếng cổ dùng để dịch từ sa môn, có nghĩa là người đã biết làm lắng dịu tâm ý mình lại. Tức có nghĩa là làm cho lắng dịu, làm ngưng lại; chữ tức tương đương với chữ chỉ. Tâm mình có thể đang chạy theo những đam mê, hận thù, tâm mình có thể đang còn lo lắng sợ hãi; mình làm tâm êm dịu lại gọi là tức tâm. Một vị sa môn có thể làm được chuyện ấy.

Śamatha-vipaśyanā là thiền. Śamatha là chỉ, còn vipaśyanā là quán. Thiền, trước hết là làm ngưng lại, làm lắng dịu lại (thiền chỉ), để từ từ thấy rõ và đạt tới sự thật (thiền quán). Trong kinh Quán Niệm Hơi Thở, đức Thế Tôn đã dạy nhiều phương pháp để giúp mình dừng lại và làm lắng dịu thân tâm. Thân tâm đã lắng dịu, thì không có gì có thể làm hại hay xâm phạm tới mình được.

Vô sở hại tức là không gây đau khổ, không gây đổ vỡ, không tàn hại ai. Đó là bất hại (ahiṃsā), đó là vô hại, đó là non-injury, là non-violence. Vào thế kỷ thứ sáu trước công nguyên, tại trung tâm lưu vực sông Hằng, có hai truyền thống tâm linh được thành lập, và cả hai đều chủ trương thực tập bất hại. Đó là giáo phái của những người Nirgranthas (không vướng bận thành lập), đứng đầu là Mahavira, cũng là Jina (người chiến thắng). Đó là Kỳ Na giáo. Giáo phái thứ hai là đạo Bụt, do Siddharta Gotama thành lập. Kỳ Na giáo vẫn còn tồn tại đến ngày nay ở Ấn Độ, tuy không vượt qua được biên giới để trở thành một truyền thống quốc tế như đạo Bụt. Nhờ đạo Bụt giáo hóa mà nhiều quốc gia từ từ bỏ bớt được bạo động, như Ấn Độ, Việt Nam, Trung Quốc, Tây Tạng, Cao Ly… Đó là nhờ sự thực tập “vô sở hại”.